Tác giả - Tác phẩm

Phaolo đối diện với chính mình (07)

  • In trang này
  • Lượt xem: 3,458
  • Ngày đăng: 27/03/2022 14:58:40

PHAOLÔ ĐỐI DIỆN VỚI CHÍNH MÌNH

ĐHY Carlo-Maria Martini[1]

 

Giới thiệu

Chúng ta sẽ cùng đọc và suy gẫm về cuộc đời thánh Phaolô qua những bài giảng linh thao của ĐHY Carlo-Maria Martini trong cuốn “Phaolô đối diện với chính mình”. Cuộc đời thánh Phaolô không phải được tô điểm toàn mầu hồng với nhiệt huyết tông đồ mạnh mẽ, mà cũng có những lúc ngài gặp trở ngại, khó khăn, bóng tối của kiếp người. Nhưng được ơn hoán cải và nhờ lòng yêu mến Chúa, nhờ nhiệt tâm tông đồ nung nấu, nhờ sự hăng say rao giảng Tin Mừng, ngài đã vượt qua mọi chướng ngại để hoàn tất cuộc đời tông đồ bằng cái chết tử đạo, làm chứng cho Đức Kitô Phục Sinh.

 

Hi vọng khi suy niệm và cầu nguyện về cuộc đời thánh Phaolô, chúng ta được ngài khơi dậy ngọn lửa nhiệt tâm tông đồ để sống và hăng say rao giảng Tin Mừng như ngài

 

 Linh mục Mỹ Sơn, giáo phận Long Xuyên

 

 

BÀI BẢY

 PHAOLÔ BIẾN HÌNH

 

Nhờ trải qua nhiều khổ đau, Phaolô được thanh luyện tâm hồn và làm một cuộc biến hình, nghĩa là một sự thay đổi toàn bộ cuộc đời ngài. Suy tư về cuộc biến hình của thánh Phaolô cũng là suy tư về cuộc biến hình của chính linh mục chúng ta.

 

Như chúng ta biết, Phaolô trải qua nhiều khổ đau trên con đường rao giảng Tin Mừng. Sau nhiều năm cùng nhau đi loan báo Tin Mừng, Phaolô và Barnaba chia tay vì bất đồng. Xung đột giữa Phaolô với các cộng đoàn, nhất là những cộng đoàn mà thư thứ nhất gởi tín hữu Côrintô nhắc đến, làm cho ngài lâm vào tình trạng nóng này, đau khổ và đơn độc; Xung khắc giữa Phaolô với Phêrô ở Antiôkia đưa ngài vào một tình thế lúng túng và khó khăn, v.v.

 

Nhắc lại những diễn biến này để chúng ta hiểu rằng đừng ngạc nhiên về những rắc rối đó: chúng cũng dệt nên lịch sử Giáo Hội. Những khó khăn trong việc cộng tác giữa các linh mục, cha sở cha phó, đã có từ nguồn cội của sứ vụ tông đồ, nghĩa là chúng ta gặp ngay từ khởi đầu của Tân Ước.

 

Đó là một thực tế. Giống như Phaolô đã làm, chúng ta phải không ngừng suy nghĩ về nó để thanh tẩy chúng ta và để tìm ra cách thê giải quyết nhờ tìm hiểu sâu xa mọi việc và không bao giờ chỉ nhẫn nhục chịu đựng cho qua. Đừng coi đó là một cớ vấp phạm, nhưng cần rút ra một sự hiểu biết tốt hơn về mình và người khác. Nếu trong đời ngài, Phaolô thình thoảng xét lại bản thân, thì chúng ta còn phải xét mình hơn ngài nữa. Chúng ta phải học để biết chính mình, học để hiểu rằng những xung đột chúng ta trải qua không chỉ là danh dự và vinh quang Thiên Chúa lâm vào nguy cơ, nhưng đôi khi cũng do chính nhân cách của chúng ta. Chúng ta phải cố gắng ngày càng có lòng thương xót như Chúa khi Người nhìn đến lịch sử và những thực tại nhân loại.

