+ Chúa Nhật 27/11/2022 – CHÚA NHẬT 1 MÙA VỌNG năm A – Phải sẵn sàng.
- In trang này
- Lượt xem: 8,290
- Ngày đăng: 26/11/2022 10:00:00
Phải sẵn sàng.
27/11 – CHÚA NHẬT 1 MÙA VỌNG năm A
"Hãy tỉnh thức để sẵn sàng".
Lời Chúa: Mt 24, 37-44
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Trong thời ông Noe xảy ra thế nào, thì lúc Con Người đến cũng như vậy. Cũng như trong những ngày trước đại hồng thuỷ, người ta ăn uống, dựng vợ gả chồng, mãi đến chính ngày ông Noe vào tàu mà người ta cũng không ngờ, thình lình đại hồng thuỷ đến và cuốn đi tất cả, thì khi Con Người đến, cũng sẽ xảy ra như vậy.
Khi ấy sẽ có hai người đàn ông đang ở ngoài đồng, một người được tiếp nhận, một người bị bỏ rơi. Và có hai người đàn bà đang xay bột, một người được tiếp nhận, còn người kia bị bỏ rơi. Vậy hãy tỉnh thức, vì không biết giờ nào Chúa các con sẽ đến.
"Nhưng các con phải biết điều này, là nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông ta sẽ canh phòng, không để cho đào ngạch khoét vách nhà mình.
Vậy các con cũng phải sẵn sàng, vì lúc các con không ngờ, Con Người sẽ đến".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
CHÚA NHẬT 1 MÙA VỌNG A
Lời Chúa: Is 2,1-5; Rm 13,11-14; Mt 24,37-44
1. Hãy sẵn sàng--‘Manna’
Suy Niệm
Vào một ngày của tháng 10 năm 1992,
một số người Nam Hàn tụ tập ở các nhà thờ
để chờ ngày tận thế đến vào lúc nửa đêm.
Có người đã bán nhà và xin nghỉ việc,
nhưng dĩ nhiên đó không phải là ngày tận thế.
Kinh Thánh chẳng hề nói tận thế đến vào lúc nào.
Đức Giêsu cũng bảo là Ngài không biết (Mt 24,36).
Chính vì thế Kitô hữu không tin những lời đồn thổi,
nhưng kiên tâm chờ đợi trong hy vọng.
Đây không phải là thứ nơm nớp chờ đợi, khoanh tay,
nhưng là thứ chờ đợi bằng cách sống hết mình
để chuẩn bị cho trái đất đón Chúa trở lại.
Mùa Vọng là thời gian đặc biệt để tập sống chờ đợi.
Không phải chỉ là chờ mừng lễ Giáng sinh
mà nhất là chờ đợi Chúa đến kết thúc dòng lịch sử.
Ngày tận thế và ngày Chúa quang lâm là một.
Đó là một ngày đáng sợ,
không phải vì những hiện tượng kinh khủng sẽ xảy ra,
nhưng vì là ngày Chúa đến phán xét kẻ sống người chết.
Ngày đó còn là một ngày hội vui:
ngày vui của Chúa Giêsu toàn thắng vinh quang,
ngày vui của những người được cứu chuộc,
ngày vui của cả vũ trụ vật chất được giải phóng.
Tận thế là cánh cửa mở ra trời mới đất mới.
Tất cả được đưa vào thế giới vĩnh cửu.
Có lẽ chúng ta hôm nay mong chờ Chúa đến
ít hơn các Kitô hữu thuở ban đầu.
Chẳng ai thích nghĩ đến ngày tận thế.
Tận thế bị coi là chuyện tương lai xa vời.
Cuộc sống hiện tại có vô số mối lo âu và hy vọng:
ăn uống, cưới vợ, lấy chồng, làm ruộng, xay bột.
Thật ra, nghĩ đến ngày tận thế
cũng cần như nghĩ đến cái chết của mình.
Cái chết dạy người ta biết cách sống.
Ngày tận thế dạy người ta biết cách xây dựng thế giới
trên nền tảng vĩnh cửu, trên những giá trị trường tồn.
Đối với Kitô giáo, ngày tận thế không phải là ngày buồn,
ngày của hủy diệt và tang tóc,
nhưng là ngày của thân xác được sống lại,
ngày khai sinh một thế giới mới không bị hận thù và chết chóc đe dọa.
Ngày tận thế là ngày Chúa quang lâm.
Chúng ta phải sẵn sàng ra đón Ngài.
Sẵn sàng là cùng với Chúa xây dựng
một trái đất đầy tình thương và công lý.
Sẵn sàng là biến trái đất thành con đường dẫn tới Thiên đàng.
Ngày Chúa quang lâm là một ngày bất ngờ,
nhưng nó sẽ ít bất ngờ đối với những ai biết sẵn sàng chờ đợi.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, có sự giằng co giữa đời này và đời sau nơi người Kitô hữu không? Làm sao để mối lo toan về đời này không làm ta sao nhãng đời sau? Làm sao để mối quan tâm về đời sau lại thêm sức cho ta chu toàn bổn phận đối với đời này?
Nếu ngày mai tận thế, hôm nay bạn làm gì?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, nếu ngày mai Chúa quang lâm,
chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng.
Thế giới này còn bao điều khiếm khuyết, dở dang,
còn bao điều nằm ngoài vòng tay của Chúa.
Chúa đâu muốn đến để hủy diệt,
Chúa đâu muốn mất một người nào
Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa
xây dựng một thế giới yêu thương và công bằng, vui tươi và hạnh phúc,
để ngày Chúa đến thực là
một ngày vui trọn vẹn cho mọi người và cho cả vũ trụ.
Xin nuôi dưỡng nơi chúng con
niềm tin vững vàng và niềm hy vọng nồng cháy,
để tất cả những gì chúng con làm
đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại.
2. Mùa Vọng với hai hy vọng 2013--GM. Gioan Baotixita Bùi Tuần
Nghèo khó, khiêm nhường, bé nhỏ, tin cậy ở Chúa là mấy nét căn bản của đời sống nội tâm Kitô giáo.
1.
Mùa Vọng, tôi có hai hy vọng.
Hy vọng thứ nhất là hy vọng tôi biết đón nhận Chúa.
Hy vọng thứ hai là hy vọng tôi được Chúa đón nhận tôi.
Hy vọng vẫn là hy vọng, nghĩa là chỉ trong ước mong. Còn điều tôi ước mong có được thực hiện hay không lại là chuyện khác.
Tôi rất lo cho sự thực hiện hai hy vọng trên đây của tôi. Nỗi lo của tôi có cơ sở Phúc Âm và thực tế lịch sử.
2.
Trước hết, xin nói về hy vọng biết đón nhận Chúa.
Phúc Âm cho thấy nhiều người theo đạo Chúa thời Đức Giêsu Kitô xuất hiện, đã không biết đón nhận Người.
Thánh Gioan Tông đồ đã viết ngay trong “lời tựa” Phúc Âm của Ngài những câu đau đớn: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có. Nhưng thế gian lại không nhận biết Người, Người đã đến nhà mình, nhưng những người nhà lại chẳng chịu đón nhận Người” (Ga 1,9-11).
Thực là phũ phàng.
3.
Sự thực phũ phàng đó lại xảy ra ngay tại Nadarét, là quê hương của Chúa Giêsu.
Thánh sử Luca viết: “Rồi Đức Giêsu đến Nadarét, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày Sabát, và đứng lên đọc sách thánh. Họ trao cho Người cuốn sách ngôn sứ Isaia. Người mở ra, gặp đoạn chép rằng:
Thần Khí Chúa ngự trên tôi,
vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi
để tôi loan báo Tin Mừng
cho người nghèo khó
...
Người bắt đầu nói với họ: Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe. Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người.
Họ bảo nhau: Ông này không phải là con ông Giuse đó sao? Người nói với họ: Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ: Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình. Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Caphácnaum, ông cũng hãy làm tại đây, là quê hương của ông xem nào. Người trả lời: Tôi bảo thật các ông: Không một tiên tri nào được chấp nhận tại quê hương.
...
Mọi người trong hội đường đều phẫn nộ. Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành, thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực. Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi” (Lc 4,16-20).
Đồng hương của Chúa Giêsu không những không đón nhận Người, mà còn định tiêu diệt Người. Thực là một sự thực phũ phàng đầy đau đớn.
4.
Sự thực phũ phàng đau đớn như thế lại đã xảy ra một cách độc ác ngay chính những người đứng đầu đạo Chúa thời Chúa Giêsu.
Thánh sử Marcô ghi lại một cách rõ ràng: “Hai ngày trước lễ Vượt qua và lễ không men, các thượng tế và kinh sư tìm cách dùng mưu để bắt Đức Giêsu mà giết đi.
...
Họ điệu Đức Giêsu đến vị thượng tế. Các thượng tế, kỳ mục và kinh sư đều tựu lại... Bấy giờ các thượng tế và toàn thể Thượng hội đồng tìm lời chứng buộc tội Đức Giêsu để làm án tử hình, nhưng họ không tìm ra
...
Họ trói Đức Giêsu lại và giải đi nộp cho quan Philatô.
Các thượng tế sách động đám đông đòi ông Philatô lên án giết Đức Giêsu” (Mc 14,1-11).
5.
Những chuyện phũ phàng đau đớn và ác độc trên đây không phải là không tái diễn trong lịch sử Hội Thánh dưới nhiều hình thức khác nhau, rải rác đó đây, nơi này nơi nọ.
6.
Chuyện xua đuổi Chúa một cách quy mô có thể là không nhiều. Nhưng chuyện dửng dưng không đón nhận Chúa là chuyện phải nói là thông thường. Chúa phán: “Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa ra, thì Ta sẽ vào nhà người ấy” (Kh 3,20). Biết bao lần, tôi đã không tỉnh thức nghe tiếng Chúa gõ cửa lòng tôi. Biết bao lần, tôi nghe tiếng Chúa gọi, nhưng tôi đã không mở cửa lòng tôi ra, để đón Chúa.
Không đón Chúa đến với mình, đó là một thực tế đau lòng, mà tôi thấy đang xảy ra nơi nhiều người đạo Chúa.
Thực tế đau lòng đó cũng rất có thể đang xảy ra nơi tôi. Lạy Chúa, xin Chúa xót thương con.
7.
Bây giờ, tôi nhìn sang hy vọng thứ hai của tôi, đó là hy vọng tôi được Chúa đón nhận.
Phúc Âm cho thấy điều này: Những điều Chúa Giêsu giảng dạy dưới mọi hình thức đều quy về mục đích đưa con người vào chính lộ dẫn về Nước Trời, nơi được hạnh phúc trường sinh bên Chúa.
Những ai đi vào chính lộ, phấn đấu làm điều phúc đức, tránh điều tội lỗi, bước theo Chúa đến cùng, sẽ được Chúa đón nhận vào thiên đường. Còn những ai làm theo ý riêng mình, không từ bỏ tội lỗi, không sám hối, trở về với Chúa, sẽ không được Chúa đón nhận. Những ai được Chúa đón nhận và những ai không được Chúa đón nhận đều đã được Chúa nói rõ trong Phúc Âm, nhất là trong nhiều dụ ngôn, đặc biệt là trong bài nói về ngày phán xét.
8.
Phán đoán của Chúa rất công minh, và rất nhiệm mầu. Nhưng chắc chắn điều này là: Chúa ưa thích những ai khiêm nhường, chân thành, tin cậy vào Chúa và biết xót thương người khác, luôn tìm thực thi ý Chúa và biết sám hối. Tôi nhớ tới người phụ nữ tội lỗi (x. Lc 7,38-50) và người trộm cướp bị đóng đinh bên hữu Chúa (x. Lc 23,40-43).
Có thể nói tinh thần hưởng thụ, nếp sống thực dụng và thói quen đưa mình lên luôn là những cản trở khiến con người mọi nơi mọi thời không được Chúa đón nhận.
Lời Chúa phán sau đây làm tôi lo sợ: “Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: Lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng nhân danh Thầy mà nói tiên tri, mà trừ quỷ, mà làm nhiều phép lạ đó sao? Nhưng, bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố vói họ: Ta không hề biết các ngươi là ai. Hãy xéo đi cho khuất mặt Ta, hỡi những kẻ làm điều gian ác” (Mt 7,22-23). Như vậy, tôi đừng có chủ quan tự mãn với những việc tôi làm, mà tôi tưởng là lành thánh. Bởi vì rất có thể khi tôi làm những việc đó, đã có pha mục đích khoe khoang, và trái ý Chúa.
9.
Với vài suy nghĩ trên đây, tôi thấy Mùa Vọng của tôi sẽ là thời gian quý giá để rà soát lại hai hy vọng của tôi.
Tôi rà soát lại bên Đức Mẹ Maria và bà thánh Isave, là hai phụ nữ quan trọng trong mùa Vọng.
Đức Mẹ Maria đã đón nhận Chúa một cách rất khiêm nhường, phó thác. Còn Chúa, Chúa đã đón nhận Mẹ một cách bất ngờ với tình yêu thương xót, và đã làm nơi Mẹ những sự lạ lùng, vì danh Người là Thánh.
Bà thánh Isave đã đón nhận Chúa với lòng tin mãnh liệt và tâm tình cảm tạ khiêm cung. Còn Chúa, Chúa đã đón nhận Bà một cách tế nhị kín đáo với một chương trình cứu độ hết sức lớn lao.
Đức Mẹ Maria cưu mang Chúa Giêsu, bà Isave cưu mang thánh Gioan Baotixita. Cả hai phụ nữ cưu mang ấy đã rất âm thầm, nhưng đã cộng tác rất đắc lực với chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Ở bên Đức Mẹ Maria và bà thánh Isave, tôi trở thành bé nhỏ. Và tự nhiên, tôi hiểu bé nhỏ, khiêm nhường, nghèo khó, tin tưởng ở Chúa chính là những điều kiện cần, để sống mùa Vọng với hai hy vọng của tôi.
Nghèo khó, khiêm nhường, bé nhỏ, tin cậy ở Chúa là mấy nét căn bản của đời sống nội tâm Kitô giáo. Nếu thiếu đời sống nội tâm với những nét căn bản đó, tôi có thể sẽ chỉ còn là người của một cơ chế tôn giáo, chứ không là chứng nhân đích thực của đức tin.
Lạy Chúa, xin thương xót con.
3. Sẵn sàng đón Chúa--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Hôm nay cung thánh đượm vẻ u buồn. Bàn thờ đạm bạc không hương hoa. Lễ phục mang màu tím. Màu tím của lặng lẽ hy sinh. Màu tím của âm thầm cầu nguyện. Màu tím của tha thiết đợi chờ. Màu tím ấy nhắc cho ta biết: hôm nay ta đã bước vào mùa Vọng.
Mùa Vọng là mùa đợi chờ. Đợi chờ Chúa đến cứu độ ta. Cuộc đời ta quá nhiều đau khổ, quá nhiều tội lỗi, quá nhiều bế tắc. Chỉ có Chúa mới có thể thay đổi đời ta, giải thoát ta khỏi ách nô lệ tội lỗi, đưa ta vào tình trạng thánh thiện của con cái Chúa.
Như thế mùa Vọng cũng là mùa hy vọng. Đợi chờ chính là hy vọng. Như thế trong màu tím buồn chờ đợi đã thấy thấp thoáng màu xanh hy vọng vui tươi. Nhưng làm sao để màu tím biến thành màu xanh? Làm sao nắm bắt được niềm hy vọng? Làm sao gặp được Chúa khi Người ngự đến? Lời Chúa sẽ hướng dẫn ta sống tinh thần mùa Vọng này.
Trong tuần thứ nhất mùa Vọng, Chúa Giêsu khuyên ta noi gương tổ phụ No-e. Tổ phụ No-e đã được cứu thoát khỏi nạn hồng thủy nhờ thái độ sống tích cực trước lời hứa của Chúa. Thái độ tích cực đó gồm hai điểm hỗ tương.
1) Chiếu ánh sáng hy vọng tương lai vào cuộc đời tối tăm hiện tại
Người ta sống nhờ hy vọng. Không có hy vọng, không ai sống nổi ở đời. Cuộc đời phù du mau qua. Cuộc đời tràn ngập đau khổ. Cuộc đời quá nhiều thử thách. Nhờ hy vọng con người mới có thể tiếp tục sống, làm việc, thăng tiến.
Chính vì hy vọng một mùa gặt bội thu mà người nông dân không ngại dầm sương dãi nắng, thức khuya dậy sớm, cần cù cày bừa, gieo vãi và vun tưới.
Chính vì hy vọng đậu đạt mà học sinh, sinh viên không ngại vất vả, ăn uống đơn sơ, giảm bớt vui chơi, đêm đêm chong đèn đọc sách.
Chính niềm hy vọng được cứu thoát đã giúp tổ phụ No-e có đủ can đảm và kiên nhẫn, đầu tư thời giờ và công sức để đóng một con tàu lớn như thế. Niềm hy vọng được nuôi dưỡng bằng lời hứa của Chúa. Tin tưởng vững vàng vào Lời Chúa, tổ phụ No-e sống tràn đầy niềm hy vọng vào tương lai. Niềm hy vọng đó giúp Ngài vượt qua những khó khăn hiện tại.
2) Sống tích cực giây phút hiện tại để chuẩn bị cho tương lai.
Niềm hy vọng vào tương lai giúp ta thêm can đảm. Nhưng nó không cho phép ta thoát khỏi cuộc sống hiện tại. Niềm hy vọng tách rời khỏi thực tế sẽ trở thành ảo vọng. Vì thế muốn đạt tới niềm hy vọng tương lai, ta phải tích cực sống phút giây hiện tại. Phải tích cực làm việc cho tương lai.
Người học trò muốn có tương lai tươi sáng không thể chỉ ngồi đó chờ đợi, nhưng phải ngày đêm chăm lo học hành.
Người nông phu muốn có mùa gặt bội thu không thể khoán trắng công việc đồng áng cho trời đất. Nhưng phải cần cù chăm chỉ dầm mưa dãi nắng.
Tổ phụ No-e không ngồi khoanh tay chờ Chúa đến cứu, nhưng đã bắt tay vào việc. Ngài làm việc cật lực, bất chấp những lời dèm pha, dị nghị của những người chung quanh.
Tục ngữ Pháp có câu: Hãy tự giúp mình, rồi Trời sẽ giúp. Tổ phụ No-e đã thực hiện đúng như thế. Ngài đã dồn hết công sức vào việc chuẩn bị tương lai. Và Chúa đã cứu Ngài như lời đã hứa.
Đời sống ta là một mùa Vọng kéo dài. Mùa Vọng trần gian muốn phủ ta trong màu tím buồn của những gian nan thử thách, những thất bại, những chán nản, lo âu, nghi ngờ, mệt mỏi. Ta hãy noi gương tổ phụ No-e, tin tưởng vững chắc vào lời Chúa hứa. Lời Chúa sẽ chiếu ánh sáng hy vọng tương lai vào những tăm tối u buồn hiện tại. Như tổ phụ No-e, ta không ngồi khoanh tay chờ đợi, nhưng tích cực làm việc bổn phận trong hiện tại. Làm mọi việc thường ngày với lòng tin tưởng vững chắc. Làm những việc nhỏ mọn với tình mến Chúa yêu người tha thiết. Đó chính là cách ta sẵn sàng chờ đón Chúa đến. Đó chính là ta tỉnh thức không bị lỡ cơ hội khi Chúa đến.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến. Amen.
GỢI Ý SUY NIỆM
1) Có nhiều người chỉ quan tâm tới đời sau mà không chịu làm việc hiện tại. Có nhiều người lại chỉ lo làm ăn sinh sống mà không nghĩ đến đời sau. Bạn nghĩ sao về hai thái độ đó?
2) Ta phải sống thế nào để chu toàn nhiệm vụ hiện tại với bản thân, với gia đình mà không quên Chúa, không quên phần linh hồn của mình?
3) Tuần này, bạn sẽ làm gì để chuẩn bị đón Chúa đến?
4. Con hướng về Chúa 2016--GM. Giuse Vũ Văn Thiên
Khi nỗ lực đón Chúa ngự đến tâm hồn, chúng ta sẽ được hưởng sự ngọt ngào của ân sủng. Đó cũng là niềm vui và hạnh phúc Chúa ban cho những ai chuyên tâm quy hướng về Ngài.
Con hướng về Chúa
Như đất khô mong nước nguồn
Như tuần phiên mong trời sáng
Như con thơ mong mẹ hiền (Thánh ca)
Lời của bài Thánh ca diễn tả niềm khát vọng của con người luôn hướng về Chúa, bất kể họ thuộc về thời đại hoặc nền văn hoá nào. Con người cần Chúa như thân xác cần hơi thở, như đất cần có mưa. Niềm mong đợi Chúa vừa thiêng liêng cao cả, vừa thân thiết gần gũi. Không có Chúa, đời sống sẽ khô cằn, vô nghĩa. Vắng bóng Ngài, cuộc đời sẽ lạc lõng, đau thương.
“Con hướng về Chúa”, đó là lời tuyên xưng đức tin vào Đấng là nguyên lý của muôn vật muôn loài. Thiên Chúa là Đấng tạo dựng thiên nhiên vũ trụ và con người. Ngài dựng nên mọi sự từ hư vô. Ngài tiếp tục điều khiển vũ trụ, làm cho nó chuyển động trong trật tự kỳ diệu. Nhờ Chúa mà bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, thay nhau đắp đổi. Do Ngài mà bát tiết, tháng năm trật tự xoay vần. Với tình yêu thương quan phòng, Thiên Chúa chúc lành và gìn giữ để công trình tạo thành của Ngài ngày càng tiến triển, đạt tới tầm vóc hoàn hảo trong tương lai, vào thời điểm Ngài muốn. Trong số các tạo vật, con người được Chúa ưu ái dựng nên giống hình ảnh Ngài. Ngài còn phú bẩm cho họ linh hồn bất tử. Thiên Chúa cũng chia sẻ cho con người vinh quang của Ngài. Ngài dựng nên họ để hưởng hạnh phúc đời này và đời sau. Khi tôn nhận Chúa là nguyên lý của muôn vật muôn loài, chúng ta sẽ yêu mến thiên nhiên và yêu mến cuộc sống này hơn, vì vũ trụ này phản ánh vinh quang và sự thánh thiện của Thiên Chúa. Hướng về Chúa là khuynh hướng tự nhiên thuộc bản tính con người, giống như nam châm hút sắt, như đoá hoa hướng dương ngả về mặt trời. Trong nỗi khắc khoải hướng về Chúa, tác giả Thánh vịnh đã thốt lên: “Ngay từ rạng đông, con tìm kiếm Chúa. Linh hồn con đã khát khao Ngài, tấm thân này mòn mỏi đợi trông, như mảnh đất hoang khô cằn, không giọt nước” (Tv 62,2). Từ xa xưa, khi con người bắt đầu hiện hữu trên trái đất, cũng là lúc con người khởi đầu những nỗ lực tìm kiếm Chúa, nhưng họ lầm tưởng Ngài với những hiện tượng thiên nhiên huyền bí. Đó là lý do tại sao những bộ lạc hoang sơ đã thờ mặt trời mặt trăng, cây đa cây đề, hoặc thần núi thần sông, thần sấm thần sét. Họ quan niệm rằng những hiện tượng và thực tại đó là những thần linh cao cả quyền năng.
“Con hướng về Chúa”, đó là tâm tình yêu mến của những ai tin vào Đấng là Cha chung của gia đình nhân loại. Tâm tình ấy thân thiết, gần gũi ấm êm “như con thơ mong mẹ hiền”. Chúa là Đấng đáng yêu đáng mến, vì Ngài tốt lành thánh thiện, và nhất là Ngài đã dựng nên chúng ta và cho chúng ta hiện hữu trên đời. Ngài còn ban cho chúng ta biết bao điều tốt lành trong cuộc sống. Trước những điều may mắn phúc lộc xảy đến trong cuộc đời, nhiều người nghĩ đó là điều ngẫu nhiên, nhưng những ai tin Chúa đều nhận ra đó là ân ban do lòng từ tâm và thương xót của Ngài. Chúa Giêsu đã khẳng định với chúng ta, những sợi tóc trên đầu mỗi người cũng được Chúa đếm cả, những con chim sẻ không tích trữ kho lẫm vẫn được Chúa nuôi dưỡng và những bông hoa huệ ngoài đồng không may vá dệt cửi vẫn được Chúa mặc cho vẻ đẹp huy hoàng (x. Mt 6,25-29). Người cũng dạy chúng ta cầu nguyện với Chúa Cha bằng tâm tình thân thương hiếu thảo: “Lạy Cha chúng con ở trên trời…”. Yêu mến Đấng đã dựng nên mình và là Cha của mình, đó là tình cảm tự nhiên và đó cũng là bổn phận của lòng hiếu thảo. Lòng yêu mến ấy giúp chúng ta mỗi ngày một đến gần Chúa hơn trong sự kết hiệp thâm sâu mà chúng ta thường gọi là đời sống nội tâm. Tâm tình ấy cũng giúp chúng ta nhận ra sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời, mỗi ngày một rõ nét hơn, để rồi, chúng ta có thể nói như Thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). Ý thức Chúa sống trong tâm hồn, người tín hữu sẽ dễ dàng nên hoàn thiện trong lời nói, tư tưởng cũng như việc làm. Họ sẽ tìm thánh ý Chúa, cố gắng sống đẹp lòng Ngài và coi đó là điều ưu tiên quan trọng nhất trong đời.
“Con hướng về Chúa”, đó là lời cầu nguyện diễn tả niềm hy vọng cậy trông của người tín hữu. Giữa cuộc đời chìm nổi truân chuyên, nào ai biết những gì bất chợt sẽ đến? Giữa dòng đời bon chen xuôi ngược, nào ai đoán được hậu vận tương lai? Người tin Chúa luôn phó thác nơi Ngài, tin chắc rằng không bao giờ Ngài dửng dưng trước lời cầu nguyện chân thành tha thiết. Chúa Giêsu đã hứa: “Ai xin thì sẽ được, ai tìm sẽ thấy, ai gõ cửa sẽ mở cho” (Mt 7,7). Người cũng hứa ngự giữa chúng ta khi chúng ta hội họp cầu nguyện nhân danh Người (x. Mt 18,19). Hướng về Chúa chính là niềm xác tín vào lời hứa ấy. Niềm cậy trông vào Chúa nuôi dưỡng đức tin của chúng ta, đồng thời là nguồn sức mạnh giúp chúng ta vượt lên những khó khăn thử thách trên đường đời. Niềm hy vọng cũng giúp chúng ta nhìn cuộc đời này lạc quan hơn, để cùng nhau hướng thiện, dù còn nhiều bóng tối vây quanh bao phủ. Sống mà không có niềm hy vọng, con người giống như người mộng du ảo giác, lang thang vô định. Không có niềm hy vọng, chúng ta sẽ nhìn cuộc đời đen tối tiêu cực và dễ chán nản. Tin vào tình thương của Chúa, chúng ta cùng hướng về Ngài, cầu xin Ngài giáng phúc ban ơn, để cuộc sống của chúng ta được bình an.
“Con hướng về Chúa”, tâm tình này thể hiện cuộc lữ hành trần thế của mỗi chúng ta. Sống một ngày trên đời là tiến tới gần Chúa hơn. Chẳng ai sống mãi ở đời này, nhưng mỗi người sinh ra được Chúa cho một quỹ thời gian nhất định. Hết quỹ thời gian đó, họ phải kết thúc cuộc sống, từ giã cõi đời. Mọi người sống trên đời, giàu sang phú quý hay nghèo nàn bất hạnh rồi cũng phải chết như nhau, nhưng hậu vận của họ lại không giống nhau. Những người sống một đời thánh thiện yêu thương sẽ được hưởng phúc thiên đàng; những ai sống bất công gian dối sẽ phải đau khổ trầm luân. Đừng vội trách Chúa nghiêm khắc với tội nhân! nhưng hãy tự trách mình đã dửng dưng và để lỡ nhiều cơ hội. Hạnh phúc thiên đàng hay hình phạt hỏa ngục là do chính mình tự chọn, qua thái độ sống ở đời. Chúa Giêsu đã nói tới hai con đường: con đường thênh thang rộng mở dẫn tới sự chết; con đường nhỏ hẹp khó đi dẫn tới sự sống (x. Mt 7,13-14). Nhiều người đã muốn chọn con đường rộng rãi thênh thang cho mình. Đó là sự buông thả, dễ dãi, chiều theo những tham vọng đam mê và ích kỷ. Mỗi người phải gánh trách nhiệm về sự lựa chọn ấy của mình.
Mỗi năm, khi Mùa Vọng về, Giáo Hội mời gọi các tín hữu cùng hướng về Chúa. Lời ngôn sứ diễn tả niềm khao khát của nhân loại mọi nơi mọi thời: “Trời cao, hãy đổ sương mai! Ngàn mây, hãy mưa Ðấng Công chính” (Is 45,8). Niềm khao khát ấy, cũng nồng nàn tha thiết như đất mong nước nguồn, như tuần phiên mong trời sáng và như con thơ mong mẹ hiền.
Người Kitô hữu hôm nay không còn mong đợi Đấng Công chính với tâm trạng của thời ngôn sứ Isaia. Bởi lẽ Đấng Công chính là Đức Giêsu Kitô đã giáng trần cách nay hơn hai ngàn năm. Người đã đi vào lịch sử nhân loại với sứ mạng rao giảng tình thương của Thiên Chúa. Hôm nay, Người đang hiện diện giữa chúng ta. Khi nỗ lực đón Chúa ngự đến tâm hồn, chúng ta sẽ được hưởng sự ngọt ngào của ân sủng. Đó cũng là niềm vui và hạnh phúc Chúa ban cho những ai chuyên tâm quy hướng về Ngài.
5. Chờ đợi trong hy vọng--GM. Giuse Vũ Văn Thiên
Mỗi người trong chúng ta đã có lần chờ đợi. Chúng ta chờ đợi một biến cố quan trọng trong đời; chờ đợi người đi xa trở về; chờ đợi một tin vui của người thân. Cuộc chờ đợi nào cũng làm chúng ta hồi hộp lo lắng xen lẫn với khấp khởi mừng vui. Trong khi chờ đợi, thời gian dường như trôi đi rất chậm, rất dài.
Mùa phụng vụ đầu tiên trong năm mới có tên là Mùa Vọng hay Mùa Đợi. Chúng ta chờ đợi Chúa đến. Đức Giêsu đã đến hai ngàn năm nay trong lịch sử, nhưng đối với mỗi cá nhân sống trên cõi đời này, thì Người vẫn đang đến. Và thế là, mỗi ngày sống của chúng ta trên trần gian là một ngày chờ đợi để gặp Chúa. Cuộc gặp gỡ này mang màu sắc lạc quan hay bi quan tùy thuộc vào thái độ sống của mỗi người. Đối với ai thành tâm kiếm tìm Chúa thì cuộc gặp gỡ ấy là niềm vui và hạnh phúc. Đối với ai chỉ coi giá trị vật chất đời này là đích điểm, thì cuộc gặp gỡ ấy là sự kết án đau thương.
Để chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ yêu thương giữa Thiên Chúa với con người, Phụng vụ Mùa Vọng mở đầu bằng lời kêu gọi chúng ta hãy tỉnh thức. Chúa Giêsu trích dẫn sự kiện trong lịch sử Thánh Kinh mà người Do Thái nào cũng biết, đó là biến cố Đại Hồng thủy. Khi ông Nôê đóng tàu thì có nhiều người chê cười ông. Nhưng khi nước dâng lên thì họ bị nước cuốn trôi. Chúa kêu gọi mọi người hãy học bài học lịch sử đó như một kinh nghiệm sống, để luôn chuẩn bị sẵn sàng, vì không biết giờ nào và ngày nào sẽ là lúc tận cùng của cuộc sống cá nhân chúng ta. Lúc tận cùng ấy huyền nhiệm và khó hiểu, được diễn tả như việc có hai người đang làm ruộng, hay hai người đang xay bột, một người được để lại và người kia được đem đi. Hay cũng bất ngờ như người chủ đi xa trở về bất chợt, vào lúc những người giúp việc không ngờ.
Tỉnh thức để đón Chúa, người tín hữu cũng được kêu mời tỉnh thức đối với anh chị em mình. Ngày nay người ta nói nhiều đến chứng bệnh vô cảm. Con người trở nên dửng dưng lạnh lùng trước những nhu cầu và nỗi đau của người thân hoặc những người xung quanh. Con đường dẫn ta đến gặp Chúa là con đường được nối kết bằng những việc bác ái ta làm đối với anh chị em mình. Bởi lẽ chúng ta không chỉ đi một mình đơn lẻ để gặp gỡ Chúa, mà ta đi với anh chị em, trong tình mến thân thiện của những người có cùng một Cha trên trời là Thiên Chúa tối cao. Không thể sống tinh thần Mùa Vọng mà lại dửng dưng hay thù ghét anh chị em của mình. Khi Chúa đến gặp ta, Người sẽ xét xử về cách sống của ta đối với những người xung quanh, nhất là những người nghèo khổ và bất hạnh. Như vậy, “tỉnh thức” có nghĩa là quan tâm đến người khác và ân cần giúp đỡ họ.
Lời Chúa trong ngày mở đầu Năm Phụng vụ mang sắc thái của một lời hiệu triệu, kêu gọi mọi tín hữu hãy lên đường tiến về Giêrusalem để đón Chúa. Những hình ảnh được diễn tả trong Bài đọc I cho thấy Giêrusalem là trung tâm điểm của thế giới. Mọi nơi đều hướng về trong niềm vui mừng hân hoan. Đây là sự khai mở một triều đại mới của lịch sử. Chúa đến để chúc phúc cho dân người. Nếu chúng ta lắng nghe lời hiệu triệu này mà đón Chúa, thì cuộc sống của chúng ta sẽ an bình tốt đẹp và nở hoa. Có Chúa hiện diện, sẽ không còn chiến tranh. Con người sẽ “đúc gươm đao thành cuốc thành cày; rèn giáo mác nên liềm nên hái”. Một xã hội thanh bình sẽ được thiết lập nếu ta biết mở rộng tâm hồn để đón Chúa và thực thi giáo huấn của Người.
Hãy thức dạy những ai ngủ mê! Hãy ra khỏi bóng tối của ích kỷ hận thù, để bước vào ánh sáng huyền nhiệm của bác ái thứ tha. Sống theo ánh sáng, đó là một điều kiện không thể thiếu đối với những ai muốn đi theo và làm môn đệ của Đức Giêsu.
Cuộc đời này là sự chờ đợi liên lỉ. Chờ đợi Chúa không giống như tìm kiếm sự may rủi hay một cơ hội có thể đến mà cũng có thể không. Chúng ta chờ đợi Chúa trong sự xác tín vào quyền năng của Ngài, và chắc chắn Người sẽ đến. Cuộc đời này được sánh ví như một con đường. Mỗi người chúng ta đang đi trên con đường đó. Ở cuối của con đường này, Chúa đang chờ đợi chúng ta, vì thế mà sự đợi của chúng ta là chờ đợi trong hy vọng. Chúng ta cũng tin chắc Chúa là Đấng yêu thương, luôn dành những điều bất ngờ cho những ai giữ một lòng trung tín và cậy trông nơi Người.
6. Lòng hiếu khách--TGM. Giuse Vũ Văn Thiên
Cuộc gặp gỡ giới trẻ châu Á do Cộng đoàn Taizé tổ chức tại Hong Kong vào tháng 8 năm 2019 đã chọn đề tài “Chúng ta đừng quên lòng hiếu khách”. Câu Kinh Thánh này được trích dẫn từ Thư gửi tín hữu Do Thái: “Anh em đừng quên tỏ lòng hiếu khách, vì nhờ vậy, có những người đã được tiếp đón các thiên thần mà không biết” (Dt 13,2). Nếu chúng ta cần tỏ lòng hiếu khách, là vì Thiên Chúa cũng rất quảng đại đón tiếp chúng ta. Qua công trình tạo dựng, Ngài đã gọi chúng ta từ hư vô tới hiện hữu. Khi chúng ta phạm tội, Ngài đã giang rộng vòng tay đón chào chúng ta trở về. Lòng hiếu khách của Thiên Chúa, vừa tạo dựng chúng ta, vừa tha thứ cho chúng ta với tình cha nhân hậu thắm thiết.
Chúng ta đã bước vào Mùa Vọng, là thời điểm nhắc nhớ chúng ta: Con Thiên Chúa đã đến trong lịch sử. Tài liệu hướng dẫn suy niệm của Cộng đoàn Taizé viết: “Chúa Giêsu bày tỏ cho chúng ta thấy Thiên Chúa là tình yêu, trao gửi cho chúng ta tình bằng hữu. Một cách khiêm nhường, Chúa Kitô đứng trước nhà chúng ta và gõ cửa. Như một người nghèo, Người hy vọng và chờ đợi sự hiếu khách của chúng ta. Nếu ai đó mở cửa cho Người, Người sẽ bước vào”. Vâng, Chúa Giêsu đã đến trần gian cách đây hơn hai ngàn năm. Ngày hôm nay, Người vẫn tiếp tục đến trong tâm hồn chúng ta. Người kiên nhẫn gõ cửa và chờ đợi chúng ta mở cửa. Đó không phải là cánh cửa của một căn nhà, nhưng là cửa tâm hồn. Những ai mở rộng cửa tâm hồn để đón chào Chúa, chắc chắn sẽ gặp được bình an và hạnh phúc.
Lòng hiếu khách đối với Ngôi Lời nhập thể, nhưng mỗi chúng ta cũng phải có lòng hiếu khách đối với anh chị em mình, bởi vì, như lời tác giả thư Do Thái trích dẫn trên đây, trong khi chúng ta đón tiếp anh chị em, chúng ta được đón tiếp các thiên thần của Thiên Chúa và được đón tiếp chính Chúa Giêsu, vì Người đã tự đồng hóa với những người bé mọn, cô thế cô thân và không nơi nương tựa.
Để thể hiện lòng hiếu khách một cách cụ thể, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức. Sự tỉnh thức được nói đến trong Kinh Thánh, chính là sự khôn ngoan, cân nhắc và thận trọng để lựa chọn cho mình một hướng đi, một nghề nghiệp và một lối sống. Tỉnh thức cũng là sự sẵn sàng để bất cứ Chúa đến lúc nào, chúng ta không bị bất ngờ. Câu chuyện ông Nôê và trận đại hồng thủy là một bài học cho con người ở mọi thời đại. Khi ông Nôê đóng tàu, có nhiều người chê cười nhạo báng vì cho đó là điều ảo tưởng vô ích. Con người ngày nay cũng bỏ ngoài tai những lời giáo huấn của Chúa. Họ chỉ chú ý đến cuộc sống hiện tại, lấy vật chất làm tiêu chuẩn, lấy lợi nhuận làm định hướng cho cuộc đời.
Theo thánh Phaolô, tỉnh thức nghĩa là sống đàng hoàng, như ban ngày và từ bỏ những hành vi ám muội. Những kẻ trộm cắp hay hành động về ban đêm. Thánh nhân khuyên chúng ta: “Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu”. Ngài cũng giải thích chi tiết khái niệm “sống giữa ban ngày”: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương”. Nhờ vậy, khi Chúa đến, chúng ta được thanh thản tâm hồn để đón Người.
“Anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em sẽ đến”. Sự chờ đợi nào cũng dễ làm cho chúng ta nóng lòng sốt ruột. Chúa đã hứa: những ai kiên trì và trung thành tỉnh thức sẽ được Chúa ban thưởng, vì họ có lòng hiếu khách và trân trọng đợi chờ ngày Chúa đến. Ngày Chúa đến trước hết là khi chúng ta kết thúc cuộc đời. Ai cũng sợ chết nhưng chẳng ai phủ nhận được sự chết. Dù trường thọ cao niên, dù dồi dào bổng lộc, chẳng ai sống mãi trên đời. Giáo lý Công giáo dạy chúng ta: Giờ chết là giờ phán xét riêng. Mỗi người phải trình diện trước nhan Chúa về hành vi cử chỉ của mình đối với Chúa và đối với tha nhân.
Ngày Chúa đến cũng là ngày “quang lâm”, tức là Chúa đến trong vinh quang để phán xét nhân loại. Đó là ngày vinh quang đối với những ai sống công chính, nhưng là ngày đại họa cho những kẻ sống hận thù. Chúa Giêsu là vị Thẩm phán công minh, sẽ căn cứ vào mối tương quan với tha nhân của chúng ta mà xét xử (x. Mt 25, 31-46).
Lời ngôn sứ Isaia (Bài đọc I) mang sắc thái của một lời hiệu triệu, kêu gọi mọi tín hữu hãy lên đường tiến về Giêrusalem để đón Chúa. Những hình ảnh được diễn tả trong Bài đọc I cho thấy Giêrusalem là trung tâm điểm của thế giới. Mọi nơi đều hướng về trong niềm vui mừng hân hoan. Đây là sự khai mở một triều đại mới của lịch sử. Chúa đến để chúc phúc cho dân người. Nếu chúng ta lắng nghe lời hiệu triệu này mà đón Chúa, thì cuộc sống của chúng ta sẽ an bình tốt đẹp và nở hoa. Có Chúa hiện diện, sẽ không còn chiến tranh. Con người sẽ “đúc gươm đao thành cuộc thành cày; rèn giáo mác nên liềm nên hái”. Một xã hội thanh bình sẽ được thiết lập nếu ta biết mở rộng tâm hồn để đón Chúa và thực thi giáo huấn của Người.
Chúa Giêsu đã đến trong lịch sử, cách đây hơn hai ngàn năm. Ngày hôm nay Chúa vẫn đến với tâm hồn cá nhân mỗi người. Chúng ta hãy thể hiện lòng hiếu khách đối với Chúa, vừa đón Chúa đến trong tâm hồn, vừa dọn đường để Người đến nơi mọi nẻo đường trần gian, hầu vương quốc hòa bình của Chúa được lan tỏa khắp nơi.
7. Bất ngờ và thức tỉnh--GM. Giuse Trần Văn Toản
Giáo Hội bắt đầu năm phụng vụ với mùa vọng. Đây là mùa đón chờ Chúa đến. Trong bài Phúc Âm của Chúa Nhật I Mùa Vọng năm A, Mt 24, 37-44, Chúa Giêsu cảnh báo: “Các con hãy sẵn sàng, vì lúc các con không ngờ, Con Người sẽ đến”. Đây là tính bất ngờ của việc Chúa đến, và vì bất ngờ, nên phải luôn tỉnh thức.
Tính bất ngờ của việc Chúa đến: Trong bài Phúc Âm, Chúa Giêsu trưng dẫn sự kiện xảy ra thời ông Noe: “Thời ông Noe thế nào, thì ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy. Vì trong những ngày trước nạn hồng thủy, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Noe vào tàu. Họ không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thủy ập tới cuốn đi hết thảy. Ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy” (c.37-39). Trong lịch sử thánh, Chúa đã bất ngờ giáng sinh trong máng cỏ như một hài nhi của một gia đình di dân không tìm được quán trọ tại Belem (Mt 2,7). Tính bất ngờ của việc Chúa đến vẫn còn xảy ra trong hiện tại cho đến ngày cánh chung. Vì, một trong những cách mà Chúa ưu tiên chọn lựa để đến với ta hàng ngày là Chúa đến qua những người đói khát, người khách lạ, trần truồng, đau yếu, tù đày (Mt 25,31-46).
Vì bất ngờ nên phải thức tỉnh: Chúa Giêsu so sánh với thái độ thức tỉnh canh chừng kẻ trộm của người chủ nhà: “Anh em hãy biết điều này, nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông phải canh thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu. Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (c.43-44). Trong biến cố Chúa đến lần thứ I tại Belem, chỉ một nhóm nhỏ thức tỉnh và đã gặp Chúa. Đó là Mẹ Maria và Thánh Giuse, ông Giacaria và bà Isave, các mục đồng và các nhà đạo sĩ, ông Simeon và bà Anna. Để đợi chờ Chúa đến lần thứ hai trong vinh quang, sách Khải Huyền dạy ta phải thức tỉnh mới lắng nghe được tiếng Chúa gõ cửa đời ta: “Hãy nhiệt thành và hối cải ăn năn. Này đây, Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta” (Kh 3, 19-20).
Thức tỉnh là sống tốt giây phút hiện tại: Quá khứ là những gì đã qua, tương lai là những gì chưa tới, và ta chỉ có hiện tại để sống. Chính vì thế, ta cần ý thức rằng: thường thì ta không thể thay đổi quá khứ, nhưng có thể phá hủy hiện tại bằng cách quá tiếc nuối quá khứ, và quá lo lắng cho tương lai. Thức tỉnh sống hiện tại là phải sống mỗi ngày như là ngày cuối cùng của đời ta. Vì là ngày cuối cùng, nên phải “cố gắng làm đẹp lòng Thiên Chúa trong mọi sự” (2Cr 5,9). Và lời khuyên của Thánh Phaolô luôn là cần thiết và hữu ích: “Thưa anh em, chúng ta đừng ngủ mê như những người khác, nhưng hãy tỉnh thức và sống tiết độ (1Tx 5, 4-6)… Hãy từ bỏ những hành vi ám muội… không ăn uống say sưa, không chơi bời dâm đãng, không tranh chấp ghanh tị… chớ lo lắng và thỏa mãn những dục vọng xác thịt” (Rm 13,11-14).
Thức tỉnh cần thinh lặng trở lại với lòng mình để thiết lập tương quan với Thiên Chúa: Thường xuyên trở lại với lòng mình trong thinh lặng nội tâm, tâm hồn ta được coi như mảnh vườn thiêng liêng, trong đó, Chúa Thánh Thần như “Bác Làm Vườn” thường xuyên chăm sóc và chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ thiêng liêng giữa ta với Thiên Chúa. Trong cuộc gặp gỡ này, Chúa thức tỉnh hồn ta về khát vọng Thiên Chúa của ta vì ta được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa. Từ khát vọng này, đi đến ý thức rằng không phải ta khát vọng Thiên Chúa trước, mà thực ra, chính Thiên Chúa khát vọng ta, và vì thế Ngài luôn đến tìm ta, chờ đợi ta, và vui thích ở với ta. “Mỗi buổi chiều, trong gió hiu hiu, Thiên Chúa đến địa đàng đi dạo và đàm đạo với Adam và Eva (x. Kn 3,8). Đây là lúc ta có thể thốt lên như Thánh Augustinô: “Lạy Chúa, Chúa đã tạo dựng con cho Chúa, và tâm hồn con luôn khắc khoải cho đến khi nào con được nghỉ yên trong Chúa mà thôi”. Khát vọng này tạo nên sự thức tỉnh trong cuộc sống, như hơi thở, như nhịp đập của con tim, như dòng máu lưu thông trong thân thể…
Thiết lập tương quan với Chúa để ta cũng thiết lập tương quan với tha nhân: Đó là tương quan của ta với con người thời đại. Người môn đệ Chúa Kitô, theo gương mẫu của Thầy Chí Thánh trong mầu nhiệm Nhập Thể, tìm thiết lập các tương quan bằng chia sẻ cuộc sống với những cảm thông, bao dung, và đồng hành. Hiến chế Vui Mừng và Hy Vọng của Công đồng Vaticanô II viết: “Vui Mừng và Hy Vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô” (số 1). Hơn nữa, người Kitô hữu, còn tìm thiết lập các tương quan bằng tinh thần yêu thương và khiêm tốn phục vụ nhau như Đức Kitô trong mầu nhiệm Nhập Thế: “Nếu Ta là Chúa và là Thầy mà còn rửa chân cho các con, các con cũng hãy rửa chân cho nhau”. Nhất là, người môn đệ của Đức Kitô sống theo lý tưởng của Đức Kitô trong mầu nhiệm Vượt Qua, đã hiến thân vì anh chị em, “Ta đến không phải để được phục vụ, nhưng là phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho muôn người”. Trong tương quan với tha nhân, không những ta gặp được Chúa mà còn bước theo gương mẫu yêu thương, phục vụ, và tận hiến.
Thiết lập tương quan với Chúa và với tha nhân, để ta cũng thiết lập tương quan với thiên nhiên trong tâm tình ngợi khen, tạ ơn và trách nhiệm: Thông điệp “Chăm sóc ngôi nhà chung – Laudato si” đã dùng bài ca vạn vật của Thánh Phanxicô để ca tụng Đấng Tạo Thành: “Lạy Thiên Chúa của con, chúc tụng Chúa qua người chị của chúng con, Mẹ trái đất, là người nuôi dưỡng và chi phối chúng con, là người sản sinh hoa trái phong phú với biết bao hoa thơm cỏ lạ” (số 1). Và số 9 viết: “Là Kitô hữu, chúng ta cũng được mời gọi đón nhận thế giới như một bí tích của sự hiệp thông, một cách chia sẻ cùng Thiên Chúa và anh chị em đồng loại trên quy mô toàn cầu…”. Chính trong tương quan với thiên nhiên này, mà ta ý thức ta và thiên nhiên có cùng một nguồn gốc là Đấng Tạo Thành, để ta tận hưởng thiên nhiên như ân phúc của Thiên Chúa, đồng thời ta ý thức trách nhiệm cộng tác với Đấng Tạo Thành để chăm sóc thiên nhiên, hướng về Trời Mới Đất Mới của Nước Thiên Chúa, ngày Chúa Giáng Lâm trong vinh quang.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến!
8. Mùa Vọng: Mùa màu xanh--Trích từ ‘Nút Vòng Xoay’--GM. Giuse Vũ Duy Thống
Tuần qua có dịp về quê, mới bước vào nhà, đứa cháu nhỏ ở tuổi mẫu giáo đi học giáo lý về tiến đến chào mọi người. Khi biết tôi đang ở đó, nó chạy lại quấn quít hỏi: “Mùa Vọng, bác có lì xì cho cháu không?”. Tôi chưa biết trả lời ra sao thì nó đã líu lo quanh quẩn giải thích. Thì ra ở lớp giáo lý, giáo lý viên đã dạy rằng: tuần tới, tức hôm nay, Phụng Vụ chuyển sang năm mới được khởi đầu bằng Mùa Vọng. Đứa bé chẳng biết Phụng Vụ là gì, nhưng đã nhớ rất kỹ chữ “năm mới”, vì thế mới có chuyện vòi lì xì. Đành phải chiều thôi. Nhưng chỉ được một lát, nó đã vòng lại khoe: cháu còn biết viết chữ “mùa vọng” nữa. Tôi bảo nó viết. Nó nằm bò trên sàn nhà nắn nót ra chiều khổ sở lắm, rồi cuối cùng cũng xong và đưa đến cho mọi người xem. Nhưng ôi thôi, thay vì “Mùa Vọng”, cháu đã viết lộn một nét để thành “Màu Vọng” khiến cả nhà được cười một trận.
Tôi ra đi trong tiếng cười ấy và sự lẫn lộn của đứa cháu như đeo bám lấy mình, để cuối cùng bất giác tự hỏi: Mùa Vọng màu gì nhỉ? Xin được mượn tâm tư ấy làm chủ đề cho Mùa Vọng năm nay. Đó là gọi tên Mùa Vọng bằng những sắc màu.
Hôm nay Chúa Nhật I Mùa Vọng, xin được gọi Mùa Vọng là mùa màu xanh, hay đúng hơn là mùa xanh lên niềm hy vọng. Gọi thế sẽ nêu hai ý nghĩa:
1) Mùa Vọng là mùa Thiên Chúa hy vọng vào con người.
Đã đành, lúc nào Thiên Chúa mà chẳng hy vọng vào con người. Do hy vọng, Ngài đã tác sinh con người giống hình ảnh Ngài, cho họ bước vào vận hành sự sống của chính Ngài. Cho hy vọng, Ngài đã không ngừng hứa hẹn và kết ước yêu thương với họ, dù cho họ có ngàn lần sa ngã lỗi phạm và xa bỏ Ngài. Nhưng Mùa Vọng chính là thời gian, chính là một mùa qua đó Giáo Hội muốn khắc họa rõ hơn dung mạo của Thiên Chúa: Đấng đã hy vọng vào con người qua lịch sử Dân Chúa, Đấng vẫn hy vọng vào con người trong lịch sử Giáo Hội và Đấng mãi hy vọng vào người đời trong chính cảnh huống cụ thể của từng đời người.
Dung mạo Thiên Chúa ấy được thể hiện nơi Đức Kitô qua những chuyến viếng thăm chính thức của Người. Lần thứ nhất trong mầu nhiệm Nhập Thể, Người đã đến âm thầm làm một người chan hòa giữa muôn người để đảm lĩnh lấy thân phận con người cho đến tột cùng bằng cái chết để rồi Phục Sinh mở ra nẻo đường cứu độ cho những kẻ tin. Thế nhưng, lúc Người về trời, công trình của Người vẫn còn dở dang. Mọi sự dường như mới bắt đầu. Ơn cứu độ khách quan đã xong, nhưng chủ quan, áp dụng cho từng con người lại cứ tiếp tục phải khởi sự. Thế nên, Người hứa sẽ đến lần thứ hai vào ngày chung kết vũ trụ và con người, trong vinh quang để đặt mỗi người đối diện với chính Người như chuẩn mực phân chia đôi bờ thiện ác và đặt mỗi người đối diện với chính mình như trách nhiệm cuối cùng đối với ơn cứu rỗi.
Lần thứ nhất, do hy vọng, Người đến gieo ơn cứu rỗi và lần thứ hai, cho hy vọng, Người đến gặt những gì mình đã gieo và giữa hai lần đến chính thức ấy là cơ man nào mà kể những lần âm thầm đột xuất ngẫu hứng bất ngờ, Đức Kitô vẫn sáng kiến hy vọng mà bước đến với con người, qua những biến cố xảy đến với Giáo Hội, cộng đoàn hoặc cá nhân; qua những khuôn mặt người anh chị em dẫu lạ hay quen ta tiếp cận; và nhất là qua những cảm nghiệm đến với lòng ta và lòng người, cho xanh lên niềm hy vọng cứu rỗi. Và bất ngờ lớn nhất giữa những cái bất ngờ vẫn là cái giờ và cái cách Chúa đến với mỗi cá nhân trong cảnh tranh sáng tranh tối của họ giữa chốn chợ đời. Mùa Vọng là mùa Thiên Chúa hy vọng vào con người.
2) Mùa Vọng là mùa con người hy vọng vào Thiên Chúa.
Thiên Chúa hy vọng vào con người là để cho con người được hy vọng vào Thiên Chúa, và bởi Thiên Chúa luôn hy vọng vào con người qua những đường đến bất ngờ, nên con người chỉ có cách là hy vọng vào Thiên Chúa qua niềm tỉnh thức không mỏi mệt của mình.
Tỉnh thức trong hy vọng là nhận thức rằng người đời có một Thiên Chúa yêu thương và đời người có một vận mệnh tương lai. Có nhiều thứ tương lai lắm: tương lai gần như hôm nay đối với ngày mai; tương lai xa như đời này đối với đời sau; tương lai hẹp như chỉ giới hạn trong đời ta, tương lai rộng như mở ra với đời người; tương lai từng phần tùy theo mức độ khả thi và tương lai toàn phần chỉ có thể có khi con người tiến về vĩnh cửu. Nhưng điều quan trọng ở chỗ tương lai ấy không phải là một sự kiện mà chính là một Đấng, mà Đấng ấy vốn đã hy vọng vào ta, đợi chờ ta từ thuở nào, để khỏi phải tay chân thừa thãi ỏn ẻn làm quen mà gặp được là đã tay bắt mặt mừng đến độ thân tình của lòng trông cậy, để khỏi phải rỉ tai nhau như thế kỷ XIX với khẩu hiệu “con người là tương lai của con người" nên dẫn đến chiến tranh đổ vỡ, mà sẽ là hô vang sứ điệp “Thiên Chúa là tương lai của con người" cho xanh lên niềm hy vọng đượm thắm lẽ cậy trông.
Tỉnh thức trong hy vọng cũng là canh thức để cộng tác với ơn Chúa mà thể hiện niềm hy vọng đời mình. Sẽ là một thứ hy vọng quắt quay như những em bé ve chai gập mình bới tìm sự sống trên đống phế thải; sẽ là một thứ hy vọng mong manh như kẻ qua đường mua tấm vé số và sẽ là một thứ hy vọng đầy rủi ro như kẻ hùn hạp làm ăn mà không nắm trong tay vốn kiến thức kinh doanh; nhưng sẽ là một niềm hy vọng “bốn mùa” xanh tốt, khi con người biết kiên định phát triển vốn liếng ơn thánh và khả năng nơi mình, cho dẫu cuộc sống vẫn còn đầy dẫy những thử thách cam go.
Và cuối cùng, tỉnh thức trong hy vọng cũng có nghĩa là thao thức thường xuyên cùng với Giáo Hội để gieo niềm hy vọng vào chính môi trường mình sống. Hy vọng vào Thiên Chúa cũng như một cuộc lên Đền từng bước, nhưng biết rằng ở đỉnh cao có Chúa đang chờ đợi. Hy vọng vào Thiên Chúa cũng giống như kẻ đắp xây hòa bình, hãy đúc gươm đao thành cuốc thành cày, hãy rèn giáo mác nên liềm nên hái. Từng hạt lúa gieo, từng bước đi tới, rất âm thầm nhưng sẽ dẫn tới những cánh đồng bát ngát màu xanh hy vọng. Hy vọng vào Thiên Chúa cũng như một chuyến đi có đích và có ích; đừng để trở thành “Chuyến đi không đến đâu” như bộ phim Úc mới chiếu trên tivi.
Sống Mùa Vọng như thế chính là sống niềm hy vọng vào Thiên Chúa là Đấng hy vọng vào con người. Và như vậy là êm đềm gợn sóng màu xanh lên chính cuộc đời tín hữu của mình. Mùa Vọng là mùa màu xanh.
Sáng nay ngang qua cuối nhà thờ Tân Định thấy bày la liệt những cây thông Noel. Hai, ba tuần trước đã thấy nhưng vẫn còn xa lạ, nhưng hôm nay cùng với tiết trời trở lạnh và nhịp Phụng Vụ trở mình bước vào Mùa Vọng, tôi mới thấy những cây thông ấy đẹp làm sao, không vì kiểu dáng chất liệu cho bằng chính sắc màu của nó. Trong mắt nhìn của tôi, màu xanh của những cây thông ấy chính là màu xanh của niềm hy vọng vươn lên.
Chúc mỗi người có một cây thông xanh thiêng liêng hy vọng nơi mình, để dẫu sống giữa những vòng quay điên đảo thử thách trăm bề, vẫn luôn kiên định trong niềm hy vọng vào Thiên Chúa giống như đứa bé đòi lì xì, cứ “lì” ra trong niềm hy vọng, Thiên Chúa sẽ “xì” ra bàn tay cứu độ. Và thế là gặp gỡ đẹp xanh hy vọng.
9. Sống phẩm giá cao cả của con người--Lm. JB. Lê Ngọc Dũng
Phải chăng ăn uống cưới vợ lấy chồng là tội lỗi, nên bị trừng phạt? Chúa Giêsu nói: “Trong những ngày trước nạn hồng thủy, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Noê vào tàu. Họ không biết gì cho đến khi nạn hồng thủy ập tới cuốn trôi đi hết thảy.” (Mt 24, 38-39).
Ăn uống cưới vợ lấy chồng chắc là tội lỗi, nên bị lụt hồng thủy cuốn trôi đi! Thật ra, việc ăn uống lấy vợ lấy chồng là điều tốt lành mà Thiên Chúa tạo dựng loài người, trong chương trình sáng tạo của Ngài. Tự bản chất việc này là tốt đẹp, là không xấu. Nhưng cái tội, cái xấu là do chỉ lo “ăn uống, cưới vợ lấy chồng”. Ở đây, đáng lưu ý là chữ “chỉ lo”; chỉ lo làm ăn, lao động sinh sống, chỉ lo học hành, chỉ lo kinh doanh buôn bán, chỉ lo làm giàu.
Cái tội là ở chỗ hạ mình xuống sống như một sinh vật tầm thường, chỉ lo việc trần thế mà quên đi chiều kích thiêng liêng của mình; quên đi cái linh thánh của mình. Sống giống như các sinh vật không có linh hồn khác, như Chúa Giêsu nói: “Họ không hay biết gì cho đến khi nạn hồng thủy ập tới cuốn trôi đi hết thảy.” (Mt 24, 39).
Trong thế giới ngày nay, nhất là ở các nước công nghiệp phát triển, rất nhiều người chỉ lo học lo hành, chỉ lo làm ăn, chỉ lo cưới vợ lấy chồng, chỉ lo tiêu thụ, chỉ lo hưởng thụ... Như người anh ở Mỹ viết thư về cho người em sắp được bảo lãnh qua Mỹ như sau: “Bây giờ các cậu đang ở VN còn có thời giờ để ngồi uống cà phê, nhưng qua Mỹ rồi, các cậu không con thời giờ để mà ngồi cà phê, tán dốc nữa đâu.”
Dĩ nhiên chúng ta phải hòa nhập với cuộc sống, phải lo làm ăn sinh sống. Nhưng luôn có mối nguy hiểm là chúng ta dễ bị quên đi cái phẩm giá cao cả thiêng liêng của mình.
Các nhà tâm lý học nhận định như sau: Tất cả chúng ta hoạt động theo những hình ảnh chúng ta có về thế giới. Chính những hình ảnh định đoạt cho những hành vi của ta phải như thế nào. Nhưng những hình ảnh có thể bị thay đổi do những hình ảnh mới được lập đi lập lại. Khi những hình ảnh của ta thay đổi thì hành vi chúng ta cũng thay đổi. Câu chuyện sau đây minh họa điều vừa nói:
Một ngày kia có người lượm được một quả trứng của chim phượng hoàng, liền đặt nó vào ổ gà đang ấp ở sân sau. Từ quả trứng đó nở ra một chim phượng hoàng con và nó lớn lên giữa bầy gà con. Những ngày tháng đầu của cuộc đời phượng hoàng nhỏ này hoạt động như những gà con vì nó tưởng mình là một gà con như những gà con khác. Nó cũng bới đất tìm sâu, cũng kêu chiêm chiếp như gà con và cũng dương cánh lên một chút như gà con vậy. Nó vẫn nghĩ mình là gà con mà!
