Tài liệu - Giáo huấn

Nguyên tắc lãnh đạo của Đức Kitô

  • In trang này
  • Lượt xem: 4,612
  • Ngày đăng: 14/08/2021 08:19:05

Nguyên Tắc Lãnh Đạo Của Đức Kitô

 

http://simonhoadalat.com/

1.Chúa Giêsu – Nhà Lãnh Đạo Đích Thực

Một anh bạn nọ đứng nói chuyện với một nhóm trẻ em. Anh ăn mặc như một nhân vật trong Kinh thánh, anh ấy nói: “Tôi có điều muốn nói với các em – điều mà tôi chưa từng nói với ai khác trước đây.” Anh ấy kéo áo choàng ra để lộ một chữ S lớn trên phông áo của mình. “Các em,” anh ấy nói, “Tôi là Siêu nhân!” (Superman)

 

Những đứa trẻ cười phá lên. Một đứa trẻ đã la lên: “Nếu anh là Siêu nhân, hãy bay lên trần nhà đi!”. Một em khác lại nói: “Anh là Siêu nhân, thế anh có nhấc được chiếc xe hơi kia lên không?”

 

Nhiều người tuyên bố họ là ai, nhưng không phải ai cũng có thể chứng minh. “Vấn đề là một khi bạn nói với tôi bạn là Siêu nhân, bạn phải chứng minh được điều đó!”

 

Lãnh đạo cũng hoạt động theo cùng một cách. Bất cứ khi nào ai nói “Tôi là một nhà lãnh đạo”, người đó sẽ được thử thách. Người đó phải chứng minh được điều mình nói. Chứng minh thế nào? Loại bằng chứng rõ ràng nhất cho thấy một người là nhà lãnh đạo là người đó có những người đi theo (followers). Nếu bạn không có người đi theo bạn không phải là nhà lãnh đạo.

 

Người đi theo là những người tin tưởng vào bạn và đủ tin tưởng để tiếp bước bạn. Họ xác nhận khả năng lãnh đạo của bạn bằng cách nói với bạn, “Tôi nhận ra khả năng lãnh đạo của bạn. Tôi tin bạn. Tôi muốn được như bạn. Tôi muốn học từ bạn. Tôi muốn đến nơi mà bạn dẫn tôi đi”.

 

Theo định nghĩa, nhà lãnh đạo là người làm việc thông qua những người khác để đạt được mục tiêu hoặc dự kiến hay còn gọi là tầm nhìn (vision). Một tổng thống đặt ra dự kiến hoặc định hướng cho quốc gia, sau đó ủy quyền cho nhân viên và nội các của mình đạt được dự kiến đó, làm việc với Quốc hội để ban hành dự kiến đó. Giám đốc điều hành của công ty đưa ra dự kiến cho công ty, làm việc thông qua đội ngũ quản lý để thực hiện dự kiến đó và thúc đẩy lực lượng lao động thực hiện dự kiến đó ở mọi cấp độ. Trong một giáo xứ, linh mục nêu rõ dự kiến (vision) dựa trên kế hoạch chung của giáo phận cho giáo xứ, và làm việc thông qua hội đồng Mục vụ giáo xứ, các ban ngành, hội đoàn, giáo lý viên, nhân viên và tình nguyện viên, và tất cả các thành viên để chuyển đổi tầm nhìn đó thành mục vụ với Đức Kitô là trung tâm.

 

Hình mẫu cuối cùng của sự lãnh đạo hiệu quả là Chúa Giêsu Kitô. Trong ba năm sứ vụ của mình, Chúa Giêsu đã làm việc thông qua mọi người để đạt được thực tại là Nước Trời. Người bắt đầu kêu gọi một nhóm gồm mười hai người từ các tính khí và hoàn cảnh khác nhau, bao gồm ngư phủ (Simon, Andrew, James và John), những người cực đoan chống chính phủ (Simon Nhiệt thành và Judas Iscariot), và một người ủng hộ chính phủ (Matthew – người thu thuế). Chúa Giêsu đã dìu dắt những môn đồ này, dạy dỗ họ và thử thách họ, đồng thời liên kết họ thành một lực lượng thống nhất tập trung vào một mục tiêu duy nhất. Sau đó, Người đẩy họ ra khỏi vùng an toàn của họ (comfort zone) và giao những nhiệm vụ quan trọng cho họ, và cuối cùng thành lập Giáo hội của mình thông qua họ.

 

Chúa Giêsu đã làm việc thông qua Nhóm Mười Hai để thành lập một Giáo Hội đã tồn tại trong hai thiên niên kỷ và hiện đang hoạt động trên toàn cầu. Chúa Giêsu đã truyền cảm hứng cho những người đã tin vào Người và bước theo Người. Khi bước theo và noi gương cuộc đời của Người, họ đã trở thành nhân chứng, xác nhận rằng Người thực sự là Đấng Kitô – người lãnh đạo được hứa trong Cựu Ước, được Thiên Chúa xức dầu, là dòng dõi của Đa-vít, và được sai đến để cứu dân của Người.

 

Chúa Giêsu cũng chia sẻ dự kiến của mình với một nhóm môn đồ rộng lớn hơn và với quần chúng, và Người đã truyền cảm hứng cho sự tự tin và nhiệt tình về viễn tượng của mình về một vương quốc sắp đến. Trong quá trình đúc kết dự kiến về vương quốc của mình và giảng dạy qua các câu chuyện dụ ngôn, Người đã cho phép mọi người tự mình nhìn thấy tầm nhìn của Người, và Người đã thu hút nhiều người đến với tầm nhìn của mình. Chúa Giêsu, Đấng Mê-si-a đã tạo ra một cộng đồng gồm những người tập trung vào tầm nhìn vương quốc của Người, và bằng cách dẫn dắt, giảng dạy, thúc đẩy và truyền cảm hứng cho những người đó, Người đã thay đổi thế giới.

 

Như chúng ta thấy trong Phúc âm của Gioan, Chúa Giêsu đưa ra bảy bằng chứng cơ bản, bảy xác nhận rõ ràng rằng ngài thực sự là Đấng Mê-si-a, vị lãnh đạo được xức dầu của Thiên Chúa. Sau khi xem xét bảy bằng chứng đó, chúng ta sẽ thấy cách áp dụng các bài học về phong cách lãnh đạo của Chúa Giêsu cho mọi lĩnh vực lãnh đạo – chính phủ và tập đoàn, nhà thờ và trường học, đơn vị quân đội và đội thể thao, vv… Nói cách khác, những gì chúng ta biết được hay học được trong khoa Quản trị học hiện đại, đều bắt nguồn trực tiếp từ Kinh Thánh Tân Ước qua cuộc đời Chúa Giêsu và bàng bạc trong các ký sự Cựu Ước.

 

1/ Nhân Chứng Đầu Tiên: Đức Chúa Cha

Bằng chứng đầu tiên mà Chúa Giêsu đưa ra để xác nhận vai trò lãnh đạo của ngài là nhân chứng về Đức Chúa Cha. Ngưới nói với những người nghe mình, “Và Cha là Đấng đã sai tôi, đã làm chứng về tôi” (Ga 5: 37a). Chúa Giêsu có ý gì? Người đang nói về việc đóng dấu chấp thuận của Đức Chúa Cha — một lời khẳng định mà Đức Chúa Cha đã ban hành công khai, ngay sau khi Chúa Giê-su được Gioan Tẩy Giả làm phép rửa. Trong phúc âm của Mát-thêu, chúng ta đọc: Khi Đức Chúa Giêsu chịu phép rửa xong, vừa ở dưới nước lên, thì các tầng trời mở ra. Người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người. Và có tiếng từ trời phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người.” (Mt 3: 16-17). Trước sự chứng kiến ​​của Gioan Tẩy Giả và nhiều nhân chứng khác, Thiên Chúa Cha đã công khai về mối quan hệ vĩnh cửu giữa Ngài và Chúa Giêsu thành Nazareth. Ở đây chúng ta thấy một sự tương phản hoàn toàn giữa Chúa Giêsu và mọi người khác được gọi là “đấng cứu thế”, những người tuyên bố đã đến nhân danh Thiên Chúa. Ví dụ, Joseph Smith, người sáng lập ra giáo phái Mormon, đã tuyên bố rằng ông chỉ có một mình vào ban đêm trên một ngọn đồi nhiều cây cối, khi ông được một thiên thần đến thăm; và thiên thần đã tiết lộ một tôn giáo mới cho ông ta từ một cuốn sách bằng vàng. Muhammad, người sáng lập đạo Hồi, được cho là đã vào đền thờ Jerusalem vào ban đêm và tuyên bố nghe thấy tiếng Chúa nói với mình khi ông ở một mình.

 

Duyệt qua lịch sử của các tôn giáo khác nhau, chúng ta nghe thấy những lời tuyên bố lặp đi lặp lại “vào nửa đêm, khi không có ai khác ở xung quanh, Thiên Chúa đã nói chuyện với tôi”. Nhưng Chúa Giêsu không phải đưa ra những tuyên bố chưa được xác minh về một sự mặc khải vào ban đêm. Đức Chúa Cha đã công khai xác nhận Con Ngài là Đấng Kitô được xức dầu. Vào một dịp ít công khai hơn, Chúa Giêsu đã đưa ba môn đồ thân cận nhất của ngài, đến một ngọn núi (sau này được gọi là Núi Biến Hình). Những gì ba môn đồ này đã chứng kiến ​​vào đêm đó được ghi lại trong phúc âm của Mác-cô: “Sáu ngày sau, Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, chỉ mình các ông thôi, tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy. Và ba môn đệ thấy ông Êlia cùng ông Môsê hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu. Bấy giờ Phêrô thưa với Đức Giêsu rằng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia.” Thực ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng. Bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Và từ đám mây có tiếng phán rằng: “Đây là con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người.” Các ông chợt nhìn quanh, thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi.” (Mc 9: 2-8). Thân phận cứu thế của Chúa Giêsu đã được xác nhận khi Chúa Giêsu trò chuyện với Êlia và Môse, và như tiếng Thiên Chúa phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta.” Chúa Giê-su không phải là một nhà lãnh đạo tự xưng, tự xức dầu. Quyền Chúa Giêsu được gọi là là Đấng Mê-si-a đã được Đức Chúa Cha công bố, và lời công bố đó đã được nhiều nhân chứng nghe thấy.

 

2/ Nhân chứng thứ hai: Gioan Tẩy Giả

Chương mở đầu của phúc âm Gioan cho thấy lời chứng của một nhân chứng thứ hai – Gioan Tẩy Giả: “Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người. Tôi đã không biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: “Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần.” Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn.” (Ga 1: 32-34). Như sau này Chúa Giêsu nói về Gioan Tẩy Giả: “Chính các ông đã cử người đến gặp ông Gioan, và ông ấy đã làm chứng cho sự thật” (Gn 5:33). Gioan Tẩy Giả, người tự gọi mình là “tiếng người hô trong hoang địa” là người dọn đường và là nhân chứng cho Chúa Giêsu, một người được Thiên Chúa sai đến với một sứ vụ độc nhất là để xác nhận cho thế giới biết danh tính của Chúa Giêsu là Đấng Mê-si-a.

 

3/ Nhân chứng thứ ba:Chính Chúa Giê-su

Có vẻ lạ khi Chúa Giêsu tự mình đến chỗ làm chứng để làm chứng cho sứ vụ của chính ngài với tư cách là Đấng Mê-si-a được xức dầu của Thiên Chúa. Nhưng sau khi đề cập đến nhân chứng xác nhận của Cha ngài và Gioan Tẩy Giả, Chúa Giêsu nói: “Tôi có một lời chứng còn lớn hơn lời chứng của ông Gioan: Đó là những việc Chúa Cha đã giao cho tôi để tôi hoàn thành; chính những việc tôi làm đó làm chứng cho tôi rằng Chúa Cha đã sai tôi.” (Ga 5:36). Sau đó, Chúa Giêsu nói: “Ta và Cha là một” (Ga 10:30). Những người nghe Chúa Giêsu hiểu chính xác những gì Người đang nói, và họ nhặt đá định ném Người cho đến chết. Họ biện minh cho ý định giết Người rằng: “Chúng tôi ném đá ông không phải vì một việc tốt đẹp, nhưng vì một lời nói phạm thượng: ông là người phàm mà lại tự cho mình là Thiên Chúa” (Ga 10:33). Vào một dịp khác, Chúa Giêsu nói với dân chúng rằng vì họ đã thấy Ngài, nên họ đã thấy Thiên Chúa là Cha (Ga 14: 7). Chúa Giêsu không chỉ tuyên bố có mối quan hệ duy nhất và vĩnh cửu với Thiên Chúa. Tất cả mọi thứ về cuộc sống của Người đã hỗ trợ cho tuyên bố này. Qua bằng chứng về cuộc đời mình, Chúa Giêsu đã nói rõ rằng ngài là một nhà lãnh đạo cần được noi theo.