 

Biến hình ở đây có ý nói gì?

Biến hình của Phaolô giống với Biến hình của Đức Kitô. Động từ Luca dùng để diễn tả sự Biến hình của Chúa Giêsu cũng là động từ ông dùng để diễn tả ánh sáng bao phủ Phaolô trên đường đi Đa-mát: Phaolô biến hình cũng cùng một cách thế như Đức Kitô.

 

Trong Tin Mừng, Marcô nói về sự biến hình: Người biến đổi hình dạng, Người biến đổi dung mạo (Mc 9, 2 và tt). Động từ hy lạp là "metamorfôthe" có nghĩa là "Biến đổi hình dạng": "Khi ấy người biến đổi hình dạng trước mắt các ông, và áo Người trở nên sáng láng". Phaolô cũng dùng động từ đó khi diễn tả sự biến hình nơi ngài - và sau ngài, tất cả các tông đồ, các linh mục sẽ trải qua kinh nghiệm biến hình như thế - nhờ suy tư về vinh quang của Đức Kitô: "Còn chúng ta hết thảy, không màn che mặt, ta ngắm như rọi lại trong gương, vinh quang của Chúa; và nhờ cũng một hình ảnh ấy, ta được biến hình đổi dạng, từ vinh quang này đến vinh quang khác chiếu theo (năng lực) Thần khí của Chúa." (2Cr 3, 18). Câu trên áp dụng cho phần lớn những sự kiện chúng ta đã nói tới: Phaolô, trên đường Đa-mas, được vinh quang Thiên Chúa bao phủ, nên đã biến hình. Tuy nhiên, động từ dùng ở thì hiện tại, để chỉ ra rằng sự biến hình sẽ tiếp tục, ngày càng vinh quang hơn, nhờ quyền năng của Thần Linh Thiên Chúa. Phaolô biến hình theo hình ảnh Chúa Giêsu, ngài đạt tới sự sáng láng của Đức Kitô.

 

Khi nói về "biến hình" của Phaolô là muốn xác định rằng sự sáng và sự trong sáng tăng trưởng nơi ngài theo mức độ ngài tiến tới trên con đường mục vụ và điều đó được phản ánh cách độc nhất vô nhị trong những lá thư lớn của ngài.

 

Chính nhờ trải qua những đau khổ, Phaolô tông đồ đã làm một cuộc biến hình như Đức Kitô. Qua các thư ngài viết, chúng ta phải kinh ngạc trước ánh sáng rực rỡ từ tâm hồn ngài toả ra đến nỗi dù đã hơn 2000 năm, khi đọc những dòng đó, chúng ta vẫn cảm nhận được ngài là một nhân vật đầy sức sống, phong phú, và rực sáng. Sự toả sáng của thánh Phaolô lôi cuốn mọi người và là một nét bí ẩn trong hoạt động tông đồ của ngài. Sự toả sáng đầy sức sống đó là thành quả của một hành trình dài qua nhiều thử thách cam go, cũng như đau khổ nặng nề, với những lời cầu nguyện không ngừng đầy tin tưởng dù lâm cảnh thất vọng.

 

Linh mục chúng ta cũng được mời gọi hãy biến hình toả sáng như Phaolô qua những đau khổ, thử thách, mệt mỏi, trong đời tông đồ, phục vụ đoàn chiên, nhờ ơn Chúa ban. Trong lời nói cũng như trong hành động, người ta phải nhận ra sự bình an, thanh thản, tin tưởng vững vàng, nhận ra không phải bằng những diễn tả bên ngoài, nhưng theo bản năng tự nhiên.

 

Chúng ta thử phân tích sự biến hình toả sáng của Phaolô để linh mục chúng ta có thể bắt chước ngài, cũng được biến hình toả sáng như ngài.

 

Sự biến hình của Phaolô thế nào? Phaolô biến hình qua 3 tâm tình bên trong và 2 thái độ bên ngoài sau đây.

