Lời chúa mỗi ngày

Thứ Bảy 30/03/2024 – THỨ BẢY TUẦN THÁNH. ĐÊM THÁNH VỌNG CHÚA PHỤC SINH. – Người đã sống lại thật.

  • In trang này
  • Lượt xem: 5,074
  • Ngày đăng: 29/03/2024 10:00:00

Người đã sống lại thật.

30/03 – THỨ BẢY TUẦN THÁNH. ĐÊM THÁNH VỌNG CHÚA PHỤC SINH.

"Giêsu Nazarét chịu đóng đinh, đã sống lại".

 

Lời Chúa năm B: Mc 16,1-8

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Hết ngày Sabbat, bà Maria Mađalêna, bà Maria, mẹ ông Giacôbê và bà Salômê mua thuốc thơm để đi xức xác Chúa Giêsu. Và từ sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, khi mặt trời hé mọc, các bà đến mồ, họ bảo nhau: "Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mồ cho chúng ta". Khi đưa mắt nhìn, các bà thấy tảng đá đã được lăn ra bên cạnh. Mà tảng đá đó rất lớn.

Các bà đi vào trong mồ, thấy một thanh niên ngồi bên phải, mặc áo dài trắng, nên các bà khiếp sợ. Nhưng người đó bảo các bà rằng: "Các người đừng sợ: Các bà đi tìm Chúa Giêsu Nazarét chịu đóng đinh: nhưng Người đã sống lại, không còn ở đây nữa. Đây là chỗ người ta đã đặt Người. Các bà hãy đi nói với các môn đệ Người, nhất là với Phêrô rằng: Ở đó các ông sẽ thấy Người như Người đã từng nói trước".

Nhưng các bà chạy ra khỏi mồ trốn đi, run rẩy kinh hồn chẳng dám nói gì với ai vì sợ hãi.

 

* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ  link CGKPV

 

* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ

 

Lời Chúa: St 1,1 - 2,2; Xh 14,15 - 15,1 (bắt buộc); Is 55, 1-11; Ed 36, 16-17a. 18-28; Rm 6, 3-11; B-- Mc 16,1-8

 

Contents

1.         Chào chị em!--Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

2.         Chúa đã sống lại--TGM Giuse Nguyễn Năng

3.         Đêm Vọng Phục Sinh--TGM Phêrô Nguyễn Văn Nhơn

4.         Đấng chiến thắng--TGM Giuse Vũ Văn Thiên

5.         Bài giảng lễ Vọng Phục Sinh 2021--Gm. Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản

1.         Người đã sống lại thật--‘Xây Nhà Trên Đá’--Lm. ViKiNi

2.         Phá tung nấm mồ--‘Xây Nhà Trên Đá’--Lm. ViKiNi

3.         Chúa đã sống lại thật ABC--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm

4.         Niềm hy vọng Phục Sinh--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái

5.         Sứ điệp của Chúa Phục Sinh--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái

6.         Lửa và Ánh sáng--Lm Giuse Đinh Tất Quý

7.         Vượt qua--Lm Giuse Đinh Tất Quý

8.         Sống và loan báo tin mừng Phục Sinh Vọng Phục Sinh A--Lm. Đan Vinh

9.         Chúa đã sống lại--‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’

10.      Niềm hy vọng Phục Sinh--‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’

11.      Chết mà chưa chết--Lm Đaminh Đỗ Văn Thiêm

12.      Chúa đã sống lại thật rồi (Mc 16, 1-8)--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

13.      Mừng vui lên (Mc 16, 1-8)--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

14.      Tin Mừng Chúa Phục Sinh (Lc 24, 1-12)-- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

15.      Vui lên đất trời. Alleluia!--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

16.      Tung hô Chúa đã sống lại thật--Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ

17.      Đêm kinh ngạc và sợ hãi Lc 24, 1-12--Lm. Giuse Lê Danh Tường

18.      Đức Kitô Giêsu là ánh sáng, chân lý và tình yêu--Giuse Vinhsơn Ngọc Biển

19.      Đêm thánh, đêm hy vọng-- Mc 16, 1-8--Giuse Vinhsơn Ngọc Biển

20.      Chúa phục sinh là tin mừng cho nhân loại-Lc 24,1-12--Giuse Vinhsơn Ngọc Biển SSP

21.      Niềm Hy Vọng Phục Sinh--ÐTC Gioan Phaolô II

22.  Người chết thì sống, kẻ sống thì chết--A-Mt 28,1-10--Lm Giuse Nguyễn Văn Hữu

23.      Mồ trống, Sứ điệp các thiên thần—Vọng Phục Sinh C--Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt

24.      Lễ Vượt Qua hôm nay

 

 

1.Chào chị em!--Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

Thật lạ lùng khi vào thời Đức Giêsu,

thời người ta không coi lời chứng của phụ nữ là có giá trị pháp lý,

Mátthêu lại kể cho chúng ta chuyện hai phụ nữ làm chứng về Chúa phục sinh.

Nếu chuyện ấy không có thật,

chẳng ai bịa đặt ra một chuyện vô bổ như thế.

Hai bà Maria này đã chứng kiến cái chết của Thầy Giêsu (Mt 27, 56),

đã dự việc chôn cất Thầy và biết rõ vị trí ngôi mộ (27, 61).

Suốt ngày sabát, trong đau đớn và nhớ nhung,

hai bà như sống trong một cuộc canh thức dài.

Họ chỉ mong cho chóng sáng để ra viếng mộ.

Các bà là những người đến mộ đầu tiên,

nên được diễm phúc chứng kiến những điều kỳ diệu.

Đất rung chuyển dữ dội, một thiên thần chói ngời từ trời xuống,

lăn tảng đá che cửa mộ ra và ngồi lên trên.

Quyền năng uy nghi của Thiên Chúa đè bẹp sức mạnh của tử thần.

Tảng đá nặng nề chẳng cầm giữ được Đấng bị đóng đinh.

Các bà đi tìm Đấng đã chết nơi nấm mộ.

Nhưng Đấng ấy đâu có ở đây, vì Đấng ấy đã trỗi dậy rồi (v. 6).

Thiên thần mời các bà đến xem chỗ Người nằm để kiểm chứng.

Quả thực, chẳng còn thân xác Người ở đó, ngôi mộ trống trơn.

Nhưng sự trống trơn này lại thật là một tin mừng.

Vì nếu Người còn nằm đó thì ai dám nói Người đã sống lại.

Ngôi mộ trở nên trống là do bàn tay quyền năng của Thiên Chúa Cha.

Cha đã nâng con trỗi dậy và cho con được phục sinh.

Đấng bị đóng đinh đã chết và đã nằm xuống.

Đấng nằm xuống đã được nâng dậy và sẽ đi gặp môn đệ ở Galilê (c. 7).

Lòng vui như mở hội, các bà vội vã chạy về báo tin cho các môn đệ.

Đang khi chạy về thì chính Đấng phục sinh hiện ra đón gặp họ.

Ngây ngất vì cuộc gặp gỡ quá đỗi bất ngờ,

các bà chỉ biết phủ phục dưới chân Người mà thờ lạy (c. 9).

Thầy Giêsu không dặn điều gì khác với vị thiên thần ngoài mộ.

Chỉ có điều Thầy vẫn gọi các môn đệ là anh em (c. 10),

dù họ đã bỏ rơi Thầy trong lúc Thầy cần đến họ nhất.

Rõ ràng Thầy Giêsu phục sinh muốn tha thứ và làm hòa với họ.

Các phụ nữ đã trở nên những chứng nhân đầu tiên của sự phục sinh.

Họ đã thấy ngôi mộ trống, hơn nữa, họ còn được gặp Đấng sống lại.

Nhờ họ mà có cuộc gặp gỡ giữa Thầy Giêsu và các môn đệ ở Galilê.

Giáo Hội hôm nay cần những người có kinh nghiệm gặp Chúa,

để loan báo Tin Mừng và giúp người khác gặp Chúa.

Lúc nào Giáo Hội cũng cần những Maria cháy bỏng một tình yêu.

 

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu phục sinh

Chúa đã sống đến cùng cuộc Vượt qua của Chúa,

xin cho con biết sống

cuộc Vượt qua mỗi ngày của con,

Vượt qua sự nhỏ mọn và ích kỷ.

Vượt qua những đam mê đang kéo ghì con xuống.

Vượt qua nỗi sợ khổ đau và nhục nhã.

Vượt qua đêm tăm tối cô đơn của Vườn Dầu.

Vượt qua những khắc khoải của niềm tin.

Vượt qua những thành kiến con có về người khác...

Chính vì Chúa đã phục sinh

nên con vui sướng và can đảm vượt qua,

dù phải chịu mất mát và thua thiệt.

Ước gì con biết noi gương Chúa phục sinh

gieo rắc khắp nơi bình an và hy vọng,

tin tưởng và niềm vui.

Ước gì ai gặp con

cũng gặp thấy sự sống mãnh liệt của,,,

 

2.Chúa đã sống lại--TGM Giuse Nguyễn Năng

Sứ điệp: Đấng Cứu độ đã chịu khổ hình thập giá và được mai táng trong mồ, để từ cõi chết sống lại và giải thoát loài người khỏi chết.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Kitô là Đấng cứu thế, Chúa đã muốn cho Thánh Mẫu hiện diện khi Chúa chết trên thập giá và được mai táng trong mồ, xin cho chúng con mỗi khi gặp thử thách gian truân, cũng biết chia sẻ những cực hình Chúa đã chịu.

Chúa như hạt lúa gieo vào lòng đất đã đem lại sự sống là hoa trái muôn đời, xin cho chúng con biết từ bỏ tội lỗi để chỉ còn sống cho Thiên Chúa mà thôi.

Chúa đã chịu mai táng trong mồ, xin dạy con biết sống âm thầm trong tình thương của Chúa.

Chúa là Ađam mới đã xuống tận âm phủ giải thoát những người công chính bị giam cầm, xin cho những ai bị chôn vùi trong tội lỗi, biết nghe tiếng Chúa và được cứu sống.

Chúa là Con Chúa Trời Hằng sống, đã cho chúng con được chết với Chúa qua Bí tích Thánh tẩy, xin cho chúng con được sống lại với Chúa, để tiến lên trong cuộc đời mới. Amen.

Ghi nhớ: ”Ngài đã sống lại và sẽ đến xứ Galilêa”.

 

3.Đêm Vọng Phục Sinh--TGM Phêrô Nguyễn Văn Nhơn

Trong đêm Vọng Phục Sinh, việc công bố Lời Chúa là một phần căn bản của nghi thức Phụng vụ. Khởi đầu, chúng ta đọc bài trích Sách Sáng Thế, tường thuật việc Thiên Chúa tạo dựng muôn vất muôn loài. Và lời sáng tạo đầu tiên của Thiên Chúa là “Hãy có ánh sáng!” Nơi nào có ánh sáng, nơi đó phát sinh sự sống.

Lễ nghi đêm nay, khởi đầu trong bóng tối là hình ảnh của nhân loại đi trong bóng tối tội lỗi, bóng tối của sự chết. Nến Phục sinh được thắp lên, lan tỏa ra khắp mọi người, cả nhà thờ rực sáng. Đức Kitô phục sinh đem lại sự sống cho cả thế giới, cho cả lịch sử nhân loại. Ngọn lửa nến Phục sinh vừa sáng vừa nóng biểu hiện Đức Giêsu Kitô vừa là Chân lý vừa là Tình yêu, là Chân lý trong Yêu thương. Nhưng nến cháy sáng rồi thì bị tiêu hủy, sống-chết đi đôi với nhau. Chúa Giêsu qua cái chết thập giá, Ngài đã phục sinh và phục sinh tất cả những ai tin vào Ngài. Cây nến mà chúng ta cầm trong tay được thắp lên từ cây nến phục sinh cũng như Chúa Phục sinh đã thông ban sự sống của Ngài cho chúng ta. Lát nữa đây, khi cử hành Phụng vụ làm phép rửa cho 37 anh chị em dự tòng đây, chúng ta cầu nguyện và cũng hãy cảm nghiệm sự sống của Chúa được chuyển qua anh chị em để trở nên con cái của Chúa. Khi chịu phép rửa, anh chị em hãy tin vào lời Chúa phán: “ Hãy có ánh sáng”, và Chúa phân chia anh chị em ra khỏi bóng tối như Ngài đã làm vào lúc sáng tạo vũ trụ. Và trong Đức Kitô, chúng ta nhận ra cái gì đúng cái gì sai, cái gì rạng ngời cái gì tối tăm, cái gì phải làm cái gì phải tránh. Và ánh sáng cuộc đời chúng ta, nhờ đó, cũng lan tỏa ra chung quanh để người khác nhận ra Đức Kitô cũng là ánh sáng cho cuộc đời của họ.

Yếu tố quan trọng thứ hai trong nghi lễ nầy là nước. Trong Đêm Canh thức Phục sinh, đọc 9 bài Kinh thánh: 7 bài Cựu Ước và 2 bài Tân Ước. Vì lý do thời gian hay yếu tố nào khác, phải bớt các bài Đọc, thì cuối cùng cũng giữ lại tối thiểu 4 bài. Nhưng trong bất cứ trường hợp nào cũng không được bỏ bài Sách Xuất Hành, chương 14, là chương tường thuật dân Do Thái vượt qua Biển đỏ cách lạ lùng. Nói đến biển, chúng ta dễ dàng liên tưởng đến sức mạnh của sóng thần đã tàn phá miền Bắc Nước Nhật vừa qua. Trong mạc khải, biển cũng được diễn tả như thế lực thù nghịch, nơi giam giữ ác thần, là nơi hoành hành của sự chết. (Chúa ra lệnh cho biển im tiếng!) Dân Do Thái đi vào Biển Đỏ là nơi chôn vùi binh lính của Pharaô Aicập đuổi theo. Người dự tòng, ngày nay thay vì được dìm vào hồ nước, thì được dội nước trên đầu, nói lên sự chết cho tội lỗi, như Chúa Giêsu bị đóng đinh thân xác vào thập giá và chôn cất trong mồ. Và như lời thánh Phaolô trong thư Do Thái: “(…) khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Giêsu Kitô, là chúng ta đã được dìm vài trong cái chết của Người …” Nhưng nước đồng thời cũng mang ý nghĩa của sự thanh tẩy, của sự sống mới, sự tăng trưởng và Chúa Giêsu cũng dùng để nói về Chúa Thánh Thần. Và thánh Phaolô nói tiếp: “Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được một đời sống mới”.

Qua bí tích Thánh tẩy, chúng ta được tham dự vào sự Phục Sinh của Đức Kitô. Qua Đêm Canh thức nầy, Giáo hội mời gọi tất cả chúng ta hãy vui mừng, vì trong Đức Kitô, sự sống của chúng ta đã chiến thắng sự chết và sự cứu rỗi cho chúng ta mạnh hơn tội lỗi, vì thế, như Phụng vụ Lời Chúa vừa được cử hành, “Tôi loan báo cho anh chị em một tin rất vui mừng, đó là Alleluia, Chúa đã sống lại!”

 

4.Đấng chiến thắng--TGM Giuse Vũ Văn Thiên

(SUY NIỆM LỄ PHỤC SINH)

Một chi tiết nhỏ trong trình thuật thương khó của Thánh sử Gioan đáng chúng ta lưu ý: ngôi mộ Chúa Giêsu được an táng là một ngôi mộ mượn của người khác. Tác giả viết như sau: “Nơi Đức Giêsu bị đóng đinh có một thửa vườn, và trong vườn, có một ngôi mộ còn mới, chưa chôn cất ai”. Thánh sử rất cẩn thận và chi tiết, khi nói đến một ngôi mộ mới, lại còn nhắc thêm: “chưa chôn cất ai”. Sự kiện Chúa Giêsu được an táng trong ngôi mộ mượn của người khác diễn tả sự nghèo khó đến tột cùng của Con Thiên Chúa làm người. Khi trút hơi thở cuối cùng trên thập giá, Chúa không có đến một mảnh vải che thân. Hơn thế nữa, những kỳ lão, biệt phái và người dân thành Giêrusalem đi qua còn buông lời chế diễu Người. Trên thập giá, Người trở nên người nghèo hơn hết trong số những người nghèo. Không chỉ nghèo về vật chất, khái niệm ”nghèo” còn được thể hiện qua sự tín trung và phó thác nơi Chúa Cha: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46).

Việc Chúa Giêsu được an táng trong một ngôi mộ mượn, cũng cho chúng ta thấy một góc cạnh khác của mạc khải. Thông thường, khi ta mượn của ai cái gì, ta chỉ dùng tạm, sau đó trả lại cho người có quyền sở hữu. Đức Giêsu được an táng trong ngôi mộ mượn, và Người cũng chỉ ở đó một thời gian ngắn. Đến ngày thứ ba, Người đã phục sinh, vinh quang sáng láng bước ra khỏi mồ. Ngôi mộ này chỉ là mượn. Điều này làm chúng ta liên tưởng tới con lừa Chúa cưỡi khi tiến vào thành Giêrusalem, cũng là con lừa đi mượn (x Lc 19,28-34). Phòng tiệc ly nơi Chúa mừng lễ Vượt Qua cũng là phòng đi mượn (x. Lc 22,7-13). Thân xác của Người không nằm yên trong mồ tối và chịu hư nát do tác động của thời gian. Ngôi mộ mượn ấy chỉ là điểm tạm dừng, chỉ là thời gian lắng đọng để giúp chúng ta suy tư về sự chết và sự sống nơi Thiên Chúa cũng như nơi con người. Đức Giêsu phục sinh đã chứng minh với chúng ta quyền năng Thiên Chúa nơi kiếp sống nhân sinh. Giây phút Chúa sống lại là một thời khắc quan trọng của lịch sử. Đó cũng là một điều phi thường của đức tin.

Trong sự chết và sự phục sinh của Đức Giêsu, sự sống đã chiến thắng sự chết. Khi bị bắt ở vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu đã nói với những người lính Do Thái: “Đây là giờ của các ông, là thời của quyền lực tối tăm” (Lc 22,53). Những gì xảy ra liên tiếp sau đó, cho thấy có vẻ như quyền lực tối tăm đã chiến thắng. Những kinh sư và người biệt phái, thậm chí cả thày Thượng tế, đều hả hê trước cái chết của Chúa Giêsu, vì họ đã diệt được một đối thủ. Đối thủ này dám lên án họ với những lời lẽ gay gắt. Sự phục sinh của Chúa đã đảo ngược tình thế. Sự sống đã chiến thắng sự chết. Đức Giêsu đã sống lại như Người đã nói trước đó. Cái chết và quyền lực của tối tăm đã thất bại. Sau này, thánh Phaolô đã mạnh dạn thách thức: “Hỡi tử thần, đâu là chiến thắng của ngươi? Hỡi tử thần, đâu là nọc độc của ngươi?” (1 Cr 15,55).

Trong sự chết và sự phục sinh của Đức Giêsu, sự thiện đã chiến thắng sự ác. Trước những lời vu khống của một số kỳ lão Do Thái, trước sự hành hạ phỉ nhổ của quân lính Rôma, Chúa Giêsu vẫn khiêm nhường đón nhận. Người không dùng bạo lực để đối lại với bạo lực. Người như con chiên hiền lành bị đem đi xén lông. Chúa Giêsu là nạn nhân của bạo lực, của ghen ghét và hận thù. Cái chết trên thập giá và nhất là lời Chúa Giêsu cầu nguyện xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ giết mình chính là sự chiến thắng của sự thiện trên sự ác. Qua cái chết trên thập giá, Chúa nói với chúng ta: ở đời này, không phải lúc nào sự chết cũng là một thất bại, và không phải lúc nào kẻ mạnh hơn cũng là người chiến thắng. Đem hận thù đối lại với hận thù, chỉ làm cho hận thù càng chồng chất. Đem tình yêu vào nơi oán thù, sẽ làm cho hận thù tiêu tan. Đời sống cụ thể của chúng ta đã hơn một lần chứng minh điều ấy.

Trong sự chết và sự phục sinh của Đức Giêsu, niềm hy vọng chiến thắng sự thất vọng. Kể từ khi Chúa Giêsu chịu treo trên thập giá, cây gỗ gồm một thanh ngang và một thanh dọc đã trở thành biểu tượng của hy vọng đối với các Kitô hữu. Đây không phải là sự ru ngủ, mua chuộc hay mị dân. Trái lại, niềm hy vọng đến từ quyền năng của Thiên Chúa. Hãy nhìn xem hai người trộm bị đóng đinh cùng với Chúa Giêsu: một người khước từ tin vào Chúa và thậm chí phê phán thách thức Người; trái lại, người kia lại cầu xin với lòng thành tín cậy trông. Người “trộm lành” đã được Chúa hứa ban thiên đàng ngay ngày hôm đó. Sự kiện này nhắc nhở chúng ta: dù tội lỗi đến đâu cũng không mất niềm hy vọng vào lòng thương xót của Thiên Chúa.

Ngày hôm nay, Đức Giêsu Phục sinh đến gặp những ai đang mang gánh nặng cuộc đời, Người mời gọi: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28),

Ngày hôm nay, Đức Giêsu Phục sinh đến nâng đỡ những ai đang kiếm tìm chân lý và ý nghĩa cuộc đời, nhất là các bạn trẻ. Người khẳng định: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,16).

Ngày hôm nay, Đức Giêsu Phục sinh đến đổi mới tâm hồn những ai tin vào Người, với niềm xác tín “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16.16).

Ngày hôm nay, thế giới Kitô giáo đứng trước ngôi mộ trống và mang tâm trạng như tông đồ Gioan: “Ông đã thấy và đã tin” (Ga 20,8).

Ngôi mộ mượn của người khác chỉ là một điểm dừng chân của Chúa Giêsu. Người đã sống lại. Người đã chiến thắng tử thần và lòng hận thù ghen ghét. Người cũng đem lại niềm hy vọng cho những ai đang đau khổ chán chường do sức ép của gánh nặng cuộc đời. Ngôi mộ của người tín hữu cũng chỉ là nơi ở tạm, đợi ngày thân xác được phục sinh trong ngày tận thế. Mỗi chúng ta, khi mừng lễ Phục Sinh, hãy cùng với Chúa chiến thắng những tội lỗi bủa vây xung quanh chúng ta. Như thế chúng ta sẽ trở thành những người tự do, nhờ ân sủng của Đấng Phục sinh.

 

5.Bài giảng lễ Vọng Phục Sinh 2021--Gm. Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản

(Rm 6, 3-11; Mc 16, l-8)

Anh chị em thân mến,

Nếu hôm nay, sau hơn 2000 năm của Kitô giáo, chúng ta cử hành đại lễ Phục Sinh, chính là bởi vì một chuỗi liên tục những người tín hữu qua các thời đại đã truyền lại cho chúng ta niềm tin tràn đầy hy vọng vào sự sống lại của Đức Kitô.

Trong 1 Corinto, thánh Phaolô viết: “Trước hết, tôi đã truyền lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận, đó là: Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Kinh Thánh, rồi Người đã được mai táng, và ngày thứ ba đã trỗi dậy, đúng như lời Kinh Thánh. Người đã hiện ra với ông Kê-pha, rồi với nhóm Mười Hai. Sau đó, Người đã hiện ra với hơn 500 anh em một lượt, trong số ấy phần đông hiện nay còn sống, nhưng một số đã an nghỉ. Tiếp đến, Người hiện ra với ông Gia-cô-bê, rồi với tất cả các Tông Đồ. Sau hết, Người cũng hiện ra với tôi, là kẻ chẳng khác nào một đứa trẻ sinh non” (1 Co 15, 3-8).

Chúng ta quy tụ hôm nay để mừng lễ Vọng Phục Sinh là nhờ vào việc thông truyền Tin Mừng này qua nhiều thế kỷ. Chúng ta cử hành chiến thắng của sự sống trên sự chết. Chúng ta cử hành chiến thắng của Chúa Giê-su Kitô, niềm hy vọng của chúng ta, Đấng mang lại ý nghĩa cho đời sống của chúng ta, bất chấp những lo lắng, đau khổ và những khó khăn mà chúng ta phải đối mặt mỗi ngày.

Tảng đá to gắn chặt trên ngôi mộ là biểu tượng của sự bất lực của chúng ta trong việc chiến thắng sự chết bằng sức riêng của mình. “Những người phụ nụ nói với nhau: ai sẽ lăn tảng đá đa khỏi mộ dùm chúng ta đây”. Nhưng vừa ngước mắt lên, các bà đã thấy tảng đá lăn ra một bên rồi, mà tảng đá ấy lớn lắm” (Mc 15, 3-4). Chi tiết cụ thể này được cả 4 vị thánh sử ghi lại. Đối với thánh Mac-co và đối với chúng ta hôm nay, tảng đá này ám chỉ đến một bức tường thật sự chia tách con người với sự sống lại: “Ai có thể cất đi thử thách này?”. Chỉ có một mình Thiên Chúa có thể xóa bỏ sức nặng của sự chết đè lên thân phận con người.

Điều quan trọng trong bài Tin Mừng hôm nay, không phải là trình bày về ngôi mộ trống, nhưng là lời loan báo về sự sống lại. Các bà đã gặp một người đưa tin, một thanh niên mặc áo trắng, bày tỏ cho các bà về sự sống lại của Chúa Giê-su. Phục Sinh, đó là ngày lễ của sự mạc khải lớn lao này; đó là lễ của niềm vui và hy vọng. Các bà đã hoảng sợ, nhưng người thanh niên này nói với các bà rằng: “Đừng hoảng sợ! Các bà tìm Đức Giê-su Na-da-rét, Đấng bị đóng đinh chứ gì? Người đã trỗi dậy rồi, không còn đây nữa. Chỗ đã đặt Người đây này.” Nếu sự xuất hiện bất thình lình của Thiên Chúa làm cho người ta hoảng sợ, thì sự hiện diện của Ngài sẽ làm cho người ta được an tâm. Thiên Chúa chân thật không phải là kẻ làm cho người ta sợ hãi, nhưng là Đấng mang lại sự bình an và niềm hy vọng.

Người thanh niên mặc áo trắng còn nói thêm: “Xin các bà về nói với môn đệ Người và ông Phê-rô rằng Người sẽ đến Galile trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người như Người đã nói với các ông”. Galile, đó là nơi mà các môn đệ đã được sinh ra, lớn lên, làm việc và sống với gia đình, vì các ngài đều quê ở Galile. Đức Kitô đồng hành với họ trong đời sống thường ngày. Hãy đi! Đừng dừng lại nơi ngôi mộ trống. Hãy đi đến bất cứ nơi nào mà Chúa Giê-su đi trước các anh, nơi mà Ngài đã hẹn với các anh.

Thường thường, tất cả mọi sự liên quan đến đời sống của con người đều kết thúc nơi nghĩa trang, nghĩa là hành trình dương thế đã đóng lại, và người ta bước sang một thế giới khác. Nhưng trong lịch sử của Đức Kitô, tất cả bắt đầu nơi nghĩa trang, chung quanh ngôi mộ trống. Và vị sứ giả không nói với các phụ nữ: “Hãy đi nói với các môn đệ đến đây xem ngôi mộ trống”. Nhưng đã nói với các bà rằng: “Xin các bà về nói với môn đệ Người và ông Phê-rô rằng Người sẽ đến Galile trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người như Người đã nói với các ông”. Cộng đoàn của các môn đệ không được thành lập chung quanh một ngôi mộ trống, nhưng là chung quanh Chúa Giê-su Phục Sinh. “Ngài không còn ở đây, Ngài đã phục sinh... Ngài đi trước các anh đến Galile”. Ngài đợi các anh ở nơi các anh đang sống.

Mỗi ngày Chúa nhật, các Kitô hữu họp nhau trong cộng đoàn, trong giáo xứ của mình, chung quanh Chúa Giê-su Phục Sinh, như lời Chúa Giê-su nói: “Nơi nào có hai hay ba người họp nhau lại nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa họ”. Và Đức Kitô Phục Sinh luôn đồng hành với chúng ta: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống... Ai bước đi theo Thầy, sẽ không đi trong tối tăm”.

Anh chị em thân mến,

Thánh Phaolô nói: “Nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng... Nhưng không phải thế! Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu… Thật vậy Đức Kitô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người. Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết, vì Thiên Chúa đã đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô” (1 Co 15, 14. 20. 25-27).

Niềm tin vào Chúa Giê-su Phục Sinh đã đâm rễ sâu trong đời sống đức tin của người tín hữu công giáo qua các thời đại. Dẫu cho có một số người chống đối, không tin, nhưng những chứng cứ của các tông đồ, những người đã có dịp gặp gỡ Đức Kitô Phục Sinh, những sự biến đổi tích cực của những người đón nhận Tin Mừng Phục Sinh, là một điều không thể chối cãi được.

Vào ngày lễ Phục Sinh, Đức Kitô mời gọi chúng ta bắt đầu lại để sống một cách tròn đầy niềm tin của người tín hữu, để bước từ nỗi sợ hãi sang niềm vui, từ quá khứ sang hiện tại, từ cái chết đến sự sống. Hôm nay, chúng ta cử hành sự vinh quang vĩ đại, chiến thắng của Đức Kitô trên sự chết.