Cho tới một ngày đẹp trời, nó thấy một chú chim bay lượn hết sức nhẹ nhàng trên bầu trời quang đãng. Nó chiêm ngưỡng chim đó trong một màn biểu diễn tuyệt vời. Giữa cảnh trời gió lộng mà mà chim đó không hề đập cánh! Nó tò mò hỏi đàn gà chung quanh: “Ô kia! Gà gì mà bay lượn ngọan mục thế nhỉ?” Nó được cho biết rằng đó là phượng hoàng, ông vua các loài chim chứ đâu phải là gà. Thế rồi bổng chính chú chim phượng hoàng đó từ trời cao nhào xuống bên cạnh nó và hỏi nó: “Anh làm gì ở đây vậy?’ Nó thưa: “Tôi đang bới đất tìm ăn với bọn gà.” Phượng hoàng sửng sốt nói: “Nhưng anh cũng là phượng hoàng như tôi đây, anh có phải là gà đâu! Hãy coi đôi cánh dũng mãnh mà anh được trang bị để bay lên cao. Chúng ta được sinh ra để làm vua các loài chim, chứ đâu phải sinh ra để làm mồi cho dã thú! Nào, ta hãy cùng bay theo hướng mặt trời.”
Vậy là lần đầu tiên bỏ lại đàn gà đang bới đất ở sân sau, chim phượng hoàng tung cánh bay lượn một cách hạnh phúc giữa trời cao.
Sống giữ thế giới bon chen, hưởng thụ, nhiều người tưởng mình như đàn gà ở sân sau. Trong bụng họ vẫn nghĩ mình không thể vươn cao ra khỏi tình trạng của đàn gà, chỉ quen bới đất tìm sâu ở sân sau! Họ không biết phải làm sao để thay đổi được lối hành xử đó. Họ đã bán rẽ bản thân họ cho huyền thoại từ bên Mỹ là: “Nếu bạn nai lưng làm việc, bạn muốn gì được nấy và muốn trở nên người như thế nào tùy ý.” Huyền thoại ấy, ngày nay tràn ngập khắp nơi trên thế giới công nghiệp, không chỉ riêng bên Mỹ nữa!
Chính Đức Giêsu Kitô đã xuống thế làm người để nói cho chúng ta biết chúng ta là con cái Thiên Chúa và được sinh ra nhắm đến trời cao. Đức Giêsu không những đã thay đổi hình ảnh chim phượng hoàng tức loài người có về mình. Ngài còn dìu chúng ta lên cao giúp trãi qua kinh nghiệm đầu tiên, như chim phượng hoàng bay lượn gần mặt trời.
Nhờ Đức Giêsu dìu dắt, con người phải sống vượt trên những sinh hoạt bình thường của trần thế. Phải sống với chính đời sống thánh thiện của Thiên Chúa ban cho; sống xây dựng Nước Trời; không chỉ ăn uống cưới vợ lấy chồng cho đến khi chết, mà có khi đến bất ngờ. Cần phải lồng vào đời sống bình thường ấy sự cao cả của tình yêu thương, đối nghịch lại một xã hội ích kỷ, tham lam. Sứ điệp trọng tâm của Đức Kitô vẫn là kêu gọi chúng ta xây dựng Nước Trời bằng chính sự phục vụ, yêu thương.
10. Ngày quang lâm--ViKiNi--‘Xây Nhà Trên Đá’--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Mùa vọng là thời điểm dọn mình mừng Chúa Giáng Sinh. Nhưng tại sao Tin mừng nói đến ngày quang lâm?
Quang lâm là gì? Quang là ánh sáng, lâm là đến, ngụ ý: người trên đưa vinh quang đến cho người dưới. Theo văn hóa Hy lạp, quang lâm (parousia) chỉ sự hiện diện sinh động của vua chúa trong các nghi lễ lớn như phong vương có kèn trống, ca hát, chúc tụng, tiến dâng phẩm vật. Quang lâm còn chỉ sự thần hiện giáng phúc như xưa ta nói: Thánh thượng giáng lâm.
Theo Cựu ước, quang lâm là ngày của Thiên Chúa, ngày vinh quang đầy ánh sáng huy hoàng đến xua đuổi đêm tối rợn rùng bao phủ dân Ngài. Isaia luôn luôn mô tả hai cảnh tương phản đó: “Trời hỡi, đất hỡi hãy lắng nghe Giavê phán: khốn thay nước tội lỗi, dân chất nặng vạ hình nòi giống ác nhân … Xứ sở các ngươi một cảnh điêu tàn, thành thị bị lửa thiêu, đất đai bị nước ngoài ngốn hết, cảnh điêu tàn như thời Sôđôma” (Isaia 1, 4... 7). Trước cảnh đen tối khốn cùng đó, Thiên Chúa vẫn đến cứu giúp đem lại vinh phúc cho con người: “Từ Sion thánh chỉ ban ra... Người sẽ phân xử cho muôn dân. Họ đúc gươm đao thành cày cuốc, rèn giáo mác nên liềm hái; dân này nước nọ không còn vung kiếm chém nhau và thiên hạ thôi học bài chinh chiến. Hỡi nhà Giacóp ta hãy bước đi trong ánh sáng nước trời” (Isaia 2, 3b-5).
Tân ước diễn tả ngày quang lâm đột xuất xẩy đến giữa thời điểm đen tối của con người: “Đêm sắp tàn, trời gần sáng” (Rm. 13, 12). Trong sa mạc Gioan Tẩy giả đã rao giảng: “Hãy hối cải vì nước trời đã gần đến …”. Sa mạc là cảnh khô cằn nóng như lửa đốt, Đấng Cứu thế đến sẽ biến sa mạc thành nước Trời. Nước Trời ví như ngày mùa lúa đầy sân, đầy kho lẫm, hình ảnh này biểu lộ sự vinh quang, hằng sống của nước Trời.
Về cuối đời ở trần thế, Chúa Giêsu mô tả thời cánh chung có hai cảnh tương phản nhau: một cảnh tận diệt khủng khiếp, lừa gạt, giặc giã, chiến tranh, tội ác đầy ứ, bắt bớ chém giết, mặt trời mặt trăng tối sầm, tinh tú sa xuống. Một cảnh quang lâm như một lễ hội rực rỡ đầy quyền năng, vinh quang của Con người tỏ hiện trên mây trời, ngự trên ngai uy nghi có hết thảy thiên thần hầu cận, thổi loa vang dậy, tập họp muôn dân thiên hạ trước mặt Ngài (Mt. 24, 4-31; 25, 31-46).
Như vậy ngày quang lâm là ngày chấm dứt thời gian đen tối, mở ra thời đại huy hoàng. Cựu ước mong chờ một ông Vua thái bình, một người Cha muôn thuở. Tân ước loan báo ngày Thánh thượng giáng lâm chúc phúc cho muôn dân đến muôn đời.
Mùa Vọng hội tụ cả hai ý nghĩa Cựu ước và Tân ước. Sống tâm tình Cựu ước, ta đầy tin tưởng vui mừng vì bỉ cực thái lai, đêm qua ngày tới, sau giông tố trời lại sáng, có sa ngã thì có cứu độ, có lưu đầy thì có đất hứa, có Pharaon thì có Maisen, có Adam thì có Đấng Cứu thế. Sống tâm tình Tân ước, ta càng bùng cháy niềm tin yêu dạt dào, tràn đầy niềm vui vì Đấng Cứu thế đã đến rồi, đêm đông đã chan hòa ánh sáng, đồng hoang đã vang dội tiếng muôn thiên thần mừng hát Đấng đã ban ánh sáng chiếu soi cho muôn dân ngồi trong bóng tối tử thần.
11. Chúa sẽ đến cho con người hạnh phúc--Lm Giuse Phạm Thanh Liêm
Mùa vọng là thời gian chờ mong Chúa đến. Kitô hữu không còn chờ Chúa sinh lại trong máng cỏ hang lừa, nhưng chờ mong Chúa đến trong vinh quang để giải phóng trọn vẹn con người, cho con người được sống vĩnh cửu với Thiên Chúa.
1) Không có hạnh phúc trọn vẹn nơi cuộc đời chóng qua này
Thế gian này không phải là nơi ngập tràn hạnh phúc. Nghèo đói, bệnh tật, làm cho con người đau khổ. Không phải những người nghèo, vì bản thân bị đói nên họ cảm thấy khổ. Cái nghèo của bản thân, còn kéo theo những hậu quả xảy đến cho những người thân như con cái, cha mẹ, anh em. Cái nghèo khổ thể xác, đôi khi kéo theo cái nghèo khổ về tinh thần.
Những thất bại trên đường đời, thất bại trên đường tình (yêu mà không được đáp trả), thất bại về công danh sự nghiệp, cũng làm con người chán nản và đôi khi không muốn sống. Đời người tuy có những lúc hạnh phúc nhưng cũng nhiều vất vả, gian nan và đau khổ.
Cái chết, làm người ta phải xa lìa những người thân yêu, và nó cũng là một điều làm con người đau khổ. Có ai muốn xa người mình thương yêu, có ai an lòng khi phải xa những người thân yêu của mình, mà mình biết nếu thiếu vắng mình người đó sẽ bị đe doạ hay nguy hiểm. Cái chết làm người ta phải xa lìa những người thân yêu mà không ai cản được.
Những áp bức bất công thường xảy đến với con người. Những bất công xã hội và chiến tranh chết chóc vẫn đang tiếp diễn. Tất cả những điều này làm con người đau khổ. Ai giúp con người thoát cảnh súng đạn chết chóc và sống trong an bình? Ai giúp mang lại công bằng cho những người này? Ai có thể mang lại hạnh phúc bền vững cho con người?
2) Ơn cứu độ nơi Thiên Chúa
Cái chết làm con người khổ, vì thế con người mong có thuốc trường sinh bất tử. Con người ngày nay như muốn tìm trường sinh bất tử nơi “cloning”, nhưng “cloning” lại làm nảy sinh bao nhiêu điều đáng lo sợ. Trong cuộc sống có nhiều người “tàng tàng” đã sát hại bao người khác. Con người mới chỉ “cloning” được thân xác, nhưng đâu “cloning” được tinh thần. Con người được “cloning” này với bao yếu tố tâm lý ảnh hưởng, có chắc gì những người đó là những người bình thường, biết đâu những người đó có thể là mối đe dọa cho xã hội con người. Liều thuốc trường sinh còn xa vời với con người hôm nay. Hơn nữa, ngay cả người được sống hoài, có thể sau một thời gian sống lâu, cũng cảm thấy chán và muốn chết. Câu chuyện tưởng tượng một người được thuốc trường sinh bất tử nên sống hoài khi những người thân cùng thế hệ chết, rồi con cháu của người đó cũng chết; rồi cứ thế mãi cho đến một ngày người đó cảm thấy cô độc, và rồi cảm thấy sống hoài lại là nỗi khổ. Sau cùng, người đó lại ao ước được chết như tất cả mọi người. Phải chăng con người chỉ muốn sống, khi cuộc sống hạnh phúc? Phải chăng hạnh phúc không chỉ hoàn toàn nằm trong tầm tay con người? Ai có thể cứu độ con người? Ai có thể đong đầy ao ước hạnh phúc của con người?
Con người chỉ tìm thấy nơi Thiên Chúa niềm hy vọng giải phóng trọn vẹn con người, làm con người hạnh phúc vĩnh cửu. Bài đọc I cho thấy ao ước của người xưa về thời cánh chung, thời đó người ta không còn chém giết đánh nhau nữa. Sở dĩ vậy vì người ta tin vào Thiên Chúa, người ta sống theo ánh sáng của Thiên Chúa. Cũng với tinh thần này các tín hữu mong chờ ngày Chúa trở lại trong vinh quang, để giải phóng trọn vẹn con người.
Ngày Chúa tới trong vinh quang, là ngày Ngài tới để cứu độ con người, ngày Ngài giải phóng con người trọn vẹn, cả về tinh thần lẫn thân xác. Ngày đó con người sẽ sống lại, và người lành được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Thiên Chúa. Ngày đó, sách Khải Huyền diễn tả, có trời mới đất mới. Sẽ không còn chết chóc, không còn khóc lóc nữa. Con người sẽ được hạnh phúc trọn vẹn và vĩnh cửu.
3) Sống trọn vẹn đời này
Bài đọc II thánh Phaolô khuyên bảo tín hữu vì không biết khi nào mình chết, nên hãy từ bỏ những công việc đen tối, đừng chiều theo những đòi hỏi của xác thịt. Tuy dù đời này chỉ là “đời tạm” nhưng con người được mời gọi để sống trọn vẹn thời gian của cuộc đời này một cách tuyệt vời.
Trở về với Thiên Chúa là Cha và cùng đích của mình. Tâm niệm và xác tín Thiên Chúa yêu thương mình. Phó thác đời mình cho Thiên Chúa. Cố gắng hoàn thiện và sống hạnh phúc trong từng giây phút của đời mình. Chấp nhận những gì xảy ra sau khi đã cố gắng hết sức để làm theo điều mình thấy tốt nhất. Tha thứ những gì người khác xúc phạm đến mình ngay cả khi họ không nhận lỗi. Cố gắng làm cho đời này tươi đẹp hơn, làm cho người khác vui hơn và hạnh phúc hơn, bằng cách yêu thương và tươi cười với họ, giúp đỡ họ khi họ cần.
Thánh Thần của Đức Yêsu đang ở với con người. Chính Thánh Thần sẽ giúp con người sống trọn vẹn từng ngày khi mong chờ ngày Đức Yêsu trở lại trong vinh quang.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Thật lòng mà nói, bạn có mong ước Chúa đến không? Tại sao?
2. Ngày Chúa đến trong vinh quang, con người được gì?
3. Bạn cần làm gì trong thời gian chờ mong Ngài đến? Điều bạn nói, có thể thực hiện được không?
12. Tỉnh thức và chờ đợi--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Hôm nay, toàn thể Giáo hội bước vào Chúa nhật I Mùa Vọng, Năm Mới Phụng Vụ được bắt đầu, đặc biệt chúng ta chuẩn bị mừng Lễ Giáng Sinh của Con Một Chúa và bắt đầu lại cuộc lữ hành thiêng liêng hướng về Ðấng Thiên Sai muôn dân mong đợi.
Thiên Chúa là "Ðấng đang ngự đến"; Ngài đã đến giữa chúng ta nơi con người Chúa Giêsu Kitô; Ngài sẽ đến trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Mùa Vọng mới bắt đầu, dân Chúa lại được Đức Giêsu Kitô hướng dẫn trong cuộc hành trình mới. Đức Thánh Cha Phanxicô cũng đặt vấn đề: "Hành trình về đâu? Có một đích chung nào không? Ðích ấy là gì? Thiên Chúa đã trả lời thông qua ngôn sứ Isaia: " Trong tương lai, núi Nhà Đức Chúa đứng kiên cường vượt đỉnh các non cao, vươn mình trên hết mọi ngọn đồi. Dân dân lũ lượt đưa nhau tới, Nước nước dập dìu kéo nhau đi. Rằng: "Ðến đây, ta cùng lên núi Ðức Chúa, lên Nhà Thiên Chúa của Gia-cóp, để Người dạy ta biết lối của Người, và để ta bước theo đường Người chỉ vẽ." (Is 2,2-3)
Ðó là một cuộc hành hương của cả vũ trụ hướng về một cùng đích chung, chính là Giêrusalem của Cựu Ước, nơi có Ðền Thờ Ðức Chúa, vì từ đó, dung nhan của Thiên Chúa và giới luật của Người sẽ được ban truyền, và "đền thờ của Thiên Chúa" là chính Người, Ngôi Lời đã làm người: Người hướng dẫn và đặt đích đến cho cuộc hành hương của Dân Chúa; và là ánh sáng chiếu rọi dân Người để họ có thể tiến tới một Vương Quốc của công chính và bình an. Tiên Tri Isaia nói: "Người sẽ đứng làm trọng tài giữa các quốc gia và phân xử cho muôndân tộc. Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái. Dân này nước nọ sẽ không còn vung kiếm đánh nhau, và thiên hạ thôi học nghề chinh chiến." (Is 2,4)
Như vậy, hành trình mới nhân loại được Chúa Giêsu hướng dẫn qua dòng lịch sử hướng về sự kiện toàn trong Vương Quốc của Thiên Chúa. Mùa Vọng được ghi dấu đặc biệt bởi sự tỉnh thức và đợi chờ. Tỉnh thức để tích cực làm việc tốt, chờ đợi trong tình yêu thương và hy vọng. Vì thế, chúng ta có thể dùng thời gian này như một lời mời gọi đổi mới một vài khía cạnh cần thiết trong cuộc sống.
Thứ nhất, cần phải tỉnh thức, vì ý nghĩa cuộc sống trên trái đất này là để chuẩn bị cho cuộc sống mai hậu, mà thời gian chuẩn bị là món quà và ân sủng của Thiên Chúa. Ngài không muốn áp đặt tình yêu của mình trên chúng ta, cũng không phải trên Trời: Ngài muốn chúng ta được tự do (vì đây là cách duy nhất của tình yêu). Chúng ta không biết khi nào việc chuẩn bị sẽ kết thúc: "Chúng ta loan báo Chúa Kitô đến và không chỉ có đến mà còn hoàn tất thế giới này" (Thánh Cyrillô thành Giêrusalem). Nỗ lực duy trì một thái độ mới với niềm hy vọng là điều chúng ta phải có.
Thứ hai, chúng ta cần phải tỉnh thức vì thói quen và thoải mái không thích hợp với tình yêu. Lời Chúa nhắc nhở chúng ta rằng, cũng như "trong thời Noe" người ta ăn uống, dựng vợ gả chồng (x.Mt 24,37-38) không có nghi ngờ gì khi mà lụt đại hông thủy đến. Tương tự như thời ông Noe, Đấng xét xử sẽ đến đem người này đi và bỏ người kia lại, thật bất ngờ.
Phải tỉnh thức, Đức Bênêđictô XVI nói: "chỉ có người tỉnh thức mới không cảm thấy bất ngờ". Chúng ta phải chuẩn bị với một tình yêu rực cháy trong tim, như các trinh nữ khôn ngoan cầm đèn đi đón chàng rể. "Kìa chàng rể đến" (Mt 25,6), Chúa Giêsu Kitô sẽ đến vào lúc người ta không ngờ.
Ngày giờ Chúa đến là niềm vui không cùng cho những ai cầm đền cháy sáng trong tay. Người đến như một người cha trong gia đình sống ở phương xa viết thư thăm nhà: Cả nhà cứ đợi, bố sẽ về. Từ từ hôm đó, niềm vui tràn ngập trong gia đình đến: Bố về! Các thánh là những mẫu gương cho chúng ta, vì các ngài đã sống "trong sự chờ đợi Chúa".
Mùa Vọng giúp chúng ta chờ đợi Chúa đến trong yêu thương và an bình. Thánh Augustinô cho chúng ta một bài học về sự đợi chờ: "Sống sao chết vậy". Nếu chúng ta chờ đợi với tình yêu, Chúa đến, Người sẽ lấp đầy trái tim ta niềm vui chờ đợi Chúa.
"Vậy các con cũng phải sẵn sàng, vì lúc các con không ngờ, Con Người sẽ đến" (x.Mt 24,42). Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI giải thích: "Tỉnh thức có nghĩa là theo Chúa, lựa chọn những gì Chúa Kitô đã chọn, yêu thương những gì Chúa đã yêu, để có một cuộc sống phù hợp với mình. Khi Con Người đến ...Chúa Cha sẽ chào đón chúng ta trong vòng tay yêu thương của Chúa, vì chúng ta giống Con của Ngài".
Noi gương Mẹ Maria, mẫu gương đẹp nhất trong Mùa Vọng về sự chờ đợi và đón nhận Con Thiên Chúa làm Người. Nguyện xin Ðức Nữ Ðồng Trinh Maria giúp chúng ta mở rộng tâm hồn cho Chúa Kitô ngự đến. Amen.
13. Thái độ mong chờ Chúa đến--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Kính thưa cộng đoàn,
Chúng ta bước vào Mùa Vọng, hay còn gọi là mùa Ad. Mùa Vọng, nguyên nghĩa tiếng Latin là Adventus, (có nghĩa là đến, quang lâm). Thời thánh Giáo hoàng Grêgôriô I, thời gian chuẩn bị đón chờ Chúa đến trước lễ Giáng Sinh kéo dài bốn tuần được gọi là Mùa Vọng.
Hỏi: Chúa đã đến chưa? Chúng ta phải khẳng định với nhau rằng: Chúa đã đến rồi. Vậy chúng ta còn mong chờ Chúa nào nữa?
Mùa Vọng Giáo hội đang sống là sống với hai chiều kích: một là tưởng niệm biến cố Nhập thể làm người của Đức Giêsu Con Thiên Chúa khi Ngài sinh bởi Ðức Trinh Mữ Maria ; hai là chờ đợi Chúa trở lại trong vinh quang để “phán xét kẻ sống và người chết”, như chúng ta vẫn đọc trong kinh Tin Kính. Đó là lý do chữ “chờ đợi” được người ta nhắc nhiều đến trong Mùa Vọng. Các lễ nghi cử hành Phụng vụ trong Mùa Vọng, từ màu sắc, các bài đọc, các bài thánh ca đều diễn tả niềm hy vọng với lời cầu xin tha thiết: “Maranatha – Ngài ơi hãy đến, Ngài đến mau đi”, và hơn thế nữa dân Do Thái kêu van: “Xin Ngài xé tầng trời mà ngự xuống”. Vì sống cả hai chiều kích, nên người kitô hữu phải mang tâm tình của dân Cựu Ước và của chính mình ngày hôm nay.
Mùa Vọng trong Kinh Thánh
Các bài đọc Thánh lễ trong Mùa Vọng làm chúng ta nhớ đến sự mong chờ Đấng Cứu Thế đến của Dân Do Thái, Đấng mà ngôn sứ đã loan báo: “Từ gốc tổ Giêsê, sẽ đâm ra một nhánh nhỏ, từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm non. Thần khí Ðức Chúa sẽ ngự trên vị này: thần khí khôn ngoan và minh mẫn, thần khí mưu lược và dũng mãnh, thần khí hiểu biết và kính sợ Ðức Chúa. Lòng kính sợ Ðức Chúa làm cho Người hứng thú, Người sẽ không xét xử theo dáng vẻ bên ngoài, cũng không phán quyết theo lời kẻ khác nói, nhưng xét xử công minh cho người thấp cổ bé miệng, và phán quyết vô tư bênh kẻ nghèo trong xứ sở...” (Is 11, 1-10).
Phụng vụ Lời Chúa trong Mùa Vọng cũng nhắc lại việc Đức Maria cưu mang và sinh hạ Đấng Cứu Thế: thiên thần Gabriel hiện ra với Đức Maria và báo cho Mẹ biết rằng: “Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Ðấng Tối Cao. Ðức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Ðavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận (...) Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Ðấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, người con sinh ra sẽ là thánh, và được gọi là Con Thiên Chúa.” (Lc 1, 26-38)
Gioan Tẩy Giả, con trai của Êlisabét và là anh em họ với Chúa Giêsu, xuất hiện trước để loan báo việc Con Thiên Chúa đến, kêu gọi mọi người hoán cải và rao giảng rằng: “Có Ðấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Tôi đã làm phép rửa cho anh em nhờ nước; còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần” (Mc 1, 1.8 và Ga 1, 19.28)
Như thế, Mùa Vọng kêu gọi người kitô hữu cải hóa nội tâm. Những việc cử hành thánh thường xuyên nhắc nhở chúng ta canh tân niềm tin, vững tin vào tương lai và trở lên men giữa lòng thế giới.
Mùa Vọng
Trong lịch phụng vụ Công Giáo, Mùa Vọng kéo dài bốn tuần và mỗi Chúa nhật với tên gọi truyền thống đặc thù của nó gồm những lời đầu tiên của bài thánh ca mở đầu:
- Chúa nhật I Mùa Vọng: Ad Te levavi... (= Con nâng tâm hồn con lên tới Chúa, lạy Chúa… )
- Chúa nhật II Mùa Vọng: Populus Sion ... (Này hỡi Dân Sion…)
- Chúa nhật III Mùa Vọng: Gaudete ... (= Anh em hãy vui lên trong niềm vui của Chúa…)
- Chủ nhật IV Mùa Vọng: Rorate ... (= Trời cao, hãy đổ sương xuống, và làm mưa Đấng Công Chính...)
Đức Giêsu dạy chúng ta sống Mùa Vọng
Đức Giêsu đã đến rồi, nên chiều kích thứ nhất của Mùa Vọng nhắc lại cho chúng ta việc Con Chúa đến lần thứ nhất. Trong Tin Mừng hôm nay, chính Đức Giêsu nhắc bảo chúng ta hãy tỉnh thức để sẵn sàng cho lần đến cuối cùng của Ngài (Mt 24, 37-44).
Ðức Giêsu nói về ngày Ngài đến sẽ giống như thời ông Nôe: “Thình lình đại hồng thủy đến và cuốn đi tất cả, thì khi Con Người đến, cũng sẽ xảy ra như vậy” (Mt 24, 37). Những điều Chúa loan báo trên đây that quá bất ngờ, vì bất ngờ nên “phải tỉnh thức” là thượng sách.
Chẳng nói đâu xa, năm 2012 người ta đang dự kiến ngày tận thế là ngày 23 tháng 12 tính theo lịch của dân Maya, nhiều người trên thế giới đã lo lắng vì lời đồn đoán ấy, họ đi mua nến, mua dầu, mua mì tôm... Người ta sợ phải lìa bỏ cái thế giới thân yêu này, cho dù nó vẫn còn nhiều khổ não. Trong thời đại của chúng ta không thiếu các thiên tai, chiến tranh, bạo lực. Phải chăng đó là dấu hiệu của ngày tận thế?
Chúa Giêsu xác nhận sẽ có ngày tận thế, nhưng không phải để tan biến thành hư vô. Sẽ có những dấu hiệu làm nhiều người hoang mang sợ hãi, nhưng đối với các tín hữu, đó là dấu hiệu vui mừng vì mình sắp được cứu độ. Chúa mời gọi chúng ta: “ Các con cũng phải sẵn sàng, vì lúc các con không ngờ, Con Người sẽ đến” (Mt 24, 44).
Chuẩn bị lễ Giáng Sinh, mỗi người chúng ta tự hỏi: về phần tôi, tôi đang chờ đợi điều gì? Trong lúc này của đời tôi, con tim tôi đang hướng về điều gì? Lòng tôi có bị vướng vào những hành vi ám muội… ăn uống say sưa, chơi bời dâm đãng, tranh chấp ganh tị… thỏa mãn xác không? (x. Rm 13, 11-14) Trái tim tôi có bị nặng nề bởi những lo âu trần thế không? Những nỗi lo toan về cuộc sống vật chất vắt kiệt sức ta, khiến ta không còn khả năng mở lòng mình ra với Chúa và tha nhân? Trái tim nặng nề nên nhiều người mắc bệnh tim. Trái tim bị kéo xuống cái thực dụng tầm thường ở trên mặt đất, nên con người bị còng xuống, không ngước lên được điều trên cao. Thánh Phaolô bảo chúng ta: “Anh em biết rằng thời này là lúc chúng ta phải thức dậy” (Rm 13, 11).
Chúa Giêsu dạy chúng ta “hãy tỉnh thức”. Thánh Phaolô khuyên chúng ta: “phải thức dậy” (Rm 13, 11). Vậy mỗi người chúng ta đây hãy thức tỉnh và cầu nguyện, để khi Con Người là Đức Giêsu ngự đến trên mây trời, Ngài thấy chúng ta đang ở tư thế sẵn sàng, đứng thẳng, không phải xấu hổ cúi đầu, không bị ràng buộc bởi đam mê, nhưng vui sướng vì mình đã không uổng công chờ đợi.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ “đầy ân sủng”, Mẹ đã đón nhận Ngôi Lời Thiên Chúa trong lòng, xin giúp chúng con cởi mở tâm hồn đón nhận Chúa Giêsu Con Mẹ. Lạy Ðấng Cứu Thế là Vua Hòa Bình xin ngự đến. Amen.
14. Hãy sẵn sàng cho một tương lai tốt đẹp--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
I. Dẫn Vào Thánh Lễ
Hôm nay Hội Thánh bước vào Mùa Vọng. Vọng là chờ, là mong. Nhưng chúng ta chờ mong điều gì? Phải chăng là mong chờ Lễ Giáng sinh? Thưa không, chúng ta không mong chờ một lễ vui, mà mong chờ chính Chúa sẽ đến với chúng ta. Khi Ngài đến, Ngài sẽ mang cho chúng ta bình an, hạnh phúc. Tuy nhiên chúng ta hãy nhớ rằng những ơn lành ấy chỉ đến với những ai đã chuẩn bị lòng mình sẵn sàng. Vậy kể từ hôm nay, mỗi người chúng ta hãy tích cực chuẩn bị tâm hồn, vì ơn cứu độ của Chúa đã đến gần.
II. Gợi Ý Sám Hối
Một năm phụng vụ đã trôi qua, hôm nay bắt đầu một năm phụng vụ mới. Phải chăng trong năm phụng vụ vừa qua chúng ta đã có phần thờ ơ, ươn lười, nhiều lầm lỗi?
Xã hội ngày nay đầy dẫy sự xấu. Phải chăng chúng ta cũng có phần tạo nên tình trạng ấy?
Chúng ta cũng mong rằng thế giới sẽ tốt hơn, con người sẽ thương yêu nhau hơn. Nhưng chúng ta có làm gì cho tương lai ấy mau đến không?
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Is 2,1-5):
Vào hậu bán thế kỷ VIII trước công nguyên, vương quốc Giuđa khá thịnh vượng về mặt vật chất, nhưng lại rất suy đồi về mặt đạo đức. Trước tình trạng ấy, ngôn sứ Isaia một mặt thẳng thắn vạch tội dân và kêu gọi họ ăn năn sám hối, mặt khác loan báo rằng nếu dân trở lại thì Thiên Chúa sẽ ban cho họ một tương lai tốt đẹp.
Tương lai ấy được Isaia diễn tả bằng những hình ảnh thi vị:
Ðó sẽ là thời dân Thiên Chúa được tôn vinh: "Núi Nhà Chúa sẽ được xây trên đỉnh các núi". Mà dân Thiên Chúa được tôn vinh cũng có nghĩa là Thiên Chúa được tôn vinh, vì chính nhờ đức tin của họ mà các dân tộc trên mặt đất sẽ biết tới Chúa và tôn thờ Ngài: "Nhiều dân tộc sẽ đến và nói rằng: Hãy đến, chúng ta hãy lên núi Chúa và lên nhà của Giacóp".
Khi mọi người đã biết tôn thờ Chúa thì đó cũng sẽ là một thời thái bình: "Người ta sẽ lấy gươm mà rèn nên lưỡi cày, lấy giáo rèn nên lưỡi liềm. Nước này không còn tuốt gươm ra đánh nước kia nữa".
2. Ðáp ca (Tv 121)
Tâm tình đầy lạc quan hy vọng của Isaia được diễn tả qua Tv 121: "Ôi tôi sung sướng biết bao khi nghe nói: Chúng ta sẽ về nhà Chúa"
3. Bài Tin Mừng (Mt 24,37-44)
Ðức Giêsu cho biết Ngày tốt đẹp ấy sắp đến. Nhưng Ngài đặc biệt lưu ý ba điều:
a/ Ngày ấy sẽ đến một cách không ai ngờ cũng như chuyện Hồng thuỷ thời Nôe: thiên hạ cứ mải mê với những chuyện thế tục "Người ta ăn uống, dựng vợ gả chồng, mãi đến chính ngày ông Nôe vào tàu mà người ta cũng không ngờ".
b/ Trong Ngày ấy, số phận loài người sẽ phân thành hai hạng khác nhau: có người sẽ "được đem đi" (được tiếp nhận), nghĩa là được nhận vào hưởng tương lai hạnh phúc với Chúa, nhưng có người sẽ "bị bỏ lại", nghĩa là không được hưởng hạnh phúc ấy (Chú ý: một số bản Việt ngữ đã dịch ngược nghĩa là "bị đem đi" và "được để lại").
c/ Ðược tiếp nhận hay bị bỏ rơi là do người ta có chuẩn bị sẵn sàng hay không. Vì thế Ðức Giêsu kết luận: "Vậy các con phải sẵn sàng"
4. Bài đọc II (Rm 13,11-14)
Thánh Phaolô nói rằng Ngày tươi sáng đó rất gần rồi: "Giờ đây phần rỗi của chúng ta gần đến... Ðêm sắp tàn, ngày gần đến". Và Ngài giải thích thế nào là tỉnh thức sẵn sàng:
a/ Trước hết, tỉnh thức sẵn sàng là "từ bỏ những việc làm đen tối và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu". Nghĩa là phải tích cực chiến đấu để loại trừ sự dữ và cổ vũ cho sự thiện.
b/ Kế đó, tỉnh thức sẵn sàng là thay đổi cách sống: Hãy bỏ nếp sống cũ theo xác thịt, thể hiện trong việc ăn uống say sưa, chơi bời dâm đãng, tranh chấp ganh tị, lo lắng thỏa mãn những dục vọng xác thịt; thay vào đó bằng một cuộc sống mới theo gương Ðức Giêsu Kitô.
IV. Gợi Ý Giảng
1. Phải biết nuôi hy vọng
Alan Platon là một nhà văn Nam Phi, tác giả một quyển sách nhan đề Cry the Beloved Country trong đó ông mô tả hoàn cảnh khốn khổ của nước Nam Phi dưới chế độ phân biệt chủng tộc apartheid. Platon có một giấc mơ: ông mơ có một ngày mà mọi người dân trong đất nước của ông đều được đối xử công bình và bình đẳng. Và để thực hiện giấc mơ ấy, ông đã lao mình vào chính trị, đấu tranh suốt mấy mươi năm để xoá bỏ chế độ apartheid ấy. Nhiều người cho rằng mơ ước và việc làm của Platon là không thể nào thực hiện được. Nhưng ông vẫn kiên trì vì tin rằng ngày mơ ước ấy sẽ đến. Chỉ tiếc là ông đã chết trước khi thấy được ngày đó, nhưng lịch sử chứng minh rằng ông đã đúng.
Ngôn sứ Isaia còn có một giấc mơ táo bạo hơn nữa: Ông mơ tới ngày các nước sẽ không còn tuốt gươm chém giết lẫn nhau nữa, người ta sẽ lấy gươm rèn thành lưỡi cày, lấy giáo rèn nên lưỡi liềm, và mọi người sẽ bước đi trong ánh sáng của Chúa. Thật là một giấc mơ tuyệt vời! Có người cho rằng giấc mơ ấy sẽ đến khi Ðấng Messia đến. Người khác cho rằng nó chỉ sẽ đến khi Ðấng Messia lại đến lần thứ hai. Có kẻ nói nó sẽ chẳng bao giờ đến, đó chỉ là nằm mơ giữa ban ngày. Nhưng vẫn có người tin rằng thế nào nó cũng đến nên miệt mài theo đuổi như Alan Platon trong chuyện trên.
Một chuyện khác: Một người thợ săn nghe nói tới một con chim đặc biệt có đôi cánh rộng màu trắng rực rỡ. Ðó là con chim đẹp nhất trong các loài chim trên mặt đất. Vì thế người thợ săn không quản ngại đường xa, trèo đồi vượt suối đi tìm nó hết ngày này sang ngày khác, tháng này đến tháng nọ, năm này đến năm kia. Một lần anh đã may mắn thấy được bóng dáng nó ở một khoảng cách rất xa. Nhưng chỉ thoáng thấy là nó bay đi mất. Anh vẫn kiên trì đi tìm. Một ngày kia anh nhặt được một cọng lông trắng của nó. Rồi anh chết đi mà không bao giờ bắt được con chim mơ ước của mình.
Cuộc săn tìm của người thợ săn là hình ảnh của loài người tìm kiếm hòa bình. Giấc mơ toàn thế giới vui hưởng thái bình của Isaia có thể không thực hiện được nhưng nó không chỉ đơn thuần là nằm mơ giữa ban ngày, mà giống như một ngọn núi mà ta mơ có ngày sẽ đứng trên đó. Dĩ nhiên muốn thế thì ta không thể cứ ngồi một chỗ mà mơ, hoặc ước chi nó từ trên trời hạ thấp xuống tận chân ta. Ta phải leo, phải có chương trình và kiên trì làm theo chương trình ấy, cho dù có chậm chạp và lâu dài.
Ngay cả khi giấc mơ thái bình ấy sẽ không bao giờ được thực hiện trọn vẹn trên toàn thế giới đi nữa, thì việc theo đuổi giấc mơ ấy cũng có ảnh hưởng tốt trên đời ta. Ðiều quan trọng không phải là đạt được mục đích mà là sống có mục đích. Nhiều khi, có một mục đích tốt cho đời mình thì kể như đủ, miễn là không bao giờ ta bỏ mục đích ấy.
Thế giới ngày nay nhờ khoa học kỹ thuật tiến bộ có thể làm được hầu như mọi điều, nhưng lại bất lực không tạo ra hòa bình được: bất hòa khắp nơi, trên bình diện lớn như nước này với nước nọ, dân này với dân nọ; hoặc trên bình diện nhỏ như nhóm này với nhóm kia, người này với người khác. Mỗi kitô hữu có thể góp phần mình vào việc thực hiện giấc mơ thái bình của Isaia, bằng những cố gắng xoá bỏ óc kỳ thị, sự đố kỵ, ích kỷ, chia rẻ nhau...; bằng cách gieo rắc hòa thuận, cảm thông, hợp tác...
Chúng ta cũng nên biết rằng chúng ta không cô đơn trong những cố gắng ấy, mà có Chúa giúp ta: Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta đến nỗi sai Con Một của Ngài đến ở với loài người chúng ta, thiết lập Nước Thiên Chúa ở trần gian này, và cùng đồng hành với chúng ta trong nỗ lực leo lên đỉnh núi thái bình.
2. "Ðây là lúc chúng ta phải thức dậy"
Lời Thánh Phaolô trong bài đọc II làm cho chúng ta giật mình. Phải chăng chúng ta đang ngủ vùi?
Ðúng vậy, dù mắt chúng ta vẫn mở nhưng thực sự chúng ta đang ngủ trong bóng tối mịt mù:
- Chúng ta ngủ vì "những việc làm đen tối"
- Chúng ta ngủ vì cứ "chè chén say sưa, chơi bời dâm đãng"
- Chúng ta ngủ vì lòng đầy "tranh chấp đố kỵ"
- Chúng ta ngủ vì chỉ "lo lắng thỏa mãn những dục vọng xác thịt".
Nhưng Thánh Phaolô nhắc nhở rằng: "Ðêm sắp tàn, ngày gần đến" và "Giờ đây, phần rỗi chúng ta gần đến, hơn lúc chúng ta mới tin đạo", vậy "Ðây là lúc chúng ta phải thức dậy".
- "Hãy đi đứng đàng hoàng như giữa ban ngày"
- Hãy "cầm lấy khí giới của sự sáng" để chiến đấu chống lại những sức mạnh của tối tăm tội lỗi.
- Hãy cởi bỏ con người cũ thiên về những dục vọng xác thịt để "mang lấy Ðức Giêsu Kitô".
3. Hai người, hai số phận
"Hai người đàn ông đang ở ngoài đồng, một người được tiếp nhận, một người bị bỏ rơi. Hai người đàn bà đang xay bột, một người được tiếp nhận, một người bị bỏ rơi".
Ðức Giêsu chỉ nói tình trạng như thế thôi chứ không nói rõ lý do tại sao. Tuy nhiên chúng ta có thể biết lý do qua câu chuyện Ngài kể về thời ông Nôe: Ông Nôe chính là người được tiếp nhận, nhờ ông đã tỉnh táo nghe được lời Chúa báo sắp có nạn Hồng thuỷ, và ông đã tích cực chuẩn bị đóng tàu. Còn mọi người khác là những kẻ bị bỏ rơi, vì họ chẳng để ý tới việc gì khác ngoài cuộc sống vật chất, "ăn uống, dựng vợ gả chồng". Những bận tâm đó đã chiếm hết tâm trí họ rồi, còn tâm trí đâu mà để ý đến lời Chúa. Giả như ông Nôe có kể lại cho họ nghe lời cảnh báo của Chúa thì họ cũng không tin và còn cho là chuyện viễn vông, không thiết thực như chuyện "ăn uống, dựng vợ gả chồng".
Trong cuộc sống của chúng ta, giữa những bề bộn lo lắng về vật chất, thế tục, Lời Chúa vẫn vang lên để nhắc chúng ta phải biết quan tâm đến nhiều việc khác thuộc phương diện tinh thần, phương diện siêu nhiên, phương diện đời đời... Ai tỉnh táo thì nghe được và sẽ "được tiếp nhận", kẻ nào mãi thờ ơ thì như "đàn gãy tai trâu" và sẽ "bị bỏ lại".
4. Chúa cấm con thất vọng
* Hãy cố gắng, dù yếu đuối ngã sa, con hãy xin Chúa thứ tha và tiếp tục tiến. Trên võ đài, trong vận động trường quốc tế, các lực sĩ cũng lắm lần ngã quỵ, bị nhiều cú đấm, bị thương tích, nhưng cứ vùng dậy, cứ hy vọng, họ đã đoạt giải vô địch quốc tế (ÐHV 971)
Cha Charles de Foucauld có để lại mấy giòng sau đây. Ðọc kỹ, con sẽ thấy phấn khởi tâm hồn và lấy lại được niềm tin, nhất là những lúc hầu như con thất vọng:
- "Dù con xấu xa, dù con tội lỗi, con cũng trông cậy vững chắc rằng con sẽ được lên trời. Chúa cấm con thất vọng về điều đó".
- "Dù con bội bạc cách mấy, khô khan cách mấy, hèn nhát cách mấy, lợi dụng ơn Chúa cách mấy. Chúa cũng vẫn bắt con phải hy vọng được sống đời đời dưới chân Chúa trong tình thương và sự thánh thiện".
- "Chúa cấm con ngã lòng trước sự khốn nạn của con. Chúa không cho con nói 'Tôi không thể đi tới được, đường lên trời khó khăn quá, tôi phải thụt lùi và trở xuống chỗ thấp'"
- "Trước những sa ngã trở đi trở lại của con, Chúa lại cấm không cho con nói: 'Tôi không hề sửa mình được, tôi không có sức để nên thánh, tôi không xứng đáng để vào thiên đường...'"
- "Vậy Chúa muốn con phải trông cậy Chúa luôn, vì Chúa ra lệnh và vì con phải tin ở tình thương và quyền năng của Chúa" (ÐHY NVT, Trên đường lữ hành)
5. Thức dậy
Ở Mêhicô, giáo phận của Ðức Cha Samuel Ruiz có tới 80% giáo dân là người da đỏ bản xứ. Bản thân ngài nổi tiếng là người bênh vực cho dân da đỏ. Nhưng không phải tự nhiên mà ngài làm được việc đó đâu. Trong một buổi nói chuyện ở Nhà thờ Chính tòa Westminster Mùa Chay 1996, ngài đã thố lộ tâm sự như sau: "Suốt 20 năm làm giám mục giáo phận này, tôi như một con cá đang ngủ, nghĩa là mắt vẫn mở nhưng chẳng thấy gì. Tôi còn hãnh diện vì giáo phận có nhiều nhà thờ và giáo dân đông đúc. Rồi một hôm tôi gặp cảnh một người da đỏ bị trói vào một thân cây và bị ông chủ dùng roi quất túi bụi vì lý do người này không chịu làm thêm 8 giờ phụ trội nữa." Chính cái biến cố đó đã làm cho Ðức Cha Samuel Ruiz "thức dậy". Từ đó trở đi, ngài hăng hái tranh đấu cho quyền lợi người da đỏ.
Chuyện trên cho ta thấy hai điều: 1/ Thiên Chúa có nhiều cách để kêu gọi người ta thức dậy; 2/ Và cũng có nhiều cách thức dậy: thức dậy về thể xác (thôi ngủ), thức dậy về xã hội, thức dậy về đạo đức v.v.
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến
Mùa Vọng, mùa Xuân của năm phụng vụ, là thời gian chuẩn bị đón mừng Ðức Kitô, Con Thiên Chúa đến lần thứ nhất với loài người, vừa hướng lòng trông đợi Người đến lần thứ hai trong ngày tận thế. Trong niềm khát khao trông chờ Chúa ngự đến, chúng ta cùng tin tưởng nguyện xin.
1. Hội Thánh được Chúa Giêsu thiết lập / và trao ban sứ mạng rao giảng mọi nước mọi dân biết Thiên Chúa là Tình yêu. / Người yêu thương và muốn cứu độ hết thảy mọi người. / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho Hội Thánh / luôn làm tròn sứ mạng cao quý nhưng hết sức khó khăn này.
2. Khát vọng sâu xa nhất của con người thời nay / là được sống trong hòa bình và thịnh vượng. / Nhưng chiến tranh vẫn bùng nổ ở nhiều nơi trên thế giới / gây ra biết bao cảnh tang thương. / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho lòng bác ái yêu thương thâm nhập mọi sinh hoạt trần thế / để mọi người biết thương yêu và tôn trọng nhau hơn.
3. Thánh Phaolô kêu gọi: / "Hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày / không chè chén say sưa / không chơi bời dâm đãng / cũng không cãi cọ ghen tương" / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những ai tin Chúa / biết luôn ghi nhớ và thực hiện lời mời gọi của vị tông đồ dân ngoại / để có thể trở nên muối ướp mặn đời / và ánh sáng chiếu soi trần gian.
4. Ðức Giêsu nhắc nhở các môn đệ: / "Anh em hãy canh thức / vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến". / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết luôn sẵn sàng đón Chúa ngự đến / bằng một đời sống sốt sắng thờ phượng Chúa và chan hòa tình bác ái yêu thương.
CT: Lạy Chúa, vì yêu thương thế gian, Chúa đã ban Con Một xuống thế làm người, sống kiếp phàm nhân, nên giống chúng con trong mọi sự, trừ tội lỗi. Xin cho tất cả chúng con thiết tha trông chờ Con Chúa ngự đến, biết chuẩn bị xứng đáng tâm hồn, để đón mừng mầu nhiệm Giáng sinh cao cả. Chúng con cầu xin...
(Phần "Lời nguyện cho mọi người" của Năm A này được trích từ Báo Công giáo và Dân tộc, số đặc biệt Giáng sinh năm Phụng vụ A, 1998-1999)
VI. TRONG THÁNH LỄ
- Nên dùng Kinh nguyện Thánh Thể 3, nhấn mạnh một số nơi:
. Sau lời tung hô sau truyền phép: "Vì vậy lạy Cha, giờ đây chúng con tưởng nhớ... đồng thời mong đợi Người lại đến, chúng con dâng lên Cha hy lễ hằng sống và thánh thiện này..."
. Sau truyền phép, đoạn 4: "Lạy Cha, xin cho hy lễ hòa giải này... Còn những con cái Cha đang tản mát bốn phương trời, xin thương quy tụ tất cả về với Cha..."
- Trước Kinh Lạy Cha: Trong niềm hy vọng về một tương lai tốt đẹp "danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời", chúng ta hãy sốt sắng dâng lên Thiên Chúa là Cha chúng ta lời kinh Lạy Cha sau đây:
- Chúc bình an: Ngôn sứ Isaia đã mơ đến ngày thế giới không còn chiến tranh, người ta sẽ lấy gươm giáo rèn thành lưỡi hái lưỡi cày. Chúng ta hãy chúc cho nhau được bình an và trở thành những người xây dựng hòa bình cho cuộc sống.
- Trước lúc rước lễ: "Ðây Chiên Thiên Chúa, Ðấng đã đến xóa tội trần gian và sẽ lại đến thăm viếng chúng ta, phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa".
VII. GIẢI TÁN
Dùng công thức ban phúc lành cuối lễ long trọng của Mùa Vọng (Sách lễ Rôma, xuất bản 1992, trang 575).
15. Chúng con hãy tỉnh thức--Lm Giuse Đinh Lập Liễm
A. DẪN NHẬP.
Mùa Vọng lại trở về sau một năm phụng vụ. Mùa Vọng, tiếng La tinh là “Adventus”. Adventus có nghĩa là “đến, hiện diện hay hiển trị”. Người đến hay hiển trị ở đây là Chúa Cứu Thế. Ngài đã đến và hiển trị, sao mỗi năm còn chờ Ngài đến nữa? Thực ra, chờ ở đây không phải là chờ Ngài đến vì Ngài đã đến rồi, nhưng là chờ ngày Quang lâm của Ngài, ngày Ngài đến trong vinh quang như một vị Vua Thẩm phán oai hùng.
Trong mùa Vọng này, trước mắt là chúng ta dọn lòng để mừng lễ Giáng sinh cho sốt sắng, nhưng còn là dịp để thúc đẩy chúng ta dọn mình đón Chúa đến lần thứ hai để phán xét kẻ sống và kẻ chết trong ngày tận thế, nhưng đặêc biệt để chúng ta chuẩn bị đón Chúa đến lần sau hết của đời mình. Số phận đời đời của mỗi người mỗi khác tùy theo mình có chuẩn bị hay không.
Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu cảnh giác các môn đệ là Ngài sẽ đến lúc họ không ngờ. Vì thế họ cần phải tỉnh thức và tích cực chuẩn bị. Ngài nhấn mạnh đến tính cách bất ngờ của ngày Ngài đến để khuyên chúng ta luôn ở trong tư thế sẵn sàng. Tuy thế, phần đông người ta xưa nay vẫn coi thường lời cảnh cáo đó, họ coi như không bao giờ chết, họ cứ sống mà hưởng thụ, hoặc khá hơn thì họ còn chần chừ chưa muốn sám hối, chưa chịu chuẩn bị cho số phận tương lai của mình.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
1. Bài đọc 1: Is 2,1-5.
Đọan văn này có lẽ được viết vào sau thời Giêrusalem thất thủ, bị các đạo quân của vua Babylon xâm chiếm và tàn phá. Trong một thị kiến vĩ đại về tương lai, tiên tri Isaia ngắm nhìn Giêrusalem thời Thiên Sai. Giêrusalem mới này là một Giêrusalem huy hòang rực rỡ, người người tiến về đó, và tin chắc sẽ tìm được ở đó một nền hòa bình viên mãn và một niềm hạnh phúc chứa chan.
Tiên tri đã thấy trước Ngày của Chúa, ngày mà Thành được xây dựng lại từ trong đống đổ nát của mình, sẽ nhìn ngắm các dân tộc, sau khi giao hòa với nhau, tuốn về mình như một thành trì của Thiên Chúa. Khi mọi người đã biết tôn thờ Chúa thì đó cũng là thời thái bình: “Người ta sẽ lấy gươm mà rèn nên lữỡi cầy, lấy giáo rèn nên lưỡi liềm. Nước này không còn tuốt gươm ra đánh nước kia nữa”.
Thành Giêrusalem lý tưởng này chính là Hội thánh do Đức Giêsu thiết lập. Nhờ Hội thánh và trong Hội thánh, Đức Giêsu chiếu giãi ánh sáng của Ngài trên mọi dân tộc, hòa giải họ với nhau để biến họ thành dân Thiên Chúa.
2. Bài đọc 2: Rm 13,11-14.
Thánh Phaolô viết thư gửi cho tín hữu Rôma khuyên họ đừng mê ngủ nữa, hãy tỉnh thức vì Ngày tươi sáng đó rất gần rồi: “Giờ phần rỗi của chúng ta gần đến… Đêm sắp tàn, ngày gần đến”.
Theo đó, thánh nhân khuyên tín hữu hãy tỉnh thức sẵn sàng là hãy từ bỏ những việc làm đen tối của thời chưa tin đạo, hãy cầm lấy khí giới của sự sáng mà chiến đấu, nghĩa là phải tích cực lọai trừ sự dữ và cổ vũ sự thiện.
Ngòai ra, tỉnh thức sẵn sàng còn là đổi mới cuộc sống: khử trừ các tệ đoan xã hội, ăn uống say sưa, chơi bời dâm đãng, tranh chấp ganh tị… Thay vào đó hãy tạo nên một cuộc sống mới theo gương Đức Kitô. Lời khuyên này vẫn còn hiệu nghiệm đối với chúng ta: hãy chuẩn bị cho ngày Chúa đến.
3. Bài Tin mừng: Mt 24,37-44.
Trong đọan Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu cảnh giác các môn đệ là Ngài sẽ đến vào lúc họ không ngờ. Vì thế họ phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng chờ đợi Chúa đến để khỏi bị ngỡ ngàng.
Đức Giêsu có ý nhấn mạnh đến yếu tố bất ngờ như thời ông Noê, cơn đại hồng thủy xẩy đến lúc người ta đang mải mê với những sự thế tục “Người ta ăn uống, dựng vợ gả chồng, mãi chính ngày ông Noê vào tầu mà người ta không ngờ”. Do đó, khi ngày của Chúa đến, có người sẽ bị lọai ra, có người sẽ được nhận vào hưởng hạnh phúc đời đời.
Vì thế, trong Ngày Chúa đến, số phận của mỗi người sẽ khác nhau: có người sẽ được đem đi về với Chúa, có người sẽ bị bỏ lại trong hư vong, nghĩa là có người được cúu rỗi, có người bị trầm luân. Được chấp nhận hay bị bỏ rơi là do người ta có chuẩn bị sẵn sàng không. Do đó, Đức Giêsu kết luận: “Vậy các con phải sẵn sàng” (Mt 24,14).
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Dọn tâm hồn đón mừng Chúa
I. MÙA VỌNG LẠI ĐẾN.
Mùa Vọng Giáng sinh bởi chữ “Adventus” nguyên gốc tiếng La tinh xưa được đọc trại theo lối chuyển âm là “Mùa Apventô” hay “Mùa Aùp” mà chúng ta vẫn gọi ngày xưa, nay được chuyển thành “Mùa Vọng”. Mùa Vọng là thời gian chờ đợi cái gì sắp xẩy đến, bởi vì Vọng có nghĩa là chờ, là mong. Chúng ta đợi cái “Adventus”: sự đến, tức là “Quang lâm”. Vậy Quang lâm là gì? Quang là ánh sáng, lâm là đến, ngụ ý là người trên đem vinh quang đến cho người dưới.
Để nói về việc Con Người trở lại, thánh Matthêu, duy nhất trong bốn tác giả, đã dùng từ ngữ “Quang lâm”(Parousia). Nguyên khởi, chữ này có nghĩa là “đến, hiện diện”. Theo văn hóa La-Hy, người ta dùng nó để chỉ việc hòang đế long trọng ngự đến hay chính thức thăm một thành nào. Trong Kitô giáo sơ khai, từ ngữ sớm được sử dụng để nói về cuộc trở lại vinh quang của Chúa Kitô vào ngày cánh chung.
Người Rôma xưa có thờ một vị thần tên là Janus. Từ đó chúng ta có danh từ Januarius (tháng giêng). Vị thần này được các họa sĩ vẽ bằng hình đầu người có hai mặt: một mặt nhìn về đàng sau, mặt kia nhìn về đàng trước. Mùa Vọng cũng tương tự như thế. Nó nhìn về hai phía: một lần nhìn lại lần Giáng sinh đầu tiên của Đức Giêsu trong lịch sử, đàng khác là hướng đến cuộc tái giáng của Ngài vào cuối lịch sử.
Hôm nay chúng ta bước vào Mùa Vọng của năm phụng vụ mới. Mùa Vọng mang hai đặc tính thiết thực cho chúng ta: vừa là mùa chuẩn bị mừng lề Giáng sinh, kính nhớ việc Con Thiên Chúa đến lần thứ nhất với lòai người; vừa là mùa mà qua cuộc kính nhớ này, chúng ta hướng lòng trông đợi Chúa Kitô đến lần thứ hai trong ngày tận thế (AC 39).
Chúng ta đang đứng giữa hai biến cố lịch sử này. Phận vụ chúng ta không phải là cứ lè phè ngồi chơi trên đỉnh đồi ngóai cổ về đàng sau và ngóng trông về đàng trước, mà phải xắn tay áo lên dấn thân vào công việc mà Đức Giêsu đã trao phó cho chúng ta khi Ngài đến lần đầu tiên trong lịch sử.
II. Ý NGHĨA CỦA MÙA VỌNG.
Tin mừng hôm nay nói với chúng ta về hai lời cảnh cáo: một lời cảnh cáo về trận lụt lớn trong thời ông Noê. Lời cảnh cáo nữa là ngày tận thế sẽ đến. Chúng ta thấy có mối liên lạc giữa hai lời cảnh cáo này.
Việc Đức Giêsu đến trong ngày phán xét cuối cùng sẽ như trận lụt cuốn hết mọi người, trừ những người ở trong tầu Noê. Đức Kitô cảnh cáo chúng ta: “Vậy các con hãy tỉnh thức vì không biết giờ nào Chúa mình sẽ đến”. Ngài còn nói thêm: “Các con phải sẵn sàng vì lúc các con không ngờ, Con người sẽ đến”. Ngài còn nói đi nói lại về ngày Tận thế. Ngài bảo chúng ta không biết ngày nào giờ nào, nên phải sẵn sàng.
1. Ngày tận thế.
a) Một bí mật.
Bài Tin mừng hôm nay trích trong bài giảng về ngày tận thế, ngày Chúa đến.
Đức Giêsu tuyên bố: ngày và giờ tận thế không ai biết, kể cả Con Người, trừ một mình Chúa Cha mà thôi. Nói thế, Đức Giêsu không có ý phủ nhận việc Ngài biết. Về bản tính Thiên Chúa sao Ngài lại không biết, song không phải biết để mà nói. Ngài có ý bảo ta: không phải sứ mạng của Ngài định đọat và công bố ngày đó. Việc định đọat và công bố ngày giờ thuộc thẩm quyền Chúa Cha, cũng như việc sắp đặt chỗ ở trên trời ở trong quyền quan phòng của Chúa Cha.
Ngày và giờ là bí mật của Chúa Cha. Đó không phải là cơn thịnh nộ và sự trừng phạt vào ngày đã định. Nói rằng, chỉ một mình Chúa Cha biết ngày tận thế và việc Con Người trở lại, có nghĩa là đặt thế giới và nhân lọai trong tay của Ngài, trong đôi tay nhân từ của Ngài. Đó là đặt chúng ta trong sự thanh thản, an tòan: ai có thể rứt chúng ta ra khỏi đôi tay của Chúa Cha? Chúng ta còn sợ gì, nếu chúng ta được ấp ủ trong tình yêu của Ngài?
Vì thế, việc tìm biết ngày giờ Chúa Quang lâm là một việc làm phạm thượng, vì làm điều đó là tìm cách chiếm đọat những bí mật riêng của Thiên Chúa. Phận sự của con người không phải là tìm cách xác định ngày Chúa trở lại nhưng là chuẩn bị chính mình và tỉnh thức đợi chờ ngày đó.
b) Một bất ngờ.
Nói về ngày tận thế, trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu nói rằng: “Các con hãy sẵn sàng vì chính giờ phút các con không ngờ, thì Con Người sẽ đến”(Mt 24,14). Thời giờ sẽ đến hết sức bất ngờ cho những kẻ miệt mài nơi vật chất thế gian.
Trong câu chuyện ngày xưa, Noê đã chuẩn bị cho mình khi thời tiết còn tốt sẽ sẵn sàng cho cơn nước lụt đến, thì ông đã chuẩn bị, nhưng những người còn mải mê ăn uống, cưới vợ gả chồng nên bị nước lụt cuốn đi cách bất ngờ. Những câu này là lời cảnh cáo cho lòai người, đừng miệt mài trong cõi đời tạm mà quên đi cõi đời đời, đừng bao giờ quá quan tâm đến việc thế gian, mà quên rằng có một Thiên Chúa, và vấn đề sống chết nằm trong tay của Ngài. Bất cứ khi nào Ngài gọi, buổi sáng, buổi trưa, buổi chiều, chúng ta đều phải sẵn sàng.
Truyện: Biến cố bất ngờ.
Ai cũng biết ngọn núi lửa Sainte Hélène ở tiểu bang Washington. Ngày Chúa nhật 18 tháng 5 năm 1980, có một nhà địa chất học còn trẻ tên là David Johnston, với 30 bạn tổ chức cắm trại cách quả núi 8 cây số. Lúc ấy là 8 giờ 31 phút sáng Chúa nhật, bỗng nhưng một tiếng nổ vang trời động đất mạnh bằng 500 quả bon nguyên tử nổ cùng một lúc. Các thành phố chung quanh bị chôn vùi dưới trận mưa tro. Johnston co giò chạy, nhưng một dòng sông lửa đã chận đường anh, chôn vùi anh và các bạn anh dưới nấm mồ tro hừng cháy (Lm Hồng Phúc, Suy niệm Lời Chúa, năm A, tr 4).
c) Phải đề cao cảnh giác.
Sách có câu: “Cẩn tắc vô ưu”: cẩn thận đềâ phòng thì khỏi bị ưu phiền. Ai lơ là trong cuộc sống sẽ gặp nhiều bất trắc xẩy đến mà không kịp đối phó, hậu quả sẽ tai hại khôn lường. Sống không cảnh giác sẽ phải rước lấy tai họa. Một tên trộm sẽ không bao giờ gửi thư báo trước mình sẽ đến viếng nhà nào. Vũ khí chính của anh ta là sự bất ngờ, vì vậy một chủ nhà có của cải lúc nào cũng phải canh chừng.
Tuy nhiên chúng ta cần phải hiểu điều này cho đúng, chúng ta phải luôn nhớ rằng Chúa cảnh giác chứ không nhằm chơi khăm chúng ta, dường như cứ nhằm lúc nào chúng ta sơ hở là Chúa trở lại. Đàng khác, người Kitô hữu trông đợi Chúa mình trở lại không phải sống trong sợ hãi kinh khiếp, nhưng đó là một sự trông chờ náo nức ngày vui vẻ vinh quang sắp đến.
Truyện: Tư thế sẵn sàng.
Vào năm 79 trước công nguyên, núi Vésuve bất thình lình phun lửa dữ dội, chôn vùi thành phố Pompei phồn vinh dưới một lớp nham thạch dầy tới 7 mét. Năm 1748, sau 18 thế kỷ, người ta bắt đầu khai quật thành phố xấu số này. Giữa bao dinh thự đổ nát, bao đồ vật ngổn ngang, bao người chết đau đớn hỏang sợ, người ta ngạc nhiên tìm thấy xác của 38 người lính La mã đang thi hành nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự trong lúc xẩy ra tại họa khủng khiếp đó. Điều đáng nói là những người lính này đang tuần canh, tay còn cầm gươm, đi trong tư thế thi hành nhiệm vụ mặc dù cái chết kề bên.
2. Phải tỉnh thức.
Trong bài đọc 2, thánh Phaolô cũng nhắc nhở chúng ta hãy tỉnh thức, đừng ngủ vùi trong việc trần thế. Chúng ta đang mê ngủ sao? Đúng vậy, dù mắt chúng ta vẫn mở nhưng thực sự chúng ta đang ngủ trong bóng tối mịt mù:
- Chúng ta ngủ vì “những việc làm đen tối”.