 

I. Ba tâm tình bên trong của cuộc biến hình

1. Tâm tình an vui.

Hoa trái đầu tiên của sự biến hình toả sáng mà chúng ta gặp được trong tất cả các thư của Phaolô, dù là các thư ngài viết trong những hoàn cảnh xung đột tệ hại, đó là niềm vui nội tâm lớn lao và an bình: “Tâm hồn tôi chứa chan niềm an ủi và tràn ngập nỗi vui mừng trong mọi cơn gian nan khốn khó” (2 Cr 7,4). Phaolô liên kết niềm vui tràn đầy của ngài với muôn vàn những thử thách ngài đã trải qua. Đây không phải là niềm vui chóng qua của tình cảm hay khiên cưỡng của lý tưởng: Kho tàng ấy, chúng tôi lại chứa đựng trong những bình sành, để chứng tỏ quyền năng phi thường phát xuất từ Thiên Chúa, chứ không phải từ chúng tôi” (2 Cr 4,7). Ngài nhìn nhận niềm vui lạ lùng của mình phát xuất từ Thiên Chúa, chứ không do bản tính tự nhiên vui vẻ, lạc quan; niềm vui đó không do người phàm mà có. “Chúng tôi bị dồn ép tư bề, nhưng không bị đè bẹp; hoang mang, nhưng không tuyệt vọng; bị ngược đãi, nhưng không bị bỏ rơi; bị quật ngã, nhưng không bị tiêu diệt. Chúng tôi luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Đức Giê-su, để sự sống của Đức Giê-su cũng được biểu lộ nơi thân mình chúng tôi” (2 Cr 4, 8-10).

 

Đây không phải là tâm trạng tĩnh mịch, mà là một niềm vui thực sự, đi liền với những lo âu đè nặng trên ngài, với tất cả những buồn phiền ngài chịu, với những hiểu lầm tạo thành bi kịch thường ngày. Bởi tính tự nhiên trời sinh, Phaolô dễ bị suy nhược thần kinh, nên ngài hay rơi vào trầm cảm và chán nản. Dần dà, nhờ kinh nghiệm, ngài nhận ra rằng trong đời sống người tông đồ không giây phút chán nản nào mà không thể thắng vượt nhờ sức mạnh siêu nhiên Chúa ban. Niềm vui lạ lùng, siêu nhiên đó của ngài lan toả trên những ai cộng sự với ngài và trên cả cộng đoàn ngài rao giảng và thành lập, dù đó không phải là những cộng đoàn lý tưởng, hoàn thiện.

 

Theo các thư ngài viết, chúng ta biết rằng Phaolô đã phải khẩn cầu, hầu như van nài cộng đoàn đừng cãi nhau, đừng chì chiết nhau, đừng tạo ra những nhóm chống đối nhau: "Anh em đừng làm bất cứ gì bởi tính đua tranh hay tìm vinh quang hão huyền". (Pl 2,3). Cầu này cho thấy có những cạnh tranh, những tham vọng hão huyền mà cộng đoàn không dễ dàng làm chủ; điều đó làm cho Phaolô lo lằng và phiền muộn. Tuy nhiên, ngài vẫn tìm được niềm vui trong đức tin; đức tin đó giúp ngài vượt qua những hình thức bề ngoài thuần tuý thực dụng, tầm thường, sáo mòn. Đó là một ơn huệ siêu nhiên, do Chúa Thánh Thần ban mà ngài đạt được ở mức độ cao nhất.