 

4/ Nhân chứng thứ tưChúa Thánh Thần

Như chúng ta đã lưu ý, Chúa Thánh Thần qua hình chim bồ câu xác nhận Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa khi Ngài chịu phép rửa trên sông Gio-đan. Mặc dù câu chuyện được trình bày cho chúng ta một cách tuyệt vời với ngôn ngữ tượng trưng, nhưng ​​chắc chắn có những chiều sâu đối với sự chứng kiến ​​của Chúa Thánh Thần trong cuộc đời của Chúa Giêsu mà chúng ta không hiểu hết được. Nhưng chúng ta biết rằng Chúa Thánh Thần đã xác nhận sứ vụ và quyền lãnh đạo của Chúa Giê-su. Sự hiện diện của Chúa Thánh Thần đã ban cho Chúa Giêsu thẩm quyền để rao giảng Tin Mừng và thực hiện nhiều phép lạ.

 

5/ Nhân chứng thứ năm: Kinh thánh

Cựu ước xác nhận quyền lãnh đạo của Chúa Giê-su. Các ngôn sứ báo trước sự tái lâm của ngài, sứ vụ thiên sai của ngài và cái chết của ngài. Một số lời tiên tri rõ ràng nhất về Chúa Giêsu đã được viết bởi ngôn sứ Isaia. Ông đã hình dung sự ra đời của Chúa Giêsu (Is 9: 6), sự đau khổ của Chúa Giêsu (Is 53: 4-10), thân phận tôi tớ của Chúa Giêsu (Is 42: 1-4), và thậm chí là lời loan báo về Chúa Giêsu của Gioan Tẩy Giả (Is 40: 3). Nhiều phân đoạn thiên sai khác, chẳng hạn như Thánh Vịnh 22, 69, 110 và 118, nói một cách sống động về cuộc đời, sứ vụ, quyền lãnh đạo của Chúa Giêsu, bị Israel khước từ, cái chết và sự phục sinh. Như Chúa Giêsu nói với những nhà lãnh đạo tôn giáo Do Thái đã bắt bớ ngài rằng: “Các ông nghiên cứu Kinh thánh vì nghĩ rằng nơi đó các ông sẽ tìm được sự sống đời đời; mà chính Kinh Thánh lại làm chứng về tôi. Các ông không muốn đến cùng tôi để được sự sống.” (Ga 5: 39-40).

 

6/ Nhân Chứng Thứ Sáu:Các Phép Lạ

Sứ vụ của Chúa Giêsu được xác nhận qua các phép lạ mà Người thực hiện. Phúc âm của Gioan gọi chúng là “những dấu chỉ”. Mặc dù Gioan kể ra ít phép lạ hơn bất kỳ những Thánh sử nào khác, nhưng những dấu chỉ mà ông đề cập đến đều làm chứng cho mục đích, quyền năng và quyền lãnh đạo của Chúa Giêsu. Điều quan trọng cần hiểu là Chúa Giêsu không thực hiện những dấu chỉ này như một hành động biểu diễn. Một người biểu diễn tìm kiếm sự chú ý sẽ biểu diễn các trò ảo thuật để gây kinh ngạc và thu hút đám đông. Chúa Giêsu thường thực hiện những phép lạ tuyệt vời nhất của mình một cách lặng lẽ, khuất tầm nhìn của công chúng, và Người thường nói với các nhân chứng rằng “đừng nói cho ai biết”. Việc miễn cưỡng làm phép lạ vì lúc đó niềm tin cứu độ của dân chúng còn yếu kém. Nên việc làm phép lạ chẳng qua để mọi người xác tín lời nói của Người: “Tôi không cần người đời tôn vinh” (Ga 5: 41).

 

7/ Nhân Chứng Thứ Bảy: Các Môn Đồ

Các môn đồ đã đi cùng Chúa Giêsu trong suốt sứ vụ ở thế gian của Người. Họ đã thấy những gì Người đã làm, đã nghe những lời Người dạy và đã tin Người. Khi các nhà lãnh đạo tôn giáo bắt bớ Chúa Giêsu và Người công khai nói về sự khó khăn khi đi theo Người, nhiều môn đồ đã quay lưng lại. Chỉ một số ít tiếp tục đi theo Người. Những người kiên trì với Chúa Giêsu bao gồm Simon Phêrô, ông nói: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời ban lại sự sống đời đời.” (Ga 6: 68). Khi nói điều đó, Phêrô không chỉ muốn nói rằng Chúa Giêsu biết các quy tắc của cuộc sống hoặc có thể giải thích cuộc sống nên được sống như thế nào; ý ông muốn nói rằng chính Chúa Giêsu là Nguồn và Đấng ban sự sống đời đời. Bản thân tác giả của phúc âm Gioan là một môn đồ của Chúa Giêsu. Trong câu kết phúc âm của mình, Gioan viết: “Chính môn đồ này làm chứng về những điều đó và đã viết ra. Chúng tôi biết rằng lời chứng của người ấy là xác thực.” (Ga 21: 24).

 

Những nhà lãnh đạo ngày nay

Chúng ta, những người tham gia vào vai trò lãnh đạo ngày nay khó có thể tự nhận mình sở hữu những phẩm chất đặc biệt của Chúa Giêsu, Đấng Mê-si-a. Nhưng bằng cách quan sát cuộc đời của Người, chúng ta học được nguyên tắc lãnh đạo quan trọng này: Lời kêu gọi lãnh đạo phải được xác nhận.

 

Điều gì sẽ xảy ra nếu ai đó bước vào văn phòng của bạn và nói, “Tôi đến để dẫn bạn đến sự thật”? Đầu tiên, cách tiếp cận kỳ lạ đó khiến bạn có thể nổi nóng và gọi bảo vệ để lôi cổ người đó ra khỏi văn phòng của bạn. Nhưng giả sử có điều gì đó về phong thái của người này khiến bạn muốn xem xét tuyên bố của anh ta. Làm sao bạn biết anh ấy là ai? Làm thế nào bạn sẽ kiểm tra tính hợp lệ trong lời tuyên bố của anh ta? Làm sao bạn biết người này có thể dẫn bạn đến sự thật hay không? Bạn chắc chắn sẽ hỏi một vài câu hỏi hợp lý: “Bạn có quyền nói thế hay thẩm quyền nào cho phép bạn nói thế? Bạn có mang theo bằng cấp hoặc chứng chỉ để chứng minh thân thế của bạn không? Tôi có thể xem lý lịch của bạn chứ? Bạn có lời giới thiệu của ai đó không?”

 

Một người không thể đơn giản đi ra ngoài và mong đợi được người khác đi theo mình như một nhà lãnh đạo. Một nhà lãnh đạo phải chứng tỏ mình có đủ năng lực để lãnh đạo. Điều này đúng cho dù một người là lãnh đạo trong cả lĩnh vực tôn giáo và thế tục.

 

Cha xứ của một giáo xứ phải vượt qua một số thử thách để đạt được vị trí lãnh đạo. Thông thường, một linh mục, trước hết phải được giáo quyền sở tại đào tạo, sau đó được truyền chức và bổ nhiệm. Bất cứ ai cũng có thể được đào tạo để trở thành một người lãnh đạo, nhưng để trở thành một linh mục, người lãnh đạo tinh thần trong Giáo Hội, chỉ có những người được Chúa chọn gọi và được truyền chức qua việc đặt tay của vị mục tử của Giáo Phận là Đức Giám Mục (xin xem thêm huấn thị mới của Bộ Giáo Sĩ với tựa đề “Hoán Cải Mục Vụ Cộng Đoàn Giáo Xứ Để Phục Vụ Sứ Mạng Truyền Giáo của Giáo Hội”, Ban hành ngày 27/06/2020). Các nhà lãnh đạo tôn giáo không phải linh mục thường được đào tạo và phát triển thành một người lãnh đạo, trở nên trưởng thành hơn về trí tuệ, tình cảm và tâm linh trong việc phục vụ anh chị em giáo dân. Trong suốt quá trình này, các nhà lãnh đạo và thành viên của Giáo Hội có cơ hội quan sát và nhận ra những năng khiếu và khả năng độc đáo của linh mục.

 

Các nhà lãnh đạo tinh thần đích thực cũng được xác nhận bởi những người bên ngoài Giáo Hội. Thánh Phaolô, khi hướng dẫn cho môn sinh của mình, Ti-mô-thê, về chủ đề truyền chức, nói rằng một nhà lãnh đạo thuộc tâm linh đích thực “phải được người ngoài chứng nhận là tốt, kẻo bị sỉ nhục, sa vào cạm bẫy của ma quỷ” (1Tm 3: 7). Quy tắc xác nhận này cũng áp dụng trong môi trường lãnh đạo thế tục. Cho dù trong kinh doanh, chính phủ, quân đội, học viện, hoặc thậm chí trong nhà, mọi người phải học và nắm giữ quyền lãnh đạo. Tôi có thể tin rằng tôi đã được bổ nhiệm để lãnh đạo công ty Apple, nhưng nếu tôi bước vào trụ sở chính của công ty Apple ở Cupertino, California và thông báo: “Tôi đến đây để tiếp quản”, tôi bảo đảm với bạn rằng họ sẽ nghĩ tôi là một gã điên và thay vì đưa tôi vào vị trí văn phòng CEO. Rất có thể, tôi sẽ được bảo vệ dẫn ra bãi đậu xe và đuổi tôi ra khỏi cổng.

 

Nếu tôi muốn trở thành Giám đốc điều hành của một tập đoàn lớn, tôi sẽ phải trải qua một quá trình xác nhận. Tôi sẽ phải kiên nhẫn bắt đầu từ phía dưới và từ từ leo lên bậc thang sự nghiệp (career ladder). Tôi sẽ phải lắng nghe, học hỏi, được cố vấn và hướng dẫn, thể hiện sự chủ động và sáng tạo, có được các kỹ năng, kết bạn và kết nối có ảnh hưởng, và dần dần tiến lên các nấc thang của công ty. Ở mỗi cấp độ nghề nghiệp của tôi, một số cá nhân — hoặc nhiều khả năng hơn, một nhóm cá nhân — sẽ phải xem xét công việc của tôi, đánh giá tính cách của tôi và nói, “Vâng, anh ấy đã sẵn sàng. Anh ấy đã đạt được cơ hội để tiến lên cấp độ tiếp theo.”

 

Trong cả thế giới đạo – đời, những người trông tuyệt vời trên giấy tờ, những người có bản sơ yếu lý lịch ấn tượng, nhưng nếu không có khả năng lãnh đạo đích thực, họ không bao giờ nhận được sự xác nhận của người khác, họ không có người đi theo vì kính phục, vì tâm thành mà chỉ có những người a dua, nịnh bợ và khi lâm cảnh khó khăn và nguy hiểm họ sẽ qua lưng chạy trước. Do đó, tất cả các nhà lãnh đạo đích thực phải được xác nhận để dẫn đầu. Điều này chính là nguyên tắc lãnh đạo đầu tiên từ cuộc đời của Chúa Giêsu.

2/ Chúa Giêsu – Nhà Lãnh Đạo Gương Mẫu

Đã có một số lượng rất lớn tài liệu viết về sự lãnh đạo của Chúa Giêsu Kitô. Nếu chúng ta có dịp vào trang web Amazon.com hoặc BarnesandNoble.com, chúng ta có thể tìm thấy gần 50 cuốn sách hoặc tìm kiếm trên World Wide Web bằng cách sử dụng các từ “Jesus and Leadership”, chúng ta sẽ tìm thấy ít nhất hơn 160 triệu lượt truy cập. Mặc dù những cuốn sách, bài báo, bài viết và trang web này giải thích quan điểm của các tác giả về sự lãnh đạo của Chúa Giêsu, nhưng chúng có đại diện cho sự hiểu biết cá nhân của một Kitô hữu trung bình không? Mặc dù các tác giả đưa ra nhiều lý thuyết lãnh đạo để giải thích phong cách của Chúa Giêsu, nhưng liệu chúng có giống với những lý thuyết mà một Kitô hữu điển hình sẽ chọn không? Sự lãnh đạo của Chúa Giêsu có tác động nào đến đời sống của các Kitô hữu ngày nay? Sự lãnh đạo của Người có liên quan gì trong thời kỳ hiện đại này? Những câu hỏi này có ý nghĩa quan trọng đối với tất cả chúng ta – Linh mục, Phó tế, Kitô hữu, sinh viên, quản trị viên, giáo viên, nhà thuyết giảng và nhà truyền giáo. Việc áp dụng các kết quả sẽ cho phép chúng ta yêu thích hơn, học tốt hơn, quản lý tốt hơn, giáo dục tốt hơn và chia sẻ Tin mừng tốt hơn bằng cách đem Tin mừng để tiếp cận những người sống trong xã hội thế tục, hiện đại và tương đối này. Những cách đem Tin Mừng cho người khác này sẽ giúp chúng ta khám phá xem liệu chúng ta, với tư cách là Kitô hữu, có đang để Chúa Giêsu dẫn dắt trong mọi phần của cuộc sống của chúng ta hay không? Nếu Chúa Giêsu không ở trong chúng ta; nếu chúng ta không yêu mến Người hết lòng, hết trí khôn và hết sức lực; nếu chúng ta không yêu thương đồng loại của mình; và nếu chúng ta không làm chứng cho Người trong mọi khía cạnh của đời sống, thì Chúa Giêsu không phải là người lãnh đạo của chúng ta, và chúng ta không phải là môn đồ của Người.