Xin Chúa chúc lành cho tất cả anh chị em.

 

1.Người đã sống lại thật--‘Xây Nhà Trên Đá’--Lm. ViKiNi

1- Một phi thuyền đang du hành trong vũ trụ từ ngày 20/08/1977 để tìm xem có sự sống loài người nào trên các hành tinh không? Phi thuyền bắt đấu thăm dò từ hỏa tinh, mộc tinh, thổ tinh, thiên vương tinh, hải tinh, diêm tinh và phải vượt qua thái dương hệ 40.000 năm nữa mới tới một hành tinh gần nhất. Sau đó phi thuyền phải bay 100 triệu năm nữa mới tới một hành tinh xa hơn. Phi thuyền đem theo một đĩa vàng có thể tồn tại hơn 100 triệu năm để phát ra 106 tín hiệu diễn tả văn hóa loài người đi thăm dò xem có thế giới loài người nào khác đáp lại chăng? Thật là một kỳ công đi tìm sự sống loài người khác, ngoài thế giới loài người trên trái đất này.

2- Đêm Phục sinh này, Đức Giêsu đang đáp lại tín hiệu của loài người đi tìm sự sống xa lạ đó, một sự sống không còn đau khổ, không còn thập giá, không còn mạo gai đinh đóng, lưỡi đòng, không còn nếm dấm chua mật đắng, không còn bị chôn trong mồ, không còn phải chết ở đâu nữa. Đó là sự sống lại của Đức Giêsu. Sự sống lại của Đức Giêsu làm cho thập giá trở nên Thánh giá cứu độ, làm cho mạo gai trở nên triều thiên, lưỡi đòng trở nên lò lửa yêu mến của Thánh Tâm, dấm chua trở nên mật ngọt, cửa mồ phải bật tung ra, chỗ nằm u tối trở nên sáng ngời, sự chết đời đời trở nên sự sống trường sinh.

Bài đọc một sách Sáng Thế cho chúng ta thấy Thiên Chúa đã biến đổi tối tăm mù mịt, u ám mông quạnh, ra sáng láng chan hòa sức sống tươi mát, rực rỡ như buổi bình minh, thông thoáng như cảnh chiều dương, vạn vật sinh động, vui thỏa, nhuộm muôn mầu ngàn sắc. Đó là cảnh Phục sinh mà Thiên Chúa đã sáng tạo thuở ban đầu. Thiên Chúa đã cho con người sống vương giả trong cảnh trời đất huyền diệu đó như trong vườn thượng uyển của vua nước Trời.

3- Con người được sống vương giả, chính ra càng ngày càng trở nên xứng đáng với sứ mệnh cao cả của Thiên Chúa đã ban cho mình. Trái lại, con người: nhân dục vô nhai, dục vọng vô bờ, lòng tham không đáy, no bụng đói con mắt, thèm thuồng đủ thứ nên đã nếm phải nọc độc của rắn quỷ. Tham thực cực thân, ăn no tức bụng. Nọc độc đã cướp đi sự sống vương giả của con người. Lịch sử đã cho thấy bao nhiêu triều đại đế vương sụp đổ chỉ vì những ông hoàng bà chúa sống vương giả, được voi đòi tiên, ăn chơi trác táng, tranh bá đồ vương, chém giết lẫn nhau. Đức Giêsu nhiều lần đã nói những dụ ngôn về các ông bá hộ như thế, chẳng bao lâu họ phải bỏ mạng: “Đồ ngốc đêm nay người ta sẽ đòi mạng ngươi” (Lc. 12, 20). Tổ tiên loài người đã sống mất mạng vì lối sống phú hộ đó. Cain đã giết em, Evà đã kinh hoàng ôm lấy xác con vào lòng đầy đau xót chỉ vì bà đã ham mê nuốt trái cấm đầy quyến rũ ngon ngọt. “Chỉ vì một người đã sa ngã mà sự chết đã thống trị, thì Thiên Chúa làm qua một Người là Đức Giêsu Kitô sự sống lại được ban dồi dào” (Rm. 5, 12, 17-19).

4- Đêm nay, Đức Giêsu đã phục sinh sự sống dồi dào cho con người, cho chúng ta. Đêm nay Đức Giêsu đã giải phóng con người chúng ta khỏi thần chết như Mosê đã giải phóng cho dân Israel khỏi nô lệ khốn cùng của Ai cập. Israel đã dứt bỏ mọi quyến luyến Ai cập, chỗi dậy theo lệnh Mosê, vâng lời Thiên Chúa vượt qua biển máu, nên Thiên Chúa đã ra tay chôn vùi quân địch đeo bám họ dưới đáy biển máu và đã dẫn đưa họ về sống trong miền đất tự do chảy sữa và mật (Bài đọc 3). Đêm nay, chúng ta cũng phải dứt bỏ mọi quyến luyến tội lỗi, chỗi dậy theo lệnh Giáo hội, vâng lời Thiên Chúa vượt biển chết tội lỗi, thì sẽ được Đức Giêsu giải phóng ta khỏi tà thần, tiêu diệt quỷ dữ, dẫn đưa ta về miền đất phục sinh vinh quang muôn đời.

Lạy Chúa Giêsu, con đã chết và qua phép Rửa tội, Chúa đã cho con được chỗi dậy từ cõi chết. Con xin hết lòng cảm tạ Chúa vì Chúa hảo tâm vì đức từ bi Người muôn thuở. Xin Chúa gìn giữ con, ấp ủ con trong nguồn Phục sinh muôn đời của Chúa (2Cr. 3, 1-4; Tv. 117).

 

2.Phá tung nấm mồ--‘Xây Nhà Trên Đá’--Lm. ViKiNi

Ở thế kỷ thứ I và II trước Công nguyên, người Do thái và nhiều chư dân thường đục núi đá để chôn người chết, rồi lăn tảng đá lớn tròn đóng chặt cửa mồ như di tích mồ dòng họ Hêrôđê ở Giêrusalem còn tới nay. Mộ cất xác Đức Giêsu đã được ông Giuse Arimathia đục sẵn vào núi đá như thế. Nhưng chôn xác Người chưa được ba ngày đá lấp cửa mồ đã bị bật tung ra “Đức Giêsu đã sống lại”, đất rung động, mộ bật sáng, lính canh chết ngất, rồi chạy trốn mất. Thiên thần đến báo tin cho các bà đến thăm mồ từ sáng sớm: “Đừng sợ, Đức Giêsu chịu đóng đanh không còn ở đây” (Mt. 28, 1-8. 11). Các bà vẫn kinh hoàng chạy về báo cho Phêrô và Gioan. Hai ông chạy đến mộ chỉ thấy mộ trống, nhưng các khăn liệm được gấp lại cẩn thận để riêng ra một nơi. Bà Maria Mađalenna hỏi: “Ai đã lấy xác Chúa rồi?”.

Ai dám lấy? lấy xác chết làm gì? Lính canh đâu? Nếu ai có quyền lực mạnh hơn lính, chắc đã cứu Người trước khi chết. Chết rồi ai còn lấy xác làm chi? để chịu án chết nữa sao? vì theo luật thời đó ai lấy trộm xác chết sẽ bị tử hình. Chỉ có quyền lực của Đức Giêsu đã phá tung nấm mồ để sống lại, không còn xác chết nữa. Người đã tự nộp mình chịu chết và nhiều lần trước khi chết, Người đã loan báo: Người sẽ chịu chết ở đâu, chết cách nào và ngày thứ ba Người sẽ sống lại. Không ai dám nói như thế bao giờ. Ngay chính lúc quan quân đến bắt Người, Người đã nói: “Này Ta, chúng liền té ngã” (Ga. 18,6). Nếu Người muốn thoát chết thì thật dễ dàng, nhưng Người không muốn trốn cái chết. Người muốn xuống mồ để phá tung nấm mồ cho Người, cho các tổ phụ, các tiên tri và cho các người lành, cho họ được sống lại với Người trong vinh quang. Họ đã được sống lại với Người ngay lúc Người tắt thở và đi vào thành loan báo tin Người sống lại (Mt. 27, 53).

Từ khi có loài người đến tận thế, không ai có quyền lực vô song đó. Người ta chứng kiến bao nhiêu đại đế, anh hùng hào kiệt dũng mãnh có quyền lực vô địch tài trí siêu phàm, đều phải bó tay trong nấm mồ đen tối. Quyền lực tài trí nổi danh muôn thuở như các vua Pharaon nước Ai cập cũng đành chịu chôn dưới những đống đá kim tự tháp. Đây là những nấm mồ vĩ đại nhất thế giới được xây bởi 2.500.000 khối đá nặng từ 2,5 tấn đến 15 tấn, được xếp rất tài tình khít khao, không chỗ nào có thể đút lọt tờ giấy. Tháp cao 146 mét, mỗi cạnh rộng 230 mét, trải qua gần 5.000 năm vẫn trơ trơ cùng tuế nguyệt.

Đủ thấy rõ, con người có thể xây được nấm mồ chứ không bao giờ xây được sự sống vĩnh cửu. Chỉ có Đức Giêsu xây được sự sống lại và cho ta sống đời đời mà thôi, như Người nhiều lần đã nói: “Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin ta dù đã chết cũng sẽ được sống” (Ga. 11,15). “Đức Giêsu sống lại thì không bao giờ chết nữa, sự chết không còn quyền chi đối với Người nữa... Nay Người sống là Người sống cho Thiên Chúa” (Rm. 9,10).

Lạy Chúa, xin cho con biết lắng nghe bà Maria tường thuật về Đức Giêsu phục sinh và bền tâm vững chí tin vào lời chứng của thánh Phêrô về những việc xẩy ra trong toàn cõi Giuđê mà Đức Giêsu đã sống, đã thi ân giáng phúc, đã chữa lành mọi kẻ bị quỷ ám, đã chịu chết và sống lại (Bài đọc 1). Xin cho con được chỗi dậy từ chốn tội lỗi, từ cõi chết để cùng được sống lại với Người. Amen (Cl. 3,1).

 

3.Chúa đã sống lại thật ABC--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm

A. DẪN NHẬP.

Các bài đọc trong thánh lễ hôm nay đều nói đến việc Đức Giêsu sống lại. Thánh Phêrô đã loan báo cho quan bách quản Cornêliô về các sự việc  đã xẩy ra nơi Chúa Giêsu: đi truyền giáo, chịu chết trên thập giá và sống lại vinh quang (Bài đọc 1)

Thánh Gioan nói cho biết sự kiện ngôi mộ trống mà ngài đã tận mắt trông thấy là bằng chứng nói lên việc Chúa sống lại (Bài Tin mừng)

Còn thánh Phaolô khuyên các tín hữu hãy tin vào Chúa sống lại, hãy hướng lòng về trời là quê hương thật và đừng để những đam mê trần tục chi phối làm hư hỏng con người (Bài đọc 2).

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

+ Bài đọc 1: Cv 10,34.37-43.

Viên quan bách quản Rôma, là người ngoại giáo, khi nghe biết về Chúa Giêsu, đã đến xin ông Phêrô làm phép rửa để được gia nhập cộng đoàn các tín hữu đầu tiên. Thánh Phêrô đã nhắc cho ông và gia đình ông niềm tin căn bản này: Đức Giêsu đã phục sinh. Đây là bài giảng đầu tiên mà Phêrô dạy dỗ cho những người tân tòng. Thánh Kinh gọi bài giảng truyền giáo này là Keryma. Lược đồ của mỗi Keryma thường là:

a) Tóm tắt cuộc đời của Đức Giêsu ở trần thế.

b) Cái chết của Ngài.

c) Việc Ngài sống lại.

d) Kêu gọi hãy tin vào Ngài để được ơn cứu độ.

Tin vào Chúa Kitô phục sinh là một điều kiện tiên quyết phải có vì nếu Chúa Giêsu không sống lại thì niềm tin của ta trở nên trống rỗng. Vì thế, sự phục sinh của Đức Giêsu chính là trung tâm của lịch sử nhân loại, là nền tảng cho niềm tin Kitô giáo.

+ Bài đọc 2: Cl 3,1-4).

Trong bức thư gửi cho tín hữu Côlôssê, thánh Phaolô kêu gọi những ai đã nhờ phép rửa mà được tham dự vào mầu niệm Vượt qua, hãy sống một đời sống tỏa hương thánh thiện: “Hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giói”(Cl 3,1-2).

Các tín hữu đã tin vào Chúa Phục sinh, nhưng chưa đủ, còn phải thể hiện niềm tin đó trong cuộc sống. Mặc dầu phải sống giữa những thay đổi của trần gian này, phải chịu vật chất chi phối, nhưng đừng để lòng mình ra nặng nề, hãy hướng lòng trí về trời là quê hương thật. Đức Kitô phục sinh đem đến cho chúng ta  niềm hy vọng trong cuộc sống hiện tại để hướng về cuộc sống mai hậu.

Người tín hữu tìm được ý nghĩa thực của đời sống dưới ánh sáng phục sinh mà họ đang tiến về. Do đó, họ không được thoát ly khỏi cuộc sống đời này với nhiều nghĩa vụ, bao gian nan thử thách; tuy thế, họ đã tìm được ý nghĩa của cuộc sống trong sự kết hợp với Đức Kitô Phục sinh.

+ Bài Tin Mừng: Ga 20,1-9.

Trong bài Tin mừng này, thánh Gioan nhắc đến Maria, người tội lỗi, mà Chúa đã trừ cho khỏi bảy qủi. Bà rất yêu mến Chúa. Ngay sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần bà đã ra mộ viếng Chúa, nhưng thấy mộ trống. Bà tức tốc chạy về báo tin cho ông Phêrô và các tông đồ biết: người ta đã lấy trộm xác Chúa. Ông Phêrô và Gioan đã ra mộ và thấy sự kiện ấy: ngôi mộ trống. Phêrô tỏ ra không hoảng hốt, ông bình tĩnh, xem ra ông đã tin Thầy mình phục sinh rồi.

Thực ra, sự kiện ngôi mộ trống chưa có thể xác quyết được sự kiện Chúa sống lại. Chúng ta còn phải nhờ Kinh Thánh và với đức tin chân thật thì mới có thể tin Chúa đã sống lại. Chính người Do thái không tin vào sự kiện đó và cho rằng xác Đức Giêsu đã bị lấy trộm đi. Việc Chúa sống lại chỉ là tin vịt do các môn đệ dựng nên. Tuy thế, đối với ông Gioan thì không còn nghi ngờ gì nũa: “Ông đã thấy và ông đã tin” (Ga 20,9).

B. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

Thành công và thất bại

I. ĐỨC GIÊSU THÀNH CÔNG HAY THẤT BẠI?

Trong mùa chay, cách riêng trong tuần thánh vừa qua, tâm trí chúng ta luôn luôn bị căng thẳng, tâm hồn chúng ta luôn luôn bị xúc động và hồi hộp khi suy ngắm những biến chuyển nơi Chúa Giêsu trước đây ngót hai ngàn năm, mà Giáo hội đã diễn lại một cách sống động khác nào sự việc đang xẩy ra vậy:

Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem (Ga 12,13)

Chúa từ giã các môn đệ (Mt 16,45).

Chúa ăn bữa tối sau hết (Mc 14,15).

Chúa rửa chân cho 12 tông đồ (Ga 13,50.

Chúa lập phép Thánh Thể (Lc 22,17).

Chúa vào vườn Cây Dầu cầu nguyện (Lc 22,42).

Chúa bị Giuđa tìm bắt (Lc 22,48).

Chúa bị điệu đến dinh Philatô (Lc 23,1)

Chúa chịu đánh đòn (Mt 26,67).

Chúa chịu đội mạo gai (Mt 27,29).

Chúa bị nhạo báng (Mt 27,30).

Chúa phải vác thánh giá nặng (Lc 23,26).

Và sau cùng Chúa phải chịu đóng đinh vào thập giá (Lc 23,33).

Tất cả những điều này đã làm lu mờ sự nghiệp của Chúa: nào làm bánh hóa ra nhiều – nào kẻ mù được sáng – kẻ điếc được nghe – kẻ câm được nói – kẻ què được đi – kẻ chết sống lại với những niềm tin Người là Đấng Cứu thế muôn dân đợi trông – là Con Thiên Chúa, tất cả đều tan đi như mây khói.

Nhưng ở đời có tan thì lại có hợp, có mưa rồi lại có nắng, và có thất bại rồi mới có thành công vì như người ta nói: “Thất bại là mẹ thành công”. Nếu chỉ dừng lại ở đây thì Đức Giêsu đã thất bại hoàn toàn, bởi vì người ta thường nói: chết là hết, bao nhiêu sự nghiệp đều tiêu tan. Có biết bao nhiêu anh hùng cái thế, bao nhiêu bậc vĩ nhân trên thế giới đã làm được những công việc vĩ đại, nhưng rồi họ cũng đã ra đi, họ bị lãng quên cùng thời gian, họa chăng chỉ còn trong sử sách.

Nhưng đối với Đức Giêsu, Ngài đã thành công giữa những thất bại. Những thất bại Ngài phải chịu trong một thời gian càng làm cho thành công của Ngài thêm vinh quang. Đúng  như văn hào Corneille đã nói: “Chiến đấu có gian nan, khải hoàn mới vinh quang”. Nhìn vào cuộc tử nạn của Ngài, ta thấy Ngài thất bại hoàn toàn bởi vì bao nhiêu sự nghiệp lẫy lừng Ngài đã làm trong ba năm truyền giáo đã bị tiêu tan. Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Ngài sống lại như lời Ngài đã báo trước lúc còn sinh thời. Ngài đã sống lại, nên các sự nghiệp xem ra đã bị tiêu tan, ngày này cũng được sống lại theo và muôn đời sẽ còn ghi nhớ những công việc ấy. Ngày nay, sau 2000 năm, hằng tỷ người vẫn còn nhắc đến những sự kiện ấy, nhất là trong Tuần thánh vừa qua.

II. THẤT BẠI VÀ THÀNH CÔNG TRONG ĐỜI THƯỜNG.

1. Suy nghĩ của người đời.

Trong cuộc sống hằng ngày, không ai dám nói rằng mình chưa bao giờ gặp đau khổ, chưa bao giờ nếm mùi thất bại, chỉ có những kẻ không làm gì thì mới không thất bại. Thất bại và thành công luôn đi đôi với nhau, cũng như vinh với nhục là chị em với nhau, đã có vinh thì có nhục:

Nước dưới sông có khi trong khi đục,

Trang anh hùng có khi nhục khi vinh. (Tục ngữ)

Xưa nay biết bao người không thành công, chí không đạt được, là vì bỏ cuộc giữa đường, thất vọng tràn trề khi gặp hết tai nọ đến nạn kia. Người có chí phải bền gan gánh vác việc đời, bắt chước theo câu phương ngôn người Nhật: “Ngã xuống bảy lần, lần thứ tám đứng dậy “ mà hành động thì mới mong thành đạt.

Ngày xưa, Hán Bái Công đánh với Hạng Vũ, trăm trận đều thua, vậy mà ông vẫn không hề thối chí, cho đến khi thắng trận cuối cùng thì thành được đế nghiệp.  Lưu Bị đời Tam quốc, lúc chưa gặp thời, lang thang ở trọ hết nơi này sang nơi khác, không mảnh đất dung thân, thất bại bao phen, nhiều lần suýt vong mạng, vậy mà vẫn bền gan chịu đựng cho đến ngày làm vua một cõi. (Nguyễn văn Y, Có chí thì nên, 1971, tr 24-25)

Muốn thành công phải chấp nhận thất bại vì như người ta thường nói: “Thất bại là mẹ thành công”. Đối với người hèn kém thì thất bại là cơ hội làm cho họ nhụt chí, còn đối với người hùng thì thất bại là dịp thúc đẩy họ tiến lên hơn.

Vì thế, René Bazin, hàn lâm viện Pháp, có khuyên mọi người: “Đừng sợ thất bại. Lần thất bại thứ nhất cần phải có, vì nhờ đó mà ý chí ta thêm cứng cát. Lần thất bại thứ hai có thể có ích. Bị bại lần thứ ba mà anh vẫn đứng vững, thì anh thật là một người..., anh như chùm nho chín ở trên đá sỏi: Không có thứ nho nào ngọt hơn nữa”.

Hòn sỏi nào tròn trịa trơn láng mà chẳng phải chịu biết bao nhiêu sự  cọ xát từ tháng năm này sang tháng năm khác. Con người muốn đạt được sự cao qúi của tâm hồn, học hỏi được kinh nghiệm sống, không thể chưa từng va chạm tới trăm đau nghìn khổ. Xưa nay anh hùng hào kiệt, chí sĩ văn gia, những bậc tài hoa dường như đều trần ai như thế cả. Nếu mỗi lần gặp gian nguy, trở ngại mà lùi lại thì bao giờ mới đặt chân  được đến đài vinh quang  (Sđd, trang 27).

Cũng trong tư tưởng ấy, Abraham Lincoln nói: “Điều mà tôi muốn hiểu trước hết, không phải là anh có thất bại không, mà là anh có biết chấp nhận sự thất bại của anh không”.

Ông Henry Ford cũng khuyên: “Một cuộc thất bại chỉ là cơ hội để thử lại lần thứ nhì với nhiều khôn ngoan hơn”.

2. Chuyển bại thành thắng.

Trong cuộc sống thường ngày cũng như trong đời sống thiêng liêng, chúng ta đã có kinh nghiệm: không thiếu gì thành công, nhưng cũng  chứa đầy thất bại. Có người vui sướng đón nhận những thành công và buồn rầu chấp nhận thất bại ; nhưng cũng có những con người xứng đáng là con người: đón nhận thành công nhưng cũng bình tĩnh và đôi khi vui lòng đón nhận thất bại. Đối với những con người này, họ coi thất bại chỉ là động lực khiến họ mạnh dạn tiến lên đến thành công. Thành thử, thất bại không còn gì là đáng sợ mà chỉ là cơ hội cho họ can đảm hơn.

Ai cũng đã có lần thành công mỹ mãn, nhưng cũng đã có lần gặp những thất bại chua cay. Thất bại cũng có ý nghĩa của nó.

Có hai loại thất bại:

- Thất bại khách quan (hay thụ động, tiêu cực).

- Thất bại chủ quan (hay chủ động, tích cực).

Thất bại khách quan: đó là những thất bại không thể tránh được vì nó vượt quá sức lực của con người. Đó là tình trạng bi đát, không còn cách nào tránh né và cũng không thể chỗi dậy được. Đối với những loại thất bại này, người ta chỉ thụ động chịu đựng ví dụ như bệnh tật, sa cơ thất thế, thua trận...

Thất bại chủ quan: đó là những thất bại có tính toán trước theo phương pháp: “Thả con tép, bắt con tôm” hay “Hy sinh đời bố, củng cố đời con”. Người ta sẵn sàng chịu những thất bại nhỏ để đạt tới những thành công lớn, hay ít ra chịu thất bại trước mắt để thành công trong tương lai. Như vậy, người ta không nhằm rước lấy thất bại những nhằm đón lấy thành công sau này.

- Chúng ta đã có kinh nghiệm trong thể thao: muốn nhảy xa, muốn nhảy cao, người ta phải lùi lại nhiều bước rồi mới tiến lên, mới nhảy cao, nhảy xa được, những bước lùi đó chính là những bước tiến, vì không có nó thì không thể nhảy cao, nhảy xa được.

- Trong chiến trận cũng thế: đôi khi người ta phải giả vờ thua chạy tháo lui cho quân địch đuổi theo, khi quân địch lọt vào vòng vây, khi ấy người ta mới phản công, chiến thuật này rất nguy hiểm, đã bị lọt vào trong vòng vây, quân địch không còn cách nào tháo lui được nữa và chắc chắn người ta thành công.

- Trong cuộc sống hằng ngày, người ta cần phải hiểu phương cách “Tiến thoái”. Tiến là đi lên, thoái là đi xuống hoặc rút lui. Có một sự tương quan biện chứng giữa tiến và lùi. Tiến chưa hẳn đã thắng và lùi chưa hẳn đã thua. Trong cái lùi đã có cái thắng. Như trong thể thao và trận chiến, chúng ta đã nhận thấy phải có lùi thì mới tiến được, lùi là điều kiện phải có để tiến, lùi đây là lùi chiến thuật.

Chúng ta thử xem câu nói này có đúng không? Mới đọc xem ra vô lý, nhưng nếu suy nghĩ kỹ thì câu nói ấy rất hay. Đây là một kiểu nói bắt người đọc phải động não mới tìm ra ý nghĩa của nó: “        

“Một ngàn việc tiến,

“Chín trăm chín mươi chín việc lùi,

đó là TIẾN BỘ”. (Henri Frédéric AMIEL)

III. THẤT BẠI VÀ THÀNH CÔNG TRONG ĐỜI SỐNG THIÊNG LIÊNG.

1. Chúa đã sống lại thật.

Khi còn sinh thời, Đức Giêsu đã nhiều lần loan báo trước Ngài sẽ bị bắt, đánh đòn, giết chết và sau ba ngày thì sống lại. Sự kiện tiên tri Giona nằm trong bụng cá ba ngày và việc xây đền thờ Giêrusalem  trong ba ngày đã là những hình ảnh báo trước việc Đức Giêsu sống lại sau ba ngày đã chết. Trên dương gian này, những ai đã chết là chết luôn, chỉ có Đức Giêsu mới có thể dùng quyền năng của mình mà tự sống lại.

Đức Giêsu đã sống lại thế nào? Ai đã khám phá ra điều này? Cả bốn sách Tin mừng đều tường thuật về biến cố này, nhưng đều không cho biết Đức Giêsu đã sống lại thế nào. Vì thật sự, không ai có mặt để chứng kiến biến cố lịch sử quan trọng này. Nhưng có những nhân chứng đã thấy ngôi mộ trống, họ quả quyết xác Chúa không còn trong mộ, và sau đó Chúa đã hiện ra nhiều lần với họ, xác nhận Ngài đã sống lại, đồng thời dạy bảo họ nhiều điều. Đó là các tông đồ và một số phụ nữ… những nhân chứng về sự sống lại của Đức Giêsu.

Như vậy, một điều chắc chắn: sự kiện Đức Giêsu phục sinh không thể minh chứng một cách rõ ràng như chúng ta minh chứng một biến cố, một sự kiện tự nhiên mà phải dùng đến đức tin. Cho nên, đối với chúng ta việc Chúa sống lại là vấn đề đức tin: phúc cho ai không thấy mà tin.

2. Phải sống theo niềm tin ấy.

Trong mùa Phục sinh chúng ta vẫn đọc đi đọc lại câu: “Người đã sống lại thật như lời đã phán hứa”. Chúng ta tin thật Đức Giêsu đã sống lại như lời minh chứng của Thánh Kinh, chúng ta hân hoan ca mừng việc Chúa sống lại vì Ngài đã chết để tiêu diệt sự chết và đã sống lại để phục hồi sự sống cho chúng ta. Chúng ta tin chắc như vậy! Nhưng tin như thế vẫn chưa đủ, còn phải thể hiện niềm tin ấy ra trong cuộc sống hằng ngày. Phải theo gương Đức Giêsu mà chết đi để rồi mới sống lại được. Phần thưởng của chúng ta chỉ có được sau khi đã trải qua mọi thử thách trong cuộc sống ở trần gian này: per crucem ad lucem!

a) Có những nghịch lý phải chấp nhận.

Chúng ta đã có một gương sán lạn của Đức Giêsu: Người đã chịu chết để chuộc tội cho nhân loại. Trước mặt người đời, người ta cho là Đức Giêsu đã thất bại hoàn toàn vì chết là một thất bại, mọi sự nghiệp đã tan thành mây khói. Nếu chết là hết mà không có sự sống lại thì Đức Giêsu bị thất bại hoàn toàn, nhưng sau cái chết đã có sự sống lại. Ngài đã dùng sự chết để đánh tan cái chết và sống lại để phục hồi sự sống lại cho chúng ta. Vậy Ngài đã chuyển bại thành thắng, đã thành công trong thất bại.

Trong cuộc sống của chúng ta cũng thế, chúng ta phải chấp nhận hy sinh, phải lột bỏ con người cũ đầy tội lối để mặc lấy con người mới thánh thiện. Chúng ta có chết đi cho tội lỗi thì mới hy vọng được sống lại vinh quang như lời Chúa Giêsu dã nói: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được  nhiều hạt khác” (Ga 12,24). Như vậy, chúng ta phải đón nhận những thất bại đời này để chuẩn bị cho đời sau. Đây chỉ là thất bại chiến thuật vì trong thất bại đã có chiến thắng.

Trong cuộc sống  hằng ngày, chúng ta thấy có những nghịch lý. Nghịch lý là điều thoạt xem có vẻ phi lý nhưng khi suy nghĩ kỹ thì thấy rất hợp lý. Chúng ta thấy có nghịch lý giữa “mất” và “được” hay giữa “bị” và “được”. Theo khuynh hướng tự nhiên thì ai cũng muốn “được” và sợ “mất”, muốn “sống” hơn là “chết”. Nhưng nghịch lý thay! Nhiều khi vì “được” mà phải “mất”. Ví dụ: bạn muốn cho có một mùa bội thu thì hạt giống phải “bị” mục nát ra thì mới có thể “được” một mùa bội thu, nếu không “bị” thì cũng chẳng có “được”.