 

2. Tâm tình tạ ơn

Đi liền với hoa trái đầu tiên, hoa trái thứ hai của sự biến hình toả sáng nơi Phaolô là tâm tình tạ ơn. Phaolô thúc giục các kitô hữu vui mừng tạ ơn Chúa Cha (Col. 1, 12). Điểm đặc trưng của linh đạo Phaolô là liên kết niềm vui với tạ ơn. Tất cả các thư của ngài đều bắt đầu bằng lời cầu nguyện tạ ơn trừ thư gởi các tín hữu Galata vì đó là thư khiển trách. Phaolô nhận biết mình phải tạ ơn và những lời tạ ơn của ngài không trống rỗng, nhưng phát xuất từ những cảm nhận sâu xa của bản thân. Chính dòng đầu tiên của tất cả các sách Tân ước là những lời tạ ơn. Theo các nhà chú giải có lẽ thư thứ nhất của Phaolô gởi tín hữu Thessalônica là bản văn cổ xưa nhất trong Tân ước, có trước cả các Phúc Âm. Thư đó bắt đầu như sau: “Chúc anh em được ân sủng và bình an. Chúng tôi hằng tạ ơn Thiên Chúa về tất cả anh em” (1Tx 1,1-2).

 

Nơi Phaolô, không bao giờ chúng ta gặp thấy những lời than vãn vô bổ. Đôi khi ngài lên án, nhưng không bao giờ biểu lộ sự cay đắng. Nhờ sự biến hình tỏa sáng của đời tông đồ, ngài được ơn luôn nhìn ra những điều tốt. Lá thư nào cũng bắt đầu bằng lời tạ ơn chứng tỏ ngài luôn nhận ra khía cạnh tích cực của cộng đoàn trước mọi khía cạnh khác, dù sau đó, ngài phải nói đến những vấn đề nghiêm trọng là những khía cạnh tiêu cực. Ví dụ, ngay đầu lá thư thứ nhất gởi tín hữu Côrintô, ngài ca ngợi cộng đoàn đã nhận được mọi ơn huệ và khôn ngoan Chúa ban; rồi mới khiển trách họ. Đây không phải là sự mâu thuẫn, rời rạc, không ăn ý trong một lá thư. Với con mắt đức tin, ngài thấy nơi những kitô hữu gốc dân ngoại mới trở lại, dù đức tin còn non nớt, yếu kém, cũng đã là một ơn huệ quí giá, xứng đáng được nhắc đến, để họ ca tụng Thiên Chúa không ngừng rồi.

 

Một linh mục biết tạ ơn sẽ dễ dàng nhận biết những điều tốt đẹp diễn ra xung quanh mình là do ơn Chúa ban. Linh mục đó sẽ luôn khám phá ra khía cạnh tích cực của đoàn chiên dù họ có khuyết điểm, tiêu cực đến đâu đi nữa.

 

3. Tâm tình ngợi khen

Hoa trái thứ ba của sự biến hình toả sáng nơi Phaolô là ngợi khen. Nơi Phaolô, chúng ta tìm thấy những lời ca tụng tuyệt diệu bắt nguồn từ những lời chúc tụng của Do Thái giáo. Ngài nhìn toàn bộ đời sống cộng đoàn là đời sống trong Đức Kitô, nên ca tụng Thiên Chúa không ngừng. “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta. Trong Đức Ki-tô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần” (Ep. 1,3). Lời cầu nguyện của Phaolô qua các thư của ngài, trước hết, đều là những lời cầu nguyện ngợi khen, ca tụng. Chính nhờ đó, ngài có thể nhìn ra giá trị thiêng liêng của những giờ phút đen tối nhất trong cuộc đời ngài. “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta. Người là Cha giàu lòng từ bi lân ái, và là Thiên Chúa hằng sẵn sàng nâng đỡ ủi an. Người luôn nâng đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách, để sau khi đã được Thiên Chúa nâng đỡ, chính chúng ta cũng biết an ủi những ai lâm cảnh gian nan khốn khó” (2Cr 1,3-4). Chúng ta có thể lấy những lời này để diễn tả tình cảm đạo đức sâu xa nhất của chính mình.