- Chúng ta ngủ vì cứ “chè chén say sưa, chơi bời dâm đãng”.
- Chúng ta ngủ vì chỉ “lo lắng thỏa mãn những dục vọng xác thịt”.
Thánh Phaolô cũng nhắc nhở rằng: “Đêm sắp tàn, ngày gần đến” và “Giờ đây, phần rỗi chúng ta gần đến, hơn lúc chúng ta mới tin đạo”, vậy “Đây là lúc chúng ta phải thức dậy”. Nhưng khi nào là đêm, khi nào là ngày? Làm sao biết được ranh giới giữa ngày và đêm?
Truyện: tha nhân là anh em.
Một vị sư phụ đã nêu câu hỏi với các học trò của mình:
- Chúng con có biết khi nào đêm chấm dứt và lúc nào ngày bắt đầu?
Một anh nhanh nhảu đáp:
- Thưa thầy, ấy là lúc ta thấy một con vật từ đàng xa và phân biệt nó là con bê hay con lừa.
Một anh khác, sau lúc suy tư cũng xin góp ý:
- Thưa thầy, khi nào con nhìn thấy người bộ hành và phân biệt được là thù hay bạn.
Nhiều câu trả lời khác cũng được đưa ra, nhưng dường như vị sư phụ không thóang một chút hài lòng. Cuối cùng cả đám nhao nhao xin thầy giải thích. Sau phút trầm ngâm như thấm sâu giòng tư tưởng, vị sư phụ lên tiếng:
- Khi nào các con nhìn vào tha nhân và nhận ra đó chính là anh em chị em mình thì đêm đã tàn và ngày đã tới.
Thế ra, không phải việc “phân biệt” con vật này hay con vật kia hoặc người này hay người nọ, song là “nhận ra” tha nhân là anh chị em mình, mới làm cho bóng tối tan đi và ánh sáng tỏa rạng. Đêm đen sẽ mãi thống trị tâm hồn nếu đời ta cứ đắm chìm trong hiềm khích, hận thù, bất công, chia rẽ, lừøa dối… Còn khi để cho yêu thương dẫn lối cuộc sống, ngày mới cuộc đời bắt đầu lên ngôi, nhờ ánh quang soi tỏ mọi đường lối.
Chúng ta còn phải tỉnh thức trong những công việc rất bình thường ta vẫn làm mỗi ngày. Ở đây Đức Giêsu kể ra các việc bình thường như ăn uống, cưới vợ lấy chồng, làm ruộng, xay bột… Mỗi Kitô hữu hôm nay đều có thể kể ra những công việc chính mình vẫn làm hằng ngày, từ việc nội trợ, gia công, đến việc buôn bán hay nghề nghiệp. Đức Giêsu nhắc đến nạn lụt lớn thời ông Noê, mà không nói đến sự sa đọa của lòai người thời đó. Ngài có ý đặt chúng ta trong bối cảnh bình thường hiện ta đang sống. Chính trong bối cảnh đó chúng ta đón nhận Nước Thiên Chúa đến với chúng ta.
3. Phải sẵn sàng.
Theo cách viết của Matthêu, những người thời ông Noê chẳng làm điều gì có tội, chỉ làm những việc bình thường: “ăn uống, cưới vợ gả chồng”. Nhưng họ bị chết trong cơn nước lụt, không phải là vì họ làm gì tội, mà vì họ không làm những việc phải làm. Họ làm rất nhiều việc cho cuộc sống thể xác, nhưng không làm việc gì cho cuộc sống linh hồn cả.
“Hai người đàn ông đang làm ruộng… hai người đàn bà đang kéo cối xay… thì một người được đem đi, còn người kia bị bỏ lại”: những người bề ngòai hòan tòan giống nhau, nhưng số phận đời đời khác hẳn nhau. Cái khác biệt là có chuẩn bị cho đời sau hay không.
Đức Giêsu nhắc nhở ta phải luôn sẵn sàng vì Ngài sẽ đến bất cứ lúc nào. Ngài dùng một dụ ngôn để nhấn mạnh đến sự cần thiết phải tỉnh thức. Ngài ví ta như chủ nhà nọ, nếu biết vào canh nào trộm sẽ đến, chắc chắn sẽ canh thức không để nó đào ngạch khóet vách! Ngài đã dùng tới bản năng tự vệ của thính giả để giúp họ hiểu được sự tỉnh thức quan trọng như thế nào đối với sự an tòan của mình. Với của cải vật chất mà đã phải tỉnh thức như vậy, phương chi là với chính tính mạng của ta, thì lại càng phải tỉnh thức hơn gấp bội.
III. THỰC HÀNH TRONG MÙA VỌNG.
1. Chờ đợi trong tin yêu.
Mùa Vọng là thời gian chờ đợi. Chờ đợi trong tin yêu chứ không lo lắng sợ hãi, như chờ người cha thân yêu đến với con cái. Mùa vọng là mùa chờ đợi:
- Không phải đợi chờ trong mòn mỏi, day dứt khôn nguôi nhưng là đợi chờ trong hy vọng.
- Không phải đợi chờ mà không làm gì cả, nhưng làm việc trong đợi chờ.
- Không phải đợi chờ một ai đó, nhưng là đợi chờ chính Con Thiên Chúa.
Chờ đợi phải mang tính năng động, tránh tính trì trệ (inertie) của vạn vật. Một đồ vật ta để trong phòng nó sẽ cứ năm ỳ tại đó nếu không có ai đụng tới. Một hòn đá ta ném đi, sẽ tự động ghì lại và rơi xuống khi hết đà. Tinh thần con người cũng không tránh khỏi sự trì trệ kiểu đó. Nó được biểu lộ trong:
- Sự nguội lạnh, phai lạt: một ly nước nóng để trên bàn, dù ta không làm gì, nó vẫn từ từ bớt nóng và trở thành lạnh ngắt. Sự “nhiệt thành” của ta đối với Nước Trời cũng vậy.
- Sự cạn kiệt: Một chiếc xe Honđa chạy mãi mà không được châm thêm, xăng dầu sẽ cạn kiệt. Sự hăng say ban đầu nếu không được bồi thêm bằng ơn Chúa qua sự cầu nguyện… cũng sẽ cạn dần. Người ta thường nói: “Quỳ lâu, chầu mỏi” (Cf Carôlô, Hạt giống nảy mầm).
Trong cuộc sống hằng ngày người ta hay có ảo tưởng rằng thời gian còn nhiều, chưa vội, cứ từ từ mà sống, tương lai còn dài. Người ta có một nhược điểm hết sức phổ biến là luôn cho rằng vẫn còn ngày mai để chuẩn bị, còn ngày mai để sám hối ăn năn, còn ngày mai để thay đổi nếp sống. Nhưng có một kinh nghiệm hết sức chua xót đã từng đổ ập xuống bao người là ngày mai ấy không bao giờ trở lại. Chần chừ, khất lần là cơn cám dỗ hiểm độc nhất của ma qủi.
Có một truyện ngụ ngôn về ba con quỉ học việc. Chúng đến trần gian để tập sự. Chúng nói với Satan là chúa quỉ về những kế họach cám dỗ lòai người.
Con quỉ thứ nhất nói:
- Tôi sẽ bảo với lòai người là không có Thiên Chúa.
Con quỉ thứ hai nói:
- Tôi sẽ bảo họ là không có hỏa ngục.
Satan trả lời:
- Mi sẽ không lừa dối ai được bằng cách đó, ngay đến bây giờ lòai người vẫn biết có một hỏa ngục dành cho tội nhân.
Con quỉ thứ ba nói:
- Tôi sẽ bảo với lòai người đừng có vội vã làm gì.
Satan đáp:
- Đi đi, mày sẽ làm hại được vô số lòai người bằng cách đó.
Aûo tưởng nguy hiểm nhất là ảo tưởng cho rằng mình còn lắm thời giờ. Cái ngày nguy hiểm nhất trong đời của một người là khi người đó học được chữ ngày mai, và trì hõan vì không ai biết ngày mai có đến với mình nữa không.
Truyện: Pháp quan Archais.
Lịch sử còn ghi lại câu truyện bi thảm sau đây: Pháp quan Archais ở Thebea đang ngồi uống rượu với một số đông dũng sĩ của mình, bỗng có một sứ giả bước vào mang cho ông một bức thư báo cáo về âm mưu sát hại ông. Thay vì mở ngay bao thư ra đọc, ông nhét ngay vào trong túi áo và nói: “Để mai hễ hay”. Và qua ngày mai thì ông bị giết chết. Trước khi bức thư bị khui ra thì cả chính phủ bị bắt trọn.
Vị pháp quan Archais đã hất sứ điệp ấy qua một bên vì ông nghĩ hãy còn nhiều thời giờ. Quan tổng đốc Phêlít ngày xưa đã run rẩy trước sứ giả của Chúa là Phaolô nhưng vẫn chần chừ nói rằng: “Bây giờ ngươi hãy lui ra, đợi khi nào rảnh, ta sẽ gọi lại”. Nhưng từ chỗ đó chúng ta không thấy chỗ nào nói đến ông ta rảnh cả.
2. Dọn mình chết lành.
Đức Giêsu không mời gọi ta sợ hãi, nhưng mời gọi ta tỉnh thức. Ngài so sánh lụt đại hồng thủy và ông Noê. Người ta không nghi ngờ gì hết cho đến khi lụt đại hồng thủy đến cuốn trôi hết tất cả mọi sự. Tất cả mọi người mải lo lắng sự đời… Chúng ta cũng vậy, chúng ta mải lo lắng sự đời và đó là điều cần thiết. Chính lúc đó, Chúa đến gặp chúng ta. Nhưng để khỏi bị bất ngờ khi Ngài đến, chúng ta phải chuẩn bị như ông Noê. Cũng giống như ông, chúng ta có Lời Chúa cảnh báo và nhắc nhở chúng ta. Đức Giêsu nói: Đó, Thầy đã báo trước cho các con. Ngài đến gặp chúng ta một cách bất ngờ, nhưng không phải là không báo trước. Cuộc gặp gỡ này không chỉ diễn ra vào lúc tận thế. Cái chết của mỗi người cũng sẽ bất ngờ. Phải chăng cái chết không phải là ngày tận thế, ngày tận thế riêng của mỗi người, lúc mà Đức Giêsu đến gặp riêng mỗi người chúng ta đó sao? (Fiches dominicales, năm A, tr 6).
Đối với những người không tin tưởng, chết là tận điểm cuộc sống, chết là hết, chết phá tan sự nghiệp công danh và mọi lạc thú trên đời. Kiếp sống của con người vì thế chỉ là kiếp bèo bòng, lo hưởng thụ: “Chơi xuân kẻo hết xuân đi, cái già xồng xộc nó thì theo sau”.. Họ không chờ đón và mong đợi gì sau cuộc sống! Nhưng đối với chúng ta, những người Kitô hữu, chết là cuộc gặp gỡ Thiên Chúa. Trong giây phút vĩnh biệt cuộc đời trần thế để về thế giới bên kia, mỗi người chúng ta phải trình diện trước tôn nhan Chúa. Cuộc gặp gỡ quyết định số phận đời đời của mỗi người chúng ta.
Nhưng khốn nỗi mấy ai quan tâm, mấy ai đặt cho đúng tầm hệ trọng và tính cách vô cùng khẩn thiết của giây phút lìa đời ấy! Chúng ta như người mê ngủ, từ sớm tinh sương đến chiều tàn, chúng ta bận tâm lo ăn lo mặc, lo sinh kế, lo công danh, lạc thú… Cuối tuần chúng ta dành thời giờ đi dạo ở đồng quê, leo đồi, leo núi hay tắm biển phơi nắng. Nại vào những bận tâm vật chất ấy, chúng ta lơ là việc thiêng liêng, bỏ rơi cầu nguyện, bỏ suy niệm Lời Chúa, bỏ dâng lễ ngày Chúa nhật và các ngày lễ buộc, không chịu các phép bí tích. Tựu trung, một cuộc đời hòan tòan vật chất, hiện sinh, sống như là không bao giờ phải chết, sống cuộc đời không có Chúa.
Ta đã suy niệm câu “Lúc Con Người đến”. Lúc Con Người đến chính là ngày tận thế, ngày Chúa Quang lâm, và cũng chính là giờ chết của mỗi người. Ngày ấy chắc chắn phải đến, nhưng thật là trớ trêu là nó lại đến một cách bất ngờ. Bất ngờ như trận lụt đại hồng thủy thời ông Noê. Vì vậy chúng ta phải dọn mình luôn, cứ tưởng tượng rằng hôm nay Chúa có thể đến gọi tôi. Tôi sẽ vui vẻ ra đi với Chúa.
Truyện: Chiếc quan tài.
Tại chùa Tô châu, có một nhà sư tên là Viên Phủ Trung, tu hành đắc đạo, nhà sư thường bày trên án thư, trước chỗ ngồi, một cái quan tài con bằng gỗ bạch đàn, dài độ 5 tấc, có một cái nắp đậy mở được.
Khách đến chơi trông thấy cười nói rằng:
- Ngài chế ra cái này dùng để làm gì?
Vị sư trả lời:
- Người ta sống tất có chết, mà chết thì vào ngay cái này. Ta thực lấy làm lạ: người đời ai ai cũng chỉ biết có phú quý, công danh, tài sắc thị hiếu lo buồn vất vả suốt đời, chẳng biết cái chết là gì.
Như ta đây, mỗi khi có việc không được như ý, ta cầm lấy cái này mà ngắm xem, là tức khắc trong lòng được yên ổn, mà muôn nghìn sự tư lự đều biến tan đi.
Hôm nay chúng ta đã bước vào Mùa Vọng. Giáo hội nhắc nhở chúng ta hãy đào sâu và sống tinh thần tỉnh thức đích thực của Kitô giáo. Tinh thần tỉnh thức của Kitô giáo nhắc nhở chúng ta về ngày trở lại của Chúa Kitô và mời gọi chúng ta chuẩn bị tâm hồn mừng ngày sinh của Ngài. Chúa Kitô sẽ trở lại không phải vì Ngài đang vắng bóng, mà đúng hơn, Ngài đang hiện diện và đến trong từng phút giây của cuộc sống mỗi người chúng ta. Chúng ta chỉ thực sự gặp được Ngài, mặt đối mặt, khi chúng ta ra đi về với Ngài. Nhưng muốn được gặp Ngài trong tình thương yêu của tình Cha con, chúng ta cần phải dùng từng giây phút hiện tại để chuẩn bị cho cuộc ra đi gặp gỡ đó.
16. Hãy luôn sẵn sàng--Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH:
Ngày tận thế chắc chắn sẽ đến vào lúc bất ngờ, nên đòi người ta phải luôn tỉnh thức và chuẩn bị sẵn sàng đón Chúa. Như trong nạn lụt hồng thủy thời No-e: chỉ có gia đình No-e vì đã tỉnh thức và chuẩn bị trước bằng việc đóng tàu mới được cứu thoát. Đức Giêsu dạy các môn đệ phải tỉnh thức như chủ nhà thức canh đề phòng kẻ trộm khoét vách nhà mình lúc ban đêm. Tóm lại, cần luôn sẵn sàng đón Chúa đến vào lúc bất ngờ.
CHÚ THÍCH:
- C 37-39: + Thời ông Nô-e thế nào, thì cuộc quang lâm của Con Người cũng sẽ như vậy: “Con Người” ám chỉ Đấng Thiên Sai. Đức Giêsu đối chiếu nạn hồng thủy thời Nô-e với cuộc trở lại trong vinh quang của Ngườii vào ngày tận thế để phán xét chung nhân loại hay vào giờ chết để phán xét riêng mỗi người. + Vì trong những ngày trước nạn hồng thủy…: Cuộc quang lâm của Con Người vào ngày tận thế giống như nạn hồng thủy thứ hai. Cũng như thiên hạ thời Nô-e cứ sinh hoạt bình thường mà không quan tâm đến những dấu hiệu của cơn đại họa bất ngờ xảy đến, nên đã chết thê thảm, thì cuộc quang lâm của Vua Thẩm Phán Giêsu trong ngày tận thế cũng sẽ xảy đến cách bất ngờ như vậy.
- C 40-41: + Hai người đàn ông… Hai người đàn bà…: để diễn tả số phận con người khác nhau tùy theo thái độ tỉnh thức và lối sống của họ, Đức Giêsu đã dùng hai hình ảnh cụ thể minh họa: hai người đàn ông đang làm việc ngoài đồng, hai người đàn bà đang xay chung một cối bột. + Thì một được đem đi, một bị bỏ lại: Người ta có thể cùng làm chung một ngành nghề, nhưng tùy theo cách sống mà số phận đời đời sẽ khác nhau: người này được tiếp nhận, kẻ kia bị bỏ rơi.
- C 42-44: + Hãy canh thức, vì không biết giờ nào…: Để khỏi bị bất ngờ như những người thời Nô-e, các môn đệ phải luôn tỉnh thức sẵn sàng. Tỉnh thức không phải là thụ động chong đèn ngồi chờ, nhưng là tích cực làm việc như người quản gia chu toàn nhiệm vụ cấp phát lương thực cho gia nhân (x. Mt 24,45), như năm cô trinh nữ khôn ngoan mang dầu theo đèn (x. Mt 25,4), như người biết làm lợi gấp đôi số nén bạc được trao (x. Mt 25,20), luôn sống theo tám mối phúc thật (x. Mt 5,3-12), biết quan tâm chia sẻ và phục vụ tha nhân nhất là người nghèo đói (x.Mt 25,34-40). + Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng…: Các môn đệ phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng đón Chúa đến cách bất ngờ như kẻ trộm thường bất ngờ đến.
CÂU HỎI:
1) Tại sao phải tỉnh thức để đón chờ Chúa đến? 2) Đức Giêsu đã dạy môn đệ bài học gì về sự tỉnh thức qua câu chuyện lụt đại hồng thủy thời No-e? 3) Đức Giêsu đã dùng hai hình ảnh nào để minh họa cho lối sống tỉnh thức của người môn đệ hầu chuẩn bị cho ngày tận thế sẽ đến? 4) Người môn đệ Chúa phải có lối sống sẵn sàng tỉnh thức thế nào?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến” (Mt 24,42).
2. CÂU CHUYỆN:
1) PHẢI LUÔN TỀ CHỈNH: Một vị thanh tra kia khi đến thăm một trường tiểu học đã nói với các em học sinh như sau: “Hôm nay thầy thấy có nhiều học sinh đã để bàn học lộn xộn mất trật tự, lớp học thì ồn ào và rác rến vung vãi mất vệ sinh. Vậy thầy quyết định sẽ trở lại đây để kiểm tra các em một lần nữa. Từ nay tới hôm thầy trở lại, em nào giữ được bàn học sạch sẽ, sách vở ngăn nắp sẽ được thưởng”. Bấy giờ có mấy em hỏi: “Thưa thầy, khi nào thầy sẽ trở lại ạ?”. Thầy đáp: “Thầy sẽ trở lại. Nhưng không cho các em biết ngày giờ chính xác”.
Sau khi thầy thanh tra đi, một cô bé liền nói với mấy đứa bạn rằng mình quyết tâm sẽ dành được phần thưởng của thầy. Các bạn khác nghe vậy liền cười ồ chế diễu, vì cô bé này ít khi nào chỉnh tề ngăn nắp. Có bạn hỏi rằng: “Bàn học của bạn chẳng khi nào ngăn nắp tề chỉnh mà bạn lại đòi được lãnh thưởng hay sao?” Nhưng cô bé trả lời: “Từ ngày mai, mỗi buổi sáng tớ sẽ thu xếp dọn dẹp ngay khi mới đến là sẽ gọn gàng ngay thôi mà”. Một bạn lại hỏi: “Thế nếu thầy thanh tra đến vào buổi chiều thì sao?” Cô bé im lặng suy nghĩ một lát rồi nói: “Thôi, mình nghĩ ra rồi. Như thế là lúc nào mĩnh cũng phải giữ bàn học thứ tự sạch sẽ phải không các bạn?”.
2) KẾ SÁCH CÁM DỖ HOÀN HẢO NHẤT: Một câu chuyện ngụ ngôn về phương cách cám dỗ của ma quỷ như sau:
Có ba tên quỷ con đang trong thời kỳ huấn luyện để đi cám dỗ loài người. Một hôm tên quỷ già thầy giáo yêu cầu lũ quỷ học trò suy nghĩ để tìm ra một kế sách nào hòan hảo nhất để cám dỗ loài người. Tên quỷ thứ nhất thưa rằng: “Tôi sẽ nói với loài người rằng: trên đời này làm gì có Thiên Chúa, nên các ngươi cứ việc ăn chơi thỏa thích theo lòng đam mê của mình”. Nhưng tên quỷ già bảo: “Kế sách đó khó thành công lắm, vì dù không thấy Thiên Chúa vô hình, nhưng hầu như mọi người đều cảm thấy sự hiệu hữu của ông ta”. Tên quỷ con thứ hai trình bày: “Phần tôi sẽ rỉ tai cho loài người biết: chết đi là hết. Thiên đàng hay hỏa ngục chỉ là sự tưởng tượng để hù dọa họ ăn ngay ở lành mà thôi chứ không có thực! Do đó, các ngươi cứ việc vui chơi thỏa thích, kẻo giờ chết đến thì khi ấy có muốn cũng không thể vui chơi được nữa!”. Tên quỷ già gật gù nói: “Kế đó cũng hay đấy. Nhưng có lẽ loài người vẫn biết có quả báo, có thiên đàng để thưởng kẻ lành và hỏa ngục để phạt kẻ dữ”. Tên quỷ con thứ ba thì nêu ý kiến này: “Phần tôi, tôi sẽ làm cho con cái loài người tin rằng còn lâu chúng mới chết. Do đó chúng cứ việc thỏa mãn những đam mê lạc thú ở đời. Khi nào nằm liệt giường sắp chết, sẽ ăn năn sám hối cũng chưa muộn!”. Nghe xong, tên quỷ già khoái chí cười hô hố. Nó vừa xoa đầu tên quỷ học trò vừa khen lấy khen để: “Trò giỏi lắm. Quả đó là kế sách hay nhất và rất hạp ý ta. Với phương kế này, chắc chắn nước hỏa ngục của chúng ta sẽ ngày càng bành trướng vì sẽ có thêm rất nhiều kẻ gia nhập đó!”.
3. SUY NIỆM:
Hôm nay chúng ta bước sang Mùa Vọng năm phụng vụ mới là năm A. Mùa Vọng vừa là thời gian chuẩn bị tâm hồn mừng đại lề Giáng sinh, kính nhớ Con Thiên Chúa đến trần gian lần thứ nhất ban ơn cứu độ cho lòai người, vừa là thời gian để các tín hữu chúng ta trông đợi Chúa Kitô sẽ đến lần thứ hai trong uy quyền vinh quang để phán xét chung nhân loại vào ngày tận thế.
1) Phải luôn tỉnh thức sẵn sàng vì Chúa sẽ đến cách bất ngờ:
- Tin mừng Mát-thêu hôm nay ghi lại những lời Đức Giêsu cảnh báo các môn đệ về việc Người sẽ đến cách bất ngờ trong ngày tận thế chung nhân loại và đến với mỗi người trong giờ chết của họ. Người dạy các môn đệ phải có thái độ như sau: “Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (Mt 24,14).
- Tuy nhiên, có lẽ dân Do thái lúc đó đều coi thường lời cảnh báo của Đức Giêsu, giống như dân chúng thời tổ phụ No-ê. Ông No-ê đã được Đức Chúa cho biết trước sắp xảy ra cơn lụt đại hồng thủy nên đã chuẩn bị bằng việc miệt mài đóng một con tàu lớn cho ông và gia đình, đang khi những người khác “vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Nô-e vào tàu. Họ không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thủy ập tới cuốn đi hết thảy” (Mt 24,38-39). Chỉ riêng gia đình ông No-ê được cứu thoát nhờ con tàu.
2) Phải cảnh giác và chăm chỉ làm việc:
- Cảnh giác bằng việc làm: Những người thời ông No-ê đã bị chết trong cơn nước lụt, không phải do họ đã phạm tội, mà chỉ vì họ đã không làm những việc lẽ ra phải làm. Họ làm rất nhiều việc cho cuộc sống vật chất thể xác, nhưng lại không làm gì cho cuộc sống thiêng liêng tinh thần. Số phận của mỗi người được cứu hay không tùy theo họ có chuẩn bị cho cuộc sông đời sau hay không như lời Đức Giêsu: “Bấy giờ hai người đàn ông đang làm ruộng, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại. Hai người đàn bà đang kéo cối xay, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại” (Mt 24,40-41).
- Chu toàn việc bổn phận: Tỉnh thức sẵn sàng bằng việc chu toàn các việc bổn phận hằng ngày, từ việc nội trợ trong gia đình, học tập tại nhà trường, lao động nơi nhà máy, công sở, buôn bán nơi phố chợ, cày cấy ngoài đồng ruộng... Đức Giêsu cũng cảnh báo các môn đệ đừng quá quan tâm đến các công việc trần gian, mà quên rằng cái chết có thể sẽ bất ngờ đến vào bất cứ lúc nào, giống như “chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất” (Lc 21,35). Đức Giêsu nhắc nhở các môn đệ phải có thái độ tỉnh thức sẵn sàng giống như ông chủ nhà kia canh thức không để kẻ trộm đào ngạch khóet vách nhà mình!
3) Phải luôn tỉnh thức cầu nguyện:
- Bất ngờ sẽ trở thành niềm vui cứu độ: Nếu chúng ta biết "tỉnh thức và cầu nguyện luôn" (Lc 21,36), sẵn sàng ra đón khi Chúa đến thì việc Chúa đến bất ngờ sẽ lại trở thành niềm vui cho chúng ta. Ngày đó, chúng ta sẽ không phải "lo lắng hoang mang trong cảnh biển gào sóng thét" (Lc 21,25), sẽ không "sợ đến hồn xiêu phách lạc" (Lc 21,26), nhưng sẽ "đứng thẳng và ngẩng đầu lên" (Lc 21,28), vì chúng ta sắp được lãnh ơn cứu chuộc của Chúa.
- Phải luôn tỉnh thức cầu nguyện: Nhiều người sống như mê ngủ. Trong tuần họ lo làm việc để kiếm tiền, rồi đến cuối tuần lại dành thời giờ để đi chơi du lịch leo núi hay tắm biển... mà lơ là các việc đạo đức như cầu nguyện sớm hôm, bỏ dâng lễ Chúa Nhật và các lễ buộc, không xưng tội rước lễ… Tỉnh thức là phải chuyên cần cầu nguyện như Đức Giêsu đã cảnh báo ba môn đệ trong vườn Cây Dầu xưa: ”Anh em hãy canh thức và cầu nguyện để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái nhưng thể xác lại yếu đuối” (Mt 26,41).
4) Phải cấp thời sám hối và sống tốt hơn để đón chờ Chúa đến:
- Cấp thời sám hối không trì hoãn: Trong cuộc sống, chúng ta thường nghĩ rằng mình còn sống lâu, nên không cần phải sám hối ngay, nhưng cứ để đến lúc gần chết sám hối cũng không muộn. Nhưng chần chừ không dứt khoát quay về với Chúa là kế sách cám dỗ hoàn hảo nhất của ma qủi đối với chúng ta. Mùa vọng là thời gian chờ đợi trong tin yêu như con cái chờ đợi người cha thân yêu trở về, chứ không chờ đợi trong sự lo lắng buồn sầu. Người tín hữu chúng ta cần tránh tâm trạng buồn chán lười biếng, nhưng cần hăng say làm việc nhiều hơn và không ngừng cầu xin Chúa ban ơn giúp sức. Hãy làm tất cả những gì có thể làm ngay hôm nay, bắt đầu ngay từ bây giờ và ở đây “hic et nunc”.
- Loại trừ các thói hư và sống theo gương Đức Giêsu: Trong những ngày này, chúng ta cần suy gẫm lời thánh Phaolô: “Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu. Chúng ta hãy ăn ở đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thoả mãn các dục vọng” (Rm 13,12-14). Nói “mặc lấy Đức Kitô” là quyết tâm loại trừ các thói hư tật xấu như tính tự ái cao, dễ nổi nóng, gian dối, ganh ghét, say sưa, cờ bạc, trai gái, hút sách… Hãy siêng năng đọc Lời Chúa mỗi ngày và quyết tâm sông noi theo gương mẫu và lời dạy của Đức Giêsu bằng việc năng tự hỏi: “Nếu Đức Giêsu ở trong hoàn cảnh của tôi bây giờ thì Người sẽ làm gì?” rồi quyết tâm làm theo ý Chúa muốn.
4. THẢO LUẬN:
1) Có người nói: “Đời người mau qua chóng hết, nên ta cần phải nếm mọi lạc thú ở đời, để đến giờ chết ta sẽ không còn phải hối tiếc vì cuộc sống quá ngắn ngủi mau qua”. Bạn sẽ nói gì với người ấy giúp họ hy vọng vào một cuộc sống vĩnh hằng đời sau? 2) Ngay từ hôm nay bạn sẽ làm gì để xây dựng gia đình, xã hội trở thành thiên đàng trần gian, một nơi chan chứa sự công bình, yêu thương và hạnh phúc?
5. NGUYỆN CẦU:
- Lạy Chúa Giêsu: Nếu ngày mai Chúa quang lâm, chắc chúng con sẽ vô cùng bối rối. Bối rối vì bản thân chúng con còn nhiều tội lỗi khuyết điểm, vì môi trường và thế giới chúng con đang sống vẫn nhiều dở dang và còn nhiều người chưa nhận biết tin thờ yêu mến Thiên Chúa. Chúa đến không để hủy diệt những kẻ tội lỗi, nhưng muốn họ ăn năn sám hối và được sống.
- Lạy Chúa Thánh Thần, xin cho chúng con luôn thành tâm sám hối để đón nhận ơn thứ tha của Chúa Cha. Xin cho chúng con biết luôn cộng tác với Chúa Giêsu để xây dựng một “Trời mới Đất mới” công bình và yêu thương, an vui và hạnh phúc. Xin giúp chúng con luôn cậy trông vào tình yêu quan phòng của Chúa Ba Ngôi, vì biết rằng tất cả những điều xảy ra đều nhằm thanh luyện và biến đổi chúng con nên tốt hơn, hầu chúng con có thể tích cực góp phần xây dựng thế giới này ngày một công bình, yêu thương và hạnh phúc hơn.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
17. Chúa đến
Mùa Vọng là mùa trông chờ Chúa đến. Chúng ta trông chờ Chúa đến là bởi vì chúng ta không được thoả mãn với tình trạng hiện tại của chúng ta. Dầu có tận tâm tận lực, chúng ta vẫn gặp phải không biết bao nhiêu điều trái ý, chẳng hạn như bệnh tật, nghèo đói, cô đơn, chia ly và chết chóc. Chúng ta tin rằng Chúa sẽ đến để lấp đầy những khát vọng chính đáng của chúng ta, đồng thời sẽ mang lại một đời sống hạnh phúc:
Sẽ không còn chiến tranh, thù hận và hao tốn tiền của nữa, vì thời đại của Chúa là thời đại hoà bình. Bản thân Chúa chính là sự bình an như lời các thiên thần hát vang trên cánh đồng Bêlem: Bình an dưới thế cho người thiện tâm.
Thời đại của Chúa là thời đại hòa bình như tiên tri Isaia đã diễn tả: Khi Chúa đến, người ta sẽ lấy gươm mà rèn nên lưỡi cày, lấy giáo mà rèn nên lưỡi hái. Nước này sẽ không còn tuốt gươm ra xông đánh nước kia. Mọi người sẽ chung sống với nhau trong hoà thuận và yêu thương. Sẽ không còn cái cảnh cá đớp cá, người trói người. Sẽ không còn cái cung cách người với người là chó sói của nhau bởi vì tứ hai giai huynh đệ, bốn bể đều là anh em ruột thịt vì cùng là con của Cha trên trời.
Người ta sẽ không còn tranh chấp lừa đảo nhau nữa bởi vì Chúa sẽ dạy chúng ta đường lối của Ngài và chúng ta sẽ tuân theo ý định của Ngài. Mọi mơ ước của con người sẽ được thoả mãn, sẽ trở thành sự thật. Vậy cảnh địa đàng này bao giờ sẽ tới? Bao giờ Chúa mới ban cho chúng ta hoà bình và hạnh phúc đích thực và lâu dài?
Điều đó chúng ta không hay biết bởi vì Chúa đã phán: Vào lúc các con không ngờ thì Con Người sẽ đến. Lúc Chúa đến có thể hiểu là giờ chết của mỗi người chúng ta, hay là ngày tận thế. Chúng ta không biết lúc nào sẽ xảy ra hai việc ấy. Do đó, lo lắng tìm biết lúc nào mình sẽ chết hay lúc nào sẽ là ngày tận thế? Đó là một việc làm luống công và vô ích. Trái lại hãy phó thác tương lai cho Chúa như lời Ngài đã phán: Chớ áy náy về ngày mai. Ngày mai sẽ lo cho ngày mai, ngày nào có sự khốn khổ của ngày ấy, nhưng tiên vàn hãy lo tìm kiếm Nước Trời và sự công chính của Ngài.
Vì thế, nhiệm vụ của chúng ta không phải là tìm biết ngày giờ lìa đời, hay ngày giờ tận thế, nhưng là chuẩn bị tâm hồn để có thể đứng vững trước mặt Con Người, khi Ngài đến. Hay như lời thánh Phaolô đã khuyên nhủ: Chúng ta hãy từ bỏ những hành vi ám muội và mang lấy khí giới của ánh sáng. Chúng ta hãy đi đứng đàng hoàng như giữa ban ngày, không ăn uống say sưa, không chơi bời dâm đãng, không tranh chấp ganh tỵ. Nhưng hãy mặc lấy Đức Kitô và chớ lo lắng thoả mãn những dục vọng của xác thịt.
Có sống như vậy thì khi Chúa đến, chúng ta sẽ được nghe những lời nói đầy êm dịu ngọt ngào và yêu thương của Chúa: Hỡi những người đã được Cha Ta chúc phúc, hãy đến, lãnh lấy phần gia nghiệp Nước Trời, đã được dọn sẵn cho các con từ muôn ngàn thuở trước.
18. Hãy sẵn sàng
Qua phần phụng vụ Lời Chúa sáng hôm nay, Giáo Hội muốn đặt chúng ta trước số phận đời đời đang chờ đón. Thực vậy, Giáo Hội đã lên tiếng khuyên nhủ chúng ta: đừng để cho những vui thú ru ngủ, trái lại hãy tỉnh thức và sẵn sàng, vì Đức Kitô sẽ đến vào ngày chúng ta không ngờ và giờ chúng ta không biết. Nhất là qua đoạn Tin Mừng, Chúa Giêsu đã trình bày về ngày sau hết như là một biến cố bất ngờ, không ai nắm vững. Thế nhưng, nhiều người trong chúng ta lại nghĩ rằng: Ngày ấy còn xa và có lẽ sẽ chẳng bao giờ xảy đến.
Trong phạm vi cá nhân, thì ngày sau hết chính là ngày cái chết gõ cửa. Đúng thế. Cái chết là một sự kiện vừa chắc chắn lại vừa gần gũi. Với cái chết chúng ta sẽ phải ra trước toà án tối cao của Thiên Chúa, để chịu phán xét về những việc lành dữ mình đã làm khi còn sống ở trần gian này.
Bài Phúc Âm đã cho chúng ta thấy hai giới tuyến rõ rệt: Bấy giờ, hai người đàn ông đang ở ngoài đồng, một người được tiếp nhận còn một người bị bỏ rơi. Và có hai người đàn bà đang xay, một người được tiếp nhận còn một người bị bỏ rơi. Vậy thì Lời Chúa có ý nghĩa gì?
Cả hai trường hợp đều cho chúng ta thấy hai người đang làm việc trong ngày Đức Kitô trở lại, thế nhưng số phận đời đời của họ thì lại hoàn toàn khác biệt nhau. Một người thì sẽ được đưa về trời hưởng hạnh phúc vĩnh cửu, còn một người thì sẽ bị đày đoạ trong hoả ngục với muôn vàn khổ đau. Bởi vì họ đã chống đối ơn sủng và tình thương của Chúa cho đến cùng. Chính vì thế mà vấn đề quan trọng nhất đó là sống trong tình thương và ơn sủng của Chúa.
Vì yêu thương chúng ta và muốn cho chúng ta được cứu rỗi, Chúa Giêsu đã nhiều lần nhắc nhở chúng ta: Hãy tỉnh thức và sẵn sàng. Trong một ngày mà thôi, có biết bao nhiêu người đã phải vĩnh viễn ra đi vào lúc họ nghĩ rằng ngày ấy còn xa, nên chẳng kịp chuẩn bị và sửa soạn. Một tai nạn xe hơi. Một cơn đau tim hay một ngọn gió độc bất ngờ nào đó.
Chúng ta phải cảm phục thái độ can đảm của những người tín hữu trưởng thành, khi phải đối đầu với cái chết. Họ đã giục lòng ăn năn ám hối xin Chúa xoá bỏ tội lỗi. Họ coi đó như là một hồng ân Chúa ban bởi vì họ đã kịp chuẩn bị cho mình một cái chết tốt lành và thánh thiện. Cái chết là một biến cố quan trọng nhất của cuộc sống, còn quan trọng hơn cả ngày chúng ta mở mắt chào đời, bởi vì kể từ đó, số phận đời đời của chúng ta được ấn định.
Vì thế, bằng mọi cách chúng ta phải chuẩn bị cho giờ chết, và phải được chết đi trong tình thương và ơn sủng của Chúa. Để đạt tới mục đích này, không gì hơn là hãy thực hiện lời khuyên của thánh Phaolô: Đừng ngủ quên, cũng đừng chìm đắm trong vui thú. Ngài nói: Đêm sắp tàn và ngày gần đến. Hãy từ bỏ những hành vị ám muội và mang lấy khí giới ánh sáng. Chúng ta hãy đi đứng đàng hoàng như giữa ban ngày, không ăn uống say sưa, không chơi bời dâm đãng, không tranh chấp ghen tỵ. Chớ lo lắng thoả mãn những dục vọng xác thịt. Nhưng hãy mặc lấy Đức Kitô.
Bởi vì chỉ mình Ngài mới là đường, là sự thật và là sự sống của chúng ta mà thôi.
19. Tỉnh thức chờ Chúa đến--Lm Giuse Maria Lê Quốc Thăng
Với Chúa nhật I mùa Vọng, chúng ta bước vào một năm phụng vụ mới. Năm phụng vụ được tổ chức như một chu kỳ hàng năm để tưởng niệm những mầu nhiệm cuộc đời Chúa Giêsu Kitô và các ngày lễ của các Thánh.
Với Chúa nhật I mùa Vọng, chúng ta bước vào một năm phụng vụ mới. Năm phụng vụ được tổ chức như một chu kỳ hàng năm để tưởng niệm những mầu nhiệm cuộc đời Chúa Giêsu Kitô và các ngày lễ của các Thánh. Những mầu nhiệm này đã được hoàn tất trong thời gian của Chúa Giêsu Kitô, nhưng nay vẫn tiếp tục thể hiện trong thời gian của Giáo hội. Lễ Phục sinh chính là khởi điểm, là yếu tố căn bản và qui tụ tất cả các lễ khác. Năm phụng vụ có cơ cấu như hiện nay là cả một quá trình hình thành và phát triển dọc theo chiều dài lịch sử phụng vụ của Giáo hội. Bắt đầu chỉ có lễ Phục sinh, sau thêm lễ Hiện xuống, rồi mùa Chay. Đến thế kỷ IV, người ta bắt đầu mừng lễ Giáng sinh, lễ Hiển linh và cuối cùng thêm vào 4 tuần lễ mùa Vọng.
Mùa Vọng được tổ chức để chuẩn bị đón Chúa Giêsu trong hai lần Người ngự đến. Gồm có hai giai đoạn: Từ Chúa nhật I đến ngày 16/12, các bản văn Kinh thánh dùng trong phụng vụ nói lên sự mong đợi ngày Chúa đến lần thứ hai trong vinh quang. Từ 17/12 đến 24/12, trực tiếp nói đến ngày sinh nhật của Người. Theo tinh thần canh tân phụng vụ hiện nay, mùa Vọng không còn là mùa thống hối nữa mà là mùa hân hoan mong đợi, mặc dầu phẩm phục vẫn là màu tím và không đọc Kinh Vinh danh.
Mùa Vọng là mùa của những lời loan báo: loan báo việc Chúa sinh ra, loan báo thời gian cứu độ, loan báo ngày trở lại của Chúa Giêsu. Vì thế, các bài đọc của mùa này xoay quanh các chủ đề loan báo ấy. Trong năm A này, các bài đọc I của các Chúa nhật mùa Vọng được trích từ phần I của Sách tiên tri Isaia. Trong các bài này, bài quan trọng nhất được dành cho Chúa nhật IV, với lời loan báo: Một Trinh nữ sẽ thụ thai sinh hạ một con trai được gọi là Emmanuel. Các bài Thánh thư chủ yếu trích thư gửi tín hữu Rôma của Thánh Phaolô và thư của Thánh Giacôbê nhấn mạnh đến việc loan báo Chúa Giêsu sẽ trở lại lần thứ hai. Về các bài Tin mừng thì Chúa nhật I nhắc lại lời kêu gọi "hãy tỉnh thức" của Chúa Giêsu. Chúa nhật II và III dành cho Gioan Tiền hô với lời kêu gọi dọn đường cho Chúa ngự đến và hướng về chính Đức Giêsu Kitô. Chúa nhật IV là Chúa nhật truyền tin cho Thánh Giuse.
I. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
1. Bài đọc I: Is 2,1-5
Giêrusalem mới
Trong một thị kiến huy hoàng, Tiên tri Isaia chiêm ngắm Thành Giêrusalem của Thiên Chúa vào ngày mà muôn dân tộc tuôn đổ về để vui hưởng hòa bình trong Thiên Chúa.
a. Bản văn này chắc chắn được viết sau khi Giêrusalem sụp đổ do bị quân đội của Nabuchodonosor, Vua Babylon chiếm đóng và tàn phá.
b. Tiên tri Isaia đã nhận thấy từ xa một ngày của Đức Chúa, nơi thành thánh, sự hồi sinh từ trong đổ nát ; mọi dân tộc trên mặt đất sẽ qui tụ tại đây để giao hòa với nhau. Giêrusalem sẽ trở nên Thành đô của Thiên Chúa, kinh đô của hòa bình.
c. Giêrusalem lý tưởng, trung tâm tôn giáo của nhân loại, chính là Giáo hội hôm nay. Giáo hội được Chúa Giêsu thiết lập sẽ là nơi chiếu tỏa ánh sáng hòa bình công lý và tình yêu của Thiên Chúa, để qui tụ mọi dân nước thành Dân của Ngài.
2. Bài đọc II: Rm 13,11-14
Ơn Cứu độ đã gần kề
Thánh Phaolô đã viết thư gửi giáo đoàn Rôma báo cho họ biết không được mê ngủ nữa phải tỉnh thức vì thời gian cứu độ đã gần kề, Ngày của Chúa đã đến gần, đừng đánh mất thời gian của mình.
a. Thánh Phaolô nói với những người đã trưởng thành, đã có đức tin phải biết thay đổi nếp sống so với lúc mới tin đạo.
b. Ngài khuyên dạy những người đã đón nhận ánh sáng Tin mừng đừng để bản thân chìm ngập trong bóng tối của tà giáo ; của lối sống vô luân.
c. Lời dạy của Thánh Phaolô nhắc nhở mỗi Kitô hữu chúng ta ngày nay phải biết tỉnh thức chờ đợi Đức Kitô đến bằng một đời sống đạo hạnh. Không mê ngủ trong tội lỗi, trong đam mê dục vọng xác thịt.
3. Tin mừng: Mt 24,37-44
Tỉnh thức trong sự chờ đón Đấng Cứu Thế
Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ biết rằng Người sẽ đến cách bất ngờ. Cần phải tỉnh thức để chuẩn bị cách tích cực đón chờ ngày Người đến, để khỏi phải ngạc nhiên.
a. Bản văn Tin mừng hôm nay được trích từ diễn từ về ngày cách chung, ở phần đầu (Mt 24,1-36), Chúa Giêsu nhấn mạnh Con Người chắc chắn sẽ đến. Nhưng cách thế và thời điểm mà Người đến thật là bất ngờ. Việc đối chiếu với lụt đại hồng thủy thời Noe nhấn mạnh tới yếu tố của việc đến bất ngờ và những hiểm họa của việc không hiểu biết gì về những đe dọa đang xảy đến. Khi ấy mọi toan tính không còn ý nghĩa gì nữa mà ngay từ bây giờ phải biết chuẩn bị.
b. Ngày Chúa Giêsu đến vừa là ngày Quang lâm của Người cũng vừa là ngày phán xét nhân loại. Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh hai người ngoài đồng, hai người đàn bà cùng xay bột để nói đến tình trạng phán xử cuối cùng của nhân loại. Người ở lại người được cất đi. Bên ngoài mọi người có vẻ giống nhau, cùng sống cùng làm việc, nhưng giờ ấy mới thấy rõ có sự tách biệt, người được cứu còn người thì không. Sự khác biệt ấy hệ tại ở chính đời sống luân lý của mỗi người, hệ tại ở đức tin của mỗi người.
c. Chúa Giêsu cho thấy con người không thể biết đâu là ngày giờ tận cùng của nhân loại cũng như của mỗi người. Do đó, mỗi người phải biết chuẩn bị cho ngày ấy, đó là thái độ tỉnh thức mà Người mời gọi. Vấn đề không phải là khi nào, lúc nào ngày ấy sẽ đến mà vấn đề là con người đón chờ ngày ấy như thế nào.
II. GỢI Ý BÀI GIẢNG
1. Tỉnh thức và sẵn sàng, một việc cần phải làm ngay
Ngày của Chúa đến thật là bất ngờ, thình lình khiến trở tay không kịp. Như thời ông Noe, bất thình lình đại hồng thủy ập xuống ; hai người cùng làm nhưng bất ngờ một người được cứu còn người khác thì không. Những hình ảnh Chúa Giêsu nêu ra này cho thấy tính khẩn thiết của việc tỉnh thức, sẵn sàng cho Ngày của Chúa. Không thể khoan giãn lần lựa được mà phải làm ngay. Các con hãy sẵn sàng, chính vào giờ các con không ngờ Con Người sẽ đến. Lời Chúa Giêsu không phải là một lời hù doạ, nhưng là một lời cảnh báo trước, một lời báo động. Tai ương treo trên đầu mỗi người và sẽ rơi xuống lúc nào không hay. Khi đó, mọi toan tính thì đã quá muộn. Cho nên, phải làm ngay, phải chuẩn bị từ bây giờ. Ngày giờ Chúa đến càng bí ẩn bao nhiêu thì việc tỉnh thức sẵn sàng càng khẩn thiết bấy nhiêu.
Lời Chúa Giêsu quả quyết không biết đâu là ngày giờ tận cùng mách bảo chúng ta mỗi Kitô hữu đừng giả định phỏng đoán ngày nào, lúc nào nhưng thay vào đó hãy lo chuẩn bị. Hãy tỉnh thức và sẵn sàng trong sự giả định ngày ấy đã gần kề.
2. Chúa đến bất ngờ, con người không biết nhưng biết chuẩn bị đón Chúa
Ngày giờ tận cùng, ngày Chúa đến là bí mật của Chúa Cha. Tuy nhiên, một cám dỗ cố hữu nơi lý trí con người là mong muốn biết ngày giờ ấy và ngày ấy sẽ xảy ra như thế nào. Trong lịch sử loài người đã không ít lần chứng kiến những phỏng đoán về ngày tận thế, nhưng tất cả đều sai lầm. Con người không thể biết được. Thực ra Lời Chúa cho chúng ta thấy, ngày ấy chắc chắn sẽ đến. Vấn đề không phải ở việc biết đến lúc nào và như thế nào. Vấn đề quan trọng là biết trước có ngày đó thì phải lo chuẩn bị. Người ta không học được chữ 'ngờ' nhưng phải học được chữ 'phòng'. Đã không biết được ngày giờ nhưng biết sẽ có ngày ấy thế thì chuyện quan trọng và cần thiết là chuẩn bị. Chúa Giêsu không nói gì nhiều chỉ kêu gọi vắn tắt nhưng rõ ràng: Hãy tỉnh thức, hãy sẵn sàng.
Là Kitô hữu, mỗi người chúng ta ý thức thế nào và chuẩn bị ra sao cho ngày Chúa đến. Ngày ấy có thể là ngày chết của mỗi cá nhân, cũng có thể là ngày chung thẩm của cả nhân loại. Chuẩn bị cho giờ chết của mình cũng là chuẩn bị cho ngày cánh chung.
3. Tỉnh thức là thái độ của nội tâm
Hai người cùng làm việc chung nhưng một người được cứu, một người không. Nhìn vào dáng vẻ, công việc và cuộc sống bên ngoài không có gì phân biệt giữa hai người, giữa hai người nông dân đang làm việc ngoài đồng hay hai người đàn bà đang cùng ngồi xay một cối. Thế nhưng, trước mặt Thiên Chúa lại có sự phân biệt, có sự khác biệt giữa họ. Đó là thái độ nội tâm. Người thì gắn bó với Chúa trong công việc, người thì không. Người thì tỉnh thức còn người mê ngủ… Thái độ nội tâm này làm cho công việc và cuộc sống của con người khác nhau trước mặt Thiên Chúa và cũng đưa tới một kết cục khác nhau hoàn toàn trong ngày của Chúa. Thái độ nội tâm ấy là thái độ của người tin tưởng vào Chúa. Sự tỉnh thức khởi đi từ chính một tâm hồn luôn gắn bó với Chúa, biết đón chờ Ngài. Chính nhờ đời sống nội tâm như thế, mọi công việc, sinh hoạt và trọn vẹn cuộc sống là cả một sự chuẩn bị, cả một sự tỉnh thức.
Lời kêu gọi hãy tỉnh thức ; hãy sẵn sàng phải vang dội từ trong tâm khảm của mỗi Kitô hữu. Lời đó phải thấm nhuần trọn vẹn con người và chi phối mọi thực tại cuộc sống. Càng gắn bó với Chúa, càng biết chuẩn bị. Càng có đời sống nội tâm sâu sắc càng biết tỉnh thức.
Dẫn vào Phụng vụ Thánh thể:
Để có sự kết hợp mật thiết nhất với Chúa Giêsu chúng ta có một phương thế bảo đảm đó là Bí tích Thánh thể. Mình Máu Thánh Chúa Giêsu vừa là một bảo chứng cho chúng ta trong ngày sau hết, vừa là của ăn giúp chúng ta có sức để lo liệu và lên đường đón chờ ngày Chúa đến.
III. LỜI NGUYỆN TÍN HỮU
Mở đầu: Anh chị em thân mến, vì yêu thương chúng ta, Chúa Giêsu sẽ đến đón chúng ta chung hưởng hạnh phúc với Người trong ngày Người ngự đến vinh quang. Trong tâm tình hy vọng, chúng ta cùng dâng lên Chúa những lời cầu xin:
1. Hội thánh tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu không ngừng vang lên lời mời gọi con cái mình và toàn thế giới hãy tỉnh thức và sẵn sàng. Chúng ta cùng cầu nguyện cho sứ điệp Tin mừng mà Hội thánh loan báo được mọi người đón nhận và thực thi.
2. Ngày nay biết bao người đang lầm đường lạc lối, ngủ mê trong tệ nạn, trong tội lỗi và trong lối sống vô luân. Chúng ta cùng cầu nguyện cho có nhiều người thành tâm thiện chí, quảng đại dấn thân trong việc giúp đỡ, hướng dẫn và nâng đỡ những người sa ngã lầm lạc trở về.
3. Hãy tỉnh thức và sẵn sàng vì vào giờ các con không ngờ thì Con Người sẽ đến. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta biết tình thức bằng đời sống gắn bó với Chúa, chu toàn trách nhiệm được trao phó với tất cả lương tâm Công giáo.
Lời kết: Lạy Thiên Chúa, Đấng giàu lòng thương xót. Xin ban Thánh Thần của Chúa hướng dẫn chúng con biết sống đúng lời Chúa Giêsu dạy tỉnh thức hân hoan đón chờ ngày Người đến trong vinh quang. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
20. Thánh hóa từng giây phút sống--Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng
Hôm nay chúng ta bắt đầu năm Phụng Vụ mới: năm Phụng vụ 2013-2014. Cùng với việc mừng “tết” Phụng vụ, chúng ta cũng đồng thời bắt đầu bước vào mùa Vọng mới.
Mùa Vọng mang hai đặc tính thiết thực: 1. Mùa chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh, kính nhớ việc Con Thiên Chúa nhập thể làm người. 2. Mùa mà qua cuộc kính nhớ ấy, mời gọi ta hướng lòng trông đợi Chúa Kitô đến lần thứ hai trong ngày tận thế.
Ngay ngày đầu mùa Vọng, cũng là ngày đầu năm, Hội Thánh, qua Lời Chúa, nhắc nhở ta tinh thần chuẩn bị sẵn sàng cho việc đón chờ ngày Chúa đến. Đó là ngày bất ngờ, ngày đáng sợ như đại lụt hồng thủy xưa:
“Thời ông Noê thế nào, thì ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy. Vì trong những ngày trước nạn hồng thuỷ, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Noê vào tàu. Họ không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thủy ập tới cuốn đi hết thảy. Ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy”.
Theo cách viết của thánh Matthêu, những người thời ông Noê chẳng làm gì nên tội. Họ chỉ làm những việc bình thường: “ăn uống, cưới vợ gả chồng”. Họ chết trong cơn nước lụt, không phải là vì họ có tội, mà vì họ không thánh hóa mọi giờ khắc, mọi công việc của mình.
Họ đã không làm mọi việc trong tinh thần cầu nguyện, trong lòng yêu mến Chúa. Đúng hơn, họ làm rất nhiều việc cho cuộc sống thể xác, nhưng không làm việc gì cho cuộc sống linh hồn cả. Họ đã không làm những việc phải làm. Ngược lại, họ chỉ làm những việc không cần thiết.
Chúa Giêsu nhắc nhở ta phải luôn sẵn sàng vì Người sẽ đến bất cứ lúc nào. Sự sẵn sàng của ta không như những người thời Noê, nhưng là theo ý Chúa dạy. Nghĩa là, giữa cuộc sống trần thế còn nhiều bộn bề, nhiều vất vả, lo âu, nhưng ta chỉ tin tưởng phó thác vào Chúa mà thôi. Ta tập cho mình dù làm gì, ở đâu, bất cứ thời gian nào, đều biết thánh hóa giây phút hiện tại, biết hiến dâng chính giờ này, việc này, hoàn cảnh này cho Chúa.
Đức Hồng Y Phanxicô Saviê Nguyễn Văn Thuận, con người của niềm hy vọng, đã nêu gương tuyệt hảo trong việc sống và thánh hóa giây phút hiện tại. Ngài nói: “Con chỉ có một giây phút đẹp nhất: giây phút hiện tại, sống trong tình yêu Chúa cách trọn vẹn; đời con sẽ tuyệt đẹp nếu kết tinh bằng từng giây phút đẹp nhất. Con thấy đơn sơ, không phải khó”. (Đường Hy vọng 997). Đức Hồng Y càng sống niềm hy vọng, ngài càng ra sức thánh hóa phút hiện tại.
Ngày 15/8/1975, vừa khi bị bắt, ngài hụt hẩng, cô đơn vì không còn được thực hành mục vụ của một chủ chăn giáo phận. Nhưng ngay sau đó, Đức Hồng Y nhận ra, một tù nhân như ngài, không thể chờ đợi bất cứ tương lai nào. Ngài quyết định: Chỉ có thánh hóa và sống giây phút hiện tại. Ngài đã làm cho phút hiện tại chất chứa đầy tình thương.
Quá khứ đã qua, tương lai còn phía trước, chỉ có hiện tại nằm trong tầm tay của ta. Phút hiện tại sẵn sàng đồng hành với ta, giúp ta thể hiện mọi tư tưởng, thi hành mọi hành động trong cuộc sống và cho cuộc sống.
Chính khi thăng hoa phút hiện tại bằng cách thánh hóa nó, ta càng cảm nhận bàn tay kỳ diệu của Chúa vẽ thẳng trên những đường cong qua mọi ngày đời ta.
Như Đức Hồng Y, đón nhận lời mời gọi hãy tỉnh thức của Chúa Giêsu, ta hãy triệt để thánh hóa và sống thật tốt giây phút hiện tại của mình. Dù phải trăn trở, vất vả, lo âu, lao nhọc, mồ hôi, nước mắt, ta vẫn thấy Chúa đang hiện diện với mình, và bản thân đang ở trước mặt Chúa, ở trong Chúa.
Sống với Chúa luôn luôn như thế, là ta đang chuẩn bị cho ngày Chúa đến, ngày mà Người mời gọi ta về với Người.
Sống với Chúa luôn luôn như thế, là ta đang sẵn sàng, đang tỉnh thức chờ đợi ngày của Chúa. Từng giây phút sống sẵn sàng và tỉnh thức, cho thấy ta đang sống mãnh liệt niềm hy vọng trong Chúa của mình.
Sống với Chúa mãnh liệt và triền miên như thế, ta không còn sợ ngày tận thế sẽ là ngày bất ngờ với ta, vì luôn luôn có Chúa, luôn luôn hiện diện trong Chúa, chẳng có gì là bất ngờ cả.
Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót chúng con và tha thứ mọi tội lỗi, mọi thiếu sót mà trong một năm qua, chúng con đã xúc phạm đến Chúa, đến anh chị em của mình. Xin cho mỗi chúng con, bước vào năm Phụng vụ mới, biết ý thức từng giây phút sống, để chúng con luôn sống cho Chúa và sống trong Chúa. Xin cho chúng con luôn nhận tinh thần tĩnh thức, là sống thánh thiện, sống nhân đức, sống hiến dâng, sống phó thác làm phương cách chuẩn bị cho giờ ra đi của mình.
21. Cảnh giác trước các nguy cơ--Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Vào đêm giao thừa Mậu Thân năm 1968, biết rằng hầu hết quân lực miền nam Việt Nam từ tướng đến quân lơ là trong việc canh phòng đồn trại, về nhà vui xuân chơi tết trong những ngày hưu chiến, quân đội miền bắc xông vào chiếm đóng 4 thành phố lớn, 37 thị xã và hàng trăm thị trấn, quận lỵ khác trên khắp miền nam cách dễ dàng.
Sự kiện lịch sử này cho thấy sự thiếu canh phòng, thiếu cảnh giác là yếu tố nguy cơ hàng đầu khiến người ta phải thất bại, thua thiệt và mất mát...
Trái lại, sự tỉnh thức và cảnh giác cao độ là yếu tố cần thiết để bảo toàn sinh mạng, của cải và phẩm chất cao đẹp của mình. Vì thế, qua các trang Tin mừng, Chúa Giê-su dạy chúng ta phải thường xuyên cảnh giác, Ngài nói: “Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến. Anh em hãy biết điều này: Nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông đã thức, không để nó khoét vách nhà mình” (Mt 24, 42-43).
Cần cảnh giác trước những nguy cơ nào?
Có nhiều nguy cơ nghiêm trọng đe dọa con người cũng như xã hội chúng ta hôm nay. Ở đây, xin đề cập đến hai nguy cơ lớn:
1. Sự dối trá tràn lan trong xã hội
“Kết quả của cuộc khảo sát do Giáo sư tiến sĩ khoa học Trần Ngọc Thêm, giám đốc trung tâm văn hóa học lý luận và ứng dụng khiến xã hội bàng hoàng: Tỷ lệ nói dối ở học sinh bậc tiểu học là 22%; ở bậc Trung học cơ sở là 50%; ở bậc Trung học phổ thông là 64% và ở bậc đại học là 80%. (…)
Tóm lại, là sự dối trá đã len vào tận hang cùng ngõ hẻm của xã hội, ngự trị từ tầng thấp đến tầng cao. Chưa bao giờ người Việt Nam lại mất lòng tin, lại phải đề phòng, cảnh giác đối với người xung quanh mình, với xã hội đến thế. Sống trong một môi trường như vậy, thì các cháu, các em không nói dối, mới là chuyện lạ[1].”
Sự dối trá lan tràn như bệnh dịch nguy hiểm, tác hại nặng nề đến xã hội chúng ta. Đây là một nguy cơ lớn lao mà mọi người dân Việt phải hết sức cảnh giác, đề phòng.
2. Lòng tham
Trong xã hội chúng ta, lòng tham đang lan nhanh, tỏa rộng như một đám cháy rừng vô phương cứu chữa và có thể xâm chiếm tâm hồn chúng ta lúc nào không hay. Lòng tham xui khiến, xô đẩy người ta thực hiện đủ mọi hình thức tham ô, chiếm đoạt, sản xuất thực phẩm độc hại, làm hàng giả, lường gạt, giết người cướp của, kể cả buôn người xuyên quốc gia… để thu lợi về cho mình, bất chấp thiệt thòi, mất mát, đau thương, khốn cùng… của bao nhiêu người khác.
Điều đáng sợ là ngày nay, lòng tham ngày càng thắng thế. Lòng tham từng bước truất phế lương tri, lý trí, lòng đạo đức nơi rất nhiều người để chiếm lấy quyền thống trị tâm hồn và đời sống của họ; và điều đáng sợ hơn nữa là hầu như không có một quyền lực trần gian nào có thể lật đổ, truất phế lòng tham để cho đạo đức và lương tri được lên ngôi.
Hai nguy cơ này là những địch thù vô hình nhưng rất đáng sợ, đang âm thầm lặng lẽ xâm chiếm và liên lỉ gặm nhấm, đục khoét tâm hồn ta … như những loài sâu mọt bất trị, vì thế, mỗi người chúng ta phải hết sức đề phòng, cảnh giác.
Giờ đây chúng ta hãy nhìn lại cõi lòng mình và suy xét xem dối trá và tham lam đã len lỏi vào đời ta, đã chi phối cuộc sống ta chưa?
Trong tuần vừa rồi hoặc trong tháng qua, tôi đã nói dối mấy lần? Nếu có, thì thói dối trá đã tiêm nhiễm vào đời tôi, tôi cần phải cảnh giác để ngăn ngừa.
Lâu nay Chúa đã cho tôi no đủ rồi, tôi có còn ước ao khao khát có nhiều hơn không? Nếu có, thì lòng tham lam đang chi phối cuộc đời tôi, tôi cần phải tỉnh táo để tự giải thoát mình.