 

Như vậy, xin hỏi lại là Chúa Giêsu và sự lãnh đạo của Người có liên quan như thế nào trong cuộc sống của chúng ta? Trước khi trả lời câu hỏi này, chúng ta hãy nhắm mắt lại và để tâm trí trôi về 2000 năm trước… Chúa Giêsu đến rồi. Từ vẻ ngoài với bộ quần áo bụi bặm và đôi dép mòn, Người đã đi du lịch được một thời gian. Chúng ta có thể thấy vẻ thanh thản trên khuôn mặt rám nắng của Người không? Đôi mắt Người lấp lánh như muôn ngàn vì sao đang nhảy múa trên bầu trời đêm. Có biết bao nhiêu người đổ xô đến với Người. Hãy nhìn tất cả những người phụ nữ nắm lấy cánh tay và bàn tay của Người và những đứa trẻ đang giật áo choàng của Người. Tôi cảm thấy ngột ngạt khi nhìn đám đông tràn ngập khắp nơi để theo Người. Hãy đứng lên để chúng ta có thể xem những gì đang xảy ra. Chúng ta có thể thấy Chúa Giêsu đang nói chuyện với người đàn ông bị biến dạng, teo tóp không? Người đang khom người và chạm vào anh ấy. Chúa Giêsu vừa mới đứng dậy và bây giờ Người đang hướng về trời. Tôi không hiểu những gì Người đang nói. Chúng ta sẽ nhìn vào đó; người đàn ông què vừa nhảy lên và anh ta đang nhảy múa xung quanh Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã chữa lành cho anh ta. Chúa Giêsu Kitô đã chữa lành cho người đàn ông tàn tật đó. Chắc chắn, Người là Con Thiên Chúa. Chúa Giêsu đang nhìn ngay vào chúng ta và Người đang mỉm cười. Nào, chúng ta hãy bước theo Chúa Giêsu.

 

Các đặc điểm (characteristics), phong cách (traits) và phẩm chất (qualities) đã được rất nhiều học giả nêu lên trong các tác phẩm của mình. Cụ thể là các tác giả như Manz trong The Leadership Wisdom of Jesus (Sự Khôn Ngoan Lãnh Đạo của Chúa Giêsu, 1999) nêu lên 18 đặc điểm. Laurie B Jones trong hai cuốn Jesus, CEO (Chúa Giêsu, Tổng Giám Đốc, 1995) với 85 đặc điểm, sau đó trong cuốn Teach Your Team to Fish (Hãy Dạy Đội của Bạn Câu Cá, 2002) thêm vào 51 đặc điểm. Bob Prinner trong The Management Methods of Jesus (Những Kiểu Mẫu Quản Trị của Chúa Giêsu, 1996) nêu lên 50 đặc điểm và sau đó ông viết với Ray Pritchard thêm 75 đặc điểm khác trong The Leadership Lessons of Jesus (Những Bài Học Lãnh Đạo của Chúa Giêsu, 1997). Nói cách khác, nhiều tác giả đã viết về Chúa Giêsu – một nhà lãnh đạo gương mẫu với rất nhiều đặc điểm, phong cách và phẩm chất mà những nhà lãnh đạo ngày nay ngưỡng mộ, học tập và bước theo để đạt thành công trong vai trò lãnh đạo của mình. Chúng tôi xin thu hẹp tất cả các đặc điểm này thành năm đặc điểm cô đọng của Chúa Giêsu Kitô mà chúng tôi nghĩ là quan trọng nhất mà các nhà lãnh đạo cần và có thể áp dụng cho nhiều hoàn cảnh và thành phần xã hội nơi họ phục vụ.

 

1/ Lòng trắc ẩn và tình yêu thương

Không có gì ngạc nhiên khi lòng trắc ẩn được nhiều học giả quản trị học coi là đặc điểm lãnh đạo số một của Chúa Giêsu. Tại sao lòng trắc ẩn được xác định là một đặc điểm lãnh đạo? Chúng ta không thể làm gì nếu thiếu nó. Nói theo Thánh Phaolô không có tình yêu, chúng ta chẳng là gì cả (Rm 3: 1-3). Tình yêu thương và lòng trắc ẩn phải dẫn đường… Tâm hồn chúng ta được thu hút bởi Chúa Giêsu từ bi. Người là người Thầy, người Bạn, người Anh đối với các môn đệ và người con nhân từ đối với gia đình trên dương thế của Người, và giờ đây, Người là một người Cha nhân từ đối với con cái của Người.

 

“Tình yêu là yếu tố thúc đẩy của Người” (Rm 5: 8). Nhiều tác giả đã viết về Chúa Giêsu và sự lãnh đạo của Người cũng xác định lòng trắc ẩn là phẩm chất lãnh đạo trung tâm của Chúa Giêsu.

 

Tác giả Laurie Beth Jones (1995) đã viết những lời này trong cuốn sách hấp dẫn của mình, Jesus, CEO (Chúa Giêsu, Tổng Giám Đốc): “Sử dụng trí tuệ cổ xưa để lãnh đạo có tầm nhìn xa trông rộng như sau: Khi mọi thứ khác được nói và làm, chỉ có tình yêu thương mới tồn tại. Tình yêu thương là cơ sở hạ tầng của mọi thứ và bất cứ điều gì đáng giá… Chúa Giêsu… đã tóm tắt lời dạy của Ngài trong một câu: Hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết linh hồn và sức lực, và tha nhân như chính mình. Chúa Giêsu có thể dẫn dắt mọi người bởi vì, khá đơn giản, ngài yêu họ” (tr. 255-256).

 

Xây dựng lòng trắc ẩn như một phẩm chất lãnh đạo, Mike Murdock (1996), tác giả cuốn The Leadership Secrets of Jesus (Những Bí Mật Lãnh Đạo của Chúa Giêsu), nhấn mạnh rằng Chúa Giêsu cảm thấy những gì chúng ta cảm thấy và tổn thương khi chúng ta bị tổn thương. “Bạn sẽ bắt đầu thành công với cuộc sống của mình,” ông viết, “khi những tổn thương và vấn đề của người khác bắt đầu quan trọng đối với bạn” (tr. 146). Những bài học lãnh đạo của Chúa Giêsu, các tác giả Bob Briner và Ray Pritchard (1997), cũng xác định lòng trắc ẩn là một phẩm chất lãnh đạo. Khả năng lãnh đạo bền bỉ, kiểu tạo ra sự khác biệt tích cực, trong phạm vi rộng lớn, luôn được đặc trưng bởi lòng trắc ẩn. Một nhà lãnh đạo nhân ái quan tâm đến mọi người …. [và] tìm kiếm điều tốt nhất cho cá nhân, nhóm và sứ mệnh — không phải là một nhiệm vụ dễ dàng. Những gì có vẻ tốt cho một cá nhân có thể không tốt cho nhóm hoặc nhiệm vụ. Một nhà lãnh đạo phải thực hiện lòng trắc ẩn một cách chu đáo bằng lời cầu nguyện (tr. 33-34).

 

Sự quan tâm đến người khác xác định lòng trắc ẩn của Chúa Giêsu. Người thực sự quan tâm đến mọi người. Mọi điều Người đã làm khi Người còn ở trên dương thế có thể được xác định bằng sự quan tâm và chăm sóc thực sự của Người dành cho người khác. Khi Chúa Giêsu và các môn đồ của Người đã đi đến một nơi yên tĩnh trong sa mạc để dành thời gian bên nhau, nhưng mọi người đã dõi theo và tìm thấy họ. Thay vì yêu cầu các môn đồ của Người loại bỏ họ, Người “chào đón họ, dạy dỗ họ… và chữa lành cho nhiều người cần được chữa lành” (Lc 9: 11). Khi mô tả cảnh tương tự, Mát-thêu nói rằng “Chúa Giêsu trông thấy một đoàn người đông đảo thì chạnh lòng thương và chữa lành các bệnh nhân của họ.” (Mt 14:14).

 

Cũng trong cùng đoạn 14, Mát-thêu tường thuật việc Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều cho hơn 5,000 người ăn như một ví dụ về lòng trắc ẩn và sự quan tâm của Ngài đối với người khác. Briner và Pritchard (1997) tin rằng thực hiện phép lạ này là một động thái lãnh đạo táo bạo của Chúa Giêsu. “Sự táo bạo xây dựng khả năng lãnh đạo, nhưng sự hấp tấp phá hủy nó. Sự phân biệt giữa hai điều là rất quan trọng” (tr. 153). Rồi họ tiếp: “Chúa Giêsu là người vĩ đại nhất và táo bạo nhất trong tất cả các nhà lãnh đạo… Khi Chúa Giêsu bảo các môn đồ cho 5,000 người ăn, đó là một trong những động thái lãnh đạo táo bạo nhất của Người, nhưng không hề hấp tấp. Người biết Người có thể làm cho điều đó xảy ra” (tr. 154-155). Chúng ta có thể tưởng tượng việc chuẩn bị và phục vụ thức ăn cho hơn 5,000 đàn ông, không kể phụ nữ và trẻ em mà không có bất kỳ kế hoạch chuẩn bị nào không? Ngay cả khi đã có nhiều thức ăn, việc cho 5,000 người ăn tại chỗ vẫn là một phép lạ đáng kinh ngạc. Chúa Giêsu đã thể hiện kỹ năng tổ chức của Ngài khi Ngài yêu cầu dân chúng ngồi thành từng nhóm nhỏ gồm 50 người (Lc 9: 14). “Đối với một nhà lãnh đạo, mệnh lệnh không bao giờ chỉ đơn thuần là thực thi quyền lực, mà là một phần cần thiết để chuẩn bị cho sự phục vụ.… Mệnh lệnh không bóp nghẹt sự sáng tạo, mà còn thúc đẩy nó. Nó không hạn chế tự do, nhưng nâng cao nó cho hiệu quả lớn nhất” (Briner & Pritchard, 1997, tr. 157). Trước tiên, “Chúa Giê-su cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra, trao cho các môn đệ. Và môn đệ trao cho dân chúng. Ai nấy đều ăn và được no nê. Những mẩu bánh còn thừa, người ta thu lại được mười hai giỏ đầy” (Mt 14: 19-20). Phép lạ này đã chứng tỏ quyền năng, lòng trắc ẩn và sự rộng lượng của Chúa Giêsu đối với người khác, cũng như sự phụ thuộc và lòng biết ơn của Người đối với Cha Người. Sau khi Chúa Giêsu giải tán dân chúng và cho họ về nhà, “Người lên núi một mình mà cầu nguyện” (Mt 14: 23) và cảm tạ Thiên Chúa đã cho phép sự lãnh đạo của Ngài thành công.

 

Các sách Phúc âm cung cấp nhiều minh họa về lòng trắc ẩn của Chúa Giêsu. Mát-thêu viết, “Bất cứ khi nào Người nhìn thấy một nhóm người, lòng Ngài động lòng trắc ẩn” (Mt 5: 36). Thường xuyên, lòng từ bi của Người đi đôi với sự chữa lành. Mát-thêu ghi lại thời điểm Chúa Giêsu đáp lại một người phụ nữ Ca-na-an bằng “lòng nhân từ và lòng trắc ẩn bình thường của Người” và chữa lành cho con gái bà (Mt 15: 28), và cũng là lúc Chúa Giê-su chữa lành hai người mù (Mt 20: 34). Mác-cô nói rằng Chúa Giêsu thương xót những người đến gặp Người (Mc 6:34).

 

Lu-ca mô tả cảnh khi Chúa Giêsu cho con trai của một bà góa sống lại: Chúa Giêsu lên đường đến thành phố Na-in bé nhỏ, cùng với những người theo Người.… Khi Người đến gần cổng thành, một đám tang đang trên đường đi ra. Con trai duy nhất của một góa phụ đã chết và một đám đông… đang theo sau những người đàn ông khiêng xác. Chúa Giêsu bước sang một bên để họ đi qua, và khi người mẹ đang khóc đi qua, Chúa Giêsu chạnh lòng thương xót bà. Khi bà nhìn lên Người, Người nói, “Đừng khóc.” Sau đó, Người dừng đoàn tang, đi tới chỗ cái xác nằm trên đó, chạm vào nó và nói: “Này người thanh niên, tôi bảo anh: Hãy trỗi dậy!” Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Sau đó, Chúa Giêsu trao anh ta cho bà mẹ (Lc 7: 11-15).