Hay một ví dụ khác: trong một vụ tranh cãi bạn cố gắng dùng đủ mọi mưu mô để tranh cãi cho bằng được, kết quả là bạn thắng trong vụ cãi nhưng mất tình nghĩa bạn bè hay người thân; trái lại, nhiều khi “mất” mà lại “được”. Ví dụ: thánh Anphongsô là một luật sư nổi tiếng. Một lần kia ngài biện hộ cho một vụ kiện lớn, ngài bị thua. Thất bại ê chề hôm đó đã giúp cho ngài nhận thức rằng danh vọng thế gian chỉ là giả trá, ngài đi tìm một lẽ sống khác và trở thành một vị thánh lập dòng (Cf Carôlô).

Chúng ta cũng thấy có một nghịch lý nữa giữa “sống” và chết”. Chết và sống không phải là ø hai điều luôn đối nghịch nhau, nhiều khi chúng liên kết hỗ trợ nhau: sự chết nuôi sự sống và sự sống sống được là nhờ sự chết. Ví dụ: con vật phải chết đi mới có thịt nuôi sống con người, hay cây nến  sáp phải chảy ra và bị đốt thì anh sáng mới bùng lên soi sáng cho con người.

Đối với cái chết của Chúa trên thập giá cũng vậy. Đức Giêsu chính là Đấng mà con rắn đồng trong sa mạc là hình ảnh loan báo trước: “Khi các ông đưa Con người lên cao, các ông sẽ nhận biết Ta là ai”. Như thế việc Đức Giêsu chết trên thập giá không phải là một thất bại mà là một chiến thắng. Ngài không “bị” mà “được” đưa lên cao để trở thành nguồn ơn cứu độ cho những ai tin tưởng nhìn lên Ngài.

Vì thế, chính khi Đức Giêsu “bị” giết chết trên thập giá là lúc Ngài “được” tôn vinh và là nguồn ơn cứu độ cho nhiều người. Khi chúng ta “bị” đau khổ nhưng biết nhìn lên thập giá Đức Giêsu  là lúc chúng ta “được” cứu độ. Nhìn ngược lại ngày xưa, khi nguyên tổ tưởng mình “được” bằng Thiên Chúa thì lại “bị” đuổi ra khỏi vườn địa đàng.

Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta hãy nghiền ngẫm câu nói của Đức Giêsu: “Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”(Ga 12,25). Như vậy, chúng ta thấy rõ tương quan giữa cái “mất” và cái “còn”.

Truyện gợi ý: Phải biết tan biến đi

Nếu Đức Giêsu là người Ả rập, thì thay vì hình ảnh của hạt lúa được gieo vào lòng đất, có lẽ Ngài sẽ kể câu truyện ngụ ngôn sau đây:

Một dòng suối mát rơi từ ngọn núi, chảy qua một đồng bằng cho đến khi chạm đến một sa mạc. Tại đây, nó chợt nhận ra nước của mình bắt đầu bốc hơi và khô dần. Dù vậy, dòng nước vẫn quyết tâm băng qua sa mạc. Nó nghe có tiếng thì thầm:

- Nếu ngươi muốn, ngươi có thể băng qua sa mạc được, bởi vì gió vẫn làm được điều đó.

Dòng suối giận dữ:

- Nhưng ta có phải là gió đâu?

Nó thấy gợi ý của tiếng thì thầm là điều ngu xuẩn, nhưng tiếng nói vẫn tỏ ra kiên nhẫn:

- Gió sẽ mang ngươi đi. Dĩ nhiên với điều kiện là ngươi phải tan biến đi trong gió.

Dòng suối suy nghĩ miên man về ý nghĩa này: nó vẫn chưa hiểu được  tại sao nó phải tan biến đi, phải chăng nó phải đánh mất chính mình? Điều gì bảo đảm được rằng khi băng qua hết sa mạc, nó sẽ tìm lại được bản thân  một cách nguyên vẹn? Đọc được ý nghĩ của nó, gió mới lên tiếng

- Ngươi chỉ cần tin tưởng nơi ta, không còn cách nào khác nữa đâu.

Dòng suối vẫn tiếp tục giữ giọng kiêu hãnh:

- Đồng ý, nhưng ta không thể chấp nhận tan biến được.

Tiếng nói thì thầm giải thích:

- Ngươi không thể băng qua sa mạc mà vẫn giữ nguyên hình nguyên trạng được. Làm thế ngươi chẳng khác nào một con rắn xấu xí, nhưng nếu ngươi để cho gió mang ngươi đi xuyên qua sa mạc, thì bên kia sa mạc, ngươi sẽ hiện nguyên hình là một dòng suối xinh đẹp. Dòng suối thắc mắc:

- Vẫn một dòng suối như cũ ư?

Giọng nói giải thích:

- Dĩ nhiên, ngươi sẽ tìm gặp lại bản thân, tóm lại nếu ngươi cứ chần chừ đứng ở đây, ngươi cũng sẽ đánh mất chính mình ngươi mà thôi.

Thế là dòng suối chấp nhận biến thành hơi nước và để cho gió mang đi. Nó cùng với gió băng qua sa mạc. Và khi cả hai đến đầu ngọn núi bên kia sa mạc, gió để cho nó rơi từ từ như mưa. Không mấy chốc, dòng suối gặp lại chính nó, đẹp hơn, trong suốt hơn. (R. Veritas, Mạch nước trường sinh, tr 96-97)

Hạt lúa có được gieo vào lòng đất để thối đi mới có thể sinh hoa kếtr quả. Dòng suối có chấp nhận tan biến trong gió mới có thể gặp lại bản thân. Đây là định luật của cuộc sống thiêng liêng mà Đức Giêsu đã vạch ra cho chúng ta. Đây  là con đường siêu thoát, con đường chiến đấu, ai muốn được sự sống đời đời không thể đi theo con đường nào khác.

b) Chiến đấu không lùi bước.

Đức Giêsu đã chỉ đường dẫn lối cho chúng ta tiến tới cuộc sống đời đời. Con đường ấy là con đường khổ giá. Con đường từ bỏ, con đường siêu thoát chính mình, vì Đức Giêsu đã phán: “Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo”. Đấy là con đường một chiều, ai đã theo thì chỉ có tiến chứ không có lùi, như thế mới xứng đáng làm môn đệ của Chúa: “Ai đã tra tay cầm cầy mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa”(Lc 9,62).

Thập giá của Chúa trao không nặng lắm, luôn vừa sức ta, nhưng đòi hỏi ta phải kiên trì vác hằng ngày vì sự khốn khó ngày nào đủ cho ngày ấy. Hãy bắt tay vào việc ngay, đừng chần chừ, đừng để công việc hôm nay sang ngày hôm sau. Về vấn đề này, ta hãy nghe John Newton nói:

“Những khổ sở mà đời chúng ta phải chịu cũng giống như một bó củi rất to và rất nặng. Chắc chắn chúng ta không vác nổi. Nhưng Thiên Chúa đã thương tháo dây bó củi đó ra, rồi chia nó ra để mỗi ngày chỉ chất lên vai ta một khúc thôi. Hôm sau một khúc nữa, và hôm sau tiếp tục… Cuối cùng ta cũng vác xong hết bó củi. Nhiều người lại không làm như thế: chẳng những họ chất lên vai khúc củi của hôm nay mà còn thêm vào đó khúc củi của hôm qua và khúc củi của ngày mai. Lạ gì họ không vác nổi”.

Hãy tin tưởng cất bước, quyết không lùi trước những khó khăn. Phần thưởng chỉ dành cho những ai  chiến đấu và kiên trì cho đến cùng. Hãy tin tưởng vào Chúa, Đấng đã trải qua mọi khó khăn sẽ giúp đỡ chúng ta vượt qua mọi thử thách. Trong cuộc chiến này, chúng ta chỉ biết tiến chứ không biết lùi.

Truyện: Quên bài kèn rút lui.

Trong một trận giao tranh ác liệt giữa quân của Napoléon và quân địch, trận chiến càng về khuya càng ác liệt và phần thắng dần dần nghiêng về phía địch. Quân của Napoléon chết rất nhiều, hàng ngũ rối loạn mặc dầu cuộc chiến đấu vẫn còn tiếp tục nhưng rời rạc. Nhìn rõ thế trận, Napoléon biết phải làm gì, vua gọi tên lính thổi kèn lại gần và ra lệnh: “Hãy thổi kèn lui binh vì quân ta chết quá nhiều”.

Tên lính trẻ được lệnh, nhảy tót lên ngựa, phi nhanh ra giữa trận, và đưa kèn lên thổi hồi kèn thúc trận một cách mạnh mẽ. Quân của Napoléon đang mệt mỏi và thất vọng, nghe tiếng kèn thúc quân, tưởng có viện binh tới giúp, chồm dậy phản công kịch liệt. Kèn cứ thổi, đám tàn quân vươn mình lên vừa đánh vừa la hét. Kết quả thế trận thay đổi: quân của Napoléon toàn thắng bất ngờ. Tuy nhiên, hoàng đế Napoléon sai bắt tên lính kèn kia lại, và khiển trách y rất nặng nề về tội bất tuân thượng lệnh. Anh lính bình tĩnh tâu: “Muôn tâu đức vua, từ khi được theo bước chân ngài trong binh lửa, và chiến đấu trăm trận đều trăm thắng cho nên hạ thần đã quên hẳn bài kèn rút lui rồi”.

Muốn có chiến thắng thì phải chiến đấu. Chiến đấu càng cam go, chiến thắng càng vinh quang. Không có thành công nào mà không đòi cố gắng. Thành công của chúng ta là biết lắng nghe và thi hành thánh ý Chúa. Để giúp chúng ta biết cách kiên trì sống theo thánh ý Chúa với niềm tin tưởng trong gian truân, chúng ta hãy đọc đoạn thư của thánh Phaolo âtông đồ gửi cho tín hữu Do thái sau đây:

“Anh em đã quên lời khuyên nhủ được nói với anh em như với những người con: Con ơi, đừng coi nhẹ Lời Chúa sửa dạy, chớ nản lòng khi Người khiển trách. Vì Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho roi cho vọt. Anh em hãy kiên trì cho Thiên Chúa sửa dạy. Người đối xử với anh em như với những người con. Thật vậy, có đứa con nào mà người cha không sửa dạy? Nếu anh em không được sửa dạy như tất cả mọi người, thì khi đó anh em là con ngoại hôn, chứ không phải là con chính thức. Vả lại, chúng ta có cha trần thế sửa dạy mà chúng ta vẫn tôn kính, thì chúng ta lại càng phải tùng phục Cha trên trời để được sống. Cha trần thế sửa dạy chúng ta trong một thời gian ngắn, và theo sở thích của mình ; còn Thiên Chúa sửa dạy là vì lợi ích của chúng ta.

 

4.Niềm hy vọng Phục Sinh--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái

Lối xóm gọi anh là Tư còm vì thân hình gầy còm lại sáng, lại sáng xỉn, chiều say, tối lăn quay, ngày mai nhậu tiếp và khi nhậu say, anh chửi bới tất cả xóm làng không trừ ai. Người ta tìm hiểu được biết anh có một vợ năm con, đạp xích lô suốt ngày không đủ nuôi mấy miệng ăn. Các con anh lần lượt bỏ học vì không đủ tiền đóng học phí, nhà anh nằm trên vũng sình lầy và dột nát. Sống trong hoàn cảnh kéo dài tháng này qua năm khác như thế, anh đâm ra thất vọng nên mượn chén rượu giải sầu, nhưng chén rượu càng vơi, thì chén sầu càng đầy ắp.

Hiểu được hoàn cảnh của anh, lối xóm kẻ công người của cất lại cho anh căn nhà trên đất liền chắc chắn và kín đáo; lối xóm lại tiếp tục đem đến lon gạo, bó củi, cái nồi, cái dao, cái chén, cái tô. Thế là anh có đủ vật dụng cần thiết cho cuộc sống hàng ngày và một căn nhà đàng hoàng bảo đảm cho sức khoẻ: các con anh cũng được các bà mẹ nhận đỡ đầu và đài thọ học phí, tất cả đều được đi học trở lại. Quá cảm động trước lòng ưu ái của bà con lối xóm, anh Tư còn đã bỏ rượu hẳn và bắt đầu giữ đạo sốt sắng cùng với gia đình anh.

Theo một nghĩa nào đó, chúng ta có thể nói: anh Tư còm được phục sinh từ cõi chết của những ngày say sưa và bê trễ. Anh đã chết cho tính nghiện ngập của mình và sống lại trong tình yêu thương của Chúa và của mọi người. Chúng ta đã trải qua 40 ngày của Mùa Chay là thời gian chuẩn bị cho Phục sinh bằng ăn năn sám hối, hãm mình đền tội, thực thi bác ái. Giờ đây chúng ta sắp mừng lễ Phục Sinh. Chúng ta vui mừng vì Chúa Kitô sống lại từ cõi chết, chúng ta cũng hân hoan vì Ngài đã hứa cho chúng ta sẽ được cứu sống lại với Ngài. “Cùng chết với Ngài, chúng ta sẽ được sống lại với Ngài”. Qua việc lặp lại lời tuyên hứa khi chịu phép thanh tẩy trong nghi thức Vọng Phục Sinh, chúng ta khẳng định lại chân lý này và cố gắng mỗi ngày chết cho tội nhiều hơn để sống lại với Chúa trọn vẹn hơn. Trong biến cố Phục Sinh, với quyền năng Thiên Chúa, ngôi mộ chôn cất Chúa Giêsu đã mở ra và Ngài đã bước ra khỏi mồ. Cũng với quyền năng Thiên Chúa, những hòn đá chôn vùi cuộc đời chúng ta sẽ bị lăn đi. Đó có thể là hòn đá của ích kỷ chỉ biết đến lợi riêng của mình.

Đức Kitô Phục Sinh sẽ giúp chúng ta lăn hòn đá ấy đi để biết dấn thân phục vụ Chúa và tha nhân. Đó có thể là hòn đá tham lam, mê ăn uống đã từng đè nặng tâm hồn và thân xác chúng ta. Đó có thể là hòn đá lãnh đạm, thiếu tình thương đã ngăn cản chúng ta phục vụ Chúa và anh em. Đó có thể là hòn đá an phận, nhút nhát khiến chúng ta chỉ giữ đạo ngày Chủa Nhật qua việc đọc kinh, xem lễ. Đức Kitô Phục Sinh sẽ giúp chúng ta sống đạo, sống niềm tin, thực thi bác ái tích cực hơn. Mỗi năm khi mừng lễ Phục sinh, chúng ta chiêm ngưỡng tình thương của Thiên Chúa dành cho chúng ta, và chúng ta đón nhận sức mạnh của Đức Kitô để phá vỡ những hòn đá chôn vùi cuộc đời mình. Để thực sự sống lại với Đức Kitô, trong ngày hôm nay, chúng ta hãy tìm thời giờ sống những giây phút thinh lặng để tìm xem những hòn đá nào cần phải lăn đi, như thiếu trong sạch, lười biếng, không lương thiện, kiêu căng, giần hờn, ghen tuông. Cùng với Đức Kitô, chúng ta hãy ném nó ra khỏi cuộc đời chúng ta, để tận hưởng niềm vui Phục Sinh trọn vẹn hơn. Nhưng Phục Sinh cuộc đời mình mà thôi chưa đủ, mỗi người chúng ta còn có bổn phận giúp thân nhân, bạn hữu và đồng loại cùng hưởng ơn Phục sinh.

Chúa đã chết để cho chúng ta được sống, chúng ta quyết tâm tiếp tục cuộc sống của Chúa: dám sống cho một niềm vui và dám chết cho một cuộc tình. Tin vào tình thương của Chúa, chúng ta xin tận hiến cuộc đời để sống trọn vẹn luật yêu thương: yêu Chúa và thương anh em.

 

5.Sứ điệp của Chúa Phục Sinh--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái

Bài Phúc Âm đêm vọng Phục Sinh tường thuật lại sự kiện các phụ nữ đến thăm mộ Chúa từ sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần. Các bà chứng kiến cảnh tảng đá đậy cửa mộ bị lăn ra ngoài và thi hài Chúa Giêsu không còn ở đó nữa. Thấy vậy các bà rất phân vân, lo sợ. Tuy nhiên Thiên Thần trấn an các bà “Tại sao các bà tìm người sống nơi những kẻ chết? Người không còn ở đây. Người đã sống lại...

Nhờ đó các bà tin nhận Chúa đã Phục Sinh. Các bà hân hoan trở về báo tin cho các tông đồ, dù rằng các ông vẫn còn nghi ngờ.

Trình thuật của bài Phúc Âm Phục Sinh tối nay muốn gởi đến chúng ta hai sứ điệp quan trọng sau.

Sứ điệp I: Chúa Phục Sinh mang đến niềm vui.

Trước nỗi lo sợ hoang mang của các bà phụ nữ, Thiên Thần Chúa đã trấn an các bà: “Người không còn ở đây. Người đã sống lại”...

Biến cố Chúa Giêsu chịu chết, đã gây nên cho các bà phụ nữ cũng như hầu hết các tông đồ một nỗi hoang mang và lo sợ. Chính vì thế mà ngay khi Phục Sinh, Chúa muốn trấn an họ bằng cách làm cho các bà phụ nữ nhớ lại Lời Người đã nói khi còn sống: “Con Người phải bị nộp vào tay những kẻ tội lỗi, bị đóng đinh vào thập giá và ngày thứ ba sẽ sống lại”. Nhất là qua sự kiện ngôi mộ trống và lời xác minh của các Thiên Thần, các bà đã tin nhận Chúa đã sống lại.

Như thế, sự kiện Chúa Phục Sinh mang đến cho các bà phụ nữ cũng như cho tất cả chúng ta một sứ điệp lớn lao, sứ điệp của niềm vui.

Vui bởi lẽ từ nay thập giá sẽ trở thành Thánh Giá vinh quang.

Vui bởi lẽ người đời chỉ có thể giết được thân xác, nhưng không giết được linh hồn.

Vui bởi vì từ nay các thế lực thống trị trần gian: Ma quỷ, thế gian, thần chết đã bị đánh bại nơi Đức Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh. Do đó ai tin nhận Người cũng sẽ có được niềm vui chiến thắng vinh quang ấy.

Sứ điệp II: Nhiệm vụ loan truyền Phúc Âm, tin mừng Chúa Phục Sinh

Sau khi nhận ra Chúa Phục Sinh, nhờ sự soi dẫn của các Thiên Thần và Lời Chúa đã nói, các bà như được thúc đẩy để thực thi sứ mạng loan truyền Phúc Âm. “Bỏ mồ đi về, các bà tường thuật lại tất cả sự việc cho mười một Tông đồ và các người khác”.

Tin mừng Chúa Phục Sinh phải được loan báo cho mọi người, đó là lệnh truyền của Chúa Giêsu: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ loan truyền Phúc Âm” (Ga 10,27).

Chúa Giêsu đã chịu khổ hình, chịu chết trên Thánh Giá và đã Phục Sinh để đem lại sự sống đời đời cho chúng ta. Đó là tin mừng lớn lao mà chúng ta phải tin nhận và loan báo cho mọi người.

 

6.Lửa và Ánh sáng--Lm Giuse Đinh Tất Quý

Trong nghi thức Phụng vụ Vọng Phục Sinh đêm nay, Giáo Hội hướng chúng ta về Lửa và Ánh sáng. Lửa và ánh sáng là hai yếu tố rất quan trọng và rất cần thiết trong cuộc sống của chúng ta.

Cách đây hơn 8.000 năm, con người chưa khám phá ra lửa. Không có lửa, cuộc sống con người thật tăm tối và bấp bênh.

Đầu thập niên 80, bên Mỹ người ta trình chiếu rộng rãi một bộ phim dị thường mang tựa đề là “Săn tìm lửa”(Quest for fire). Trong bộ phim này, nhà sản xuất đã cho người xem được chứng kiến một cảnh hết sức vui mừng khi người ta khám phá ra lửa lần đầu tiên trên trái đất này. Chính lửa đã giúp cho những con người trên hành tinh này khỏi bị tiêu diệt hoàn toàn.

Nếu không có lửa không biết cuộc sống của chúng ta sẽ ra sao.

Bên cạnh ngọn lửa, trong đêm cực thánh này Giáo Hội còn đề cao Ánh sáng.

Không có Ánh sáng, thế giới sẽ sống trong tăm tối. Ánh sáng giữ một vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ và phát triển của tất cả các tạo vật có sự sống trên trái đất này.

Bài Sách Thánh thứ 1 trong sách Sáng thế Ký chúng ta vừa nghe thuật lại việc Thiên Chúa tạo dựng nên vũ trụ. Không phải vô tình mà tác giả Sách Thánh đã đặt ánh sáng là yếu tố đầu tiên được Thiên Chúa tạo dựng nên trong chương trình sáng tạo của Người. Ánh sáng được tạo dựng nên trước tất cả mọi tạo vật khác kể cả con người. Tác giả Sách Thánh có lý do để trình bày thứ tự ưu tiên như thế.

Không có lửa và ánh sáng, giá lạnh và bóng tối sẽ ập xuống và tiêu diệt tất cả các mầm sống trên hành tinh trái đất này. Chúng ta không thể tưởng tượng được một cuộc sống mà không có lửa và ánh sáng.

Vậy thì khi Giáo Hội đem Lửa vá Ánh sáng vào đêm Vọng Phục Sinh mừng Chúa sống lại, Giáo Hội muốn cho chúng ta nhận ra sự thật này: Sự sống, nhất là sự sống đời đời của chúng ta lệ thuộc vào Thiên Chúa. Nếu con người không thể sống mà không có lửa và ánh sáng thì cuộc sống siêu nhiên của chúng ta cũng không thể có và không thể tồn tại nếu không biết lệ thuộc vào Thiên Chúa.

Nhiều người ngày hôm nay đã quên hay cố tình quên đi sự thật đó.

Vũ trụ này đã không phải tự nhiên mà có. Khoa học đã cho chúng ta thấy điều đó. Vũ trụ này đã có một sự khởi đầu.

Con người cũng không phải tự nhiên mà có. Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người chúng ta, tạo dựng nên từ tro bụi.

Chính Thiên Chúa cho con người sự sống và chính Người gìn giữ sự sống của con người. Từ bụi đất Chúa đã làm nên chúng ta và vì yêu thương, Thiên Chúa cho chúng ta được chia sẻ sự sống của Người.

Tội lỗi đã làm cho sự sống của Chúa nơi chúng ta bị mất đi. Dù chúng ta có phản bội, tình yêu của Người vẫn tồn tại.

Một lần nữa, Thiên Chúa lại cho chúng ta thấy Tình yêu của Người. Người đã sai Con của Người xuống cõi trần ai làm người và chịu chết để chuộc tội cho chúng ta.

Bằng sự Phục Sinh của Đức Giêsu Kitô, Người muốn cho chúng ta được quyền chia sẻ lại sự sống của Người nếu chúng ta biết chết đi cho con người tội lỗi của mình, để phục sinh lại trong con người mới với Đức Kitô.

Chính sự Phục Sinh của Đức Kitô bảo đảm sự sống đời đời cho chúng ta.

Hãy sống lại với Chúa Giêsu trong con người mới: Con người thánh thiện, nhân từ, đầy lòng yêu thương, để xứng đáng với ơn Chúa cứu chuộc và Tình thương của Người.

Một thương gia theo Ấn giáo sống tại Ấn Độ, một lần kia đã hỏi một nhà truyền giáo Kitô Giáo:

- Ông có thoa cái gì trên mặt ông không mà lúc nào tôi thấy mặt ông cũng rạng rỡ thế?

Ngạc nhiên quá, vị giáo sĩ trả lời:

- Tôi có thoa gì đâu!

Ông nhà buôn nhấn mạnh:

- Có, chắc chắn mà! Tôi thấy hầu hết những người tin Chúa Giêsu đều có vẻ mặt tươi sáng tương tự như Ngài. Tôi đã thấy những người đó tại thành phố Agra và Surat và ngay cả thành phố Bombay này nữa.

Thình lình vị giáo sĩ hiểu ra và hối hả trả lời: “Bây giờ tôi hiểu ông nói gì rồi và tôi xin cho ông biết bí quyết của chúng tôi. Đây không phải là những gì chúng tôi thoa từ bên ngoài, nhưng là những gì phát xuất từ bên trong. Đó là sự phản chiếu ánh vinh quang Thiên Chúa trong lòng của chúng tôi”.

Hãy tin tưởng vào Chúa và hãy thanh thản bước đi an bình giữa một thế giới đầy dẫy những cạm bẫy và bất trắc này, vì Chúa Phục Sinh đang đồng hành cùng chúng ta trong cuộc sống này. Amen.

 

7.Vượt qua--Lm Giuse Đinh Tất Quý

I. Đêm nay là đêm Vượt qua.

Bài đọc thứ nhất Chúa tạo dựng lên trời đất: Vượt qua từ không sang có.

Bài thứ hai câu truyện của Abraham: Vượt qua từ con người ích kỷ, chỉ biết sống cho mình với ý riêng của mình để sống cho Thiên Chúa.

Bài thứ ba kể lại chuyện người Do thái vượt qua Biển đỏ: Trước khi vượt qua Biển đỏ họ sống một cuộc sống nô lệ. Khi vượt qua Biển đỏ họ bắt đầu bước vào cuộc sống sống tự do.

Bài Thánh thư Thánh Phaolô: Vượt qua tội lỗi bước vào đời sống ơn sủng.

Bài Phúc Âm: Chúa Giêsu vượt qua từ sự chết bước vào sự sống. Đây là cuộc vượt qua hoàn hảo nhất, trọn vẹn nhất.

Mọi cuộc vượt qua…như vượt qua từ không sang có, từ con người ích kỷ sang cuộc sống quảng đại hiến thân, từ nô lệ sang tự do, từ tội lỗi sang đời sống ân sủng, từ cái chết bước vào sự sống đều đòi hỏi một sự giã từ, giã từ một cái gì đó bất toàn để bước sang một sự hoàn hảo hơn. Việc giã từ như thế không phải lúc nào cũng suông sẻ, không phải lúc nào cũng dễ dàng nhưng rất nhiều khi nó đòi hỏi đến mức độ phải hy sinh, phải quên mình, có khi phải trả bằng cả một cuộc sống đầy máu. Chúng ta hãy nhìn cảnh Abraham đau xót như thế nào khi dẫn đứa con duy nhất của mình lên núi để tế lễ cho Thiên Chúa! Chúng ta hãy nhìn cảnh những người Do thái phải điêu đứng trả giá như thế nào trong suốt 40 năm trời ở sa mạc để rồi sau đó mới được vào đất hứa. Và chúng ta hãy nhìn xem Chúa Giêsu Chúa của chúng ta đã phải trả giá như thế nào để có được sự Phục Sinh vinh hiển hôm nay.

II. Vâng! Một con tằm phải trải qua đau đơn để tự chui ra khỏi cái kén và trở thành con bướm biết bay. Một hạt giống nằm sâu trong lòng đất nảy mầm phải tự vươn thẳng lên xuyên qua tầng đất dày để thành cây cứng cáp.

Con tằm nào được người ta cắt vỏ kén chui ra sẽ chỉ mãi bò quẩn quanh cái kén mà không bao giờ thành loài bướm biết bay được.

Hạt giống nằm trên mặt đất dễ dàng nảy mầm nhưng rồi sẽ bị bật gốc ngay khi gặp cơn giông tố.

Con người không thể chọn cho mình nơi sinh ra, nhưng có thể tự chọn cho mình một cách sống; rèn luyện cho mình khả năng chịu đựng để trở thành một con người có bản lĩnh với một ý chí mạnh mẽ đã được tôi luyện qua thử thách, khó khăn, bất hạnh và có khi cả thất bại. Thất bại, bất hạnh có thể là điều tuyệt vọng với người này nhưng có thể là may mắn với người khác - tùy vào cách họ đón nhận một cách dũng cảm để vượt qua hay tự thương thân trách phận mình mà gục ngã.

Một cậu bé 10 tuổi quyết định học môn võ judo cho dù cánh tay trái của cậu đã mất trong một tai nạn xe hơi. Cậu theo học judo với một võ sư Nhật. Vì tin rằng mình đã học tập rất chuyên cần và tiến bộ nên cậu vô cùng thắc mắc tại sao sau ba tháng tập luyện mà thầy chỉ dạy cho mình có mỗi một thể võ duy nhất.

Cuối cùng, không kiên nhẫn nổi nữa, cậu bé hỏi thầy:

- Thưa thầy, chẳng lẽ con không thể học thêm được một thể võ nào khác nữa sao?

Ông trả lời:

- Đây là thể võ duy nhất thầy dạy con, và đây cũng chính là thế võ duy nhất mà con cần phải học.

Tuy không hiểu hết lời thầy nhưng tin tưởng ở thầy, cậu bé tiếp tục tập luyện.