Lạy Chúa Giêsu,
Sống trong một xã hội đang bị ô nhiễm trầm trọng bởi tham lam và dối trá thì việc duy trì một tâm hồn trong sạch không hám lợi, giữ cho lòng trí luôn chân thật ngay thẳng là điều rất khó.
Xin Chúa ban ơn giúp sức để chúng con không bị tiền bạc chỉ huy và lôi cuốn, không để cho dối trá chi phối tâm hồn và nhất là đừng bao giờ hóa thân thành người tham lam và dối trá.
22. Đừng ảo tưởng--Lm Ignatiô Trần Ngà
Vào dịp cuối năm, Lu-xi-phe triệu tập đại hội đồng quỷ sứ để kiểm điểm tình hình hoạt động suốt năm qua.
Quỷ già, quỷ cái, quỷ con đều họp mặt đông đủ và báo cáo cho Quỷ Vương Lu-xi-phe biết tình hình cám dỗ của toàn bầy quỷ sứ.
Nói chung, hoạt động cám dỗ không đạt kết quả như chỉ tiêu đã đề ra và tỉ số người phải xuống hoả ngục xem ra không gia tăng đáng kể.
Vì thế, khi bước qua phần hai của chương trình thảo luận, Quỷ Vương Lu-xi-phe kêu gọi hội đồng quỷ hãy đề ra những chiêu thức cám dỗ hữu hiệu hơn, liệu sao để lôi kéo được nhiều linh hồn sa hoả ngục hơn.
Các quỷ tham gia tranh luận sôi nổi, bày ra nhiều mưu chước nhằm làm cho loài người sa vòng tội lỗi. Ý kiến thì nhiều, nhưng chỉ nêu ra đây một số ý kiến tiêu biểu. Có quỷ đề nghị hãy cám dỗ các bạn trẻ rằng: "Không có Thiên Chúa, không có thiên đàng hoả ngục. Thiên đàng là ảo tưởng do Giáo Hội bày ra để dụ khị loài người; hoả ngục chỉ là sản phẩm do Cha Cố thêu dệt để hù doạ những người yếu bóng vía. Đừng dại dột tin vào Thiên Chúa, vào sự sống đời sau mà phí cả cuộc đời!". Mưu chước nầy cũng chưa thuyết phục nên không được đa số chấp nhận.
Có quỷ thì hiến kế nên thuyết phục người ta biết rằng Đức Giêsu chỉ là hạng phàm phu tục tử, Phúc Âm của Ngài gồm toàn những chuyện bịa đặt viển vông..." nhưng rồi ý kiến nầy cũng không được hưởng ứng.
Cuối cùng có lão quỷ già có tiếng là đa mưu túc kế lên tiếng: "Theo tôi, chúng ta nên cám dỗ thế nầy: "có Thiên Chúa, có thiên đàng hoả ngục, có linh hồn, có sự sống đời sau... (mình phải nói như vậy để người ta tin mình đã, rồi ta sẽ thêm) nhưng bạn hãy nhớ rằng: Đời bạn còn dài mà, bạn chưa chết đâu! Vậy hãy vui hưởng lạc thú đời nầy đi! Đợi đến khi già yếu rồi ăn năn sám hối cũng chưa muộn."
Một tràng pháo tay giòn vang tán thưởng diệu kế của lão quỷ già thâm độc. Thế là hội nghị nhất trí với phương thức cám dỗ được xem là sẽ rất kiến hiệu của lão quỷ già đa mưu.
Hiện nay, hầu như mọi người đều tin theo lời cám dỗ độc hại ấy. Ai cũng tin rằng đời mình còn dài, chưa đến lúc phải ăn năn hối cải. Ngày mai, ngày mốt, ngày kia, ta sẽ sám hối, sẽ cải thiện cuộc đời, còn hôm nay, thì...
Qua bài trích thư gởi tín hữu Rô-ma trích đọc hôm nay (Rm 13, 11-14) thánh Phaolô kêu gọi chúng ta hãy mau quay về với Chúa, hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, đừng mơ tưởng đời còn dài rồi cứ đắm mình trong lạc thú:
"Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu. Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thoả mãn các dục vọng."
Và Lời Chúa trong Tin Mừng cũng kêu gọi chúng ta hãy tỉnh thức vì giờ Chúa đến thật bất ngờ; vì như "Thời ông Nô-ê thế nào, thì ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy. Vì trong những ngày trước nạn hồng thuỷ, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Nô-ê vào tàu. Họ không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thuỷ ập tới cuốn đi hết thảy. Ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy".
"Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến. Anh em hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông đã thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu. Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến".
Nếu hôm nay, lúc còn an bình khoẻ mạnh, ta không tưởng gì đến Chúa; đợi đến lúc lâm nguy rồi mới chạy đến với Ngài thì chúng ta xem Chúa có khác gì chiếc phao. Bình thường khi trời quang mây tạnh, mọi sự an lành thì không ai thèm ngó lại chiếc phao, xem nó như cái gì thừa thãi vô tích sự, có thấy nó nằm giữa lối đi thì người ta cũng đá nó sang một bên, không ai thèm đoái hoài. Nhưng khi gặp phong ba bão táp, nguy khốn đến nơi thì tranh nhau giành lấy phao cho bằng được!
Lạy Chúa, Chúa là Chúa Tể quyền năng, là Thiên Chúa tối cao mà chúng con phải phụng thờ suốt đời, ngay cả bây giờ, chứ không phải là chiếc phao cứu mạng chỉ cần dùng lúc gặp gian nguy khốn khó.
Xin cho chúng con đừng khờ khạo tin rằng đời còn dài, hãy tận hưởng đời và mê đắm trong tội mà lãng quên phần rỗi đời đời của chúng con.
23. Sống tỉnh thức--Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Người Việt Nam có câu "nước tới chân mới nhảy" thì quá trễ. Người Miền Trung đã quá thấm thía câu nói này qua những ngày tháng lũ lụt kéo dài suốt gần 1 tháng qua. Không có lương thực dự trữ, đa phần phải sống trong cảnh thiếu thốn, bữa no bữa đói. Có những nơi chỉ còn biết trông chờ ở những đoàn cứu trợ từ khắp nơi mang đến. Không ai nghĩ rằng lũ lụt lại quá kinh khủng như vậy. Thế nên, họ vẫn ăn uống, vẫn vui chơi, vẫn không cần tích trữ cho ngày mai. Họ đâu ngờ rằng có những ngày "gạo quế củi châu", khiến họ phải đói khổ cơ hàn, để rồi phải ngửa tay van xin lòng thương xót của người khác. Họ đâu ngờ rằng những gì họ tích luỹ, cất dấu lại bị nước cuốn trôi và trở nên trắng tay lại hoàn trắng tay. Xem ra trên thế gian này chẳng có gì an toàn, chẳng có gì trường cửu. Tất cả đều mong manh, kể cả kiếp người cũng mong manh như loài hoa trước gió, đến độ "một cơn gió thoảng cũng làm nó biến đi. Nơi nó mọc cũng không còn mang vết tích".
Hôm nay, Lời Chúa nhắc nhở chúng ta hãy tỉnh thức đừng để ngày khốn đốn xảy đến mà chẳng hay biết gì, như "thời ông Noe, người ta vẫn ăn uống, vẫn cưới vợ, lấy chồng". Người ta tưởng rằng thế giới mãi mãi là thế, chẳng có gì thay đổi, chẳng có gì phải lo, phải sợ. Chỉ có một mình Noe, ông đã vượt ra khỏi thói quen của mọi người. Một mình ông đóng tàu. Một mình ông chuẩn bị đối phó với tai hoạ sẽ xảy đến cho ông và cho toàn thế giới. Và vì vậy, cũng chỉ một mình ông và gia đình lên tàu, còn những người khác vẫn ăn uống, vẫn đàn hát cho đến khi cơn hồng thủy đến và nhậm chìm vạn vật và hàng triệu sinh linh trên mặt địa cầu.
Mùa vọng là mùa đợi chờ, mùa trông mong. Người ta trông mong quà cáp, thư từ, tiền lương, xum họp gia đình nhân dịp lễ Noel. Người tìn hữu được mời gọi trông mong ngày Chúa quang lâm. Ngày đó sẽ đến, nhưng không biết khoảng thời gian nào. Ngày đó sẽ đến như kẻ trộm. Ngày đó sẽ đến một cách bất chợt và thình lình. Sự khôn ngoan luôn nhắc nhở chúng ta là hãy tỉnh thức để luôn sẵn sàng đón chờ ngày đó sẽ đến.
Ngày xưa có một ông cụ già cố cứu kinh thành Sôđôm khỏi bị Chúa tiêu diệt bằng cách mỗi ngày đi gặp người dân trong thành để cảnh cáo và kêu gọi mọi người tin Chúa, thờ Chúa cho khỏi bị tiêu diệt. Không ai chịu nghe lời ông cụ mà còn chế diễu là mê tín dị đoan nữa. Ông cụ vẫn bền chí đi hết nhà này sang nhà nọ để kêu gọi họ thống hối ăn năn. Thấy chuyện vô tích sự của cụ, nên có người hỏi:
- Tại sao cụ nói cho họ biết làm gì cho mệt. Họ có nghe cụ và thay đổi gì đâu? Nói với họ cũng như nước đổ đầu vịt!
Ông cụ bình tĩnh đáp:
- Có lẽ tôi không thuyết phục nổi ai, cũng không thay đổi được ai đâu. Nhưng làm như thế cũng là giúp tôi, đừng lao vào cuộc sống sa đoạ như họ.
Câu truyện kể trên chỉ là một dụ ngôn. Nhưng trên thực tế ông Lót ngày xưa sống trong kinh thành Sôđôm. Chính là ông già đó.
Trong thư thứ hai của thánh Phêrô có ghi rằng: "Chúa cứu Lót ra khỏi Sôđôm vì ông là người công chính, tâm hồn luôn luôn bị dày vò vì những cảnh đồi bại luân lý diễn ra hàng ngày quanh mình.
Ông Lót sinh sống tại vùng Sôđôma. Khi Sôđôma bị các nước lân bang xâm chiếm, Lót bị bắt đi. Abraham là chú phải ra tay tiếp cứu Lót. Nhưng Lót vẫn về sống ở kinh thành Sôđôma. Khi Chúa quyết định giáng tai họa xuống kính thành Sôđôma, Abraham đã cầu xin Chúa giải cứu, nhưng vì Sôđôma không có đến mười người kính thờ Chúa, nên đã bị tiêu diệt. Trước khi tai họa xảy ra, có hai thiên sứ của Chúa đến giải cứu Lót. Nhưng ông ta vẫn còn lần lữa. Khi đã ra khỏi Sôđôm, bà vợ ông Lót còn ngoái lại nhìn và đã bị biến thành tượng muối.
Vâng, trong thế giới ngày nay, tình trạng sa đoạ và trụy lạc ngày càng nhiều và lan rộng, đến độ người ta cho rằng phải sống đồi trụy mới là tiến bộ. Chẳng hạn như: quan hệ trước hôn nhân, đồng tính luyến ái, ngoại tình, phá thai và các sách báo, phim, băng hình đồi trụy mỗi ngày đều gia tăng, mặc dù cơn đại dịch Sida, aid đã tiêu diệt hàng trăm ngàn người mỗi năm, thế nhưng nhiều người vẫn nhắm mắt làm ngơ, vẫn lao vào cuộc sống hưởng thụ, sa đoạ, bất chấp lề luật, bất chấp tai họa. Cuộc sống sa đoạ đến mức Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II đã than thở rằng: "cái đáng buồn của thế giới ngày này, đó chính là mất ý thức về tội, người ta không còn nghĩ đến tội phúc, và cũng chẳng cần nghĩ đến danh dự của phẩm giá con người, người ta chỉ cần thoả mãn nhu cầu dục vọng của mình đến độ bất chấp cả lề luật mà Thượng Đế đã an bài".
Là người tin Chúa sống trong xã hội băng hoại, ta cần cẩn thận. Phải nói về Chúa cho đồng bào mình vì nếu không, chính chúng ta sẽ thay đổi theo chiều đồi trụy. Đó chính là phương cách bảo vệ niềm tin Chúa và đưa người khác đến với Chúa. Nếu không làm như vậy, không mấy lúc mà ta sẽ thay đổi theo với xu hướng tục hoá của xã hội, chứ không phải xã hội chung quanh thay đổi vì ta.
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta luôn tỉnh thức trong từng giờ từng phút. Tỉnh thức để vượt ra khỏi những cám dỗ của danh lợi thú, của những đam mê thấp hèn, hầu xứng đáng là người tôi trung luôn cầm đèn dẫn dắt anh em đi trong chân lý và hồng ân của Chúa. Amen.
24. Sống tỉnh thức--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Những ngày của tháng 09 và 10 mưa lớn như trút nước, lũ dữ từ thượng nguồn ào ạt đổ về. Nhiều tỉnh duyên hải miền Trung ngập chìm trong biển nước. Nhà cửa, của cải, hoa màu bỗng tiêu tan . ..
Miền Trung năm nay thật là “họa vô đơn chí”, vì hết họa này đến họa khác. Khởi đầu là Formosa tàn phá thiên nhiên khiến ngư dân thất ngiệp, cái đói lặn vào từng gia đình. Rồi liên tiếp lũ lụt lại tàn phá tan hoang đất đai, nhà cửa, hoa màu của cải cuốn trôi theo dòng nước.
Những tai họa của miền Trung đáng buồn là do nhân tai nhiều hơn là thiên tai. Con người đã phá thiên nhiên ở dưới biển khi thải chất độc. Con người lại tiếp tục phá rừng vì thiếu ý thức và vì những công trình thủy điện lãng phí . . .
Nhìn thấy cảnh tượng dân Miền Trung dồn dập tai ương khiến cho chúng ta cũng chạnh lòng với nỗi đau của anh em mình. Không đau sao được khi chỉ trong phút chốc, người dân dải đất miền Trung vốn được xem là khúc ruột của cả nước phải lâm cảnh trắng tay vì tài sản đã bị cuốn chìm trong dòng nước lũ! Không đau sao được khi công sức bao năm chắt chiu, dành dụm chỉ một đêm lũ về thì nửa hạt gạo cũng chẳng còn!
Có một người dân đã nói rằng trong nước mắt: “Chúng tôi đã thức trắng trên nóc nhà với nước trên đầu, nước dưới chân. Chưa bao giờ thấy nước dâng cao như vậy, nhà cửa tan tành hết rồi…” - những lời than như khóc của bao người dân quê nghèo các tỉnh Quảng Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh… giữa mênh mông biển nước tựa vết dao cứa lòng người.
Chạnh lòng với nỗi đau của anh em Miền Trung cũng mời gọi chúng ta chia cơm sẻ áo cho anh em. Một gói mì tôm, một chén gạo, một đồng tiền lẻ thật nhỏ bé nhưng được cả cộng đồng ý thức sẽ cứu cả hơn 20 triệu người dân Miền Trung. Đồng thời cũng nhắc nhở chúng ta cuộc sống này chẳng có gì đảm bảo, tất cả sẽ có thể tan hoang, vuột khỏi tay ta cho dù ta có lắm kho lẫm kiên cố hay tiền dư bạc để rồi cũng chỉ là “phù vân trên mọi phù vân” . . .
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy tỉnh thức đừng để ngày khốn đốn xảy đến mà chẳng hay biết gì, như “thời ông Noe, người ta vẫn ăn uống, vẫn cưới vợ, lấy chồng”. Người ta tưởng rằng thế giới mãi mãi là thế, chẳng có gì thay đổi, chẳng có gì phải lo, phải sợ. Chỉ có một mình Noe, ông đã vượt ra khỏi thói quen của mọi người. Một mình ông đóng tàu. Một mình chuẩn bị đối phó với tai hoạ sẽ xảy đến cho ông và cho toàn thế giới. Và vì vậy, cũng chỉ một mình ông và gia đình được cứu thoát còn những người khác đã bị dòng nước cuốn đi khi họ vẫn ăn uống, vẫn đàn hát . . .
Mùa vọng là mùa đợi chờ, mùa trông mong. Người ta trông mong quà cáp, thư từ, tiền lương, sum họp gia đình nhân dịp lễ Noel. Người tìn hữu còn được mời gọi trông mong ngày Chúa quang lâm. Ngày đó sẽ đến, nhưng không biết khoảng thời gian nào. Ngày đó sẽ đến như kẻ trộm. Ngày đó sẽ đến một cách bất chợt và thình lình. Sự khôn ngoan luôn nhắc nhở chúng ta hãy tỉnh thức để luôn sẵn sàng đón chờ ngày đó sẽ đến.
Vâng, trong thế giới ngày nay, tình trạng sa đoạ và trụy lạc ngày càng nhiều và lan rộng, đến độ người ta cho rằng phải sống đồi trụy mới là tiến bộ. Chẳng hạn như: quan hệ trước hôn nhân, đồng tính luyến ái, ngoại tình, phá thai và các sách báo, phim ảnh đồi trụy mỗi ngày đều gia tăng. Cuộc sống sa đoạ đến mức mất ý thức về tội, người ta không còn nghĩ đến tội phúc, và cũng chẳng cần nghĩ đến danh dự của phẩm giá con người, người ta chỉ cần thoả mãn nhu cầu dục vọng đam mê của mình . . .
Là người tin Chúa sống trong xã hội băng hoại, ta cần sống chuẩn bị cho đời sau đừng để những thói đời trụy lạc lôi kéo chúng ta xa rời Thiên Chúa. Hãy tích lũy cho mình kho lẫm ở trên trời là đời sống trong sạch, tiết độ, công bình và bác ái. Đừng mải mê tìm kiếm bổng lộc trần gian mà xa lìa Chúa, vì những của cái ấy chỉ là của đồng lần nay người mai ta. Có khi chỉ một cơn gió thoảng chúng cũng biến tan đi.
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta luôn tỉnh thức trong từng giờ từng phút. Tỉnh thức để vượt ra khỏi những cám dỗ của danh lợi thú, của những đam mê thấp hèn, hầu xứng đáng là người tôi trung luôn cầm đèn dẫn dắt anh em đi trong chân lý và hồng ân của Chúa. Amen.
25. Tỉnh thức và sẵn sàng--Jos. Hoàng Mạnh Hùng
Trong xã hội hiện nay, người ta thường khuyên mỗi người phải cảnh giác: cảnh giác với những kẻ bất lương, lừa đảo, với thực phẩm bẩn, với môi trường sống … Những phút giây mất cảnh giác thường khiến con người phải trả giá: lúc thì của cải không cánh mà bay, lúc thì sức khỏe bị tổn hại và nhất là có thể mất mạng sống như chơi.
Không chỉ là những chuyện ban ngày ban mặt ngoài đường phố nhưng nhiều khi tai ương lại sập đến ngay tại nơi trú ẩn an toàn nhất là ngôi nhà của chính mình. Cũng giống như “thời ông Nô-ê, người ta không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thủy ập tới cuốn đi hết thảy”; các trận lũ lụt tràn về trong đêm tối khiến con người bàng hoàng trở tay không kịp. Nhà cửa ruộng vườn tan hoang, của cải vật dụng gia súc trôi theo dòng nước.
Tin Mừng Chúa Nhật khởi đầu mùa Vọng theo thánh Mát-thêu đề cập đến sứ điệp cánh chung. Lời loan báo thời đại Con Người sẽ đến với những đảo lộn vũ trụ đáng sợ. Chúa Giê-su nhắc đến thiên tai hủy diệt nhân loại trong thời Cựu Ước là cơn lụt hồng thủy và những ai không sống tỉnh thức thì sẽ bị tận diệt, còn ai tỉnh thức và sống công chính thì sẽ được thoát nạn.
Con Người quang lâm mang tính cách “bất ngờ”, ai có ý thức và sống tỉnh thức chờ đợi sẽ được nhận mặt “tích cực” của biến cố này. Ngược lại, sẽ thật buồn cho những ai mù tối ăn chơi và hưởng thụ cuộc sống trong lạc thú và tội lỗi, mà không chú ý tỉnh thức, sám hối và ăn năn.
Ngoài ra, Thánh Mát-thêu cũng đề cập thêm về hai nhóm người trong ngày quang lâm của Con Người. Nhóm thứ nhất là hai người đàn ông đang làm ruộng và nhóm thứ hai là hai người đàn bà đang kéo cối xay. Nghĩa là cả hai nhóm người đang làm những công việc thường nhật.
Một người được đem đi, một người bị bỏ lại. Như thế, khi Chúa đến thì có người được chọn và có người không được chọn. Giống như biến cố đại hồng thủy, ông Nô-ê được chọn cùng với con cháu, trong khi những người khác thì không được chọn.
Qua dụ ngôn đơn sơ này, Chúa Giê-su nhấn mạnh một giáo huấn quan trọng: "Vậy anh em hãy tỉnh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến. Anh em hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông đã thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu.”
Như vậy, dù kẻ trộm có đến bất ngờ hoặc chủ nhà đã tiên đoán được thời gian kẻ trộm đến thì người chủ vẫn không được phép lơ đãng, mà luôn phải giữ tinh thần tỉnh thức sẵn sàng đối phó khi kẻ trộm khoét vách nhà mình. Qua yếu tố Chúa đến cách bất ngờ, Chúa Giê-su muốn nhắc nhở chúng ta cần phải tỉnh thức luôn.
Tỉnh thức và sẵn sàng là thái độ nền tảng mà người Ki-tô hữu cần có trong cuộc sống. Khi sống tỉnh thức và sẵn sàng chính là lúc chúng ta thắng mình, không để mình rơi vào tình trạng “ngủ mê”, không sẵn sàng đón tiếp Chúa đến. Vì không biết khi nào Chúa đến nên chúng ta phải khiêm tốn và luôn mở rộng tấm lòng cho Chúa, luôn giữ cho được mối dây tương quan tình yêu với Ngài.
Đó là sự khôn ngoan trong cuộc sống của người Ki-tô hữu, nhất là trong bầu khí của mùa Vọng, là thời gian chúng ta chờ trông Chúa đến. Hãy tỉnh thức và sẵn sàng để khi Chúa đến, Ngài sẽ thấy chúng ta vẫn đang mở rộng cánh cửa tâm hồn sẵn sàng mời đón Ngài vào.
26. Hãy tỉnh thức--Lm. Trầm Phúc
Ý định của Thiên Chúa là cứu vớt tất cả mọi người và Thiên Chúa đã yêu chúng ta trước. Vì thế mà trong mùa Vọng, Giáo hội khuyên dạy chúng ta hãy cầu xin: “Lạy Chúa, xin hãy đến”.
Trần gian hứa hẹn bao nhiêu hạnh phúc, nhưng chúng ta vẫn thất vọng. Chỉ có hạnh phúc Chúa hứa mới làm cho lòng chúng ta sung mãn.
“Lạy Chúa, xin hãy đến”.
Tiếng van nài ngân vang suốt trong bốn tuần Mùa Vọng… Và Giáo hội vẫn không nản lòng kêu xin, trông chờ.
Chúa đã đến rồi từ bao thế kỷ, vậy Chúa còn đến lần nữa sao? Tiếng kêu vang trong suốt Mùa Vọng chỉ là một lời vang xin giả hiệu?
Phải, Chúa đã đến rồi, đã sống ở trần gian này hơn 30 năm… nhưng tại sao cứ kêu van mãi, chờ đợi mãi?
Chúa đã đến rồi, nhưng lòng người vẫn còn xa lạ. Con người của thế kỷ này vẫn còn xa lạ với Chúa, và có lẽ còn xa lạ hơn bao giờ hết. Con người bất cần Thiên Chúa: Chúa còn ích lợi gì cho tôi khi tôi đầy đủ mọi sự để sung sướng, hưởng thụ? Chúa chỉ là “thuốc phiện” mê hoặc con người. Thế giới hôm nay vẫn nói như thế. Những con người duy vật vẫn nói như thế.
Giáo hội vẫn bền lòng kêu xin: “Lạy Chúa, xin hãy đến”.
“Xin hãy đến”
Vì trong thế giới hôm nay, con người đang sống trong u tối lầm lạc, tôn thờ vật chất và dục tình, tưởng rằng đó là hạnh phúc của họ.
Xin hãy đến,
Vì chỉ có Chúa là ánh sáng muôn dân, ánh sáng từ nơi cha Toàn năng.
Xin hãy đến,
Rọi sáng tâm hồn và cuộc đời chúng con bằng ánh sáng sự thật của Chúa.
Xin hãy đến,
Vì thế giới hôm nay đang bị ô nhiễm vì hận thù tràn lan. Chúng con đang thở những khói đạn chiến tranh, những chia rẽ màu da chủng tộc, những ích kỷ đê hèn và tàn bạo.
Xin hãy đến,
Ban cho chúng những lời thân ái yêu thương, cho chúng con hòa bình mà chúng con hằng khao khát. Chúa là yêu thương.
Xin hãy đến,
Này đây những bãi chiến trường khốc liệt…
Này đây những dòng sông máu hồng,
Này đây những núi xương khô,
Này đây những dòng nước mắt chưa cạn…
Này đây những ngục tù oi ngợp,
Những con người tàn phế cả xác linh hồn.
Xin hãy đến,
Chúa là nguồn hy vọng ngàn đời, là Mặt Trời Công Chính,
Xin ban cho chúng con những nụ cười hồn nhiên, những tâm hồn không cằn khô thất vọng.
Giáo hội vẫn mong mỏi đợi trông với từng con tim thoi thóp.
“Lạy Chúa, xin hãy đến” ,
Tâm hồn con khao khát Chúa hơn đất khô mong chờ cơn mưa,
Hơn lính canh mong đợi hừng đông.
Tâm hồn chúng ta phải khô khan ước vọng được cứu thoát khỏi xích xiềng tội lỗi.
Để Thiên Chúa mang lại niềm tin đang yếu ớt,
Nguồn sung mãn của tình yêu siêu thoát.
Lạy Chúa, xin hãy đến,
Vì chúng con đang cần đến Chúa,
Vì chúng con đang thiếu thốn tình yêu, hòa bình và hạnh phúc.
27. Tỉnh thức và cầu nguyện--Lm. GB. Trần Văn Hào
Mọi người chúng ta đều đã từng kinh qua kinh nghiệm về sự chờ đợi. Một người vợ thức đêm trằn trọc đợi chồng đi xa trở về. Đôi tình nhân đợi chờ giây phút hẹn hò bên nhau với bao rạo rực xao xuyến. Những bạn công nhân tha phương vẫn ngong ngóng đợi chờ ngày tháng qua mau để mong tết đến được về quê xum họp. Có những cuộc chờ đợi với bao xốn xang rộn rã, ngược lại cũng có những phút giây đợi chờ trong tuyệt vọng và chán chường. Dầu sao, bất cứ sự đợi chờ nào cũng làm cho thời gian như chùng lại, từng giờ từng khắc qua đi tựa như cả một thế kỷ dài đằng đẵng. Tất cả đều lệ thuộc vào tâm trạng và thái độ của những kẻ đợi chờ.
Mùa vọng là mùa chờ đợi, điều này ai cũng biết. Nhưng chờ đợi ai, chờ đợi những gì và mong đợi như thế nào, không phải ai cũng biết và thực hành. Các bài đọc Lời Chúa khởi đầu mùa vọng hôm nay sẽ gợi mở để giúp chúng ta thấu triệt những điều ấy.
Chờ đợi Đấng sẽ đến
Hạn từ Adventus (mùa vọng) mang chở ý nghĩa này. Người tín hữu chúng ta đang mong chờ, nhưng không phải chờ đón một biến cố hay một sự kiện sẽ xảy ra. Chúng ta chờ đợi một ‘Con người’. Con người đó là chính Đức Giêsu, Đấng Thiên Chúa làm người và cũng là Đấng Cứu thế. Ngài đã đến trần gian cách đây 2000 năm. Ngài cũng đang đến trong từng biến cố của cuộc sống đời thường chúng ta. Đồng thời Ngài sẽ đến, sẽ trở lại trong ngày chung thẩm để phán xử vũ trụ, khóa sổ trời cũ đất cũ và khai mở một trời mới và đất mới. Trong Tông huấn ‘Tiến về Thiên niên kỷ thứ ba’ (Tertio Milennio Adveniente), Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô 2 đã diễn tả cuộc lữ hành đức tin của chúng ta như một mùa vọng lớn. Mỗi khi cử hành Thánh lễ, Giáo hội khơi dậy cảm thức đức tin và thắp lên niềm hy vọng khi mời gọi chúng ta tuyên tín: “Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống lại cho tới khi Chúa đến”. Đức Kitô là đối tượng của đức tin, cũng là điểm quy chiếu của đức cậy giúp chúng ta canh tân mỗi ngày niềm hy vọng của những lữ khách trên con đường tiến về quê hương. Chúng ta vẫn hằng ngày cầu xin Chúa ban bình an, gìn giữ chúng ta khỏi vương tội lỗi, được an toàn giữa những biến loạn, đang khi mong đợi niềm hy vọng hồng phúc, và ngày trở lại của Chúa Giêsu Kitô Đấng Cứu độ chúng ta. Như vậy Giáo hội lữ hành hôm nay đóng vai một tân nương chờ đón đức lang quân của mình. Trong suốt mùa vọng, Giáo hội mượn lời kết trong sách khải huyền để dạy chúng ta thưa lên với Chúa tâm tình cầu nguyện: “Maranatha, lạy Chúa Giêsu xin hãy đến”.
Chờ đợi trong hi vọng
Trên thế giới ngày nay hiện có hai khối người đang sống cùng một niềm hy vọng chờ đợi, đó là tín hữu Do thái và các Kitô hữu. Người Do thái vẫn mong chờ Đấng Messia như lời các ngôn sứ đã loan báo, đặc biệt dựa vào lời tiên báo trong sách ngôn sứ Isaia, nhưng họ không tin nhận Đức Giêsu là Đấng Cứu thế. Còn đối với Kitô hữu chúng ta, Đức Giêsu Kitô chính là Đấng đã đến trần gian để quy tập dân Irael tản mác từ khắp bốn phương và khai lập một vương quốc mới, vương quốc của thời thiên sai. Ngài đã đến để thực hiện kế hoạch cứu độ, và ơn cứu độ này sẽ đạt đến viên mãn trong ngày Người trở lại lần thứ hai để khóa sổ vũ trụ. Mùa vọng là thời gian giúp chúng ta tái hiện tâm thức hy vọng trong chờ đợi. Niềm hy vọng chính là chìa khóa then chốt để chúng ta sống tinh thần của mùa phụng vụ này.
Một triết gia đã nói: “Một tôn giáo không đem lại cho ta niềm hy vọng, không phải là một tôn giáo đáng để chúng ta tin theo”. Đúng như thế, không có hy vọng, chúng ta sẽ bị nhấn chìm trong bóng tối của sự chết và hủy diệt. Một con người có thể sống mà chưa có tình yêu, nhưng không ai có thể tồn tại nếu không hy vọng mình sẽ biết yêu và sẽ được yêu. Trong những năm tháng tù ngục, Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã viết cuốn sách tựa đề ‘Con đường hy vọng’ để diễn tả cuộc hành trình đức tin trong những thời điểm đen tối nhất của cuộc đời Ngài. ‘Vui mừng và hy vọng’ cũng chính là khẩu hiệu Ngài chọn khi được tấn phong Giám mục. Niềm hy vọng Ngài nói đến không phải là một mơ ước hão huyền hay mông lung, nhưng đó là một trong ba nhân đức đối thần: Tin - Cậy- Mến, quy chiếu vào chính Đức Giêsu, Đấng đã đến để cho chúng ta được sống và sống dồi dào. Mỗi khi có dịp cử hành Thánh lễ một cách lén lút trong căn phòng chật chội và tối tăm của nhà tù, Ngài vẫn khơi lại nơi mình niềm hy vọng, đặc biệt khi cầm Mình Thánh Chúa trên đôi tay chai sạn với chiếc áo tù sờn cũ. Ánh sáng hy vọng đó là sức mạnh sâu xa, giúp Ngài vượt qua những ngày tháng đen tối nhất.
Cha Teilhard Chardin, một linh mục dòng Tên cũng đã viết: “Ngóng đợi là nhiệm vụ hàng đầu của Kitô hữu, và là nét nổi bật nhất để hiển thị đức tin. Người Kitô hữu luôn phải sống trong sự đợi chờ với niềm tin và hy vọng”. Thái độ chờ đợi của người tín hữu không phải là sự mỏi mòn trong tuyệt vọng giống như một tên tử tội khiếp sợ đợi chờ giây phút bị đem đi hành quyết. Trái lại, chúng ta hãy mặc lấy tâm tình của một cô dâu chờ đón chú rể đến giữa đêm khuya để tiến vào phòng cưới, tham dự ‘Tiệc Cưới Chiên Con’ cùng với Đấng đã chiến thắng tử thần và khải hoàn trong vinh thắng.
Chờ đợi trong tỉnh thức và sẵn sàng
Đây là sứ điệp mà cả ba bài đọc trong phụng vụ hôm nay nhắn gửi đến chúng ta. Trong phần kết luận của bài Tin mừng, sau khi tiên báo về ngày chung thẩm, Chúa Giêsu nhắc nhở: “Vậy anh em hãy canh thức vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em sẽ đến”. Đồng thời Chúa cũng khuyến mời chúng ta đừng ngủ mê trên chè chén say sưa hay những lo toan trần thế, giống như dân chúng thời Noe năm xưa. Trong bài đọc 2, Thánh Phaolô cũng nhắc nhớ dân thành Rôma phải ‘thức dậy’, đừng ngủ mê trên những việc làm đen tối, vì ngày cứu độ đang gần tới. Chúa đến để đem ơn cứu độ cho trần gian. Ơn cứu chuộc được dàn trải trên tất cả mọi người và Đức Giêsu đã tiến nhận cái chết để khai mở nguồn mạch cứu độ bất tận ấy. Nhưng hồng ân cứu độ chỉ thực sự hoàn tất khi Chúa đến lần thứ hai, khai mở trời mới đất mới và thiết lập vương quốc vinh hiển của Ngài. Vì vậy không chỉ trong mùa vọng kéo dài bốn tuần lễ, nhưng trong suốt cả mùa vọng lớn là trọn cuộc hành trình lữ thứ trần thế, chúng ta luôn phải sống với thái độ thức tỉnh và sẵn sàng.
Cách đây gần 30 năm, có một trận động đất dữ dội xảy ra tại California, Hoa kỳ. Một cô gái trẻ bị vùi lấp trong đống đổ nát, và người ta lập tức chuyển ngay cô vào bệnh viện. Trước đây cô ta sống trong một gia đình khá đạo đức, nhưng từ khi lấy chồng, sự giầu có đã làm cô gái lạc mất định hướng cuộc đời mình. Cô ta sống phóng túng như một kẻ vô thần. Nằm trên giường cấp cứu, cô gái cố gắng thu gom hết tàn lực cuối cùng để hỏi bác sĩ: “Liệu tôi có qua khỏi hay tôi còn sống được bao lâu nữa?” Bác sĩ thành thật nói với cô ta rằng ông cố gắng lắm chỉ giúp cô sống thêm được vài tiếng đồng hồ nữa thôi. Nghe nói thế, cô gái ôm mặt khóc nức nở và đau đớn thốt lên: “ Ôi muộn quá rồi”. Có lẽ rất nhiều người trong chúng ta cũng sẽ phải thốt lên câu này khi đối diện trước cái chết. Thánh Gioan Bosco vẫn tổ chức tĩnh tâm hàng tháng cho các học sinh và Ngài gọi đó là ‘Ngày dọn mình chết lành’. Đây không phải là một động thái mang tính tâm lý, nhưng là một việc thực hành trong đức tin. Chúa Giêsu cũng nói với chúng ta hôm nay: “Anh em hãy sẵn sàng vì chính lúc anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến.” ( Mt 24, 44 )
Chúng ta nhớ lại giai thoại về tướng quân Archais của Hy Lạp năm xưa. Ông là một vị tướng giỏi, đánh trận nào thắng trận đó. Sau một trận thắng lớn, ông khao quân lính một bữa tiệc thịnh soạn. Giữa cuộc vui, một sứ giả đem đến cho ông bức thư khẩn và báo tin là ông đang bị mưu sát để biết cách đề phòng. Thay vì mở thư ra đọc và cảnh giác, ông nhét thư vào túi, vẫn tiếp tục nhậu nhẹt và tự nhủ: “Thôi để mai hãy tính”. Ngay đêm đó, ông bị giết chết. Câu chuyện gợi nhắc sứ điệp mà các bài đọc Lời Chúa hôm nay mang chở. Những gì cần phải làm hôm nay, đừng để đến ngày mai.
Kết luận
Thánh Phanxico Salêsiô đã viết “Thời để sống là lúc chúng ta đi tìm kiếm Thiên Chúa. Thời để chết là lúc chúng ta đến gặp gỡ Ngài. Thời vĩnh cửu là lúc chúng ta sẽ chiếm hữu Ngài cách trọn vẹn”. Hôm nay chúng ta bắt đầu bước vào mùa vọng, một mùa vọng nhỏ trong một mùa vọng khác lớn hơn. Mùa vọng là thời gian chúng ta đi tìm kiếm Thiên Chúa và mong đợi Ngài đến. Chúa sẽ đến để đem ta đi vào vĩnh cửu trong sự hiệp thông và gắn kết trọn vẹn với Ngài. Nhưng, ngày mai bắt đầu từ ngày hôm nay. Trời mới và đất mới của ngày mai đang bắt đầu với cuộc sống hiện sinh của chúng ta tại đây và ngay bây giờ. Chúng ta sống làm sao thì sẽ chết như thế. Chúng ta hãy sống theo lời dạy của thánh Phaolô trong bài đọc 2 của phụng vụ hôm nay: “Anh em hãy ăn ở cho đúng đắn như người đang sống giữa ban ngày” (Rm 13,13). Sống giữa ban ngày là thời điểm có ánh sáng mặt trời soi chiếu. Xin ánh sáng của Đức Giêsu là mặt trời công chính luôn tỏa sáng trên tâm hồn mỗi người chúng ta.
28. Suy niệm, chú giải của Lm. Ignatiô Hồ Thông
Hằng năm, Phụng Vụ Lời Chúa khai mở viễn cảnh về thời tận thế và Triều Đại Thiên Chúa. Như vậy, ngay từ đầu, ý nghĩa được ban cho suốt lộ trình mà Giáo Hội dẫn chúng ta đi, kể từ việc chuẩn bị Lễ Giáng Sinh cho đến lễ Chúa Ki-tô Vua: một cuộc hành trình về Nước Thiên Chúa, về thế giới không tội lỗi, được các ngôn sứ loan báo và được Chúa Ki-tô hứa vào ngày Quang Lâm của Ngài.
Đó là thực tại tương lai, vận mệnh tối hậu của nhân loại, và đồng thời đó cũng là thực tại hiện nay mà mọi người cũng như mỗi người không ngừng xây dựng. Đó là bài học mà Chúa Nhật I Mùa Vọng này đề nghị cho chúng ta.
Is 2: 1-5
Bài Đọc I là sứ điệp của ngôn sứ I-sai-a, biểu dương ơn gọi của dân Ít-ra-en nói chung và của Giê-ru-sa-lem nói riêng: dạy cho muôn dân biết những đường lối dẫn đến Thiên Chúa chân thật, như vậy chuẩn bị triều đại công lý và hòa bình chung cuộc.
Rm 13: 11-14
Trong thư gửi cho các tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô khuyên các tín hữu phải ăn ở như con cái ánh sáng để chiến đấu chống lại tội lỗi, đó là cách thức duy nhất chuẩn bị cuộc gặp gỡ với Chúa Ki-tô.
Mt 24: 37-44
Trong đoạn trích Tin Mừng Mát-thêu hôm nay, từ bài diễn từ của Chúa Giê-su liên quan đến thời tận thế và ngày Quang Lâm của Ngài, Chúa Giê-su loan báo rằng việc Ngài trở lại hoàn toàn bất ngờ sẽ ấn định vĩnh viễn số phận của mỗi người. Vì thế, mỗi người phải sống trong tư thế sẵn sàng chờ đón Chúa đến, như ông Nô-ê bắt tay vào việc đóng con tàu, chuẩn bị sẵn sàng cho trận hồng thủy mà ông không biết ngày nào, giờ nào.
BÀI ĐỌC I (Is 2: 1-5)
Muôn dân nước lũ lượt kéo nhau lên “Nhà Đức Chúa” để được lắng nghe Lời Thiên Chúa. Đó là viễn tượng hùng vĩ mà Bài Đọc I đề nghị cho chúng ta để khai mạc Mùa Vọng cũng như chu trình Năm Phụng Vụ, Năm A này.
Sấm ngôn này được định vị ở đầu tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a (thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên); chúng ta cũng gặp thấy sấm ngôn này với một phiên bản và một phần thêm vào, trong tác phẩm của ngôn sứ Mi-kha (Mk 4: 1-5), cũng vào cùng thời với ngôn sứ I-sai-a. Vì thế, sấm ngôn này có thể xuất xứ từ một ngôn sứ vô danh trước đó; tuy nhiên, giọng văn mang âm hưởng của ngôn sứ I-sai-a.
1. Lời Chúa quy tụ muôn dân nước
Vị ngôn sứ thoáng thấy trong một tương lai xa, không được xác định, có thể kỷ nguyên Mê-si-a hay, xem ra có thể hơn, kỷ nguyên của thời sau hết, cuộc hành trình của muôn dân về “núi Nhà Đức Chúa”, ngọn đồi Xi-on trên đó tọa lạc “Nhà Thiên Chúa của Gia-cóp”. Tên Gia-cóp và tên Ít-ra-en được dùng thay cho nhau mà không phân biệt để chỉ tổ phụ của dân Chúa chọn (x. St 32: 29).
Chúng ta ghi nhận rằng vào đầu bài thơ của mình, vị ngôn sứ ngỏ lời với Giu-đa, tức là vương quốc Giu-đa mà Giê-ru-sa-lem là thủ đô; nhưng khi nêu lên Đền Thờ thì ông gọi “Nhà Thiên Chúa của Gia-cóp”, theo kiểu nói này tác giả khẳng định rằng Đền Thờ Giê-ru-sa-lem là Đền Thánh chung cho mọi chi tộc, trong khi chờ đợi là Đền Thờ chung cho muôn dân. Như vậy ông công bố sứ mạng hoàn vũ của Giê-ru-sa-lem; ông không nhấn mạnh các lễ tế được dâng tiến cho Thiên Chúa chân thật, nhưng lời xuất phát từ miệng Thiên Chúa, Lời Chúa phải là dấu chỉ của việc quy tụ và hiệp nhất mọi dân mọi nước. Tính siêu việt và uy thế tâm linh của Lời Chúa này được diễn tả bởi biểu tượng ngọn núi:
“Trong tương lai, núi Nhà Đức Chúa
đứng kiên cường vượt đỉnh các non cao”.
Vào thời sau hết, núi thánh Xi-on sẽ vươn mình lên cao hơn tất cả các đỉnh núi, tức là “các nơi cao” mà lương dân thường dùng làm nơi tế tự cho các thần linh của mình.
Muôn dân nước lũ lượt kéo nhau lên Đền Thờ Giê-ru-sa-lem không phải để chiêm ngưỡng cảnh huy hoàng tráng lệ của Đền Thờ, hay để dâng tiến lễ tế lên Thiên Chúa, nhưng để gặp gỡ Thiên Chúa và lắng nghe Lời Ngài phán dạy. Lời mặc khải của Ngài được ký thác cho Giê-ru-sa-lem:
“Vì từ Xi-on, thánh luật ban xuống,
từ Giê-ru-sa-lem, lời Đức Chúa phán truyền”.
Thánh luật được xem như Lời Thiên Chúa, như cách diễn tả sự khôn ngoan của Thiên Chúa:
“Để Người dạy ta biết lối của Người,
và để ta bước theo đường Người chỉ vẽ”.
Những hình ảnh “lối” và “đường” là từ vựng truyền thống của các sách Minh Triết và của các Thánh Vịnh, chẳng hạn như:
“Lạy Chúa, xin dạy con đường lối thánh chỉ,
con nguyện đi theo mãi đến cùng.
Xin cho con được trí thông minh
để vâng theo luật Ngài và hết lòng tuân giữ.
Trên đường mệnh lệnh Chúa, xin dẫn con đi,
vì con ưa thích đường lối đó” (Tv 119: 33-35).
2. Hậu cảnh lịch sử
Bất kỳ sấm ngôn nào đều có hậu cảnh lịch sử mà tầm nhìn của vị ngôn sứ vượt qua. Cũng vậy, Giê-ru-sa-lem phô bày một viễn cảnh về cuộc quy tụ đông đảo dân chúng vào những ngày đại lễ như lễ Vượt Qua, lễ Ngũ Tuần, lễ Lều. Người ta đặc biệt nghĩ đến lễ Lều vào mùa thu, lễ mang tính quần chúng như lễ thu hoạch mùa màng ở nơi các dân ngoại giáo, và vào ngày lễ này những khách ngoại kiều cư ngụ ở Giê-ru-sa-lem đều được quyền tham dự (Đnl 16: 14).
Bản văn gợi lên lời giải thích này: “Đến đây, ta cùng lên núi Đức Chúa”. Chính bằng những ngôn từ tương tự mà đám đông xướng lên những “bài thánh thi lên đền” khi cùng nhau tiến bước lên Đền Thánh (Tv 121, 122, 125, vân vân). Cũng vậy, lời khuyên bảo cuối cũng là lời mời gọi gia nhập vào đoàn rước:
“Hãy đến đây, nhà Gia-cóp hỡi,
ta cùng đi, nhờ ánh sáng Đức Chúa soi đường!”.
Thị kiến của vị ngôn sứ nhắm đến bên kia đám đông này; nó phóng chiếu lòng nhiệt thành của Ít-ra-en đối với Lề Luật vượt ra bên ngoài những biên giới của miền đất Pa-lét-tin; nó mở rộng thời gian cho đến giờ sau hết, giờ của niềm vui và bình an, thành quả sự công chính của Thiên Chúa. Chiều kích phổ quát của sứ mạng Giê-ru-sa-lem là đề tài sẽ được các môn đệ của vị ngôn sứ lập lại, như I-sai-a đệ nhị, vị ngôn sứ thời lưu đày:
“Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân,
để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất” (Is 49: 6).
3. Cung giọng thời Mê-si-a
“Người sẽ đứng làm trọng tài giữa các quốc gia
và phân xử cho muôn dân tộc.
Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày,
rèn giáo mác nên liềm nên hái”.
Sự kiện chiến tranh không còn nữa là một trong những biểu thị thời cánh chung; thường nhất, chính Thiên Chúa phá hủy những chiến cụ gây tang tóc cho con người (x. Hs 2: 20; Dcr 9: 10; Tv 46: 10). Ở đây, một khi nhân loại cùng tin nhận và tôn thờ một Thiên Chúa đích thật, thì lúc đó, sẽ phát sinh những tương quan mới mẻ giữa con người với nhau: không còn mâu thuẫn và đối kháng giữa người với người nữa. Và lúc ấy, chắc chắn sẽ không còn chiến tranh nữa, những vũ khí để giết hại lẫn nhau sẽ biến thành những dụng cụ để phục vụ và thăng tiến đời sống con người.
Những đường nét phác họa chân dung Đức Chúa cũng sẽ là những đường nét tiêu biểu Đấng Mê-si-a vương đế, chồi non Đa-vít, trong những viễn cảnh được ngôn sứ I-sai-a nhiều lần mô tả như ở chương 9:
“Người sẽ mở rộng quyền bính, và lập nền hòa bình vô tận
cho ngai vàng và vương quốc của vua Đa-vít.
Người sẽ làm vương quốc được kiên cố vững bền
trên nền tảng chính trực công minh,
từ nay cho đến mãi muôn đời” (Is 9: 6).
Ở chương 11, Đức Chúa nhiều lần công bố:
“Đến ngày đó, cội rễ Gie-sê sẽ đứng lên làm cờ hiệu cho các dân.
Các dân tộc sẽ tìm kiếm Người,
và nơi Người ngự sẽ rực rỡ vinh quang” (Is 11: 10).
Tất cả biểu tượng này được sử dụng nhất là trong khoa giáo lý phép rửa. Những người chịu phép rửa được gọi là “những người đã lãnh nhận ánh sáng”, “những người được ơn thần khải”.
4. Từ Giê-ru-sa-lem đến Giáo Hội
Giê-ru-sa-lem lý tưởng, mà vị ngôn sứ loan báo, tiên trưng Giê-ru-sa-lem trên trời mà muôn dân nước lũ lượt đưa nhau tới cho một cuộc tụ họp cánh chung vĩ đại, như sách Khải Huyền miêu tả (Kh 21: 24-26). Nhưng bài thơ này cũng giàu những linh cảm của các sách Tin Mừng. Theo thánh Mát-thêu, chính trên núi Ga-li-lê Chúa Giê-su công bố các Mối Phúc Thật vượt lên trên mọi lề luật của con người. Cũng theo tác giả Tin Mừng này, cũng chính trên núi Ga-li-lê Chúa Giê-su Phục Sinh gặp lại các môn đệ Ngài và truyền cho họ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28: 19-20).
Giáo Hội lại được ủy thác Lời Chúa. Giáo Hội có trách nhiệm truyền đạt sứ điệp Tin Mừng và đứng lên làm cờ hiệu tụ họp muôn dân nước.
BÀI ĐỌC II (Rm 13: 11-14)
Bản văn này được chọn vì nó minh họa tuyệt vời bản văn Tin Mừng hôm nay. Bức thư này Thánh Phao-lô viết cho các tín hữu Rô-ma, vào mùa xuân 57-58, chắc hẳn từ Cô-rin-tô.
1. Bối cảnh
Vị thừa sai không hề biết mệt mỏi này ôm ấp những dự định mới: viếng thăm Giáo Đoàn Rô-ma và sau đó đi loan báo Tin Mừng cho Tây Ban Nha. Thư của thánh nhân nhằm mục đích chuẩn bị cuộc hành trình của mình và cho sáng kiến của mình một phẩm chất: tư cách vị Tông Đồ của dân ngoại (Rm 1: 15). Thánh Phao-lô không có mối liên hệ nào với Giáo Đoàn Rô-ma: ngài đã không thiết lập Giáo Đoàn này, thật ra, người ta không biết gốc tích của Giáo Đoàn này và ai là người đã sáng lập Giáo Đoàn này. Thánh Phê-rô chắc chắn đã đến Giáo Đoàn này vào năm 60; thư thứ nhất của thánh nhân được viết từ Rô-ma.
Tuy nhiên, thánh Phao-lô có linh cảm lành ít dữ nhiều; thánh nhân phải đến Giê-ru-sa-lem, ở đó ngài biết rằng, ngài có những kẻ thù không đội trời chung với ngài. Những người Do thái không tha thứ cho ngài, vì đối với họ ngài là kẻ phản đạo và bêu xấu Lề Luật; thánh Phao-lô xin các tín hữu Rô-ma cầu nguyện cho ngài. Quả thật, sau đó thánh nhân bị bắt ở Giê-ru-sa-lem vào ngày lễ Ngũ Tuần năm 58, bị giam ở Xê-da-rê trong hai năm, sau đó bị dẫn độ đến Rô-ma. Chính trong cảnh xiềng xích mà thánh nhân tiếp xúc với Giáo Đoàn này mà ngài đã mong ước được quen biết.
Thư tín hữu Rô-ma cốt yếu là đạo lý. Hai chủ đề chính yếu được đề cập ở đây: cứu độ nhờ ân sủng và tương lai của dân Ít-ra-en. Đoạn trích hôm nay thuộc phần thứ hai của bức thư.
2. “Đã đến lúc phải tỉnh thức”
“Đã đến lúc anh em phải thức dậy… Đêm sắp tàn, ngày gần đến”. “Đêm” và “bóng tối” ám chỉ đến những hoạt động gian ác, tội lỗi, điều quan trọng là từ bỏ lối sống xưa của dân ngoại. “Ngày” và “ánh sáng” diễn tả thời kỳ cứu độ, đây là giai đoạn quyết liệt trong lịch sử thánh, được khai mào từ ngày Đức Ki-tô Phục Sinh. Thánh Phao-lô lấy lại những hình ảnh này trong thư gửi tín hữu Ê-phê-xô: “Xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ, trong Chúa, anh em lại là ánh sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng; mà ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật” (Ep 5: 8). Thánh nhân còn thêm câu trích dẫn: “Tỉnh giấc đi, hỡi người còn đang ngủ!” (Ep 5: 14).
Tất cả biểu tượng này được sử dụng nhất là trong khoa giáo lý phép rửa. Những người lãnh phép rửa được gọi “những người đã lãnh nhận ánh sáng”, “những người được ơn thần khải”.
3. Ngày cứu độ đã đến gần
“Vì hiện nay ngày Thiên Chúa cứu độ chúng ta đã gần hơn trước kia, khi chúng ta mới tin đạo”. Phải chăng thánh Phao-lô nghĩ rằng mỗi ngày người Ki-tô hữu tiến gần đến ngày Quang Lâm của Chúa Ki-tô? Không nhất thiết phải là như thế: công thức mà thánh Phao-lô dùng: “đêm sắp tàn, ngày đến gần” là diễn ngữ cánh chung của các sách khải huyền Do thái, để nói lên sự khẳng định chắc chắn hơn là kỳ hạn thời gian. Đối với thánh nhân, thời cứu độ không chỉ là kỷ nguyên trung gian phân cách cuộc Tử Nạn-Phục Sinh của Chúa Ki-tô với cuộc trở lại vinh quang của Ngài. Đây là thời gian mà mọi tín hữu phải nổ lực đáp trả ân sủng trong tiến trình cuộc sống hiện nay của mình. Trong một đoạn văn song song của Thư thứ hai gửi tín hữu Cô-rin-tô, thánh nhân giải thích rõ hơn tư tưởng của mình: “Vì được cộng tác với Thiên Chúa, chúng tôi khuyên nhủ anh em: anh em đã lãnh nhận ân huệ của Thiên Chúa, thì đừng để trở nên vô hiệu… Vậy đây là thời Thiên Chúa thi ân, đây là ngày Thiên Chúa cứu độ” (2Cr 6: 1-2). Có thể nói là thánh Phao-lô đã nội tâm hóa ngày Quang Lâm.
Thế nên, về vấn đề liên quan đến ngày Quang Lâm, thái độ của thánh Phao-lô đã có những bước tiến triển trong bức thư này. Trong hai bức thư gửi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, hai thư đầu tiên của thánh Phao-lô, thánh nhân phát biểu rõ rằng thánh nhân chia sẻ với thế hệ Ki-tô hữu tiên khởi niềm hy vọng về ngày Quang Lâm sắp đến gần, dù thời gian vẫn chưa được xác định, nhưng nay mai, ngay chính trong thời của họ. Trái lại, vào lúc thánh nhân viết thư gửi tín hữu Rô-ma, thánh nhân đã nghiền ngẫm một cách đau đớn về việc dân Ít-ra-en từ chối nhận ra Đức Giê-su là Đấng Mê-si-a; tuy nhiên, thánh nhân thâm tín rằng “con cái của Lời Hứa” một ngày kia sẽ đạt đến ơn cứu độ sau thời lương dân. Vì thế, thánh nhân lại đưa viễn cảnh ngày Chúa Ki-tô trở lại vào tương lai rất xa.
4. Cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu
Thánh Phao-lô nhiều lần diễn tả cuộc sống Ki-tô hữu như một cuộc chiến đấu trường kỳ chống lại sự ác; thánh nhân mượn từ vựng lúc thì ở lãnh vực thể thao, lúc thì ở lãnh vực quân sự như ở đây: “Chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu”. Kiểu nói “cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu” được dịch theo sát từ là: “mặc lấy áo giáp mà chiến đấu”. Chiếc áo giáp đảm bảo cuộc chiến thắng không gì khác hơn là chính Chúa Ki-tô: “Quả thật, bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Ki-tô, đều mặc lấy Đức Ki-tô” (Gl 3: 27), nghĩa là, người Ki-tô hữu phải nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô, nên một với Ngài trong mọi sự và mọi lúc, và gặp thấy ở nơi sự hiệp nhất này sức mạnh chiến thắng. Nói cách khác, những người Ki-tô hữu phải giữ vững tư thế chiến đấu như những người chiến sĩ can trường: mình mặc chiếc áo giáp của Chúa Ki-tô để chiến đấu, tức là để Ngài hành động trong chúng ta đến mức chúng ta có thể nói như thánh Phao-lô: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2: 20).
Cuộc chiến của con cái ánh sáng chống lại con cái bóng tối này xuất hiện rồi trong những bản văn trước Ki-tô giáo, như những bản văn Qumran làm chứng; một trong những thủ bản danh tiếng nhất của Biển Chết có nhan đề “luật cuộc chiến của con cái sự sáng chống lại con cái bóng tối”. Cuộc đối lập giữa ánh sáng và bóng tối cũng là một trong những đề tài đem lại cung giọng đầy kịch tính cho Tin Mừng Gioan.
5. Một đời sống mới
“Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày”, nghĩa là trong sự chiếu sáng kỷ nguyên mới này, tức là kỷ nguyên của ân sủng, thời đại của Chúa Thánh Thần. Vì thế, “đừng chiều theo tính xác thịt”, chữ “xác thịt” được hiểu theo sắc thái ngữ nghĩa sê-mít để chỉ những thử thách trần thế, những ham muốn của con người yếu đuối và vị kỷ.
Chúng ta đừng lấy làm ngạc nhiên về những thói hư tập xấu mà thánh nhân vạch mặt chỉ tên ở đây: chè chén say sưa, chơi bời dâm đãng, cãi cọ ghen tuông. Thật thích hợp để đặt những thói hư tật xấu này lại vào trong bầu khí phóng đãng của thành phố Cô-rin-tô và cũng như nghĩ rằng thánh Phao-lô viết bức thư này vào mùa đông, thời kỳ của những lễ hội ngoại giáo ở Hy-lạp cũng như ở Rô-ma. Thánh Lu-ca, môn đệ và bạn đồng hành của thánh Phao-lô, cũng đưa ra những huấn lệnh tương tự: “Vậy anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời…Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn” (Lc 21: 34-36).
TIN MỪNG (Mt 24: 37-44)
Ba Tin Mừng nhất lãm: Mát-thêu, Mác-cô và Lu-ca, đều định vị cuộc nói chuyện của Chúa về ngày tận thế và Quang Lâm vào sứ vụ sau cùng của Ngài ở Giê-ru-sa-lem, vài ngày trước cuộc Thương Khó của Ngài. Tại Lu-ca, cuộc nói chuyện này được nói công khai trước công chúng ngay trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem (Lc 21: 5-7); tại Mác-cô, cuộc nói chuyện này là cuộc trò chuyện riêng tư giữa thầy và vài môn đệ: Phê-rô, Gia-cô-bê, Gioan và An-rê, trên núi Ô-liu (Mc 13: 1-4). Tại Mát-thêu, Chúa Giê-su ngỏ lời với “các môn đệ Ngài”, chính xác là nhóm Mười Hai, quây quần chung quanh Ngài trên núi Ô-liu (Mt 24: 1-3). Đây là diễn từ cuối cùng trong năm diễn từ của Chúa Giê-su, được gọi là “diễn từ về thời cánh chung”.
1. Bối cảnh
Trước đó, Chúa Giê-su đã rời bỏ Đền Thờ Giê-ru-sa-lem và đang trên đường đến núi Ô-liu. Vào lúc này, các môn đệ Ngài chỉ cho Ngài xem công trình kiến trúc huy hoàng tráng lệ của Đền Thờ được vua Hê-rô-đê Cả cho xây dựng lại và sắp được hoàn tất (khởi công từ năm 19 trước Công Nguyên và hoàn thành vào năm 64 sau Công Nguyên, chỉ trong vòng sáu năm trước khi bị các đạo quân Rô-ma phá hủy thành bình địa vào năm 70). Chúa Giê-su trả lời cho họ “Anh em nhìn thấy tất cả những cái đó phải không? Thầy bảo thật anh em: tại đây, sẽ không còn tảng đá nào trên tảng đá nào; tất cả đều sẽ bị phá đổ” (Mt 24: 2).
Các Tông Đồ, vốn là những người Do thái mộ đạo, biết rằng họ sống điều gì mới, nhưng đồng thời chắc chắn cũng bị giao động bởi viễn cảnh này. Kinh ngạc, họ không thể không liên kết thảm họa như thế với ý tưởng về ngày tận thế. Khi đến núi Ô-liu, họ hỏi Chúa Giê-su: “Xin Thầy nói cho chúng con biết khi nào những sự việc ấy xảy ra, và cứ điểm nào mà biết ngày Thầy quang lâm và ngày tận thế?” (Mt 24: 3).
Sau khi đã nói cho họ liền một mạch về các ngôn sứ giả, các cuộc bách hại, cơn gian nan khốn khó tại Giê-ru-sa-lem và những nỗi truân chuyên của thời sau cùng, Chúa Giê-su đề cập đến ngày Quang Lâm của Ngài được phác họa bởi những đường nét của “việc Con Người ngự đến”. Đoạn Tin Mừng hôm nay (Mt 24: 37-44) được trích từ cuộc nói chuyện này từ câu 37, tuy nhiên phải bắt đầu từ câu 36 mới phải, bởi vì hai từ ngữ: “ngày và giờ” ở câu 36 được lập lại ở các câu 42-44 làm thành lối hành văn đóng khung và cho phân đoạn này một đơn vị thống nhất: câu 36 là phần khai đề, các câu 37-41 là phần triển khai, và các câu 42-44 là phần kết.
2. “Con Người”
Kiểu nói “Con Người” là đặc ngữ sê-mít, không có nghĩa gì khác ngoài một con người với điểm nhấn được đặt trên tính chất con người trần thế của mình: “một phàm nhân”. Kiểu nói này thường được ngôn sứ Ê-dê-ki-en sử dụng và cũng được gặp thấy ở nơi khác như Is 51: 12; G 25: 6; Tv 8: 5. Ví dụ như trong Ed 2: 1: “Hỡi con người, hãy đứng cho vững, Ta sắp nói với ngươi đây”, ở đây kiểu nói”con người” tương đương với đại từ “ngươi” để chỉ chính vị ngôn sứ, ông xem mình chỉ là một phàm nhân, qua ông Thiên Chúa sắp ký thác sứ điệp của Ngài cho dân Ngài.