 

Gio-an đã ghi lại tình yêu thương và lòng trắc ẩn của Chúa Giêsu đối với La-za-rô và các chị của ông, Maria và Mát-ta, khi Người làm cho La-za-rô sống lại từ cõi chết (Ga 11: 1-44).

 

Các sách Phúc âm cũng mô tả những người mà Chúa Giêsu yêu mến. Laurie B. Jones (1995) đã bị cuốn hút rằng Chúa Giêsu yêu người trẻ tuổi giàu có ngay cả khi anh ta quay lưng bước đi. “Người không rút lại tình yêu của mình bởi vì người đàn ông trẻ không đạt đủ tiêu chuẩn của Người. Đây là một người đã ra đi nhưng Chúa Giêsu vẫn yêu thương anh ta” (tr. 282). Mát-thêu miêu tả Chúa Giê-su như một con gà mái mẹ khi ông viết rằng Chúa Giêsu quan tâm đến mọi người và mong muốn bảo vệ họ “giống như gà mẹ bảo vệ đàn con của mình và che chở chúng bằng đôi cánh của mình” (Mt 23: 37). Gio-an cũng viết về tình yêu của Người đối với con người. Vào tối thứ Năm, ngay trước Bữa Tiệc Ly, “Chúa Giêsu biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13: 1).

 

Chúa Giêsu nhận ra tầm quan trọng của tình yêu thương trong sự lãnh đạo và sứ vụ của Người. Gio-an đã mô tả điều đó theo cách này: “Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy” (Ga 6: 57). Chúa Giê-su cũng bày tỏ tầm quan trọng của tình yêu thương đối với người khác. “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của người hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi… và ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” Mt 22: 37, 39). Charles Manz (1999) trong The Leadership Wisdom of Jesus, đã thảo luận về cách hiểu của ông về việc yêu thương người khác. “Chúa Giêsu thực sự ủng hộ Quy tắc Vàng (Golden rule – Aristotle: Trạng thái trung dung giữa hai thái cực tốt và xấu), nhưng Ngài còn đi xa hơn nữa. Người đề nghị rằng chúng ta nên đối xử tốt với mọi người, như chúng ta muốn được đối xử, ngay cả khi họ không xứng đáng, và ngay cả khi họ hành động theo những cách có hại cho chúng ta” (tr. 75).

 

2/ Quyền lực & Quyền hành (Power and Authority)

Quyền lực và quyền hành là phẩm chất lãnh đạo thứ hai của Chúa Giêsu được nhiều học giả về quản trị học xác định. Người đã nhận được quyền năng từ Cha Người vì Người đã phục tùng ý muốn của Chúa Cha.

Chính Chúa Giêsu đã thừa nhận rằng Người đến thế gian để làm theo ý muốn của Cha Người. Chúa Con không làm gì một mình, nhưng mọi việc Người làm là theo ý muốn của Cha. Chúa Cha yêu Chúa Con và cho Người thấy mọi điều mình làm, và còn cho thấy những việc lớn lao hơn nữa. Bất cứ điều gì Cha có thể làm, Con cũng có thể làm, thậm chí làm cho kẻ chết sống lại… Cũng như Cha là Nguồn của sự sống, nên Ngài đã cho phép Con sử dụng quyền năng ban sự sống của Ngài (Ga 5: 19-21, 26).

 

Chúa Giêsu nói với các môn đồ là Người đến để làm theo ý muốn của Cha Người. “Ta từ trời xuống, không phải để làm theo ý Ta, nhưng để thi hành ý muốn của Đấng đã sai Ta” (Ga 6: 38). Patterson Ellis (1994) đã phân tích và đối chiếu phong cách lãnh đạo của Chúa Giêsu với các nhà lãnh đạo quan trọng khác trong lịch sử Thiên Chúa giáo và kết luận rằng: “Chúa Giêsu luôn coi cuộc đời của Người là có quyền từ Thiên Chúa. Vì vậy, Người đã được an toàn. Người không tự bảo vệ mình hoặc kiểm soát người khác. Người không ngừng cố gắng đưa mọi người vào mối quan hệ thích hợp với Thiên Chúa và với nhau” (tr. 287).

 

Briner và Pritchard (1997) đã bắt đầu chương có tựa đề “Authority, The Stuff of Leadership” (Quyền lực, Công Cụ của Lãnh Đạo) với lời giải thích về quyền lực: “Lãnh đạo chủ yếu là về quyền hạn – có được nó, sử dụng nó và đầu tư nó vào người khác. Lãnh đạo không phải là ban hành các chỉ thị… Các nhà lãnh đạo nên cố gắng canh tân chính mình, lôi kéo những người đi theo để họ có thể… tự hành động để thúc đẩy sự nghiệp” (trang 76-77).

 

Chúa Giêsu cũng nối kết quyền lực của mình với tình yêu thương những người khác. “Người đã sử dụng quyền năng của Người để giúp đỡ mọi người. Người đã dạy, đã giảng, đã chữa lành, và đã đổi đời.” Briner và Pritchard (1997) nói thêm: Người chủ yếu sử dụng quyền lực của Người như một sự đầu tư vào những người xung quanh Người, dạy dỗ và truyền cảm hứng để họ hành động nhân danh Người, vì lợi ích của Người. Rằng sự lãnh đạo tuyệt vời này được chứng thực mỗi ngày khi hàng triệu người trên khắp thế giới tiếp tục hành động nhân danh Người và vì lợi ích của Người (tr. 77).

 

Chúng ta có thể học được nhiều điều từ Chúa Giêsu về cách Người thực thi quyền lực của mình… Người không bao giờ lạm dụng quyền năng của Người, nhưng Người đã sử dụng nó cho những người khác – để giúp họ tin tưởng. Briner và Prichard (1997) cũng thừa nhận rằng: “Một số nhà lãnh đạo thực hiện quyền hạn mà họ không kiếm được và không có… Một số nhà lãnh đạo nắm giữ quyền lực của họ quá chặt chẽ… Một số người ủy quyền quá rộng… Một số lãnh đạo cứ để quyền lực, quyền hành xộc thẳng vào đầu. Đây là sự khởi đầu của sự kết thúc đối với họ.

 

Chúa Giêsu sẵn sàng chia sẻ quyền năng và thẩm quyền của Người. Người đã làm việc với các môn đồ và huấn luyện họ để họ có thể giúp Người thực hiện sứ mệnh của Người. Người đã sẵn sàng và có thể truyền lại quyền năng của Người cho họ. Briner và Pritchard (1997) đã viết rằng thẩm quyền phát triển “chỉ khi nó được trao lần đầu tiên, được giao một cách chiến lược cho những người theo thẩm quyền” (tr. 137). Beausay (1997) trong The Leadership Genius of Jesus (Thiên Tài Lãnh Đạo của Chúa Giêsu), đã giải thích cách Chúa Giêsu phát triển quyền năng của Người trong các môn đồ của Người: Người phải đối mặt với nhiều thử thách đào tạo khó khăn. Người đã dạy họ tất cả về công việc mà không cần hướng dẫn sử dụng, không có giờ làm việc chính thức và không có sự giám sát chặt chẽ… Nhưng, Chúa Giêsu đã thành công trong việc xây dựng đội ngũ này thành những nhà lãnh đạo…. Chúa Giêsu tin tưởng… và khuyến khích họ liên tục…. Người đặc biệt trao quyền cho họ để trừ bỏ ma quỷ, chữa lành người bệnh, và rao giảng Nước Trời. Họ có đủ điều kiện, chứng nhận và có khả năng xử lý những thứ khá mạnh mẽ đó không? Lúc đầu thì không vì sai sót là chuyện bình thường và phải có, Chúa Giê-su kiên nhẫn hướng dẫn họ. Ngài điều chỉnh suy nghĩ của họ khi họ cần và để họ cảm nhận được quyền năng mà Người đặt theo ý họ (tr. 79).

 

Các sách Phúc âm xác nhận rằng Chúa Giêsu đã chia sẻ quyền năng của Người với mười hai môn đồ của Người (Mt 10: 1) và ban cho họ “quyền năng chữa lành mọi loại bệnh tật, kể cả quyền năng đối với ma quỷ” (Lc 9: 1). Có rất nhiều ghi chép về quyền năng và uy quyền của Chúa Giêsu trong các sách Phúc âm. “Dân chúng… ngạc nhiên trước cách cư xử nhân từ của Người… và trước uy quyền dịu dàng trong giọng nói của Người” (Lc 4:32). Mọi người ngạc nhiên về sự khôn ngoan và quyền năng của Người (Mt 13:54) và “kinh hãi trước quyền năng của Người đến nỗi họ sợ không dám hỏi Người về bất cứ điều gì” (Lc 9:45). Các sách Phúc âm cũng viết về quyền năng chữa lành bệnh của Người. “Quyền năng của Chúa đã đến trên Chúa Giêsu khiến Người chữa lành các bệnh tật” (Lc 5: 17). Khi mô tả thời gian Chúa Giêsu chữa lành một người bại liệt, Mác-cô đã ghi lại những lời Chúa Giêsu nói: “Để các ông biết Con Người có quyền tha tội, tôi sẽ cho các ông thấy rằng Con Người cũng có quyền chữa lành” (Mc 2: 10). Sau khi Chúa Giêsu đuổi quỷ khỏi một người, dân chúng bị mê hoặc vì họ chưa từng thấy điều như thế trước đây nên thốt lên: “Quyền uy của Người thật tuyệt vời” (Mc 1: 27-28). Các môn đồ thậm chí còn kinh ngạc trước quyền năng của Người. “Người có quyền năng nào mà ngay cả gió và sóng cũng vâng lời Người?” (Mc 4: 41).

 

3/ Đời sống cầu nguyện

Đời sống cầu nguyện của Chúa Giê-su cũng được rất nhiều tác giả xác định là một phẩm chất lãnh đạo đáng kể khác. Briner và Pritchard (1997) cũng xác định cầu nguyện là một thành phần quan trọng trong sự lãnh đạo của Người. Trong cuốn The Leadership Lessons of Jesus (Những Bài Học Lãnh Đạo của Chúa Giêsu), họ viết: “Việc xem xét những bài học lãnh đạo của Chúa Giêsu và không bao gồm tầm quan trọng của việc cầu nguyện sẽ là điều không tưởng” (tr. 117), bởi vì “cầu nguyện là chìa khóa chiến thắng trong các trận chiến sống và chết” (1997, tr. 31). Cầu nguyện là yếu tố độc nhất trong sự lãnh đạo của Chúa Giêsu và vẫn là điều khác biệt giữa các nhà lãnh đạo Kitô giáo với tất cả các kiểu lãnh đạo khác: Những ai dành nhiều thời gian để đọc và nghiên cứu về Chúa Giêsu Lãnh đạo đều có thể kết luận rằng lời cầu nguyện là thành phần đặc biệt trong sự lãnh đạo của Người và là nguồn sức mạnh và quyền năng của Người. Hãy nghĩ xem các nhà lãnh đạo khác nhau như thế nào. Yếu tố duy nhất là cầu nguyện. Thiên Chúa là ông chủ của các nhà lãnh đạo Kitô giáo và họ hướng về Ngài, giống như Chúa Giêsu đã làm, để tìm kiếm sự hướng dẫn và sức mạnh của Ngài.

 

Lời cầu nguyện trong cuộc đời của Chúa Giêsu chính là một phần quan trọng trong cuộc sống của Người và đối với Người đó chính là phong cách, là đặc điểm, và là phẩm chất của một người lãnh đạo. Chúa Giêsu đã gặp gỡ Cha của Người hàng ngày, thường là hàng giờ. Không có gì có thể làm gián đoạn thời gian này. Người liên tục cầu xin sự hướng dẫn của Cha Người”. Lời cầu nguyện, do đó, là nguồn sống của Người. “Người đã tự kỷ luật để dành thời gian riêng tư để cầu nguyện và giao tiếp với Chúa Cha. Điều đó rất quan trọng vì đó là nguồn sức mạnh, tình yêu và quyền hành của Người. ” Briner và Pritchard (1997) đồng ý. “Hết lần này đến lần khác Người ở một mình với Cha Người và trút hết lòng mình trong lời cầu nguyện. Mọi thứ khác xảy ra… đều nhận trực tiếp lúc Người ở một mình với Chúa Cha” (tr. 31). Thật là một thông điệp mạnh mẽ mà Người đã ban cho chúng ta. Nếu Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa còn cần phải dành thời gian đó cho Cha Người, và nhận được quyền năng của Ngài và chỉ được hồi sức lại qua lời cầu nguyện, thì chúng ta, với tư cách là những con người yếu đuối, cần phải dành thêm bao nhiêu thời gian cho Ngài?