Nhiều tháng sau, võ sư dẫn cậu đi tham dự một cuộc thi Judo. Cậu bé rất ngạc nhiên khi thấy mình thắng dễ dàng trong hai trận đầu. Trận thứ ba khó khăn hơn một chút nhưng sau một hồi, đối phương mất kiên nhẫn trong các đòn tấn công, cậu bé đã khéo léo sử dụng thể võ và chiến thắng. Vẫn chưa hết ngạc nhiên vì thành công của mình, cậu tự tin bước vào trận chung kết.

Lần này đối thủ của cậu là một võ sinh cao lớn, to khỏe và dày dạn kinh nghiệm hơn. Vào trận không lâu, cậu bé đã liên tiếp trúng đòn và hoàn toàn bị đối phương áp đảo. Hết hiệp đầu, sợ cậu bé bị thương, trọng tài ra hiệu để kết thúc trận đấu sớm nhưng người thầy của cậu không đồng ý:

- Cứ để cậu bé tiếp tục. - Võ sư yêu cầu.

Ngay sau khi trận đấu bắt đầu lại, đối phương phạm phải sai lầm nghiêm trọng: anh ta coi thường đối thủ và mất cảnh giác. Ngay lập tức cậu bé dùng thể võ duy nhất của mình quật ngã đối phương và khóa chặt anh ta trên sàn. Cậu bé đã đoạt chức vô địch.

Trên đường về, hai thầy trò ôn lại các thế đánh trong từng trận đấu. Lúc này cậu bé mới thu hết can đảm nói ra cái điều ám ảnh trong đầu mình bẩy lâu nay:

- Thưa thầy, làm sao con có thể trở thành vô địch chỉ với một thể võ như thế?

- Con chiến thắng vì hai lý do. - Người thầy trả lời - Lý do thứ nhất, con gần như đã làm chủ được một trong những cú đánh hiểm và hiệu quả nhất của môn võ này. Lý do thứ hai, cách duy nhất mà đối thủ của con có thể phá được thể võ đó là họ phải giữ chặt cánh tay trái của con lại - mà con lại không có tay trái.

Vâng! Đôi khi một điểm yếu của ai đó lại trở thành điểm mạnh vững chãi nhất của họ. Có ưu điểm là một điều tốt nhưng nếu có thể biến khuyết điểm thành lợi thế lại càng là một điều kỳ diệu hơn. Hãy tin vào chính mình, chúng ta có thể làm được tất cả!

Martha Washington: "Phần lớn hạnh phúc hay bất hạnh được quyết định bởi tính cách của chúng ta chứ không phụ thuộc vào hoàn cảnh."

Lạy Chúa Giêsu Chúa đã làm người và sống cuộc sống làm người của chúng con. Nhìn vào cuộc sống làm người của Chúa trên trần gian, chúng con thấy Chúa đã gặp quá nhiều bất hạnh, khó khăn, đau khổ và cả sự chết nữa nhưng Chúa đã vượt qua tất cả… vượt qua để bước vào vinh quang.

Xin Chúa giúp cho chúng con cũng biết sống như Chúa, biết cố gắng vượt qua những khó khăn thách đố… để sau này chúng con cũng được tham dự vào sự vinh quang với Chúa. Amen.

 

8.Sống và loan báo tin mừng Phục Sinh Vọng Phục Sinh A--Lm. Đan Vinh

(St 1,1.26-31a ; Xh 14,15-15,1a ; Ed 36,16-17a.18-28 ; Rm 6,3-11; Mt 28,1-10)

I. HỌC LỜI CHÚA

1. TIN MỪNG: Mt 28,1-10

(1) Sau ngày sa-bát, khi ngày Thứ Nhất trong tuần vừa ló dạng, bà Ma-ri-a Mác-đa-la và một bà khác tên là Ma-ri-a, đi viếng mộ. (2) Và kìa, đất rung chuyển dữ dội, Thiên thần Chúa từ trời xuống, đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi lên trên. (3) Diện mạo người như ánh chớp, và y phục trắng như tuyết. (4) Thấy người, lính canh khiếp sợ, run rẩy và hóa ra như chết. (5) Thiên thần lên tiếng bảo các phụ nữ: “Phần các bà, các bà đừng sợ! Tôi biết các bà tìm Đức Giê-su, Đấng bị đóng đinh. (6) Người không có ở đây, vì Người đã chỗi dậy như Người đã nói. Các bà đến mà xem chỗ Người đã nằm, (7) rồi mau về nói với môn đệ Người như thế này: “Người đã chỗi dậy từ cõi chết, và kìa Người đi Ga-li-lê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người. Đấy, tôi xin nói cho các bà hay”. (8) Các bà vội vã rời khỏi mộ, tuy sợ hãi, nhưng cũng rất đỗi vui mừng, chạy về báo tin cho môn đệ Đức Giê-su hay. (9) Và kìa Đức Giê-su đón gặp các bà và nói: “Chào chị em!” Các bà tiến lại gần Người, ôm lấy chân, và bái lạy Người. (10) Bấy giờ Đức Giê-su nói với các bà: “Chị em đừng sợ! Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Ga-li-lê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó”.

2. Ý CHÍNH:

Vào lúc bình minh ngày thứ nhất trong tuần, do lòng mến thôi thúc, bà Ma-ri-a Mác-đa-la và một bà Ma-ri-a khác đã cùng đi thăm mồ Đức Giê-su. Nơi đây, các bà đã chứng kiến một trận động đất và cảm thấy sợ hãi khi nhìn thấy thiên thần hiện ra. Thiên thần đã trấn an các bà và loan báo Tin Mừng Chúa Giê-su đã phục sinh. Thiên thần còn trao cho các bà sứ mệnh: hãy loan báo Tin Mừng ấy cho các tông đồ. Các bà vui vẻ thi hành và sau đó các bà còn được chính Chúa Phục Sinh hiện ra. Một lần nữa, Người lại trao sứ mệnh cho các bà: “Chị em đừng sợ! Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Ga-li-lê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó” (10).

3. CHÚ THÍCH:

- C 1-3: + Sau ngày Sa-bát: Về thời gian các bà ra thăm mộ Chúa thì có người cho rằng vào lúc chập tối thứ bảy, tức là bắt đầu ngày thứ nhất trong tuần. Nhưng hầu hết các ý kiến đều dựa theo Tin Mừng Lu-ca và Mác-cô để quả quyết rằng: các bà đến thăm mộ vào lúc tảng sáng ngày đầu tuần, tức là lúc mặt trời sắp mọc (x Lc 24,1). + Bà Ma-ri-a Mác-đa-la và một bà khác cũng tên là Ma-ri-a: Đây là những phụ nữ đã chứng kiến việc an táng Đức Giê-su (x Mt 27,61). Khi ghi lại việc đến mộ này, Mát-thêu nhằm nhấn mạnh các bà như là nhân chứng của mầu nhiệm Phục Sinh, đang khi Mác-cô và Lu-ca lại trình này khía cạnh nhân bản: ra thăm mộ và mang theo dầu thơm để tiếp tục công việc ướp xác Đức Giê-su (x Mc 16,1; Lc 24,1). + Đất rung chuyển dữ dội: Chỉ Tin Mừng Mát-thêu ghi lại chi tiết “đất chuyển mạnh" như câu này và ”màn Đền Thờ bị xé, đất rung đá vỡ, mồ mả bật tung” xảy ra sau khi Đức Giê-su trút linh hồn trên cây thập giá (x. Mt 27,51-52). Những sự kiện này đều tiên báo cho “Ngày của Đức Chúa” do các Ngôn sứ đã tuyên sấm (x Is 26,19; Ed 37,12; Đn 12,2). + Thiên thần Chúa từ trời xuống, đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi lên trên: Tảng đá được lăn ra ở đây có thể là do đất động, nhưng đã được gán cho thiên thần. Việc thiên thần xuất hiện lăn tảng đá và ngồi lên trên, cho thấy sức mạnh của Thiên Chúa đã chiến thắng mọi dự tính của con người, khi họ muốn chôn Đức Giê-su và công trình cứu độ của Người trong mồ đá (x Mt 27,66). + Diện mạo Người như ánh chớp và y phục trắng như tuyết: Vẻ sáng láng của diện mạo và y phục trắng như tuyết là đặc điểm của cuộc thần hiện trong Thánh Kinh. Chẳng hạn: Trong sách Đa-ni-en, dung mạo Con Người giống như ánh chớp (x Đn 10,6), áo của Đấng Lão Thành trắng tinh như tuyết (x Đn 7,9), và khi biến hình, dung mạo Đức Giê-su cũng chói lọi như mặt trời, y phục Người trắng tinh như ánh sáng (x Mt 17,2).

- C 4-7: + Thấy người, lính canh khiếp sợ: Sự xuất hiện của thiên thần làm cho lính canh hoảng sợ, vì được tiếp xúc với thế giới thần thiêng, giống như các Tông đồ đã từng khiếp sợ khi thấy Đức Giê-su đi trên mặt biển đến với các ông giữa đêm khuya (x. Mt 14,26). + Các bà đừng sợ: Thiên thần trấn an các bà. Lính canh phải sợ hãi chứ các bà việc chi phải sợ! + Các bà tìm Đức Giê-su, Đấng bị đóng đinh: Có sự song đối giữa “Đấng bị đóng đinh” với Tin Mừng “Người đã chỗi dậy”, hầu ứng nghiệm lời Người đã tiên báo là sẽ “Qua đau khổ để vào vinh quang” (x. Mt 16,21). + Các bà đến mà xem chỗ Người đã nằm: Các phụ nữ này được mời đến kiểm chứng nơi Đức Giê-su đã nằm để thấy lời thiên thần nói là xác thực. + Rồi mau về nói với môn đệ Người: Các bà được vinh dự nhận trách nhiệm mang sứ điệp Chúa Phục Sinh cho các môn đệ (x Mc 16,7). Ở đây Mát-thêu nhấn mạnh vì là sứ điệp quan trọng, nên các bà phải lập tức thi hành. + Và kìa Người đi Ga-li-lê trước các ông: Thiên thần nhắc lại lời tiên báo của Đức Giê-su về việc Người sẽ từ cõi chết sống lại và sau đó thiên thần còn cho biết Người hẹn sẽ gặp lại các ông tại xứ Ga-li-lê (x Mt 26,32).

- C 8-10: + Các bà vội vã rời khỏi mộ, tuy sợ hãi, nhưng cũng rất đỗi vui mừng: Các phụ nữ tuy sợ nhưng lại rất phấn khởi, và lập tức thi hành sứ mệnh được trao phó. + Chào chị em: Lời chào nói lên niềm vui ơn cứu độ do Chúa Phục Sinh mang lại, giống như lời sứ thần Gáp-ri-en chào khi truyền tin cho Đức Ma-ri-a (x Lc 1,28). + Các bà tiến lại gần Người, ôm lấy chân và bái lạy Người: Cử chỉ bái lạy để biểu lộ đức tin trước đó đã được nhiều người thể hiện với Đức Giê-su (x Mt 8,2; 9,18; 14,33). Nhưng ở đây được các bà làm cách trang trọng, kèm theo cử chỉ hôn chân biểu lộ lòng yêu mến kính phục của môn đệ được gặp lại Thầy sau những ngày buồn sầu thất vọng. + Chị em đừng sợ: Đây là lời trấn an của Chúa dành cho các môn đệ đang bị khiếp sợ khi phải đối diện với thần thiêng.

4. HỎI ĐÁP: Chúa PS đã hiện ra bao nhiêu lần với các môn đệ trước khi lên trời?

ĐÁP:

Về các cuộc hiện ra của Chúa Giê-su Phục Sinh thì các Tin Mừng không nhất trí với nhau. Tuy nhiên, chúng ta cần lưu ý là các tác giả Tin Mừng đều không muốn kể lại toàn bộ các lần Chúa đã hiện ra sau khi từ cõi chết chỗi dậy. Ta chỉ có thể so sánh giữa nhiều đoạn văn của Tân Ước với nhau, để phỏng đoán: trong thời gian bốn mươi ngày trước khi lên trời, Chúa Phục Sinh đã hiện ra nhiều lần chứ không phải chỉ vài ba lần như đã được kể lại (x Cv 1,8; 13,31; 1 Cr 15,3-8). Riêng Mát-thêu, vì viết theo lối giản lược, nên đã bỏ qua nhiều hoàn cảnh và nhiều chi tiết cụ thể các lần Chúa hiện ra trước đó, mà chỉ muốn nhấn mạnh đến sự kiện Chúa Phục sinh tại Ga-li-lê để chính thức sai các Tông đồ đi rao giảng Tin Mừng mà thôi (x. Mt 28,16-20).

II. SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: Thiên thần lên tiếng bảo các phụ nữ: “Mau về nói với môn đệ Người như thế này: Người đã chỗi dậy từ cõi chết, và kìa Người đi Ga-li-lê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người” (6b-7).

2. CÂU CHUYỆN:

1) BÉ SƠ SINH CHẾT ĐƯỢC SỐNG LẠI NHỜ LỜI CẦU NGUYỆN:

Vào tháng 10 năm 1995, tại vùng Hồ Lớn ở miền Đông Bắc nước Mỹ, giáp ranh với Ca-na-đa, một câu chuyện xảy ra làm sửng sốt nhiều người: Một bé sơ sinh đã chết và sau đó nhờ lời cầu nguyện của cha mẹ và người thân, đã được Chúa cho sống lại như sau:

Bà TAN-MƠ (Tanmer) mẹ của bé RƠ-GHEO (Reugel) xúc động, kể lại như sau: “Đây là một món quà của Thiên Chúa đã ban cho gia đình tôi. Khi mới mang thai Rơ-gheo, mọi chuyện đều diễn ra bình thường. Các bác sĩ đã theo dõi tôi chặt chẽ, vì cháu lớn của tôi đã từng bị chết khi vừa ra đời. Qua kết quả kiểm tra thai nhi ngay trước khi lọt lòng mẹ thì tim cháu vẫn đập bình thường. Thế nhưng chỉ ít phút sau, cháu đã ra đời trong tình trạng tim bị ngừng đập. Lập tức các bác sĩ đã tìm cách cấp cứu, nhưng sau khi làm hết cách mà vẫn không kết quả, họ đành chịu bó tay, và ra lệnh cho hộ lý vào lau rửa và bọc cháu trong một chiếc khăn lông, rồi đặt nằm trong nôi để cha mẹ và các người thân vào chào từ biệt, trước khi nhà đòn đến liệm xác cháu rồi đem đi chôn. Bấy giờ cả gia đình tôi đều rất đau khổ. Bà ngoại là người cuối cùng bế cháu trong lúc mọi người sốt sắng cầu nguyện xin Chúa cho cháu được sống lại. Ít phút sau, bà ngoại phát hiện ra cháu vừa nấc lên một cái và thở mạnh. Bà nói to trong niềm vui: “Ồ, cháu tôi đang thở rồi này!”. Tiếng cầu kinh im bặt. Mọi người hồi hộp chạy lại gần. Bấy giờ bác sĩ trực đang ở gần đó vội chạy đến dùng ống nghe kiểm tra cháu và xác nhận cháu đã thực sự sống lại rồi. Ít phút sau phòng của bé đầy ắp người. Ai nấy đều ngạc nhiên chứng kiến sự kiện lạ lùng này trong niềm vui hân hoan khôn xiết.

2) ĐÁNH TAN BÓNG TỐI TỘI LỖI BẰNG ÁNH SÁNG TIN YÊU:

Một hôm JOHN KELLER, một diễn giả nổi tiếng được mời thuyết trình trước khoảng 100 ngàn người tại sân vận động Thành Phố Los Angeles Hoa Kỳ. Đang diễn thuyết, diễn giả bỗng dừng lại và nói: "Bây giờ xin các bạn đừng sợ! Tôi sắp cho tắt tất cả đèn trong sân vận động này". Sau đó đèn tắt và sân vận động chìm trong bóng tối dày đặc, ông John Keller nói tiếp: "Bây giờ tôi sẽ đốt lên một que diêm. Những ai nhìn thấy ánh lửa của que diêm tôi vừa đốt lên thì hãy kêu lớn: “Đã thấy!". Sau đó một que diêm được bật lên và cả sân vận động đều vang lên tiếng hô: "Đã thấy!". Sau khi đèn được bật sáng trở lại, ông John Keller giải thích: "Ánh sáng của một hành động nhân ái dù bé nhỏ như một que diêm, cũng sẽ chiếu sáng trong bóng tối của nhân loại như vậy".

Một lần nữa, tất cả đèn trong sân vận động lại vụt tắt. Một giọng nói vang lên ra lệnh: "Tất cả những ai có mang diêm quẹt hay bật lửa, xin hãy đốt cháy lên!". Bỗng chốc cả sân vận động rực sáng. Ông John Keller kết luận: "Nếu mọi người chúng ta đều hợp lực cùng nhau, sẽ có thể chiến thắng bóng tối sự dữ và sự oán thù bằng những đốm sáng nhỏ của tình thương và lòng nhân ái của chúng ta". Làm như thế, John Keller muốn gửi đến mọi người một sứ điệp: “Mỗi người là một cây đèn, cần phải được thắp sáng lên”. Nếu một ngọn đèn cháy sáng, rồi hai, rồi ba, rồi hàng trăm, hàng ngàn ngọn đèn cháy sáng, thì thế giới đang bị tối tăm bao trùm này sẽ bớt đi phần tăm tối. Nếu mọi tín hữu Ki-tô đều thắp sáng lên ngọn lửa tin yêu bằng các việc bác ái yêu thương phục vụ tha nhân, thì thế giới này sẽ nhận biết và tin yêu Thiên Chúa như lời Chúa Giê-su: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).

3. SUY NIỆM:

1) ÁNH SÁNG PHỤC SINH XUA TAN BÓNG TỐI SỰ CHẾT:

Phụng Vụ Lễ Vọng Phuc Sinh khởi đầu bằng nghi thức làm phép lửa mới và thắp nến Phục Sinh, nói lên cuộc vượt qua của Đức Giê-su từ bóng tối tử thần đến ánh sáng Phục Sinh. Đức Giê-su chính là Ánh Sáng như Người đã tuyên bố: “Tôi là ánh sáng thế gian, ai theo Tôi sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8,12). Ánh sáng đó đã được diễn tả trong nghi thức trước thánh lễ Vọng Phục Sinh hôm nay.

Lúc đầu, bóng tối bao trùm không gian nhà thờ khi các ngọn đèn đều tắt hết. Sau khi Chủ Sự làm phép lửa mới ở cuối nhà thờ, Linh mục đã dùng lửa này để thắp sáng cây nến Phục Sinh, và sau đó là nghi lễ rước nến Phục Sinh. Trong cuộc rước, Chủ sự cầm nến Phục Sinh lần lượt công bố ba lần: “Ánh Sáng Chúa Ki-tô”. Lần thứ nhất công bố ngay sau nghi thức làm phép lửa mới và mọi người đáp: “Tạ ơn Chúa”. Lần thứ hai công bố khi Chủ sự bước vào cửa chính cuối nhà thờ, và nến Phục Sinh được rước từ cuối nhà thờ đi lên cung thánh. Chủ Sự cầm cây nến cháy sáng đi đến đâu thì sẽ mồi lửa cho người đứng ở đầu các hàng ghế, người này sẽ mồi lửa sang người bên cạnh. Ánh sáng Phục Sinh dần dần lan tỏa ra cả nhà thờ. Khi rước nến Phục Sinh tới Cung Thánh, Chủ Sự sẽ quay xuống cộng đoàn long trọng công bố lần thứ ba. Bấy giờ toàn bộ ánh sáng trong nhà thờ được bật lên. Niềm vui Phục Sinh tiếp tục được thể hiện cách đầy đủ trong bài công bố Tin Mừng Phục Sinh “Mừng Vui Lên” hay “Exultet”.

2) SỐNG ĐỨC TIN VÀO MẦU NHIỆM PHỤC SINH:

Nhiều người chúng ta vẫn đang ở trong nấm mồ tội lỗi, vẫn muốn ở lì trong con người cũ cùng với các thói hư, khiến chúng ta chưa đón nhận được niềm vui của Chúa Phục Sinh. Cuộc sống của nhiều người chúng ta còn bị đè nặng bởi sự gian dối, ham mê tiền bạc của cải vật chất, khiến chúng ta không thể trở thành người loan báo tin vui phục sinh cho tha nhân chung quanh. Cuộc sống của nhiều gia đình tín hữu đang bị đè nặng bởi sự cãi vã, bị trói buộc bởi những giận hờn ganh ghét ích kỷ, khiến cuộc sống gia đình luôn bị căng thẳng. Hãy mạnh dạn bước ra khỏi những nấm mồ tối tăm ấy, để đón nhận ánh sáng phục sinh của Chúa. Hãy cầu xin Chúa Thánh Thần đến biến đổi và hướng dẫn cuộc sống của chúng ta. Thánh Thần sẽ làm cho cuộc đời chúng ta tràn ngập niềm vui Phục Sinh.

Mỗi tín hữu chúng ta không thể tuyên xưng Chúa đã phục sinh với khuôn mặt buồn rầu thất vọng. Chúng ta không thể nói về Chúa Phục Sinh khi lời nói và hành động của chúng ta thiếu sự bao dung cảm thông với nỗi đau của anh chị em chung quanh mình.

Cũng vậy, niềm tin vào Chúa Phục Sinh phải trở thành động lực thúc đẩy chúng ta canh tân đổi mới nếp sống của bản thân và gia đình mình, đem lại cho môi trường mình đang sống một sức sống mới. Hãy phá bỏ đi tảng đá của sự giận hờn thù oán đang đè nặng cuộc sống chúng ta, để chúng ta bước đi trong ánh sáng tin yêu của Chúa.

3) HĂNG SAY LOAN BÁO TIN MỪNG PHỤC SINH CHO THA NHÂN:

Phiến đá trấn ngoài cửa mộ đã không thể cầm hãm được Đức Giê-su phục sinh. Những băng vải và khăn liệm đã không thể trói buộc được Người tiếp tục ở trong mồ đá. Sự sống đã chiến thắng thần chết. Ánh sáng đã bừng lên từ bóng tối âm u. Tình yêu đã toàn thắng d ù trước đó đã bị hận thù nuốt trửng! Niềm vui Phục sinh sẽ là quà tặng bất ngờ cho chúng ta giống như Ma-ri-a Mác-đa-la đã nhận được niềm vui khi gặp Chúa Phục Sinh ở bên cạnh mồ Chúa; Như các môn đệ đã vui mừng khi gặp lại Chúa tại xứ Ga-li-lê. Điều quan trọng là chúng ta hãy noi gương Ma-ri-a Mác-đa-la, sau khi gặp Chúa Phục Sinh đã hăng hái đi báo Tin Mừng cho các Tông đồ. Còn chúng ta hôm nay sẽ làm gì để loan báo Tin Mừng Chúa Phục Sinh cho những anh em bệnh tật, nghèo đói, những người đang bị đau khổ thất vọng và mất niềm tin?

4. THẢO LUẬN: Cụ thể trong mùa Phục Sinh này, mỗi người chúng ta sẽ phải làm gì để làm chứng Chúa đã Phục Sinh cho những người bên cạnh mình?

5. NGUYỆN CẦU:

LẠY CHÚA GIÊ-SU PHỤC SINH. Xin gia tăng lòng mến trong chúng con. Chính nhờ lòng mến Chúa thôi thúc, chúng con sẽ mau mắn đi tìm Chúa nơi Sách Thánh, trong Thánh lễ và sẽ nhận biết Chúa đang hiện diện trong những người bệnh tật đau khổ, qua các biến cố may rủi xảy ra trong cuộc sống đời thường của con. Nhờ đó, chúng con sẽ vui tươi phấn khởi và nhiệt thành loan báo Tin Mừng Phục Sinh noi gương Ma-ri-a Mác-đa-la và các Tông đô khi xưa.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON

 

9.Chúa đã sống lại--‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’

Trong đoạn Tin Mừng theo thánh Gioan chúng ta vừa đọc trên đây, tác giả chỉ nhắc đến bà Maria Madalena, nhưng qua ba Tin Mừng Nhất Lãm, chúng ta biết có thêm một vài người nữ cùng ra mộ Chúa Giêsu với bà. Các bà đi đến mộ và hốt hoảng khi thấy tảng đá chặn cửa mộ đã bị mở ra. Tại sao có chuyện kỳ cục như thế? Có ai muốn phá rối chăng? Bà Maria Madalena vội vàng chạy về báo tin cho Phêrô và người môn đệ Chúa Giêsu thương mến. Hai ông hối hả chạy đến mộ, hai ông đã thấy mộ trống với các khăn liệm còn lại ở đó, nhưng họ chẳng thấy xác Ngài đâu. Nhìn thấy quang cảnh, người môn đệ Chúa Giêsu thương mến biết rằng Thầy đã sống lại như lời Thầy đã nói.

Ngôi mộ trống là một dấu chỉ mà Chúa Giêsu gửi đến các môn đệ sáng ngày hôm đó. Ðứng trước ngôi mộ trống, mỗi người có một phản ứng khác nhau. Các bà thì hoảng hốt, chạy về nhờ cậy các ông tới cứu. Ông Phêrô thì ngạc nhiên về sự việc xảy ra. Còn người môn đệ Chúa Giêsu thương mến thì tin rằng Thầy đã sống lại. Chúa đã sống lại thật. Allêluia.

Sự thật này có sức mạnh biến đổi cuộc đời chúng ta, đưa chúng ta ra khỏi bóng tối của sự sợ sệt, của nghi nan, để sống đến cùng đức tin của mình vào Chúa Kitô. Một ngôi mộ trống nhưng được giải thích bằng nhiều cách khác nhau, sẽ dẫn đến những phản ứng khác nhau.

Trong cuộc sống đức tin, mỗi người chúng ta đã nhiều lần đứng trước ngôi mộ trống của Chúa Giêsu, đó là những lần chúng ta băn khoăn đi tìm câu trả lời cho ý nghĩa đích thực của đời Kitô. Dù đã được học hỏi về đức tin Kitô, đã được nghe giảng Lời Chúa, đã được chia sẻ kinh nghiệm sống đức tin của biết bao thế hệ tín hữu, nhưng những điều ấy không miễn cho chúng ta phải đối diện với đức tin của chính mình.

Như nhóm người cùng đi đến mộ Chúa Giêsu sáng sớm hôm ấy, chúng ta cùng hiệp thông với nhau nhưng không thể quyết định thay thế cho nhau. Giáo Hội khuyên chúng ta phải trả lời những câu hỏi về đức tin đặt ra cho chính mình. Có nhiều lúc chúng ta như rơi vào đêm tối bất an, tương tự như các môn đệ trong thời gian sau biến cố tử nạn của Chúa Giêsu, chúng ta nửa tin nửa ngờ. Một mặt chúng ta biết rằng đức tin vào Chúa Kitô có sức giải thoát chúng ta khỏi vòng vây tội lỗi và mang lại cho chúng ta một cuộc sống an bình hạnh phúc. Mặt khác, chúng ta phải đối diện với những thực tế cấp bách, thực tế xem ra không trùng khớp bao nhiêu với những điều mà đức tin dạy bảo chúng ta. Ðức tin dạy chúng ta phải xây dựng hạnh phúc trên những nền tảng siêu nhiên. Thực tế lại cho thấy dường như những điều siêu nhiên chẳng giúp chúng ta đạt hạnh phúc mà đôi khi còn gây ra cho chúng ta bao nhiêu điều thiệt thòi phiền toái. Ðức tin dạy chúng ta phải tập trung đầu tư cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau, thực tế lại cho thấy mọi người đều dồn hết sức lực để xây dựng cho cuộc sống vắn vỏi ở đời này. Ai đúng, ai sai, ai khôn, ai dại? Chúng ta bối rối không biết phải theo ai bỏ ai đây? Trước những câu hỏi hóc búa này, chúng ta loay hoay tìm câu trả lời. Chúng ta cầu xin Chúa Giêsu soi sáng cho chúng ta. Nhưng có lúc, thay vì trực tiếp trả lời, Chúa Giêsu đưa chúng ta tới ngôi mộ trống của Người. Người gởi đến cho chúng ta những mật thư, những dấu chỉ, những lời nói, những biến cố đặc biệt xảy đến cho chúng ta. Muốn tìm ra lời đáp, chúng ta phải giải mã những tín hiệu này.

Khi nhìn thấy ngôi mộ trống, người môn đệ Chúa Giêsu thương mến nhanh chóng nhận ra rằng Thầy mình đã sống lại, ông không nhìn bằng đôi mắt nhưng đã nhìn bằng con tim. Tác giả Tin Mừng theo thánh Gioan đã kín đáo không nêu tên người môn đệ này, nhưng truyền thống Giáo Hội vẫn cho đó chính là tông đồ Gioan. Ông là người được Chúa Giêsu yêu thương cách đặc biệt và ông cũng đáp lại Thầy mình với tình yêu thương nồng nàn. Chính tình yêu này mách bảo cho ông biết đích xác chuyện gì đã xảy ra với Thầy. Tình yêu hun đúc niềm tin và niềm tin giữ cho tình yêu luôn kiên vững.

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, nhiều lúc con phải giải mã các tín hiệu mà Chúa gởi đến cho con trong cuộc sống. Xin Chúa giúp con luôn trung kiên trong tình yêu, để con nhanh chóng nhận ra sứ điệp mà Chúa muốn gởi đến cho con trước ngôi mộ trống của Chúa, xin cho con vững tin rằng Chúa đã sống lại thật. Allêluia.