 

Xin Chúa cho chúng ta được ơn trở nên người tông đồ biến hình toả sáng nhờ Đức Kitô phục sinh như Phaolô. Ma quỉ luôn cám dỗ khiến chúng ta rơi vào những phản ứng thuần tuý con người: đó là sự buồn bã. Buồn bã giới hạn chúng ta vào những viễn ảnh nhỏ hẹp; để rồi chúng ta trốn tránh, tìm những thú tiêu khiển và tất cả những gì bề ngoài làm đời sống chúng ta vui tươi, xem ra không còn buồn phiền.

 

II. Hai  độ bên ngoài của cuộc biến hình.

1. Kiên trì không mệt mỏi

Thái độ bên ngoài thứ nhất của cuộc biến hình, chính là kiên trì không mệt mỏi của Phaolô. Ngay khi trở lại, Phaolô lập tức rao giảng ở Đa-mát và hậu quả là phải chạy trốn; khi đến Giêrusalem, ngài lại rao giảng ở đó, nhưng rồi người ta lại bắt ngài phải ra đi; ngài trở về và ở lại quê hương Tarsô một thời gian rất lâu, không làm gì cho đến khi được kêu gọi lại, ngài lại lên đường, quên hết những đắng cay thất bại trước kia. Suốt hành trình truyền giáo, mỗi giai đoạn là một khởi đầu mới; rao giảng ở Antiôkia miền Psiđia, ngài bị săn đuổi, nên chạy đến Iconium; ở đó, ngài bị đe doạ mưu sát, người ta dự tính ném đá ngài, nên ngài chạy đến Lystra. Ở Lystra, ngài nhận một trận mưa đá. Chúng ta hãy nghe thánh Luca kể lại trong sách công vụ tông đồ: “Bấy giờ có những người Do-thái từ An-ti-ô-khi-a và I-cô-ni-ô đến, thuyết phục được đám đông. Họ ném đá ông Phao-lô rồi lôi ông ra ngoài thành, vì tưởng ông đã chết. Nhưng khi các môn đệ xúm lại quanh ông, ông đứng dậy và vào thành. Hôm sau, ông trẩy đi Đéc-bê cùng với ông Ba-na-ba. Sau khi đã loan Tin Mừng cho thành ấy và nhận khá nhiều người làm môn đệ, hai ông trở lại Lýt-ra, I-cô-ni-ô và An-ti-ô-khi-a” (Cv 14, 19-21). Ở Athena, ngài bị các triết gia làm nhục, chê cười, nhưng ngay sau đó, ngài đi Côrintô và lại bắt đầu rao giảng. Sự kiên trì trong sứ vụ tông đồ của ngài không do sức loài người, mà do tình yêu Thiên Chúa đổ tràn tâm hồn ngài qua Chúa Thánh Thần (Rm 5,5). Đó là một ơn huệ Thiên Chúa ban, mà ngài gọi là "đức ái", "đức ái không bao giờ qua đi" (1Cr 13,8), nên ngài không chán nản, bỏ cuộc dù gặp chống đối, thất bại.

 

Tính năng động của ngài đến từ Thiên Chúa, nên không một ảo tưởng, một khó khăn nào có thể ngăn cản ngài tiến lên phía trước: Chúng ta còn tự hào khi gặp gian truân, vì biết rằng: ai gặp gian truân thì quen chịu đựng; ai quen chịu đựng, thì được kể là người trung kiên; ai được công nhận là trung kiên, thì có quyền trông cậy. Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta” (Rm 5,3-5). Nếu những lời trên do một tân tòng tuyên bố trong những giờ phút đầu tiên đầy nhiệt tình, chúng ta có thể nghĩ họ thiếu kinh nghiệm; nhưng đây là những lời của một nhà truyền giáo đã trải qua 20 năm thử thách thì rất khác, đáng cho chúng ta suy nghĩ sâu xa. Không một sức mạnh nhân loại nào có thể khơi gợi một thái độ quật cường, kiên trì như vậy, nếu không phải là do tình yêu Thiên Chúa thúc đẩy nhờ Thánh Thần được ban trong tâm hồn.