 

Cả cầu nguyện và nghỉ ngơi đều mang lại cho Chúa Giêsu một cuộc sống cân bằng. Người dành thời gian cho việc cầu nguyện và nghỉ ngơi. Murdock (1996) cũng đã viết về cách tiếp cận cân bằng này: “Chúa Giêsu là một con người hành động. Người đã chữa lành, đã giảng và dạy. Người đi giữa dòng người. Nhưng Người cũng biết sự cần thiết của việc nghỉ ngơi và thư giãn” (tr. 28-29). “Hãy đi tìm một nơi vắng vẻ trong đồng vắng, nơi chúng ta có thể ở một mình để nói chuyện và nghỉ ngơi”. Chúa Giêsu nói với các môn đồ của Người nhiều lần (Mc 6: 31). Murdock (1996) đã mô tả một ngày điển hình trong cuộc đời của Chúa Giêsu: Mỗi ngày Chúa Giêsu phải đối mặt với hàng trăm người bệnh tật và đau khổ đang la hét để được Người chú ý. Nhiều người bị quỷ ám, các bà mẹ tìm đến Người. Những người cha cầu xin Người cầu nguyện cho con cái của họ. Trẻ em không muốn rời khỏi sự hiện diện của Người. Nhưng Chúa Giêsu đã tách mình ra để đón nhận. Người biết Người chỉ có thể cho đi những gì Người sở hữu. Thời gian làm việc đang cho. Thời gian còn lại đang nhận được. Chúng ta phải có cả hai… Chúa Giêsu hiểu được sự cân bằng giữa nghỉ ngơi và làm việc, đó có lẽ là lý do tại sao Người có thể hoàn thành rất nhiều điều trong ba năm rưỡi (tr. 29).

 

Hãy lắng nghe một số lời tường thuật trực tiếp được các Thánh sử ghi lại về khoảng thời gian Chúa Giêsu ở trong thiên nhiên và ở một mình với Chúa Cha. “Từ trong nhà đi ra, Chúa Giêsu đã xuống và ngồi bên Biển Hồ” (Mt 13: 1). Ngài yêu cầu các môn đồ “đưa Ngài qua hồ để Ngài có thể ở một mình trong một thời gian” (Mt 14:13). “Người leo lên một ngọn đồi nhỏ và ngồi xuống nghỉ ngơi một lúc” (Mt 15:29). Chúa Giê-su “lên đồi đến một nơi vắng vẻ để nói chuyện với Cha Ngài” (Mc 1:35). “Sau khi dân chúng và các môn đồ đi hết, Người lên một núi để cầu nguyện” (Mc 6: 46). “Đã chọn Phêrô, Gia-cô-bê và Gioan đi cùng Người lên đỉnh núi để ở một mình” (Mc 9: 2) “Chúa Giêsu và các môn đồ của Ngài đi vào vùng đồi núi để tìm một nơi yên tĩnh ở một mình và cầu nguyện. Chúa Giêsu cầu nguyện suốt đêm, hiệp thông với Cha Người cho đến khi năng lượng của Người được đổi mới và Người cảm thấy sảng khoái” (Lc 6: 12). “Chúa Giê-su dẫn họ đến một nơi yên tĩnh trong sa mạc… để ở một mình” (Lc 9:10). Người lên “một trong những ngọn núi gần đó để ở một mình và cầu nguyện” (Lc 9: 28).  

 

4/ Sức Lôi cuốn (Charisma)

Charisma – là sức lôi cuốn hay cũng có nghĩa là uy tín là một phẩm chất lãnh đạo hàng đầu khác được xác định trong nghiên cứu này. Lu-ca mô tả sức lôi cuốn của Chúa Giêsu là một cảm giác nóng bỏng. “Chẳng phải trái tim chúng ta bùng cháy trong khi Người nói chuyện với chúng ta… và trong khi Người mở ra cho chúng ta Kinh thánh sao?” (Lc 24: 32). Kinh Thánh đã mô tả sự bùng cháy này bằng những từ sau: “lòng họ… cảm thấy ấm áp lạ thường.”

 

Các Thánh sử đã mô tả sức lôi cuốn của Chúa Giêsu: “Mọi người bị thu hút bởi Người”. Mát-thêu viết về đám đông đi theo Chúa Giêsu. “Chúa Giêsu không có thời gian yên lặng vì đám đông rất đông theo Người bất cứ nơi nào Người đi qua” (Mt 8: 18). Mọi người đổ xô đến với Chúa Giêsu để nghe Người nói: Một dấu hiệu của một nhà lãnh đạo tuyệt vời và đầy cảm hứng. Mọi người không muốn bỏ lỡ bất cứ điều gì Người nói hoặc làm. Người đã thu hút mọi người đến với Người vì Người có thể tiếp cận được và vì Người đã giúp đỡ mọi người và cho họ những gì họ cần.

 

Mác-cô đã nói về thực tế là không phải lúc nào mọi người cũng có thể hiểu được những gì Chúa Giêsu đang nói. “Những người bình thường, mặc dù họ không hiểu mọi điều Chúa Giêsu nói, nhưng vẫn vui vẻ lắng nghe Người” (Mc 12: 37). Một nhà lãnh đạo… thường tạo một khoảng cách nào đó với người của mình, nhưng Chúa Giê-su đã không làm điều đó. Người kết bạn và lôi kéo mọi người đến với mình.

 

Đây chính xác là phong cách của Chúa Giêsu. Người có một nhân cách từ tính. Người thực sự quan tâm đến mọi người và đối xử với mọi người bằng sự tôn trọng. Người thật quyến rũ, thú vị và lôi cuốn. Người nhẹ nhàng kêu gọi chúng ta đến với Người, sử dụng tình yêu và sự quan tâm của Người. Người đích thực là một nhà lãnh đạo tuyệt vời và lôi cuốn. Người không buộc ai phải theo… Người lôi kéo chúng ta bằng tình yêu thương của Người”.

 

5/ Tính khiêm tốn

Khiêm tốn là đặc điểm lãnh đạo được nhận diện nhiều thứ năm của Chúa Giêsu. Không nghi ngờ gì rằng Chúa Giêsu là một đầy tớ khiêm nhường. “Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền lành và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11: 29). Chúa Giêsu đã xác định khiêm nhường là nguồn gốc của hạnh phúc. Khiêm tốn là điều cần có trong cuộc sống của chúng ta. Chúng ta không thể đạt được tiềm năng của mình cho đến khi chúng ta có sự khiêm tốn trong mình, nhưng nó chắc chắn không đến một cách tự nhiên. Tất cả chúng ta đều là những con người ích kỷ. Cách duy nhất chúng ta có thể học được lòng vị tha — khiêm nhường — là thông qua việc sao chép cuộc đời của Chúa Giêsu. Người đã sống điều đó khi Người còn ở dương thế và Người đã thể hiện điều đó khi Người phục vụ người khác… Chúa Giêsu không chọn trở thành người nổi tiếng trên trang nhất hay một nhân vật được biết đến rộng rãi, chỉ khiêm tốn. Chính sự khiêm tốn của Người đã khiến Người trở thành một nhà lãnh đạo vĩ đại. Chúa Giêsu định nghĩa sự vĩ đại là phục vụ người khác: “Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em. Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Mt 23: 11-12).

 

Manz (1999) đã liên kết định nghĩa của Chúa Giêsu về sự vĩ đại và sự phục vụ với những từ này: Chúa Giêsu gửi một thông điệp rõ ràng rằng chúng ta không nên phóng đại cảm giác vượt trội của mình, rằng chúng ta không nên quá vướng vào tầm quan trọng của chính mình.… Hãy khiêm tốn và đừng là người tự biện hộ cho bản thân; làm đầy tớ và cố gắng đặt người khác lên hàng đầu — đây là con đường dẫn đến sự vĩ đại… Triết lý mà Người chủ trương — khiêm tốn, phục vụ, tha thứ — có thể dẫn đến sự tôn trọng và yêu thương từ người khác mà nhiều người coi là dấu hiệu thực sự của “sự vĩ đại” (tr. 20).

 

Không nghi ngờ gì rằng thế giới này cần những nhà lãnh đạo ở mọi hình dạng, kích thước và màu sắc. Nhìn xung quanh, mọi người đang tuyệt vọng kêu gọi tình bạn, sự giúp đỡ, tình yêu, sự hướng dẫn và định hướng. Mỗi người chúng ta đã được kêu gọi để hướng dẫn người khác đến với Chúa Giêsu. Đã đến lúc nói “có” với chỉ thị của Ngài: “Hãy chăm sóc chiên của Ta” (Ga 21:17). Đã đến lúc chúng ta phải cầu xin Chúa Thánh Thần tuôn ban sức mạnh của Ngài cho chúng ta để chúng ta mạnh dạn “đi loan báo tin mừng cho muôn dân và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28: 19). Đây là tất cả những gì là lãnh đạo – chúng ta hãy chia sẻ với những người khác những gì chúng ta đã học được về Chúa Giêsu. 

 

3.    Các Kiểu Mẫu Lãnh Đạo Của Chúa Giêsu

Kitô hữu trong mọi thế hệ được kêu gọi để phục vụ và lãnh đạo trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Bắt chước Chúa Giêsu Kitô là mục tiêu của mỗi người tín hữu. Những phương pháp mà Chúa Giêsu đã dùng để huấn luyện và trang bị cho những người theo Người cách đây hai ngàn năm vẫn là những phương pháp rất hiệu quả đối với Giáo hội trong thế kỷ XXI này. Những thách thức mà Chúa Giêsu phải đối mặt khi đào tạo mười hai môn đệ ban đầu của Người rất giống với những thử thách mà các nhà lãnh đạo Kitô giáo phải đối mặt ngày nay.

 

Các học giả Quản trị hàng đầu với khái niệm quản trị dựa trên cơ sở Kinh Thánh như C. C. Manz, L. B. Jones, B. Briner, R, Pritchard, L. Ford, J. O. Sanders, R. Sessoms, C. Buckland, K. Taylor, và S. W. Kimball, vv… đã liệt kê trên 10 phong cách lãnh đạo khác nhau của Chúa Giêsu. Tuy nhiên, để mọi người có thể hình dung và nắm bắt các kiểu mẫu quản trị hiện đại (Cơ cấu, Nhân sự, Biểu tượng và Chính trị) vốn chịu ảnh hưởng trực tiếp từ phong cách lãnh đạo của Chúa Giêsu, chúng tôi thu hẹp các phong cách lãnh đạo của Người thành những phong cách đã được nói đến nhiều nhất trong các tác phẩm nghiên cứu của các học giả nêu trên, dẫn đến bốn mô hình lãnh đạo chủ yếu. Xin tạm gọi là bốn phong cách lãnh đạo hàng đầu của Chúa Giêsu như sau: Lãnh đạo Đầy tớ, Lãnh đạo Gương mẫu, Lãnh đạo Giảng dạy, và Lãnh đạo Biến đổi.

 

Lãnh đạo Đầy tớ (Servant Leadership)

Lãnh đạo đầy tớ là một nghịch lý – một cách tiếp cận lãnh đạo trái với lẽ thường. Hình ảnh hàng ngày của chúng ta về lãnh đạo không trùng hợp với việc lãnh đạo là đầy tớ. Các nhà lãnh đạo ảnh hưởng, và những người phục vụ làm theo. Làm thế nào để lãnh đạo có thể vừa phục vụ vừa tạo ảnh hưởng? Làm thế nào một người có thể vừa là lãnh đạo vừa là người phục vụ? Mặc dù sự lãnh đạo đầy tớ có vẻ mâu thuẫn và thách thức niềm tin truyền thống của chúng ta về sự lãnh đạo, nhưng đó là một cách tiếp cận mang lại một quan điểm độc đáo. Lãnh đạo đầy tớ, bắt nguồn từ các bài viết của Greenleaf (1970, 1972, 1977), đã được các học giả về lãnh đạo quan tâm trong hơn 40 năm. Hầu hết các bài viết đều mang tính mô tả, tập trung vào cách lý tưởng là sự lãnh đạo của người phục vụ thay vì mang tính mô tả, tập trung vào vai trò lãnh đạo của người phục vụ thực sự là như thế nào (Van Dierendonck, 2011). Tuy nhiên, trong 10 năm qua, nhiều tác phẩm mới đã giúp làm rõ hơn vai trò lãnh đạo đầy tớ này.

 

Mô hình lãnh đạo đầy tớ gắn liền với phong cách lãnh đạo số một của Chúa Giêsu, cùng với việc lãnh đạo bằng gương sáng. Chúa Giêsu là tác giả thực sự của việc lãnh đạo đầy tớ và chính Người đã thể hiện trọn vẹn vai trò Lãnh Đạo Tôi Tớ. Toàn bộ cuộc đời của Người đã minh họa các nguyên tắc chính trong việc phục vụ người khác. Người nói rằng chúng ta nên đặt mục tiêu là cuối cùng, không phải trước tiên. Người cho chúng ta thấy rằng chúng ta nên là một người hầu và đặt người khác lên trên hết. Đây là điều tạo nên một nhà lãnh đạo tài ba. Sự nghiệp của những nhà lãnh đạo tài ba đã được định hình bởi mô hình của Chúa Giêsu về một nhà lãnh đạo đầy tớ của lãnh đạo. Người dạy chúng ta rằng muốn trở thành một nhà lãnh đạo thực sự thì phải đặt người khác lên hàng đầu, khiêm tốn, và đặt mình lên cuối cùng.