 

10.Niềm hy vọng Phục Sinh--‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’

Lối xóm gọi anh là Tư còm vì thân hình gầy còm, lại sáng xỉn, chiều say, tối lăn quay, ngày mai nhậu tiếp và khi nhậu say, anh chửi bới tất cả xóm làng không trừ ai. Người ta tìm hiểu được biết anh có một vợ năm con, đạp xích lô suốt ngày không đủ nuôi mấy miệng ăn. Các con anh lần lượt bỏ học vì không đủ tiền đóng học phí, nhà anh nằm trên vũng sình lấy và dột nát. Sống trong hoàn cảnh kéo dài tháng này qua năm khác như thế, anh đâm ra thất vọng nên mượn chén rượu giải sầu, nhưng chén rượu càng vơi, thì chén sầu càng đầy ắp.

Hiểu được hoàn cảnh của anh, lối xóm kẻ công người của cất lại cho anh căn nhà trên đất liền chắc chắn và kín đáo; lối xóm lại tiếp tục đem đến lon gạo, bó củi, cái nồi, cái dao, cái chén, cái tô. Thế là anh có đủ vật dụng cần thiết cho cuộc sống hàng ngày và một căn nhà đàng hoàng bảo đảm cho sức khỏe; các con anh cũng được các bà mẹ nhận đỡ đầu và đài thọ học phí, tất cả đều được đi học trở lại. Quá cảm động trước lòng ưu ái của bà con lối xóm, anh Tư còm đã bỏ rượu hẳn và bắt đầu giữ đạo sốt sắng cùng với gia đình anh.

Theo một nghĩa nào đó, chúng ta có thể nói: anh Tư còm được phục sinh từ cõi chết của những ngày say sưa và bê trễ. Anh đã chết cho tính nghiện ngập của mình và sống lại trong tình yêu thương của Chúa và của mọi người.

Chúng ta đã trải qua 40 ngày của Mùa Chay là thời gian chuẩn bị cho Phục Sinh bằng ăn năn sám hối, hãm mình đền tội, thực thi bác ái. Giờ đây chúng ta sắp mừng lễ Phục Sinh. Chúng ta vui mừng vì Chúa Kitô sống lại từ cõi chết, chúng ta cũng hân hoan vì Ngài đã hứa cho chúng ta được Phục Sinh với Ngài. “Cùng chết với Ngài, chúng ta sẽ được sống lại với Ngài”. Qua việc lặp lại lời tuyên hứa sau khi chịu phép thanh tẩy trong nghi thức Vọng Phục Sinh, chúng ta khẳng định lại chân lý này và cố gắng mỗi ngày chết cho tội nhiều hơn để sống lại với Chúa trọn vẹn hơn.

Trong biến cố Phục Sinh, với quyền năng Thiên Chúa, ngôi mộ chôn cất Chúa Giêsu đã mở ra và Ngài đã bước ra khỏi mồ. Cũng với quyền năng Thiên Chúa, những hòn đá chôn vùi cuộc đời chúng ta sẽ bị lăn đi. Đó có thể là hòn đá của ích kỷ chỉ biết đến lợi riêng của mình. Đức Kitô Phục Sinh sẽ giúp chúng ta lăn hòn đá ấy đi để biết dấn thân phục vụ Chúa và tha nhân. Đó có thể là hòn đá tham lam, mê ăn uống đã từng đè nặng tâm hồn và thân xác chúng ta. Đó có thể là hòn đá lãnh đạm, thiếu tình thương đã ngăn cản chúng ta phục vụ Chúa và anh em. Đó có thể là hòn đá an phận, nhút nhát khiến chúng ta chỉ giữ đạo ngày Chúa Nhật qua việc đọc kinh, xem lễ. Đức Kitô Phục Sinh sẽ giúp chúng ta sống đạo, sống niềm tin, thực thi bác ái tích cực hơn.

Mỗi năm khi mừng lễ Phục Sinh, chúng ta chiêm ngưỡn tình thương của Thiên Chúa dành cho chúng ta, và chúng ta đón nhận sức mạnh của Đức Kitô để phá vỡ những hòn đá chôn vùi cuộc đời mình. Để thực sự sống lại với Đức Kitô, trong ngày hôm nay, chúng ta hãy tìm thời giờ sống những giây phút thinh lặng để tìm xem những hòn đá nào cần phải lăn đi, như thiếu trong sạch, lười biếng, không lương thiện, kiêu căng, giận hờn, ghen tương. Cùng với Đức Kitô, chúng ta hãy ném nó ra khỏi cuộc đời chúng ta, để tận hưởng niềm vui Phục Sinh trọn vẹn hơn. Nhưng Phục Sinh cuộc đời mình mà thôi chưa đủ, mỗi người chúng ta còn có bổn phận giúp thân nhân, bạn hữu và đồng loại cùng hưởng ơn Phục Sinh.

Chúa đã chết cho chúng ta được sống, chúng ta quyết tâm tiếp tục cuộc sống của Chúa: dám sống cho một niềm tin và dám chết cho một cuộc tình. Tin vào tình thương của Chúa, chúng ta xin tận hiến cuộc đời để sống trọn luật yêu thương: yêu Chúa và thương anh em.

 

11.Chết mà chưa chết--Lm Đaminh Đỗ Văn Thiêm

Thức đêm mới thấy đêm dài. Đêm nay sao dài đến thế! Cái bóng đen cứ mãi dày đặc trong không gian. Không chỉ trong không gian, mà còn dày đặc trong cả cõi lòng Maria Macđala. Cả đêm ngối chong đèn chờ sáng. Nỗi nhớ Thầy day dứt trong tim, không cho bà nhắm mắt, chỉ mong sao cho trời mau sáng, để chạy ù đến mộ Thầy nằm. Thầy chết! Một tai họa khủng khiếp nhất trên đời. Không! Một người hiền lành nhân ái như Thầy, quyền phép như Thầy, nhất định không thể chết. Nỗi nhớ Thầy quay quắt khôn nguôi.

Trời vừa hé sáng, không cầm lòng được nữa, Maria đã vội vã bước ra khỏi nhà; tiến thẳng tới nấm mộ của Thầy Giêsu. Đến là đến cho thỏa nỗi nhớ Thầy mà thôi, chứ cũng không hi vọng gì, vì tảng đá to đùng nằm chình ình chắn cửa, làm sao mà mở ra. Maria dừng lại. Lạ lùng chưa kìa! Hòn đá đã được lấy ra. Ngôi mộ đã được ùa đầy ánh sáng. Maria sợ. Đúng là phụ nữ. Maria không dám bước vào. Vội vã quay ra; ba chân bốn cẳng chạy về gặp Phêrô và Gioan.

Rồi cả ba cùng chạy đến mồ. Ngôi mộ trống trơn. Chúa không còn ở đó. Chỉ còn những thứ dính liền với sự chết được để lại. Đó là những băng vải, khăn che đầu. Tất cả đã được xếp lại ngọn gàng. Sự chết không thống trị được Chúa. Gã thần chết cứ ngỡ tưởng rằng: Hắn là người thắng cuộc. Hắn chưa một lần thất bại trong thời gian hành tẩu của mình. Nhưng hôm nay, hắn đã phải xoe tròn đôi mắt ngạc nhiên. Chúa đã tự mình sống lại.

Chúa sống lại. Đó là một sự thật. Một sự thật làm chứng về bản tính Thiên Chúa của Chúa Giêsu. Một sự thật, là cho khuôn mặt của gã thần chết bẽ bàng. Cái chết không còn là nỗi kinh hoàng khủng khiếp nữa, vớiChúa Giêsu đã đành, mà còn ngay cả đối với những ai tin vào Ngài nữa. như có lần Ngài đã nói: “Ta là sự sống lại và là sự sống. ai tin Ta sẽ không phải chết”.

Sự sống lại của Chúa hôm nay, mở ra cho chúng ta một sự bình tâm thanh thản. Sự chết không còn là dấu chấm lạnh lùng cho cuộc đời; mà nếu tin vào Chúa Giêsu, nó chỉ là vuông cửa nhỏ, giúp ta đi vào cõi sống. Nhưng là sự thật quan trọng không bao giờ quên được. Chỉ một mình Chúa Giêsu, là đấng duy nhất thắng được thần chết. và cũng vì thế, chỉ có ai tin và bước theo Ngài, mới không bị cái chết đe dọa, và mới tìm thấy cả sự sống vĩnh hằng cho mình.

Gợi ý

1. Trong nấm mồ hồn bạn, Chúa đang chết hay đã sống lại?

2. Bạn có quá sợ hãi, khi nghĩ về cái chết không?

(Tập San Tĩnh Tâm GP Long Xuyên 04/2011)

 

12.Chúa đã sống lại thật rồi (Mc 16, 1-8)--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

 “Mừng vui lên”, đó là lời đầu tiên của Giáo hội cất cao giọng công bố với niềm vui cả thể trong Đêm canh thức Phục sinh, đồng thời mời gọi con cái mình cùng mừng vui vì niềm vui ơn cứu độ. Chúa Kitô Vị Thủ Lãnh của chúng ta sau khi đã hiến mình chịu chết, Người đã sống lại khải hoàn và qua sự sống lại ấy, Người trao ban Sự Sống Mới cho chúng ta.

Đêm nay, chúng ta vui mừng chiêm ngắm vinh quang chiến thắng rạng ngời của Chúa Giêsu trên đau khổ và sự chết, để tất cả những ai tìm kiếm và tin vào Chúa là Chân lý thì được đời sống đời đời. Chúa Giêsu sống lại, niềm hy vọng của chúng ta. Không ai phải thất vọng, như những bà dù đã an táng Chúa, vẫn “mua thuốc thơm để đi xức xác Chúa Giêsu” (Mc 16,1) không một ai trong các bà tuyệt vọng hết.

Chúa Giêsu sống lại là một điều có thật không thể nghi ngờ. Chẳng có gì ngạc nhiên khi một sự kiện hiển nhiên từ trời, một thân xác phục sinh, các phương tiện trên mặt đất không tài nào nắm bắt được. Nhưng  từ sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, bà Maria Mađalêna, bà Maria, mẹ ông Giacôbê và bà Salômê là những chứng nhân không thể sai được, sau nhiều lần Chúa hiện ra, tất cả những ngờ vực bị loại trừ, lời thiên thần nói với các bà: “Các bà đừng sợ: Các bà đi tìm Chúa Giêsu Nadarét chịu đóng đinh, nhưng Người đã sống lại, không còn ở đây nữa. Đây là chỗ người ta đã đặt Người” (Mc 16, 6).

Vâng, Người đã sống lại rồi, hãy tìm kiếm sự hiện diện của Chúa ở đây, ngay bây giờ, giữa dân Chúa, giữa những khổ đau của Người, và hãy đi theo Chúa. Trong lá thư ngày thứ Tư Lễ Tro, Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI nói với chúng ta rằng: “Ơn cứu độ quả là hồng ân, đó là ân sủng của Thiên Chúa, nhưng nó có ảnh hưởng đến sự hiện hữu của tôi, cần có sự đồng ý của tôi, sự thật, có nghĩa là mong muốn sống như Chúa Giêsu, đi theo Người ”.

Còn sự vui mừng nào lớn hơn niềm vui Chúa sống lại, sự kiện này mang lại cho chúng ta một câu trả lời thỏa đáng về những vấn nạn của những người vẫn hỏi chúng ta: chúng ta đang chờ đợi điền gì sau cái chết? Đâu là ý nghĩa của khổ đau? Chúng ta chắc chắn rằng sau khi chết một cuộc sống mới đang chờ đón chúng ta: “Ở đó các ông sẽ thấy Người như Người đã từng nói trước” (Mc 16, 7). Thánh Phaolô khẳng định với niềm xác tín rằng: “Nếu chúng ta đã chết với Đức Kitô, chúng ta tin rằng chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người, vì biết rằng Đức Kitô, một khi từ cõi chết sống lại, Người không chết nữa, sự chết không còn làm chủ được Người nữa” (Rm 6,8-9). Khi được hỏi về ngày sau hết, người Kitô hữu phải trả lời một cách hợp lý với niềm vui và hy vọng.

Tin Mừng lễ Vọng đêm nay nhấn mạnh rằng người thanh niên tức thiên thần ngồi bên phải mộ đã nói với các bà về ý nghĩa của khổ đau, Thập giá và vinh quang: Đấng đã sống lại chính là Đấng bị đóng đinh. Saint Leo cả nói: “… (nhờ thập giá của Chúa) những người tin kín múc được sức mạnh từ sự yếu đuối, vinh quang từ sự nhục nhã, sự sống từ cái chết ”, những thập giá hàng ngày là một con đường Phục Sinh.

Phần chúng ta, “chạy ra khỏi mồ …” (Mc 16,8), trở về từ nỗi khổ đau, ngờ vực trong ta, chúng ta hãy mang đến cho những người xung quanh ta đang ở trong thung lũng đầy nước mắt niềm hy vọng và sự tự tin. Bóng tối của ngôi mộ bừng sáng lên lời hứa bất tử. Chúng ta hãy xin Chúa Giêsu hướng chúng ta dõi mắt về trời để có thế nhìn thấy Dân Vượt Qua. Chúng ta cũng cầu xin cho những ai sống trong buồn sầu của ngày “Thứ Sáu Tuần Thánh” trở thành một dân sống trong niềm vui của lễ Vượt Qua.

Mừng vui lên, vì Chúa đã sống lại thật rồi! Allêluia, Allêluia, Allêluia.

 

13.Mừng vui lên (Mc 16, 1-8)--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Đêm Canh Thức Phục Sinh là đêm trọng nhất và là đỉnh cao nhất trong Năm Phụng Vụ của Hội Thánh. Từ xa xưa, đêm nay là “đêm của Đức Chúa” (Xh 12, 42) và buổi canh thức cử hành đêm nay, tưởng nhớ đến đêm Chúa sống lại, đêm Thánh “mẹ của mọi đêm thánh” (thánh Augustinô). Vì trong đêm nay Giáo hội đợi chờ Chúa Phục Sinh và cử hành các bí tích khai tâm kitô giáo.

Đêm nay là đêm tôn vinh và cảm tạ, vì Thiên Chúa đã, đang và mãi mãi yêu thương con người, đêm nối kết trời với đất, con người với Thiên Chúa, và con người trần thế với nhau.

Lễ nghi Canh Thức long trọng đêm nay làm cho chúng ta sống lại biến cố Chúa Phục Sinh, một biến cố có tính cách quyết định và luôn thời sự, Mầu Nhiệm trung tâm của đức tin Kitô giáo. Đêm nay, vô số những cây nến phục sinh được đốt lên trong các nhà thờ tượng trưng ánh sáng Chúa Kitô đã và còn đang sáng soi nhân loại, ánh sáng không bao giờ lụi đi, ánh sáng chiến thắng bóng tối của tội lỗi và sự dữ(x. Exsultet). Còn hạnh phúc và hy vọng nào lớn lao hơn, khi Con Thiên Chúa sống lại, để tất cả những ai tin vào Người cũng sẽ được sống lại vinh quang. Vì thế Giáo hội trần thế đêm nay với niềm vui khôn tả đều đồng thanh công bố Tin Mừng Phục Sinh cho toàn thế giới: “Mừng vui lên”, mừng vui lên hỡi muôn lớp cơ binh thiền thần…Cùng vui lên hỡi các nhiệm mầu thánh này…Và vui lên, toàn trái đất…Cùng vui lên, ôi Mẹ Hội Thánh…(x. Exsultet) vì Chúa đã sống lại.

Chúa Giêsu thành Nagiarét, Ðấng chịu đóng đinh, đã sống lại từ trong cõi chết sau ba ngày bị mai táng trong mồ, đúng như lời Kinh Thánh. Lời loan báo của “một thanh niên ngồi bên phải, mặc áo dài trắng” (Mc 16, 5) làm các bà vui mừng nhưng cũng làm “các bà khiếp sợ” (Mc 16, 5). Người thanh niên đó bảo bà Maria Mađalêna, bà Maria, mẹ ông Gia-côbê và bà Salômê  rằng: “Các bà đừng sợ: Các bà đi tìm Chúa Giêsu Nadarét chịu đóng đinh, nhưng Người đã sống lại, không còn ở đây nữa ”(Mc 16, 6). Vâng Người đã sống lại rồi.

Chúng ta cứ thử tưởng tượng xem tâm tình của mấy phụ nữ đi “mua thuốc thơm để đi xức xác Chúa Giêsu. Và từ sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, khi mặt trời hé mọc, các bà đến mồ ” (Mc 16, 1-2), biết mình phận liễu đào tơ, chân yếu tay mền, khó khăn lớn nhất đối với các bà là tảng đá lấp cửa mồ, họ bảo nhau: Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mồ cho chúng ta?” (Mc 16, 3). Đang khi bàn tán như vậy thì này kìa “tảng đá đã được lăn ra bên cạnh” (Mc 16, 4). Phải nói thật là những tâm tình u buồn và chán nản vì Chúa đã chết, những tâm tình không tin và kinh ngạc vì sự việc quá bất ngờ để có thể tin thật rằng Chúa đã sống lại. Nghe tin ấy cho dù người thanh niên đã trấn an, các bà vẫn “chạy ra khỏi mồ trốn đi, run rẩy kinh hồn chẳng dám nói gì với ai vì sợ hãi” (Mc 16, 8).

Vâng, Chúa Kitô đã sống lại sáng láng bước ra khỏi mồ, sau khi tiêu diệt sự chết, bẻ gãy mọi ràng buộc của ngôi mộ. Chính vì thế mà các Thiên Thần từ trời cao đã tuyên bố: “Người đã sống lại, không còn ở đây nữa” (Mc 16, 6). Con Thiên Chúa không còn ở trong mộ, bởi vì Người không thể nào là người tù của sự chết (x. Cv 2, 24) và ngôi mộ không thể nào giữ lại “Ðấng hằng sống” (Kh 1,8), Ðấng là chính nguồn mạch của sự sống đã kết thúc cuộc hành trình nơi ngôi mộ như mọi người, nhưng Người đã chiến thắng sự chết, sống lại ra khỏi mồ. Người đã mở lòng đất và mở ra thật rộng để hướng về Trời, đưa chúng ta ra khỏi mồ tăm tối, dẫn chúng ta từ đất về trời với Chúa Cha.

Mừng vui lên, sao không thể không vui, bởi vì đêm nay Chúa Kitô ra khỏi ngục vinh thắng, đêm mà xiềng xích sự chết do Tội tổ tông gây ra bị bẻ gãy. Sự chết đó đã khiến cho bao người thất vọng, làm tiêu tán hết mọi nỗ lực của con người. Nay Con Thiên Chúa, vì yêu thương đã vâng phục, với cái giá phải trả là chết trên thập giá, để hòa giải tội nhân với Chúa, mang lại sự sống cho con người. Từ nay con người phải chết sẽ được sống, ơn làm con cái Chúa được phục hồi, sự chết sẽ không còn cơ hội để khống chế và tiêu tan những cố gắng của con người nữa. Nhờ bí tích Rửa Tội, chúng ta được kết hiệp với Chúa Kitô, sự Phục Sinh của Người trở thành sự phục sinh của chúng ta, như lời tiên tri Ezechiel đã loan báo: “Ðây, Ta mở ra các mồ mả của các người; Ta phục sinh các người từ các mồ mả, hỡi dân ta ơi, và ta sẽ dẫn các người trở lại xứ sở của Israel” (Ed 37,12). Những lời tiên tri trên có một giá trị đặc biệt trong ngày Chúa phục sinh, bởi vì hôm nay được nên trọn lời hứa của Ðấng Tạo Hóa.

Ngày hôm nay, trong thời đại chúng ta đây, thời đại bị ghi dấu bởi sự lo âu và không chắc chắn, thời đại khủng hoảng, mất niềm tin vào nhau, chúng ta được sống biến cố Phục Sinh, một biến cố đã thay đổi dung mạo cuộc đời chúng ta, đổi thay cả lịch sử nhân loại Tất cả những ai đang bị áp bức bởi những mối dây ràng buộc của đau khổ, của sự chết, đang chờ đợi niềm hy vọng từ Chúa Kitô Phục Sinh, cả đôi khi họ chờ đợi một cách vô ý thức.

Cùng với Giáo Hội, những lời của bài ca Exsultet, “Hãy vui lên, hỡi ca đoàn các thiên thần, hãy hát lên… hỡi trái đất, hãy nhảy mừng”. Biến cố Phục Sinh của Chúa bao trùm toàn thể vũ trụ, và liên kết đất trời chung lại với nhau. Một lần nữa, với những lời của bài ca “Hãy vui lên”, chúng ta có thể cao rao: “Chúa Kitô… Ðấng từ cõi chết sống lại và chiếu toả ánh sáng bình an của Người trên toàn thể nhân loại, Ðấng là Con Thiên Chúa, là Ðấng hằng sống và hằng trị mãi mãi muôn đời”. Amen.

 

14.Tin Mừng Chúa Phục Sinh (Lc 24, 1-12)-- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Mừng vui lên… vui lên, hỡi Mẹ Hội Thánh vui lên…hãy vang lên tiếng ca hát của toàn dân. Vâng đêm nay là “đêm của Đức Chúa” (Xh 12, 42), đêm Thánh ”mẹ của mọi đêm thánh” (thánh Augustinô). Đêm đêm tôn vinh và cảm tạ, vì Thiên Chúa đã, đang và mãi mãi yêu thương con người, đêm nối kết trời với đất, con người với Thiên Chúa, và con người trần thế với nhau.

Lễ nghi Canh Thức long trọng đêm nay làm cho chúng ta sống lại biến cố Chúa Phục Sinh, một biến cố có tính cách quyết định và luôn thời sự, Mầu Nhiệm trung tâm của đức tin Kitô giáo. Đêm nay, vô số những cây nến phục sinh được đốt lên trong các nhà thờ tượng trưng ánh sáng Chúa Kitô đã và còn đang sáng soi nhân loại, ánh sáng không bao giờ lụi đi, ánh sáng chiến thắng bóng tối của tội lỗi và sự dữ…(x. Exsultet). Còn hạnh phúc và hy vọng nào lớn lao hơn, khi Con Thiên Chúa sống lại, để tất cả những ai tin vào Người cũng sẽ được sống lại vinh quang. Vì thế, Giáo hội trần thế đêm nay với niềm vui khôn tả đều đồng thanh công bố Tin Mừng Phục Sinh cho toàn thế giới: “Mừng vui lên”, mừng vui lên hỡi muôn lớp cơ binh thiền thần…Cùng vui lên hỡi các nhiệm mầu thánh này…Và vui lên, toàn trái đất…Cùng vui lên, ôi Mẹ Hội Thánh…(x. Exsultet) vì Chúa đã sống lại.

Chúa Giêsu thành Nagiarét, Ðấng chịu đóng đinh, đã sống lại từ trong cõi chết sau ba ngày bị mai táng trong mồ, đúng như lời Kinh Thánh. Lời loan báo của “hai người đứng gần các bà, y phục sáng chói” (Lc 24,4) làm “các bà kinh hãi cắm mặt xuống đất” (Lc 24,5). Thấy vậy, hai người lên tiếng: “Tại sao các bà tìm người sống nơi những kẻ chết? Người không còn ở đây. Người đã sống lại”(Lc 24, 5-6). Vâng Người đã sống lại rồi.

Chúng ta cứ thử tưởng tượng xem tâm tình của mấy phụ nữ “vừa tảng sáng, đi ra mồ mang theo những thuốc thơm đã dọn sẵn” (Lc 24,1), hết sức bàng hoàng khi thấy: “Hòn đá đã lăn ra khỏi mồ?” (Lc 24,2). Nhờ lời của hai người lạ kia, các bà nhớ lại lời Người đã nói: “Con Người phải bị nộp vào tay những kẻ tội lỗi, bị đóng đinh vào thập giá và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Lc 24,7).

Vâng, Chúa Kitô đã sống lại sáng láng bước ra khỏi mồ, sau khi tiêu diệt sự chết, bẻ gãy mọi ràng buộc của ngôi mộ. Chính vì thế mà các Thiên Thần từ trời cao đã tuyên bố: “Người không còn ở đây. Người đã sống lại” (Lc 24, 6). Con Thiên Chúa không còn ở trong mộ, bởi vì Người không thể nào là người tù của sự chết (x. Cv 2, 24) và ngôi mộ không thể nào giữ lại ”Ðấng hằng sống” (Kh 1,8), Ðấng là chính nguồn mạch của sự sống đã kết thúc cuộc hành trình nơi ngôi mộ như mọi người, nhưng Người đã chiến thắng sự chết, sống lại ra khỏi mồ. Người đã mở lòng đất và mở ra thật rộng để hướng về Trời, đưa chúng ta ra khỏi mồ tăm tối, dẫn chúng ta từ đất về trời với Chúa Cha.

Mừng vui lên, sao không thể không vui, bởi vì đêm nay Chúa Kitô ra khỏi ngục vinh thắng, đêm mà xiềng xích sự chết do Tội tổ tông gây ra bị bẻ gãy. Sự chết đó đã khiến cho bao người thất vọng, làm tiêu tán hết mọi nỗ lực của con người. Nay Con Thiên Chúa, vì yêu thương đã vâng phục, với cái giá phải trả là chết trên thập giá, để hòa giải tội nhân với Chúa, mang lại sự sống cho con người. Từ nay con người phải chết sẽ được sống, ơn làm con cái Chúa được phục hồi, sự chết sẽ không còn cơ hội để khống chế và tiêu tan những cố gắng của con người nữa. Nhờ bí tích Rửa Tội, chúng ta được kết hiệp với Chúa Kitô, sự Phục Sinh của Người trở thành sự phục sinh của chúng ta, như lời tiên tri Ezechiel đã loan báo: “Ðây, Ta mở ra các mồ mả của các người; Ta phục sinh các người từ các mồ mả, hỡi dân ta ơi, và ta sẽ dẫn các người trở lại xứ sở của Israel” (Ed 37,12). Những lời tiên tri trên có một giá trị đặc biệt trong ngày Chúa phục sinh, bởi vì hôm nay được nên trọn lời hứa của Ðấng Tạo Hóa.

Ngày hôm nay, trong thời đại chúng ta đây, thời đại bị ghi dấu bởi sự lo âu và không chắc chắn, thời đại khủng hoảng, mất niềm tin vào nhau, chúng ta được sống biến cố Phục Sinh, một biến cố đã thay đổi dung mạo cuộc đời chúng ta, đổi thay cả lịch sử nhân lọai. Tất cả những ai đang bị áp bức bởi những mối dây ràng buộc của đau khổ, của sự chết, đang chờ đợi niềm hy vọng từ Chúa Kitô Phục Sinh, cả đôi khi họ chờ đợi một cách vô ý thức.

Cùng với Giáo Hội, những lời của bài ca Exsultet, “Hãy vui lên, hỡi ca đoàn các thiên thần, hãy hát lên… hỡi trái đất, hãy nhảy mừng”. Biến cố Phục Sinh của Chúa bao trùm toàn thể vũ trụ, và liên kết đất trời chung lại với nhau. Một lần nữa, với những lời của bài ca “Hãy vui lên”, chúng ta có thể cao rao: “Chúa Kitô… Ðấng từ cõi chết sống lại và chiếu toả ánh sáng bình an của Người trên toàn thể nhân loại, Ðấng là Con Thiên Chúa, là Ðấng hằng sống và hằng trị mãi mãi muôn đời”. Amen.

 

15.Vui lên đất trời. Alleluia!--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

SUY NIỆM ĐÊM VỌNG PHỤC SINH (Lc 24, 1-12)

Anh chị em thân mến, sau Nghi thức Làm Phép Lửa, Nến Phục Sinh thắp lên như sự hiện diện của chính Chúa Giêsu Phục Sinh đang ở giữa chúng ta. Nến sáng được rước vào trong nhà thờ cùng với ba lần vị chủ sự cất lên “Ánh sáng Chúa Kitô” và cộng đoàn đáp  “Tạ ơn Chúa”. Từ trong bóng tối đêm đen, Nến Phục Sinh dẫn chúng ta bước vào ánh sáng cử hành long trọng đêm Vọng Phục Sinh. Nến cháy sáng được đặt trên giá trang trọng và xông hương. Cây Nến này chính là biểu tượng trong mùa Phục Sinh. Trên thân Nến có các mẫu tự Hy Lạp: Alpha và Omega (có nghĩa là “chữ đầu” và “chữ cuối” trong bảng mẫu tự Hy Lạp), tượng trưng cho Chúa Kitô là đầu và là cuối (là nguyên thủy và cùng đích) của tất cả mọi tạo vật. Nến cũng được đánh dấu theo năm, năm nay là năm 2022.

40 ngày Chay Thánh qua đi, nay Giáo hội bước vào 50 ngày Mùa Phục Sinh và kêu gọi con cái mình nâng tâm hồn lên cùng với chư thánh chư thần, hòa mình với vũ trụ vạn vật cùng cất cao giọng hát lên bài ca tuyệt diệu  “Mừng vui lên”.