 

Chúng ta nên nhớ, chính sức mạnh của Đấng Phục Sinh đã biến đổi tính yếu đuối loài người và Đấng ấy hoàn toàn chiếm hữu Phaolô: "Tôi sống nhưng không phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi".

 

2. Tự do tinh thần

Thái độ bên ngoài thứ hai của Phaolô, chính là tự do tinh thần. Phaolô không chịu áp lực phải theo truyền thống vốn có. Ngài tự do hành động theo ơn Chúa thúc đẩy. Một ví dụ về tự do tinh thần của Phaolô. Trong thư gởi tín hữu Galata, ngài viết rằng về phương diện loài người, cắt bì cho Titô theo ý muốn những kitô hữu gốc Do thái có lẽ là khôn ngoan hơn, nhưng khi đến Giêrusalem, chính Titô là người Hy lạp cũng không bị ép phải cắt bì, nên ngài nói: “Nhưng với những người ấy, chúng tôi đã không chịu nhượng bộ, dù chỉ trong giây lát, để duy trì cho anh em chân lý của Tin Mừng” (Gl 2,5). Phaolô không a dua theo dư luận quần chúng, hoặc theo những ý tưởng có sẵn; thật khó giữ vững tư tưởng cá nhân biệt lập giữa một não trạng phổ biến, và một văn hoá thịnh hành có những quan điểm đối lập. Nhưng Phaolô giữ vững tự do tuyệt đối vì nơi ngài, sức mạnh nội tâm do ơn Chúa thúc đẩy rất phong phú, dồi dào. Nhờ sức mạnh đó, ngài chỉ trích thái độ giả hình của Phêrô và Barnaba. “Nhưng khi ông Kê-pha đến An-ti-ô-khi-a, tôi đã cự lại ông ngay trước mặt, vì ông đã làm điều đáng trách. Thật vậy, ông thường dùng bữa với những người gốc dân ngoại trước khi có những người của ông Gia-cô-bê đến; nhưng khi những người này đến, ông lại tránh né và tự tách ra, vì sợ những người được cắt bì. Những người Do-thái khác cũng theo ông mà giả hình giả bộ, khiến cả ông Ba-na-ba cũng bị lôi cuốn mà giả hình như họ” (Gl 2,11-13).

 

Tự do tinh thần của Phaolô không tuỳ tiện, cũng không tự phụ, nhưng do ý thức mình hoàn toàn thuộc về Đức Kitô, là người phục vụ cho Đức Kitô và có thể nói là nô lệ của Chúa. [“Chính để chúng ta được tự do mà Đức Ki-tô đã giải thoát chúng ta. Vậy, anh em hãy đứng vững, đừng mang lấy ách nô lệ một lần nữa. Phải, tôi đây, Phao-lô, tôi nói cho anh em biết: anh em mà chịu phép cắt bì thì Đức Ki-tô sẽ không có ích gì cho anh em. Một lần nữa, tôi xin khẳng định với bất cứ ai chịu phép cắt bì là: người ấy buộc phải giữ trọn vẹn Lề Luật. Anh em mà tìm sự công chính trong Lề Luật, là anh em đoạn tuyệt với Đức Ki-tô và mất hết ân sủng. Còn chúng tôi thì nhờ Thần Khí và dựa vào đức tin mà vững lòng chờ đợi được nên công chính như chúng tôi hy vọng. Quả thật, trong Đức Ki-tô Giê-su, cắt bì hay không cắt bì đều không có giá trị, chỉ có đức tin hành động nhờ đức ái. anh em đang chạy ngon trớn như thế mà ai đã ngăn cản anh em vâng phục chân lý? Lời dụ dỗ ấy không phát xuất từ Đấng kêu gọi anh em. Một chút men làm cả khối bột dậy men. Đối với anh em, trong Chúa, tôi tin tưởng rằng, anh em sẽ không nghĩ khác. Còn kẻ phá rối anh em thì phải chuốc lấy án phạt, bất kể người ấy là ai. Về phần tôi, thưa anh em, giả như tôi còn rao giảng phép cắt bì, thì tại sao tôi lại vẫn bị ngược đãi? Như thế, thập giá đâu còn là chướng ngại nữa! Những kẻ làm cho anh em bị rối loạn, phải chi họ tự thiến cho xong! Quả thế, thưa anh em, anh em đã được gọi để hưởng tự do. Có điều là đừng lợi dụng tự do để sống theo tính xác thịt, nhưng hãy lấy đức mến mà phục vụ lẫn nhau” (Gl 5,1-13). Khó có thể diễn tả những gì Phaolô nói bằng ngôn ngữ của chúng ta. Tốt hơn hết, chúng ta hãy để những lời do Thánh Thần linh ứng mà Phaolô viết ra, tác động trong tâm hồn chúng ta.]