 

Phong cách lãnh đạo đầy tớ của Chúa Giêsu là tìm kiếm và giúp đỡ mọi người: Chúa Giêsu là một người lãnh đạo đầy tớ. Cách tiếp cận của Người là tìm kiếm mọi người và sau đó giúp họ… Chúa Giêsu cởi mở và dễ tiếp cận. Người đã đến với mọi người. Người đi trên những con đường đầy bụi và đi từ thị trấn này sang thị trấn khác. Người nói chuyện với những người trong hội đường, dọc đường, trên núi, bên bờ nước và trong nhà của họ. Người đã đi khắp nơi. Điều đó làm chúng ta nhớ lại Chúa Giêsu gọi chính Người là Mục tử Tốt Lành. Người nói rằng khi một con cừu bị lạc, Người sẽ không đợi con cừu đó tự về nhà. Thay vào đó, Người sẽ ra ngoài và tìm con cừu bị lạc đó. Không còn nghi ngờ gì nữa, chúng ta là những con cừu bị lạc. Ban lãnh đạo đầy tớ đang tìm kiếm chúng ta và đưa chúng ta trở lại đàn cừu. 

 

Thật không may, quá nhiều người đã hiểu sai về lãnh đạo là gì. Người ở miền Bắc Việt Nam có cách gọi cha mình rất hay là Thầy. Thầy có nghĩa là cha và cũng là thầy dạy. Với tư cách vừa là cha mẹ và vừa là thầy dạy, chúng ta có trách nhiệm dạy con em của chúng ta rằng trở thành một nhà lãnh đạo không phải là để thống trị hoặc cai trị người khác. Đức Kitô đã minh họa rõ ràng rằng trở thành người lãnh đạo là phục vụ người khác. Đó là việc trở thành một hình mẫu và giúp mọi người trở thành người giỏi nhất mà họ có thể trở thành. Đó là quan tâm đến mọi người và đối xử tốt với người khác. Đó là giúp đỡ những người hàng xóm đang cần sự giúp đỡ của chúng ta. Chúa Giêsu cho chúng ta thấy rằng sự khác biệt giữa phong cách lãnh đạo đầy tớ và các phong cách lãnh đạo khác thực sự bắt nguồn từ việc sử dụng, hay chúng ta nên nói là lạm dụng quyền lực và quyền hành. 

 

Chúa Giêsu như một ví dụ hoàn hảo về một người lãnh đạo đầy tớ chân chính. Sứ mệnh của Chúa Giêsu là chúng ta — bạn và tôi. Người tin tưởng vào sứ mệnh của mình và Người yêu thương mọi người – đó là điều liên kết giữa phục vụ và lãnh đạo. Chúa Giêsu có một tình yêu rộng lớn và một trái tim rộng lớn… Nhiều học giả về Quản trị nghĩ đây là bí mật về khả năng lãnh đạo và phục vụ của Người. Phong cách lãnh đạo đầy tớ của Chúa Giêsu được minh họa rõ ràng trong các sách Phúc âm.

 

Thánh Mát-thêu đã dẫn lời Chúa Giêsu khi Người dạy các môn đồ: Nước Trời đo lường sự thành công bằng những gì một người làm cho người khác, chứ không phải bằng những gì họ làm cho chính mình. Nếu chúng ta muốn trở nên quan trọng, thì chúng ta phải là người sẵn lòng phục vụ nhất… “Con Người đến không phải để người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá cứu chuộc muôn người (Mt 20: 26-28). Một lần khác, Chúa Giêsu bảo một nhóm người yêu mến Thiên Chúa và những người lân cận của họ. “Người phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của người hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và là điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy là: Ngươi phải yêu thương người thân cận như chính mình” (Mt 22: 37-38). Và vào một dịp khác, Chúa Giêsu đã tuyên bố với các môn đồ của Người và cho đám đông dân chúng đang nghe rằng: “Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em” (Mt 23: 11). Mát-cô đã ghi lại nó theo cách này: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người” (Mc 9: 35). Mát-cô đã ghi lại những lời của Chúa Giêsu nói với các môn đồ của Người sau khi họ tranh cãi về việc ai trong số họ sẽ được vinh dự nhất khi Người thiết lập vương quốc của Người. “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người. Vì Con Người đến, không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ” (Mc 10: 43-45). 

 

Lu-ca cũng ghi lại sự việc tương tự. Chúa Giêsu nói: “Vua các dân thì dùng uy mà thống trị dân, và những ai cầm quyền thì tự xưng là ân nhân. Nhưng anh em thì không phải như thế, trái lại, ai lớn nhất thì phải nên như người phục vụ. Bởi lẽ, giữa người ngồi ăn với kẻ phục vụ, ai lớn hơn ai? Hẳn là người ngồi ăn chứ? Thế mà, Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ” (Lu-ca 22: 24-27). Một lần khác, Chúa Giêsu nói: “Ai xin, thì hãy cho, ai lấy cái gì của anh em, thì đừng đòi lại. Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy” (Lc 6: 30-31). Câu chuyện gây ảnh hưởng rất lớn của Chúa Giêsu là chuyện về Người Sa-ma-ri-ta-nô nhân hậu (Lc 10: 25-37) tóm tắt rất tốt vai trò lãnh đạo của tôi tớ. Bất cứ ai cần giúp đỡ đều là hàng xóm của bạn. Hãy sẵn sàng giúp đỡ người ấy (Lc 10:37). Ngay cả sau khi Chúa Giêsu đã sống lại từ cõi chết, Ngài vẫn phục vụ các môn đệ của Ngài — bữa sáng bên hồ — trước khi về trời: Khi các môn đệ lên bờ, họ có thể thấy rằng Chúa Giêsu đã nhóm lửa nhỏ và đang nấu một ít cá cho họ. Họ cũng nhận thấy rằng Người có một số ổ bánh mì nhỏ gần đó… Chúa Giêsu gọi họ: “Anh em đến mà ăn!” Họ đến và ngồi xuống… rồi Người phục vụ họ, cho mỗi người một con cá và một ít bánh mì (Ga 21: 1-14). 

 

Khi được hỏi một ví dụ chứng tỏ khả năng lãnh đạo đầy tớ của Chúa Giêsu, nhiều người đã chọn Bữa Tiệc Ly: Chúa Giêsu thể hiện sự lãnh đạo đầy tớ của Người mỗi ngày bằng nhiều cách khác nhau và trong nhiều dịp khác nhau. Có người nghĩ về tất cả những lần Người giúp đỡ người khác và chăm sóc họ, nhưng rửa chân cho các môn đệ của Người, đối với nhiều học giả Quản trị, vẫn là một hành động không thể tưởng tượng và chắc chắn không một người giám đốc nào ngày nay có thể làm được. 

 

Wilkes (1988) đã đồng ý. Trong cuốn sách của mình, Chúa Giêsu Lãnh đạo (Jesus on Leadership), ông viết: “Bên cạnh cái chết của Người trên thập tự giá, việc rửa chân cho các môn đồ là mô hình lãnh đạo đầy tớ có tầm ảnh hưởng sâu đậm và cụ thể nhất của Chúa Giêsu. Vào đêm cuối cùng của Người với đội ngũ lãnh đạo của Người, Chúa Giêsu đã chọn phục vụ những người lẽ ra phải phục vụ Người” (trang 125). Gio-an đã mô tả hành động khiêm nhường mạnh mẽ này: “Chúa Giêsu biết rằng đã đến lúc Người phải rời khỏi thế gian này và trở về với Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, Người thương họ đến cùng… Chúa Giêsu đứng dậy khỏi bàn và… lấy một chiếc khăn lớn quấn quanh lưng và chuẩn bị rửa chân cho các môn đồ của Người. Người đổ nước vào một cái chậu và rửa chân cho mỗi người rồi lấy khăn thắt lưng mà lau” (Ga 13: 1, 4-5). Sau khi Người rửa chân cho họ xong, Chúa Giêsu ngồi xuống bàn với họ và giải thích những gì Người đã làm: “Anh em gọi Thầy là “Thầy”, là “Chúa”, điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau” (Ga 13: 12-15). 

 

Lãnh đạo Gương Mẫu (Example)

Cùng với lãnh đạo đầy tớ, gương mẫu gắn liền với phong cách lãnh đạo được xác định rõ ràng nhất. Các nhà Quản trị học đều đồng ý một điều: Chúa Giêsu đã làm gương. “Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13: 15). Người mạnh mẽ, nhưng dịu dàng … Người dẫn dắt mà không cần cưỡng bức.  Hầu hết, họ mô tả về sự hoàn mỹ khi nói về việc Chúa Giêsu lãnh đạo bằng gương sáng: Người rất hoàn hảo và dẫn dắt người khác bằng chính sự gương mẫu của mình và bất cứ điều gì Người yêu cầu chúng ta làm, Người làm trước… Người dẫn dắt bằng gương sáng. Ở một dịp khác, Chúa Giêsu liên kết gương mẫu với cái cớ làm người khác vấp ngã (things that cause sin): “Không thể không có cớ làm cho người ta vấp ngã; nhưng khốn cho kẻ làm cớ cho người ta vấp ngã! Thà buộc cối đá lớn vào cổ nó và xô xuống biển, còn lợi cho nó hơn là để nó làm cớ cho một trong những kẻ bé nhỏ này vấp ngã” (Lc 17: 1-2). Một lần nữa, mặc dù lãnh đạo bằng gương sáng được chọn là một trong những phong cách lãnh đạo chính của Chúa Giêsu, nhưng mọi người không cảm thấy rằng điều đó giải thích hoàn toàn phương pháp lãnh đạo của Người. Một số học giả môn Quản trị đã gặp khó khăn khi cố gắng kết hợp phong cách của Người với việc lãnh đạo bằng cách làm gương sáng: Người còn hơn cả một nhà lãnh đạo đến nỗi thật khó để chỉ nghĩ theo những điều đó… Một số học giả tin rằng phong cách lãnh đạo của Người chủ yếu là dẫn dắt bằng gương sáng. Người hoàn hảo, không tì vết, đầy lòng trắc ẩn đối với chúng ta. Người là Đấng rất khôn ngoan và toàn năng. Người đã trả hình phạt cho tội lỗi của chúng ta nên Người có quyền tha thứ cho tội lỗi của chúng ta và ban cho chúng ta sự sống đời đời trong một môi trường tuyệt hảo của Người.

 

Các môn đệ của Người đã kế thừa phong cách lãnh đạo gương mẫu này của Chúa Giêsu một cách chính xác. Do đó, trong các thư mục vụ của các Ngài đã nhiều lần nhấn mạnh đến hai chữ gương mẫu đặc biệt trong các thư của Phao-lô và Phê-rô. “Anh em hãy bắt chước tôi, như tôi bắt chước Đức Kitô” (1Cr 11: 1). “Những sự việc ấy xảy ra để làm bài học, răn dạy chúng ta đừng chiều theo những dục vọng xấu xa như cha ông chúng ta” (1Cr 10: 6). “Sở sĩ tôi được thương xót, là vì Đức Giêsu Kitô muốn bày tỏ tất cả lòng đại lượng của Người nơi tôi là kẻ đầu tiên, mà đặt tôi làm gương cho những ai sẽ tin vào Người, để được sống muôn đời” (1Tm 1: 16). “Đừng lấy quyền mà thống trị những người Thiên Chúa đã giao phó cho anh em, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên” (1Pr 5: 3). “Chính anh hãy làm gương về mặt đức hạnh. Khi anh giảng dạy thì đạo lý phải tinh tuyền, thái độ phải đàng hoàng” (Tt 2: 7).

 

Đức Thánh Cha Phaolô VI trong Tông huấn Evangelii Nuntiandi cũng lập lại tư tưởng của Thánh Phaolô: “Con người tân tiến mong nghe những chứng nhân hơn là những thầy dạy, và nếu họ có lắng nghe các thầy dạy là bởi vì các vị thầy này là những chứng nhân” (2-10-1974: AAS, 66). Thánh Phêrô đã diễn tả điều này rõ ràng khi ngài chủ trương gương lành của một đời sống đáng kính và trong sạch là một việc chinh phục những kẻ từ chối nghe lời nói mà không cần phải nói một lời nào (1Pr 3:1).  

 

Lãnh đạo Giảng Dạy (Teaching)

Lãnh đạo bằng cách giảng dạy là phong cách lãnh đạo được nhiều học giả xác định là phong cách quan trọng thứ ba của Chúa Giêsu. Lu-ca viết rằng Chúa Giêsu “dạy dân chúng bất cứ khi nào Người có cơ hội, dù trong hội đường hay trên đường phố, và tất cả những ai nghe Người đều khen ngợi những gì Ngài đã nói (Lu-ca 4: 15). 