“Mừng vui lên hỡi muôn lớp cơ binh thiên thần trên trời. Cùng vui lên, hỡi những thừa tác viên này… Và vui lên, toàn trái đất vui lên … tất cả vũ trụ đều hân hoan... Cùng vui lên, ôi Mẹ Hội Thánh vui lên…khắp nơi trong cung điện này hòa vang lên ngàn muôn tiếng ca reo mừng của nhân trần”(x.Exsultet). Cả Trời Đất mừng vui.

Gợi hứng từ ánh lửa huy hoàng đang chiếu sáng toàn thể nhà thờ đây, ánh lửa đó là Chúa Kitô, chiếu soi toàn cõi nhân gian, cùng với biến cố Vượt qua của Chúa Kitô, được lồng khung trong chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa, và dưới hình ảnh của Đêm Hồng Phúc. Đây là một sứ điệp về biến cố phục sinh của Chúa Kitô và ca tụng, tạ ơn vì các kỳ công Thiên Chúa thực hiện trong đêm cực thánh này. Quả thật: “Đây là đêm mà Sách Thánh đã ghi: là đêm rực rỡ sáng như bình minh, đêm mà ánh sáng soi cho ta biết bao cảm mến sướng vui… đêm nay xua đuổi hết tội khiên, tẩy sạch vết nhơ người có tội được sạch trong, kẻ ưu phiền vui sướng hân hoan…Chính đêm nay… Chúa đã giải thoát con cái Is-ra-el thoát ly Ai-cập xưa, Chúa đã cho tiến qua Biển Đỏ vẫn khô chân. Chính đây là đêm, nhờ ánh sáng cột lửa thiêng xua tan bóng đen tội lỗi nhân gian. Đây là đêm mà hôm nay ai tin cậy nơi Chúa Ki-tô khắp trần gian được cứu thoát hết các vết nhơ và tối tăm tội khiên, được ơn thiêng, đưa về hợp đoàn cùng các thánh nhân….Đêm, xiềng xích bị bẻ tung, Đức Ki-tô ra khỏi ngục vinh thắng tiến lên… Ôi đêm hồng ân, này nối kết trời đất, kết hợp Thiên Chúa với muôn người thế chúng tôi” (x.Exsultet).

Vì thế, nhân loại đồng thanh ca lên với một điệu nhạc mang tính cánh vui tươi trang trọng, cho thấy cảnh chiến thắng oai hùng của Chúa Kitô vinh thắng: “Ôi tội Ađam thật là hồng phúc, tội đã được xóa chính nhờ sự chết Chúa Kitô! Ôi tội hồng phúc, vì cho chúng ta Đấng Cứu Chuộc rất cao sang” (x.Exsultet).

Khi hát bài ca Mừng vui lên, ánh sáng trong nhà thờ chưa được thắp hết, cảnh đêm đen còn phảng phất, điều này làm sáng tỏ thêm chiến thắng của Chúa Kitô Phục sinh. Mỗi người tham dự cầm nến sáng trong tay để nói lên niềm vui mừng và tin nhận Chúa Kitô là ánh sáng soi chiếu trần gian.

Đến phần làm phép Nước, Nến sẽ được nhúng vào nước, sau đó Tân Tòng được Rửa tội bằng Nước Phép này, những người đã chịu phép Rửa tội sau khi lặp lại lời hứa cũng được rảy trên mình cùng một nước phép này.

Này người trần hỡi hãy vui lên Al-lê-lui-a, vì Chúa đã sống lại thật rồi đem niềm vui cho thế giới. Chúa đã sống lại rồi, vinh quang tỏa lan khắp nơi. Chúa đã sống lại rồi, cho muôn người hưởng phúc quê Trời.

Mừng vui lên! Hỡi anh chị em!!! Chúa đã sống lại thật rồi. Alleluia.

Chúa Giêsu sống lại là một biến cố siêu việt, một sự kiện độc nhất vô nhị trong lịch sử loài người, nền tảng cho niềm tin của người kitô hữu chúng ta. Chúa sống lại được chứng thực, không chỉ là ngôi mộ trống, khăn liệm được xếp gọn gàng mang tính khả giác, mà là bằng chứng từ trời. Thiên Thần làm chứng tỏ tường khi nói: ”Tại sao các bà tìm người sống nới những kẻ chết? Người không còn ở đây. Người đã sống lại” (Lc 24,5-6). Và gợi cho các bà nhớ lại lời người đã nói trước: “Các bà hãy nhớ lại Người đã nói với các bà thế nào khi Người còn ở xứ Galilêa. Người đã nói: “Con Người phải bị nộp vào tay những kẻ tội lỗi, bị đóng đinh vào thập giá và ngày thứ ba sẽ sống lại”(Lc 24,7). 

Mừng vui lên, sao không thể không vui, bởi vì đêm nay Chúa Kitô ra khỏi ngục vinh thắng, đêm mà xiềng xích sự chết do Tội Tổ Tông gây ra bị bẻ gãy. Sự chết đó đã khiến cho bao người thất vọng, làm tiêu tán hết mọi nỗ lực của con người. Nay Con Thiên Chúa, vì yêu thương đã vâng phục, với cái giá phải trả là chết trên thập giá, để hòa giải tội nhân với Chúa, mang lại sự sống cho con người.

Vâng, Chúa Kitô đã sống lại sáng láng bước ra khỏi mồ, sau khi tiêu diệt sự chết, bẻ gãy mọi ràng buộc của ngôi mộ. Con Thiên Chúa không còn ở trong mộ, bởi vì Người không thể nào là người tù của sự chết (x. Cv 2, 24) và ngôi mộ không thể nào giữ lại “Ðấng hằng sống” (Kh 1,8), Ðấng là chính nguồn mạch của sự sống đã kết thúc cuộc hành trình nơi ngôi mộ như mọi người, nhưng Người đã chiến thắng sự chết, sống lại ra khỏi mồ. Người đã mở lòng đất và mở ra thật rộng để hướng về Trời, đưa chúng ta ra khỏi mồ tăm tối, dẫn chúng ta từ đất về trời với Chúa Cha.

Vậy chúng ta có thể cao rao “Vui lên Đất Trời. Allelui! Vui lên muôn dân. Alleluia! Vì Chúa đã thật phục sinh, vì Chúa sống lại hiển vinh”. Amen.

 

16.Tung hô Chúa đã sống lại thật--Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ

“Đức Kitô đã chịu khổ hình, chịu mai táng để cứu độ ta, nào ta hãy đến bái thờ Người” (Giáo đầu kinh Sáng - Phụng vụ giờ kinh)

Ngay từ chiều hôm qua - thứ Sáu Tuần Thánh, một màu tím buồn bao phủ Giáo hội: Chúa Kitô chết trên thập giá để đền tội nhân loại. Từ giờ phút đó, đến hết chiếu tối hôm nay – Thứ Bảy Tuần Thánh, Giáo hội mặc niệm cuộc thương khó Chúa Giêsu, vì thương yêu ta đã chết để chúng ta được sống. Như Tin Mừng thứ tư đã ghi lại: “Nơi Đức Giêsu bị đóng đinh có một thửa vườn, và trong vườn, có một ngôi mộ còn mới, chưa chôn cất ai. Vì hôm ấy là ngày áp lễ của người Do Thái, mà ngôi mộ lại gần bên, nên các ông mai táng Đức Giêsu ở đó” (Ga 19,41-42), chúng ta được mời gọi đến bên mồ Chúa.

Ngày thứ Bảy Tuần Thánh Giáo hội không cử hành Thánh Lễ, thinh lặng, chiêm ngắm, và suy tư bên ngôi mộ Chúa Giêsu. Mộ của Chúa như mở ra để mời gọi chúng ta mai táng vào đó tất cả những tội lỗi, thương tích, lo lắng bận tâm đầy ồn ào náo động để cùng Chúa sống lại trong cuộc sống mới…

Câu chuyện

Lửa xuất hiện và có tác dụng ngay từ thuở ban đầu của nền văn minh nhân loại. Việc tìm ra lửa, là một khám phá vĩ đại: lửa thắp sáng và giúp con người chinh phục bóng tối, lửa đốt nóng tạo ra những nguồn năng lượng để phục vụ cho cuộc sống…, lửa luôn gắn bó trong suốt chiều dài lịch sử của xã hội loài người. Hơn thế nữa, chúng ta còn một ánh lửa thiêng cần tìm kiếm, đón nhận và đốt cháy mãi trong tâm hồn như là một sức sống mới…

Không gian thật tĩnh lặng, bóng tối bao phủ và chế ngự giữa đêm khuya. Bóng tối trong Thánh Kinh mang ý nghĩa sự xấu, thuộc quyền của Satan và những thế lực chống lại Thiên Chúa. Hơn nữa, bóng tối của ngày thứ bảy sau khi Chúa chịu khổ nạn thật ảm đạm như bóng đêm của sự chết...

Bỗng một ánh lửa nhỏ bùng lên và một tiếng hát cất cao vang vọng “Ánh sáng Chúa Kitô”, rồi một lời đáp được đồng thanh vang rền “Tạ ơn Chúa”. Từ cây nến Pascal – Phục sinh, nơi xuất phát “Ánh sáng Chúa Kitô”, ngọn lửa được thắp sáng cho cộng đoàn với cây nến nhỏ cầm trong tay, và tôi chợt cảm nghiệm lời tuyên tín “Người là Ánh sáng đích thật sáng soi cho mọi người” (Ga 1,9).

Bóng tối bị đẩy lui dần dần vì có ánh lửa rực sáng lan tỏa, tử thần phải chạy trốn dưới ánh lửa lung linh.

Suy Niệm

Trên tay cầm nến sáng, chúng ta nghe tiếng hát du dương “Mừng vui lên, toàn thể thế giới hãy vui lên, trong ánh sáng huy hoàng, của Vua muôn thuở”... - lời của bài ca Exultet - Tin Mừng Phục sinh: Mừng vui lên vì Chúa chúng ta - Đức Kitô đã phục sinh, Alleluia…, Ngài đã sống lại từ cõi chết mở đường cho chúng ta đi vào sự sống bất diệt như thánh Phaolô đã chia sẻ: “bởi được thanh tẩy trong sự chết của Người, để như Đức Kitô nhờ vinh hiển của Chúa Cha mà sống lại từ cõi chết thế nào, thì cả chúng ta cũng phải sống đời sống mới như thế” (Rm 6,4).

Tâm hồn hoan ca với nến sáng trong tay, chúng ta hát tung hô Chúa đã sống lại thật Alleluia. Tôi nhớ Maria Mađalêna và các chị em lúc ban đầu đi ra thăm mộ với những bước đi nặng nề, sợ hãi… bỗng trở nên vui tươi, rạng rỡ vì đón nhận tin mừng Chúa đã phục sinh từ các thiên thần: “Sao các bà lại tìm người sống ở giữa kẻ chết? Người không còn đây nữa, nhưng đã sống lại rồi”. (Lc 24,5-6) và chính các bà cũng đã thấy Chúa (x. Mt 28,9-10). Thấy Chúa, được tiếp xúc với Ngài, tâm hồn lạnh lẽo được sưởi ấm bằng ánh sáng của Đức Kitô phục sinh, Maria Mađalêna đang than thở khóc lóc bỗng bật lên tiếng cười reo vui và chị đã đi loan báo cho các môn đệ: Thầy đã sống lại và “Tôi đã thấy Chúa!” (Ga 20,18). Chị đã thắp lên ánh sáng Phục sinh cho các ông đang bối rối hoang mang vì Thầy bị bắt, bị kết án tử thành niềm vui.

Ánh sáng Phục sinh đã đốt lên và phá tan sự tăm tối lạnh lẽo nơi ngôi mộ, đốt cháy sự buồn sầu của sự chết và thắp lên nơi tâm hồn các phụ nữ cùng các tông đồ niềm vui Phục sinh Alleluia.

Ánh sáng Phục sinh phá tan bóng đêm nghi ngờ nơi tâm hồn các tông đồ và làm phục sinh nơi các ông đức tin vững mạnh và lòng mến sắt son. Ánh lửa Phục sinh đã đốt cháy và tiêu hủy sự tuyệt vọng, đau khổ, mồ côi vì vắng bóng Thầy, mà thay vào đó là tâm hồn tràn đầy sức sống của Chúa Phục sinh, niềm hi vọng tràn đầy và hạnh phúc vô biên vì “Thầy đã Phục sinh và sống bên các ông”.

Cầm nến sáng Phục sinh trong tay, tâm hồn tôi và bạn hân hoan trong đêm hồng phúc, như lời tụng ca Exsultet vang lên trong đêm thánh. Chính ánh sáng linh thiêng này cũng thắp lên cho tôi cho bạn niềm hy vọng vào Tin Mừng: “Này đây Ta đổi mới mọi sự” (Kh 21,5). Một tâm linh mạnh vì được rửa sạch bằng máu thánh trên đồi Canvê, một tinh thần mạnh mẽ vượt khó vì được lửa Phục sinh thắp lên và luôn bùng cháy.

Như Maria Mađalêna luôn hoan ca loan báo Chúa Phục sinh, đời tôi đời bạn sẽ như là lời hoan ca loan báo cho thế giới: “Đức Kitô đã sống lại” bằng cuộc sống tươi vui, lạc quan trong ánh lửa đức tin Phục sinh.

Ý lực sống: “Sáng vô cùng, sáng láng cả mọi miền

Không u ám như cõi lòng ma quỷ.

Vì có Đấng Hằng Sống hằng ngự trị

Nhạc thiêng liêng dồn trổi khắp u linh” (Hàn Mặc Tử).

 

17.Đêm kinh ngạc và sợ hãi Lc 24, 1-12--Lm. Giuse Lê Danh Tường

Đêm nay là Đêm Kinh Ngạc và Sợ Hãi. Trong bài Tin Mừng, thánh Luca thuật lại tâm trạng của các bà ra viếng mộ Chúa. Khi thấy các sự lạ, các bà đi từ cảm giác “ngơ ngác” đến “sợ hãi” (Lc 24,4-5). Khi trở về nhà, các bà kể lại tất cả những gì đã diễn ra cho các môn đệ nghe. Nhưng đối với các môn đệ, chuyện của các bà cũng chỉ là “chuyện vớ vẩn” (Lc 24,11). Khi các ông ra thực địa ngôi mộ, các ông đã “ngạc nhiên”. Làm sao mà các ông các bà không kinh ngạc, không sợ hãi, không ngạc nhiên khi mà: Đức Giêsu đã chết và đã sống lại.

Người ta có thể kinh hoàng và sợ hãi trước những biến cố khủng khiếp đổ ập đến cho mình. Người ta có thể kinh hoàng và sợ hãi khi đứng trước một biến cố tưởng chừng như chẳng còn gì nhưng lại được lại tất cả.

Việc Đức Giêsu chịu đóng đanh và chết trên cây thập tự là một dấu chấm hết. Mọi lời giảng, mọi minh chứng của ngài chẳng còn giá trị gì, tất cả bị chôn vùi cùng với thân xác của ngài trong nấm mồ. Các môn đệ của Giêsu tan tác hết, các ông trở về với cuộc sống vốn có của mình. Việc các bà đem thuốc thơm ra xức xác thầy mình cho thấy trong não trạng của các bà: Giêsu đã chết.

Việc một người đã chết và rồi lại sống lại là điều không tưởng. Nó là điều phi lý và nực cười. Chính các bà là những người hoàn toàn không nghĩ đến khả thể ấy. Việc Đức Giêsu đã chết và sống lại là một điều phi lý, không thể hiểu được. Ấy thế nhưng đó lại là sự thật. Một sự thật hiển nhiên đến không thể chối cãi. Đứng trước sự thật ấy, các bà run rẩy và sợ hãi, một sự run rẩy và sợ hãi thánh thiện. Các bà đứng trước quyền năng bao la của Thiên Chúa, đứng trước tình yêu cao cả vô bờ của Thiên Chúa, đứng trước một cơn sóng thần của tình yêu đang bao trùm lên thế gian, phủ lấp mọi tội lỗi và gieo mầm hy vọng. Các bà run rẩy, sợ hãi.

Giêsu đã chết và đã sống lại. Điều ấy được các môn đệ của Giêsu lặp đi lặp lại trên môi miệng của mình. Các ông ra đi khắp nơi để loan truyền cho thiên hạ rằng: Giêsu đã chết và đã sống lại. Cho dù gặp bao khó khăn vì bị chống đối, bị phủ nhận, cho dù người ta kề gươm vào cổ cấm các ông không được nói về điều ấy. Nhưng sự thật là thế, nên dù phải chết các ông vẫn thốt lên: Giêsu đã chết và đã sống lại.

Nếu như đêm lễ Giáng Sinh được chào đón bằng ánh sáng rực rỡ cộng với lời ca vui mừng cả tuần trước, thì đêm đại lễ Phục Sinh hôm nay khác hẳn. Đêm nay đã được chuẩn bị bằng một thời gian dài của mùa chay sống trong tâm tình ăn năn sám hối. Tuần thánh là thời gian chúng ta suy niệm về cuộc tử nạn và cái chết của Đức Giêsu. Ngày thứ sáu vừa qua chúng ta chìm trong tâm tình của cuộc thương khó với lòng chay tịnh. Bước vào Thánh lễ đêm nay, chúng thinh lặng trong u tối. Tất cả như được gột bỏ dần và dẫn chúng ta đến cảm nghiệm sự trống rỗng và vô vọng của con người.

Chính trong u tối, một đốm lửa đã bùng lên. Một ngọn nến bừng cháy, ngọn nến Giêsu. Ánh sáng đã bùng lên ấy không phải là ánh sáng từ bên ngoài chiếu dọi vào thế gian. Nhưng là ánh sáng bùng lên từ trong thế gian. Ngọn lửa ấy giờ đây bùng lên trong trái tim của mỗi người: ngọn lửa Giêsu, ngọn lửa Phục Sinh, ngọn lửa tình yêu và hy vọng. Cho dù thế nào, ngọn lửa Giêsu vẫn rực cháy trong tâm hồn mỗi chúng ta, soi chiếu vào mọi nơi tăm tối của cuộc đời chúng ta, sưởi ấm cõi lòng lạnh giá của chúng ta.

Càng thấy mình tội lỗi, chúng ta càng cảm thấy bàng hoàng sợ hãy trước tình yêu bao la của Thiên Chúa. Đêm nay cả Giáo hội hô lên: Ôi tội hồng phúc! Cái tội mà nguyên tổ loài người đã vấp phạm, đã từ chối Thiên Chúa, đã không còn chấp nhận có Thiên Chúa ở trên đầu mình nữa khi quyết định ăn trái cấm để mong được bằng Thiên Chúa. Người ta tưởng rằng với cái tội tày trời ấy, với việc bị trục xuất khỏi vườn địa đàng ấy, con người không còn cách chi quay trở lại. Nhưng chính Thiên Chúa đã biến hoàn cảnh bi đát ấy thành dịp để Ngài bày tỏ tình yêu của Ngài với con người. Chính trong đổ nát ấy, Thiên Chúa đã đến đồng cam cộng khổ với chúng ta, vực chúng ta dậy, đưa chúng ta trở lại sống trong tình nghĩa với Ngài. Chúng ta kinh ngạc trước tình yêu bao la của Thiên Chúa. Quả thật, ấy là tội hồng phúc. Nhờ nó mà ta cảm được nỗi lòng của Trời với ta.

Chúa Giêsu đã chết và đã sống lại. Trước nhan Thiên Chúa hằng sống, chúng ta chỉ còn biết mượn lời Thánh vịnh mà ca lên:

Việc Chúa làm cho ta, ôi thật vĩ đại

Ta thấy mình chứa chan niềm vui”.

 

18.Đức Kitô Giêsu là ánh sáng, chân lý và tình yêu--Giuse Vinhsơn Ngọc Biển

Những ai đã từng đi rừng vào ban đêm, hẳn sẽ hiểu được sự cần thiết của ánh sáng. Cách đây khoảng mấy chục năm, việc có và sử dụng đèn pin là rất hiếm, nên những người đi rừng vào ban đêm thường hay đốt đuốc để soi đường. Một phần phá đi bóng tối bao phủ, phần khác xua đuổi những loài dã thú dữ... Rồi trong những dịp lễ hội dân gian, người ta thường hay nhóm lên đống lửa và tụ họp trung quanh nó để vui ca nhảy múa... ta gọi đó là lửa trại.

Đêm nay, đêm của những người Công Giáo trên thế giới quây quần bên ánh lửa đặc biệt của ngọn nến Phục Sinh. Ánh lửa đó tượng trưng cho chính Đức Kitô Giêsu, Đấng đã chiến thắng tử thần và đã sống lại. Ngọn lửa ấy đã làm bừng sáng lên để xua đi bóng tối của những phiên tòa ẩn khuất xử Đức Giêsu trong đêm và cũng phá tan bóng đen u ám của cái chết trên đồi Canvê chiều Thứ Sáu Tuần Thánh.

1. Đức Kitô Giêsu là Ánh Sáng, là Chân Lý và Tình Yêu

Trước khi cử hành phụng vụ đêm nay, mọi ánh đèn đều được tắt, để khởi đi từ bóng tối. Đây là hình ảnh của tội lỗi, sự dữ, gian dối và chết chóc. Nhưng ngay sau đó, nến Phục Sinh được thắp lên, được truyền lan đến mọi người, và vị chủ tế cất tiếng giới thiệu: “Ánh Sáng Chúa Kitô”, mọi người đáp: “Tạ ơn Chúa”. Nghi thức này cho thấy: Đức Kitô phục sinh đã phá tan bóng tối, đêm đen, tội lỗi và sự chết. Từ nay Ngài là Chúa của kẻ sống và sẽ phục sinh tất cả những ai đã cùng Ngài bước qua đau khổ thì sẽ được đến vinh quang. Từ nay, Ngài sẽ thông ban sự sống của Ngài cho chúng ta, để chúng ta sống tự do trong cương vị là con cái Chúa.

Vì thế, kể từ đây, chúng ta thuộc về Đức Kitô Phục Sinh - Đấng là Sự Sống, là Ánh Sáng chiếu soi mọi người. Khi đã thuộc về Đức Kitô như thế, mỗi người cũng nhớ lại vai trò trở nên ánh sáng soi cho muôn người ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội.

Ánh Sáng của nến Phục Sinh được thắp lên, còn gợi cho chúng ta cảm nghiệm được sự sáng và sức nóng, đây chính là biểu trưng của chân lý và tình yêu nơi Đức Giêsu. Chân lý và tình yêu là hai đặc tính luôn ở bên mỗi chúng ta và nó thôi thúc mỗi người hãy bước theo chân lý và sống trong tình yêu. Bước theo chân lý và sống trong tình yêu chính là làm chứng với Đức Kitô Giêsu và cùng bước vào quỹ đạo của tình yêu để yêu cho đến cùng như Ngài.

Như thế, chúng ta có quyền tin tưởng rằng, nếu một khi đã trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, tức là ta cùng chết với Ngài, ắt ta cũng sẽ được cùng Ngài sống lại hiển vinh.

2. Thiên Chúa tỏ bày tình yêu trong Ánh Sáng cứu độ

Các bài đọc sẽ giúp cho chúng ta lần lượt khám phá thêm ý nghĩa của đêm nay:

Phụng vụ Lời Chúa được khởi đầu với bài trích sách Sáng Thế, qua bài đọc này, gợi lại cho chúng ta những hình ảnh rất giàu tính biểu cảm, đó là: cảnh tối tăm bao trùm hết mọi nơi, tình trạng hỗn mang vô trật tự. Tuy nhiên, khi Đức Chúa phân rẽ ngày và đêm, ánh sáng và bóng tối, thì tình trạng hỗn mang đó không còn nữa và kể từ đó mọi vật cũng như mọi loài sống theo trật tự đúng với bản chất của chúng. Qua bài đọc này, dưới ánh sáng đức tin, chúng ta xác tín hơn về niềm tin của mình vào một Thiên Chúa là Chủ Tể trời đất. Mọi sự hiện hữu trên trần gian này thuộc về Người, và do ý muốn của Người mà có.

Tiếp theo, hình ảnh của Ápraham hiện lên như một mẫu gương tuyệt vời về niềm tin. Ông đã đặt trọn niềm tín thác của mình ở nơi Đức Chúa, nên ông sẵn sàng hiến dâng cho Người những gì là quý giá nhất của mình, đó chính là Isaác, đứa con trai duy nhất để trọn niềm hiếu trung với Người.

Sang bài đọc Xuất Hành, tác giả gợi lại cho chúng ta về một vị Thiên Chúa luôn yêu thương con cái của mình. Thật vậy, Người đã cứu thoát họ ra khỏi Aicập và đưa họ về miền Đất Hứa, nơi tràn trề sữa và mật. Cuộc xuất hành của dân Do thái cho chúng ta một hình ảnh tiên trưng vừa cá nhân vừa tập thể. Cá nhân thì ám chỉ cuộc vượt qua của Đức Giêsu; tập thể là cuộc vượt qua của tất cả chúng ta.

Hình ảnh dân Israel được trình bày cách tiệm tiến: cuộc đời và dân tộc Israel đi từ thân phận nô lệ do tội lỗi, đến nơi được tự do trong tâm tình con cái Chúa; đi từ sự thất vọng đến hy vọng tràn trề; từ sự chết đến sự sống. Thiên anh hùng ca giải thoát dân Israel khỏi ách nô lệ Ai Cập là bằng chứng hùng hồn việc Thiên Chúa đang hướng dẫn lịch sử nhân loại tới hồng ân cứu độ. Mặc cho dân thất trung, bội ước, Thiên Chúa vẫn yêu thương và không hề lay chuyển.

Khi xưa, dân Israel đã khước từ nguồn mạch khôn ngoan, thì đến thời Tân Ước, Thiên Chúa đã trao ban chính Đấng Khôn Ngoan của mình đến ở trực tiếp. Đấng ấy chính là Đức Kitô Giêsu chịu đóng đinh và đã sống lại để cứu chuộc nhân loại.

3. Sống mầu nhiệm Ánh Sáng

Đêm nay, đêm Vọng Phục Sinh, ngọn lửa Phục Sinh được chiếu sáng nhắc cho chúng ta thấy rằng: Đức Giêsu là Ánh Sáng, Ánh Sáng đã đến thế gian để cùng chân lý đẩy lui sự dữ, hận thù và chia rẽ... để trao tặng cho nhân loại một Ánh Sáng của tình yêu, niềm tin, phó thác, và như thế, người Kitô hữu một khi đã được Rửa tội, chúng ta được mặc lấy Đức Kitô để thuộc về Ngài.

Như vậy, đêm nay, chúng ta thắp lên và hướng về ngọn nến Phục Sinh như một sự suy phục, hẳn chúng ta cũng không thể không nghĩ đến vai trò chứng nhân của mình là phải trở nên ánh sáng cho mình và soi sáng cho tha nhân.

Cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa dành cho dân Israel, và cũng là dành cho chúng ta, đêm nay, một lần nữa, mỗi người tuyên tín lại niềm tin của mình ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, để một lần nữa hâm nóng lại sự xác tín của mình vào Đức Kitô Giêsu, Đấng là Con Thiên Chúa, là Đấng được Chúa Cha sai đến để chiếu giãi chân lý và tình yêu của Người cho nhân loại. Đấng ấy đã đi đến tận cùng của tình yêu là vâng lời trọn vẹn và hiến dâng mạng sống của mình làm của lễ đền tội thay cho nhân loại. Đấng ấy đã sống lại để dẫn đưa những người tin vào sự sống mới, sự sống tràn đầy hạnh phúc và bình an.

Nếu Ápraham đã vâng lời, tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa nên đã hiến tế con trai duy nhất của mình cho Thiên Chúa, thì Đức Giêsu, Đấng là con duy nhất của Thiên Chúa Cha cũng đã tự hiến chính mình để thể hiện tình yêu trọn vẹn vào Thiên Chúa và vì yêu nhân loại, khi đến lượt chúng ta, mỗi người cũng hãy sống sự hiến tế ấy trong tư cách là con cái Thiên Chúa và trong tư cách là người mang trong mình hình ảnh của Đức Kitô Giêsu, để yêu Chúa và yêu tha nhân hết lòng.

Nếu xưa kia, Đức Chúa đã dẫn dân ra khỏi ách nô lệ bên Aicập, để đưa dân đến bến bờ tự do thực sự, thì Đêm nay, Đức Kitô Giêsu cũng làm một cuộc Xuất Hành mới, cuộc Xuất Hành này đi từ sự chết đến sự sống, cái chết không còn quyền chi đối với Ngài nữa, từ nay Ngài là Chúa các chúa, Vua các vua, là Chúa của kẻ sống. Như vậy, Ngài đã giải thoát con người chúng ta khỏi sự dữ, sự tội.

Đến lượt chúng ta, chúng ta cũng can đảm để làm một cuộc xuất hành mới, đi từ tối tăm của tội lỗi; từ sự bất hạnh do tội lỗi gây ra; từ những điều bất chính; những ràng buộc do tội gây nên, để trở thành con người mới, con người tự do trong tư cách là người thuộc về Đức Kitô Giêsu.