Nhưng trong thị kiến của ngôn sứ Đa-ni-en, “Con Người” xuất thân từ thiên giới. Vị ngôn sứ mô tả ngày khải hoàn của các thánh dưới quyền thống trị của “Con Người” ngự giá mây trời mà đến và Thiên Chúa trao cho nhân vật này “quyền thống trị, vinh quang và vương vị; muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người. Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu, không bao giờ mai một; vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong” (Đn 7: 13-14).
Trong Tin Mừng, Chúa Giê-su thích dùng tước hiệu “Con Người” theo ngôn sứ Đa-ni-en để nói về chính mình. Khi thủ đắc tước hiệu này cho riêng mình, Chúa Giê-su diễn tả vừa tính siêu việt của mình vừa nhân tính mà Ngài dự phần vào, nhờ đó Ngài có thể mang lấy số phận của nhân loại; đồng thời phải hiểu rằng cuối cùng Ngài sẽ chiến thắng.
3. Lời mời gọi hãy sống trong tư thế sẵn sàng
Chúa Giê-su báo trước cho các môn đệ Ngài tính cách bất ngờ không thể đoán trước được của “ngày và giờ Con Người ngự đến”. Thiên hạ kinh ngạc như họ đã kinh ngạc khi trận hồng thủy bất ngờ ập đến.
Theo hình thức so sánh, Chúa Giê-su kêu gọi hãy luôn sống trong tư thế sẵn sàng chờ đón ngày Ngài trở lại. Vào thời ông Nô-ê, thiên hạ vẫn lo ăn uống, cưới vợ lấy chồng, chơi bời phóng túng trong cuộc sống thường ngày mà không một chút bận lòng đến ngày phán xét của Thiên Chúa, mãi cho đến ngày ông Nô-ê vào tàu mà vẫn không hay biết gì về tai họa sắp ập xuống trên họ. Việc Chúa Ki-tô trở lại để xét xử thế gian cũng xảy ra một cách đột ngột bất ngờ như thế: những người này “được đem đi” để vui hưởng hạnh phúc Nước Trời, những người khác “bị bỏ lại” để chịu án phạt. Hai người ở cùng một chỗ, làm cùng một việc, có thể có những số phận khác nhau. Ở đây đừng hiểu các con số này theo toán học, bằng không, chúng ta có thể tin rằng chỉ một nữa nhân loại sẽ được cứu. Đây là kiểu nói đối ngẫu sê-mít: chúng ta gặp lại kiểu nói này ở nơi dụ ngôn về năm cô trinh nữ khờ dại và năm cô trinh nữ khôn ngoan.
Việc so sánh theo sau cũng nhắm đến sự mê muội này: giả như chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông đã tỉnh thức. Đó cũng là lời khuyên bảo của thánh Phao-lô gửi cho các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca: “Thưa anh em, về ngày giờ và thời kỳ Chúa đến, anh em không cần ai viết cho anh em. Vì chính anh em đã biết rõ: ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm” (1Tx 5: 1-2).
Các môn đệ là những người duy nhất lắng nghe những lời này. Vì thế, từ nay đây sẽ là công việc của các ông: phá vỡ sự mê muội của con người và loan báo ơn cứu độ. Như vậy, cái bất ngờ của ngày Chúa đến không phải là không được báo trước, nhưng chính vì thái độ vô tâm mê muội của con người: cố chấp, nhắm mắt bịt tai trước lời cảnh giác của Ngài, lời ấy vẫn hằng vang lên trong Giáo Hội của Ngài.
Chúng ta không thể không liên tưởng đến vài ngày sau đó, hầu như cùng một nơi chốn, trong vườn Ô-liu, Chúa Giê-su sẽ nói với cũng chính các môn đệ này đến hai lần: “Anh em hãy canh thức và cầu nguyện…”, còn họ thì cứ ngủ mê miệt không sao mở mắt nổi.
29. Suy niệm của Ủy Ban Kinh Thánh--HĐGMVN
(http://www.kinhthanhvn.org)
Đức Giêsu đã đến xưa kia, sẽ đến vào ngày Quang Lâm và vẫn đang đến mỗi ngày. Cần biết đón tiếp Người đến dưới bất cứ dạng nào.
Năm Phụng vụ mới lại bắt đầu bằng Mùa Vọng với tâm tình chuẩn bị, đón chờ ngày Chúa đến: Chúa đến trong ngày lễ Giáng Sinh sắp tới, nhưng căn bản là ngày Chúa quang lâm: Chúa sẽ trở lại trong vinh quang vào ngày thế tận, như lời tuyên xưng hằng ngày trong Thánh lễ: Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa lại đến.
1. Israel mong chờ Đấng Thiên Sai (Messia)
Do-Thái, dân tuyển chọn, lúc ấy đang sống trong thời kỳ bi thảm về chính trị, xã hội lẫn tôn giáo. Phương Bắc đã hoàn toàn bị đế quốc Assyri tiêu diệt (721), Phương Nam, tức đất nước Giuđa, sống dưới sức ép của đế quốc Babylone đang hăm he thôn tính. Xã hội đầy những bất công, áp bức và chèn ép: người giàu cứ phè phỡn hưởng thụ trong khi dân nghèo bị bỏ rơi và khốn khổ. Tôn giáo lỏng lẻo, pha trộn, vụ hình thức. Chính trong thời buổi nhiễu nhương và thất vọng ấy, sấm ngôn Nathan (2S 7,14) về việc Thiên Chúa hứa sẽ bảo đảm cho vương triều Đavít được miên trường khơi dậy trong lòng người nỗi mong chờ một vị Thiên Sai thuộc dòng tộc Đavít xuất hiện để giải cứu và phục hưng đất nước. Ngôn sứ Isaia cổ võ thêm cho sự mong chờ ấy bằng lời sấm đầy tràn hy vọng về đấng Emmanuel: “Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai và hạ sinh một con trai, đặt tên là Emmanuel” (Is 7,14). Vị ngôn sứ còn loan báo một cuộc hành hương vĩ đại vào thời thiên sai: mọi dân nước trên mặt đất sẽ tiến về Giêrusalem, tập trung quanh Israel, để nhận biết và phụng thờ Giavê (Is 2,2-5; x. Mk 4,1-5). Niềm hy vọng vội tan biến khi Israel bị Babylone xâm lăng và bị lưu đày (587). Nếu trước đây Thiên Chúa đã giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai-Cập, giờ đây Người lại giải thoát họ khỏi cảnh lưu đày để họ được hồi hương tái thiết Đền Thờ và đất nước. Một lần nữa, hy vọng lại dâng cao với sự mong chờ vị Thiên Sai Ngôn sứ mà trước đây Môsê đã từng loan báo (Đnl 18,18). Đấng Thiên Sai Ngôn sứ này là người Tôi trung của Giavê mà Isaia II đã phác hoạ là người được Thiên Chúa tuyển chọn và ban tràn đầy Thần Khí, sẽ phải chịu nhiều đau khổ và chịu chết để cứu độ dân Người. Hy vọng và mong chờ vẫn kéo dài cho đến lúc người ta lại chuyển sang việc mong đợi Con Người, một nhân vật thiên quốc mà Daniel mô tả là Đấng ngồi bên hữu Thiên Chúa, được Thiên Chúa trao cho toàn quyền chung thẩm nhân loại (Dn 7,13-14). Trong từng giai đoạn, Israel lại mong chờ vị Thiên Sai cứu tinh. Niềm hy vọng mong chờ đó đã nâng đỡ dân trong suốt thời kỳ đầy thảm hoạ. Sống là hy vọng và mong chờ. Suốt thời kỳ đầu của Giáo Hội tiên khởi, giữa trăm chiều thử thách, các tín hữu hằng mong chờ ngày Chúa trở lại và tha thiết kêu xin: Maranatha, lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến!
2. Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai đã đến hoàn tất niềm mong đợi Cựu Ước
Giữa lúc nhân loại đang chìm sâu trong đêm tối của lầm lạc và tội lỗi, khát mong ơn cứu độ. Khi Israel đang mòn mỏi mong chờ vị Thiên sai đến giải thoát. Một vì sao sáng xé ngang màn đêm. Ánh sáng xuất hiện. Thiên Chúa đã nhập thể đến giữa loài người, mang tên gọi Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta (Mt 1,23). Loài người khát khao cứu độ, nhưng nhận biết mình hoàn toàn bất lực, chỉ còn biết trông đợi ở Chúa. Con người không thể lên được với Thiên Chúa thì Thiên Chúa lại xuống với con người. Thánh Gioan viết: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Người Con một ấy chính là Ngôi Lời vĩnh cữu đã trở nên người phàm (Ga 1,1.14), sinh bởi một người nữ và sống dưới Lề Luật để cứu những ai đang sống dưới Lề Luật, hầu cho họ được ơn làm nghĩa tử (Gl 4,4-5). Đó là lần thứ nhất Thiên Chúa xuống trong lịch sử mà ta vui mừng tưởng niệm trong ngày lễ Giáng Sinh. Lễ Giáng Sinh sắp đến, hãy chuẩn bị tâm hồn để đón nhận Chúa đến với ta, mang niềm vui, an bình và cứu độ.
3. Hướng về ngày Quang Lâm
Tưởng niệm không phải chỉ là một hoài niệm quá khứ, nhưng căn bản là hiện tại hoá việc Chúa đến hôm nay trong mỗi giây phút cuộc sống và nhất là hướng lòng về ngày Chúa quang lâm khi niên cùng nguyệt tận để phán xét toàn nhân loại. Lúc ấy Người sẽ phân định sự sống đời đời cho những người lành và án phạt muôn đời cho những kẻ dữ là những ai khi sống nơi dương thế đã chối từ Thiên Chúa để đặt mình dưới quyền thống trị của ma quỷ và tội lỗi.
Ngày Chúa quang lâm thật bất ngờ, không ai biết trước được sẽ xảy đến lúc nào. Vì thế, Chúa dạy phải sẵn sàng tỉnh thức như người đầy tớ khôn ngoan chờ đợi chủ về vào lúc đêm khuya, hoặc như các trinh nữ khôn ngoan chờ đợi chàng rễ đến chậm, như người quản gia trung tín luôn biết chu toàn bổn phận khi chủ vắng nhà. “Hãy cầm đèn cháy sáng trong tay và hãy thắt lưng như người chờ đợi chủ về ”. Hình ảnh Hồng thuỷ và Sôđôma luôn là một cảnh tỉnh con người trong cuộc sống cần biết hướng về ngày thế tận, chứ không phải sống như thể trần gian và hiện tại là tất cả. Cuộc sống hiện tại là một chuẩn bị và xác định cho định mệnh cuối cùng. Chúa Giêsu đã có lần cảnh cáo qua dụ ngôn người giàu khờ dại: “Không phải sự sung túc của cải đời này đảm bảo hạnh phúc đời đời” (Lc 12,15). Thánh Phaolô khuyên: “Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Hãy loại bỏ mọi hành vi ám muội và mang lấy khí giới ánh sáng để chiến đấu...” (Rm 13,11-14).
4. Chúa vẫn đến mỗi ngày
Ngày Quang Lâm vào lúc thế tận sẽ rất bất ngờ. Sự chuẩn bị sẵn sàng được xác định qua tư cách biết đón Chúa đến mỗi ngày trong cuộc sống hiện tại. Sách Khải huyền viết: “Phúc cho ai chết trong ân nghĩa của Chúa”. Nhưng để chết trong ân nghĩa thì phải biết sống trong ân nghĩa. Chúa đứng ngoài cửa và gõ; ai sẵn lòng mở, Người sẽ vào và dự bàn tiệc với người ấy.
- Chúa đến và đối thoại với ta trong Kinh Thánh. Hãy biết lắng nghe, suy niệm và thực hành Lời Chúa.
- Chúa đến và ở giữa chúng ta trong Thánh Thể bằng tất cả tình yêu tự hiến, và trở nên Bánh hằng sống nuôi dưỡng ta trên bước đường lữ thứ tiến về nhà Cha. Hãy siêng năng tham dự thánh lễ và rước lễ, hãy chiêm ngắm, tôn thờ và sống bí tích Thánh Thể.
- Chúa đến trong anh em: “Sự gì các ngươi làm cho một anh em bé mọn là làm cho chính Ta” (Mt 25,40). Trọn cuộc đời trần thế của Chúa Giêsu là yêu thương và phục vụ hết tình và hết mình. Người đã rửa chân cho các môn đệ trong bữa Tiệc ly như mẫu gương của sự phục vụ khiêm tốn và vô vị lợi (Ga 13,14-15). Người đã yêu thương đến tận cùng, đến chết trên thập giá. Hãy sống yêu thương và phục vụ vì đó là lề luật quan trọng nhất và là dấu chỉ của người môn đệ Chúa Giêsu (Ga 13,34-35).
30. Người sẽ đến--Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến
Đoạn tin mừng được chia làm hai 24,37-41 và 24,42-44, có chủ đề chung với đoạn trước và sau nó là không ai biết khi nào Con Người sẽ đến. Chủ đề nầy nói về “Ngày” của Con Thiên Chúa (24,36; x. 24,37.28[2x].42.44 “giờ”.50). Trong đoạn nầy Mathêô đưa ra các minh hoạ (24,39-41) và dụ ngôn kẻ trộm (24,42-44). Chúa Giêsu đã loan báo ngày Con Người sẽ đến trong quyền năng và vinh quang. Trong ngày ấy các thiên thần sẽ được sai đi qui tụ những người được tuyển chọn khắp mặt đất (24,30). Ngày Con Người đến liên quan đến từng người; như thế, mỗi người phải sống sao để ngày ấy đến không trở nên tai họa cho mình.
Không ai biết ngày giờ Người đến (24,39-41). Đoạn nầy gồm so sánh ngày Người đến với tai họa lụt hồng thủy vào thời Nôê (24,37-39); sự chọn lọc (24,40-41). “Con Người” đóng khung đoạn nầy (cc. 37.39).
Mathêô dùng “hospēr gar” “vì cũng như” để so sánh ngày Nôê vào tàu tương tự ngày Con Người đến (cc. 37.41). Ông nhấn mạnh sự không hay biết của con người về ngày ấy; cũng thế ngày Con Người đến (parousia). Trước lụt đại hồng thủy dân chúng chỉ biết ăn uống, cưới vợ lấy chồng (c. 38); các động từ nầy ở thể phân từ hiện tại chỉ sinh hoạt thường nhật của họ. Họ chẳng hay biết ngày Nôê vào tàu, và cuộc sống của họ đã không thay đổi. Lụt đại hồng thủy ập đến và cuốn họ đi mất (Kn 6,5-24). Sự hủy diệt nầy sẽ được ám chỉ trong câu 24,44. Ngày Chúa đến (parousia) được ví như lụt đại hồng thủy ấy (kataklysmos). Parousia chỉ việc Chúa đến (c. 39); đó cũng là lúc tận cùng của vũ trụ nầy (24,3.27). Chúa chưa đến, nhưng ngày ấy đã được loan báo. Đừng để ngày ấy trở nên tai hoạ cho mình vì không biết.
Mathêô tiếp tục nói đến hành động của Thiên Chúa trong ngày Người đến (24,40-41). “Tote”, trạng từ chỉ thời gian “bấy giờ” (c. 40), liên kết với đoạn lúc Con Người đến (c. 39b). Hình ảnh làm ruộng vườn và xay bột chỉ công việc thường ngày. Hai người cùng làm một việc giống nhau có nghĩa là nhìn từ bê ngoài không thấy có sự phân biệt nào giữa họ. Tuy nhiên, khi ngày của Chúa đến, Người sẽ đem một người đi, và để lại một người. Hai động từ “đem đi”, paralambanō, và để lại”, aphiēmi, đối nghịch nhau hoàn toàn. Paralambanō liên hệ đến sự tuyển chọn của Thiên Chúa (x. 24,31); trong khi aphiēmi liên hệ đến cái chết (x. 22,25). Như thế, khi Chúa đến, Người sẽ phân biệt cách rõ ràng ai được chọn và ai không được chọn. Cũng như chỉ khi lụt hồng thủy đến, người ta mới biết Nôê và gia đình ông được cứu, trong khi những người khác bị tiêu diệt.
Đoạn 24,42-44 là một trong hai dụ ngôn làm thành một đơn vị (24,42-51), nói về thái độ tỉnh thức phải có trước việc Người đến. Đoạn nầy dùng dụ ngôn về kẻ trộm, gồm: -mệnh lệnh “Hãy tỉnh thức” (c. 42); tính tương tự của việc kẻ trộm đến (c. 43); áp dụng (c. 44). Động từ “biết” ở thể phủ định đều có mặt trong cả ba câu 42.43.44. Chúa muốn nhấn mạnh lần nữa con người chẳng biết gì về ngày Người đến; nên phải tỉnh thức.
Dụ ngôn bắt đầu với mệnh lệnh “Hãy tỉnh thức” (c. 42). Mệnh lệnh nầy được dùng bốn lần, và chia hai trong hai tình huống khác nhau: một là lời loan báo Chúa sẽ đến (24,42; 25,13); hai là trong vườn Cây Dầu (26,38.41). Tỉnh thức theo nghĩa đen là không ngủ (x. 26,38); nghĩa bóng là canh chừng và chú ý để tránh khỏi tai họa ập tới như dụ ngôn kẻ trộm nầy; hay tránh khỏi cám dỗ (26,41). Trong cả hai trường hợp, tỉnh thức là bảo vệ chính mình được an toàn và giữ được thông hiệp với Thiên Chúa.
Hình ảnh kẻ trộm gắn liền với “đột nhập” và “ăn trộm” (6,19.20). Sự nguy hiểm của kẻ trộm, đột nhập và lấy đi của cải, rất lớn đến nỗi Chúa Giêsu khuyên phải tích trữ của cải trên trời, chứ không dưới đất. Kẻ trộm chỉ có thể lấy trộm nếu không ai biết. Ở đây dù chủ nhà đã biết kẻ trộm sẽ vào, ông vẫn phải tỉnh thức để của cải không bị lấy đi (c. 43). Vậy người môn đệ càng phải tỉnh thức hơn, vì họ không biết ngày giờ Người đến (c. 44). Động từ “dokeō” có nghĩa là “nghĩ”, “tưởng”. Con Người không đến vào ngày giờ người môn đệ nghĩ đến.
Chúa đã đến và vẫn đến mỗi ngày. Mùa Vọng chúng ta trông chờ Người hay Người trông chờ chúng ta? Người đến và trông chờ chúng ta mở lòng ra đón tiếp Người.
31. Niềm vui bất ngờ--”Như Thầy Đã Yêu”--Thiên Phúc
Tại chùa Tô châu, có một nhà sư tên là Viên Phủ Trung, tu hành đắc đạo, nhà sư thường bày trên án thư, trước chỗ ngồi, một cái quan tài con bằng gỗ bạch đàn, dài độ 5 tấc, có một cái nắp đậy mở được.
Khách đến chơi trông thấy cười nói rằng:
- Ngài chế ra cái này dùng để làm gì?
Vị sư trả lời:
- Người ta sống tất có chết, mà chết thì vào ngay cái này. Ta thực lấy làm lạ: người đời ai ai cũng chỉ biết có phú quý, công danh, tài sắc thị hiếu lo buồn vất vả suốt đời, chẳng biết cái chết là gì.
Như ta đây, mỗi khi có việc không được như ý, ta cầm lấy cái này mà ngắm xem, là tức khắc trong lòng được yên ổn, mà muôn nghìn sự tư lự đều biến tan đi.
***
Mới đây nhất ngày 8 tháng 11 năm 2013 người Phi Luật Tân đã bị siêu bão Haiyen quét đi biết bao nhà cửa, nhân mạng chết hay bị thương. Hầu như tất cả mọi người không thể ngờ hay biết trước siêu bão sẽ đến như thế nào! Hay tại tiểu bang Lousiana Hoa Kỳ năm 2005 với cơn bão Katrina tràn ngập nước bùn biết bao nhà cửa hư hỏng mặc dù con số tử vong không có bao nhiêu người, nhưng tổn thất rất là nặng nề.
***
Nhà sư Viên Phủy Trung quả là một con người biết tỉnh thức:
Tỉnh thức là biết nhìn xa trông rộng; nhìn tới cùng đích của kiếp người là cái chết, trông đến mục tiêu của nhân sinh là Nước Trời.
Tỉnh thức là biết lo trước nghĩ xa, vì không lo xa ắt có buồn gần. Bỏ cái lợi nhỏ trước mắt để được cái lợi lớn ở tương lai.
Tỉnh thức là biết phải hành động tốt đẹp cho hôm nay, để chờ đón bao phúc lộc, vạn hạnh cho ngày mai.
“Anh em hãy tỉnh thức vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em sẽ đến” (Mt 24,42).
Tỉnh thức để chờ đón Chúa đến thì còn gì vui sướng hơn. Tỉnh thức để chuẩn bị cho cuộc hạnh ngộ thì còn gì hạnh phúc bằng. Tuy nhiên, con người lại hay mê ngủ: tinh thần thì mau mắn nhưng xác thịt lại nặng nề.
Sợ rằng khi Chúa đến họ lại chẳng đủ sức để tỉnh thức ra đón Người. Thấu hiểu thân phận yếu của con người nên Chúa đã khuyên dạy: “Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ thì Con Người sẽ đến” (Mt 24,44).
“Lúc Con Người đến” chính là ngày tận thế, ngày Chúa quang lâm, và cũng chính là giờ chết của mỗi người. Ngày ấy chắc chắn phải đến, nhưng thật trớ trêu là nó lại đến một cách bất ngờ: bất ngờ như biến cố đại hồng thủy thời ông Noe, bất ngờ như kẻ trộm đêm khuya đột kích vào nhà. Chẳng bao giờ kẻ trộm gọi điện thoại báo trước giờ nó đến, vì vũ khí của hắn là sự bất ngờ. Chỉ có một cách duy nhất để tai họa khỏi chộp xuống đầu chúng ta như “tiếng sấm đánh không kịp bịt tai”, là chúng ta luôn tỉnh thức và sẵn sàng trong ơn nghĩa Chúa.
Con người có một nhược điểm hết sức phổ biến, là luôn cho rằng vẫn còn ngày mai để chuẩn bị, còn ngày mai để sám hối ăn năn, còn ngày mai để thay đổi nếp sống. Nhưng có một kinh nghiệm hết sức chua xót đã từng đổ ập xuống bao người là ngày mai ấy không bao giờ trở lại. Chần chừ, khất lần chính là cơn cám dỗ hiểm độc nhất của ma quỉ. Xin đừng để quá muộn! Muốn vậy hãy tỉnh thức và đợi chờ.
Mùa vọng là mùa của đợi chờ:
Không phải đợi chờ trong mỏi mòn, day dứt khôn nguôi nhưng là đợi chờ trong niềm hy vọng.
Không phải đợi chờ mà không làm gì cả, nhưng là làm việc trong đợi chờ.
Không phải đợi chờ một ai đó, nhưng là đợi chờ chính Con Thiên Chúa.
Chờ đợi như thế chính là tỉnh thức, là sẵn sàng, là mở đường về tới Nước Trời.
Chờ đợi như thế chính là chung tay xây dựng một thế giới công bằng và yêu thương, an vui và hạnh phúc.
Chờ đợi như thế thì ngày Chúa đến không còn là bất ngờ đáng sợ, nhưng lại là niềm vui bất ngờ.
Vui vì Chúa chúng ta đã toàn thắng vinh quang.
Vui vì bao con người được ơn cứu rỗi.
Vui vì vũ trụ này đã được giải thoát.
Vui vì “trời mới đất mới” sẽ mở ra, dẫn đưa chúng ta vào nơi vinh phúc.
***
Lạy Chúa Giêsu, trong khi chúng con chuẩn bị mừng ky niệm Chúa đến lần thứ nhất, và mong chờ Chúa sẽ đến lần thứ hai , xin cho chúng con luôn tỉnh thức để nhận ra biết bao lần Chúa đến với chúng con nơi dung mạo những anh chị em nghèo khổ, bệnh tật, bị bỏ rơi, để ngày Chúa đến sẽ là một ngày hội vui cho tất cả mọi người. Amen.
32. Tỉnh để chờ--Anmai
Chắc ai trong chúng ta cũng đã hơn một lần chờ xe, chờ đò, chờ máy bay...
Kỷ niệm lại về khi nhớ về ngày xưa ở vùng ven biển. Muốn đến nơi cần đến phải qua 2 chuyến phà. Chuyến phà thứ nhất ngày xưa như thế này, vì sợ hao xăng hao dầu nên chạy cầm chừng và rồi những chuyến đò ngang được cập bến phà để chở thêm người ngoài, vừa nhanh vừa tiện. Thế nhưng từ khi báo động đến mức nguy hiểm khi dùng đò ngang đi qua đoạn sông hơn một cây số thì tất cả đò ngang đều bị cấm, Thế là chỉ còn phương tiện duy nhất là phà. Nếu tạm gọi là may mắn vừa chuyến phà thì kịp lên, bằng không thì đành phải đợi. Hôm nào rơi vào ngày Tết ngày Lễ thì lượng người đi tăng gấp đôi ba lần. Như vậy thì chỉ đành chờ và chờ. Tâm trạng người chờ thì lúc nào cũng sốt ruột không biết khi nào đò sang để qua bờ bên kia.
Chờ đò là như thế, chờ xe cũng chẳng khác gì. Vài lần, anh em đi chung với nhau nhưng chẳng hiểu sao có vài anh ngủ quên cả dậy nên xe đã lăn bánh. Thế là lọ mọ dậy và chỉ còn cách duy nhất là ra bến để tìm phương tiện đến nơi cần đến.
Chỉ cần mất tỉnh thức một chút thì lỡ chuyến xe và lỡ chuyến đó. Chuyện này hết sức thực tiễn trong cuộc đời con người.
Mới đây thôi, từ Phát Diệm về Hà Nội để về lại Sài Gòn làm tôi phải sôi ruột. Cơm trễ, 1 giờ trưa khởi hành về Hà Nội, trong khi đó chuyến bay về lại Sài Gòn cất cánh lúc 5 giờ. Quán ăn từ Phát Diệm về Hà Nội khoảng hơn tám mươi cây số nhưng sợ cảnh kẹt xe. 3 giờ kém xe về đến quận Đống Đa. Chờ 10 phút, xe đưa tôi vào sân bay. Vừa ra đường Nguyễn Lương Bằng thì chuyện không mong nó vẫn đến là kẹt xe. Xe này nối xe kia một hàng dài. Thoát khỏi cảnh kẹt xe, tài xế biết gần đến giờ bay nên tăng tốc. Đến sân bay thì hỡi ôi một hàng dài đang chờ để Hải Quan kiểm tra. Đến lượt mình cũng là người cuối cùng bước chân vào máy bay. Một tí nữa coi như phải ở lại Hà Nội để chờ đến ngày mai mới được vào Sài Gòn. Một hành trình đầy kinh hãi!
Ngày hôm nay, bước vào Chúa nhật đầu tiên của mùa Vọng. Sống tâm tình mùa Vọng là chờ mong, đợi chờ Thiên Chúa đến trong cuộc đời chúng ta.
Chúa Giêsu ngày hôm nay mời gọi các môn đệ cũng chính là mời chúng ta sống tâm tình tỉnh thức để đợi Chúa đến.
Trong tâm tình nhắc nhở này, Chúa Giêsu nhắc lại hình ảnh của gia đình ông Nôê ở Cựu Ước. Được báo là sẽ có một trận lụt hồng thủy đến trên mặt đất này để rồi ông Nôê và gia đình ông chuẩn bị đóng một con tàu thật lớn để lên đó tránh lụt. Như lời tiên báo căn dặn, ông đã làm tất cả những gì cần thiết và sẵn sàng để "đối phó" với cơn đại hồng thủy sắp đến. Trong khi đó, những người khác cùng sống cùng thời với ông vẫn cứ vui vẻ để sống chứ không hề bận tâm chuyện gì cả.
Chuyện gì đến sẽ đến. Như trong lời báo, nước ngày mỗi ngày một dâng cao. Và, dĩ nhiên là những ai lên tàu, thậm chí súc vật mới được sống sót sau trận lụt hồng thủy kinh hoàng.
Chuyện hồng thủy trong đời ông Nôê cũng chỉ là cảnh lụt lội. Sau cơn mưa trời lại sáng, sau bão lũ thì mọi sự cũng sẽ trở lại bình thường và con người số gắng lao nhọc để kiếm sống từ hai bàn tay trắng. Dù phải làm lại từ đầu, dù phải xuất phát điểm từ hai bàn tây trắng nhưng con người còn có cơ hội sống để làm lại từ đầu. Những người thời ông Nôê bị cơn lụt cuốn trôi thì muốn làm lại từ đầu như gia đình ông Nôê cũng không làm được vì tất cả đã chết.
Sao bão tố, sau thiên tai con người còn có thể sống. Như những nạn nhân trong cơn bão dữ để đời ở Philippines là một bằng chứng hết sức cụ thể. Còn lại 5 người gia đình người Việt sống trong vùng tâm bão sống sót. Những người này rơi vào cảnh hai bàn tay trắng và phải làm lại từ đầu. Giờ này, họ cũng chẳng mong gì khác ngoài thực phẩm để cứu sống họ sau những ngày tan thương này chứ cũng chưa nghĩ rằng phải vực lại nền kinh tế như xưa. 5 người này may mắn hơn cả ngàn người khác vì họ đã qua đi ngay khi bão đến.
Cuộc đời mỗi người chúng ta cũng thế, chúng ta không chỉ là được báo trước như ông Nôê hay dự báo bão dữ như những cơn bão năm này qua năm khác ập đến. Không phải báo trước mà là thân phận con người đến một ngày nào cũng phải kết thúc.
Chúa Giêsu nói thẳng chứ không mấp mé, không hoa mỹ, không gợi hình gợi ý gì cả. Chúa Giêsu nói thẳng luôn là trong khi hai người đang xay bột thì có một người bị đem đi và một người ở lại, có người đang trồng lúa thì cũng sẽ một người được ở lại.
Chân lý này không ai có thể phủ nhận được vì lẽ ngày mỗi ngày đều diễn ra cái sự thật này, cái chân lý này.
Nếu đến Từ Dũ, chúng ta sẽ thấy nhiều và thật nhiều bà mẹ đang quằn quại trong cơn đau để sinh hạ đứa con yêu của mình. Và, nếu chúng ta đến Đa Phước hay Bình Hưng Hòa, chúng ta sẽ bắt gặp đoàn xe tang nối đuôi nhau đưa người quá cố lên đài hỏa táng. Nhìn như thế, gặp như thế và rồi một ngày nào đó ta cũng như thế chứ không sai.
Chúa Giêsu, trong tâm tình giờ người làm ruộng và người xay bột bị mang đi đó, mời gọi con người, mỗi người, nhất là những người có niềm tin phải tỉnh tức.
Chuyện quan trọng nhất của đời người đó là tỉnh thức. Lý do để chúng ta luôn canh thức là “vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em sẽ đến”. Sự kiện Chúa sẽ đến trong cuộc quang lâm là một thực tại chắc chắn, nhưng đồng thời đó cũng là một thực tại sẽ xảy đến hoàn toàn bất ngờ, vượt ra bên ngoài những dự đoán hay hiểu biết chính xác của con người.
Ngày mỗi ngày, chúng ta vẫn “xay bột”, vẫn “làm ruộng”, tức là vẫn sống trong các thực tại bình thường hằng ngày của cuộc sống con người, nhưng bên trong phải là một sự canh thức đích thực, tức là một sự tham dự thật sự vào số phận và mầu nhiệm của Đức Giêsu. Đó mới là điều quan trọng.
Để minh họa cho tính chất bất ngờ đó của cuộc quang lâm, Chúa Giêsu kể dụ ngôn kẻ trộm đêm khuya: “Anh em hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm đến, hẳn ông đã canh thức, không để nó khoét vách nhà mình” (24, 43). Tân Ước vẫn thường dùng hình ảnh kẻ trộm để nói về tính chất bất ngờ của ngày Chúa đến (1 Tx 5,2; 2Pr 3,10; Kh 3,3; 16,15). Vì tính chất bất ngờ này, các đồ đệ của Chúa được yêu cầu phải luôn luôn hiện diện trong tư thế sẵn sàng đối diện với biến cố đó (c.44), tức là luôn hiện diện một cách tròn đầy trong từng phút giây hiện tại trong sự liên kết mật thiết với cuộc vượt qua của chính Đức Kitô Giêsu. Cuộc quang lâm của Chúa là biến có cứu độ, vì Ngài ngự đến để tập hợp những người được tuyển chọn ( 24, 31), và khi ấy, “kẻ nào bền chí đến cùng kẻ ấy sẽ được cứu độ” (24, 13).
Chúa Giêsu kết luận: “Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em sẽ đến. Anh em hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm đến, hẳn ông đã canh thức, không để nó khoét vách nhà mình.44 Cho nên anh em cũng vậy, hãy sẵn sàng, vì vào chính giờ phút anh em không ngờ, Con Người sẽ đến” (Mt 24.42-44).
Căn cốt của trang Tin Mừng hôm nay là động từ “canh thức” trong câu 42. "Canh thức" có nghĩa là không ngủ, là tỉnh thức. Động từ này xuất hiện trong trình thuật về Chúa Giêsu trong vườn Dầu (26, 38.40.41). Nó diễn tả sự liên đới và đồng nhất hóa với cái chết mà Chúa Giêsu trải qua trong chiều sâu kinh hoàng thật sự của cái chết cứu độ đó. Vậy đây không chỉ là sự không mê ngủ, mà còn là sự nên một với Chúa Giêsu trong mầu nhiệm vượt qua của Ngài. Đây chính là tâm tình lời mời gọi của Chúa Giêsu mời các môn sinh của Ngài cũng như mời gọi mỗi người chúng ta: “Anh em hãy canh thức”.
"Canh thức" như Chúa Giêsu mời gọi có nghĩa là ngồi đó thức và chờ đợi chứ không làm gì cả. Thái độ, tâm tình như thế là tâm tình tiêu cực, tâm tình bi quan và chẳng có ý nghĩa gì với ta cả.
Tâm tình "canh thức" được Thánh Phaolô mời gọi rất rõ qua đoạn thư của Ngài: "... vì anh em biết chúng ta đang sống trong thời nào. Đã đến lúc anh em phải thức dậy, vì hiện nay ngày Thiên Chúa cứu độ chúng ta đã gần hơn trước kia, khi chúng ta mới tin đạo. Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu. Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thoả mãn các dục vọng.
Xin cho chúng ta sống tâm tình "canh thức" như Thánh Phaolô mời gọi để bất cứ khi nào Chúa đến với đời ta, ta sẵn sàng đón chờ Chúa và Chúa đưa ta vào hưởng hạnh phúc Quê Trời với Ngài.
33. Để Chúa đến trong cả cuộc đời--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Bài đọc 1 trích sách Ngôn sứ Isaia: "Người sẽ đứng làm trọng tài giữa các quốc gia và phân xử cho muôn dân tộc. Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái. Dân này nước nọ sẽ không còn vung kiếm đánh nhau, và thiên hạ thôi học nghề chinh chiến. Hãy đến đây, nhà Gicop hỡi, ta cùng đi, nhờ ánh sáng Đức Chúa soi đường" (Is 2,1-5).
Ngôn sứ Isaia ước mơ về một tương lai thế giới hoà bình, không còn đánh nhau, không còn chinh chiến nữa, gươm đao giáo mác trở nên liềm hái làm dụng cụ lao động. Bức tranh về một nền hoà bình tuyệt đẹp: sói với chiên con sẽ cùng nhau ăn cỏ, sư tử cũng ăn rơm như bò (Is 65,25), trẻ con thọc tay vào hang rắn lục...
Isaia hướng nhân loại về niềm hy vọng: Này đây Ta sáng tạo trời mới đất mới, không còn ai nhớ đến thuở ban đầu và nhắc lại trong tâm trí nữa. Nhưng thiên hạ sẽ vui mừng và luôn mãi hỷ hoan (Is 65,17-18).
Khát vọng của Ngôn sứ Isaia cũng như của nhân loại ngàn đời là một nền hoà bình vĩnh cữu. Chính trong niềm khát vọng ấy mà Tu sĩ Hermann Schaluck, Ofm đã ước mơ đến: Trình Thuật Mới Về Công Việc Sáng Tạo:
- Và Thiên Chúa nhìn thấy cách thức loài người khắp cõi trần, từ Đông sang Tây, từ Nam chí Bắc, không phân biệt nòi giống, nam nữ, đang khởi công liên hệ cùng nhau cách chân tình. Các dân tộc tự chọn giữa họ những người nam nữ tốt lành nhất và gởi họ tới lâu đài trứ danh bằng kính trên hòn đảo Manhattan (Trụ sở Liên Hiệp Quốc), nơi mở cửa đón tiếp tất cả các quốc gia hoàn cầu. Tại đây, họ lắng nghe đối thoại thân mật, thông cảm lẫn nhau và khai triển những dự án cộng đồng.
Và Thiên Chúa phán: "Như thế là tốt". Và đây là ngày đầu tiên của kỷ nguyên mới.
- Và Thiên Chúa nhìn thấy cách các chiến sĩ hoà bình tách biệt các đạo quân đang lâm chiến với nhau, các tranh chấp được dàn xếp bằng lẽ phải và điều đình, chứ không phải bằng khí giới. Các nhà lãnh đạo quốc gia biết lắng nghe tiếng nói của các dân tộc, biết cùng nhau khởi sự coi trọng lợi ích toàn cầu và hoà bình thế giới kết hợp với lợi ích riêng biệt.
Và Thiên Chúa phán: "Như thế là tốt". Và đó là ngày thứ hai của hành tinh mới.
- Và Thiên Chúa nhìn thấy cách loài người bắt đầu yêu chuộng và bảo vệ thay vì khai thác tạo vật: bầu khí quyển với lớp ozon, nước sông, nước biển, trái đất và nguyên liệu cũng như tất cả những gì sinh sống và phát triển tại đó. Và Thiên Chúa cũng thấy rằng bắt đầu loài người không còn thống trị và khai thác lẫn nhau, nhưng tự coi là con một Cha duy nhất và đối xử đồng đều với nhau.
Và Thiên Chúa phán: "Như thế là tốt". Và đó là ngày thứ ba của kỷ nguyên tư tưởng mới.
- Và Thiên Chúa thấy cách loài người khắp hoàn cầu khởi công khám phá và loại trừ các nguyên nhân gây nên đói khát, bệnh tật, dốt nát và nghèo đói bất công. Họ khởi sự san sẻ cùng nhau những gì thuộc về tất cả và vì lợi ích chung và sự sống còn của toàn cầu, họ khởi sự xem xét các khía cạnh tích cực và quan điểm chung của các dân tộc và tôn giáo.
Và Thiên Chúa phán: "Sự việc phải như vậy". Và đó là ngày thứ tư của cuộc sáng tạo mới.
- Và Thiên Chúa thấy cách loài người, với một ý thức hoàn hảo, có trách nhiệm chứ không vì ham muốn quyền lực, khởi sự sử dụng tài nguyên thiên nhiên được giao phó cho mình, đặc biệt là chất đốt rút ra từ lòng đất và năng lượng nguyên tử. Thiên Chúa thấy cách lương tâm họ luôn thức tỉnh thúc đẩy họ tự vấn xem lại các dự án mới mà họ định nghiên cứu có thích hợp với việc phục vụ Thiên Chúa và nhân loại không. Họ từ bỏ ương ngạnh để chủ trương tế nhị, từ bỏ tham lam để chủ trương không vụ lợi, ích kỷ cá nhân và quốc gia để chủ trương tinh thần liên đới.
Và Thiên Chúa phán: "Như thế là tốt". Đó là ngày thứ năm của một thế giới nhân đạo hơn.
- Và Thiên Chúa thấy cách loài người năm châu khởi sự tháo gỡ và phá bỏ các dàn phóng hoả tiễn, các kho bom đạn, vũ khí hoá học, vi trùng cũng như các vệ tinh do thám và hệ thống truy tầm, giải phóng quân đội và vì thế phổ biến trong học đường và chương trình giáo dục những mô hình sư phạm về hoà bình minh bạch và hữu hiệu đến nỗi các cuộc tranh chấp có thể được giải quyết bằng đường lối hoà bình.
Và Thiên Chúa phán: "Tất cả như thế là tốt". Đó là ngày thứ sáu của một bầu trời mới.
- Và Thiên Chúa nhận thấy cách loài người bắt đầu tái nhận biết Ngài nơi mọi sự, Ngài, Thiên Chúa hằng yêu quý sự sống. Họ coi cuộc tranh đấu cho sự sống, cho phẩm giá và cho việc nhìn nhận quyền lợi mỗi cá nhân là một việc phụng vụ Thiên Chúa. Và mỗi lần một trong những ý thức hệ họ sụp đổ, lúc thảo lại một hiến pháp mới, họ ghi vào đó rằng: Ta đừng bao giờ quên lãng Thiên Chúa là nguồn gốc và tận cùng một thế giới công bình và nhân đạo. Và họ nhìn nhận con người được sống và được giải phóng là dấu chỉ của Thiên Chúa trong lịch sử.
Và Thiên Chúa phán: "Bây giờ, tất cả đều trở nên tốt lành". Đó là ngày thứ bảy của việc sáng tạo hoàn cầu. Từ đây hoàn cầu đồng thuộc về nhân loại mới và Thiên Chúa.
Một nền hoà bình đích thực dẫn đưa con người đến "trời mới, đất mới" (Kh 21,1) hiệp thông với Đấng là sự Thật và là Sự Sống. Loại bỏ những việc làm đen tối (Rm 13,13), mặc lấy Chúa Giêsu Kitô (Rm 13,14), nhân loại sẽ xây dựng được nền hoà bình vĩnh cửu. Niềm hy vọng một nền hòa bình vĩnh cửu gắn liền với lòng tin vào Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại bởi lẽ: Kitô giáo là tôn giáo của hy vọng vì dựa trên lời hứa của Thiên Chúa. Thiên Chúa hứa và Ngài sẽ thành tín thực hiện lời hứa. Thiên Chúa thực hiện từng giai đoạn và ngày càng trọn vẹn hơn. Vì thế người Kitô hữu luôn hướng về tương lai chờ đợi lời hứa cứu độ đã được thực hiện trong lịch sử và sẽ hoàn tất sau lịch sử. Chờ đợi hướng về tương lai tức là hy vọng. Hy vọng luôn gắn liền với lòng tin. Không có đức tin hy vọng chỉ là ảo tưởng. Không có hy vọng đức tin sẽ chết khô. Nhờ đức tin chúng ta chọn đúng hướng. Nhưng chỉ có hy vọng mới làm cho ta đi tới cùng đường.Thiên Chúa hy vọng vào con người là để cho con người được hy vọng vào Thiên Chúa, và bởi Thiên Chúa luôn hy vọng vào con người qua những đường đến bất ngờ, nên con người chỉ có cách là hy vọng vào Thiên Chúa qua niềm tỉnh thức không mỏi mệt của mình.
Thiên Chúa là Sự Sống, là Tình Yêu. Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời Thiên Chúa làm Người. Đức Giêsu Kitô chính là Tin Mừng Sự Sống và Tình Yêu.Tin Mừng cứu độ mà Đức Giêsu loan báo cho loài người là Tin Mừng Sự Sống, Tin Mừng Tình Yêu. Ngài luôn mời gọi mọi người thiện tâm chung sức kiến tạo nền văn hoá sự sống và văn minh tình thương.
Năm Phụng Vụ khởi đầu bằng Mùa Vọng. Bài thánh ca quen thuộc ngân vang trong những sinh hoạt đạo đức hàng ngày: Xin cho lòng chúng con luôn mở rộng chờ mong Chúa đến, xin cho lòng chúng con luôn thắm đượm một tình yêu mến, xin cho lòng chúng con luôn ước ao, luôn khát khao, một thế giới sướng vui dạt dào, một thế giới không còn khổ đau.... để Chúa đến trong cuộc đời, để Chúa đến mang ơn trời, nguồn hạnh phúc cho con người, nguồn cứu rỗi cho mọi nơi...
Để đón chờ Chúa đến, cần phải tỉnh thức và cầu nguyện. Chúa Giêsu dạy trong trang Tin Mừng: ngày Con Người đến thật bất ngờ: vào ngày nào, giờ nào không một ai biết. "Lúc Con Người đến" chính là ngày tận thế, ngày Chúa quang lâm, và cũng chính là giờ chết của mỗi người. Ngày ấy chắc chắn phải đến, nhưng nó lại đến một cách bất ngờ. Bất ngờ như trận lụt đại hồng thủy thời ông Noê. Bất ngờ như hai người đàn ông đang làm ruộng, hai người đàn bà đang xay bột, một người bị đem đi, một người để lại. Không ai biết được mình sẽ ra đi lúc nào. Không ai biết được tương lai của mình ra sao. Không ai biết được ngày tận thế. Vào thời ông Noê, trong khi không ai để ý chuyện gì sắp xảy ra, cuộc sống vẫn cứ tiếp tục với những dấu hiệu bình an: "Thiên hạ vẫn ăn uống, dựng vợ gả chồng". Chỉ có ông Noê là người tỉnh thức và sẵn sàng. Vâng lệnh Chúa, ông Noê đóng một chiếc tàu rất lớn. Đang khi đóng tàu, dân chúng chế giễu ông lẩm cẩm. Sau khi hoàn tất, ông và gia đình cùng với súc vật vào tàu, trời bắt đầu sấm chớp và đổ mưa như trút ngày đêm. Lụt đại hồng thủy dâng lên bất chợt. Tất cả đều bị cuốn trôi trong nước lũ. Chỉ còn lại gia đình ông Noê được cứu sống. Chúa đến sẽ bất chợt khi chúng ta đang làm việc, đang sinh sống, đang ăn uống, đang ngũ nghỉ.
Chúa đã đến và vẫn đến mỗi ngày. Để đón chờ Chúa đến, cần phải tỉnh thức và cầu nguyện. Tỉnh thức không "chè chén say sưa", là đừng quá đam mê những hưởng thụ đời này. Tỉnh thức không "lo lắng sự đời", là không quá mê say danh, lợi, thú. Tỉnh thức là biết chuẩn bị cho đời sau bằng cách vươn tâm hồn lên những chân trời cao thượng. Người tỉnh thức sống ở đời này nhưng tâm hồn đã hướng về những giá trị tinh thần vĩnh cửu đời sau. Tỉnh thức để không đánh mất phẩm chất cao đẹp của mình.Cầu nguyện vì tinh thần mau mắn nhưng xác thịt nặng nề. Cầu nguyện để biết tỉnh thức. Vì khi cầu nguyện ta tách ra khỏi sự ràng buộc của thế giới vật chất để vươn tới thế giới tâm linh. Cầu nguyện để xin ơn Chúa giúp. Con người phàm trần xác thịt nặng nề luôn bị trần gian lôi kéo. Chỉ với ơn Chúa giúp ta mới thoát khỏi vòng giam hãm của vật chất để vươn tâm hồn lên thế giới thiêng liêng.
Có tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ và những lôi cuốn mời mọc hấp dẫn trong cuộc đời. Cầu nguyện trong tỉnh thức để luôn sẵn sàng vì không biết ngày giờ Chúa viếng thăm. Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới "đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến, và đứng vững trước mặt Con Người". Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới khao khát Chúa đến. Có tỉnh thức cầu nguyện, khi Chúa đến ta mới đứng dậy và ngẩng cao đầu lên. Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới gặp được Chúa. Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới được vào thế giới mới với Chúa.
Tỉnh thức cầu nguyện, ta có thể gặp Chúa ngay bây giờ trong ngày hôm nay. Tỉnh thức cầu nguyện, chắc chắn ta sẽ được gặp Chúa trong ngày cùng tận của thế giới. Chúa sẽ đón ta vào hưởng hạnh phúc trong một thế giới mới hạnh phúc tuyệt đối và không bao giờ tàn lụi.
Mùa Vọng chúng ta trông chờ Chúa hay Chúa trông chờ chúng ta?
Mùa Vọng được khai mở với lời mời gọi của Chúa Giêsu: Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn. Bước đầu là bước quyết định cho cả một cuộc đời, một chương trình kế tiếp như như sách Nho có câu: Nhất nhật chi kế tại ư thần, nhất niên chi kế tại ư xuân ( Kế hoạch một ngày hệ tại giờ ban mai, kế hoạch một năm hệ tại mùa xuân).
Tỉnh thức và cầu nguyện là thái độ sống của người tín hữu suốt năm phụng vụ.
Xin Chúa cho chúng con như ngọn đèn chầu trong nhà thờ, thức luôn và sáng luôn trước nhan Chúa. Amen.
34. Niềm tin yêu phó thác--Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng
CON THUYỀN KHÔNG BẾN
Trong một lớp giáo lý Rước Lễ Trọng Thể, khi được hỏi: “Con tàu No-ê đã trôi về đâu”, một em học viên tuổi vào đời đã trả lời nhanh: “Dạ, nó trôi lênh đênh như con thuyền không bến”.
Hay! Giữa trời biển bao la, còn đâu là bến bờ, câu trả lời thật thơ mộng và chính xác!
Nhưng đó chỉ là hình ảnh được hiểu theo kiểu “người trần mắt thịt”, thấy sau biết vậy. Con thuyền No-ê không trôi vô định, phó mặc dòng đời tùy hên xui may rủi, kiểu “con thuyền không bến” của người đời: “cũng liều nhắm mắt đưa chân, thử xem con tạo xoay vần đến đâu”. Con thuyền No-ê đã được tạo thành có mục đích, nó trôi nổi giữa dòng đời theo mục đích, và sẽ dừng lại đúng mục đích.
Đó là một cuộc hành trình có khởi điểm, có lộ trình, và có điểm đến. Đó là một cuộc hành trình do Thiên Chúa hoạch định. Đó là ơn gọi vì yêu thương.
Bến cũ không còn an toàn, Thiên Chúa muốn ông No-ê rời bỏ nơi ấy, để đến bến bờ mới của sự sống, nơi sẽ là Trời Mới, Đất mới - một Thế Giới Mới. No-ê đã vâng lời. Ông tin những gì Thiên Chúa nói. Ông vâng phục những gì Thiên Chúa dạy. Ông phó thác mọi sự trong chương trình của Thiên Chúa.
Nên, giữa trời biển bao la, vẫn có một bến bờ mà nếu không có đôi mắt đức tin không thể nào thấy được, đó là bến bờ vô hình đang chờ đợi “con thuyền không bến” của No-ê cập bến: - bến bờ sự sống mới.
Như vậy, cuộc hành trình của con tàu No-ê là một cuộc hành trình hy vọng. Hy vọng những điểu tốt lành Thiên Chúa sẽ trao ban như lời Ngài đã hứa.
CHỜ ĐỢI VÀ HY VỌNG
Chờ đợi luôn chứa đựng hy vọng. Hy vọng đòi hỏi đợi chờ. Có những người tự tử vì họ không còn hy vọng. Họ không còn gì để đợi chờ. Có những người đầy nghị lực vượt gian khổ, vì họ luôn hy vọng điều tốt lành đang ở phía trước. Họ kiên nhẫn đợi chờ. Họ đợi chờ trong hy vọng.
Tháng ngày lênh đênh trên sóng nước bao la của con tàu No-ê là cuộc hành trình chờ đợi trong hy vọng. Mong đợi thấy được ánh mặt trời của ngày mới rực sáng trên mặt đất hồi sinh.
Đó là Mùa Vọng của con tàu Nô-ê. Mùa Vọng của những người luôn được Chúa yêu mến và luôn biết yêu mến Chúa. Những người luôn tỉnh thức để trung thành với niềm tin yêu vào Thiên Chúa.
Muốn có được niềm hy vọng, người ta luôn phải phấn đấu. Không ai đạt được mục đích mà chỉ “nằm há miệng chờ sung”. Để trung thành với niềm tin yêu vào Thiên Chúa đòi hỏi con người luôn nổ lực để tự hoàn thiện bản thân. Phải có hy sinh, đau đớn, khổ luyện, con người mới vươn lên được. “Ngọc kia chẳng giũa chẳng mài. Cũng thành vô dụng, cũng hoài ngọc đi”.
Cuộc sống chỉ để thỏa mãn những thú vui thấp hèn. Theo đuổi những giá trị nhất thời. Hưởng thụ những thứ phàm tục thoáng qua. Buông thả theo bản năng. Mất phương hướng đời người. Không còn cảm nhận được những giá trị cao cả lâu bền. Cuộc sống ấy sẽ thật sự chấm hết trong thế giới tan biến phù hoa ảo ảnh. Vì cuộc sống ấy không nối kết được với nguồn sống vĩnh cửu là Thiên Chúa. “Thời ông Nô-ê thế nào, thì con người quang lâm cũng sẽ như vậy. Vì trong những ngày trước nạn hồng thủy, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Nô-ê vào tàu. Họ không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thủy ập tới cuốn đi hết thảy. Ngày con người quan lâm cũng sẽ như vậy”. (Mt.24,37-39).
VÀO GIỜ PHÚT KHÔNG NGỜ...
Ở quê tôi, không nhớ rõ năm nào, chỉ biết là trước năm 1975, người ta báo tin một chiến sĩ tên Sang tử trận. Phải mất gần ba ngày sau, gia đình người thân mới đi lãnh xác về được trong chiếc quan tài được hàn chì bên trong cẩn thận.
Thật khó mà tả được hình ảnh người mẹ đau khổ. Bà ôm chiếc quan tài và tha thiết xin được nhìn mặt con lần cuối, nhưng không ai đáp lại nguyện vọng của bà. Vì ai cũng hiểu: chẳng còn hình thù gì nữa để nhìn. Người ta giữ lại chiếc quan tài một đêm để cầu lễ và dự định ngày hôm sau thánh lễ an táng sẽ cử hành lúc 2 giờ chiều.
Buổi sáng ngày dự định chôn cất, lúc ấy khoảng 8g, khi người mẹ còn đang thỉnh thoảng bước lại nhìn di ảnh đứa con trai cưng của mình, thắp vài nén hương trong nước mắt, thì một người ở ngoài đường hối hả chạy vào nhà báo tin: “Mẹ ơi, người ta điện về xã cho biết tên Sang đó không phải là người ở xã của mình, ở nơi khác. Mẹ ơi, anh Sang còn sống! Mẹ ơi, anh Sang còn sống!”.
Người mẹ đứng chết trân, ngỡ ngàng, không biết mơ hay thực, nước mắt tiếc thương chưa kịp khô, những giọt nước mắt vui mừng trào trào ra tuôn dòng trên đôi má nhăn nheo.
Ngay ngày hôm sau, người ta cho anh Sang về phép. Có lẽ ai đó có trách nhiệm trong việc lầm lẫn tai hại này muốn chuộc lại lỗi lầm chăng. Hay muốn bảo đảm chắc chắc rằng người nằm trong quan tài kia không phải là Sang ở gia đình này. Sau đó, người ta đem chôn tạm chiếc quan tài kia ở phía sau ruộng. Gần một tháng sau mới có thân nhân đến tìm mộ.
Mấy ngày sau, tôi đến thăm người mẹ đó. Bà nói câu nào cũng khóc. Khóc rồi cười. Cười rồi lại khóc. Đó là thứ ngôn ngữ diễn tả niềm vui quá sức lớn lao đến mức người ta có thể điên lên được vì hạnh phúc đến quá bất ngờ. Thật không ngờ! Tôi cứng rắn lắm, vậy mà cũng khóc. Tôi khóc vì cảm động trước lòng mẹ...
Ôi, sự sống quý trọng biết bao và là khát vọng muôn thuở của con người!
Tôi chợt nhớ đến hình ảnh của Chúa Giêsu đã xúc động trước đám tang của con trai bà góa thành Na-im (Lc.7,11-17). “Trông thấy bà Chúa chạnh lòng thương và nói: ‘Bà đừng khóc nữa’”. Niềm hạnh phúc của bà mẹ này chắc chắc rất lớn lao và thật không ngờ. “Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ”.
Niềm vui ấy không chỉ riêng của bà mẹ thành Na-im và bản thân người chết, mà còn là niềm vui của mọi người. Đó là nỗi khắc khoải chờ mong của mọi người, của kiếp nhân sinh. “Mọi người đều kinh sợ và tôn vinh Thiên Chúa rằng: ‘Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người ’”. (Lc.7,16).
Đó là niềm vui lớn nhất mà chúng ta chờ đợi. Đó là hy vọng mà chúng ta ấp ủ trọn cả kiếp người.
Cuộc đời của chúng ta có rất nhiều điều không ngờ. Chúng ta là thân cát bụi mà Chúa đã yêu thương chúng ta đến mức không ngờ. Ngài tha thứ chúng ta đến mức không ngờ. Ngài là Thiên Chúa mà chọn cái chết vì chúng ta thật không ngờ. Ngài sẽ đến vào ngày không ngờ. Ngài sẽ đem lại cho chúng ta niềm hạnh phúc không ngờ.
Chỉ có điều, ta đáp lại tình Ngài như thế nào qua cách sống của chúng ta. Nếu ta bước đi vững vàng trong niềm tin yêu Thiên Chúa. Nếu ta biết lắng nghe Lời Chúa. Nếu ta biết chọn lựa những gì thuộc về Chúa. Nào ta còn sợ gì lạc lối. Mặc cho cuộc đời có đổi thay. Sóng gió tư bề bao phủ. Chuyện kinh thiên động địa tràn lan, ta chẳng hề sợ đến “hồn xiêu phách lạc”, vì ta tin vững Thiên Chúa không hề bỏ rơi những ai trung thành và hằng kêu cầu đến Thánh danh Ngài. “Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và hãy ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu độ” (Lc.21.28).
Có một chút màu trắng trinh nguyên,
Có một chút màu đen bóng tối,
Có một chút màu xanh hy vọng,
Có một chút màu đỏ tình yêu.
Đan quyện lấy nhau.
Pha trộn vào nhau.
Để cho ra màu tím.
Màu Tím Mùa Vọng.
Màu của đợi chờ.
Lạy Chúa,
Cho con cúi xuống, chẳng dám nhìn lên,
Dòng lệ ăn năn khóc đời lầm lỡ.
Cho con ngước lên, dòng lệ òa vỡ,
Trông chờ Chúa thương cứu chuộc đời con. Amen.
35. Âm vang mùa vọng--Lm. Giuse Lê Quan Trung
Thiên tai, địch họa, bão lũ, cuồng phong trong thời gian gần đây đã gieo bao tai ương! Đã gây bao đổ vỡ! Đã cướp bao sinh mạng! Đã vùi bao mái ấm! Tại trời? Tại đất? Tại đời?
Cuộc sống ngày càng mang tới nhiều nơm nớp lo âu: bạo hành từ gia đình! Bạo lực nơi học đường! Bạo ngược trong cuộc sống! Bạo thiên nghịch địa mất hết nghĩa nhân! Tại Trời? Tại đất? Tại đời?
Đạo đức ngày càng thêm tuột dốc! Nhân cách ngày càng lúc nhạt phai! Lọc lừa ngày một thêm táo tợn! Tình đời ngày tráo trở liên hồi! Nào phải tại trời! Đâu phải tại đất! Cũng chẳng tại đời! Mà tại lòng người không thích lắng nghe lời hay, không muốn đi vào đường thiện, không cùng hòa nhịp yêu thương!
Tất cả những điều bất hạnh ấy đã được vị Mục Tử nhân lành Giêsu cảnh báo từ ngàn xưa: “Hãy tỉnh thức!”(Lc 21,36); “ Sẽ có những điềm lạ trên trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẻ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét”(Lc 21,25).
“Hãy tỉnh thức”: - để sống cho ra sống, sống có mục đích, có lý tưởng, cố gắng hoàn thiện đời mình!
“Hãy tỉnh thức”: - để tỉnh táo phân biệt chính- tà; tội- phước; cố gắng thoát kiếp “con”để sống đẹp kiếp “người”!
“Hãy tỉnh thức”: - để làm vui lòng cha, để làm mát dạ mẹ, để gia đình luôn là bến đậu vững chắc trước bão đời đang vùi dập tình thân huyết thống; đang phá tan đạo Hiếu gia phong; đang hủy hoại nếp đời nếp đạo.
Lũ lụt miền trung
Bởi từ lòng tham không đáy, mà chính mình đã gây họa cho nhau: rừng không còn bóng râm ươm mát, giữ nước chặn nguồn, nên lũ trôi nước cuốn là lẽ đương nhiên! Những dãy núi xanh thẫm bị khai thác vô tội vạ, còn biết lấy đâu ra bức bình phong ngăn cơn thịnh nộ của cuồng phong, nên đồi sạt đá lở nào phải tại trời? Nếu đủ tỉnh thức, bao dòng sông đã không ô nhiễm! Bao khí trời đâu mất tinh khôi! Bao kiếp người đâu vương nhiều mầm bệnh!
Do từ lòng tham không đáy, mà chính mình đã giết chết đời nhau: bao cô gái chàng trai, bỗng trở thành món hàng bị bán buôn, trao đổi, bị xóa đi nhân phẩm một thời! Danh- Lợi- Thú đã giết chết đường tương lai rạng rỡ. Đam mê, dục vọng, bạc tiền, quyền lực đã dìm chết bao lứa tuổi mộng mơ!
Rồi cũng từ lòng tham không đáy, nơi được gọi là rèn đúc nền tảng đạo đức làm người, đã đâm thủng cái tâm của bao nhà giáo chân chính: loạn học đường cũng do thiếu Tỉnh Thức từ đầu. Nỗi đau này ai gánh, ai mang?
Mùa Đông se lạnh đang về. Mùa Vọng chờ mong một cuộc hoán chuyển lòng người đã tới. Có mấy ai muốn nghe lời nhắn nhủ đầy yêu thương của Đấng muốn ban mầm sống vĩnh cửu cho mình: “Hãy tỉnh thức đi con! Hãy quay về đi con! Hãy can đảm đi đến tận cùng của sự lột xác, để đời không còn bị trói buộc trong ganh tỵ, trong thù hận, trong ghen tương, trong tính toán tom góp vật chất mà quên rằng: cuộc sống này rồi cũng qua đi nhưng điểm dừng đâu chỉ là cái chết! Nếu nghĩ vậy, con chỉ mới đi hết phần “con” chứ đâu đã hưởng trọn vẹn phần “người”!
Nếu sống phút giây hiện tại như giây phút cuối đời mình: Chắc không mấy ai mãi mê chạy theo danh vọng!
Nếu sáng thức dậy mà biết hoàng hôn chưa xuống thì cuộc đời mình sẽ không thấy ngày mai: chắc chẳng mấy ai đắm chìm trong biển vàng rừng bạc!
Nếu sống mà tỉnh thức như thế, tận thế hay không cũng chẳng còn là nỗi âu lo! Cuộc sống mỗi ngày sẽ trở nên niềm vui hạnh phúc! Nỗi lo lắng cơm- áo- gạo- tiền không còn là gánh trĩu nặng trên vai!
