Câu hỏi:
1/ Khi đọc những dụ ngôn đặc biệt của Luca như dụ ngôn về người Samaritanô nhân hậu, về người cha nhân hậu, về ông nhà giàu và Ladarô, cũng như về dụ ngôn hai người lên Đền thờ cầu nguyện trong bài Tin Mừng hôm nay, bạn thấy chúng có nét nào chung?
2/ Đức Giêsu kể dụ ngôn này với mục đích gì? Ai là người cần nghe dụ ngôn này?
3/ Đọc Lc 18,10. Khuôn mặt hai người trong dụ ngôn này có ngược nhau không?
4/ Đọc Lc 18,11-12. Có bao nhiêu chủ từ “con”trong lời nguyện của người Pharisêu?
5/ Dựa theo lời nguyện trên đây của người Pharisêu, bạn thấy anh ấy có phải làngười đạo đức không? Đọc Tv 18,21-25; Tv 26,1-12.
6/ Theo bạn, lời nguyện của người Pharisêu cókhuyết điểm nào? Anh ấy có xin Chúa điều gì không? Anh ấy có thực sự tạ ơn Chúa không? Anh ấy đánh giá mình thế nào? Lời nguyện của anh chủ yếu là gì?
7/ Đọc Lc 18,13. Thái độ và lời nguyện của người thu thuế có gì đặc biệt? Đọc Tv 24,3-6. Chúng cókhác với thái độ và lời nguyện của người Pharisêu không? Cách mô tả của Luca về hai người có gì khác nhau?
8/ Sau khi kể dụ ngôn, Đức Giêsu kết luận ở Lc 18,14. Kết luận này có làm người nghengạc nhiên không? Rốt cuộc, Thiên Chúa đã nhậm lời người nào trong hai người này?
Câu hỏi suy niệm:
Tại sao Thiên Chúa thích kẻ tội lỗi khiêm nhường hơn người đạo đức kiêu căng?
Bạn học được bài học nào từ bài Phúc âm này?
Phần trả lời:
1/ Có thể nói một nét chung của những dụ ngôn trên đây là sựbất ngờ. Không ngờ người Samari lại là người dừng lại để cứu nạn nhân, chứ không phải vị tư tế hay thầy Lêvi. Không ngờ đứa con thứ rốt cuộc lại ở trong nhà cha, hưởng dùng bữa tiệc, còn người con cả vẫn đang đứng ngoài nhà chịu đói. Không ngờ cuối cùng anh Ladarô được ngồi trong lòng cụ tổ Abraham, còn ông nhà giàu lại phải trầm luân khốn khổ. Trong bài Tin Mừng hôm nay, cũng có chuyện rất bất ngờ: không ngờ anh thu thuế tội lỗi lại được Thiên Chúa coi là người công chính, còn ông Pharisêu đạo đức thì không.
2/ Đức Giêsu kể dụ ngôn này với mục đích được nói đến ở Lc 18,9. Ngài có ý nhắc nhở những ai khinh khi người tội lỗi, và tự hào cho mình là công chính vì đã giữ đủ và giữ kỹ mọi lề luật. Hẳn Đức Giêsu có ý nhắm vào những người Pharisêu (trong dụ ngôn ta thấy có nhân vật là Pharisêu). Tuy nhiên, dụ ngôn này không chỉ dành cho những người Pharisêu, mà còn dành cho các môn đệ và cho chúng ta ngày nay. Vì thực ra ai trong chúng ta cũng có chút tính của người Pharisêu. Ngay sau dụ ngôn này, ta thấy các môn đệ vẫn có thái độ coi thường trẻ em (Lc 18,15-17).
3/ Luca 18,10 giới thiệu hai nhân vật chính, có nét rất đối nghịch. Một là ông Pharisêu, người được xã hội nể trọng về đạo đức, học thức, uy tín. Người kia lại là anh thu thuế, người bị xã hội khinh bỉ vì anh làm việc cho ngoại bang, và thường không ngay thẳng trong chuyện tiền bạc. Khi đặt hai nhân vật này bên nhau, sự tương phản trở nên rõ hơn nhiều. Nhưng hai người có một điểm chung, đó là lên Đền thờ để cầu nguyện. Cả hai đều muốn gặp gỡ Thiên Chúa.