Bên cạnh đó, đêm hôm nay cũng là đêm của Ánh Sáng được chiếu giãi cho muôn dân. Thật vậy, sự chờ đợi của anh chị em Dự Tòng trong những tháng ngày qua, giờ đây họ đã được chính thức lãnh nhận Phép Rửa để trở nên người Kitô hữu trong Giáo Hội Chúa Kitô. Họ khoác lên mình chiếc áo trắng, tượng trưng cho sự sống mới trong Đức Kitô, Đấng đã phục sinh.

Chúng ta cùng cầu nguyện và đồng hành với những anh chị em này, để họ luôn giữ được ngọn nến sáng của đức tin, luôn sẵn sàng làm chứng cho chân lý và luôn sống trong tình yêu với Thiên Chúa và tha nhân.

Lạy Đức Kitô Giêsu Phục Sinh, xin cho chúng con thuộc trọn về Chúa để trở nên một con người mới trong ân sủng và tình yêu. Amen.

 

19.Đêm thánh, đêm hy vọng-- Mc 16, 1-8--Giuse Vinhsơn Ngọc Biển

St 1,1-2,2; St 22,1-8; Xh 14,15-15,1a; Is 54,5-14; Br 3,9 – 15.32;4,4; Ed 36,16-17a.18-28; Rm 6,3-11; Mc 16, 1-8)

Thánh Phaolô dạy cho chúng ta biết rằng: ”Nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng” (x. 1Cr 15,14).

Quả đúng như vậy: Đức Giêsu đã sống lại từ cõi chết. Ngài đã chiến thắng cũng như tiêu diệt bóng tối sự dữ và sự chết qua việc sống lại huy hoàng, để mở đường cho những ai tin cũng được sống lại như Ngài đã sống lại.

Đây là niềm tin và hy vọng tuyệt đối của tất cả chúng ta.

Vì thế, đêm hôm nay được gọi là Đêm Hồng Phúc, Đêm Cứu Độ, Đêm Ánh Sáng, Đêm của Sự Sống. Đêm Mẹ của các đêm.

Toàn bộ nghi thức phụng vụ mà chúng ta đang cử hành đều diễn tả những tâm tình trên cách sống động và sốt sắng, để đưa mỗi người chúng ta vào trong mầu nhiệm thánh, mầu nhiệm cứu chuộc.

Khởi đi từ việc Giáo Hội cử hành nghi thức thắp lửa Nến Phục Sinh. Đây là nghi thức làm toát lên vai trò của Đức Giêsu chính là Ánh Sáng chiếu soi thế gian. Ngài đến khai mở và dẫn đưa nhân loại thoát ra khỏi bóng đêm của tội lỗi để bước vào miền ánh sáng cứu độ.

Khi đã đi ra khỏi bóng đêm của cái chết để bước vào cõi sống, chúng ta hãy cùng với các thần thánh trên trời, nhân loại dưới thế và toàn thể vũ trụ hân hoan công bố Tin Mừng Phục Sinh và cùng nhau tạ ơn Thiên Chúa (x. Exsultet).

Tiếp theo, Mẹ Giáo Hội cho chúng ta đọc lại những bài sách thánh quan trọng trong lịch sử cứu chuộc, để cảm nhận được tình thương, sự trung tín của Thiên Chúa trên dân của Người như thế nào! Ngõ hầu giúp chúng ta xác tín mạnh mẽ rằng: Thiên Chúa – Đấng giàu lòng thương xót, chính Người là chủ tể trong toàn bộ lịch sử cứu độ của dân Người.

Đỉnh cao của lòng xót thương ấy chính là việc: Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi  đã ban Con Một để những ai tin vào Con của Người thì khỏi phải hư mất, nhưng được sống muôn đời (Ga 3, 16).

Thế nên, sứ mạng của Đức Giêsu đến trong trần gian này là để cứu chuộc và khai mở cho nhân loại biết đích xác con đường cứu chuộc ấy là con đường tình yêu. Đây là con đường bản lề để dẫn tới mầu nhiệm phục sinh.

Không chỉ nói và dạy, nhưng Đức Giêsu còn đích thân khai mở con đường ấy bằng chính cuộc khổ nạn và phục sinh của mình.

Như vậy, nếu Đức Giêsu chết mà không phục sinh, hẳn tất cả những gì đã loan báo về Ngài trước đó đều vô hiệu, những Giáo Huấn của Ngài trở nên phù phiếm, lời rao giảng của các Tông đồ trở thành chiêu trò lừa bịp, và chúng ta trở thành những kẻ mê muội, dại dột khi tin vào một con người đã chết mà không bao giờ sống lại.

Nhưng, Đức Giêsu – Con Thiên Chúa hằng sống, đã sống lại vinh quang, khiến cho tất cả những lời các ngôn sứ tiên báo nay ứng nghiệm. Nhất là lời chứng của các Tông đồ trở nên sự thật. Giáo Huấn của Giáo Hội trở nên vững chắc. Và, niềm tin của chúng ta tràn đầy hy vọng. Vì thế, giáo phụ Tertulianô đã phát biểu rất chính xác qua một câu Latinh ngắn gọn như sau: ”Fiducia christianorum resurrectio mortuorum; illam credentes, sumus: Niềm hy vọng của người Kitô đặt ở nơi sự việc kẻ chết sống lại; chính vì tin như thế, mà chúng ta mới là Kitô hữu”; chỗ khác, thánh Phaolô dạy: ”Khi Đức Kitô, nguồn sống của chúng ta, xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người và cùng Người hưởng phúc vinh quang” (Cl 3,4; x. 1Ga 3,2).

Đây thực sự là niềm vui khôn xiết tả và nguồn hy vọng được cứu độ trở nên tuyệt đối. Xin tạ ơn Chúa: Halêluiya.

Như thế, những gì diễn ra đêm nay không chỉ là một biến cố đã qua, nay được lặp lại, mà nó là một sự kiện sinh động đến sống động, bởi vì Đức Giêsu đã không kết thúc cuộc đời dương thế của Ngài bằng cái chết, nhưng là sự sống lại. Cái chết của Ngài không phải là dấu chấm hết, mà nó là một khởi đầu, khai mào cho một sự sống mới trong vinh quang dành cho tất cả những ai tin vào Người.

Sứ điệp mà Giáo Hội gửi đến cho mỗi người chúng ta hôm nay, đó là:

Thiên Chúa luôn luôn yêu thương con người cách đặc biệt. Người đã, đang, và sẽ hiện diện cách trực tiếp, sống động trong lịch sử nhân loại cũng như nơi mỗi người chúng ta.

Vì thế, chúng ta thuộc về con cái của sự sáng, sự sống, là những người đã được cứu chuộc nhờ Máu và Nước của Đức Giêsu.

Khi đã cảm nghiệm được tình thương của Thiên Chúa trên nhân loại và trong cuộc đời của chúng ta, đồng thời xác tín mạnh mẽ vào Đấng Phục Sinh, mỗi người chúng ta cần tu chỉnh cuộc sống của chính mình, để trở chứng nhân Tin Mừng Phục Sinh khi tin điều xác tín, sống những gì đã tin và thi hành những việc Chúa dạy. Những điều đó là:

Luôn biết xót thương người khác, nhất là những người tội lỗi, để tìm cách nâng họ dậy, khơi gợi niềm hy vọng, ngõ hầu họ cũng được tháp nhập vào đoàn Dân Thánh, dân được cứu chuộc.

Không bao giờ chấp nhận hay lựa chọn thói vô tâm, vô cảm, dửng dưng làm tinh thần chủ đạo trong những sinh hoạt và các mối tương quan hằng ngày của chúng ta.

Cần tránh cho xa những chân lý nửa vời, những trò đánh lận con đen, những thói ăn thời ở đợ, những hành vi tham nhũng, áp bức, bóc lột, gian dối, kiêu ngạo, ăn chơi đàn điếm…, đây là những bóng đêm của tội lỗi, là con đường dẫn đến sự chết, vì thế, chúng ta phải tránh cho xa kẻo mất ơn cứu độ.

Mong sao, trong Đêm Thánh, Đêm Hồng Ân cứu độ này sẽ đem lại cho chúng ta một luồng sinh khí mới, để mỗi người được tràn đầy niềm vui, hy vọng và bình an, hạnh phúc.

Lạy Chúa Giêsu, Đấng Phục Sinh, xin cho chúng con biết loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng mạnh mẽ Chúa đã sống lại cho tới khi Chúa lại đến. Halêluiya. Amen.

 

20.Chúa phục sinh là tin mừng cho nhân loại-Lc 24,1-12--Giuse Vinhsơn Ngọc Biển SSP

“Nếu Đức Kitô đã không sống lại thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng” (1Cor 15,14); hay: ”Nếu chúng ta đặt hi vọng vào Đức Kitô chỉ vì những sự đời này, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hại nhất trong thiên hạ” (1Cor 15,19),

Thế nên, không ai dại dột mà tin và gắn bó cả cuộc đời cũng như mọi chiều kích của cuộc sống vào một con người mà kết thúc cuộc đời bằng cái chết! Thân xác bị chôn vùi trong huyệt mộ là dấu chấm hết cho chính con người đó cũng như những ai đã từng đặt lý tưởng cuộc đời mình vào họ.

Nhưng, niềm tin vào Đức Giêsu đã đem lại cho chúng ta niềm hy vọng, bởi vì Đấng mà chúng ta tin tưởng, gắn bó và phó thác chính là Đấng đã từng chết thật, nhưng cũng đã sống lại thật sau ba ngày nằm trong mộ phần.

Như vậy, chúng ta thật hãnh diện về Đấng Cứu Chuộc có tên là Giêsu, vì nhờ Ngài, với Ngài và trong Ngài mà chúng ta được sống và sống dồi dào, bởi lẽ, nếu chúng ta cùng sống và chết với Ngài thì cũng sẽ được cùng Ngài sống lại trong vinh quang.

1. Hãy trở về Galilê để sống niềm vui sứ vụ

Niềm tin vào Đấng Phục Sinh được Tin Mừng theo thánh Luca trình bày bằng sự kiện các phụ nữ, những người yêu mến Đức Giêsu đi ra mộ lúc tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần, tức là kế sau ngày Sabát, để thi hành công việc chăm sóc, xức thêm thuốc thơm nơi xác Đức Giêsu, đây là công việc lẽ ra phải làm chu đáo hôm an táng Ngài. Tuy nhiên vì là áp lễ Vượt Qua của người Dothái, nên những việc làm tỉ mỉ không thể thực hiện được, vì nếu làm như thế, thời gian sẽ chuyển sang ngày Sabát, mà ngày Sabát thì lại là luật cấm làm việc xác…

Khi đến nơi, các phụ nữ thật ngỡ ngàng, vì cửa mộ đã mở tung và trong mộ không còn thi thể Đức Giêsu!!!

Thấu hiểu nỗi sợ hãi và hoang mang của các phụ nữ, nên thiên thần đã hiện ra chấn an các bà và nói: ”Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết? Người không còn đây nữa, nhưng đã chỗi dậy rồi. Hãy nhớ lại điều Người đã nói với các bà hồi còn ở Galilê, là Con Người phải bị nộp vào tay phường tội lỗi, và bị đóng đinh vào thập giá, rồi ngày thứ ba sống lại” (Lc 24 5-7).

Sau khi được các thiên thần nhắc cho các bà nhớ lại lời Đức Giêsu đã tiên báo, các bà rất vui mừng và thêm xác tín vào những lời Đức Giêsu đã nói với các bà trước đó, vì thế, họ hân hoan trở về và báo tin mừng này cho các môn đệ. Tin Mừng thánh Mátthêu thì nói rõ hơn và còn tiên báo cho biết: chính Đức Giêsu – Đấng Phục Sinh sẽ đến Galilê và sẽ gặp các môn đệ tại đó (x. Mt 28, 7).

Nhắc lại cho các bà những điều Đức Giêsu đã nói khi còn ở Galilê là gợi lại cho các bà về niềm xác tín nền tảng, bởi vì chính tại Galilê, những phụ nữ và các môn đệ đã khởi đầu hành trình bước theo Thầy Giêsu trong niền tin và hy vọng. Nay trở về Galilê là để cho người môn đệ một lần nữa xác định lại căn tính của mình, thêm vững tin, can đảm, hầu trung thành với sứ vụ tông đồ giữa trăm triều thử thách chông gai.

Mặt khác, khi chứng kiến cảnh hãi hùng ghê rợn của Thầy mình phải chịu qua cuộc thương khó, nhất là qua cái chết của Ngài, các môn đệ kể như bị hoang mang lo sợ đến tột cùng! Chẳng thế mà từ khi Thầy của các ông bị bắt, đánh đập và giết chết cách tàn bạo thê lương trên thập giá, các ông đã không dám ra ngoài, nhưng luôn trong nhà và đóng kín cửa. Vì thế, khi nhắc các bà nhớ lại những điều chính Ngài đã tiên báo từ hồi còn ở Galilê, là để cho các bà có bằng chứng nhằm loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các môn đệ một cách xác tín.

Nếu không nhắc lại biến cố Galilê, thì hẳn các môn đệ không thể tin vào chuyện vĩ đại có tầm ảnh hưởng lớn đến hết mọi người mà lại qua miệng các phụ nữ!!!

Hơn nữa, khi nhắc lại địa danh Galilê, và nói với họ nhớ lại những gì Đức Giêsu đã tiên báo trước đó, ấy là Ngài muốn cho họ nhớ lại mối tình đầu tiên giữa Ngài với họ, nơi mà mọi sự được bắt đầu, nơi mà Ngài đã cất tiếng gọi và nơi mà họ đã từ bỏ mọi sự để đi theo Ngài…(x. Mt 4,18-22).

2. Ngày Rửa Tội là Galilê của chúng ta

Với chúng ta, ai cũng có một Galilê nội tâm, nơi ấy, chúng ta được đánh dấu bằng việc Chúa gọi và chọn mỗi người qua Bí tích Rửa Tội, để trở nên con cái của Chúa, con cái Sự Sáng và nên chứng nhân cho Ngài.

Khi trở nên con cái Chúa trong ơn gọi Kitô hữu, ấy là chúng ta mặc lấy Đức Kitô và được mời gọi mang trong mình những tâm tư của Ngài để trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài, ngõ hầu trở nên chứng nhân về Đức Giêsu, Đấng đã chết và đã phục sinh vinh hiển.

Tuy nhiên, tình nghĩa giữa ta và Chúa đã bị rạn nứt với năm tháng do yếu đuối, tham lam, ích kỷ, kiêu ngạo… nên nhiều khi chúng ta đã dửng dưng với ơn gọi và sứ vụ của mình.

Khi được thiên thần mời gọi các phụ nữ nhớ lại những lời Đức Giêsu đã báo trước cũng như hẹn gặp các môn đệ ở Galilê, đây cũng chính là lời mời gọi mỗi người trở về và nhớ lại biến cố Galilê nội tâm của mình.

Khi được mời gọi trở về Galilê, hẳn đây là lời nhắc nhớ chúng ta nhớ lại niềm tin tinh tuyền thủa ban đầu.

Nhớ lại những gì đã nói khi còn ở Galilê; ấy là nhóm lên ngọn lửa tình yêu mãnh liệt thủa ban sơ ấy; và cũng là nhớ lại những ân tình, mà Thiên Chúa đã ban trên cuộc đời chúng ta.

Khi trở về và nhớ lại như thế, sứ điệp quan trọng được loan đi, đó là: cần đọc lại lịch sử cuộc đời mình, để nhận ra tình thương của Thiên Chúa, nhận ra bàn tay can thiệp uy quyền của Ngài, và nhất là nhớ lại những điều đã báo trước, để thêm một lần nữa nhìn cuộc đời dưới quy luật: qua đau khổ đến vinh quang.

Khi trở lại và nhớ về biến cố Galilê nội tâm, cũng là dịp để ta xác tín thêm và khởi đầu một hành trình mới trong niềm tin và hy vọng, để can đảm loan báo Đức Giêsu đã chết đúng như tiên báo, đã sống lại như những gì đã nói trước…

Mong sao, đêm nay, mỗi người chúng ta hãy làm một cuộc hồi tưởng để trở về với cõi lòng của mình, ngõ hầu thấy được Galilê nội tâm riêng của mỗi người; đồng thời hãy nhớ về nó để chúng ta đi trên con đường đã được định hướng.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã sống lại từ cõi chết. Đây là tin mừng không chỉ cho các phụ nữ, các môn đệ, nhưng nó còn là niềm hy vọng và niềm tin của chúng con hôm nay và mãi mãi. Xin cho mỗi người chúng con ngay trong giây phút này, hãy cất cao lên lời: “Halêluiya” và hãy loan Tin Mừng Phục Sinh đến mọi nơi. Amen.

 

21.Niềm Hy Vọng Phục Sinh--ÐTC Gioan Phaolô II

(Ðêm Vọng Phục Sinh năm 2002)

1. "Thiên Chúa phán: "Hãy có ánh sáng"; và có ánh sáng" (St 1,3).

Một sự bùng nổ của ánh sáng, mà Lời Chúa mang đến từ hư vô, xé toạc màn đêm đầu tiên, đêm của Tạo Dựng.

Thánh Tông Ðồ Gioan viết: "Thiên Chúa là ánh sáng, và trong Ngài, chẳng hề có tối tăm" (1Ga 1,5). Thiên Chúa đã không tạo nên bóng tối nhưng là ánh sáng! Và sách Khôn Ngoan, tiết lộ rõ ràng rằng công việc Thiên Chúa luôn có mục đích tích cực, thế nên: "Ngài tạo ra muôn vật để chúng hiện hữu, và các loài trên thế giới loài nào cũng lành mạnh. Và giữa chúng, không thấy loại nào mang nọc độc phá hoại, và dương thế thì tương khắc với cõi âm" (Khôn ngoan 1,14).

Trong đêm đầu tiên, đêm của Tạo Dựng, đâm rễ Mầu Nhiệm Phục Sinh, mầu nhiệm mà theo sau thảm kịch của tội lỗi, tiêu biểu cho sự phục hồi và đăng quang của sự bắt đầu tiên khởi ấy. Ngôi Lời chí thánh tạo ra muôn vật và, trong Chúa Giêsu, đã hóa thành nhục thể cho sự cứu độ chúng ta. Và nếu thân phận của Ađam đầu tiên là trở lại với đất từ nơi đã được tạo thành (x. St 3,19), Ađam cuối cùng đã đến từ trời cao để quay lại đó trong vinh quang, hoa quả đầu mùa của nhân loại mới (x. Ga 3,13; 1Cor 15,47).

2. Một đêm khác nữa thiết lập biến cố nền tảng trong lịch sử Israel: đó là cuộc Xuất Hành kỳ diệu từ Ai Cập, câu chuyện được đọc mỗi năm trong đêm Vọng Phục Sinh long trọng.

"Chúa khiến gió đông thổi lên thật mạnh càn quét mặt biển suốt đêm, làm cho biển cạn hết. Nước rẽ đôi như vậy đã giúp con dân Israel đi thẳng vào lòng biển như đi trên đất khô, với nước dựng như bờ tường hai bên tả hữu họ" (Xuất hành 14,21-22). Dân Chúa được sinh ra trong "phép rửa tội này" nơi Biển Ðỏ, khi họ chứng kiến cánh tay quyền năng của Thiên Chúa, Ðấng cứu họ khỏi nô lệ để dẫn đưa họ đến miền đất hứa của tự do, công lý và hòa bình.

Ðây là đêm thứ hai, đêm của Xuất Hành.

Lời tiên tri của Sách Xuất Hành ngày hôm nay, cũng được thực hiện cho chúng ta, những người là Dân Israel theo Thần Khí, hậu duệ của Abraham do bởi đức tin (x. Rm 4,16). Trong cuộc Vượt Qua của Ngài, như Môisen mới, Ðức Kitô đã cho chúng ta vượt qua sự nô lệ của tội lỗi để đến với sự tự do của con cái Thiên Chúa. Nếu chúng ta cùng chết với Ðức Giêsu, chúng ta sẽ vươn tới cuộc sống mới, nhờ vào quyền năng của Thánh Thần của Ngài. Phép Rửa của Ngài đã trở nên phép rửa của chúng ta.

3. Cả anh chị em cũng sẽ nhận được phép Rửa này, phép Rửa đưa chúng ta vào trong cuộc sống mới, những tân tòng thân mến từ nhiều quốc gia: từ Albania, Trung Quốc, Nhật Bản, Ý, Ba Lan, và Cộng Hòa Dân Chủ Congo. Hai người trong số anh chị em, một bà mẹ Nhật Bản và một bà mẹ Trung Quốc, mỗi người mang theo với mình một cháu bé, như thế, trong cùng một nghi thức này, cả mẹ lẫn con đều cùng được rửa tội.

"Trong đêm cực thánh này", khi Ðức Kitô trỗi dậy từ kẻ chết, anh chị em cũng sẽ cảm nhận một cuộc "xuất hành" thiêng liêng: hãy bỏ lại phía sau cuộc đời trước đây của anh chị em và tiến vào "miền đất của sự sống". Ðây là đêm thứ ba, đêm của sự Phục Sinh. 4. "Ðêm diễm phúc của tất cả các đêm, được Thiên Chúa chọn để thấy Ðức Kitô trỗi dậy từ kẻ chết!" Chúng ta hát lên những lời này trong lời Công Bố Phục Sinh vào đầu buổi Canh Thức long trọng, Mẹ của mọi đêm Canh Thức.

Sau đêm thảm kịch của Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, khi "quyền lực của tối tăm" (Lc 22,53) dường như thắng thế trên Ðấng là "ánh sáng thế gian" (Ga 8,12), sau cái yên lặng bao trùm của Ngày Thứ Bảy Tuần Thánh, trong đó Ðức Kitô, sau khi hoàn tất công việc của Ngài trên trần gian, nghỉ ngơi trong mầu nhiệm của Chúa Cha và mang sứ điệp của sự sống vào trong cõi âm, cuối cùng chiêm ngắm đêm trước "ngày thứ ba", mà theo Thánh Kinh, Ðấng Mêsia sẽ trỗi dậy, như chính Ngài thường báo trước cho các môn đệ của Ngài.

"Ðêm thật hồng phúc, khi thiên đàng giao duyên cùng thế gian và con người được hòa giải với Thiên Chúa!" (Công Bố Phục Sinh).

5. Ðây là đêm của các đêm, đêm của đức tin và hy vọng. Trong khi tất cả đang chìm trong bóng đêm, Thiên Chúa - Ánh Sáng - vẫn chiêm ngắm. Cùng với Ngài, những người hy vọng và tín thác nơi Ngài cũng chiêm ngắm.

Lạy Ðức Mẹ, đây thật là đêm của Mẹ! Khi những ánh sánf cuối cùng của ngày Sabát tắt dần, và hoa quả của lòng Mẹ nằm trong lòng đất, trái tim của Mẹ cũng chiêm ngắm! Ðức tin của Mẹ và hy vọng của Mẹ nhìn tới trước. Ðàng sau tảng đá nặng nề, đức tin và hy vọng của Mẹ đã thấy trước ngôi mộ trống không; đàng sau màn đêm dày đặc, đức tin và hy vọng của Mẹ đã le lói buổi ban mai của sự Phục Sinh.

Lạy Mẹ, xin cho chúng con cũng chiêm ngắm trong sự yên lặng của đêm nay, tin tưởng và hy vọng vào Lời Thiên Chúa. Như thế chúng con sẽ gặp, trong sự viên mãn của ánh sáng và cuộc sống, Ðức Kitô, hoa quả đầu mùa của sự sống lại, đấng hiển trị cùng Chúa Cha và Chúa Thánh Thần cho đến muôn đời. Allêluia!

+ Gioan Phaolô II, Giáo Hoàng

(Bản dịch Việt Ngữ của J.B. Ðặng Minh An)

 

22.Người chết thì sống, kẻ sống thì chết--A-Mt 28,1-10--Lm Giuse Nguyễn Văn Hữu

Đức Giêsu, một người suốt đời không chịu dừng chân nơi nào, đã bị người ta đóng chặt vào thập giá. Không những thế họ còn muốn chôn vùi đời Người trong mấm mồ, lấy đá chặn cửa, niêm phong cần thận, cắt lính canh gác hẳn hoi.

Nhưng Chúa đã không chịu dừng chân trên thập giá. Người không chịu yên nghỉ đời đời trong nấm mồ. Người đã bước ra khỏi mồ, cách khải hoàn vinh thắng, vĩnh viễn đánh bại sự chết.

Lúc Người bước ra khỏi mồ, đất rung chuyển dữ dội, thiên thần Chúa từ trời xuống, đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi lên trên… Thấy vậy, những phụ nữ ra viếng mộ sợ run lẩy bẩy, những người lính canh khiếp sợ ‘hoá ra như chết.’

Thiên thần đã trấn an các bà: ”Phần các bà, các bà đừng sợ! Tôi biết các bà tìm Đức Giêsu, Đấng bị đóng đinh. Người không có ở đây, vì Người đã trỗi dạy như Người đã nói. Các bà đến mà xem chỗ Người đã nằm.”

Trấn an xong, thiên thần giao cho các bà nhiệm vụ đi báo tin cho các môn đệ: ”Đức Giêsu đã trỗi dậy từ cõi chết, và Người đi Galilê trước các ông. Ở đó các ông sẽ được thấy Người.”

Các bà vội vã rời khỏi mộ, tuy sợ hãi nhưng cũng rất đỗi vui mừng, chạy về báo tin cho môn đệ Đức Giêsu hay.

Trên đường đi báo tin, Đức Giêsu Phục sinh đón gặp các bà và nói: ”Chào chị em! Các bà tiến lại gần Người ôm lấy chân và bái lạy Người. Bấy giờ Đức Giêsu nói với các bà: Chị em đừng sợ! Hãy về báo cho anh em của Thày, để họ lên Galilê. Họ sẽ được gặp Thày ở đó.”

Trong khi các bà vui mừng mang sứ điệp của sự sống, thì những người lính canh cũng mang một sứ điêp, nhưng là sứ điệp của sự chết. Các bà đến gặp các môn đệ mà Đức Giêsu gọi là “anh em”, bởi vì họ thi hành ý muốn của Chúa Cha. Còn những người lính canh thì đến gặp các thượng tế, là những người thi hành “các ước muốn của cha họ là ma quỷ, mà ngay từ đầu nó đã là tên sát nhân” (Ga 8,44).

Mấy ngày trước, các thượng tế và các kỳ lão đã họp với nhau để lên án tử cho Đức Giêsu, bây giờ lại họp nhau để bàn mưu ngăn chặn việc loan báo Người sống lại. Họ quyết định cho lính một số tiền lớn và bảo: “Các anh cứ nói như thế này: Ban đêm đang lúc chúng tôi ngủ, các môn đệ của hắn đã đến lấy trộm xác. Nếu sự việc này đến tai quan tổng trấn, chính chúng tôi sẽ dàn xếp với quan và lo cho các anh được vô sự.” 

Lính canh đã nhận tiền và đã làm theo lời họ dạy. Câu chuyện này được phổ biến giữa người Dothái cho đến ngày nay.

Các thượng tế đã dùng tiền bạc để chiếm được Đức Giêsu do Giuđa phản bội và bán Người, thì bây giờ họ lại dùng tiền bạc để tìm cách ém nhẹm việc Đức Giêsu sống lại.

Giuđa đã vì tiền bạc mà phản bội và bán đứng Đức Giêsu; các lính canh vì tiền bạc mà không dám nói lên sự thật về Đức Giêsu là bán đứng nhân phẩm của mình và phản bội lại cấp trên là quan Philatô; các vị thượng tế đã dùng tiền mà ém nhẹm sự thật về Đức Giêsu là phản bội lại Thiên Chúa. Sống mà như thế thì coi như đã chết. Sống mà như thế thì ‘đừng sinh ra thì hơn!’

Nhưng dù người ta tìm đủ mọi cách để phủ nhận việc Đức Giêsu Phục sinh, thì Đức Kitô vẫn Phục sinh, và những người đã gặp Đức Kitô Phục sinh không thể không làm chứng cho mọi người biết rằng: ”Chúa đã sống lại và đã hiện ra với chúng tôi và với nhiều người”.

 

23.Mồ trống, Sứ điệp các thiên thần—Vọng Phục Sinh C--Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt

1. Người ta thường bảo lược đồ tác phẩm Lc (phúc âm và Cv) là một lược đồ địa lý, một hành trình mà trạm chính là Giêrusalem. Từ Galilê nơi Ngài đã bắt đầu rao giảng Tin mừng, Chúa Giêsu lên Giêrusalem, vừa đi vừa tiếp tục sứ mệnh, để chết, sống lại và lên trời ở đó. Và cũng từ đó, Chúa Giêsu sai Thánh Thần xuống trên các tông đồ. Rồi khởi từ Giêrusalem, các vị này chia tay nhau đi rao giảng Tin mừng khắp mọi nơi cho đến La mã, kinh đô thế giới ngoại giáo đương thời.