 

Chúa Giêsu được gọi là “Giáo sĩ” (rabbie) hay “Thầy” (master) thường xuyên hơn bất kỳ danh hiệu nào khác (Briner & Pritchard, 1997). Người là một bậc thầy lỗi lạc và tuyệt vời nhất. Người đã đào tạo 12 môn đệ về sứ mệnh của Người, về Nước Trời, và cách cầu nguyện để họ tiếp tục và mang Tin mừng cho toàn thế giới. Người đã dạy họ cả trái tim và lý trí của họ. 

 

Trong cuốn sách của mình, Phương pháp quản trị của Chúa Giêsu (The Management Methods of Jesus) Briner (1996) đã nói về mối liên hệ giữa việc lãnh đạo và giảng dạy. “Hầu hết các tập đoàn khổng lồ huyền thoại, từ Henry Ford đến Tom Watson hoặc Ross Perot, đều là được coi là những người thầy đầy kiên trì và có động lực. Họ có thể đã nhận được sự soi dẫn từ Chúa Giêsu Kitô, Đấng vĩ đại nhất trong tất cả các bậc thầy” (tr. 11). Jones (1992) đã viết rằng trọng tâm của Chúa Giêsu khi Người ở dương thế có thể được tóm gọn lại bằng một từ – giáo dục: “Người đã đi khắp nơi để giảng dạy, chữa bệnh và rao giảng… ..Vì giảng dạy là giáo dục tâm trí và giảng dạy là giáo dục trái tim, 2/3 công việc của Chúa Giêsu là giáo dục… Nếu nhìn vào những trường hợp khi Người chữa lành cho mọi người… Người đã nói với họ về một sự thay đổi thái độ hoặc một cách hành xử mới phù hợp với tình trạng thể chất của họ… Tôi cảm thấy an toàn khi nói rằng giáo dục là ưu tiên số một của Chúa Giêsu” (trang 210). 

 

Một số người tin rằng Chúa Giêsu đã dẫn dắt một cách hiệu quả bằng cách giảng dạy vì những kỹ năng giao tiếp bậc thầy của Người. Một trong những đặc điểm lãnh đạo tốt nhất của Chúa Giêsu là khả năng giao tiếp với mọi người của Người. Mọi người đã lắng nghe; thật không may, không phải ai cũng chấp nhận. Có những người được vui mừng tràn đầy vì đã nghe và tin Người; nhưng cũng có những người đã từ chối Người và ra đi trong đau khổ. Briner và Pritchard (1998) đã viết về tính hiệu quả của kỹ năng diễn đạt của Chúa Giê-su: “Người nói để hướng dẫn… truyền cảm hứng và thách thức… Người là một diễn giả tài ba trước công chúng. Các nhà lãnh đạo qua nhiều thời đại đã được hưởng lợi từ gương của Người. Abraham Lincoln, có lẽ là người đạt hiệu quả nhất trong số các diễn giả chính trị tại Hoa Kỳ, được cho là các bài phát biểu của ông dựa trên hoặc mô phỏng các bài diễn văn của Chúa Giêsu” (trang 90-91). 

 

Trong cuốn sách mang tầm ảnh hưởng mạnh mẽ của mình, Lãnh đạo Biến đổi (Transforming leadership: Jesus’ way of creating vision, shaping values & empowering change), Ford (1991) đã minh họa ra nhiều chiếc mũ khác nhau mà đội cho Chúa Giêsu trong các cuộc diễn thuyết khác nhau: “Đôi khi Người nói như một giáo sĩ Do Thái giảng dạy những suy nghĩ của Người cho một đám đông đang ngồi dưới chân Người. Khi Người tranh luận với các đối thủ, Người giống như một luật sư khéo léo, làm chệch hướng các cuộc tấn công của họ và phản công bằng lực đẩy tàn khốc của chính Người. Trong những dịp khác, Người giống như một cố vấn hay một bác sĩ giỏi, vạch ra những suy nghĩ và nhu cầu bên trong của những cá nhân đến với Người. Những lúc như vậy, Người có thể là một người lắng nghe xuất sắc. Lời tường thuật về cuộc nói chuyện của Người với một phụ nữ Sa-ma-ri-a bên giếng nước cho thấy rằng bà đã nói nhiều gấp đôi so với Người. Khi Người trò chuyện trong một bữa ăn tối, Người đã nói chuyện như một người bạn và một người bạn thân tình. Tuy nhiên, vào những lúc khác, Người đã đứng lên như một nhà tiên tri trước công chúng để kêu gọi họ và báo trước những tai họa cho những ai không đáp ứng được thử thách của Thiên Chúa. Người đã than thở như một người tình khi Người khóc thương Giê-ru-sa-lem… Dù Chúa Giêsu đảm nhận vai trò gì, thì điều trung tâm tỏa sáng nhất là điều chúng ta thiếu nhất ngày nay – ý thức về thực tại. Trong Người, lời nói và thực tế là một. Con người, tầm nhìn và sứ mệnh của Người đều được tích hợp trong bài phát biểu của Người” (trang 227-228). 

 

Những người khác tin rằng Chúa Giêsu dẫn dắt một cách hiệu quả bằng cách giảng dạy vì khả năng của Người điều chỉnh các phương pháp của Người để phù hợp với nhu cầu cụ thể của con người. Người đã có thể nói chuyện với mọi người và dạy họ theo trình độ của chính họ. Người dạy dỗ các môn đệ là những người không có học thức và Người có thể đối mặt với các luật sĩ, giáo sĩ Do Thái và tất cả các nhà lãnh đạo tôn giáo. Nói cách khác, Chúa Giêsu là một nhà lãnh đạo bằng cách giảng dạy và Người đã sử dụng các phương pháp khác nhau cho những người khác nhau. Người biết tất cả các cách để tiếp cận mọi người và họ không ngừng ngạc nhiên về phương pháp giảng dạy mạnh mẽ của Người, ở bất kỳ cấp độ hoặc hoàn cảnh cụ thể nào. 

 

Ford (1991) đã viết về những cách tuyệt vời mà Chúa Giêsu kết hợp lời của Người với từng hoàn cảnh cụ thể: “Các sách Phúc âm mô tả Chúa Giêsu trong nhiều tình huống khác nhau, nơi Người cho thấy khả năng nổi bật để phù hợp với lời nói của Người cho phù hợp với tình huống và đối tượng. Với những nhà lãnh đạo tôn giáo lạnh lùng và nhẫn tâm, Người có thể khắc nghiệt một cách tàn khốc; với một người phụ nữ bị bắt quả tang ngoại tình, Người có thể vừa mạnh mẽ vừa dịu dàng một cách đáng kinh ngạc. Người dạy các môn đồ của Người một cách đơn giản và trực tiếp, nhưng vẫn là sự thần bí cho đám đông bằng những yếu tố khó hiểu trong các dụ ngôn của Ngài… Phong cách của Người cho thấy sự linh hoạt đáng kể” (trang 227). 

 

Chúa Giêsu không chỉ có thể lựa chọn những lời của Người một cách hiệu quả để phù hợp với từng dịp và đối tượng cụ thể, Người trong việc đối xử với mọi người theo từng cá nhân và theo nhóm nhỏ, chẳng hạn, người phụ nữ Sa-ma-ri-a bên giếng, cuộc gặp gỡ ban đêm với Ni-cô-đê-mô và nhiều buổi riêng tư với các môn đệ của Người. Những lời Người nói và dạy đều đem lại một hiệu quả và mỗi lời Người nói đều có ý nghĩa và quyền năng. Ford (1991) cũng nói về hiệu quả của lời nói của Chúa Giê-su: “Những cuộc trò chuyện của Người không có lời nói lãng phí, không có sự bảo trợ vô ích và không có những lời nói nông nổi. Lời nói của Người sắc như dao mổ của một bác sĩ phẫu thuật, cắt xuyên qua sự bối rối, chứng tăng huyết áp và ảo tưởng, và xuyên thấu tận trái tim của những người mà Người gặp phải. Khi Người sử dụng các ẩn dụ và hình ảnh minh họa, như Người thường làm, chúng không bao giờ chỉ là những lời nói hoa mỹ khoa trương… Rõ ràng là Người đã lựa chọn các từ ngữ của Người một cách cẩn thận để có tác động tối đa” (trang 241). 

 

Thông điệp về chân lý dù khó khăn nhất cũng được trình bày một cách đơn giản nhất. Đơn giản như một cô bé trèo vào lòng mẹ và chỉ sử dụng ba từ đơn giản, một âm tiết, đã thốt ra một trong những câu mạnh mẽ nhất trên thế giới, “Con yêu mẹ”. Đơn giản làm sao, trong sáng làm sao, nhưng những lời đó có tác động gì. Và thông điệp của Chúa Giêsu cũng giống như vậy. 

 

Chúa Giêsu cũng là một người kể chuyện bậc thầy. Briner và Pritchard (1997) nói rằng mọi người bị cuốn hút vào những câu chuyện bởi vì “chúng giống như cửa sổ dẫn đến sự thật” (trang 82). Họ cũng tin rằng những câu chuyện là một công cụ giảng dạy mạnh mẽ cho các nhà lãnh đạo. “Là một nhà lãnh đạo, bạn cần phải dạy thông qua những câu chuyện có liên quan tạo ra anh hùng, xây dựng huyền thoại và giúp thiết lập loại văn hóa truyền cảm hứng cho những người đi theo bạn trở nên xuất sắc” (trang 83-84). Wilkes (1998) gắn những câu chuyện với việc tạo ra một ngày mai tốt đẹp hơn. “Những câu chuyện… giúp nhà lãnh đạo vẽ ra một bức tranh về tương lai…. Và giúp các nhà lãnh đạo giải quyết các vấn đề thay đổi” (trang 97). Những câu chuyện của Chúa Giêsu tạo nên một mối liên hệ lâu dài với mọi người: Chúa Giêsu kể những câu chuyện mạnh mẽ, những câu chuyện mà mọi người có thể liên hệ và xác định. Trên thực tế, Người đã dùng các dụ ngôn để dạy nhiều bài học quan trọng. Bất cứ khi nào chúng ta đọc các dụ ngôn của Người, chúng ta có thể thấy một bức tranh sống động trong tâm trí mình, chúng ta có thể chạm vào nó, nếm nó và cảm nhận nó… giống như câu chuyện về người Sa-ma-ri-ta-nô nhân hậu. Chúng ta khó có thể nghe qua câu chuyện đó mà lòng không thổn thức. Điều gì sẽ xảy ra nếu chính chúng ta là kẻ nằm bên vệ đường, bị đánh đập đến chết, và mọi người lướt qua chúng ta thì sao? 

 

Một số môn đệ đã viết về khả năng giảng dạy đáng chú ý của Chúa Giêsu. Mọi người “sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư” (Mc 1: 22, Mt 7: 28–29). Mọi người thắc mắc về phương pháp giảng dạy đầy yêu thương của Người. “Người sẽ không cãi vã, không kêu to, chẳng ai nghe thấy Người lên tiếng giữa phố phường. Cây lau bị giập, Người không đành bẻ gãy, tim đèn leo lét, chẳng nỡ tắt đi” (Mat 12: 19-20). 

 

Briner và Pritchard (1998) đã tóm tắt tầm quan trọng của sự dạy dỗ của Chúa Giêsu bằng cách kết nối nó với sứ mệnh của Người: “Người cho chúng ta thấy rằng việc giảng dạy không phải là sự gián đoạn của sứ mệnh, mà là sứ mệnh… Vì Chúa Giêsu đặt ưu tiên cao vào việc giảng dạy của Người, nên các môn đệ, hàng triệu triệu người trên khắp thế giới và trải qua nhiều thời đại đã được chúc phúc. Những điều tuyệt vời mà các môn đệ có thể làm sau khi Chúa Giêsu rời thế gian là kết quả của việc Người đặt sự dạy dỗ họ lên hàng đầu trong chương trình nghị sự (agenda) của Người” (trang 121-122). 