4/ Luca 18,11-12 cho thấy cử chỉ và lời cầu nguyện của người Pharisêu. Trong lời nguyện của người này ta thấy có bốn chủ từcon.“Con tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác…Con ăn chay, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con.”
5/ Đối với một số người Do-thái thời xưa, lời nguyện trên đây của ông Pharisêu thật tuyệt vời. Nó phản ánh một đời sống đạo đức đáng mơ ước. Lời nguyện của ông gồm hai phần. Phần tiêu cực gồm những việc xấu xa mà ông này không làm như tham lam, bất chính, ngoại tình…(Lc 18,11). Phần tích cực gồm những việc ông này làm. Người Do-thái buộc phải ăn chay vào dịp lễ Xá Tội hàng năm, còn ông Pharisêu trong dụ ngôn lại ăn chay một tuần hai lần, vào thứ hai và thứ năm. Người Do-thái buộc phải nộp thuế thập phân (10%) về mọi huê lợi do ruộng đất cung ứng hay do đàn vật chiên bò sinh sản (Lv 27,30-32; Đnl 14,22-23). Còn ông Pharisêu này nộp thuế thập phân về mọi thứ ông có, kể cả những điều nhỏ mọn (xem Mt 23,23). Rõ ràng, xét về bề ngoài, ông là người đạo đức. Khi đọc các Tv 18,21-25; Tv 26,1-12 ta cũng thấy khuôn mặt của người sống ngay lành, tránh xa tội lỗi, và không giao du với kẻ xấu xa. Người này mong được Chúa thưởng.
6/ Lời nguyện phản ánh tâm hồn. Khi nghe lời nguyện của ông Pharisêu ta thấy dường như ông đang liệt kê những thành tích của mình về chuyện ăn chay và nộp thuế thập phân cho Đền thờ, đặc biệt trong câu 12. Dù ông bắt đầu lời nguyện bằng việc gọi tên Thiên Chúa, và bằng một lời tạ ơn, nhưng lý do khiến ông tạ ơn là vì “con không như bao kẻ khác” (câu 11). Ông quay vào mình thay vì quay về Chúa để tạ ơn. Ông ngắm nghía chính mình và thấy mình hơn hẳn nhiều người tội lỗi, nhất là thấy mình đạo đức hơn hẳn anh thu thuế đang đứng cầu nguyện ở xa xa. Có thể nói ông Pharisêu đã không xin Chúa bất cứ điều gì, vì ông đã có quá đủ mọi sự. Ông tự hào về những gì mình có, về đời sống đạo đức của mình. Lời nguyện của ông đầy tràn cái tôi tự hào, tự mãn, tự kiêu, với nhiều từ “con” làm chủ từ. Ông tự coi mình là công chính, và ông cũng tin chắc mình được Chúa coi là công chính. Những việc tốt ông làm lại trở nên vật cản che khuất khiến ông không thực sự gặp được Chúa.
7/ Luca 18,13 cho thấy cử chỉ và lời nguyện của anh thu thuế. Anh đứng xa cung thánh và xấu hổ cúi xuống, không dám ngước mắt lên như mọi người. Anh đấm ngực vì đau buồn hối tiếc. Lời nguyện của anh cũng bắt đầu bằng việc gọi tên Thiên Chúa. Anh không có gì để tự hào, chỉ nhận mình là tội nhân. Khác với ông Pharisêu, anh thu thuế là người cần Chúa, cần lòng thương xót tha thứ. Chính tội lỗi và bóng tối nơi anh lại trở nên khoảng trống để Chúa có thể bước vào đời anh.
8/ Luca 18,14 là kết luận của Đức Giêsu sau dụ ngôn này. Câu nói này hẳn làm thính giả phải chưng hửng. Sau khi cầu nguyện và sau đó xuống núi thánh để về nhà mình, ông Pharisêu và anh thu thuế được kết quả khác nhau. Ai cũng nghĩ ông Pharisêu đạo đức là người được Chúa thương và coi là công chính. Nào ngờ chính anh thu thuế lại nhận được nhiều hơn. Đơn giản là vì anh đã hạ mình xuống, nhìn nhận mình chẳng là gì và chờ đợi tất cả từ Chúa.