Nhưng tại sao Giêrusalem xem ra là bản lề của không gian nếu không phải là vì trước hết và sâu xa hơn hết sự phục sinh của Chúa Kitô là bản lề của thời gian. Đây chính là yếu điểm của toàn thể lịch sử, đây chính là biến cố vĩ đại tạo nên ý nghĩa cho các biến cố khác. Sấm ngôn tiên tri, lề luật Môisen, Thánh vịnh, đến cả giáo huấn của Chúa Giêsu đều chỉ có thể hiểu được nhờ ánh sáng của phục sinh. Tất cả đều qui về sự hoàn thành ấy. Lc không ngừng lặp đi lặp lại điều đó trước (9,22.30-31. 44.51; 18,31-33; 22,37) cũng như sau biến cố vĩ đại này (24,6-7. 25-27.44-46).

Những trình thuật phục sinh cấu thành chóp đỉnh và trung tâm tác phẩm của Lc. Trong tác phẩm của ông, các biến cố có vẻ như chỉ xảy ra cùng một ngày. Đứng trước sự ngu độn này ngày càng tăng của môn đồ, Đức Kitô đưa ra chứng cớ ngày càng hiển nhiên về sự phục sinh của Ngài: nào là mồ trống, nào lời thiên thần quả quyết Ngài đã sống lại theo lời Thánh kinh, nào là chính Ngài hiện ra “bẻ bánh”, tỏ vết thương, và ngay cả ăn uống với các môn đệ. Khi đức tin của họ đã được củng cố, Ngài sai họ đi khắp thế giới và hứa ban Thánh Thần cho, rồi Ngài ngự về trời.

2. Sứ điệp các thiên thần hàm chứa lời tuyên bố vĩ đại, “tin mừng lớn nhất”: Chúa Giêsu đã phục sinh. Nhưng trước khi lấy lại từ ngữ của Mt để diễn tả chân lý ấy, Lc phát biểu nó theo ý niệm của Thánh Phaolô và của người Hy lạp: ngoài hình ảnh thông thường của việc thức dậy (êgêrô) ông thêm một ý niệm nặng chất thần học hơn: ý niệm “sống” (x.Rm 6,9-10; Cv 25,19). Hạn từ này sẽ được ông đặt trên môi hai môn đệ làng Emmau để tóm tắt sứ điệp thiên thần (24,23)

Trong Cựu ước, Đấng hằng sống chính là Thiên Chúa (Ds 24,21.28; Đnl 32,40); Giavê là Thiên Chúa hằng sống (Đnl, 2; Xac 5,11). Người ta lấy danh Thiên Chúa hằng sống mà thề (1S 19,6). Chỉ có mình Thiên Chúa là nguồn mạch sự sống, là chủ sự sống (St 2,7; 1S 2,6). Do đó, người ta có thể hiểu từ ngữ “hằng sống” này theo nghĩa mạnh nhất và dịch: “Tại sao các bà lại tìm “Đấng sống” giữa người chết? (TOB) thay vì dịch: “Tại sao các bà tìm người đang sống…” Hiểu như thế, lời tuyên bố của các thiên thần hàm chứa thần học của thánh Phaolô và Gioan; theo thần học ấy, Đức Kitô đồng hóa với sự sống (Ga 1,4; 11,25; 14,6), là nguồn mạch sự sống (10,10; Rm 5,10; 1Cr 15,45; Ga 5,11). Những người Hy lạp thường định nghĩa thần tính bằng bất tử tính vì họ thấy loài người là “hay chết”. Lc lấy hai cách đối chiếu này. Trên kia (c.3) ông đã dùng từ ngữ rất mạnh: “Chúa Giêsu” (Seigneur Jésus), thì đây cũng thế, ông đã gán cho chữ “đấng sống” một nội dung phong phú như niềm tin của Giáo hội vào thiên tính của Chúa Giêsu, thiên tính mà cuộc phục sinh đã xác nhận.

3. Lời của các thiên thần bao hàm một sự khiển trách: các bà đã quên lời tiên báo về tử nạn và phục sinh của Đức Kitô. Các môn đệ làng Emmau (c.25-26) và các tông đồ (c.38) cũng bị khiển trách như vậy. Lời thiên thần trách móc phụ nữ làm chúng ta nhớ lại lời Chúa Giêsu đã thưa với mẹ Ngài trong đền thờ: “Thế thì tìm con làm gì? …” (Lc 2,49). Ai biết Chúa Giêsu trong mầu nhiệm cao siêu của Ngài thì biết tìm Ngài ở đâu. Các phụ nữ tìm Ngài ở nơi Ngài không thể ở. Tìm một người chết giữa những kẻ chết có gì lạ đâu. Nhưng đối với Chúa Giêsu thì không phải thế; khi thấy mồ trống các phụ nữ phải hiểu là Chúa đã sống lại.

Nếu các môn đệ thực sự tin vào các lời tiên tri và các lời Chúa Giêsu dạy, thì họ đã không bối rối thất vọng khi Chúa Giêsu chết hoặc khi thấy mồ trống. Việc nhắc lại các lời tiên tri, Mt đã thêm vào các trình thuật của Mc. Vì làm sao Mt, kẻ luôn luôn nhấn mạnh Chúa Giêsu làm ứng nghiệm các lời tiên báo, lại không trình bày sự phục sinh của Chúa Giêsu như là thể hiện các lời đó được. Nhưng trong lúc ông chỉ ghi đại khái: “Ngài đã sống lại, như Ngài đã nói” thì Lc cho thiên thần trích lại một trong các lời tiên báo của Ngài và ông sẽ cho thấy Chúa Giêsu tự áp dụng lời tiên báo ấy trước mặt các môn đệ (cc.25-27; 44-46).

“Các bà hãy nhớ lại…”, thiên thần nói với các phụ nữ như thế. Tuy nhiên trong các phúc âm, chính các môn đệ chứ không phải các bà đã được nghe Chúa Giêsu loan báo cuộc tử nạn và phục sinh. Có cần tưởng tượng rằng các bà cũng được nghe Chúa Giêsu nói hoặc đã được các tông đồ nhắc lại cho không? Đối với Lc, chỉ cần biết rằng các bà có mặt trong phúc âm là đủ. Có lẽ chính vì vậy mà Lc đã thêm vào lời loan báo tử nạn đầu tiên câu này: “Hãy ghi kỹ vào tai các lời này” (Lc 9,44, so sánh với Mc 9,31; Mt 17,21). Câu “các bà hãy nhớ lại…” tương ứng với lời khuyến cáo đó.

Còn về điểm xác định “ngày thứ ba” mà ta đã thấy ở 9,22, có cần coi đó như là một sự ngẫu nhiên hay như một điểm mà các sứ ngôn đã nhắm đến? Và do bản văn nào trong Cựu ước? Các nhà chú giải bất đồng về vấn đề này. Có thể là Giáo hội sơ khai đã gán cho các đoạn tiên tri Ôse 6,2 và Giona 2,1 một tầm mức, một ý nghĩa thiên sai mà thực ra chúng không có theo bản nghĩa.

Lời các thiên thần khiển trách những phụ nữ không phải là vô ích. Các bà nhận ra trong mồ trống dấu hiệu ứng nghiệm lời tiên tri và tin rằng Chúa Giêsu đã sống lại. Gioan đứng trước sự kiện ấy cũng sẽ tin luôn (Ga 20,8b-9). Do đó đề tài “nhớ lại và hiểu được sau phục sinh lời tiên báo của Chúa Giêsu” là một điểm chung giữa hai phúc âm thứ ba và thứ tư (Ga 2,17.22; 7,39; 12,16; 13,7; 16,12-13).

4. Thường thường Lc thích nhấn mạnh tình cảm của các nhân vật trong phúc âm của ông, vui mừng và nhất là sợ hãi (1,12.14.65; 2,9). Nếu ở đây ông không nói đến tình cảm của các bà, là vì ông chỉ muốn làm nổi bật một sự kiện quan trọng: các bà đã tin. Đó không phải là một hành động thiếu suy nghĩ và nông cạn mà người ta thường gán cho tính nhẹ dạ của đàn bà như các tông đồ đã làm, nhưng đây là một đức tin đặt cơ sở vững chắc trên sự chứng thực các sự kiện: mồ trống, lời nói của các thiên thần chứng từ của Thánh kinh và của Chúa Giêsu.

“Họ đã nói lại hết các điều đó cho nhóm mười một, và cho mọi kẻ khác” (c.23). Chúng ta ghi nhận: từ ngữ “nhóm mười một”, không có túc từ “môn đệ”, là một tiếng đặc biệt chỉ có Lc dùng (so sánh Mt 28,16; Lc 24,9.33; Cv 2,14; còn Mc 16,14 có lẽ là tóm tắt Lc 24,36tt…) Đây là một tên gọi liên quan với tiếng “nhóm 12”. Nó chuẩn bị cho trình thuật tuyển chọn Matthias (Cv 1,15-26). Nhưng không phải chỉ có “nhóm 11” mới được báo tin. Dĩ nhiên các tông đồ là những chứng nhân chính thức của việc phục sinh (Cv 1,21-22); nhưng Lc đã cố ý nói rằng sứ mệnh đó không chỉ thuộc về họ. Bên cạnh nhóm 12, còn có “72” môn đệ khác, những người này cũng được lãnh nhận một sứ mệnh (Lc 10,1-16). Hai môn đệ làng Emmau là hai người trong bọn họ đã làm chứng cho sự phục sinh (so sánh c.9 với c.22; x. cc.33-35; 1Cr 15,6).

Chúng từ của các bà rất vững chắc, không những vì đức tin họ dựa trên các sự kiện đã xảy ra, mà còn vì chính con người họ nữa (c.10). Họ là những kẻ theo Chúa Giêsu từ Galilê, nhất là Maria Mađalêna và Gioanna, vợ của ông quản gia vua Herodê (8,2-3), cũng như bà Maria mẹ Giacobê mà Mc đã nói tới (16,1). Còn Salomé (Mc 16,1) có lẽ ít được biết đến hơn nên Mt đã không kể tên. Lc thay vào Gioanna mà các độc giả ông đã biết để làm chứng nhân tiêu biểu.

Để chứng thực rằng Chúa Giêsu đã sống lại ra khỏi mồ, hỏi có chứng nhân nào xứng đáng hơn các bà ấy, những người đã tẩm liệm Chúa Giêsu, đã nhìn ngôi mộ và đã thấy cách thức đặt xác Chúa vào đó? (23,55). Lc đã nhấn mạnh điểm này hơn các tác giả phúc âm khác. Nhưng mặc dầu có giá trị, chứng tá các bà cũng không đủ để thuyết phục các môn đệ quá thất vọng; họ chỉ thấy đó là chuyện nhảm nhí đàn bà (c.11; x. 22-24).

5. Chỉ có Phêrô bị đánh động và muốn tự mình kiểm chứng. Trong khi Mc và Mt không biết đến giai thoại này thì Gioan đã kể lại với nhiều chi tiết hơn Lc và đã dàn cảnh “người môn đệ kia” (20,2-10) bên cạnh Phêrô. Phải chăng Lc (hoặc một trong các môn đệ) đã tóm tắt Gioan hoặc truyền thống Gioan đã khai triển Lc? Vấn đề này khó giải quyết vì trình thuật Lc hàm chứa từ ngữ của ông lẫn Gioan. Hai bên đã lần lượt ảnh hưởng nhau. Các độc giả của Gioan có nhiều lý do để biết việc ông đến mộ và tuyên xưng đức tin; còn Lc thì không để ý đến chuyện đó làm gì, không phải vì ông không biết đến (x.c.24) nhưng vì ông muốn tập trung chú ý của độc giả vào một mình Phêrô thôi.

Phêrô, với thói quen phản ứng bộp chộp, chạy ngay đến mồ, và nhận thấy xác Chúa Giêsu đã biến mất. Nhận xét này chỉ làm cho ông ngạc nhiên. Ông không biết phải nghĩ thế nào. Phúc âm thứ tư xác nhận bạn đường của Phêrô đã tin và do đó cho thấy ông chưa tin việc Chúa sống lại. Lc kín đáo hơn, vì mục đích của ông là nhấn mạnh vai trò quan trọng của Phêrô hơn là vạch trần yếu đuối của vị tông đồ.

Sở dĩ Lc thuật ngay hành động của của Phêrô, mặc dầu hành động ấy khi đi đến thái độ đức tin, là vì ông muốn chuẩn bị cho những gì ông sắp nói trong phần còn lại của chương này, nhất là trong Cv, về chứng từ phục sinh của Phêrô. Lc, thần học gia về đời sống giáo hội, biết rằng đức tin của giáo hội về sự phục sinh dựa trên đức tin của Phêrô, nên ông đã nhấn mạnh một cách đặc biệt đức tin của vị trưởng tông đồ và do đó làm cho chúng ta chứng kiến sự phát triển chậm chạp của nó nơi Phêrô.

Dưới đôi mắt của Lc, Phêrô là một chứng nhân tuyệt hảo của sự phục sinh. Theo lời các môn đệ (c.34) và theo Phaolô (1Co 15,5) thì ông đã được Chúa hiện ra cho cách đặc biệt trong chính ngày phục sinh. Ngày hiện xuống, Phêrô sẽ nhân danh “nhóm mười hai” để công bố sự kiện này (Cv,14-36; 3,12-26; 4,8-12). Vậy việc thấy mồ trống đã không gợi lên đức tin nơi Phêrô, thì việc nhìn thấy Đấng sống lại sẽ làm cho ông trở thành một người có đức tin không lay chuyển nổi. Chính vì thế, ông có thể “trở lại” và từ đấy “củng cố đức tin anh em mình” (Lc 22,32).

KẾT LUẬN

Mồ trống và những khăn liệm tháo ra tự chúng không đưa đến đức tin vào sự phục sinh của Chúa Giêsu. Nhưng tác giả phúc âm xác tín rằng sau khi sống lại, xác Chúa Giêsu không thể còn nằm trong mồ, người ta không thể tìm thấy Ngài ở đó nữa. Sự phục sinh của Chúa Giêsu là sự phục sinh thể xác. Sự phục sinh đó đã được các thiên thần công bố và được đối chiếu với những lời Chúa Giêsu tiên báo lúc Ngài còn tại thế. Chỉ còn đợi Chúa Giêsu phục sinh hiện ra là hoàn toàn xác tín.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1. Chúng ta đã nghe nhiều câu chuyện sống lại. Chính Chúa Giêsu đã cho nhiều người chết sống lại. Phúc âm kể cho chúng ta việc Ngài cho con trai bà góa thành Naim, con gái ông Giairô và Lazarô bạn Ngài sống lại Mt cũng thuật: khi Chúa Giêsu chết, thì “xác của nhiều thánh đã yên nghỉ được sống lại” (Mt 27,52). Nhưng những kẻ được Chúa cho sống lại thực sự chỉ là được hồi sinh. Họ trở về lại cuộc sống như bao người khác, chịu những định luật thông thường của kiếp người và rồi cũng sẽ chết. Họ là dấu chỉ cho một cuộc phục sinh khác, cuộc phục sinh của Chúa Giêsu mà chúng ta mừng lễ hôm nay.

Thật vật, đối với Đức Kitô hoàn toàn khác. Sự phục sinh của Ngài không giống tí nào sự hồi sinh của Lazarô hay của con gái ông Giairô. Nếu đọc những trình thuật phúc âm về những lần Chúa Giêsu hiện ra cho các tông đồ sau khi sống lại, trước tiên chúng ta nhận thấy rằng Chúa Giêsu đi đứng như một người sống bình thường: Ngài ăn với các tông đồ cho người ta nhìn thấy để nhận ra; Ngài nói, Ngài nghe, Ngài kêu tên những ai Ngài gặp, Ngài đề nghị họ đến sờ những thương tích Ngài, để bảo đảm Ngài đang thực sự hiện diện.

Nhưng sự sống của Ngài rất khác lạ. Ngài đang sống, nhưng được lúc đi đứng như một người thường thì Ngài lại có thể hành động cách khác như thể Ngài đã thoát khỏi thân phận, điều kiện con người. Không gian và thời gian, các vật thể đặc cứng không đáng kể đối với Ngài. Trong Đức Kitô phục sinh, hiện ra một con người hoàn toàn mới mẻ, chưa bao giờ gặp thấy. Ngài vừa là một con người, vừa là một tinh thần thuần túy (pur esorit). Thật khó mà diễn tả vì Ngài rất giống chúng ta nhưng cũng lại rất khác chúng ta. Ngài đạt đến một trạng thái đã hứa từ lâu nhưng chưa bao giờ thực hiện. Đó là trạng thái con người “đi ngang qua thế gian này mà về cùng Cha”.

Đó là sự kiện phục sinh của Chúa Kitô, một sự kiện duy nhất nhưng làm đảo lộn tất cả. Chúa Giêsu là người đầu tiên và là người duy nhất được lịch sử đã đi qua cái chết và đã sống lại nguyên vẹn với thân xác Ngài đã chết và sau đó đã trở về; dĩ nhiên Ngài không tỏ tâm sự bí mật, không nói cho chúng ta hay Ngài đang cảm thấy gì để chúng ta thỏa mãn tính tò mò. Ngài làm hơn thế, Ngài nói cho chúng ta biết cái chết có mục đích gì và ý nghĩa nào. Ngài bảo chúng ta đừng sợ chết, vì nó đưa chúng ta đến trạng thái chung cục, khởi điểm cho một cuộc sống mới một sáng tạo mới.

2. Cuộc sống mới này, mà Chúa Giêsu là người đầu tiên sinh ra trong đó, chúng ta có thể kinh nghiệm được ngay từ bây giờ. Nó không phải là một giả thiết cho tương lai, song là một thực tại hiện thời. Đó là tất cả ý nghĩa của phép thánh tẩy và sức mạnh canh tân của nó mà ta đang thấy qua các cử hành phục sinh. Nếu Chúa Giêsu là trưởng tử của tạo vật mới, thì không nguyên một mình Ngài mà tất cả những ai được rủa tội, ngay từ bây giờ, đã làm thành một dòng tộc mới giống Chúa Giêsu. Và đây là vai trò chính yếu của Giáo hội: loan báo cho thế gian biết rằng: Chúa Giêsu đã sống lại và trao ban sự sống mới của Ngài cho mọi người nhờ phúc âm.

3. Những tín hữu đã chịu phép thánh tẩy giống Chúa Giêsu phục sinh. Họ giống đồng thời cũng khác biệt mọi người. Như mọi người, họ sống giữa thế gian; họ nói, họ làm, họ lao động, họ đau khổ và họ sung sướng giống hệt những người khác. Như mọi người và với mọi người, họ cộng tác vào việc là chủ vũ trụ và nỗ lực xây dựng một thế giới công bình và bình an.

Khác với mọi người, họ không đóng khung trong trần gian. Họ biết rằng trần gian này không phi lý như một vài người nghĩ, cũng quá đủ như một số người chủ trương. Họ biết rằng Thiên Chúa muốn con người, chấp nhận trần gian với tất cả yêu sách của nó, họ biết rằng phải tùng phục các định luật của sáng tạo, họ cũng hiểu rằng trần gian này không vĩnh cửu mà chỉ là một hình thức chuyển tiếp của một thực tại luôn tiến về việc thiết lập Nước Thiên Chúa.

4. Chúng ta hãy canh tân phép rửa của chúng ta lại trong sức mạnh nguyên tuyền của nó để củng cố sự hiện hữu của thế giới mới đã được Chúa Giêsu phục sinh khai mào. Muốn thế, chúng ta phải không ngừng từ bỏ tội lỗi và sự chết của con người và luôn luôn sống Chúa Giêsu là sự sống của nhân loại.

 

24.Lễ Vượt Qua hôm nay

“Tại sao lại tìm người sống nơi kẻ chết? Ngài không còn ở đây nữa. Ngài đã sống lại rồi”. Đó là những lời mà các bà Maria Mađalêna, bà Gioanna và bà Maria –mẹ của Giacôbê đã được nghe từ ngôi mộ được khoét sâu trong núi đá. Chính trong ngôi mộ này, xác Chúa Giêsu đã được mai táng sau khi Ngài chết trên Thập giá. Hôm đó là buổi chiều ngày thứ sáu, bởi vì tại Giêrusalem Lễ Vượt qua bắt đầu vào lúc hoàng hôn.

Nhưng hôm sau ngày Sabát, vào lúc rạng đông, ngôi mộ chôn xác Chúa Giêsu bỗng trở nên trống rỗng và tảng đá lấp cửa mộ đã bị đẩy ra ngoài. Các bà đã nghe tiếng thiên sứ loan báo: “Đức Giêsu đã sống lại rồi, Ngài không còn ở đây nữa. Tại sao lại tìm người sống ở nơi kẻ chết?”.

Thưa anh chị em,

Lễ Vượt Qua được người Do Thái mừng vào đêm thứ bảy, kỷ niệm cuộc Vượt Qua của Thiên Chúa để giải phóng dân Israel khỏi ách nô lệ Ai Cập và đưa họ lên đường tiến về Đất Hứa. Trong đêm Vượt Qua này, Thiên Chúa lại một lần nữa vượt qua trên con đường Khổ Nạn của Đức Kitô, vượt qua cái chết trên Thập giá tại đồi Golgotha, để giải phóng Đức Kitô từ cõi chết đến cõi sống, vào lúc rạng đông ngày thứ nhất trong tuần.

Trong Đức Kitô chịu đóng đinh và sống lại, Thiên Chúa đã thực hiện công cuộc giải phóng cho toàn thể nhân loại. Trong Đức Kitô chịu đóng đinh và sống lại, thế giới này đã được hoàn trả lại cho Thiên Chúa để được canh tân đổi mới theo kế hoạch của Thiên Chúa và đạt được sự viên mãn theo ý định của Thiên Chúa từ ban đầu.

Ngày nay Thiên Chúa vẫn tiếp tục vượt qua để biến đổi thế giới chúng ta đang sống, một thế giới với những cố gắng và những thất bại xen lẫn với những thành công trong quá khứ và trong hiện tại.

Thiên Chúa vượt qua để giải phóng con người khỏi sợ hãi đang đè nặng lên không biết bao nhiêu anh chị em của chúng ta. Họ đang phải đương đầu với những bấp bênh của thế giới.

Thiên Chúa vượt qua nơi nào sự chết vẫn còn giương ra nanh vuốt hãi hùng của nó.

Thiên Chúa vượt qua nơi nào khổ đau đã in những dấu vết của nó trên thân xác và tâm hồn con người.

Thiên Chúa vượt qua nơi nào con người chưa có được những điều kiện để sống xứng với phẩm giá của con người, vì không nhà không cửa, vì cuộc sống đau khổ, vì lưu vong, vì ốm đau, bệnh tật…

Thiên Chúa vượt qua nơi nào lòng ích kỷ đang bóp nghẹt đời sống hôn nhân gia đình, khiến cho bao nhiêu trẻ em vô tội không được quyền sống.

Thiên Chúa vượt qua nơi nào có gia đình đổ vỡ, nơi nào trẻ em bị khai thác trong thể xác cũng như trong tinh thần.

Thiên Chúa vượt qua nơi nào đang xảy ra những cuộc đổi chác bất lương, những buôn bán ma tuý, những tệ nạn xã hội nhằm đầu độc giới trẻ.

Thiên Chúa cũng vượt qua nơi nào đang diễn ra những cuộc chiến đẫm máu như tại Liên bang Nam Tư ở Kosovo Bắc Ailen, Algiêri… Hoà bình mà con người hằng mong ước vẫn chưa được nhìn thấy, nơi nào con người –dù là anh em với nhau- đang chém giết lẫn nhau, đưa đến cảnh huỷ hoại và hận thù.

Đó chính là ý nghĩa mà Lễ Vượt Qua muốn loan báo cho thế giới ngày nay, một thế giới dường như đang tiến đến chỗ tự huỷ, đang lần bước vào cõi chết mà không hay biết. Giáo Hội đứng bên mộ Chúa Giêsu, như những người phụ nữ là những người đầu tiên có mặt tại đó, tiếp tục loan truyền Mầu nhiệm Vượt Qua đổi mới mọi sự. “Hãy nhìn xem tảng đá lấp cửa mộ được đẩy ra ngoài và ngôi mộ trống rỗng. Tại sao lại tìm người sống nơi kẻ chết. Ngài không còn ở đây nữa. Ngài đã sống lại rồi!”.

Anh chị em thân mến,

Trong đêm nay, Giáo Hội nhắc lại cho chúng ta cuộc Vượt Qua lịch sử này và mời gọi chúng ta đi theo Chúa Kitô để thực hiện cuộc vượt qua của chính mỗi người. Qua Bí tích Thánh Thể, mỗi người chúng ta đã thực hiện một cuộc vượt qua mới với Chúa Kitô Phục Sinh. Chúng ta đã cùng với Chúa Kitô chết cho tội lỗi chúng ta, đã cùng được mai táng với Ngài và cùng với Ngài được sống lại làm con cái của Thiên Chúa. Thật vậy, qua Bí tích Thánh Tẩy, chúng ta đã được tham dự vào sự chết và sự sống lại vinh quang của Chúa Kitô. Thánh Phaolô đã nói: “Khi chúng ta được dìm vào nước Thánh Tẩy để nên một với Đức Kitô là chúng ta được dìm vào cái chết của Ngài, chúng ta đã cùng được mai táng với Ngài. Bởi thế, cũng như Ngài đã chỗi dậy từ cõi chết do quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới như vậy” (Rm 6,3-5).

Tuy nhiên, Bí tích Thánh Tẩy mới chỉ là cuộc Vượt Qua khởi đầu của đời sống Kitô hữu. Bao lâu còn sống ở trần gian, bấy lâu chúng ta còn phải liên tục vượt qua cảnh nô lệ của tội lỗi, vượt qua sự ác dưới mọi hình thức, cho đến khi hoàn thành cuộc vượt qua quyết định cuối cùng để tiến vào Đất Hứa Quê Trời, Phục Sinh vinh quang với Chúa Kitô.

Giờ đây, để sống lại ý nghĩa của Mầu nhiệm Vượt Qua của mỗi người, chúng ta sẽ lặp lại lời hứa của Bí tích Thánh Tẩy và cầu xin Chúa chúc phúc cho nước này. Chính trong nước của Bí tích Thánh Tẩy, Thiên Chúa đã giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi và nhận chúng ta làm con cái của Ngài, cũng chính khi được dìm trong nước này, chúng ta đã chết cho con người cũ để được sống một cuộc sống mới. Đó chính là Lễ Vượt Qua của chúng ta hôm nay.

 

Bài cùng chuyên mục:

Thứ Bảy 23/11/2024 – Thứ Bảy tuần 33 thường niên. – Chúa Giêsu xác định rõ ràng về sự sống lại. (22/11/2024 10:00:00 - Xem: 2,268)

Thứ Bảy tuần 33 thường niên.

Thứ Sáu 22/11/2024 – Thứ Sáu tuần 33 thường niên. – Thánh Cêcilia, trinh nữ, tử đạo. Lễ nhớ. – Ðền thờ, nơi gặp gỡ Chúa. (21/11/2024 10:00:00 - Xem: 5,464)

Thánh Cêcilia, trinh nữ, tử đạo. Lễ nhớ.

Thứ Năm 21/11/2024 – Thứ Năm tuần 33 thường niên – Đức Mẹ dâng mình trong đền thờ. Lễ nhớ. – Ðức Mẹ Dâng Mình Vào Ðền Thờ. (20/11/2024 10:00:00 - Xem: 6,310)

Đức Mẹ dâng mình trong đền thờ. Lễ nhớ.

Thứ Tư 20/11/2024 – Thứ Tư tuần 33 thường niên. – Nén bạc sinh lời. (19/11/2024 10:00:00 - Xem: 3,775)

Thứ Tư tuần 33 thường niên.

Thứ Ba 19/11/2024 – Thứ Ba tuần 33 thường niên. – Thể hiện hoán cải cách cụ thể. (18/11/2024 10:00:00 - Xem: 3,782)

Thứ Ba tuần 33 thường niên.

Thứ Hai 18/11/2024 – Thứ Hai tuần 33 thường niên. – Người mù thành Giêricô. (17/11/2024 10:00:00 - Xem: 3,871)

Thứ Hai tuần 33 thường niên.

+ Chúa Nhật 17/11/2024 – CHÚA NHẬT 33 THƯỜNG NIÊN năm B. – CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM. Bổn mạng Giáo Hội Việt Nam. – Làm chứng cho Chúa. (16/11/2024 10:00:00 - Xem: 15,061)

CHÚA NHẬT 33 THƯỜNG NIÊN năm B. – CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM.

Thứ Bảy 16/11/2024 – Thứ Bảy tuần 32 thường niên. – Cầu nguyện là sức mạnh. (15/11/2024 10:00:00 - Xem: 3,555)

Thứ Bảy tuần 32 thường niên.

Thứ Sáu 15/11/2024 – Thứ Sáu tuần 32 thường niên. – Sống trong ngày của Chúa. (14/11/2024 10:00:00 - Xem: 3,948)

Thứ Sáu tuần 32 thường niên.

Thứ Năm 14/11/2024 – Thứ Năm tuần 32 thường niên. – Sống giây phút hiện tại. (13/11/2024 10:00:00 - Xem: 3,698)

Thứ Năm tuần 32 thường niên.

Bài viết mới
Câu chuyện chiều thứ 7