 

Lãnh đạo Biến Đổi (transforming)

Lãnh đạo biến đổi là một phần của mô hình “Lãnh đạo mới” (The New Leadership Paradigm, Bryman, 1992), mô hình này tập trung nhiều hơn vào các yếu tố lôi cuốn và tình cảm của lãnh đạo. Trong một phân tích nội dung của các bài báo đăng trên tạp chí Leadership Quarterly, Lowe và Gardner (2001) đã phát hiện ra rằng một phần ba nghiên cứu là về khả năng lãnh đạo biến đổi hoặc lôi cuốn. Tương tự, Antonakis (2012) phát hiện ra rằng số lượng bài báo và trích dẫn trong lĩnh vực này đã tăng với tốc độ ngày càng tăng, không chỉ trong các lĩnh vực truyền thống như quản trị và tâm lý xã hội, mà còn trong các lĩnh vực khác như điều dưỡng, giáo dục và kỹ thuật công nghiệp. Bass và Riggio (2006) cho rằng sự phổ biến của lãnh đạo biến đổi có thể là do nó nhấn mạnh vào động lực nội tại và sự phát triển của người đi theo (followers), phù hợp với nhu cầu của các nhóm làm việc ngày nay, những người muốn được truyền cảm hứng và trao quyền để thành công trong thời điểm không chắc chắn. Rõ ràng, nhiều học giả đang nghiên cứu về lãnh đạo biến đổi, và nó chiếm một vị trí trung tâm trong nghiên cứu về lãnh đạo. Như tên gọi của nó, lãnh đạo biến đổi là một quá trình thay đổi và biến đổi con người. Nó liên quan đến cảm xúc, giá trị, đạo đức, tiêu chuẩn và mục tiêu dài hạn. Nó bao gồm việc đánh giá động cơ của những người đi theo, thỏa mãn nhu cầu của họ và coi họ như những con người hoàn chỉnh. Lãnh đạo biến đổi liên quan đến một dạng ảnh hưởng đặc biệt thúc đẩy những người đi theo hoàn thành nhiều hơn những gì họ thường mong đợi. Đó là một quá trình thường kết hợp khả năng lãnh đạo lôi cuốn và có tầm nhìn xa.

 

Lãnh đạo biến đổi chính là phong cách lãnh đạo thứ tư được rất nhiều nhà quản trị học xác định. Chúa Giêsu là nhà lãnh đạo luôn dịu dàng, kiên nhẫn trong việc đưa thế giới đến nơi cần phải đi. Người là một nhà lãnh đạo có thể biến đổi người khác. Phong cách lãnh đạo của Chúa Giêsu là tổng thể… với… các thành phần… biến đổi… và chắc chắn đó là biến đổi cuộc sống. Khả năng lôi kéo của Chúa Giêsu đã đưa mọi người đến với Người và sau đó Người có thể biến đổi cuộc sống của họ. 

 

Câu chuyện người phụ nữ Sa-ma-ri-a gặp gỡ Chúa Giêsu khi đến kín nước tại giếng Gia-cóp đã được thánh Gio-an tường thuật cách tỉ mỉ. Ngài mở đầu bằng câu nói: “Chị cho tôi xin chút nước uống”, rồi: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: “Cho tôi chút nước uống, thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã ban cho chị nước hằng sống…”. Dân chúng Sa-ma-ri-a bảo người phụ nữ: “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian” (Ga 4: 7-42).  Người phụ nữ này đã được Chúa Giêsu biến đổi hoàn toàn: 1) Từ một người Sa-ma-ri-a không hi vọng được bình đẳng với người Do Thái đã mang hình ảnh một bản thân mới. 2) Từ một người phụ nữ thấp hèn không được xưng hô, trở thành một cộng sự viên đáng được quan tâm lâu dài. 3) Từ một người xa lạ bị ruồng bỏ trở thành một thành viên mới, được tha thứ, có trái tim thực sự được biết đến. 4) Từ người bị ràng buộc với cát bụi đến người bị ràng buộc vì vinh quang.

 

Câu chuyện về ông Gia-kêu thành Giê-ri-cô cũng là một ví dụ tuyệt vời về điều này (Lc 19). Gia-kêu là một người thu thuế bị khinh bỉ vì làm việc cho chính phủ La Mã, đối với xã hội Do-thái thời đó, ông là một kẻ lừa đảo và một tội nhân. Vì không đủ cao để nhìn bao quát đám đông, Gia-kêu phải trèo lên cây chỉ để nhìn thoáng qua Chúa Giêsu. Nếu có ai khác để ý thấy Gia-kêu, họ sẽ mong đợi Chúa Giêsu bước tiếp. Nhưng Chúa Giêsu bỏ đi mà đã gọi đích danh Gia-kêu. Người nhìn thấy Gia-kêu trên cây và nói rằng Người muốn đến ở lại nhà ông ta. Cuộc sống của Gia-kêu biến đổi kể từ thời điểm đó – ông ăn năn tội lỗi của mình và hứa sẽ chia sẻ tài sản của mình. “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham” (Lc 19: 9).

 

Sự biến đổi đi đôi với cầu nguyện: Chính việc cầu nguyện với Thiên Chúa đã thực sự biến đổi chúng ta. Cầu nguyện đã biến đổi Chúa Giêsu khi Người yếu đuối và mệt mỏi và nó có thể biến đổi chúng ta ngày nay… Chúa Giêsu đã được biến đổi trong vườn Ô-liu… Đầu tiên, Người bị choáng ngợp và sợ hãi bởi vì Người đang gánh tội lỗi của thế gian trên vai của Người. “Người lâm cơn xao xuyến bồi hồi, nên càng khẩn thiết cầu xin. Và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất” (Lc 22: 44); nhưng sau khi Người dành thời gian với Chúa Cha, Người đã nhận được sức mạnh và nghị lực để đi tiếp và đối mặt với thập tự giá. Người cũng biến đổi cuộc sống của mọi người khi họ chấp nhận Người. Và, Người đã biến đổi các môn đệ. Người tận dụng mọi cơ hội, mọi lời nói, mọi cuộc gặp gỡ, để dạy dỗ và biến đổi cuộc đời họ. 

 

Jones (1995) đã viết về khả năng biến đổi của Giêsu. “Chúa Giêsu có một khả năng đáng kinh ngạc để tạo ra những gì Người cần từ một thứ đã có sẵn ở đó. Người đã nắm lấy những gì trong tầm tay… và tạo ra những gì Người cần” (trang 65). Đúng, Chúa Giêsu chắc chắn là một nhà lãnh đạo biến đổi. Người đã huấn luyện các môn đệ “những người đã tiếp tục ảnh hưởng đến thế giới mà chính thời gian bây giờ được ghi nhận là trước… hoặc sau… sự tồn tại của Người (Jones, 1995, phần giới thiệu). 

 

Thánh Phaolô, người môn đệ muộn màng của Chúa Giêsu, cũng khuyên nhủ chúng ta về sự biến đổi này: “Anh em đừng có rập khuôn theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần” (Rm 12: 2). Sự biến đổi cũng được người môn đệ này lập lại trong thư 2 gửi tín hữu thành Cô-rin-tô: Tất cả chúng ta, mặt không che màn, chúng ta phản chiếu vinh quang của Chúa như một bức gương; như vậy, chúng ta được biến đổi nên giống cũng một hình ảnh đó, ngày càng rực rỡ hơn, như do bởi tác động của Chúa là Thần Khí” (2Cr 3: 18).

 

Tóm lại, còn rất nhiều điều khác Đức Giêsu đã làm, bốn kiểu mẫu được bàn luận ở trên chỉ mang tính tượng trưng và đơn giản hóa sự lãnh đạo của Chúa Giêsu. Điều quan trọng là sự lãnh đạo của Chúa Giêsu có liên quan gì đến thế giới ngày nay không? Sự lãnh đạo của Người có ý nghĩa gì trong cuộc sống của chúng ta không? Lãnh đạo là một chủ đề quan trọng đối với mỗi con người sống trong thời đại hôm nay. Tất cả chúng ta đều là những nhà lãnh đạo, ở khả năng này hay năng lực khác. Mỗi người chúng ta có trách nhiệm dẫn dắt người khác đến với Đức Kitô. Các nhà lãnh đạo phải biết cách hoàn thành công việc. Còn có ai tốt hơn để chúng ta theo học về lãnh đạo hơn Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa. Chúng ta có thể học cách Người sống, những gì Người đã làm, những gì Người đã nói — tất cả đều có ý nghĩa. Briner và Pritchard (1997) bắt đầu cuốn sách của họ bằng cách mô tả những thành tựu vượt bậc của Người với tư cách là một nhà lãnh đạo: Người đã sống trên trái đất này chưa đầy 40 năm, chỉ để lại vài trăm tín đồ khi Người về trời. Người chưa bao giờ viết một cuốn sách, giảng dạy một cuộc hội thảo hay tạo ra một bản phác thảo chi tiết cho các môn đệ của Người làm theo…. Vài năm sau khi Người ra đi, tổ chức của Người đã tăng lên bao gồm hàng ngàn tín hữu mới… Trong vòng năm thế hệ, số lượng Kitô hữu đã lên tới hàng triệu triệu người…. Hai nghìn năm đã trôi qua, nhưng những người theo Người ngày nay lên đến hàng tỷ tỷ người, với hàng triệu người gia nhập Kitô giáo mỗi năm. Tổ chức mà Ngài thành lập — Giáo hội — có chi nhánh ở mọi quốc gia trên khắp trái đất (trang 1-2). Không nghi ngờ gì rằng thế giới này cần những nhà lãnh đạo ở mọi hình dạng, kích thước và màu sắc. Nhìn xung quanh. Mọi người đang tuyệt vọng kêu gọi tình bạn, sự giúp đỡ, tình yêu, sự hướng dẫn và định hướng. Mỗi người chúng ta đã được kêu gọi để hướng dẫn người khác đến với Chúa Giêsu. Đã đến lúc nói “có” với lời mời gọi của Người: “Hãy chăm sóc chiên của Thầy” (Ga 21: 17). Đã đến lúc chúng ta phải cầu xin Chúa Thánh Thần để Ngài tuôn đổ ân sủng và ban sức mạnh cho chúng ta và giúp chúng ta mạnh dạn “đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28: 19). Đây là điều mà lãnh đạo hướng đến, đó là chia sẻ với những người khác những gì chúng ta đã học được từ Chúa Giêsu.

 

Bài cùng chuyên mục:

Ủy ban Giáo dân - Thường huấn tháng 11/2024: Giáo hội trong thế giới hiện đại (11/11/2024 05:25:00 - Xem: 0)

Đề tài thường huấn tháng 11/2024 của Ủy ban Giáo dân tập trung vào chủ đề: “Giáo hội trong thế giới hiện đại”.

Ủy ban Giáo dân - Thường huấn tháng 11/2024: Giáo hội trong thế giới hiện đại (02/11/2024 08:15:36 - Xem: 112)

Đề tài thường huấn tháng 11/2024 của Ủy ban Giáo dân tập trung vào chủ đề: “Giáo hội trong thế giới hiện đại”.

Linh mục: vui trong thuộc về để tạo sinh (13/10/2024 09:51:22 - Xem: 194)

Đức Giáo Hoàng Phanxicô: Tôi muốn chỉ cho anh chị em ba con đường cần thực hiện cho quá trình đào tạo linh mục, đó là: niềm vui Tin Mừng, cảm thức thuộc về Dân Chúa, khả năng tạo sinh trong việc phục vụ.

Ủy ban Giáo dân - Thường huấn tháng 10/2024 (02/10/2024 13:59:45 - Xem: 202)

Đề tài thường huấn tháng 10/2024 tập trung vào chủ đề: “Nuôi dưỡng tinh thần chiêm niệm”, với mục đích giúp anh chị em tín hữu, cách riêng là thành viên Hội đồng mục vụ giáo xứ, hồi tâm phản tỉnh về đời sống thiêng liêng

Ủy Ban Giáo dân - Thường huấn tháng 9/2024 (01/09/2024 13:37:58 - Xem: 318)

Tôi có đang thực sự đi theo Chúa Giêsu trên con đường của Người hay tôi đang đi theo ý riêng, sống đạo theo cách tôi muốn?

Linh mục quản xứ - Mục tử cai quản Đoàn chiên (28/08/2024 07:58:47 - Xem: 366)

Dựa trên Lời Chúa, huấn quyền của Giáo hội và chút ít kinh nghiệm cá nhân, xin chia sẻ một vài lời về việc cai quản giáo xứ.

Yêu như Thầy đã yêu: Trưởng thành và quân bình cảm tính trong đời sống độc thân Linh mục (09/08/2024 10:15:17 - Xem: 453)

Các linh mục không là thành viên của các hội dòng, được đào tạo để phục vụ và lãnh đạo Dân Chúa, trong vai trò của người mục tử sống với và sống vì đoàn chiên

Ủy ban Giáo dân - Thường huấn tháng 08/2024 (02/08/2024 08:57:23 - Xem: 288)

Căn tính truyền giáo của Giáo Hội một đàng được thể hiện qua đời sống cá nhân của mỗi Kitô hữu giáo dân...

Ủy ban Giáo dân - Thường huấn tháng 07/2024 (02/07/2024 07:39:20 - Xem: 411)

Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.

Hãy vui lòng dạy con tình yêu - Tình yêu trinh khiết và đời tu (22/06/2024 07:25:58 - Xem: 496)

“Thuộc trọn về Chúa cả hồn và xác” là cách diễn tả tình yêu sâu đậm của một con người dành cho Thiên Chúa và nhờ đó dành cho mọi người.

Bài viết mới
Câu chuyện chiều thứ 7