Chúa không cảnh báo, răn đe, mà Chúa đang khuyên nhủ, đang mời gọi, đang mở đường để ta không phải lệch đường, sai lối trên con đường lữ hành hoàn thiện kiếp người! Âm vang đầy yêu thương ấy; lời mời gọi đầy ân tình ấy; có phút nào ta mở rộng tim mình để cảm nhận, để đáp trả, để Chúa có thể vào trú ngụ không đây?
36. Một ánh sáng trong đêm tối--Bernard Lafrenière
(BTGH chuyển ngữ)
Trong hành trình, ban đêm, trên một con đường xa lạ, chúng ta chỉ cần nhìn thấy một ánh sáng hoặc một ngôi nhà để cảm thấy được an tâm. Như vậy, khi chúng ta vượt qua những giai đoạn khó khăn, chúng ta tìm một ánh sáng trong đêm tối. Trong ba bài đọc hôm nay, nói về giấc ngủ, đêm tối và ánh sáng.
“Hãy đến – lời tiên tri Isaia nói với chúng ta – hãy bước đi trong ánh sáng của Đức Chúa”. Thánh Phaolô viết: “Giờ đã đến để ra khỏi giấc ngủ... Đêm sắp tàn,ngày đang đến gần…”. Chúa Giêsu nói thêm: “Hãy sẵn sàng: Chính vào giờ các con không ngờ, Con Người sẽ đến…”. Và như để nhấn mạnh tầm quan trọng của thông điệp nầy, Chúa Giêsu đưa ra ba ví dụ, trong đó những người không nghi ngờ gì hết trong khi một biến cố hệ trọng xảy ra.
Trong trình thuật của sách Sáng Thế Ký, một tình huống khác thường sắp sửa đảo lộn nhân loại,nhưng không ai mảy may nghi ngờ, trừ một người tên là Noé. Xung quanh Ông, người cưới hỏi, ăn uống như thể không gì có thể xảy ra. Chỉ có Ông Noé là làm cho mình một con tàu ngay giữa nông thôn. Vả lại, Ông đã rất già yếu và người ta thích chí ngắm ông làm. Chúa Giêsu nói thêm: “Người ta không nghi ngờ gì hết, cho tới khi nạn hồng thủy ập tới chôn vùi tất cả bọn họ: đó cũng sẽ là ngày Con Người đến.
Hai người đàn ông sẽ ở ngoài đồng, làm công việc rất bình thường, giữa thiên nhiên: “một người được đem đi, người kia bị bỏ lại”. Hai người phụ nữ sẽ ở cối xay bột. Người ta vẫn còn tìm thấy những chiếc cối nhỏ Phương Đông được làm với hai hòn đá đặt chồng lên nhau và một hòn có một tay nắm, mà hai phụ nữ ngồi chuyển cho nhau để làm cho viên đá nầy quay. Đây là một công việc rất đơn giản. Cả ở đó nữa, – Chúa Giêsu nói – “một người được đem đi, một người bị bỏ lại”.
Nhưng biến cố nào sẽ chợt xảy đến với chúng ta? Tại sao lại phải thức dậy khi đang ngủ và để cho mình được dẫn đi theo ánh sáng? Muốn hiểu nó, chỉ cần nhìn những người sống xung quanh ta và tự hỏi: “Điều gì làm họ chăm chú vậy?”
Nhiều người an toạ tốt bao nhiêu hay bấy nhiêu trong thế gian chóng qua nầy. Đã hẳn tiện nghi cung cấp cho chúng ta một sự thoải mái nhất định. Nhưng cuộc sống qua đi và không có gì mỏng manh như là những lời hứa của thế gian nầy. Phải thức dậy: Đức Chúa đang đến! Chúng ta phải chỉnh tề khi Nước Thiên Chúa sắp đến!
37. Sống tỉnh thức và sẵn sàng--Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Một năm Phụng Vụ lại đến. Thời gian cứ thế trôi đều theo nhịp dường như chẳng có gì mới dưới trần gian này. Đông qua, xuân đến, hạ đi, thu lại về. Hết mùa thường niên, đoàn tín hữu Kitô bước vào mùa Vọng, mùa Giáng Sinh. Tuy nhiên vẫn có đó cái gì mới lạ khi ta bước vào một điểm mốc của thời gian, cho dù đó chỉ là sản phẩm có tính quy ước của con người. Bắt đầu một chu kỳ mới, được gọi là năm dựa trên vòng xoay của vũ trụ nói chung, của thái dương hệ mặt trời và trái đất chúng ta nói riêng hay khởi đầu một chu kỳ lịch sử ơn cứu độ theo niên lịch Phụng vụ Kitô giáo, hẳn nhiên vẫn tiềm tàng một khao khát, ước mơ, hy vọng nào đó. Chắc chắn đó là những hy vọng, mơ ước về nhiều điều tốt đẹp, có thể là hợp lý, phải đạo, cũng có thể là không và không thể loại trừ những ước vọng cao cả.
Bước vào một chu kỳ mới của niên lịch Phụng vụ, Hội Thánh mẹ, trong năm Phụng vụ năm A này có vẻ hơi lạ thường khi mời gọi chúng ta hướng cái nhìn đến ngày chung cục của thế giới, của đời người chúng ta. Bài tin mừng theo thánh Matthêu tường thuật những lời cảnh báo của Chúa Giêsu về tính bất ngờ, đột ngột của cái ngày chung cục ấy. Đồng thời Người kêu gọi các khán thính giả lúc bấy giờ cũng như chúng ta hôm nay rằng hãy tỉnh thức và sẵn sàng. Quy luật tự nhiên giúp ta thêm xác tín rằng sự gì khi đã có khởi đầu thì hẳn có lúc kết thúc.
Vòng đời “thành, trụ, hoại, không” của nhiều vật, nhiều loài hữu hình trước mắt chúng ta là một dấu chứng cho sự kết thúc của vạn vật nói chung và của đời người chúng ta nói riêng. Tuy nhiên điều Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh là tính bất ngờ. Hình ảnh cơn lụt đại hồng thủy thời Noe hay hình ảnh hai người đàn ông đang làm ruộng, hai người đàn bà đang xay bột, thì một người bị đem đi, một người bị để lại, tất thảy đều muốn mô tả sự bất ngờ. Khi nói đến sự bất ngờ người ta thường nói đến hệ quả của nó là sự mất mát, sự thiệt hại hơn là sự may mắn hay là được lợi, cho dù thỉnh thoảng nhiều sự may mắn có xảy đến cách bất ngờ như chuyện trúng số độc đắc. Để tránh những hệ quả xấu, di hại cho hạnh phúc chúng ta đời này, nhất là cho hạnh phúc vĩnh cửu mai sau, Chúa Giêsu lặp đi lặp lại là hãy tỉnh thức và sẵn sàng. Vậy thế nào là thái độ biết sẵn sàng và tỉnh thức? Hội Thánh, qua bài đọc thứ nhất trích Sách Tiên tri Isaia và bài đọc thứ hai trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Roma, muốn trình bày hai phương thế sống tỉnh thức sẵn sàng, xét theo phương diện tiêu cực và tích cực.
1. Sống tỉnh thức sẵn sàng theo phương diện tiêu cực: Hãy loại bỏ những việc làm đen tối. Hãy dứt khoát với việc chè chén say sưa, chơi bời dâm đãng, cãi cọ ghen tương. Không chìu theo tính tự nhiên mà thỏa mãn các dục vọng bất chính, đê hèn. Những hành vi bất chính, những thái độ bất xứng, những việc làm ám muội thường là những thái độ, hành vi, việc làm mà ta ít dám thể hiện công khai và thường không muốn cho ai hay, ai biết, ngoại trừ người đồng lõa, người tòng phạm.
Để sống tỉnh thức sẵn sàng theo nghĩa này thì xin hãy nhớ rằng không có sự gì mà sẽ không bị tỏ lộ. Chúng ta có thể che giấu một người nhiều lần. Chúng ta cũng có thể che giấu nhiều người một vài lần. Nhưng chúng ta khó mà che giấu mọi người nhiều lần. Nhất là chúng ta không thể nào che giấu được Thiên Chúa, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn tâm can con người, từn người và mọi người (x.Tv 139)
Để sống sẵn sàng tỉnh thức theo ý hướng này không gì hơn hãy minh bạch hóa các việc làm của ta. Một người không ngần ngại công khai hóa các lời nói, tâm tư và hành động của mình thì sẽ tránh được nhiều sai sót, lỗi lầm. Và nếu có lỡ lầm hay sai sót thì cũng sẽ dễ có cơ hội khắc phục, sữa sai nhờ tha nhân góp ý, nhận định, phê bình.
2. Sống tỉnh thức sẵn sàng theo phương diện tích cực: Lấy gươm đao rèn thành cuốc thành cày; lấy giáo mác đúc thành liềm, lưỡi hái. Một động thái tích cực thật tuyệt vời. Đó là quay ngược 180 độ các xu hướng xấu xa, các việc làm ám muội, các hành vi gian ác. Một ngày kia, người ta hỏi văn hào Bernard Shaw, một văn hào rất thông minh và dí dỏm trong lối ứng xử: Nhờ đâu, và bằng cách nào ngài có được những câu ứng xử vừa thông minh vừa dí dỏm như thế? Có gì đâu. Tôi cứ tưởng tượng ra một câu nói thật ngu ngốc và nhạt nhẽo, rồi tôi tìm cách nói ngược lại.
Ai trong chúng ta lại không có những điểm yếu, những nghiêng chiều bất chính, những thói quen không tốt, chẳng hay, nếu chưa muốn nói là xấu xa? Ai trong chúng ta lại không có những tội lỗi mà nếu công khai ra thì thật ngượng ngùng? Ai trong chúng ta lại không có nhũng lầm lỗi hay tái phạm nhiều lần, khó chữa, khó chừa? Cứ vạch rõ chúng ra rồi hãy làm điều ngược lại. Giả như tôi có tật xấu hay bủn xỉn, keo kiệt về tiền bạc thì ước gì tôi tích cực tập chia sẻ cho tha nhân cách cụ thể bằng những đồng tiền rút từ hầu bao của tôi.
Kinh “Cải tội bảy mối, có bảy đức” chúng ta dường như thuộc nằm lòng. Kinh ấy có ra không phải là để chỉ đọc trong các ngày Chúa Nhật và Lễ trọng mà là để chúng ta sống. Có thể nói một cách chắc chắn rằng những ai sống nội dung kinh “Cải tội bảy mối…” là đang thật sự tỉnh thức và sẵn sàng.
Người đang sẵn sàng và tỉnh thức thì không có gì là đột ngột hay bất ngờ mà là luôn trong tư thế chuẩn bị và đón chờ. Người biết đón chờ trong tư thế chuẩn bị thì hẳn sẽ gặp nhiều may lành khi giờ Chúa đến. Nói đến giờ Chúa gọi thì có thể có người cho là còn xa. Nhưng chắc chắn người biết chuẩn bị và đón chờ thì sẽ gặt hái nhiều kết quả tốt đẹp trong dịp kỷ niệm Chúa Kitô đến thế gian lần thứ nhất là Đại Lễ mừng Chúa Giáng Sinh.
38. Dấu hiệu thời đại – Achille Degeest--‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’
Sau khi Chúa Giêsu đã nói tới những dấu hiệu báo trước sự tàn phá thành Giêrusalem, thì hôm nay Người nói về ngày tận thế. Ngày ấy sẽ xảy đến bất ngờ. Một cách nào đó, những dấu hiệu mô tả trong Phúc Âm đã xảy ra trong lịch sử loài người, và nhân loại đã quen với chúng rồi. Trong lúc mà bằng vô vàn cách thức khác nhau, các biến cố xảy ra cho thấy rằng thế gian không phải là quê hương vĩnh viễn, thì con người vẫn dừng lại ở trình độ tìm tòi duy vật trong nỗ lực xây dựng văn minh. Đó là trường hợp của những người xưa kia bị hồng thủy thình lình ập xuống trên mình. Những ai không biết đọc dấu hiệu thời đại, rồi cũng sẽ bị tai họa bất ngờ như vậy. Cũng trong một viễn tượng gần như thế, ta hãy tự hỏi: Chúng ta có biết đọc dấu hiệu thời đại không? Thật vậy, hành động liên tục của Chúa trong nhân loại có thể quan niệm như một cuộc ngự đến không ngừng của Người trong nhân loại. Ta có biết nhận ra những dấu hiệu của cuộc ngự đến ấy không? Dựa vào Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng của Công Đồng Vatican II, chúng ta hãy tự hỏi: Chúng ta đang gắn ý nghĩa Phúc Âm nào cho những biến cố hiện đại đang tác động trên con người, trên cộng đồng nhân loại và hoạt động của loài người?
1) Con người
Chúng ta đang chứng kiến sự giảm sút kính trọng đối với nhân vị. Theo một số khoa học gia, bậc thầy trong khoa sinh vật học, con người là kết quả của một sự tình cờ may mắn trong đà tiến hóa của vật chất. Trong cách thức người ta quan niệm thì con người có giá trị gì? Con người có giá trị nào trước những vấn đề như phá thai, ngừa thai, công bằng, chính trị v.v… Phúc Âm đặt con người vào trình độ của tương quan giữa nó với Đức Giêsu Kitô. Con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa. Nó tội lỗi nhưng được cứu độ. Trong toàn con người nó, xác và hồn, nó là con cái Chúa. Sự sống của nó là một điều thiêng liêng. Phẩm giá con người đòi hỏi rằng trí khôn nó phải được soi sáng và con tim nó được huấn luyện. Chủ nghĩa duy vật hiện đại là một dấu hiệu thời đại phải thôi thúc người Kitô hữu quả quyết lại phẩm giá của con người một cách mạnh mẽ.
2) Cộng đồng nhân loại
Đang trên đường tìm kiếm, chưa bao giờ con người được sử dụng nhiều phương tiện kỹ thuật như thể gặp gỡ nhau khắp cùng trái đất. Đó là một dấu hiệu thời đại khiến người Kitô hữu phải tạo cho mình một não trạng phổ quát ‘công giáo’, bao trùm toàn thế giới. Hiện nay, đối với ai biết nhìn xem, Thiên Chúa đang đi tới con người qua tất cả những phương tiện dễ dàng làm cho con người gặp gỡ nhau.
3) Hoạt động của con người
Những cuộc chiến thắng, những thành công của con người là dấu hiệu biểu lộ sự phong phú vô biên của Chúa trong tạo vật. Nhưng uy quyền con người càng tăng, thì trách nhiệm của nó càng lớn. Con người sẽ làm việc cho con người, và làm việc trong một ý nghĩa tích cực, nếu nó duy trì liên quan của mình với Thiên Chúa. Nếu xa lìa Chúa, thì uy quyền nó càng nhiều, sức mạnh phá hủy của nó càng tăng.
Trên các biến cố thời sự làm xao động thế giới, ta hãy luôn luôn chiếu giãi ánh sáng Phúc Âm. Phải tỉnh thức. Hơn nữa, ta hãy tùy theo phương tiện ta có mà can thiệp vào để giúp cho Chúa ngự đến trong thế giới chúng ta.
39. Chống lại thói quen--”Anh em hãy tỉnh thức!”--André Sève
Giấc ngủ là thói quen của chúng ta. Nó làm chúng ta không ý thức được ngày giờ trôi qua.
Chúa Giêsu mô tả thói quen này như sau: “Vào thời Noe, người ta ăn uống, người ta dựng vợ gả chồng …”. Có một người thoát ra khỏi thói quen này đúng lúc, đó là Noe. “Noe bước lên tàu”. Còn những người khác vẫn sống “mà không nghi ngờ gì cả, cho đến khi trận lụt nhận chìm họ”.
Thói quen nhận chìm chúng ta. Bạn hãy nghĩ đến những câu: “Tôi phải phản ứng lại… Tôi phải bắt đầu… Không thể tin được là thời gian trôi qua nhanh thế… Nếu có thể làm lại điều đó… Nếu lúc trẻ mà biết thì …”.
Chúng ta biết chứ. Chỉ cần lắng nghe Chúa Giêsu thì đủ rõ: “Hai người cùng ở trong ruộng, thì một sẽ bị đem đi, và một sẽ được để lại; hai bà cùng xay bột nơi cối, thì một sẽ bị đem đi và một sẽ được để lại. Vậy các ngươi hãy tỉnh thức”. Khi làm cùng những công việc, có người thì chết, có người thì sống. Có người không chuẩn bị gì cả, có người đã chuẩn bị sẵn sàng.
Sẵn sàng cho cái gì? Phải lặp đi lặp lại lời kêu gọi cảnh giác này vì Chúa Giêsu cũng lặp đi lặp lại lời kêu gọi cảnh giác đó, một sự cảnh giác thật sự. Sự cảnh giác có thể có vẻ như một sự lo âu làm cho tê liệt, hoặc đi đến chỗ đặt câu hỏi “ích lợi gì cơ chứ?” làm cho quay sang khinh dể thế gian và những công việc trần thế. Không, trái lại, sự cảnh giác trong Phúc Âm là một sức sống mạnh mẽ hiện tại, bởi vì người ta luôn luôn xác minh được ở đó ích lợi và sự biểu hiện thực sự của điều mà người ta đang làm.
Những thói quen của chúng ta (công việc, truyền hình, xe cộ), những lo toan của chúng ta (kiếm tiền nhiều hơn, hoàn thành nhiệm vụ nào đó), những dự định nghỉ ngơi (mong ngày cuối tuần mau đến, mong kỳ nghỉ hè mau đến), có phải những điều đó làm cho mỗi người chúng ta sử dụng cuộc sống đến nơi đến chốn rồi chăng? Đâu là tình yêu, nghĩa là cuộc sống 100%? Sự phục vụ huynh đệ, nỗi ám ảnh truyền giáo, kinh nguyện, ở đâu?
“Tôi không có thời giờ” đôi khi là tiếng than phiền của cuộc sống mãnh liệt. Nhưng thường thì đây là bài ca của thói quen. Thói quen ca bài này rất hay.
Sự tỉnh thức của người Kitô hữu không gì khác hơn là cuộc sống trước mặt Thiên Chúa, cuộc sống với Thiên Chúa. Người ta làm đúng y cũng những điều đó, nhưng chúng có thêm một ích lợi, một chiều dày. “Một sẽ bị đem đi, và một sẽ được để lại”. Những người tỉnh thức đã bám rễ trong vĩnh cửu, những người thủ cựu thì ở trên bề mặt, lúc nào họ cũng có nguy cơ bị quét đi.
Khác xa việc lấy mất sở thích những gì thuộc về cuộc sống, sự tỉnh thức thật sự mang lại thú vị cho những bước khai tâm, những bước đầu học tập lý thú. Tuyệt vời làm sao, qua những gì người ta sống, khi trở thành một người được xây dựng cho sự vĩnh cửu và xây dựng một phần của nhân loại vĩnh cửu!
Chống lại thói quen là sao? Là suy nghĩ, lại tiếp tục, không buộc mình chỉ sống theo đồng hồ, lịch hoặc sự đều đặn máy móc và bảo “tôi luôn luôn làm điều đó”.
Người tín hữu Kitô “sẵn sàng” là người sống cái bình thường một cách hết sức tự do, ý thức, đến độ điều này giữ cho họ tỉnh thức đối với điều bất ngờ, trong đó có giờ phút cuối đời, giờ kẻ trộm đến: “Hãy sẵn sàng, vì vào chính giờ các ngươi không ngờ, thì Con Người sẽ đến".
40. Các con hãy sẵn sàng – R. Veritas--‘Sống Tin Mừng’
Với Lễ Chúa Kitô Vua được mừng vào hôm Chúa Nhật tuần vừa qua, Giáo Hội Công Giáo kết thúc năm Phụng vụ theo chu kỳ Năm C và bắt đầu năm mới Phụng vụ theo chu kỳ Năm A bằng Chúa Nhật thứ I Mùa vọng.
Bài đọc thứ nhất được trích trong đoạn quan trọng nhất của sách tiên tri Isaia, ngài là vị ngôn sứ cao cả nhất của thời Cựu Ước. Giáo huấn của ngài vang dội tại Giêrusalem từ khoảng năm 742 cho đến năm 800 trước Chúa Kitô Giáng Sinh. Đây là thời kỳ đen tối nhất trong lịch sử dân Chúa, vì lãnh thổ bị chia đôi, các bộ lạc miền Bắc qui tụ thành vương quốc Israel, bị đế quốc Assyria chiếm cứ từ năm 772. Các bộ lạc miền Nam qui tụ thành vương quốc Giuđa, càng ngày càng xa lìa Thiên Chúa, sống bất trung với giao ước kết thúc trong đau thương của cuộc lưu đày Babylon.
Chính trong thời kỳ này mà tiên tri Isaia đến công bố cho dân Chúa sứ điệp hy vọng vào sự phục hưng huy hoàng ở tương lai. Mặc cho những bất trung của dân, Thiên Chúa vẫn trung thành với lời Ngài đã hứa là sẽ qui tụ tất cả mọi dân tộc lại. Thật là hy vọng biết chừng nào khi mà giữa những thử thách hiện tại, những xúc phạm của các dân tộc đối với Thiên Chúa, thì cộng đoàn nhỏ bé Israel còn lại gồm những kẻ trung thành với Thiên Chúa được nghe những lời loan báo Thiên Chúa sẽ ngự đến, sẽ xây nhà Ngài trên đỉnh núi, nghĩa là Ngài sẽ đến ngự giữa loài người và nơi Ngài hiện diện sẽ là trung tâm qui tụ tất cả mọi dân tộc.
Họ đang chống đối Thiên Chúa, nhục mạ Ngài, nhưng rồi sẽ đến lúc họ trở lại nhìn nhận Ngài. Đó là sứ điệp hy vọng của bài đọc thứ nhất trong Chúa Nhật thứ nhất Mùa vọng. Các dân nước sẽ đổ về đó, nhiều dân tộc sẽ đến và nói rằng: "Hãy đến, chúng ta hãy lên núi Chúa, Ngài sẽ dạy chúng ta đường lối của Ngài và chúng ta sẽ đi theo thánh ý của Ngài. Và khi các dân tộc nhìn nhận Chúa, giữ các giới răn của Người thì hoà bình sẽ ngự trị giữa họ. Đó là thời điểm. Đó là thời kỳ mà theo lời tiên tri Isaia "các dân các nước sẽ lấy gươm mà rèn nên lưỡi cày, lấy giáo mà rèn nên lưỡi liềm", nghĩa là biến các dụng cụ giết hại nhau thành phương tiện tạo nên bánh nuôi sống và nâng đỡ cho cuộc sống con người.
Nơi bài đọc thứ nhất, Isaia loan báo tiếp: "Nước này không còn tuốt gươm ra đánh nước kia nữa, người ta cũng không còn thao luyện để chiến đấu nữa". 700 năm sau, sau lời tiên báo của Isaia, Thiên Chúa sẽ thực hiện lời hứa khi Ngài sai Con Một của Ngài xuống trần gian làm người để cứu chuộc nhân loại, để hòa giải con người với Thiên Chúa.
Những ai lắng nghe và sống lời Ngài được qui tụ lại trong dân mới của Thiên Chúa là Giáo Hội gồm mọi dân nước. Với sự hiện diện và ân sủng của mình, Thiên Chúa đã làm cho Giáo Hội trở thành dấu chỉ và phương tiện để xây dựng sự hiệp nhất hòa bình giữa con người với Thiên Chúa, và giữa con người với nhau. Qua đó, chúng ta thấy Giáo Hội của Chúa vẫn kiên trì trung thành với sứ mạng làm trung gian hòa giải này, giúp xây dựng hòa bình giữa con người với nhau trong thế giới ngày nay.
Mùa vọng mới mà Giáo Hội bắt đầu cử hành trong Phụng vụ của mình với Chúa Nhật thứ nhất Mùa vọng, không phải là thời gian để Giáo Hội nhìn lại quá khứ, nhìn về biến cố Con Thiên Chúa đã Giáng Sinh và cử hành biến cố này với Lễ Giáng Sinh. Tắt một lời, Mùa vọng không phải là mùa chuẩn bị mừng Lễ Giáng Sinh, nhưng Mùa vọng là thời gian hướng con người về tương lai, về biến cố Chúa ngự đến lần thứ hai trong vinh quang vào lúc cuối cùng của lịch sử nhân loại, khai mạc trời mới đất mới, làm cho mọi sự đạt đến cùng đích duy nhất của mình là Thiên Chúa.
Mùa vọng hướng con người đến với Thiên Chúa, Đấng đang đến trong lịch sử, đang hướng dẫn toàn thể vũ trụ đến sự thành toàn viên mãn cuối cùng. Thiên Chúa đến gặp con người trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể và hướng dẫn con người đến sự thành toàn viên mãn, nhưng Ngài không áp đặt con người, vì Ngài tôn trọng tự do của con người. Con người cần lắng nghe lời mời gọi tỉnh thức, canh tân đời sống, đó là sứ điệp mà bài đọc II và Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay nhắc lại cho chúng ta.
Nơi thơ thánh Phaolô gởi tín hữu Rôma đã khuyên các tín hữu: "Anh em thân mến! Anh em biết rằng đã đến lúc chúng ta phải thức dậy, vì giờ đây phần rỗi chúng ta đã gần đến hơn lúc chúng ta mới tin đạo, đêm sắp tàn, ngày gần đến, chúng ta hãy từ bỏ những hành vi ám muội và mang khí giới ánh sáng, hãy đi đứng đàng hoàng như giữa ban ngày" (Rm 13, 11-14).
Đó là những lời khuyên vẫn còn thiết thực cho mỗi người tín hữu trong xã hội nhiều hưởng thụ như ngày nay, ngõ hầu sống trong sự sẵn sàng khi Chúa ngự đến, và Ngài đến một cách thình lình không ai ngờ trước được. Hãy từ bỏ những hành vi ám muội và mặc lấy Chúa Kitô, hãy để cho dung mạo Chúa được chiếu sáng trong chúng ta. Đó là cách thức tốt đẹp nhất để tiếp đón Chúa ngự đến vào lúc Ngài muốn, và Phúc Âm Chúa Nhật thứ nhất Mùa vọng diễn tả Ngài đến như kẻ trộm: "Vậy các con cũng phải sẵn sàng vì lúc các con không ngờ thì Con Người sẽ đến" (Mt 24, 44).
Chúa đến như kẻ trộm, Ngài đến gặp chúng ta trong chính cảnh sống của mình, trong chính lúc chúng ta chu toàn bổn phận. Tỉnh thức đón Chúa không có nghĩa là chu toàn bổn phận của mình, mà là chu toàn bổn phận như Chúa, với Chúa và trong Chúa. Đó là thực hiện lời khuyên của thánh Phaolô là hãy mặc lấy Chúa Kitô để đón Chúa Kitô ngự đến.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con chu toàn bổn phận của mình như phương thế trọn hảo để sẵn sàng đón Chúa ngự đến. Xin đừng để chúng con sống trong một thái độ ù lì, nhưng trong thái độ tích cực từ bỏ các tật xấu, các công việc của bóng tối, để mỗi ngày sống xứng đáng hơn hầu sẵn sàng đón Chúa ngự đến. Amen.
41. Hãy tỉnh thức và sẵn sàng--Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
Tin mừng Mt 24: 37- 44: Bài Tin Mừng chúa nhật hôm nay cho thấy: Chúa Giêsu loan báo cho chúng ta biết Người sẽ Quang Lâm bất chợt và chụp bắt chúng ta, kéo chúng ta ra khỏi những lo toan hằng ngày.
Bài Tin Mừng chúa nhật hôm nay cho thấy: Chúa Giêsu loan báo cho chúng ta biết Người sẽ Quang Lâm bất chợt và chụp bắt chúng ta, kéo chúng ta ra khỏi những lo toan hằng ngày, ra khỏi những công việc nội trợ, công việc đồng áng. Tình trạng tâm hồn mỗi người đang có lúc đó sẽ quyết định số phận đời đời của chúng ta. Chúa Giêsu dùng hình ảnh người xay bột, người làm ruộng… một người bị đem đi, người kia bị bỏ lại để xác định thưởng phạt cho mỗi người.
Rồi Chúa kết luận: “vậy anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (Mt 24,44). Ở đây Chúa nói tới ngày Quang Lâm, ngày Cánh Chung, ngày Thế Mạt, nhưng Chúa cũng muốn nói đến ngày chết của mỗi người chúng ta. Ngày Quang Lâm của Chúa đến bất ngờ như thế nào, thì ngày chết của chúng ta cũng bất ngờ như vậy, cho nên thái độ của chúng ta là phải tỉnh thức, phải sẵn sàng.
Người ta kể một câu chuyện như sau: tại Tô Châu, có một nhà sư tên là Viên Phủ Trung, tu hành đắc đạo, nhà sư thường bày trên án thư, trước chỗ ngồi, một cái quan tài nhỏ bằng gỗ bạch đàn, dài độ năm tấc, có một cái nắp có thể mở ra được.
Khách đến chơi hỏi nhà sư: ngài làm ra cái này để làm gì vậy? Nhà sư trả lời: người ta sống tất có chết, mà chết là vào ngay cái này. Ta thực thấy làm lạ: người đời ai cũng chỉ biết có phú quí, công danh, tài sắc mà chẳng biết đến cái chết. Như ta đây, mỗi khi có việc không vừa ý, ta cầm cái này lên mà ngắm, tức khắc tâm hồn ta được yên ổn, và muôn ngàn lo lắng đều tan biến hết.
Thường tình không ai muốn nhắc đến cái chết cả. Ấy thế mà nhà sư Viên Phủ Trung lại năng nhắc đến cái chết và đối với nhà sư, cái chết như một phép mầu hóa giải cuộc sống của mình. Hóa giải một cách thần kỳ. Vì khi nhắc đến cái chết, cái chết không làm nhà sư sợ hãi, nhưng chính cái chết lại làm tiêu tan bao lo lắng khắc khỏai và nhất là làm cho tâm hồn được thanh thản, làm cho tâm hồn được bình an.
Nhiều người trong chúng ta không ai muốn nói đến cái chết. Nhưng nếu ai cận kề với cái chết thì lại biết phải sống như thế nào.Trong các bài phỏng vấn những người cận tử (near death experience), một số bác sĩ Đức và Mỹ cho biết như sau: nhiều người vì một tai nạn hay một lý do gì đó mà ngất đi trong một khỏang thời gian dài. Về mặt thể lý, coi như đã chết, nhưng sau đó họ sống lại. Các bác sĩ đã phỏng vấn 1.370 trường hợp. Trong những điều họ thuật lại, có những điểm mà ai cũng nhất trí như sau:
- Cuộc sống ở “cõi bên kia” hạnh phúc hơn cuộc sống ở đời này.
- Sau khi “chết đi sống lại”, không ai còn ham muốn kiếm tiền bạc, danh vọng và lạc thú nữa. Điều duy nhất mà họ quan tâm là sống yêu thương, quảng đại, phục vụ mọi người
- Và sau cùng là không còn sợ chết nữa.
Những điều trên đây thực là một điều quí giá cho chúng ta. Chính khi cận kề với cái chết thì cái chết lại giúp con người biết sống như thế nào. Chúa Giêsu nhắc đến ngày Cánh Chung, ngày Thế Mạt, ngày chết của mọi người không phải là để hù dọa chúng ta, nhưng là để giúp cho chúng ta biết sống như thế nào cho xứng với con người, cho xứng với địa vị người con của Chúa. Chính vì vậy lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng về cái chết: “anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (Mt 24,44).
Vào năm 79 trước công nguyên, núi Vésuve bất thình lình phun lửa dữ dội, chôn vùi thành phố Pompei phồn vinh dưới một lớp nham thạch dầy tới 7 mét. Năm 1748, sau 18 thế kỷ, người ta bắt đầu khai quật thành phố xấu số này. Giữa bao dinh thự đổ nát, bao đồ vật ngổn ngang, bao người chết đau đớn hỏang sợ, người ta ngạc nhiên tìm thấy xác của 38 người lính Rôma đang thi hành nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự trong lúc xẩy ra tại họa khủng khiếp đó. Điều đáng nói là những người lính này đang tuần canh, tay còn cầm gươm, đi trong tư thế thi hành nhiệm vụ mặc dù cái chết kề bên. Chính vì thế Chúa cảnh báo chúng ta «vào thời Noe, người ta cứ ăn uống, cưới vợ gả chồng cho đến khi nạn Hồng Thủy ập đến cuốn đi hết thảy “và Chúa kết luận « ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy”.
42. Chờ đợi Chúa đến--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
Mùa Vọng đối với người Kitô hữu chúng ta là mùa Xuân, vì nó khởi đầu một niên lịch Phụng Vụ. Trong mùa Xuân, cây cối đâm chồi nẩy lộc, kết nụ đơm hoa, chuẩn bị cho mùa thu hoạch mới. Như vậy, mùa Xuân cũng là mùa vọng, là thời gian trông chờ, mong đợi…
Nhưng, thưa anh chị em, chúng ta mong đợi gì?
Sống là phải có hy vọng, đợi chờ. Còn hy vọng, con người còn nỗ lực, phấn đấu để sống. Mất hy vọng, con người sẽ không còn động lực nào để sống, để làm việc, dù bất cứ ở lãnh vực nào. Khoảng thời gian từ lúc bắt đầu đến khi hy vọng được thành tựu, là lúc người ta phải chờ đợi, ngóng trông. Làm sao tả hết được những tâm trạng chờ đợi? Vì nó đa dạng và có nhiều mức độ thao thức khác nhau:
- Với một em bé, chắc không còn nôn nóng nào hơn khi mong mẹ đi chợ về, mua cho bé gói bánh, món quà.
- Một học sinh đi thi, chắc hẳn không một việc gì có thể làm cậu gián đoạn sự trông chờ kết quả với đầy hồi hộp, bồn chồn.
- Với một thanh niên, còn gì thú vị hơn lúc chờ đợi người yêu.
- Trong lãnh vực nghề nghiệp, người ta cũng mong ngóng, đợi chờ: Người buôn bán thì mong trúng mối, đắt hàng, nhiều lời. Người nông dân chẳng mong gì hơn là mưa thuận gió hòa, cho mùa màng tốt tươi, hoa quả đầy vườn.
Ai cũng ôm một mối hy vọng, chờ mong. Đó là động cơ của cuộc sống con người. Hy vọng với những kết quả đạt được là hạnh phúc của con người: được mùa, thi đậu, là những món quà hạnh phúc của tuổi trẻ. Người yêu đến thăm, đến đón, người chồng đi xa trở về, là những hạnh phúc êm đềm, dịu ngọt. Được mùa, làm ăn phát đạt, là những hạnh phúc ấm no… Tất cả đều là những hạnh phúc nho nhỏ của con người.
Nhưng, thưa anh chị em,
Phải chăng con người chỉ mong đợi có những hạnh phúc nho nhỏ đó thôi sao? Con người không còn gì lớn lao hơn để đợi chờ sao? Bởi vì, những hạnh phúc cỏn con đó không thỏa mãn được khát vọng của con người: Trong cuộc sống, rất nhiều lúc chúng ta cảm thấy buồn chán, lạc lõng, không biết mình muốn cái gì và ước mơ điều gì nữa. Đó chính là một cảm nghiệm thiếu vắng tình thương, thiếu một “ai đó” có thể thỏa mãn được mọi khát vọng của chúng ta.
Hoặc có những người, sau khi đã hưởng thụ tất cả, bỗng cảm thấy chán chường mọi giàu sang phú quý và sống vất vưởng, tuyệt vọng. Nhưng họ không biết đó chính là tiếng réo gọi thiêng liêng đang đòi hỏi một cái gì có giá trị vô cùng so với mọi thứ hạnh phúc trần gian tổng hợp lại. Một hạnh phúc đích thực và vĩnh cửu. Thật vậy, có một đối tượng hy vọng, một đối tượng trông đợi hạnh phúc nhất, tuyệt vời nhất đối với con người mà qua bao nhiêu thế hệ, con người vẫn mang khát vọng sâu xa tìm kiếm: đó là Thiên Chúa.
Thật vậy, đời người là cả một thời gian nôn nóng chờ đợi ngày giáp mặt Thiên Chúa tình thương. Chỉ có Thiên Chúa mới lấp đầy mọi khát vọng của con người. Vũ trụ, tạo vật, nhất là con người là kết quả của tình thương vô biên đó, nên con người luôn có những khao khát vượt thoát trần gian, mong được giải thoát khỏi những ràng buộc vật chất, thể xác và những đau khổ phiền muộn để sống với tình thương viên mãn, bất diệt. Nhưng con người lại gắn chặt vào thân xác, vào mặt đất. Vì vậy, con người luôn bị giằng co, ray rứt giữa trời và đất, giữa ước mơ siêu nhiên và thực tại vật chất, nhu cần thể xác.
Với người tín hữu, đối tượng mong chờ của chúng ta đã cụ thể: chúng ta mong chờ Chúa đến. Lẽ tất nhiên không phải mong chờ Chúa đến như một cuộc Giáng Sinh ở hai ngàn năm trước, nhưng là Chúa đến trong vinh quang, Chúa đến khi Nước Trời được hoàn tất. Chắc chắn Chúa sẽ đến, nhưng ngày nào, giờ nào, thì chúng ta không biết được vì vậy, “phải tỉnh thức, vì không biết giờ nào Chúa các con sẽ đến… Phải sẵn sàng, vì lúc các con không ngờ, Con Người sẽ đến”. Phải sẵn sàng luôn, đừng để bị bất chợt như dân chúng trong thời ông Noê đóng tàu, đã không ngờ nên bị Lụt Đại Hồng Thủy cuốn trôi đi; hay như chủ nhà đã không tỉnh thức để bị trộm vào nhà vét sạch tiền của.
Giờ Chúa đến chỉ mình Thiên Chúa biết, chúng ta đi tìm tòi có ích gì. Điều hệ trọng là sống cho có ý nghĩa ở ngày hôm nay, sống để tạo điều kiện cho Nước Trời mau đến. Như thánh Phaolô đã dạy: “Anh em biết rằng thời này là lúc chúng ta phải thức dậy. Vì giờ đây, phần rỗi chúng ta gần đến, hơn lúc chúng ta mới tin đạo. Đêm sắp tàn, ngày gần đến, chúng ta hãy từ bỏ những hành vi ám muội và mang khí giới ánh sáng. Chúng ta hãy đi đứng đàng hoàng như giữa ban ngày, không ăn uống say sưa, không chơi bời dâm đãng, không tranh chấp ganh tỵ. Nhưng hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô và chớ lo lắng thỏa mãn những dục vọng xác thịt.
Anh chị em thân mến,
Mùa Vọng là những ngày Giáo Hội giúp chúng ta ý thức đến ý nghĩa cuộc sống của mình, ý nghĩa đó nối kết chặt chẽ với tương lai, với ngày Chúa đến. Tuy nhiên, chờ đợi Chúa đến, không làm cho chúng ta xa rời cuộc sống, trái lại, đòi hỏi chúng ta sống triệt để hơn, hoàn thành nhiệm vụ chu đáo hơn, bởi vì Thiên Chúa phán xét là tùy ở chỗ chúng ta sống trung thành với Ngài và yêu như Ngài yêu chúng ta, thì chúng ta có thể chờ đợi Chúa như đứa con chờ mẹ như người yêu chờ người yêu.
43. Chuẩn bị cho một thời đại mới sắp đến--”Tin Vui Xuân Lộc”--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Thưa quý OBACE,
Các nhà khoa học cho rằng cách đây khoảng 65 triệu năm đã có một thiên thạch rơi trúng trái đất, nó đã làm cho trái đất hoàn toàn thay đổi về khí hậu, địa chất, nó cũng làm tuyệt chủng một số loài sinh vật, chẳng hạn như loài khủng long đã bị biến mất, nhưng đồng thời nó cũng tạo một môi trường mới cho nhiều loài mới xuất hiện và phát triển. Cho đến ngày nay các nhà khoa học và nhiều dân tộc trên thế giới cũng tin rằng trái đất này sẽ trải qua một cuộc biến đổi khác, và nó cũng sẽ hủy diệt những loài nào không còn thích hợp, và chỉ những loài nào thích nghi được thì sẽ tiếp tục phát triển. Còn các nhà tôn giáo lại trình bảy thời kỳ biến đổi này dưới cái nhìn riêng, tùy theo niềm tin của mình.
Giống như sau những ngày oi bức nắng hạn, người ta mong đợi một trận mưa rào, sau những ngày đông băng giá, cây cối ủ rũ, người ta mong đợi những tia nắng ấm mùa xuân và sự đâm chồi nảy lộc của vũ trụ, cũng vậy, hôm nay chúng ta cùng với Giáo Hội bước vào mùa vọng, là mùa Giáo hội mời gọi chúng ta điều chỉnh cuộc sống chuẩn bị tâm hồn để đón chờ một thời đại mới, thời đại của Đấng Cứu Thế, Ngài sẽ đến để đem lại sự hồi sinh cho nhân loại, đem nhân loại vào một thời đại của tình yêu thương và ơn cứu độ.
Tiên tri Giêrêmia sống cách Chúa Giêsu khoảng 500 năm, lúc mà dân tộc Israel đang phải cúi đầu chấp nhận sự đô hộ của quân Babylon, tức là cả một dân tộc đang rơi vào cảnh tăm tối khốc liệt, thì vị tiên tri Đã nhìn thấy một thời đại mới sắp đến đem lại hy vọng cho dân Israel. Chính vì thế Giêrêmia đã dùng hình ảnh của một mùa xuân mới để diễn tả về thời đại ấy: Trong những ngày ấy ta sẽ cho mọc lên một mầm non, một Đấng Công Chính để nối nghiệp Đavit. Chỉ cần nhắc đến chồi non nảy mầm từ nhà Đavít cũng đủ để đem lại hy vọng cho dân Israel trong cảnh lưu đày, vì các tổ phụ các tiên tri đều loan báo rằng một chồi lộc từ nhà Đavit sẽ phục hồi xứ sở, sẽ đem đến hòa bình thịnh vượng cho dân tộc, sẽ cất khỏi họ nỗi nhục nhằn khổ sở. Tiên tri Giêremia còn cho thấy thêm chi tiết: Người sẽ thống trị muôn nước theo lẽ công bình chính trực, trong ngày ấy, Giuda sẽ được cứu thoát, Giêrusalem sẽ được an vui, và người ta gọi tên thành là: Đức Chúa là sự công chính của chúng ta. Với lời tiên báo này thì gương mặt của Đấng Giải Thoát đã rõ dần, dưới triều đại của Ngài, muôn dân muôn nước sẽ được hưởng thái bình thịnh vượng, Giêrusalem lại được muôn dân biết đến như là thành trì của Thiên Chúa, là niềm tự hào của dân tộc.
Đức Giêsu chính là Đấng các tổ phụ các tiên tri đã loan báo, việc Ngài bước vào lịch sử nhân loại này, Ngài đã thay đổi hoàn toàn lịch sử nhân loại và đem đến một thời đại mới, kỷ nguyên mới, thời đại của tình yêu thương và kỷ nguyên ơn cứu độ. Kể từ đây, Thiên Chúa không còn là Đấng ở xa, hay ở trên trời để nhận hương khói của con người nữa, mà là Đấng đã làm người, đến để ở với con người, cùng nói chung một tiếng nói với con người, cùng chung một nhịp đập của con tim và cùng chung một hơi thở với con người, để yêu thương, để nâng đỡ và để cứu con người khoi cảnh nô lệ của tội lỗi và sự chết, để cho con người đựơc sống trong thời đại của ân sủng, thứ tha và chữa lành.
Với sự xuất hiện của Chúa Giêsu, Ngài đã đem đến cho nhân loại một niềm hy vọng và một nếp sống mới. Ngài muốn con người sống theo luật mới của Ngài, là luật của yêu thương chứ không phải là gánh nặng, ngài muốn cho con người tìm được hạnh phúc ngay tại trần gian và nhất là đạt được hạnh phúc nước trời qua con đường của Tám Mối Phúc Thật, qua con đường từ bỏ khỏi sự ràng buộc của vật chất và thế gian, Ngài đem đến một nếp sống của tình yêu thương tha thứ và phục vụ, tha thứ đến bảy mươi lần bảy, và phục vụ như một người đầy tớ. Với triều đại của Ngài, Đức Giêsu đã mở ra cho nhân loại một con đường hy vọng, hy vọng được sống lại và được sống đời đời mà không phải chết, vì Ngài đã dùng cái chết của chính mình hủy diệt âm mưu của ma quỷ, trả lại sự sống và tư cách làm con Thiên Chúa cho chúng ta.
Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu lại mở ra và hướng mỗi người đến một thời đại mới, thời đại vĩnh cửu, thời mà Đức Giêsu sẽ trở lại, thế nhưng trước khi thời ấy xảy ra, thì Ngài đã cho những dấu hiệu báo trước: Những điềm lạ trên trời dưới đất sẽ xảy ra khiến cho người ta hoang mang hoảng sợ, thiên tai động đất và những tai họa khủng khiếp sẽ giáng xuống địa cầu khiến cho người ta hồn xiêu phách lạc. Nhắc đến những sự kiện thiên tai như thế không phải để gây sợ hãi hoang mang cho con người người, Nhưng Ngài chỉ muốn mỗi người nhìn những sự kiện thiên nhiên ấy để chuẩn bị cho riêng mình một tư thế, một tình trạnh và nhưng hành trang cần thiết. Các diễn biến của thiên nhiên giống như một sự chuyển mình của vũ trụ để bước vào một thời đại mới, thời đại của vĩnh hằng của bất tử, Ngày ấy, Ngài sẽ trở lại trong vinh quang của một vị Thiên Chúa và trong quyền uy của một vị thẩm phán. Khi thấy những biến cố ấy xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì ngày cứu chuộc anh em đã đến gần.
Thưa quý OBACE, để có thể đứng thẳng và ngẩng cao đầu trong ngày của Chúa trở lại thì mỗi người cần có một thái độ xứng đáng đó là: hãy đề phòng đừng để lòng mình ra nặng nề bởi chè chén say sưa, bởi lo lắng sự đời. Đó là lời căn dặn đầu tiên của Chúa vì lòng con người hay thay đổi dễ bị lôi kéo bởi tiên bạc của cải danh vọng, hưởng thụ thỏa mãn, cậy dựa vào vật chất, kể cả công ăn việc làm, tất cả những cám dỗ và lôi kéo đó khiến cho tâm hồn chúng ta thành nặng nề uể oải không còn mau mắn tỉnh thức đề đón chờ Chúa, không còn siêng năng chăm chỉ đến với Chúa nữa.
Điều tiếp theo Chúa căn dặn chúng ta: Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể đứng vững trước mặt Con Người. Chỉ có những con người tỉnh thức và cầu nguyện mới có thể đứng vững và chống chọi được với những cám dỗ của ma quỷ dục vọng thế gian, vì cầu nguyện là đón nhận được sức mạnh và sự trợ lực từ nơi chính Thiên Chúa. Thánh Phaolô còn giải thích thêm và mời gọi chúng ta: hãy lấy tình yêu thương mà đối xử với nhau, và hãy sống ngay thẳng thật thà đửng để điều gì đáng trách trước mặt Thiên Chúa, và hãy cố gắng không ngừng.
Để đón chờ một thời đại mới mà Chúa cứu thế sẽ mang đến, để có thể đứng thẳng và ngẩng cao đầu chờ ngày Ngài trở lại, chúng ta cần thực hiện những lời Chúa căn dặn hôm nay, phải trở thành con người mới, đừng để mình ngủ quên trong sự thành công và sự kiêu hãnh của mình, mà hãy tỉnh thức để nhận ra tình yêu Thiên Chúa và ân ban của Ngài đang dành cho mỗi người chúng ta. Hãy luôn tỉnh thức bằng việc chuẩn bị cho mình một tâm hồn thanh thản trong sạch trước mặt Chúa, đừng để cho đam mê ăn uống, rượu chè, cờ bạc, dục vọng lôi kéo và chôn vùi cuộc đời chúng ta, cũng đừng để cho sự lười biếng ru ngủ chúng ta, mà hãy kiên trì trong việc cầu nguyện sớm tối, dâng lễ rước lễ mỗi ngày, và hãy làm cho vợ con và gia đình trở thành một tổ ấm yêu thương và đạo đức.
Các bạn trẻ thân mến, tuổi trẻ luôn mong chờ sự đổi mới, Lời Chúa hôm nay thực sự là một lời mời gọi và cũng là một thách thức đối với các bạn, đừng để cho tuổi trẻ trở nên uổng phí, và cũng đừng để tuổi trẻ của mình chìm ngập trong lối sống vô thần, hưởng thụ, ích kỷ, xô bồ, hời hợt của ngày hôm nay, mà hãy bắt tay vào để góp phần biến đổi thế giới và xã hội này. Hãy bắt đầu từ chính bản thân mình, sống con người mới với một niềm vui hân hoan vì mình đã được cứu chuộc, vì mình thuộc về Chúa Kitô; hãy tích cực giới thiệu cho mọi người, cho bạn bè xung quanh về một thời đại mới của Chúa bằng thái độ sống yêu thương quảng đại dám đưa tay ra để giúp đỡ và chia sẻ, dám cúi xuống để phục vụ, dám chịu thiệt thòi để đem đến bình an cho gia đình cả công đồng.
Khi mỗi người và mỗi bạn trẻ dám bắt tay vào làm những việc nêu trên, là chúng ta đang sống tâm tình cùa mùa vọng, là chúng ta đang chuẩn bị đón chờ một thời đại mới mà Chúa Cứu Thế đem đến cho nhân loại chúng ta. Amen.
44. Sống tỉnh thức--Lm. Giuse Nguyễn An Khang
Năm phụng vụ mới bắt đầu, khởi đầu là mùa Vọng. Mùa Vọng, mùa mong chờ Chúa đến. Chúa đã đến lần thứ nhất, trong ngày Ngài Giáng sinh. Ngài sẽ đến lần thứ hai, trong ngày Ngài Quang lâm. Để đón chờ ngày Quang lâm, Đức Giêsu dạy: "Hãy tỉnh thức". Tin mừng Matthêu, có bốn dụ ngôn minh hoạ về sự tỉnh thức: Lụt hồng thuỷ, kẻ trộm, đầy tớ trung tín và mười trinh nữ. Hai dụ ngôn: Lụt hồng thuỷ và kẻ trộm, được chọn cho Chúa nhật thứ I mùa Vọng này.
1. Dụ ngôn Lụt hồng thuỷ
Mở đầu dụ ngôn, Đức Giêsu nói: "Quả thế, thời ông Noe thế nào, ngày Quang lâm, Con Người cũng như vậy".
Quang lâm là gì? Quang là ánh sáng, lâm là đến. Tiếng Hylạp là "Parousia", nghĩa là sự hiện diện. Xưa, trong thế giới La-Hy, người ta dùng từ ấy để chỉ những cuộc đi thăm chính thức của hoàng đế: "Thánh thượng giáng lâm".
Theo Cựu ước, Quang lâm là ngày của Chúa, ngày Đức Chúa can thiệp vào lịch sử thế giới, ngày vinh quang đầy ánh sáng huy hoàng, đến xua đuổi bóng đen tội lỗi bao phủ dân Ngài. Theo Tân ước, Quang lâm là ngày Đức Giêsu đến lần thứ hai, ngày Ngài trở lại trong vinh quang, phán xét người lành kẻ dữ, có các Thiên thần hầu cận.
Lụt hồng thuỷ thời Noe được trình bày như một hình phạt cái tội vô luân của con người. Rachi chú giải: "Sự sa đoạ nhục dục của con người thời Noe, đã đi tới hủy hoại về đạo lý và xã hội, đến nỗi loài người tự huỷ diệt chính mình mà không còn hy vọng sống sót...". Đức Giêsu biết rõ điều đó, biết con người thời đó quá gian ác và vô luân, lòng họ chỉ toan tính những ý đồ xấu xa suốt ngày. Tuy nhiên, Đức Giêsu không nói về tội vô luân, không trách sự sa đọa của những người thời Noe. Ngài chỉ trách một điều: "Họ không biết gì, cho đến khi nạn hồng thuỷ tới cuốn đi hết thảy". Họ có vẻ tin là họ bất tử, ăn chơi trác táng. Mắt họ bị bịt kín không thấy thân phận dòng mỏng con người. Họ phải chịu cái chết "nuốt trôi", để rồi phút chốc khám phá thấy mình không phải là "thần linh". Nếu muốn sống, họ cần phải có Thiên Chúa.
Để diễn tả ngày Quang lâm, Đức Giêsu lấy lời Ngôn sứ Xôphônia: "Đang lúc người ta hăng say với công việc đời thường của mình. Giữa lúc người nông dân đang cầy ruộng, người nội trợ đang xay bột, Chúa đến. Chúa đến bất chợt như chiếc lưới thình lình chụp xuống, như chớp loé từ Đông sang Tây". Và Ngài giải thích: "Bấy giờ, hai người đàn ông đang làm ruộng, một người được đem đi, một người bị bỏ lại. Hai người đàn bà đang kéo cối xay, một người được đem đi, một người bị bỏ lại...". Tại sao thế? Hai người chẳng có gì khác nhau, cùng làm ruộng, cùng xay bột, Chúa biết sự khác nhau của họ: Người sẵn sàng, người không. Bởi thế, Chúa nói: "Anh em hãy tỉnh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến".
2. Dụ ngôn kẻ trộm
Để nhấn mạnh phải tỉnh thức, Đức Giêsu đưa ra dụ ngôn kẻ trộm: "Anh em hãy biết điều này: Nếu chủ nhà biết vào canh nào, kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông phải tỉnh thức". Đức Giêsu không có ý so sánh Ngài với kẻ trộm, chỉ có ý nói sự bất chợt của ngày Quang lâm. Gia chủ nọ, nếu ông biết canh kẻ trộm đến, hẳn ông phải thức, không để nó khoét vách nhà mình. Ngày Quang lâm chắc chắn sẽ xảy ra, nhưng không biết vào ngày nào, vấn đề là phải tỉnh thức.
Tỉnh thức, Đức Giêsu nói đây, chẳng phải là một thái độ tiêu cực, cứ ngồi đấy nôn nóng chờ đợi. Tỉnh thức là trung thành với nhiệm vụ được trao phó, như người quản gia trung tín. Tỉnh thức là chuẩn bị đón Chúa Kitô trở lại, như những trinh nữ khôn ngoan, là yêu sách chu toàn trách nhiệm của mình như những đầy tớ được trao những nén bạc, là bổn phận giúp đỡ các anh em hèn mọn nhất của Chúa Kitô.
Tỉnh thức, Đức Giêsu mời gọi, không phải là sợ hãi, chỉ có những kẻ ngủ mê mới phải sợ hãi, bởi họ không được Chúa đem đi. Lời mời gọi tỉnh thức của Đức Giêsu không chỉ nhắm vào thời sau cùng, còn nhắm tới việc Người đến với mỗi người trong giờ chết. Không ai hay được ngày giờ mình chết, chẳng ai biết cách tính toán, dự phòng. Giờ chết có thể đến thình lình, bất ngờ, đang lúc làm việc, ngủ nghỉ, giải trí. Việc chuẩn bị ngày chết, cũng là việc chuẩn bị ngày Quang lâm. Nếu thực sự quan tâm đến tính cách bất ngờ và bí ẩn của ngày giờ đó, nếu sẵn sàng luôn luôn, chính giờ phút không ngờ, cho dù Chúa có đến, ta vẫn hân hoan vui mừng, bởi giờ cứu rỗi đã điểm, ta sẽ cùng với Chúa tiến vào tiệc cưới nước Trời.
45. Canh thức và sẵn sàng chờ đón Chúa--Dã Quỳ
Hôm nay chúng ta bước vào Chúa nhật thứ nhất Mùa Vọng, khởi đầu cho Năm Phụng Vụ mới. Chắc hẳn ta cảm nhận thời gian trôi qua thật nhanh. Khi khí trời se lạnh một chút, chúng ta đã thấy ngoài thị trường trưng bày bán đầy dẫy những đồ trang trí lễ Noel. Người ta rộn ràng mua sắm, chuẩn bị cho ngày lễ và mở nhạc Giáng Sinh khắp nơi. Thế nhưng, với mỗi người Kitô hữu, Hội Thánh mong muốn chúng ta sống Mùa Vọng với tâm tình chuẩn bị kính nhớ biến cố Con Thiên Chúa đến với nhân loại lần thứ nhất, đồng thời chúng ta hướng lòng trông đợi Chúa Kitô đến lần thứ hai trong ngày cánh chung. Vì thế, Lời Chúa mời gọi ta "Anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến." Vậy, chúng ta cần làm gì và sống như thế nào để có thể canh thức và sẵn sàng đón Chúa?
Khi mừng Lễ Giáng Sinh, chúng ta nhớ về một biến cố trong quá khứ đã diễn ra trước đây hơn hai ngàn năm. Chúng ta cử hành sinh nhật của Chúa Giêsu, Mầu Nhiệm Con Thiên Chúa trở nên một người ở giữa chúng ta. Còn Mùa Vọng lại thúc đẩy chúng ta hướng về tương lai. Mùa Vọng nhắc chúng ta nhớ rằng một ngày nào đó Chúa Giêsu sẽ đến trong vinh quang, là ngày cùng tận của thế giới, để thay đổi, làm cho tất cả nên mới. Vì thế, "Hãy canh thức, hãy sẵn sàng" là điều Chúa Giêsu chỉ dạy và mong ước chúng ta thực thi.
Hãy Canh Thức. Chúa tha thiết kêu mời chúng ta hãy canh thức để có thể nhận biết sự hiện diện của Chúa trong trần gian và trong cuộc sống của chính chúng ta. Chúa Giêsu đưa ra quang cảnh ngày Chúa đến sẽ như nạn hồng thủy ập xuống bất ngờ "Thời ông Nôê thế nào thì cuộc quang lâm của Con Người cũng sẽ như vậy." Vì thế, cần phải canh thức mới nhận ra ngày giờ Chúa đến và mới được cứu. Người canh thức là người tỉnh, không ngủ mê trong những tội lỗi; là người tỉnh thức trước những cám dỗ của trần gian, của những ham mê danh lợi thú, của những lo lắng sự đời và tất cả những gì ngăn cản Chúa đến với ta.
Cầu nguyện sẽ giúp chúng ta tỉnh thức hướng lòng về Chúa và không còn bám víu vào thế trần. Chính Chúa đã dạy các môn đệ "Anh em hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối."(Mc 14,38). Cầu nguyện là vũ khí của người Kitô hữu và là chìa khóa mở trái tim Thiên Chúa. Vì vậy, thánh Phaolô đã khuyên chúng ta hãy "Cầm lấy cũ khí của sự sáng để chiến đấu."(Rm13,12) Nhờ vũ khí cầu nguyện, chúng ta mới thức dậy và mạnh mẽ loại trừ những việc làm đen tối, ăn ở đứng đắn, không chiều theo tính xác thịt hay dục vọng nhưng luôn mặc lấy Chúa Kitô (x. Rm 13,12-14). Vậy đừng bao giờ chúng ta ngừng cầu nguyện, vì "Ai không cầu nguyện, không cần ma quỉ lôi kéo, sẽ tự mình sa xuống hỏa ngục."(Thánh Têrêsa Avila) Ước mong sao mỗi chúng ta biết dùng thời giờ trong ngày sống để dâng lên Chúa những tâm tình tôn vinh, chúc tụng, cảm tạ, hối lỗi và xin ơn lành...Như thế, cầu nguyện sẽ là chiếc thang nối trời với đất và giúp ta luôn tỉnh thức sẵn sàng đón chờ Chúa đến.
Hãy Sẵn Sàng. Lời Chúa tha thiết nhắc nhở ta hãy biết chuẩn bị chu đáo từ xa để có một tâm hồn sẵn sàng chờ đón Chúa. Bởi "Đời đâu học được chữ ngờ", thế nên thái độ sẵn sàng không bao giờ là thừa, nhất là sẵn sàng chờ đón giờ Chúa đến. Vì "chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến". Giờ và ngày ấy sẽ không bất ngờ nếu ta biết chuyên chăm cầu nguyện, cử hành các Bí tích, nhất là Bí Tích Thánh Thể mỗi ngày. Chỉ trong cầu nguyện và cử hành Bí tích, ta mới có cơ hội tập quen dần đón Chúa, gặp gỡ Chúa và trò chuyện thân mật với Chúa. Nhờ cầu nguyện, Chúa ban cho ta sức mạnh và lòng can đảm để vượt qua những thử thách, những sự dữ và có thể đứng vững trong ngày Chúa đến.
Chúng ta cần lắng nghe Chúa nhắn nhủ và ý thức để sống Canh Thức và Sẵn Sàng, vì "Anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến." Hãy để Lời Chúa ngân vang trong lòng chúng ta, và cố gắng thực thi Lời Chúa dạy. Hãy dành thời gian cầu nguyện, tập nhận ra Chúa hiện diện trong cuộc đởi mình, trong những biến cố, trong anh chị em. Và ta cũng hãy biết đón Chúa qua việc tiếp đón, yêu thương chia sẻ với những anh chị em bé nhỏ, nghèo hèn đang sống quanh ta ngay nơi trần gian này. Có như thế, tâm hồn ta mới luôn ở trong tư thế canh thức và sẵn sàng chờ đón Chúa. Đừng để ta bị bất ngờ về "Ngày ấy" Ngày Chúa đến với ta qua giờ chết của mỗi người và trong ngày Chúa quang lâm.
Lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến. Xin hãy ban thêm lòng tin, cậy, mến, để chúng con luôn biết tỉnh thức và sẵn sàng chờ đón Chúa và được hưởng ơn cứu độ. Amen.
46. Dấu chỉ thời đại
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay nói về ngày tận thế sẽ bất ngờ xảy đến. Tất cả những biến cố được mô tả cho thấy rằng trần gian không phải là quê hương vĩnh viễn, thế nhưng mà nhiều người lại dừng chân ở đó. Họ cố gắng tìm tòi vật chất và ra sức xây dựng một thiên đường trần gian. Đó chính là trường hợp của những kẻ mà ngày xưa đã bị dòng nước hồng thuỷ cuốn trôi. Những ai không biết đọc những dấu chỉ thời đại rồi cũng bị những tai hoạ bất ngờ đổ xuống như vậy.
Trong chiều hướng ấy, mỗi người chúng ta hãy tự hỏi: liệu tôi đã nhận ra những dấu chỉ thời đại hay chưa? Liệu tôi có đọc được thánh ý Chúa qua những biến cố xảy ra trên mặt đất này hay chưa? Công đồng Vatican II trong hiến chế Vui mừng và Hy vọng đã viết: Chúng ta đang gán cái ý nghĩa Phúc Âm nào cho những biến cố hiện đại đang tác động trên con người và trên nhân loại?