 

*Suy nghĩ về chúng ta

Cuộc biến hình toả sáng của tông đồ Phaolô là khuôn mẫu cho linh mục chúng ta. Ngài trở thành tông đồ rập theo Đức Kitô sau 15 năm mệt nhọc và đau khổ. Đời tông đồ của ngài đã biến hình toả sáng, chính là nhờ ơn Chúa ban, chứ không phải là thành quả do nỗ lực của ngài. Nhìn nhận chỉ có Chúa mới biến đổi chúng ta do lòng thương xót của Người, đó là cách tốt nhất để đời tông đồ chúng ta toả sáng như Phaolô.

 

1. Phương thế thứ nhất để nhận lãnh ơn Chúa là chiêm ngắm trái tim Chúa Giêsu bị đóng đinh qua Lời Chúa và Thánh Thể.

 

2. Phương thế thứ hai là nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria, để chúng ta đón nhận ơn Chúa hầu có một con tim toả sáng trong niềm vui, trong lời ca tụng, tạ ơn, trong kiên trì và tự do như thánh Phaolô.

 

3. Phương thế thứ ba là chia sẻ trong tình hiệp thông huynh đệ linh mục. Khi bóng tối bao phủ, hãy đặt bàn tay lên vai những anh em còn thấy ánh sáng. Ở đây, có ý nói, chúng ta cần có cha linh hướng, cần sự hướng dẫn trong đời sống thiêng liêng, tông đồ, cần biết sám hối, xưng tội. Đây là những cách thế cụ thể để chúng ta khơi gợi và gìn giữ ơn biến hình của người tông đồ.

 

4. Phương thế thứ tư là tỉnh thức phúc âm. “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ; tinh thần thì mau lẹ, nhưng xác thịt thì yếu đuối; hãy tỉnh thức và kiên vững trong đức tin”. Tự sức mình, con người chúng ta mau mệt mỏi, chán nản, vì thế dù là giáo dân hay linh mục, đều phải xác tín rằng: không ai chắc chắn mình sẽ kiên trì đứng vững; điều tệ hại nhất là nghĩ mình đã đạt đến mức độ ổn định đến nỗi không còn cẩn trọng nữa. Tân ước dạy cho biết rằng vào giờ chết, ma quỉ rình rập tìm cách giết chết niềm vui, đức tin và ước muốn ca tụng Thiên Chúa nơi ta. Hãy luôn tình thức vì biết rằng cuộc chiến sẽ không có giây phút nào ngừng nghỉ và rất có thể bất ngờ chúng ta lại rơi vào tâm trạng chán nản, mệt mỏi, nóng giận, thất vọng; hoặc ngược lại, bị thú vui trần gian cuốn hút. Phaolô thường xuyên nhắc đến sự tỉnh thức và kiên trì trong cầu nguyện.

 

Lạy Mẹ Maria xin chuyển cầu cho chúng con được tỉnh thức với Mẹ, với Chúa Giêsu, con Mẹ, với thánh Phaolô, để chúng con được biến hình, toả sáng trong đời sống tông đồ.