Trước hết về phía con người. Chúng ta đang chứng kiến sự giảm sút niềm kính trọng đối với nhân vị. Theo một số nhà khoa học thì con người chỉ là kết quả của một sự tình cờ ngẫu nhiên trong đà tiến hoá của vật chất. Với một quan niệm như thế thì con người còn có giá trị gì? Trong khi đó Phúc Âm đặt con người vào trong mối tương quan với Đức Kitô. Con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa. Mặc dù tội lỗi, nhưng đã được Đức Kitô cứu chuộc, để rồi trở nên con cái Thiên Chúa. Sự sống con người là một cái gì linh thiêng. Từ đó chúng ta đi tới một kết luận: chủ nghĩa duy vật hiện nay trong lý thuyết cũng như trọn cuộc sống là một dấu chỉ thời đại thôi thúc chúng ta phải xác định lại phẩm giá con người một cách mạnh mẽ.
Tiếp đến là cộng đồng nhân loại. Trong thế giới ngày nay, chưa bao giờ con người được sử dụng nhiều phương tiện kỹ thuật như ngày nay. Từ phương trời này đến phương trời kia chúng ta có thể liên hệ với nhau chỉ trong giây lát. Phải chăng đó cũng là một dấu chỉ thời đại khiến chúng ta phải tạo cho mình một não trạng phổ quát, một não trạng công giáo bao trùm trên toàn thế giới. Nếu suy nghĩ một chút chúng ta sẽ thấy hiện nay Thiên Chúa đang đi tới con người qua tất cả những phương tiện dễ dàng làm cho con người gặp gỡ nhau.
Ngoài ra những thành công của con người cũng là một dấu chỉ biểu lộ sự phong phú vô biên của Thiên Chúa nơi tạo vật. Thế nhưng uy quyền của con người càng tăng thì trách nhiệm của nó lại càng lớn. Con người sẽ làm việc cho con người, trong một ý nghĩa tích cực, nếu nó duy trì mối liên hệ với Thiên Chúa. Nếu nó xa lìa Thiên Chúa, thì uy quyền càng nhiều, sức phá huỷ của nó càng gia tăng. Trước những chuyển biến xảy ra hằng ngày, liệu chúng ta có tỉnh thức nhận ra sứ điệp Chúa muốn gởi đến hay không?
47. Tai họa khủng khiếp
Tai họa khủng khiếp, đó là tựa đề một cuốn chuyện của Mark Twain, một nhà văn nổi tiếng người Mỹ, mô tả một nhóm người đang lâm vào một tình cảnh bi đát. Chết đến nơi rồi mà họ vẫn chưa tìm được lối thoát. Đúng là họ đang nằm trên bờ một tai họa khủng khiếp. Tác giả không muốn cho câu chuyện kết thúc một cách bi thảm, nhưng ông không biết làm cách nào để cứu nhóm người đó. Vì thế ông đã viết: Tôi lỡ đặt các nhân vật của tôi vào một tình cảnh cực kỳ gian nan, đến nỗi tôi không thể nào cứu gỡ được. Ai nghĩ rằng mình có thể cứu gỡ được thì xin vui lòng chỉ giùm.
Xét về một mặt thì đây là một kết cục không hợp lý, nhưng xét về mặt khác thì đây lại là một kết cục hay, vì nó đòi buộc chúng ta phải suy nghĩ, phải can dự vào.
Cũng thế, hàng ngàn năm trước, nhân loại đã rơi vào một tình cảnh thật bi đát. Tội lỗi đã đột nhập vào trần gian và tràn lan như một đám cháy. Nhân loại bị vây khốn và không tìm được lối thoát cho chính mình. Thiên Chúa đã nhìn thấy tình cảnh bi đát ấy. Ngài không muốn câu chuyện kết thúc một cách buồn thảm, bởi vì Ngài quá yêu thương nhân loại. Ngài đã nghĩ đến phương cách giải cứu, đó là sai chính Con một Ngài đến trần gian, để cứu chúng ta khỏi vòng nô lệ tội lỗi và thiết lập vương quốc của Ngài. Vương quốc ấy đã được khởi sự rồi, nhưng cho đến nay vẫn chưa hoàn tất. Ngài ủy thác việc hoàn tất ấy cho chúng ta.
Mùa vọng nhắc nhở chúng ta nhớ lại tình cảnh bi đát của nhân loại trước khi Đức Kitô đến. Nhưng không phải chỉ có thế. Mùa vọng còn nhắc nhở chúng ta rằng Đức Kitô sẽ trở lại. Ngài sẽ đích thân xét xử mỗi người chúng ta về việc chúng ta cộng tác với Ngài trong công việc mà Ngài đã ủy thác cho chúng ta phải hoàn tất.
Chúng ta đang sống giữa cái rồi và cái chưa. Giữa biến cố Giáng sinh của Ngài và việc Ngài sẽ trở lại trong ngày sau hết. Hẳn chúng ta còn nhớ lời thiên thần nói với các môn đệ vào buổi sáng ngày lễ Thăng thiên: Sao các ngươi còn đứng đó mà nhìn trời. Đức Kitô vừa rời các ngươi mà về trời, thì Ngài cũng sẽ trở lại y như thế. Trong khi đợi chờ Ngài lại đến, thì nhiệm vụ của chúng ta trên trái đất này, không phải là đứng đó mà nhìn trời và chẳng làm gì hết, trái lại chúng ta phải nhập cuộc, phải xắn tay áo lên để hoàn tất công việc Ngài đã trao phó. Đó là những hành động bác ái yêu thương: Cho kẻ đói được ăn, kẻ khát được uống, kẻ trần trụi được mặc, kẻ đau yếu được thăm viếng. Hãy xây dựng hòa bình bằng tình bác ái yêu thương.
Mùa vọng là thời gian giúp chúng ta kiểm điểm xem bản thân chúng ta đã thực thi những điều ấy như thế nào? Là thời gian để chúng ta mong đợi Ngài lại đến trong vinh quang để phán xét chúng ta. Vì thế, thánh Phaolô đã khuyên nhủ chúng ta: Đêm sắp tàn và ngày đang tới, anh chị em hãy từ bỏ những hành vi ám muội để mặc lấy chiến bào sự sáng.
48. Hãy sẵn sàng
Sách “Cổ Học Tinh Hoa” có kể lại một câu chuyện như sau: Bấy giờ vua nước Ngô định đem quân đánh nước Tề, nhiều người lên tiếng can ngăn, nhưng vua chẳng chịu nghe, lại còn ra lệnh nếu ai nói tới việc đình chiến thì sẽ bị chém đầu.
Một vị quan trẻ tuổi nhưng nổi tiếng khôn ngoan, luôn ba ngày liền cứ sáng sớm mang cung đến khu vườn trong hoàng cung. Không đếm xỉa gì tới sương rơi và nắng gội. Ngày thứ ba, vua gặp và hỏi:
- Khanh là chi đó?
- Thưa trên ngọn cây cổ thụ này có con ve sầu hút gió, uống sương và kêu ve ve suốt ngày. Tưởng mình yên thân, song đằng sau xa xa có con bọ ngựa đang rình nhảy tới vồ. Trong khi bọ ngựa định tóm cổ ve sầu, thì ở gần đó có con chim sẻ dòm ngó, tính bắt con bọ ngựa. Nhưng chính con chim sẻ này lại không dè dưới gốc cây có người đang nhắm bắn mình. Chính tôi đây đang rình bắn con chim sẻ, thì lại quên rằng sương rơi và nắng gội có thể làm mình bị cảm và chết. Cũng như nhiều người, tôi chỉ nhìn thấy cái lợi nhỏ nhen trước mắt mà quên mất cái hại tày đình sau lưng.
Hiểu vị quan này có ý thức tỉnh mình, vua nước Ngô đã nghĩ lại, đình chỉ việc đem quân xâm lấn nước Tề.
Cũng vậy, vì đam mê chạy theo tiền tài, danh vọng và lạc thú, chúng ta quên mất thần chết đang rình rập ở sau lưng. Thực vậy, ai trong chúng ta cũng biết rằng mình sẽ phải chết và hằng ngày luôn đối đầu với nó. Cái chết ở trước mặt người già và ở sau lưng người trẻ. Cái chết thì chắc chắn, nhưng giờ chết lại bấp bênh vô định.
Mặc dù đã ý thức, nhưng chúng ta lại quên, không chịu sống đạo và thu tích cho mình một kho tàng thiêng liêng. Chúng ta mải miết chạy theo tiền tài, danh vọng và lạc thú, như vua nước Ngô đem quân xâm lăng, mở thêm chút bờ cõi, kiếm thêm chút danh vọng, không ngờ rằng một khi mình giàu sang, thì sẽ bị một nước khác nhòm ngó và chiếm đoạt.
Bởi đó, trước hết không được đặt trọng tâm đời mình vào tiền của, bởi vì càng lắm tiền của thì càng nhiều lo âu, càng nhiều bè bạn giả tạo và càng nhiều cám dỗ, để rồi sa chân vào vòng cờ bạc, rượu chè, ma túy và tội lỗi.
Nếu có chút dư thừa, thì hãy biết sử dụng vào những việc bác ái, giúp đỡ những người chung quanh, bởi vì chỉ những cái chúng ta cho đi hôm nay, thì ngày mai mới thuộc về chúng mãi mãi mà thôi.
Tiếp đến không được đặt trọng tâm đời mình vào danh vọng, bởi vì càng cao danh vọng càng dày gian nan và càng lắm kẻ thù. Trèo cao thì ngã đau.
De Girandin là một vị tổng thống, khi nằm trên giường bệnh, được bạn bè tới thăm và nhắc lại những công lao sự nghiệp, thì ông đã trả lời:
- Mấy cái đó nào có ăn thua chi. Hãy cầu nguyện cho tôi thì tốt hơn.
Sau cùng, cũng đừng đặt trong tâm đời mình vào lạc thú vì lạc thú như một thứ rượu nồng, càng uống càng khát, càng tìm kiếm càng thấy mình hèn kém và đáng khinh dễ.
Thánh Alphongsô, một nhà thần học nổi tiếng, đã quả quyết:
- Có tới 90% những người sa xuống hỏa ngục, chỉ vì đã phạm tội này.
Thực tế cho hay: phạm những tội khác, chúng ta dễ dàng sám hối ăn năn, còn phạm tội này, chúng ta ít khi chịu dừng lại, đã phạm một lần, thì thường cứ tiếp tục phạm mãi.
Hãy sẵn sàng vì thần chết luôn rình rập sau lưng. Hãy sẵn sàng vì Chúa sẽ đến vào ngày chúng ta không ngờ, vào giờ chúng ta không biết.
Hãy chuẩn bị cho mình những hành trang cần thiết, là một tâm hồn trong trắng và một đôi tay chất đầy công nghiệp, được kết đọng từ những hành động bác ái yêu thương chúng ta đã thực hiện.
Bằng không, khi Chúa đến vào cuối đoạn đường đời, chúng ta sẽ phải bẽ bàng và cay đắng vì thấy mình trắng tay, vì thấy mình phá sản, vì thấy mình chẳng có gì để đầu tư cho cuộc sống vĩnh cửu.
49. Tỉnh thức
“Vì không biết ngày và giờ, chúng ta phải theo lời Chúa dạy, luôn tỉnh thức, để khi cuộc đời độc nhất của chúng ta ở trần gian chấm dứt, chúng ta xứng đáng vào dự tiệc cưới với Ngài…”. Tỉnh thức có nghĩa là chúng ta phải sống mỗi ngày như là một ngày cuối cùng, “cố gắng làm đẹp lòng Thiên Chúa trong mọi việc”.
Một vị linh mục lớn tuổi đã kể lại câu chuyện sau đây. Xưa kia ở New York, có một bà mẹ sống với một người con trai. Chẳng may đứa con trai bị bệnh nặng. Bà mẹ không còn mong muốn gì hơn là tìm gặp được người thầy thuốc giỏi chữa lành bệnh cho con bà. Bà nghe người ta đồn về một ông bác sĩ rất giỏi từ Vienna, Aùo quốc, sẽ ghé thăm thành phố New York, và bà hy vọng sẽ mang đứa con trai đến cho ông chữa bệnh. Vào một buổi tối mùa đông, thời tiết rất xấu, bên ngoài trời mưa lạnh, bà nghe rõ có tiếng gõ cửa. Mở hé cửa ngó ra ngoài bà chỉ nhìn thấy một người đàn ông tóc phủ bờ vai cùng với bộ râu dài và lướt thướt. “Thưa bà, trời đêm tối lạnh lẽo và ướt át, tôi có thể vào nhà bà được không?” Người đàn ông hỏi. “Rất tiếc,” người đàn bà nói, “tôi không thể đón tiếp ông được!” Rồi bà đóng sầm cánh cửa và khóa kín lại.
Ngày hôm sau, người đàn bà mở tờ nhật báo ra. Ngay trang nhất, bà đọc được hàng chữ lớn in đậm: “Vị Bác Sĩ Nổi Tiếng Từ Vienna Viếng Thăm New York.” Phía dưới hàng chữ là bức hình chụp của ông bác sĩ. Với sự ngạc nhiên và buồn rầu, đây chính là người đàn ông tóc dài với bộ râu lướt thướt đã gõ cửa nhà bà tối hôm qua!
Trái với sự tỉnh thức là ngủ mê. Ngủ mê trong ảo tưởng của tội lỗi, vật chất và trần gian. Thánh Phaolô khuyên dạy dân thành Thêxalônica như sau: “Thưa anh em, anh em không ở trong bóng tối, để ngày ấy như kẻ trộm bắt chợt anh em. Vì tất cả anh em là con cái ánh sáng, con cái của ban ngày. Chúng ta không thuộc về đêm, cũng không thuộc về bóng tối. Vậy chúng ta đừng ngủ mê như những người khác, nhưng hãy tỉnh thức và sống tiết độ”.
Vài thập niên vừa qua, thành phố Pittsburgh, nơi có nhiều xưởng thép và những lò luyện kim vĩ đại gây nên những tiếng đập ồn ào suốt ngày đêm. Dân chúng sống chung quanh vùng này đã quen tai với những tiếng búa, tiếng nện đến nỗi họ vẫn ngủ yên an bình. Quả vậy, tiếng động đã ru họ ngủ ngon giấc. Nhưng vào một đêm, bất chợt tai nạn xảy đến làm ngưng trệ một nhà máy lớn. Tiếng nện ồn ào ngưng hẳn. Và mọi người đã tỉnh thức.
Có một điều gì đó giống như vậy cần xảy ra cho đời sống thiêng liêng của chúng ta. Chúng ta đang bị vây hãm bởi sự ồn ào và những cám dỗ chia trí xung quanh. Chỉ có một điều giúp tỉnh tức là sự im lặng. Sự im lặng thực sự của tâm hồn sẽ mang lại an bình và nghe được tiếng Chúa như lời khuyên của thánh Ingatiô Antiôkia: “Lời của Chúa phán ra trong thinh lặng”.
Thánh Phaolô đã khuyên chúng ta: “Đêm sắp tàn, ngày gần hết. Hãy từ bỏ những hành vi ám muội, không ăn uống say xưa, không chơi bời dâm đãng, không tranh chấp ghen tị, chớ lo lắng thỏa mãn những dục vọng xác thịt”.
50. Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Chúng ta có thể nói gì về những bất ngờ xảy đến khi Đức Giêsu quang lâm? Có thể có những bất ngờ nào khác ngoài phương diện thời gian?
2. Sự công minh của Ngài khi xét xử trần gian có siêu việt không? Những kẻ gian ác nhưng biết ngụy trang một cách khéo léo có bị lật tẩy không?
3. Phải tỉnh thức như thế nào trước những bất ngờ của ngày Chúa đến? để vẫn có thể đứng vững trước mặt Thiên Chúa?
Suy niệm
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cho biết Ngài sẽ trở lại trần gian để xét xử nhân loại và cho biết một số điều về ngày ấy như sau:
1) Ngài đến bất ngờ như kẻ trộm:
Đức Giêsu cho biết: “Chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (Mt 24,44; Lc 12,40), “Ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm” (1 Tx 5,2; 2 Pr 3,10). Sự bất ngờ của kẻ trộm có thể về mặt thời gian – nghĩa là không thể xác định được ngày nào, giờ nào – mà cũng có thể bất ngờ về cách thức: không biết được trộm đến theo cách thức nào, vô nhà bằng lối nào, lấy trộm thứ của cải nào, trộm sẽ giả dạng như thế nào, v.v… rất có thể kẻ trộm lại là người rất quen thuộc với ta, thậm chí là người nhà của ta nữa.
Hãy rút ra bài học từ quá khứ. Mặc dù việc Đức Giêsu đến trần gian đã được báo trước cả mấy trăm năm trước, và được toàn dân Ít-ra-en mong đợi, thế mà khi Ngài đến, chẳng mấy ai nhận ra Ngài. Tệ hơn nữa, họ còn kết án và giết chết Ngài một cách tàn ác. Cách Ngài đã đến khác hẳn với cách mà hầu hết mọi người nghĩ tới trước đó. Cách Ngài đến thật bất ngờ mà người thường không ai có thể tưởng tượng ra nổi. Lời Kinh Thánh báo trước cả mấy trăm năm đều được ứng nghiệm, nhưng ứng nghiệm cách khác hẳn với cách giải thích hay cách hiểu truyền thống.
Ngày Chúa đến lần thứ hai để xét xử nhân loại cũng có thể có nhiều điều hết sức bất ngờ mà con người không thể đoán trước được, không chỉ về thời gian, mà còn về nhiều mặt khác nữa. Có như thế, sự công chính hay gian tà mới lộ diện rõ rệt, vì ở thế gian, sự gian tà rất nhiều trường hợp lại được ngụy trang bằng sự công chính, và tội lỗi lại mang những bộ mặt hết sức thánh thiện. Con mắt thế gian không thể nào khám phá được, nhưng không ai qua mặt được Thiên Chúa. Đức Giêsu đã từng nói về “các ngôn sứ giả, họ đội lốt chiên mà đến với anh em; nhưng bên trong, họ là sói dữ tham mồi” (Mt 7,15). Thánh Phaolô đã từng vạch mặt những hạng người ấy: “Những kẻ đó là tông đồ giả, là thợ gian xảo, đội lốt tông đồ của Đức Kitô. Lạ gì đâu! Vì chính Xa-tan cũng đội lốt thiên thần sáng láng! Vậy có gì là khác thường khi kẻ phục vụ nó đội lốt người phục vụ sự công chính. Chung cục, chúng sẽ lãnh nhận hậu quả công việc chúng đã làm” (2 Cr 11,13-15).
2) Cách phán xử của Ngài công minh không ai ngờ trước được
Nếu Đức Giêsu đến để xét xử trần gian mà không vạch mặt được những giả hình gian dối ấy, nếu Ngài cũng bị hạng người này qua mặt như đã từng qua mặt mọi người trần, thì sự phán xử của Ngài còn gì là công minh nữa? Với tư cách là vị phán trần gian, cách xét đoán của Ngài sẽ phải hết sức công minh, công minh vượt hẳn và khác hẳn cách suy đoán của mọi người. Ngày ấy, biết bao điều bị che dấu thật khôn khéo và kỹ lưỡng, đến nỗi chưa hề có ai biết, sẽ bị đưa ra ánh sáng: “Không có gì che giấu mà sẽ không bị lộ ra, không có gì bí mật mà người ta sẽ không biết” (Lc 12,2), và “những việc tốt thì đã rành rành; mà cả những việc không tốt cũng chẳng che giấu được” (1 Tt 5,25). Chính vì thế mới có những chuyện bất ngờ như: “nhiều kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót, còn những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu” (Mc 10,31; x. Mt 20,16; Lc 13,30).
Nhiều kẻ tưởng mình là công chính hoặc được mọi người tưởng là như thế nhưng lại bị Ngài xét là gian ác, ngược lại có nhiều kẻ tưởng mình thuộc loại xấu đáng kết án hoặc bị mọi người tưởng là như thế, nhưng lại được Ngài xét là công chính. Dụ ngôn người biệt phái và người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện (x. Lc 18,9-14) là một thí dụ điển hình cho sự trái ngược ấy. Còn bao nhiêu chuyện trái ngược như thế được biểu lộ trong Thánh Kinh: “Tôi nói cho các ông hay: Từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp trong Nước Trời. Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng” (Mt 8,11-12; nên xem thêm Rm 9,30-32; 10,20). Vì thế, tới lúc ấy, chẳng ai dám tự hào mình công chính, vì càng tự hào thì càng dễ trở nên bất chính do chính sự tự hào ấy: “Ai tưởng mình đứng vững, hãy coi chừng kẻo ngã” (1 Cr 10,12).
Ngày ấy, sẽ có rất nhiều người tưởng mình công chính vì tự thấy mình chưa bao giờ làm một điều gì xấu, lại làm được biết bao việc phúc đức, nhưng lại không được coi là công chính, mà thậm chí ngược lại, vì:
– biết bao nhiêu lần họ đã bỏ qua không làm những việc quan trọng và cần thiết mà đấng bậc họ buộc phải làm
– họ có thói quen thờ ơ trước những đau khổ cùng quẫn của người chung quanh, họ không làm gì cả mà lương tâm chẳng hề cắn rứt
– họ thường xuyên nhắm mắt làm ngơ để mặc bất công hoành hành đang khi mình có khả năng can thiệp hoặc chặn đứng lại được
– họ hay tự hào về những việc tốt lành của mình đồng thời lên mặt khinh chê người khác
Và cũng biết bao người tỏ ra khô khan nguội lạnh nên tưởng mình là bất chính nhưng lại được Chúa xét là công chính, vì:
– đã thực tình sám hối và quyết tâm không bao giờ tái phạm
– khi đụng chuyện cần phải hy sinh cho tha nhân thì đã hy sinh một cách quảng đại, không tính toán, biết quên mình thật sự.
– biết mình yếu đuối, nên luôn luôn tỏ ra khiêm nhường, biết cảm thông với những yếu đuối, sai lầm của mọi người.
3) Số phận con người khi ấy được định đoạt khác nhau
Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu cho biết: “Bấy giờ, hai người đàn ông đang làm ruộng, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại; hai người đàn bà đang kéo cối xay, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại”. Chúng ta chưa biết ý nghĩa chắc chắn của hai từ “được đem đi” và “bị bỏ lại”, nhưng qua đó, ta biết được số phận mỗi người lúc ấy được định đoạt một cách khác nhau: kẻ “bị” người “được”, kẻ khổ người sướng. Tất cả đều tùy thuộc vào cách sống, cách cư xử và hành động của mỗi người ở trần gian: Ngài “cứ theo công việc mỗi người mà xét xử” (1 Pr 1,17; Kh 20,12-13), “sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm” (Mt 16,27; x. Rm 2,6). Thánh Gia-cô-bê còn cho biết: “Đừng ham làm thầy thiên hạ, vì anh em sẽ bị xét xử nghiêm khắc hơn” (Gc 3,1).
Đó là ngày của công lý. Những kẻ gây bất công sẽ phải đền tội: “Thiên Chúa sẽ trả báo, nghĩa là bắt những kẻ gây gian truân cho anh em phải chịu gian truân” (2 Tx 1,6), “Ai ăn ở bất công sẽ được trả theo điều bất công mình làm; không có chuyện thiên vị” (Cr 3,25). Còn những kẻ đã phải đau khổ và chịu bất công vì Thiên Chúa, vì tha nhân, sẽ được đền đáp: “Anh em sẽ được coi là xứng đáng tham dự Nước Thiên Chúa, chính vì Nước Thiên Chúa mà anh em chịu đau khổ” (2 Tx 1,5).
4) Cần phải tỉnh thức
Vì không ai biết được ngày quang lâm của Chúa xảy đến lúc nào, và xảy ra thế nào, nhưng có điều chắc chắn là sẽ có nhiều điều rất bất ngờ, không ai dè trước được. Chính vì thế, Đức Giêsu đề nghị với chúng ta một thái độ khôn ngoan, đó là phải tỉnh thức. Tỉnh thức có nghĩa là phải sống làm sao để dù Chúa đến vào bất kỳ lúc nào, dưới bất kỳ hình thức nào, hoặc xét xử công minh đến đâu, thì ta vẫn có thể đứng vững trước mặt Ngài. Vậy cần phải tỉnh thức cách nào?
Thái độ tốt nhất trước mặt Thiên Chúa là thái độ tự hủy và yêu thương. Tự hủy là coi nhẹ cái tôi của mình, không coi mình là cái gì quan trọng, không tự hào, không tự cho mình hơn ai, không kết án ai, và cũng không coi ý riêng của mình là sáng suốt, khôn ngoan hơn người. Yêu thương là thể hiện tinh thần tự hủy một cách tích cực hơn, ích lợi hơn cho tha nhân: sẵn sàng hy sinh bản thân vì lợi ích và hạnh phúc của tha nhân. Yêu thương đòi hỏi phải tự hủy như một điều kiện cần thiết. Không thể yêu thương đích thực nếu không tự hủy. Sống tinh thần tự hủy và yêu thương như thế là cầu nguyện đúng nghĩa nhất: cầu nguyện bằng chính cuộc sống, là kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa nơi tha nhân, một sự kết hiệp thực tế và bằng hành động cụ thể. Đó là cách tích cực để ta nên công chính trước mặt Thiên Chúa.
Thiên Chúa xét xử ta khoan hay nghiêm tùy thuộc rất nhiều vào sự khoan nghiêm của ta đối với tha nhân: “Thiên Chúa không thương xót khi xét xử kẻ không biết thương xót. Còn với ai biết thương xót, thì Người chẳng quan tâm đến việc xét xử” (Gc 2,13). Ngài không thể không tha thứ cho những ai luôn luôn tha thứ. Ngài sẽ phải tha thứ vô điều kiện cho những kẻ luôn luôn tha thứ vô điều kiện. Chắc chắn Ngài không thể thua con người về lòng khoan dung. Vả lại chúng ta đã hợp đồng với Chúa như thế khi đọc kinh Lạy Cha, theo sự chỉ dạy của Đức Giêsu: “Xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con” (Mt 6,12; x. Lc 11,4). Khốn cho chúng ta nếu đã hợp đồng với Chúa như thế mà lại không biết tha thứ: “Nếu anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình, Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như vậy” (Mt 18,35). Như thế, luôn luôn tha thứ cho mọi người một cách vô điều kiện, dù lỗi họ có nặng đến đâu, không cần họ phải hối hận hay xin lỗi, là một bí quyết giúp ta hoàn toàn trắng án trong ngày đó, cho dù tội lỗi ta có nặng đến đâu.
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin cho con biết sống yêu thương, quên mình, đồng thời biết cảm thông với những đau khổ cũng như những yếu đuối của tha nhân, để con biết ra tay cứu giúp, biết tha thứ những lầm lỗi của họ. Con nghĩ đó là cách tỉnh thức đón chờ Đức Giêsu đến một cách khôn ngoan nhất. Xin cho con thực hiện được những điều ấy, để ngày ấy Cha sẽ hài lòng về con và ngày ấy cũng sẽ là ngày hạnh phúc nhất của con. Amen.
51. Ngày và đêm--Lm Bùi Quang Tuấn
“Các con phải sẵn sàng” (Mt 24,44) vì “đêm sắp tàn, ngày gần đến” (Rm 13,12). “Hãy bước đi trong ánh sáng của Chúa” (Is 2,5).
Đó là lời mời gọi cấp thiết khởi đầu cho một năm phụng vụ. Thế là một mùa Vọng lại về. Bao tâm hồn lại nao nức chuẩn bị cho ngày lễ Giáng sinh sắp đến.
“Đêm sắp tàn, ngày gần tới” rồi sao? Nhưng khi nào là đêm và lúc nào là ngày? Làm sao biết được ranh giới giữa ngày và đêm?
Một vị sư phụ đã nêu câu hỏi với các học trò của mình: “Chúng con có biết khi nào đêm chấm dứt và lúc nào ngày bắt đầu?” Một anh nhanh nhảu: “Thưa thầy, ấy là lúc ta thấy một con vật từ đàng xa và phân biệt được nó là con bê hay con lừa.” Một anh khác, sau lúc suy tư cũng xin góp ý: “Thưa thầy, khi nào ta nhìn thấy người bộ hành và phân biệt được là thù hay bạn.” Nhiều câu trả lời khác cũng được đưa ra nhưng dường như vị sư phụ không thoáng một chút hài lòng. Cuối cùng cả đám nhao nhao xin thầy giải thích. Sau phút trầm ngâm như muốn thấm sâu giòng tư tưởng, vị sư phụ lên tiếng: “Khi nào các con nhìn vào tha nhân và nhận ra đó chính là anh chị em mình thì đêm đã tàn và ngày đã tới.”
Thế ra không phải việc “phân biệt” con vật này hay con vật kia hoặc người này hay người nọ, song là “nhận ra” tha nhân là anh chị em mình, mới làm cho bóng tối tan đi và ánh sáng toả rạng.
Đêm đen sẽ mãi thống trị tâm hồn nếu đời tôi cứ đắm chìm trong hiềm khích, hận thù, bất công, chia rẽ, vô luân, lừa dối. Còn khi để cho yêu thương dẫn lối cuộc sống, ngày mới cuộc đời đã bắt đầu lên ngôi, nhờ ánh quang soi tỏ mọi lối đường.
Nỗi khát mong đợi chờ cho ánh sáng tình yêu thống trị địa cầu đã bắt đầu thành sự khi Đức Giêsu là “Mặt Trời Công Chính” bừng lên và cũng là “Hoàng tử Bình An” ngự đến.
Ấy thế mà dường như nỗi khát mong đợi chờ ấy vẫn không ngừng lập đi lập lại. Phải chăng vì tâm hồn nhân thế cứ bị bóng đêm của thế gian đe dọa chiếm đoạt, nên ước nguyện ánh sáng chân lý chiếu soi vẫn mãi là đặc tính của mùa Vọng hằng năm?
Ngày xưa, theo truyền thuyết của dân Rôma, tối 24 tháng 12 là ngày sinh của thần mặt trời, để rồi sáng hôm sau vị thần đó vươn mình đứng lên mang lại ánh sáng và sự sống cho nhân gian. Thế nên, khắp cùng đế quốc, người ta mừng lễ Natalis Solis Invicti vào ngày đông chí, tức là ngày 25 tháng 12, khởi đầu thời kỳ thần ánh sáng thắng vượt tối tăm, bước qua giai đoạn ngày dài hơn đêm.
Vào năm 336, Đức Giáo Hoàng Jules I đã ấn định ngày đông chí như ngày kỷ niệm Đức Giêsu – “Mặt Trời Công Chính” – đã giáng sinh cho nhân loại. Thế là ngày lễ ngoại giáo đã được Kitô hoá. Nét truyền thuyết và thần thoại được thay bằng tính chất xác thực của biết cố Nhập thể.
Từ đó trở đi, cứ mỗi lần sắp đến 25 tháng 12, giáo dân khắp nơi nô nức chuẩn bị tâm hồn cho ngày đại lễ Giáng Sinh. Họ không ngừng ăn chay hãm mình, quảng đại thứ tha, đổi mới đời sống, chờ mừng ngày Chúa ngự đến. Dần dần những việc làm đó trở thành đặc tính căn bản của mùa Vọng, mùa trông mong ngày sinh nhật Đấng Cứu thế.
Đã bao mùa Giáng sinh trôi qua, nhưng có lẽ “tính chất căn bản” của mùa Vọng đó đã phai mờ trong lòng nhiều người. Khi xưa, Giáo hội Kitô hóa ngày lễ ngoại giáo thành lễ Giáng sinh để hướng con người đến với nguồn sáng và nguồn sống đích thực. Còn hôm nay, không chừng tôi lại đang tục hóa ngày lễ thiêng liêng kia để rồi lòng mình cứ mãi lắng lo trong bao sự đời.
Ngày xưa mùa Vọng đã trở nên lời nhắc nhở canh tân lối sống, sửa sang tâm hồn, dọn lòng mừng Chúa đến. Còn hôm nay, không chừng tôi chỉ nghĩ đến trang hoàng nhà cửa, giăng thêm đèn màu, mua sắm quà cáp chuẩn bị cho những cuộc liên hoan say sưa, cuồng loạn, có khi... tội lỗi.
Một lần nữa, lời nhắn nhủ trong thơ của Thánh Phaolô lại thức tỉnh hồn tôi: “Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Hãy từ bỏ những hành vi ám muội và mang khí giới ánh sáng. Hãy đi đứng đàng hoàng như giữa ban ngày, không ăn uống say sưa, không chơi bời dâm đãng, không tranh chấp ganh tị. Nhưng hãy mặc lấy Chúa Kitô, và chớ lo lắng thoả mãn các dục vọng xác thịt”. (Rm 13,12-14)
Thực hành lời khuyên nhủ trên là khởi sự Kitô hoá cuộc đời, là sống trọn vẹn hơn ý nghĩa của mùa Vọng năm nay, và chắc chắn, là bắt đầu cảm nếm niềm vui nhiệm mầu sâu lắng trong lễ Giáng sinh sắp đến.
52. Có thể đây là năm cuối đời tôi--Lm Hà Ngọc Đoài
"Hãy tỉnh thức, vì không biết giờ nào Chúa các con sẽ đến." (Mt 24,42)
Trong một bữa tiệc tất niên với bạn hữu, bà B nói nhỏ với ông A khuyên chồng bà đi xưng tội, để chuẩn bị lễ Giáng Sinh cách đặc biệt. Năm nay các con cháu xa gần sẽ quy tụ tại nhà ông bà để mừng lễ Giáng Sinh. Vì con cái nghĩ rằng cha mẹ họ đã già, đến với nhau được năm nào hay năm đó. Biết đâu đây là dịp cuối cùng con cái được quây quần bên cha mẹ để mừng lễ. Ông B trước đây là một người ngoan đạo, sốt mến trong các việc giúp đỡ giáo xứ, nhưng vì một hiểu lầm nào đó ông bỏ lễ luôn! Bạn bè thông cảm và khuyên rằng, nếu bất bình với cha xứ hoặc với ai trong giáo xứ mà bỏ lễ thì không đúng. Chúng tôi không bênh vực ai hết, nhưng mời ông nhìn vào thực tế của đời mình và Thiên Chúa. Đạo là do Chúa ban cho mỗi người qua Giáo Hội. Cùng với Giáo Hội đức tin của chúng ta lớn mạnh và cùng với Giáo Hội chúng ta có bổn phận phát triển nước Chúa. Tại sao vì giận người trần mà bỏ Thiên Chúa và bỏ môi trường Chúa ban cho ta để sống và nương nhờ nhau. Trong cuộc sống chung, va chạm và hiểu lầm là chuyện thường tình. Chỉ có một điều là đừng quá khích và tự tôn mà xa nhau. Cần có sự quảng đại và thông cảm cho mỗi người trong công việc của họ thì mới xây dựng cộng đoàn dân Chúa được. Xã hội gồm nhiều người có nhiều đặc tính khác nhau, hễ bất mãn là phá, hễ không vừa ý mình là chống thì làm sao mà hòa hợp được. Ông B nghe lời khuyên có lý, nhưng vì tự ái còn âm ỷ trong mình nên trả lời rằng ‘khi gần chết thì tôi sẽ làm hoà lại." Mọi người an lòng khi nghe như vậy, nhưng ai cũng im lặng và suy nghĩ trong lòng rằng ai biết được giờ chết của mình? Ơn hòa giải đến từ Thiên Chúa hay chính mình ban ra? Quyền quyết định về phần rỗi là nơi Thiên Chúa hay chính con người? Thánh Augustinô khi đang còn sống trong tình trạng tội lỗi cũng lý luận, biện minh, và trì hoãn như thế. Ngài nói là xin cho con ơn trở lại, nhưng hãy đợi lúc sắp chết! Trong tác phẩm Confessions của Ngài kể rằng, một hôm tiếng lương tâm thúc dục: chần chờ bao lâu nữa? Ngài dày vò đầu óc tự hứa là ngày mai sẽ trở lại. Lương tâm tiếp tục cảnh cáo rằng tại sao không bây giờ, ngày mai thì không chắc chắn! Liền ngay đó có tiếng nói hai lần: Hãy cầm lấy và đọc. Ngài đi hỏi người bạn tiếng nói ấy có ý nghĩa gì, thì người bạn đưa cho cuốn Thánh Kinh, Ngài mở đúng ngay đọan Rom 13:11-14: hãy biết rằng giờ này là lúc con hãy thức dậy.
Thực Hành: "Đêm sắp tàn, ngày sắp đến... phần rỗi chúng ta gần đến." (Rom 13:11-12) Trái đất quay chung quanh mặt trời để muôn vật có ánh sáng và sự sống. Chúa ban cho chúng ta có mùa phụng vụ để thay đổi đời mình tốt đẹp hơn và sống gần Chúa hơn. Xin cho con ơn nhạy cảm để đời con không mất đì cơ hội sống đời đời.
53. Lên tàu hy vọng--Lm Phạm Quốc Hưng
Hôm nay, chúng ta bước vào Mùa Vọng, vào một năm phụng vụ mới của Giáo Hội. Giáo hội mời gọi chúng ta phải nỗ lực canh tân đời sống đức tin và lòng nhiệt thành truyền giáo để đón Chúa Giêsu xuống thế làm người.
Thật vậy, trong mùa Vọng, Giáo Hội nhắc chúng ta nhớ lại việc Chúa Giêsu đã sinh ra làm người để cứu chuộc nhân loại nơi hang Bêlem, và việc chúng ta phải chuẩn bị để chào đón Người trở lại trong vinh quang để phán xét thế gian. Đồng thời, chúng ta cũng được mời gọi phải luôn tỉnh thức để nhận biết và tiếp đón Chúa trong cuộc sống hàng ngày nơi mọi người, mọi vật, mọi biết cố nhỏ to, nhất là nơi Thánh kinh, Thánh Thể và các bí tích của Hột Thánh, để chuẩn bị sẵn sàng gặp gỡ Chúa trong giờ chết, khi Chúa đến đưa chúng ta về bên Người trong cõi vĩnh hằng.
Chúng ta có cảm nghĩ và phản ứng gì khi nhớ đến việc Chúa đã xuống thế làm người hơn 2000 năm trước đây? Chúng ta phải làm gì để chào đón Người trở lại lần thứ hai? Chúng ta đã luôn tỉnh thức để nhận biết và tiếp đón Chúa trong cuộc sống hàng ngày chưa? Chúng ta đã chuẩn bị sẵn sàng để hân hoan đón nhận cái chết ngay giây phút này đây, như một cuộc gặp gỡ mà chúng ta hằng chờ mong để được chiếm hữu Chúa trong cõi vĩnh hằng chưa?
Nếu giờ đây lòng chúng ta không rộn ràng sung sướng vì tin vui Chúa đã giáng trần, nếu hiện nay chúng ta không thao thức mong chờ Chúa đến trong vinh quang, nếu lúc này chúng ta chưa cảm nhận hiện diện đầy quyền năng và tình thương của Chúa trong cuộc sống hàng ngày, nếu bây giờ chúng ta còn sợ chết, thì đó là dấu hiệu chắc chắn cho thấy chúng ta chưa sẵn sàng đón tiếp Chúa. Đó là dấu chúng ta chưa thực sự tin Chúa, chưa thực sự biết Chúa, chưa thực sự yêu Chúa, chưa thực sự thuộc về Chúa. Đó là dấu chúng ta còn đang ngủ, đang mê, đang sống trong bóng đêm tội lỗi.
Trong Tin Mừng của phụng vụ hôm nay, một lần nữa Chúa đang nói với chúng ta một cách khẩn thiết và thân thương như Chúa đã nói với các môn đệ khi xưa: “Hãy tỉnh thức... hãy sẵn sàng...”
Chúa đã nhắc đến việc Nôê đóng tàu để cứu sống ông và gia đình khi đại hồng thủy đến trong khi dân chúng cùng thời với ông tiếp tục sống buông thả theo dục vọng và tội lỗi của họ. Người dạy các môn đệ đừng bắt chước những người đồng thời với Nôê. Những người thời Nôê đã dại dột không biết lắng nghe ông và cố ở lì trong nếp sống sa đọa tội lỗi nên đã bị tru diệt. Chúa muốn các môn đệ của Người noi gương Nôê, biết tỉnh thức làm theo lời Chúa, đóng tàu và lên tàu với hy vọng được cứu sống.
Trong xã hội hôm nay, nhiều ngưởi trong chúng ta còn dại dột hơn những người đồng thời với Nôê bội phần. Vì chúng ta đã thấy đại lụt bắt đầu rồi mà vẫn lì lợm không chịu bước vào con tàu hy vọng Chúa đã sắm sẵn cho chúng ta. Vì chúng ta đã được chính Chúa Giêwu – Con Thiên Chúa làm người, chứ không phải một người phàm như Nôê – cảnh cáo và kêu gọi phải tỉnh thức và sẵn sàng, nhưng chúng ta vẫn giả điếc làm ngơ.
Hiện nay, trên thế giới có hơn 50 triệu thai nhi bị giết hàng năm một cách hợp pháp tại hầu hết các quốc gia. Đa số các cặp vợ chồng đi ngược lại luật Chúa khi xử dụng các phương thế ngừa thai nhân tạo hay tuyệt sản để tránh bổn phận phục vụ sự sống. Bao gia đình tan rã vì ly dị. Việc ăn chung ở chạ được nhiều người coi là chuyện bình thường. Phim ảnh và sách báo đua nhau khai thác bản năng tính dục của quần chúng. Không ít linh mục và giám mục Công giáo hổ thẹn vì giáo huấn chân thực của Hội thánh về luân lý liên quan đến hôn nhân và tính dục. Nhiều tín hữu dù đã đủ ăn đủ mặc vẫn gian lận trợ cấp xã hội dành cho người cùng khổ. Có những chủ nhân Công giáo bóc lột nhân công cách tàn nhẫn. Có không ít những đố kị ghen ghét bôi lọ nhau diễn ra ngay trong sinh hoạt của các giáo xứ và cộng đoàn Kitô hữu. Đó là chưa kể đến những gương xấu của những người lãnh đạo tên tuổi và những cuộc chém giết bạo động được ghi nhận trên báo chí hàng ngày.
Những sự kiện kinh hoàng trên đây không đủ để làm thành một thứ “văn hóa tử vong” hay một cuộc đại hồng thủy của tội lỗi còn ghê tởm hơn cuộc đại lụt thời Nôê đó ư? Lời kêu gọi thống thiết của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II và các vị chủ chăn chính trực của Hội Thánh nhằm ngăn chặn các tội ác chống lại sự sống và phẩm giá con người không phải là sự lập lại lời kêu gọi của ông Nôê hay của chính Chúa Giêsu khi xưa sao?
Nôê và gia đình của ông năm xưa đã được cứu thoát khỏi đại hồng thủy vì đã đóng tàu và vào tàu như lời Chúa truyền dạy. Con tàu Nôê đã là biểu tượng của hy vọng và của ơn cứu độ.
Cũng vậy, ngày nay chúng ta sẽ được cứu thoát khỏi cơn đại lụt của tội lỗi đang dâng tràn trên thế giới, nếu chúng ta biết nổ lực xây dựng và gắn bó với con tàu hy vọng là Hội Thánh Công Giáo – Nhiệm thể Chúa Kitô và sự Hiện diện nối dài của chính Chúa Kitô – và lắng nghe mệnh lệnh của viên thuyền trưởng là chính Chúa Kitô mà Đức thánh Cha là vị đại diện hữu hình của Người.
Trong con tàu hy vọng ấy, chúng ta không những được bảo đảm thoát khỏi hiểm họa của đại lụt của tội lỗi, mà còn được diễm phúc gặp gỡ và kết hợp mật thiết với Chúa Kitô qua Lời Chúa và các bí tích của Hội thánh cũng như các hoạt động bác ái và truyền giáo của Hội thánh.
Những cây đinh, những tấm ván, và những cây cột mà chúng ta dùng để dựng xây con tàu Hội thánh chính là những lời cầu nguyện, những hy sinh hãm mình, những hành động yêu thương và những hoạt động tông đồ mà chúng ta thực hiện trong sự yêu mến, vâng phục và hiệp nhất với Hội thánh.
Chúng ta có tỉnh thức và sẵn sàng để cùng các môn đệ yêu quý của Chúa Kitô qua mọi thời đại bước vào con tàu hy vọng của Hội thánh và nỗ lực góp phần xây dựng Hội thánh chưa?
Một lần nữa, chúng ta hãy nghe thánh Phaolô – một trong những người có công đầu trong việc dựng xây và lèo lái con tàu Hội thánh theo ý Chúa Kitô – mời gọi chúng ta chuẩn bị để bước lên tàu hy vọng với những lời tha thiết như sau:
“Phải như thế, vì anh em biết thời buổi (nào ta đang sống). Đã đến giờ anh em phải tỉnh ngủ thức dậy, vì nay ơn cứu thoát đã gần ta hơn là khi ta mới tin. Đêm hầu tàn, ngày sắp đến. Vậy ta hãy vất bỏ những vật tối tăm và hãy mặc lấy khí giới sự sáng. Như giữa ban ngày, ta hãy sống đoan trang, chứ không phải trong chè chén và say sưa, trong dâm dật và phóng đãng, trong kình địch và ghen tuông. Nhưng anh em hãy mặc lấy Đức Kitô và đừng lo toan về xác thịt, cho thỏa các đam mê.” (Rm 13,11-14)
Lạy Mẹ Maria là nguồn hy vọng và cậy trông của chúng con, xin Mẹ chuyển cầu cùng Chúa Giêsu cho hết thảy chúng con trong năm phụng vụ mới nầy và suốt cả đời chúng con, ơn luôn nhận biết Hội thánh chính là con tàu hy vọng Chúa đã ban cho nhân loại để chúng con được ơn cứu rổi. Xin Mẹ cầu cùng Chúa cho chúng con luôn trung thành, yêu mến và vâng phục Hội thánh và Đức thánh cha để luôn được kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu Kitô Con Mẹ. Amen.
54. Hãy tỉnh thức
Đoạn Tin mừng hôm nay làm cho chúng ta liên tưởng tới cái chết. Dầu vậy, Chúa không muốn cho cuộc đời chúng ta chìm trong một màu tang tóc và một bàu khí nơm nớp lo sợ, nhưng để chúng ta luôn sẵn dàng và nhìn cái chết bằng cặp mắt lạc quan.
Đúng thế, có một câu danh ngôn đã bảo:
- Cái chết thì chắc chắn, nhưng giờ chết thì lại bấp bênh vô định.
Có một mẩu chuyện cổ tích kể lại rằng: Vào một buổi sáng mùa xuân, thày dòng giữ cửa trong một tu viện, nghe thấy tiếng chim hót véo von. Thày ngước mắt trông xem và nhìn thấy một con chim họa mi rất đẹp, thày liền đuổi theo, con chim cứ bay một quãng rồi lại dừng, làm thày miệt đuổi theo, đến lúc thày lạc vào một khu rừng vắng thì con chim biến mất.
Thày tìm đường trở lại nhà dòng. Mãi tới chiều mới về đến. Cửa nhà dòng đóng chặt, thày nhấn chuông và một người ra mở cổng. Thày ngơ ngác nhìn người lạ mặt và những sự đổi thay trong nhà dòng. Thày tự giới thiệu nhưng không một ai nhận biết. Mãi sau cha bề trên đem sổ sách ra tìm tòi, thì mới thấy một thày canh cổng trùng tên đã mất tích cách đây 100 năm. Một trăm năm trôi qua mà thày cứ tưởng như là một tiếng chim hót.
Thời giờ thấm thoát tựa thoi đưa, vụt đến rồi vụt đi như ngựa hồng qua khung cửa. Và một khi đã qua đi thì không bao giờ trở lại, như người ta thường bảo:
- Không ai tắm hai lần trên cùng một dòng sông.
Mới hôm nào tôi còn là một đứa bé, đầu để chỏm ba quả đào, mà hôm nay đã ngoài năm mươi, để rồi bắt đầu bước vào tuổi già.
Những em thiếu nhi đang ngồi đây, nhưng rồi 20, 30, 40 năm nữa sẽ như thế nào? Nhất là còn bao lâu nữa sẽ đến giây phút trọng đại, giây phút cuối cùng của cuộc đời tôi. Nói như thế, chắc hẳn sẽ có người cho tôi là lẫm cẩm, vì họ nghĩ rằng:
- Đời mình còn dài và cứ dệt nhiều ước mơ, thân xác mình còn đầy tràn nhựa sống và hăng say hoạt động.
Nhưng chúng ta sẽ lầm, cái chết không dành riêng cho một người nào đó. Nó muốn gọi ai, thì người ấy phải bước theo nó, dù là vua chúa quyền uy. Nó không bao giờ phân biệt giai cấp, tuổi tác cũng như ngôn ngữ vàchủng tộc.
Trên mộ bia của của một thanh niên người ta đọc thấy dòng chữ:
- Cái chết thật vô lễ vì nó dám kéo người trai trẻ này đi trước cụ già.
Một làn gió nhẹ, một sơ suất nhỏ bé cũng đủ đưa chúng ta sang thế giới bên kia bất cứ lúc nào. Ý thức được sự mỏng manh, bèo bọt của kiếp sống là như thế, nên thái độ cần phải có, đó là hãy tỉnh thức và sẵn sàng.
Đúng thế, cách đây khá lâu tôi quen một gia đình ở Sài gòn. Mùa hè năm ấy, sau khi cậu con trai đỗ tú tài phần hai, cả gia đình rủ nhau đi Vũng tàu. Buổi sáng Chúa nhật trời trong xanh, giữa lúc mọi người đùa giỡn với sóng biển, thì cậu con trai bơi ra xa, xa hơn một chút và rồi cậu không bao giờ trở lại nữa.
Một xoáy nước nào đó đã cuốn mất cậu, người ta tìm kiếm hoài mà cũng không thấy, mãi sau xác cậu nổi lên và dạt vào bờ.
Thế nhưng, chúng ta có biết được niềm an ủi độc nhất của người cha và người mẹ đáng thương ấy không? Hai ông bà đã nói với tôi rằng:
- Nó mới xưng tội và vẫn còn rước lễ sáng hôm đó.
Thật tốt đẹp nếu chúng ta có một linh hồn được chuẩn bị sẵn sàng, bằng không thì chúng ta sẽ mất cả chì lẫn chài, mất cả vốn lẫn lãi, mất cả đời này lẫn đời sau.
Trên mộ bia của những người thời xưa, chúng ta thường thấy ghi háng chữ tuyệt vời:
- Người này đã chết sau nụ hôn của Chúa.
Chúng ta hãy sống thế nào, để dù Chúa có đến vào lúc chúng ta không ngờ, vào giờ chúng ta không biết thì chúng ta vẫn sẵn sàng, vẫn bình an và vui sướng. Vậy mỗi ngày sống, chúng ta có biết chuẩn bị cho cuộc hành trình cuối cùng này hay không?
Trong cơn hấp hối, người ta đã hỏi thánh nữ Marguerite Alacoque rằng:
- Còn cần sự gì nữa chăng?
Thánh nữ đã trả lời:
- Không, vì tôi đã sẵn sàng.
Cũng vậy trong giờ chơi, một xơ đã hỏi các em nhỏ:
- Nếu như bây giờ được Chúa gọi về, các em sẽ làm gì?
Em thì bảo sẽ giục lòng ăn năn tội cách trọn, em thì bảo sẽ vào nhà thờ đọc kinh cầu nguyện. Thế nhưng có một em đã trả lời:
- Phần con, con vẫn tiếp tục chơi như thường vì con đã sẵn sàng.
Em bé ấy sau này đã trở nên một vị thánh đó là thánh Gioan Berchmans.
Nếu hôm nay tôi phải đến trước tôn nhan Chúa, liệu tôi đã thu xếp xong mọi công việc hay chưa? Tôi đã trả hết những món nợ đối với Chúa và đối với anh em hay chưa? Tôi đã tẩy xóa hết những vết nhơ tội lỗi qua bí tích cáo giải hay chưa?
Nếu chúng ta biết sửa soạn ngay từ ngày hôm nay, nếu mỗi khi chiều xuống chúng ta biết xét mình, tự vấn lương tâm và chỉ ngủ yên khi nào linh hồn mình đã được gột rửa qua tâm tình thống hối, nếu chúng ta giữ được màu trắng của tấm áo ngày rửa tội, nếu chúng ta giữ được ngọn nến đức tin luôn bừng cháy, thì thật là hạnh phúc và giờ chết không còn là giờ kinh hoàng và đáng sợ nữa.
Nếu bây giờ chúng ta biết chuẩn bị sẵn sàng, thì khi Chúa đến, chúng ta sẽ không chết, nhưng chính lúc ấy chúng ta mới bát đầu sống. Cuộc sống nơi trần thế là một chuyến viễn du trong đêm tối hay trên mặt biển dậy sóng. Nhưng ở đằng kia bình minh đang ló dạng và Thiên Chúa đang mở rộng vòng tay chào đón chúng ta nơi bờ bến hạnh phúc.
Hãy sống để chuẩn bị cho cái chết và hãy chết để được sống muôn đời.
55. Đứng thẳng
Càng ngày các thiên tai càng xảy ra nhiều hơn trên toàn thế giới. Bão tố, lũ lụt, động đất, hạn hán…Và sự tàn phá của các thiên tai thật là khủng khiếp. Các bình luận gia cho rằng: Một trong những nguyên nhân đưa đến sự thiệt hại lớn lao về sinh mạng và tài sản do các thiên tai gây ra, đó là vì người ta thiếu cảnh giác và đề phòng. Thực vậy, nếu những nơi nào người ta biết cảnh giác, biết đề phòng thì sẽ tránh được nhiều thiệt hại do thiên tai đem đến.
Tại Việt Nam, các cơn bão, các trận lũ lụt thường xảy ra vào khoảng tháng 11, tháng mà Giáo hội nhắc nhở người Kitô hữu suy nghĩ về sự chết. Thời gian này cũng là những tuần lễ cuối cùng của năm phụng vụ và bắt đầu một năm phụng vụ mới. Các bài đọc Lời Chúa trong các thành lễ của thời gian này nói nhiều về ngày cùng tận của thế giới và về ngày cùng tận của mỗi người. Đó là những biến cố quan trọng mà con người không thể dửng dưng. Trái lại, phải biết cảnh giác, biết đề phòng để khi những biến cố ấy xảy đến, chúng không hủy diệt con người và cuộc sống của mình. Quả là một sự trùng hợp về thời gian rất đáng để chúng ta suy nghĩ.
Tổng kết các thiệt hại chúng ta thấy rằng: Thiên tai thường cất đi mạng sống của nhiều người. Trong số đó có những con người còn rất khỏe mạnh, rất trẻ trung. Có lẽ gia đình và bản thân những người ấy đã không nghĩ rằng họ sẽ chết trong tình trạng sức khỏe và tuổi tác như thế. Vậy mà họ đã chết. Thì ra, sức khỏe và sự trẻ trung không phải là những thế lực có thể thắng được cái chết.
Trong số những người chết vì thiên tai, cũng có những người nắm giữ những chức vụ quan trọng trong xã hội, có những người giàu sang quyền quí, có những người học cao hiểu rộng, thông minh tài trí…Có thể họ là những người cần thiết và hữu ích cho nhân loại, thế nhưng, cái chết vẫn không chừa họ ra.
Các thiên tai cũng phá đổ nhiều công trình kiến trúc, nhiều ngôi nhà cao tầng kiên cố, đã quét sạch tài sản của nhiều người. Những cao ốc và những tài sản này có khi là công sức của nhiều thế hệ mới tạo lập nên được. Người ta đã tưởng chúng sẽ có thể tồn tại lâu dài theo năm tháng và sẽ là điểm tựa, là chỗ ẩn náu vững chắc cho cuộc sống. Vậy mà chỉ trong nháy mắt,tất cả đã biến thành tro bụi.
Thế đấy! Những gì mà người ta nghĩ rằng không thể đến thì chúng đã đến. Những gì mà người ta nghĩ rằng chúng chưa xảy ra thì chúng đã xảy ra. Và khi sự việc đã xảy ra thì người ta mới tỏ ý hối tiếc. Hối tiếc rằng: Phải chi họ đã cảnh giác đề phòng, đã tiên liệu, thì hậu quả đâu đến nỗi bi đát như vậy. Phải chi đài khí tượng thủy văn đã được trang bị hiện đại hơn để có thể ghi nhận những thay đổi của thời tiết một cách chính xác và mau lẹ hơn. Phải chi hệ thống thông tin đã loan báo tin bão khẩn cấp, tin lũ lụt sớm hơn và kịp thời hơn. Phải chi họ đã di dời nhà cửa trước khi cơn bão lũ xuất hiện. Phải chi họ đã không ra khơi trong những ngày đó. Phải chi các tàu thuyền đã chuẩn bị phao cứu hộ đầy đủ hơn… Có cả hàng trăm câu”phải chi”như vậy.
Tuy nhiên, dù người ta hối tiếc về sự thiếu chuẩn bị, thiếu đề phòng trong những biến cố đã qua, thì người ta vẫn quên hay cố tình quên không chuẩn bị, không cảnh giác đề phòng một biến cố khác sẽ đến. Biến cố này quan trọng hơn cả các thiên tai dữ dội nhất và là biến cố rất quan trọng của một đời người. Biến cố ấy chính là giờ chết của mỗi người. Biết rằng cái chết sẽ đến, nhưng người ta vẫn né tránh không nghĩ tới nó. Lý do có thể là người ta sợ hãi khi nghĩ tới giờ chết, tới cái chết của chính mình. Người ta cũng lo sợ rằng khi nghĩ về giờ chết, về sự chết thì cuộc đời của họ sẽ bị đảo lộn. Thật vậy, khi nghĩ tới giờ chết một cách nghiêm túc, người ta sẽ phải thay đổi đời sống, sẽ phải bỏ đi một lối sống buông thả, một lối sống ươn lười chỉ thích hưởng thụ, sẽ phải bỏ đi những lợi nhuận bất chính, bỏ đi những đam mê thấp hèn, bỏ đi những khoái lạc mang nặng thú tính v.v… Phải bỏ đi những trái cấm ngọt ngào ấy quả là đáng tiếc. Vì thế, người ta ngại nghĩ đến giờ chết của mình. Nhưng dù nghĩ tới hay không thì giờ chết vẫn cứ đến như một thứ định mệnh không thể né tránh. Đối với những ai không chuẩn bị để đón nó, cái chết sẽ như những thiên tai khủng khiếp hủy diệt tất cả.
Lời Chúa hôm nay kêu gọi ta hãy tỉnh thức, hãy cảnh giác đề phòng. Đề phòng bằng cách đứng thẳng và ngẩng đầu lên. Đứng thẳng và ngẩng đầu lên để thấy được trời cao lồng lộng ở trên đầu mình chứ không phải chỉ có cuộc tạm gửi này. Đứng thẳng và ngẩng đầu lên để hướng tới hạnh phúc đích thực và trường cửu chứ không chỉ biết bám vào những thứ hạnh phúc mau qua. Đứng thẳng và ngẩng đầu lên để vươn tới tầm cao của sự thánh thiện chứ không chỉ biết cúi xuống với những lời mời chào của tội lỗi.
56. Tỉnh thức
Một người thuộc bộ lạc miền núi cả đời như chưa từng thấy ánh sáng văn minh. Một hôm ông được đưa xuống thăm một đô thị. Ngay đêm đầu tiên, ông giật mình thức giấc vì tiếng trống vang cùng khắp đô thị. Sau khi được người chung quanh cho biết đó là tiếng trống báo động về một cuộc hỏa hoạn vừa xảy ra tại một khu phố. Người dân miền núi nhìn ngọn lủa đang bốc cháy tại một góc trời, rồi ông trở lại giường ngủ tiếp.
Trở về làng, ông báo cáo với các chức sắc trong làng như sau: Người dân thành thị có một hệ thống chữa cháy rất kỳ diệu. Khi có hỏa hoạn, người ta chỉ cần đánh trống là ngọn lửa được dập tắt ngay tức khắc. Nghe nói thế, các chức sắc liền sai người đi mua đủ các loại trống phát cho dân làng. Không bao lâu sau đó, hòa hoạn xảy đến trong làng, tất cả dân làng đều đem trống ra khua inh ỏi vì tin chắc tiếng trống sẽ xua đuổi được thần lửa. Thế nhưng ngọn lửa cứ vô tình thiêu rụi từ căn nhà này đến căn nhà khác trước cái nhìn ngỡ ngàng và thất vọng của mọi người.
Tình cờ ghé thăm bộ lạc và được nghe kể lại diễn tiến cơn hỏa hoạn, một người dân thành thị mới giải thích cho dân làng như sau: Các người thật ngây ngô, các người tưởng tiếng trống có thể dập tắt được ngọn lửa ư? Không phải thế đâu. Tại thành phố, người ta đánh trống để đánh thức dân chúng và kêu gọi họ tích cực tham gia chữa cháy, chứ không ngồi đó mà chờ ngọn lửa tắt đâu.
Qua đoạn tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói đến sự tỉnh thức không có nghĩa là ngồi đó khoanh tay mà chờ đợi. Để nói lên sự tỉnh thức đích thực, Chúa Giêsu dùng hình ảnh người đầy tớ đêm ngày trung thành với công việc được chủ trao phó. Sự tỉnh thức mà Chúa Giêsu kêu mời là một sự tỉnh thức tích cực đòi hỏi lao tác và phấn đấu. Thánh Phaolô cũng nhắc nhở cho các tín hữu Thessalonica về thái độ tích cực tỉnh thức ấy. Trong những năm đầu của Kitô giáo, một số tín hữu tưởng rằng Chúa Giêsu sẽ trở lại trong một sớm một chiều, nên họ ăn không ngồi rồi và dây mình vào chuyện người khác. Thánh Phaolô khuyên nhủ họ hãy tỉnh thức bằng cách hăng say lao động và thực thi bác ái.
Tỉnh thức là thái độ cơ bản của người Kitô hữu. Toàn bộ thánh kinh là một lời mời gọi tỉnh thức, bởi vì Thiên Chúa là đấng đang đến trong từng phút giây cuộc đời, trong từng biến cố và trong mỗi con người. Tỉnh thức để nhận ra Ngài và nhất là đáp trả một cách tích cực tiếng gọi của Ngài, Ước gì cuộc sống đức tin của chúng ta không chỉ là tiếng trống khua inh ỏi trong bốn bức tường nhà thờ, mà phải được thể hiện bằng những gặp gỡ để cảm thông và phục vụ.