 


[1] Chuyển ý từ ĐHY Carlo-Maria Martini, “Saint Paul face à lui-même”, Mediaspaul, Paris, 1984.

Bài cùng chuyên mục:

Khao Khát Chúa: Cầu nguyện bằng Thánh vịnh (06/11/2024 08:54:01 - Xem: 285)

Đây là cuốn sách khai tâm cho những người muốn cầu nguyện bằng Thánh Vịnh. Khi đọc phụng vụ giờ kinh thường thường chúng ta cảm thấy khô khan, khó hiểu. Hãy đọc cuốn sách này và bạn sẽ thấy một đổi thay hết sức bất ngờ.

Khao Khát Chúa: Cầu nguyện bằng Thánh vịnh  (24/10/2024 10:17:21 - Xem: 337)

Đây là cuốn sách khai tâm cho những người muốn cầu nguyện bằng Thánh Vịnh. Khi đọc phụng vụ giờ kinh thường thường chúng ta cảm thấy khô khan, khó hiểu. Hãy đọc cuốn sách này và bạn sẽ thấy một đổi thay hết sức bất ngờ.

Những suy nghĩ tản mạn về đời sống và tác vụ linh mục: Ô-tô con và Linh mục(1) (30/09/2024 07:47:47 - Xem: 839)

Anh em linh mục giáo phận không có lời khấn khó nghèo như linh mục dòng, nhưng không phải vì thế mà chúng ta muốn tiêu xài tiền bạc thế nào tuỳ ý.

Kinh nghiệm về Thiên Chúa và Thần khải  (21/09/2024 10:44:04 - Xem: 423)

Bài “Kinh nghiệm về Thiên Chúa và thần khải” của đan sĩ Anselm Grun giúp chúng ta hiểu đúng thế nào là thần khải, hầu tránh được những hiểu lầm tai hại cho đời sống thiêng liêng.

Thiên Chúa mờ mịt, tăm tối, và tạo vật bất khả tri(3) (08/09/2024 07:45:34 - Xem: 429)

Chúng ta thường than trách Chúa và có khi không còn tin vào Ngài nữa; đó là khía cạnh mờ mịt, tăm tối, không thể hiểu thấu được của Thiên Chúa.

Thiên Chúa mờ mịt, tăm tối, và tạo vật bất khả tri(2) (24/08/2024 10:17:51 - Xem: 466)

Chúng ta thường than trách Chúa và có khi không còn tin vào Ngài nữa; đó là khía cạnh mờ mịt, tăm tối, không thể hiểu thấu được của Thiên Chúa.

Thiên Chúa mờ mịt, tăm tối, và tạo vật bất khả tri  (10/08/2024 07:52:38 - Xem: 536)

Thời đại của chúng ta là thời đại khao khát Thiên Chúa một cách sâu xa, nhưng Thiên Chúa lai ẩn giấu, mờ mịt, tăm tối.

Thiên Chúa của sự sống, CGS và hình ảnh của chúng ta về Thiên Chúa(P.4) (22/07/2024 10:59:39 - Xem: 498)

Chúng ta tiếp tục đọc và suy tư các bài của Đan sĩ Anselm Grun. Trong bài này, ông phân tích rất sâu sắc về hình ảnh sai lạc về Thiên Chúa của chúng ta

Thiên Chúa của sự sống, CGS và hình ảnh của chúng ta về Thiên Chúa(P.3) (03/07/2024 08:26:58 - Xem: 553)

Rất cần có một hình ảnh đúng về Thiên Chúa, nhờ dó, chúng ta có cái nhìn đúng về con người và hoàn cảnh của con người.

Thiên Chúa của sự sống, CGS và hình ảnh của chúng ta về Thiên Chúa(P.2) (23/06/2024 09:10:49 - Xem: 530)

Rất cần có một hình ảnh đúng về Thiên Chúa, nhờ dó, chúng ta có cái nhìn đúng về con người và hoàn cảnh của con người.

Bài viết mới
Câu chuyện chiều thứ 7