57. Sẵn sàng
Chúng ta bắt đầu mùa vọng với hai đặc tính: vừa chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh, kính nhớ việc con Thiên Chúa đến lần thứ nhất, vừa trông đợi Ngài đến lần thứ hai trong ngày tận thế. Vì vậy, mùa vọng được coi là mùa sốt sắng và hân hoan trông chờ.
Qua đoạn tin mừng sáng hôm nay chúng ta thấy: Chúa Giêsu nói Ngài sẽ trở lại, nhưng không xác định thời giờ. Vì thế, bổn phận của chúng ta không phải là tìm hiểu xem bao giờ ngày trọng đại ấy sẽ xảy ra, nhưng là chuẩn bị cho mình bằng cách tỉnh thức và săn sàng, bởi vì ngày đó sẽ đến thật hết sức bất ngờ cho những kẻ miệt mài chạy theo vật chất trần gian. Trong câu chuyện ngày xưa, Noe đã chuẩn bị cho mình khi thời tiết còn tốt, hầu sẵn sàng cho trận đại hồng thủy, đang khi ấy, những kẻ còn lại thì mải mê ăn uống, cưới gả, nên đã bị nước lụt cuốn trôi. Vì thế, đừng miệt mài trong cõi đời tạm mà quên đi cõi sống đời đời, đừng quá quan tâm đến thế gian, mà quên rằng có một Thiên Chúa và vấn đề sống hay chết đều nằm ở trong bàn tay của Ngài. Bất kỳ khi nào Ngài gọi, ban sáng, ban trưa, ban chiều hay ban tối, chúng ta đều phải sẵn sàng.
Một tên trộm sẽ không bao giờ gửi thư báo trước mình sẽ viếng thăm nhà nào. Lợi thế của hắn ta chính là sự bất ngờ. Vì vậy chủ nhà lúc nào cĩng phải canh chừng. Tuy nhiên, chúng ta cần phải nhớ rằng: Chúa cảnh giác chúng ta chứ không chơi khăm chúng ta bằng cách cứ nhắm vào lúc chúng ta sơ hở mà trở lại. Hơnthế nữa, người Kitô hữu không trông chờ trong sợ hãi kinh khiếp, nhưng trông chờ trong hân hoan vui mừng vì Chúa sẽ đến và Ngài sẽ ân thưởng bội hậu cho chúng ta.
Ông thanh tra khi đến thăm một trường tiểu học đã nói với các em học sinh rằng:
- Tôi sẽ trở lại đây. Vậy từ nay cho đến ngày tôi trở lại, em nào giữ được bàn mình sạch gọn thì sẽ được thưởng.
- Vậy bao giờ ông trở lại?
- Chưa biết hôm nào.
Trong số các học sinh có một cô bé quả quyết rằng mình sẽ chiếm được phần thưởng. Ai nghe cũng phải mỉm cười vì cô bé ấy nổi tiếng là lười biếng. Có người hỏi:
- Bàn của cô có bao giờ sạch đâu mà mong được thưởng?
- Từ nay, mỗi buổi sáng tôi sẽ thu xếp một lần.
- Nhưng nếu ông thanh tra đến vào buổi chiều hay buổi tối thì sao?
Cô bé yên lặêng một lúc rồi nói:
-Tôi hiểu rồi, như thế thì lúc nào tôi cũng phải giữ bàn của tôi cho được sạch sẽ và gọn ghẽ.
Nếu chúng ta muốn được Chúa ân thưởng thì chúng ta cũng phải tỉnh thức và săn sàng như vậy.
58. Sẵn sàng
Chúa sẽ đến nhưng bao giờ Ngài đến thì đó là một điều bí ẩn, bởi vì Ngài sẽ đến vào ngày chúng ta không ngờ vào giờ chúng ta không biết. Vì thế phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng. Đồng thời thái độ nguy hiểm nhất đó là cứ cho rằng mình còn nhiều thời giờ.
Trong một cuộc đại hội của quỉ sứ, chúng bàn bạc và góp ý xem đâu là phương thế hữu hiệu nhất để cám dỗ con người. Tên quỉ thứ nhất nói:
- Tôi sẽ bảo cho loài người biết rằng chẳng có Thiên Chúa.
Tên quỉ thứ hai phát biểu:
- Tôi sẽ bảo cho họ hay rằng chẳng có hỏa ngục.
Satan trả lời:
- Các ngươi sẽ không thể lừa dối được một ai bằng những phương cách đó, bởi vì cho đến ngay hôm nay, loài người vẫn tin rằng có Thiên Chúa và vẫn biết có một hỏa ngục dành cho các tội nhân.
Tên quỉ thứ ba hiến kế:
- Tôi sẽ bảo với loài người rằng còn nhiều thời gian, nên đừng có vội vã làm chi.
Satan đáp:
- Hãy đi đi, với phương cách này, chúng ta sẽ làm hại được rất nhiều người.
Ảo tưởng nguy hiểm nhất chính là ảo tưởng cho rằng mình còn nhiều thời giờ. Cái ngày tai hại nhất trong cuộc sống con người chính là khi chúng ta học được hai chữ ngày mai và trì hoãn công việc bởi vì không ai biết ngày mai có còn đến với mình nữa hay không. Bởi đó, có một câu danh ngôn đã khuyên chúng ta: Việc hôm nay chớ để đến ngày mai. Lịch sử còn ghi lai nhiều câu chuyện bi thảm.
Viên pháp quan ở Thebea đang ngồi uống rượu với các dũng sĩ của mình, bỗng có sứ giả bước vào và báo cho ông hay về một âm mưu sát hại ông. Thay vì lên phương án đối phó. Ông nói: để đến mai hãy hay. Thế nhưng ngay đêm hôn đó, ông đã bị giết chết.
Một thiếu nữ Mã lai lấy chồng giàu ở Nữu ước. Ngày kia trên đường từ Cali trở về, cô gặp tai nạn giao thông và bị thương rất nặng. Lúc còn trẻ, cô là người đạo đức. Tuy nhiên cuộc hôn nhân đã đưa cô vào một môi trường khác hẳn. Ở đây không còn một ai nói với cô về Thiên Chúa và cuộc sống vĩnh cửu. Lúc đầu, thái độ và bàu khí dửng dưng về tôn giáo này làm cho cô khó chịu, nhưng dần dần cô tiêm nhiễm sự xa hoa để rồi cuối cùng chính cô cũng không còn lưu tân đến Thiên Chúa và linh hồn nữa. Tai nạn bất ngờ đã kéo cô ra khỏi vùng xoáy của trần gian và ném cô vào vòng tay tử thần. Cô khắc khoải hỏi vị bác sĩ:Tôi sẽ chết ư? Tôi còn sống được bao lâu nữa? Chừng một giờ. Nghe vậy toàn thân côrun rẩy. Cô đưa tay che mặt lại và nằm yên không động đậy trong giây lát. Sau đó, hình như cô lấy hết sức còn lại và nói: Xin hãy đưa tôi về Nữu ước. Nhưng vị bác sĩ trả lời:
- Không thể được.
Với vẻ thất vọng, cô nói:
- Tôi đã có thể làm biết bao nhiêu điều tốt lành với tiền bạc của tôi nếu tôi trung thành với đức tin. Thế nhưng tôi chỉ nghĩ đến những cuộc giải trí và trang điểm. tôi chỉ còn sống được một giờ nữa mà thôi. Bây giờ thì đã quá muộn rồi.
Bởi đó, hãy chuẩn bị, hãy tỉnh thức và hãy sẵn sàng, để chúng ta khỏi phải thốt lên trong tuyệt vọng: đã quá muộn rồi.
59. Ngạc nhiên
Khi còn trẻ, ta ấp ủ những hy vọng lớn nhất. Ta tưởng có thể thay đổi được thế giới. Ta hoàn toàn tin tưởng vào khả năng của mình, và thấy dường như không gì mà không thực hiện được. Khi đã lớn khôn ta lại thấy khác hẳn. Ta đã gặp thất bại. Ta biết rõ giới hạn của mình và của những kẻ chung quanh mình hơn. Ta đã biết phát hiện rõ hơn những gì trong lòng con người… và trong chính con tim của ta nữa. Lúc đó ta trở thành cụ thể và thực tế, như người ta nói. Ta ngày càng ít ảo tưởng. Có lẽ ta không bỏ hoàn toàn những giấc mơ tuổi trẻ của mình, nhưng ta nhận thấy rằng chúng đã tàn phai. Bốn mươi, năm mươi tuổi, thường là thời kỳ mà người ta trở nên ít nhiệt tình và e ngại trước nhiều sự việc mà trước kia ta cho là chính yếu. Hòa bình thế giới ư? Lý tưởng đẹp đẽ thật; nhưng ta không bao giờ đạt tới được đâu! Công lý cho mọi người, lương thực được phân phát đồng đều khắp nơi ư? Có nhiều không tưởng trong những điều ấy! Nếu thời trẻ say mê tin tưởng sẽ có được như thế, thì điều khôn ngoan là nên dè dặt hơn khi ta đã lớn tuổi. Những tháng năm trôi qua, những biến cố xẩy đến trên thế giới, những kinh nghiệm sống của bản thân, sẽ thử thách niềm hy vọng của chúng ta. Đấy là điều chắc chắn. Vậy cần có thời gian để thức tỉnh, để làm cho niềm hy vọng ấy trở nên mạnh mẽ hơn. Mùa Vọng là thời gian cần thiết đó. Năm này sang năm khác, mùa Vọng công bố lại những lời sấm vĩ đại, nâng đỡ, soi sáng và kích thích tín hữu. Không tưởng đối với loài người… Dự án đối với Thiên Chúa.
Điều làm chúng ta ngạc nhiên trong các bản văn của thánh lễ hôm nay là dáng vẻ phi thực tế của chúng. Đoạn sách ngôn sứ Isaia chúng ta vừa nghe là một thí dụ. Bản văn này loan báo ngày mà tất cả các dân tộc sẽ hướng về Thiên Chúa, sẽ đón nhận và thực thi giáo huấn của Ngài. Lúc đó họ sẽ sống trong hòa bình sâu xa nhất, và trong một tình thương huynh đệ gương mẫu. Các bạn hãy tưởng tượng xem? “Gươm đao sẽ thành cuốc thành cày, và giáo mác thành liềm thành hái. Nước này sẽ không chống nước kia nữa, người ta sẽ thôi học nghề chinh chiến. Hết xung đột tại Trung đông! Hết đấu tranh giữa người da trắng và da đen, người giàu và kẻ nghèo. Hoàn toàn hết chạy đua vũ trang!... Ta tưởng như mình đang mơ. Thiên Chúa ngây thơ đến thế ư? Không đâu! Ngài là Thiên Chúa. Ngài toàn năng. Ngài là chủ tể của cái chưa từng thấy và của cái không thể được. Ngài muốn – và Ngài sẽ thực hiện – một hạnh phúc hoàn toàn cho những con người mà ngài đã tạo dựng nên”. Thiên Chúa đã cho thấy những gì Ngài đã làm cho những kẻ thuộc về Ngài rồi. Nhất là Ngài đã tự tỏ mình ra từ ngày Con Một Ngài là Chúa Giêsu đến ở giữa chúng ta. Ta hãy nhớ! Chúa Giêsu đã làm cho người què đi được, cho kẻ phong cùi được sạch, đã tha thứ cho kẻ có tội. Nhờ Ngài, Nước Thiên Chúa đã đến giữa chúng ta, và mỗi ngày một tiến triển. Đúng là nó tiến triển chậm chạp, và với nhiều khó khăn cản trở. Đôi khi, dường như nó bị mất đất, diều này cũng đúng nữa. Tuy nhiên Thiên Chúa chăm sóc tất cả những gì Ngài đã trồng và khi đến giờ Ngài lựa chọn, theo cách của Ngài, Ngài sẽ biểu dương tất cả sức mạnh của Ngài, tất cả tình thương của Ngài. Ngày mai sẽ tốt đẹp hơn hôm qua, tốt đẹp hơn hôm nay. Bao nhiêu điều gây ngạc nhiên đang chờ đợi chúng ta.
Cụ thể hóa niềm hy vọng
Những gì Thiên Chúa có thể làm và muốn làm, Ngài đều chờ đợi sự đóng góp của chúng ta. Ngài đòi hỏi chúng ta cộng tác vào. Trách nhiệm nặng nề, vì chúng ta có thể hợp tác hoặc chống đối, làm cho nhanh hoặc chậm lại sự tiến triển của Nước Chúa. Để hỗ trợ sự tiến triển này chúng ta phải là những kitô hữu “Tỉnh thức”, luôn luôn chờ đợi, luôn luôn đẩy lui sự dữ và làm nẩy sinh sự thiện. Đó là giáo huấn của thánh Phaolô và của Tin mừng. Chúng ta phải nói với thế giới, như Chúa Giêsu đã làm, rằng mọi cuộc tái sinh đều có thể được, và bóng tối có thể biến thành ánh sáng được. Sứ vụ của kitô hữu chúng ta hôm nay, là nhìn thế giới và những con người sống trong đó với chính cái nhìn của Thiên Chúa: Tức là hành động, bằng những công việc phản ánh những công việc của Chúa Kitô. Sứ vụ của chúng ta là bỏ đi những sự nghi nan và những nỗi thất vọng để trở thành như Chúa Kitô, tức là những con người không bao giờ thất vọng về điều gì cả, bởi vì họ hy vọng mọi sự từ nơi Thiên Chúa, Đấng không ngớt làm chúng ta ngạc nhiên trong những điều chúng ta mong đợi.
60. Chúa đến
Vào năm 1987, người ta cho trình chiếu cuốn phim mang tựa đề: “After day”, nghĩa là “ngày sau đó” kể lại nghịch cảnh của ít người dân trong thành phố lớn thuộc miền bắc Hoa Kỳ còn sống sót sau một trận bom nguyên tử. Vụ nổ bom hạt nhân đã xảy ra vì cái điên loạn của con người khi quyết định dùng vũ khí hạt nhân để hủy diệt sự sống của mọi sinh vật, thuộc mọi đại lục trên thế giới. Ngày tận thế ấy kéo theo cảnh chết chóc, hoang tàn đổ nát, đau khổ và thất vọng của những người đang chờ đến lượt mình phải chết, vì bị nhiễm chất phóng xạ, bị thương tích và bị thiếu đồ ăn thức uống.
Trong cảnh đổ nát hoang tàn và chết chóc ấy, những người còn sống sót đã tàn sát nhau để tranh giành từng miếng bánh, từng chút bột, từng ngụm nước. Trong nháy mắt, thế giới văn minh của loài người biến khỏi mặt đất và con người phải đứng trước cảnh đổ nát với hai bàn tay trắng, bất lực và tuyệt vọng.
Các bài đọc trong Chúa nhật I Mùa Vọng hôm nay cũng nói với chúng ta về ngày tận thế, nhưng không phải là ngày tận thế bị chết chóc, buồn thương, mà là ngày tận thế khởi đầu cho một cuộc sống mới. Đó cuộc sống của tự do và của ơn cứu độ. Muốn được như thế, chúng ta phải sống đẹp lòng Thiên Chúa chứ không phải sống đẹp lòng người ta, dù người ta ấy có là ai đi chăng nữa. Nhưng phải là gì để làm đẹp lòng Thiên Chúa đây? Phải lớn lên, phải trưởng thành, phải sung mãn trong tình yêu thương tha nhân. Thiên Chúa vui sướng hạnh phúc khi thấy chúng ta trưởng thành và lớn lên trong tình yêu thương ấy, tình yêu thương mà Ngài đã trao ban cho chúng ta qua chính con người của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu thế.
Ngoài ra, mỗi người chúng ta cần phải luôn luôn đón chờ Chúa Giêsu đến trong tâm hồn và trong cuộc đời bằng cách sống thánh thiện và kiên vững chờ đợi Chúa đến. Bởi vì sống thánh thiện tức là sống yêu thương trọn vẹn. Các thánh là những người biết noi gương Chúa Giêsu sống yêu thương trọn vẹn. Càng biết yêu thương tha nhân với một tình yêu vô vị lợi, thì càng trở nên giống Chúa Giêsu bấy nhiêu. Càng giống Chúa Giêsu bao nhiêu, thì chúng ta lại càng giống Thiên Chúa bấy nhiêu. Đó là điều đẹp lòng Thiên Chúa và làm cho Ngài vui sướng hạnh phúc nhất.
Thế giới và xã hội loài người gặp nhiều khổ đau, vì con người không biết yêu thương nhau, hay không yêu thương nhau theo tinh thần Tin mừng của Chúa mà Ngài mời gọi. Như vậy, cách thức đón chờ Chúa Giêsu hữu hiệu nhất là hãy bắt đầu yêu thương nhau. Bởi vì đó là bí quyết vun trồng mầm giống sự sống thần linh và xây dựng trời mới đất mới cách cụ thể và hữu hiệu nhất.
61. Sẵn sàng
Năm Phụng Vụ mới được Giáo Hội hội bắt đầu với Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng.
Thế nhưng, mùa vọng không phải chỉ là thời gian để Giáo Hội nhìn về quá khứ, nhìn về biến cố Con Thiên Chúa đã giáng sinh và cử hành biến cố này với lễ Noel. Nghĩa là mùa vọng không phải chỉ là mùa chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh. Nhưng mùa vọng còn là thời gian hướng con người về tương lai, về biến cố Chúa ngự đến lần thứ hai trong vinh quang vào lúc cuối cùng của lịch sử nhân loại, khai mạc trời mới đất mới, làm cho mọi sự đạt đến cùng đích duy nhất của mình là Thiên Chúa.
Mùa vọng hướng con người đến với Thiên Chúa, Đấng đang đến trong lịch sử, đang hướng dẫn toàn thể vũ trụ đến sự thành toàn viên mãn cuối cùng. Thiên Chúa đến gặp con người trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể và hướng dẫn con người đến sự thành toàn viên mãn, nhưng Ngài không áp đặt con người, vì Ngài tôn trọng tự do của con người. Con người cần lắng nghe lời mời gọi tỉnh thức, canh tân đời sống, đó là sừ điệp mà bài đọc II và Tin mừng Chúa nhật hôm nay nhắc lại cho chúng ta.
Nơi thơ thánh Phaolô gởi tín hữu Rôma đã khuyên các tín hữu: “Anh em thân mến! Anh em biết rằng đã đến lúc chúng ta phải thức dậy, vì giờ đây phần rỗi chúng ta đã gần đến hơn lúc chúng ta mới tin đạo, đêm sắp tàn, ngày gần đến, chúng ta hãy từ bỏ những hành vi ám muội và mang khí giới ánh sáng, hãy đi đứng đàng hoàng như giữa ban ngày” (Rm 13,11-14).
Đó là những lời khuyên vẫn còn thiết thực cho mỗi người tín hữu trong xã hội nhiều hưởng thụ như ngày nay, ngõ hầu sống trong sự sẵn sàng khi Chúa ngự đến, và Ngài đến một cách thình lình không ai ngờ trước được. Hãy từ bỏ những hành vi ám muội và mặc lấy Chúa Kitô, hãy để cho dung mạo Chúa được chiếu sáng trong chúng ta. Đó là cách thức tốt đẹp nhất để tiếp đón Chúa ngự đến vào lúc Ngài muốn, và Phúc âm Chúa nhật thứ nhất Mùa vọng diễn tả Ngài đến như kẻ trộm: “Vậy các con cũng phải sẵn sàng vì lúc các con không ngờ thì Con Người sẽ đến” (Mt 24,44).
Chúa đến như kẻ trộm, Ngài đến gặp chúng ta trong chính cảnh sống của mình, trong chính lúc chúng ta chu toàn bổn phận. Tỉnh thức đón Chúa không có nghĩa là chu toàn bổn phận của mình, mà là chu toàn bổn phận như Chúa, với Chúa và trong Chúa. Đó là thực hiện lời khuyên của thánh Phaolô là hãy mặc lấy Chúa Kitô để đón Chúa Kitô ngự đến.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con chu toàn bổn phận của mình như phương thế trọn hảo để sẵn sàng đón Chúa ngự đến. Xin đừng để chúng con sống trong một thái độ ù lì, nhưng trong thái độ tích cực từ bỏ các tật xấu, các công việc của bóng tối, để mỗi ngày sống xứng đáng hơn hầu sẵn sàng đón Chúa ngự đến. Amen.
62. Tỉnh thức
Chuyện kể rằng, một thày dòng nọ đọc đâu được trong bộ sách khôn ngoan cũ kỹ mách bảo cho biết rằng: “Tận cùng chân trời của trái đất là nơi trời với đất gặp gỡ nhau”.
Phấn khởi vui mừng, thầy lên đường tìm kiếm nơi trời mới đất mới gặp nhau và sẽ không trở về nhà cho tới khi tìm được. Ngày tháng trôi qua, thầy vẫn kiên nhẫn rảo bước khắp nơi với niềm hy vọng mãnh liệt trong tâm hồn, bất chấp mọi khó khăn gian khổ và thử thách, những lần phải chịu đói khát, giá rét và không gì có thể lay chuyển được ý định của thầy.
Trong bộ sách khôn ngoan cũ kỹ ấy có chỉ thêm rằng: “Khi tới chỗ đất với trời gặp nhau sẽ thấy có một cánh cửa, chỉ cần gõ nhẹ cánh cửa sẽ mở ra và người ấy sẽ gặp thấy Thiên Chúa”.
Thật vậy, sau nhiều ngày tháng đi tìm kiếm đó đây khắp mặt đất, cuối cùng thầy dòng đã tới trước cánh cửa. Thầy vui mừng gõ cửa bước vào, lúc đó thầy dòng mới hoảng hồn nhận ra đó là Tu viện cũ của thầy, là cửa của căn phòng mà thầy đã từng sống bao nhiêu năm qua.
Trong Phúc âm, Chúa Giêsu đã hứa với dân chúng rằng: “Ai xin sẽ được, ai tìm sẽ thấy, ai gõ cửa sẽ mở cho”. Đời sống trần thế là thời gian tìm kiếm Chúa với hy vọng vững chắc là sẽ được gặp Ngài, nhưng cần phải tìm kiếm Chúa ở đâu?
Thật sự không cần phải đi tìm kiếm Chúa ở tận nơi xa xôi hoặc mãi nơi chân trời nào cả, Thiên Chúa hiện diện ngay trong tâm hồn mỗi người, cùng đồng hành với mỗi người trong mọi hoàn cảnh vui buồn, sướng khổ của cuộc sống. Vấn đề quan trọng là có biết nhận ra những giờ, những nơi hẹn mà Chúa đang chờ đợi ta hay không?
Chúng ta biết tỉnh táo và chuẩn bị sẵn sàng là thái độ của mỗi người đầy tớ trung tín, chứ không phải là thái độ cần thiết của những người gác cổng mà thôi. Tỉnh thức có nghĩa là các đầy tớ sẽ làm các công việc khác nhau của mình một cách ý thức, là tiến hành công việc mà Thiên Chúa đã ủy thác cho họ thực hiện. Tỉnh thức là biết mình đang làm gì đến nỗi vừa làm việc, vừa có thể nghe được hơi thở của mình. Sự ý thức lựa chọn mà mỗi người làm trong giây phút hiện tại sẽ định đoạt số phận vĩnh hằng của mình sau này.
Giáo Hội như người mẹ hiền nhắc nhở con cái là những người có lòng tin phải sẵn sàng chờ đợi ngày trở lại sau cùng của Chúa Giêsu, ngày trở lại đó ai cũng biết là chắc chắn mặc dù không ai biết trước được khi nào ngày giờ đó sẽ xẩy đến. Cũng là điều tốt cho chúng ta khi không biết chắc chắn lúc Chúa Kitô sẽ trở lại, bởi vì nếu biết thời điểm đích xác chúng ta có thể bị cám dỗ ỷ lại, lười biếng trong công việc của mình cho Chúa Kitô, hoặc tệ hại hơn nữa là tiếp tục ngồi lì trong con đường tội lỗi với hy vọng sẽ trở lại với Chúa trong giờ phút cuối cùng.
Tỉnh thức và sẵn sàng, tức là lúc nào cũng sẵn sàng chuẩn bị để bất cứ lúc nào ông chủ vềàbất thình lình, Người vẫn thấy chúng ta có mặt thay vì ngủ nghê hoặc lêu lổng với công việc bổn phận. Để được thế, chúng ta cần luyện tập, làm việc cách trung thành với công việc Chúa đã ban cho chúng ta trong giây phút hiện tại, cũng đừng để cho trí tuệ tinh thần của chúng ta ra u mê, sống buông thả hay sự mù quáng đuổi theo các đam mê điên rồ hoặc để cho các lo âu đời sống đè bẹp, trói buộc chúng ta mãi.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã phán bảo chúng con hãy luôn tỉnh thức kẻo sa chước cám dỗ, xin ban sức mạnh cho chúng con để chúng con luôn bền tâm trong công việc thiện, trong khi chờ ngày Chúa đến. Ước chi mỗi lần Chúa đến gõ cửa nhà tâm hồn chúng con, Chúa sẽ hài lòng thấy chúng con luôn tỉnh thức trong cầu nguyện, vui mừng ca tụng Chúa và nhiệt thành thực thi bác ái với mọi người. Amen.
63. Tỉnh thức
Theo Phúc âm thánh Matthêu thì việc canh phòng chờ đợi ngày Chúa đến được giải thích bằng ba dụ ngôn: Dụ ngôn kẻ trộm đến bất ưng ban đêm và người đầy tớ bất trung, người trinh nữ ban đêm chờ đợi chàng rể đến và các nén bạc phải được sinh lời cho chủ.
Lời căn dặn chung của ba dụ ngôn này: “Các con hãy tỉnh thức, bởi vì các con không biết Chúa đến lúc nào”. Nếu dụ ngôn thứ nhất mà chúng ta suy niệm hôm nay không nói rõ việc cảnh phòng ở tại cái gì, thì dụ ngôn thứ hai sẽ giúp chúng ta hiểu ra ngay, đó là việc chu toàn sứ mệnh đã lãnh nhận. Việc Chúa trở lại được loan báo trong các dụ ngôn là điều chắc chắn, nhưng ngày giờ Ngài đến lại không thể biết được. Vì không thể biết trước, nên cần phải tỉnh thức và canh phòng đợi chờ.
Trong nhiều cộng đồng kitô hữu thời các thánh Tông đồ, việc chờ đợi Chúa đến được lưu ý một cách đặc biệt. Chúa đến trong ngày tận thế đã gây nên những phản ứng khác nhau nơi các tín hữu thành Thessalônica, họ thất vọng vì chờ đợi quá lâu, nên họ lãng quên vì công việc làm, vì ham thích thú vui. Chính thánh Phaolô tông đồ đã nhắc tới tình trạng này trong thư gởi tín hữu Thessalônica như sau: “Kẻ thì sống qua ngày không làm lụng gì cả, người thì luôn luôn lo lắng bối rối về nhiều chuyện”.
Sau khi nhắc đi nhắc lại cho các tín hữu biết ngày giờ của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm, thánh Phaolô khuyên họ bằng những lời sau đây: “Thưa anh em, vì mình không ở trong chỗ tối tăm, nên ngày ấy vụt đến với anh em như kẻ trộm. Anh em hết thảy đều là con cái sự sáng, con cái ban ngày không thuộc về ban đêm hoặc bóng tối, nên chúng ta chẳng phải chết như những người khác. Vậy chúng ta hãy tỉnh thức và điều độ”.
Có những người đã dùng những từ ngữ kinh hoàng gây nên sợ hãi về giờ chết và ngày phán xét, nhưng đây không là mục tiêu, là nhân tố thiết yếu của việc canh phòng theo tinh thần Phúc âm. Bởi vì việc chờ ngày Chúa đến không phải là lý do gây nên sợ hãi một cách nô lệ cho những người theo Chúa Kitô. Trái lại, đây là lý do của niềm tin cậy, của ước ao, của khát khao và của nguồn vui chan chứa được gặp Chúa. Ngài có thể đến với chúng ta hôm nay và ngày mai như kẻ trộm đến bất ưng vào ban đêm. Chúng ta không dễ gì nhận ra Ngài và đón tiếp Người, nếu chúng ta không chuẩn bị, không canh phòng và sẵn sàng chờ đợi.
Nhờ đức tin chúng ta biết rằng, Thiên Chúa ở gần chúng ta trong mọi nơi mọi lúc, nhưng đã nhiều lần chúng ta không biết hoặc vô tình quên ngài. Để nhận biết Người, chúng ta phải bỏ qua những gì ngăn cách giữa Ngài với chúng ta, chúng ta phải lắng nghe tiếng Ngài và sống hiệp thông với Ngài. Do đó, sự chờ đợi của chúng ta sẽ được thỏa mãn và được thưởng công: “Hỡi đầy tớ trung tín và tốt lành, hãy vào hưởng sự sung sướng của chủ ngươi”.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con khám phá ra những lần Chúa đến trong lịch sử, trong cuộc sống hằng ngày của mỗi người chúng con. Chúa đến nơi người anh em chúng con đang sống trong cảnh cùng cực cần sự giúp đỡ, săn sóc và tình yêu thương của chúng con. Chúa đến trong anh em đang đau khổ tinh thần và thể xác, như người bị cướp đánh, bị đả thương bỏ bên lề đường Giêricô. Chúa đến trong những anh em đang tìm Chúa để gặp được Ngài, tôn thờ và yêu mến Chúa như chúng con. Những người anh em này cần đến chúng con, chúng con phải trở nên những người đem Tin mừng của Chúa đến cho họ.
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn biết tỉnh thức để nhận ra ngày giờ Chúa đến dưới nhiều hình thức khác nhau, để đón tiếp Chúa với niềm hân hoan: “Phúc cho đầy tớ nào nếu chủ về mà còn đang tỉnh thức”.
64. Tỉnh thức và sẵn sàng, một thái độ sống đạo tốt đẹp.
Câu hỏi gợi ý:
1. Bạn có nghĩ rằng sắp tận thế không? Bạn có biết rằng thời các tông đồ, ngay trước năm 1000 và 2000, rất nhiều Kitô hữu cũng đã nghĩ “tận thế đến nơi rồi” không? Nhưng cuối cùng thì… tận thế vẫn chưa đến!
2. Giả như tháng sau, tuần sau là tận thế, thì bây giờ bạn làm gì? Bạn chuẩn bị đón Chúa đến như thế nào? Chúa muốn bạn phải chuẩn bị thế nào?
3. Có cách sống đạo nào mang nhiều tính tỉnh thức và sẵn sàng không? Nếu lúc nào cũng tỉnh thức và sẵn sàng, thì có phải lo tận thế không?
Suy tư gợi ý:
1. Nhiều Kitô hữu nghĩ rằng ngày tận thế sắp đến
Hiện nay, rất nhiều Kitô hữu đang quan tâm đến ngày tận thế. Nhiều người đoán rằng ngày ấy gần đến rồi. Thực ra, ngay từ thời các tông đồ, rồi thời gian ngay trước năm 1000, rồi mới đây ngay trước năm 2000, và hiện nay khi thấy chiến tranh thế giới có nguy cơ xảy ra, các Kitô hữu nghĩ ngày tận thế sắp đến ngay tức thời. Vào những thời điểm kể trên, có rất nhiều dấu hiệu phù hợp với những lời tiên tri của Đức Giêsu về ngày tận thế: chiến tranh, thiên tai, động đất, lòng người nguội lạnh, sự ác lan tràn… Những thời điểm ấy, thời điểm nào các Kitô hữu cũng đều thấy rằng từ trước đến lúc ấy, chưa bao giờ những sự kiện được coi là điềm của tận thế lại dồn dập đến như những thời điểm ấy. Nhưng rồi những thời điểm ấy qua đi, và ngày tận thế vẫn chưa tới. Hiện nay, tâm lý người Kitô hữu vẫn y như vậy. Đó cũng là một điều tốt để cảnh tỉnh người Kitô hữu.
2. Coi chừng kẻo bị lường gạt
Đúng ra, khi nghĩ đến tận thế và chuẩn bị cho tận thế, người Kitô hữu phải tỉnh thức như Đức Giêsu khuyên nhủ, bằng cách sống tích cực tinh thần Tin Mừng của Ngài, cụ thể bằng sự yêu thương nhau. Nhưng trong thực tế, thay vì sống tinh thần tỉnh thức, họ bị lôi cuốn vào việc tìm những điềm thiêng dấu lạ, sưu tầm những lời khuyên nhủ mới nhất của đấng này đấng kia hiện ra… Lòng họ vì thế bị chao đảo, sợ hãi: thay vì cứ an tâm sống cho đúng tinh thần Tin Mừng, thì họ lại tìm cách đối phó với ngày ấy, hoặc tìm những phương cách dễ dàng do người này chỉ người kia bảo, những phương cách khôn ngoan kiểu thế gian… miễn sao được cứu rỗi vào ngày đó. Vì thế, họ dễ bị thần khí xấu lường gạt.
Theo tôi, ta nên nghe lời thánh Phaolô: “nếu có ai bảo rằng chúng tôi đã được thần khí mặc khải… quả quyết rằng ngày của Chúa gần đến, thì anh em đừng vội để cho tinh thần dao động, cũng đừng hoảng sợ. Đừng để ai lừa dối anh em bất cứ cách nào” (2Tx 2,2-3). Và cũng nên lưu ý lời thánh Gioan: “Anh em đừng cứ thần khí nào cũng tin, nhưng hãy cân nhắc các thần khí xem có phải bởi Thiên Chúa hay không, vì đã có nhiều ngôn sứ giả lan tràn khắp thế gian” (1Ga 4,1). Thần khí giả thời nay rất khôn khéo, không hề nói điều gì xấu hay sai trái, toàn nói những điều hay lẽ thật, nhưng lại chỉ nhấn mạnh đến những điều tương đối phụ thuộc hầu làm người ta quên đi điều cốt yếu của Tin Mừng. Hoặc cứ nhấn mạnh đến việc sử dụng những phương tiện để làm người ta quên đi mục đích: dùng phương tiện thật hay mà không xác định rõ ràng mục đích phải tới, thì mục đích ấy làm sao đạt được? Mục đích không đạt được thì phương tiện có ích lợi gì? Nhờ khôn khéo như thế, thần khí xấu ấy dối gạt được rất nhiều người (x. Mt 24,11), kể cả những người được chọn (x. Mt 24,24). Chỉ cần làm người ta lạc hướng Tin Mừng như thế là ma quỉ đã thành công lớn rồi! Chính Đức Giêsu cũng đã cảnh báo: “Anh em hãy coi chừng kẻo bị lừa gạt, vì sẽ có nhiều người mạo danh Thầy đến nói rằng: "Chính ta đây", và: "Thời kỳ đã đến gần"; anh em chớ có theo họ” (Lc 21,8). Thần khí xấu có thể không xưng mình là Đức Giêsu, vì như thế sống sượng quá, không lừa gạt được ai, mà xưng mình là một nhân vật uy tín nào đó!
Vì thế, thay vì quan tâm sống cho đúng tinh thần của Đức Giêsu, thì nhiều Kitô hữu chuẩn bị đón Chúa đến bằng sự gia tăng đọc kinh cầu nguyện cho nhiều và cho sốt sắng hơn, tham dự các bí tích thường xuyên hơn, đồng thời hối thúc người khác cũng chuẩn bị giống như họ, v.v… Quả thật, tất cả những việc ấy đều rất tốt, rất đáng làm, nhưng lại không phải là việc chính yếu cần phải làm để chuẩn bị ngày Chúa đến. Nhiều người còn nghĩ tới chuyện phải đối phó làm sao với cảnh tối ba ngày ba đêm bằng cách mua thật nhiều đèn cầy rồi đem đến xin linh mục làm phép để đốt trong những ngày ấy! Chỉ cần làm cho người ta quá quan tâm đến việc đối phó với tận thế mà quên đi việc sống đạo hay những bổn phận trước mắt là ma quỉ đã thắng lợi rồi!
3. Hãy chuẩn bị đón Chúa đến một cách khôn ngoan, đúng ý Thiên Chúa muốn
Đúng ra, theo tinh thần bài Tin Mừng trên, thì việc cần làm nhất là tỉnh thức và sẵn sàng, nghĩa là phải từng giây từng phút sống sao cho đúng thánh ý của Thiên Chúa, đúng tinh thần của Đức Giêsu. Cụ thể là:
– yêu mến Thiên Chúa bằng cách sống cho có tình có nghĩa với mọi người chung quanh, nhất là những người gần gũi mình nhất. Chính Đức Giêsu đã dùng tình yêu đối với loài người, được biểu lộ hùng hồn nhất qua cái chết của Ngài, để thờ phượng và thể hiện tình yêu của mình đối với Thiên Chúa.
– nhận ra tha nhân là hình ảnh và là hiện thân của Thiên Chúa mà mình phải yêu thương. Làm sao ta dám cho rằng mình yêu mến Thiên Chúa vô hình khi mà những hình ảnh hay hiện thân hữu hình của Ngài thì mình lại chẳng yêu thương?
– thể hiện tình yêu thương ấy bằng hành động cụ thể là sự quan tâm, giúp đỡ, hy sinh thật sự cho họ. Tình yêu không được biểu lộ thành hành động cụ thể chỉ là thứ tình yêu giả dối, ngoài môi miệng.
Cách chuẩn bị cho ngày tận thế hay nhất vẫn là tỉnh thức theo kiểu thánh Louis Gonzaga, một vị thánh chết khi còn rất trẻ tuổi. Một hôm, vào giờ chơi, Louis đang chơi banh ngoài sân, cha linh hướng đến hỏi Louis: “Nếu một lát nữa Chúa gọi con về với Ngài, thì bây giờ con làm gì?” Câu trả lời của Louis làm cha linh hướng rất hài lòng: “Con sẽ tiếp tục chơi, vì bây giờ là giờ chơi, thánh ý của Thiên Chúa đối với con vào giờ này là muốn con chơi”. Điều đó cho thấy Louis lúc nào cũng cố gắng sống đúng thánh ý Chúa, đúng theo đòi hỏi của tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân, nên Louis có thể sẵn sàng về với Chúa bất kỳ lúc nào.
Nếu ta là Louis lúc đó, chắc hẳn ta sẽ trả lời: “Con sẽ đi gặp một linh mục để xưng tội, và vào nhà thờ cầu nguyện để chết trong khi cầu nguyện”. Trả lời như thế chứng tỏ ta không thường xuyên sống trong tình trạng tỉnh thức chuẩn bị Chúa đến, mà đợi “nước đến chân mới nhảy”. Như vậy, giả như Thiên Chúa gọi ta về với Ngài ngay lúc này, khiến ta không có một phút nào để kịp ăn năn hay xưng tội, thì số phận ta sẽ thế nào?
Nếu lúc nào ta cũng sống đúng theo thánh ý Thiên Chúa, sống đẹp lòng Thiên Chúa, thì dù Chúa sắp đến hay còn lâu mới đến, ta không có gì phải bận tâm. Đấy là cách chuẩn bị đón Chúa đến hay nhất, cách mà Đức Giêsu muốn ta thực hiện nhất. Nghĩa là lúc nào ta cũng sẵn sàng đến trình diện Chúa như Louis Gonzaga, nên luôn luôn làm mọi việc như bình thường, có vẻ như chẳng chuẩn bị gì cả, cho dù biết Chúa sẽ đến ngay ngày mai, hay chỉ trong chốc lát nữa! Đối với người luôn tỉnh thức và sẵn sàng, Chúa đến lúc nào cũng vậy thôi!
4. Sống giây phút hiện tại như giây phút cuối cùng đời mình
Một danh nhân nọ nói: “Ngày nào tôi cũng tự nhủ: "tôi sống như thể hôm nay là ngày đầu tiên và cũng là ngày cuối cùng cuộc đời tôi”. Đó cũng là một cách sống tỉnh thức và sẵn sàng, rất phù hợp với tinh thần bài Tin Mừng hôm nay. Sống như thế, cuộc sống mỗi ngày sẽ trở nên tràn đầy, ý vị, vì không bị những buồn phiền, rắc rối, hối tiếc về quá khứ và những nỗi lo lắng cho tương lai làm bận tâm, làm mất năng lực. Sáng dậy, nếu ta nghĩ như thể ngày hôm nay là ngày duy nhất của cuộc đời ta, coi như không có quá khứ, cũng không có tương lai, chỉ có hiện tại, thì ta dễ tập trung mọi năng lực để sống thật tốt, sống thật đẹp lòng Chúa, để làm cho ngày hôm nay thành một của lễ sống động, thật giá trị dâng lên Thiên Chúa. Cuộc đời ta cứ dệt bằng những ngày như vậy thì cần gì phải lo tận thế! Đừng quan tâm hay thắc mắc bao giờ sẽ tận thế, nhưng hãy sống mỗi ngày như thể cuối ngày đó là tận thế! Cứ sống thử như thế đi, bạn sẽ thấy cuộc đời bạn đổi mới từ đây, với nhiều sức mạnh và hạnh phúc hơn.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, xin đừng để con vì những dư luận về tận thế mà xao lãng việc sống đúng ý Cha, sống yêu thương tha nhân, quan tâm đến những nhu cầu cấp thiết của những người chung quanh con, chu toàn những bổn phận hằng ngày của con. Xin đừng để con bị lường gạt bởi những thần khí xấu hoặc những ngôn sứ giả, khiến con chú tâm vào những điều phụ thuộc cho dù rất tốt mà quên đi những điều chính yếu trong việc sống đạo. Xin cho con phân biệt rõ ràng đâu là phương tiện, đâu là mục đích, để con đừng lấy phương tiện làm mục đích. Vì một phương tiện rất tốt có thể trở thành một mục đích rất xấu khi nó làm con lạc hướng và quên đi mục đích mà đúng ra phương tiện ấy phải giúp con đạt tới.
65. Tôi vui mừng cùng hoan lạc--Huỳnh Văn Ngọc
Tôi vui mừng cùng hoan lạc khi người ta đến nói cùng tôi: “Nào ta lên đền thánh Chúa” (Đáp ca, Tv 122)
Trước năm 1975, tôi được thuyên chuyển vào làm việc tại Phan thiết. Cái cảm giác đầu tiên của tôi tại đây là mùi mắm. Mấy ngày đầu, mùi mắm làm tôi rất khó chịu, ngứa ngáy và buồn nôn. Nhưng dần dà sau vài ba tuần lễ, tôi không còn cảm thấy mùi mắm đâu cà. Thì ra mũi tôi đả quen với mùi mắm rồi.
Thành phố Pittsburgh, PA là thành phố luyện thép lớn nhất nước Mỹ. Lúc đầu khi các nhà máy mới hoạt động, những động cơ khổng lồ phát ra những âm thanh làm rêm tai nhức óc. Dân chúng địa phương ăn không được, ngũ không được, họ rất đồi khó chịu vì tiếng động. Nhưng vì sinh kế, người ta ùn ùn kéo đến lập nghiệp, dần dà họ quen với tiếng động và xem đó như là một loại âm nhạc kích động ru ngủ. Họ đã quen với tiếng động. Bỗng một hôm, đang đêm bị cúp điện, các nhà máy im bặt, mọi người đều thức giấc, hoảng hốt chạy tán loạn.
Xã hội càng văn minh, người ta càng xa dần Thiên Chúa, càng làm mất đi cái “Tính Bản Thiện” mà Thiên Chúa đã ban cho khi tạo dựng con người. Người ta đã mất đi cái cảm giác sợ tội.
Trước đây, trong xã hôi VN, “không chồng mà chửa thế gian chê cười”. Nhưng ngày nay, ‘single mother’ là chuyện thường. Hai người đàn ông lấy nhau, hai người đàn bà cưới nhau rồi đem nhau ra toà làm hôn thú, chúng ta cho là một việc hết sức quái gở, nhưng xã hội coi đó là chuyện thường. Đồng tính luyến ái, ‘gay marriage’, phá thai, thụ thai nhân tạo, ly dị, tự do luyến ái v. v. đã được luật pháp che chở. Giết người vô tội bằng cách ôm bom tự sát mà họ cho là tử đạo, là thánh chiến...
Nhân loại đang đi trong đêm tối. Nhân loại đang trong cơn ngủ mê. Thì đây, tiên tri Isaiah lớn tiếng kêu lên: “Hãy chổi dậy, hởi nhà Gia cóp”. Thánh Phao lồ càng kêu to hơn nữa: “Hãy thức dậy. Đêm đã sắp tàn, ngày đã gần đến. Hãy mặc lấy Đức Giêsu Kitô”. Tiên tri Isaiah còn chỉ cho chúng ta hướng nhìn về tương lai, một vương quốc hoà bình và yêu thương: Gươm giáo biến thành cuốc thành cày, dao mác biến thành liềm thành hái.
Đó là sứ điệp của Mùa vọng, sứ điệp đầu tiên của năm PV chu kỳ A năm 2005, mà giáo hội muốn kêu gọi mọi người hãy tỉnh thức, chuẩn bị chờ ngày Chúa lại đến.
Người lại đến trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Nước Người sẽ không bao giờ cùng. Tôi tin xác loài người ngày sau sẽ sống lại và sự sống đời sau”. (Kinh Tin kính).
Thời ông Noe, trong khi mọi người đang lo dựng vợ gã chồng, đang lo ăn uống say sưa, bình chân như vại, xem như không có Thiên Chúa cũng chẳng có đời sau, thì ông Noe lo đóng tàu, mặc dù trời còn đang nắng hạn. Rồi lụt đại hồng thuỷ thình lình ập đến, nhân loại bị chết chìm, ông và gia đình ông đã được cứu thoát.
Đức Giêsu còn đưa ra hai ví dụ khác: Hai người đàn ông cùng cày ruộng ngoài đồng, hai người đàn bà cùng xay bột trong nhà. Họ cùng sống trong một hoàn cảnh, cùng làm chung một công việc, tại sao có người được cứu có người lại không? Thưa vì một người có chuẩn bị và một người không chuẫn bị. Một người có đức tin và một người không tin. Một người làm việc qua loa để lảnh tiền công, để ăn xài, chơi bời trác táng, người kia cũng lảm việc cũng lãnh lương nhưng lòng quy hướng về đời sau và về Thiên Chúa. Tiền của không làm hoa mắt họ. Mũi họ không bị ô nhiễm bởi mùi hôi tanh của tội lỗi, tiếng động cơ nhà máy không làm lấn át tiếng nói lưong tâm và sự bằng yên trong tâm hồn họ.
Đức Giêsu kết thúc lời cảnh cáo bằng dụ ngôn kẻ trộm vào nhà. Nếu bạn biết đêm nay có kẻ trộm muốn vào nhà lấy báu vật của bạn mà bạn lại không thức mà canh chừng sao? Báu vật ấy là gì? Là kho tàng giấu trong ruộng, là viên ngọc quý người thương gia tìm được (Mt 13: 44 - 46). Ấy chính là Đức Giêsu Kitô mà Thiên Chúa đã trao ban cho loài người qua mầu nhiệm Ngôi Hai nhập thể.
Phụng vụ dùng những lời trên đây để khai mạc Mùa vọng, không chỉ nhằm việc đón mừng lễ Giáng sinh nhưng muốn khơi lại niềm tin về Ngày Chúa lại đến và cũng để nuôi dưỡng tâm hồn chúng ta chờ đợi và chuẩn bị.
Chúng ta cần làm sống lại Mầu nhiệm Ngôi Hai nhập thể. Thái độ chờ đợi nầy đòi hỏi chúng ta phài có một tâm hồn trong trắng, cầu nguyện và đón nhận. Đó cũng là thái độ mà chúng ta phải có mỗi khi tham dự thánh lễ. Có Chúa ở trong tâm hồn qua bí tích Thánh thể giúp chúng ta có khả năng đón mừng lễ Giáng sinh và sẳn sàng để được Chúa “đem đi” khi Người lại đến.
Sẵn sàng, như 10 cô trinh nữ khôn ngoan, cầm đèn đi đón chàng rể. Tỉnh thức và sẳn sàng khi Người lại đến để đón ta về nhà Cha và miệng chúng ta sẽ không ngừng hát lên bài thánh vịnh: “Tôi vui mùng cùng hoan lạc khi người ta đến nói cùng tôi: “Nào ta lên đền thánh Chúa. Nào ta lên đền thánh Chúa”.
66. Mùa vọng: Người đến để con tim được vui trở lại--Lm. Giuse Trương Đình Hiền
1. Bỏ quá khứ lại sau lưng để tiến về phía trước:
Ý nghĩa đầu tiên của Mùa Vọng gần như được diễn tả ngay trong tên gọi của tiếng la tinh: Adventus, Mùa “Đến, mùa Quang lâm”. Vâng, Mùa Vọng chính là thời điểm thích hợp để chúng ta sống tâm tình và thái độ đức tin đón chào cuộc viếng thăm của Thiên Chúa, hay sống với nỗ lực dấn thân thực hiện cuộc canh tân và hoán cải tâm hồn theo những lời mời gọi của Phúc Âm.
Vâng, Lời Chúa chúng ta vừa nghe công bố gần như hết lòng hổ trợ ý tưởng nầy và lôi kéo chúng ta tập chú suy tư và cầu nguyện theo ý hướng đó:
Bài đọc 1 đã trình bày: giữa một hoàn cảnh éo le và đầy tăm tối thất vọng của kiếp sống nô lệ, mất nước, lưu đày, Sứ Ngôn I-sa-i-a loan báo cho dân Ít-ra-en một viễn tượng huy hoàng ở cuối chân trời lịch sử: “Trong tương lai, núi Nhà Đức Chúa đứng kiên cường vượt đỉnh các non cao, vươn mình trên hết mọi ngọn đồi. Dân dân lũ lượt đưa nhau tới, nước nước dập dìu kéo nhau đi…Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái”.
Tin Vui đó, viễn tượng một thế giới hòa bình an lạc đó chắc chắn không phải là một thứ “tuyên truyền ngẫu hứng” của một tay “thần kinh bất ổn” mà là của chính Thiên Chúa mặc khải qua miệng của vị sứ ngôn được Ngài ra tay tuyển chọn. Và 600 năm sau lời tiên tri đó, Đấng là Em-ma-nu-en, là Hoàng tử Bình An, là Đấng Cứu thế, là Thiên Chúa Làm Người đã xuất hiện, Ngài đến để giải phóng toàn diện lịch sử con người, là qui tụ toàn nhân loại trong một Vương Quốc bao la vĩnh cửu.
Hôm nay, bước vào Mùa Vọng, khai mạc một Năm Phụng vụ mới, Lời Chúa cũng muốn nhắn gởi chúng ta qua chính lời tiên tri ấy. Cũng như dân Ít-ra-en đang sống trong nổi ê chề thất vọng của kiếp phận lưu đầy được nhà sứ ngôn loan tin giải thoát với niềm hy vọng một ngày mai tươi sáng đang đến gần, cộng đoàn chúng ta hôm nay đang được Lời Chúa mời gọi hãy vứt bỏ đi những nổi chán chường, thất vọng của một lối diễn tả đức tin mang đầy dấu vết của nô lệ, của lưu đầy, của sự lựa chọn biếng lười, ích kỷ và vô trách nhiệm. Hãy vứt bỏ đi lối sống buông trôi, lờ lững, không biết tới ngày mai, không dám đối diện với tương lai. Hãy vứt bỏ đi cuộc sống chỉ có biết bon chen, cặm cụi với cái lãi cái lời vật chất, cặm cụi đầu tư bất kể cho những thứ chóng qua mà chẳng tính gì đến chuyện vĩnh hằng tối hậu. Và cũng vứt bỏ đi cái lối sống đạo và hành xử đức tin vụ hình thức, giả tạo, biệt phái và kiêu căng.
Một cuộc vứt bỏ như thế để làm lại cuộc đời trong thánh thiện yêu thương phải chăng là tiêu đích của Hành trình Mùa Vọng, của đức tin Kitô, mà theo theo cách nói của Thánh Phaolô trong thư gởi giáo đoàn Rôma trong bài đọc 2 đó là một cuộc “bừng mắt dậy sau đêm dài của giấc ngủ tội lỗi đen tối”: “Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những hành vi đen tối và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu…”
2. Một cuộc hạnh ngộ để đổi đời.
Nếu “Thiên Chúa của chúng ta không bao giờ cũ", thì cuộc gặp gỡ Ngài, chọn lựa Ngài, đến với Ngài phải luôn là một cuộc “hạnh ngộ” đầy hoan vui và hy vọng, một cuộc hạnh ngộ để làm lại cuộc đời.
Trong trích đoạn Tin mừng hôm nay, Thánh Mát-thêu đã thuật lại một bài giáo lý của Đức Kitô mà nội dung cốt lỏi cũng chính là thể hiện niềm tin bằng lối sống luôn là “sắp sẳn, tỉnh táo như người đang đón đợi khách quí, như kẻ đang nai nịt hành trang lên đường hay như ngôi nhà đang thắp sáng với đầy đủ những con người đang tỉnh thức canh phòng đến độ không còn chỗ hở nào để kẻ trộm thâm nhập”. Đây không phải là chuyện dễ ợt, mà là một cuộc phấn đấu nhọc mệt, là cả một cuộc hành trình cam go và mạo hiểm, một cuộc sống khôn ngoan biết tiên liệu và tỉnh táo đối diện với những “bất trắc đột xuất”, như hình tượng Noe trong biến cố “Nạn Đại Hồng Thủy”, hay hình ảnh canh chừng kẻ trộm trong đêm khuya mà Đức Kitô đã diễn tả.
Câu chuyện vui sau đây là một minh họa cho ý nghĩa trên của Mùa Vọng:
Một người dân thuộc một bộ lạc miền núi được đưa đi thăm một đô thị. Ngay đêm đầu tiên ông đã giật mình thức giấc vì tiếng trống vang cùng khắp đô thị. Người ta cho anh biết đó là tiếng trống báo động về một cuộc hoả hoạn vừa xảy ra tại một khu phố. Chẳng bao lâu cuộc hoả hoạn được dập tắt. Trở về làng, ông đã báo cáo với các chức sắc trong làng như sau: người thành thị có một hệ thống chữa cháy rất kỳ diệu: khi có hỏa hoạn, người ta chỉ cần đánh trống là ngọn lửa được dập tắt ngay tức khắc. Nghe thế, các chức sắc liền sai người đi mua đủ loại trống phát cho dân làng. Không bao lâu sau đó, hỏa hoạn xảy đến trong làng, mọi người đều đem trống ra khua inh ỏi vì tin chắc tiếng trống sẽ xua đuổi được thần lửa. Thế nhưng ngọn lửa vô tình cứ thiêu rụi từ căn nhà này đến căn nhà khác trước cái nhìn ngỡ ngàng thất vọng của mọi người.
Tình cờ ghé thăm bộ lạc và được nghe kể lại, một người dân thành thị giải thích: Các người tưởng tiếng trống có thể dập tắt ngọn lửa ư? Không phải thế. Người ta đánh trống để đánh thức dân chúng và kêu gọi họ tích cực tham gia chữa cháy chứ không phải ngồi đó mà chờ ngọn lửa tắt đâu.
Trong Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu nói đến sự tỉnh thức. Nhưng tỉnh thức không có nghĩa là ngồi đó khoanh tay mà chờ đợi. ("Mỗi ngày một tin vui")
Mùa Vọng khơi gợi lên một cuộc chiến đấu của đức tin, một hành trình sống đạo năng động, ra sức đẩy lùi mọi biểu hiện tiêu cực, tầm thường, máy móc, vụ lợi, vụ hình thức. Chính trong chiều kích tích cực đó mà chúng ý thức rằng:
- Mỗi một lời kinh tôi đọc hôm nay phải là một đối thoại tuyệt vời, thực sự với Thiên Chúa.
- Mỗi một Thánh lễ tôi dâng phải là một cử hành sống động lễ Vượt Qua của chính Chúa Kitô mà tôi được diễm phúc cọng tác và kết hợp với Ngài.
- Mỗi một khi bước tới tòa Giải tội là một lần hoán cải thực sự, một cuộc đổi đời.
- Mỗi một việc bác ái tôi làm, một công tác mục vụ tôi đảm trách, phải là một biểu lộ thực sự của tình yêu, một tình yêu vô vị lợi và quảng đại.
- Mỗi một việc làm cho nhau trong đời thường giữa vợ chồng, con cái, anh em, bạn hữu…không còn là chuyện đải bôi môi mép, lạm dụng và ích kỷ, nhưng tất cả phải là những nghĩa cử của tinh thần trách nhiệm, phục vụ và yêu thương.
Nếu mọi Kitô hữu đều xác tín và hành động như thế, thì Mùa Vọng trở về thật ý nghĩa và cần thiết biết bao! Khi ấy, Giáo Hội không còn là một tổ chức kềm kẹp sự tự do của tôi, Ngày Chúa Nhật không còn là một bận rộn ngán ngẩm, Tòa Giải tội không còn là một tòa án tàn nhẫn và đáng sợ, và ngay cả bệnh tật chết chóc cũng sẽ trở thành cơ hội để tôi tìm thấy giá trị và niềm vui, như lời chứng sống động của Elena Frings:
Elena Frings là một thiếu nữ mới 20 tuổi nhưng đau tim nặng. Các bác sĩ cho biết cô chỉ còn sống được 6 tháng. Cô bỏ việc làm ở sở để đi làm việc xã hội trong một tổ chức thiện nguyện ở Nam Mỹ. Cô làm việc rất đắc lực và có hiệu quả đến nỗi cô được mời đến New York để thuyết trình. Tại New York cô may mắn gặp một bác sĩ giỏi. Ông này giải phẫu cho cô và chữa cô khỏi bệnh tim. Sau khi khỏi bệnh, cô không quay lại sở làm nhưng quay lại Nam Mỹ với những công việc hàng ngày phục vụ những người khốn khổ, bởi vì điều đã ban cho đời cô có ý nghĩa và đã định hướng cho đời cô không phải là cuộc giải phẫu mà là cảm nghiệm về cái chết gần kề (Christopher Notes).
Vâng, sống Mùa Vọng là sống như thế đó. Bởi chưng Mùa Vọng của Phụng vụ cũng chính là Mùa Vọng của cuộc đời. Đức tin không cho phép chúng ta đầu hàng hay tìm một lối mòn dễ dãi; cũng không có quyền nhắm mắt đưa chân mặc tới đâu thì tới, hay tìm lãng quên trong hưởng thụ, trong bon chen trong trác táng thả buông…Nhưng đức tin gọi mời chúng ta ngẫng cao đầu tiến về phía trước trong một con tim mới, cõi lòng mới như bài hát của nhạc sĩ Đức Huy: “và con tim đã vui trở lại”:
Và con tim đã vui trở lại, Tình yêu đến cho tôi ngày mai. Tình yêu chiếu ánh sáng vào đời. Tôi hy vọng được ơn cứu rỗi. Và con tim đã vui trở lại. Và niềm tin đã dâng về người. Trọn tâm hồn, Nguyện yêu mãi riêng người mà thôi...
Giờ đây, một cuộc gặp gỡ kỳ diệu đang và sắp xảy ra: Đức Kitô một lần nữa đang đến với chúng ta trong bàn tiệc Tạ ơn nầy: Đức Kitô hôm, qua hôm nay và tận cùng vẫn là Đức Kitô của một Mùa Xuân bất diệt, Đức Kitô mới mãi, trẻ mãi, sinh động và đầy ắp yêu thương. Ngài là Mục Tử nhân lành hôm nay trở về để đưa ta vào đồng xanh suối mát. Chúng ta vui mừng cử hành ngày “Tân Niên Phụng Vụ” trong tâm tình hân hoan, tin tưởng, trong thái độ khiêm tốn tạ ơn. Chúng ta hãy cùng nhau nắm tay mà bước đi trên hành trình Mùa Vọng để tiến vể Đại Lễ Giáng Sinh với tất cả niềm hăng say phấn khởi và nỗ lực đổi mới cuộc đời cho đẹp hơn, thánh hơn, hiệp nhất hơn, yêu thương hơn. Nói cách khác, đây là giờ phút không phải chúng ta hát mà là thực sự sống chính cái ý nghĩa của lời ca Nhập Lễ vừa vang lên lúc khởi đầu: “Con vươn linh hồn lên tới Chúa”. Amen.
67. Mùa gặp gỡ Đấng đang sống--Lm. Giuse Trương Đình Hiền
Đoàn dân Công Giáo lại bắt đầu một Chu Kỳ Năm Phụng vụ mới (2019-2020) mà ngày “Tân Niên Phụng vụ” chính là Chúa Nhật I Mùa Vọng.
Không biết danh xưng Mùa “Vọng” chính thức được sử dụng trong ngôn ngữ phụng vụ của Giáo Hội tại Việt nam khi nào, nhưng trước khi có cuộc canh tân Phụng vụ của Công Đồng Vatican II (1962-1965), thì mùa Phụng vụ với 4 tuần lễ chuẩn bị đón mừng Thiên Chúa Giáng Sinh được gọi cách phổ thông lúc bấy giờ là mùa “ÁP” (ÁT) hay “ÁT-VEN-TỒ” (ADVENTO - Tempore Adventus). Đây là danh xưng chuyển dịch từ tiếng La Tinh “ADVENTUS” mang ý nghĩa “việc đến gần, trở lại, quang lâm…, hay người đang đến, kẻ trở về, vị quang lâm…, có nguồn gốc từ động từ ADVENTARE (APPROCHER DE).
Nếu từ “Vọng” gốc Hán có nghĩa là “nhìn từ xa”, là mong đợi, ngóng chờ…, thì từ “Adventus” gốc La Tinh lại nhắm tới “người đang đến, đang trở về”; như vậy “Mùa Vọng” trong ý nghĩa Phụng vụ Công Giáo, mặc dù chỉ dùng chữ “Vọng”, nhưng luôn bao hàm chứ “Đến”. Bởi vì, “Vọng” không phải mong chờ, ngóng đợi cách mơ hồ, ảo tưởng, không không, hư huyển (như trò đánh lừa quân lính “vọng rừng mơ” của Tào Tháo) …, mà phải hướng đến, phải tập trung, phải chuẩn bị để đón tiếp, gặp gỡ “một ai đó”, một “Đấng nào đó đang đến, đang trở về”.
Nói cách khác, trọng tâm ý nghĩa cũng như tiêu đích thiêng liêng của mùa Vọng, trước hết, đó chính là đổi mới và củng cố niềm xác tín vào cuộc “viếng thăm của Thiên Chúa” qua việc “đến lần thứ nhất” của Ngôi Hai Thiên Chúa – Đức Giêsu Kitô, tại Bêlem ; và sự kiện “lịch sử cứu độ” đặc biệt nầy được Phụng vụ long trọng tưởng- niệm- tái- diễn (Anamnèse - Anamnêsis) với đại lễ Giáng Sinh, mà kinh Tiền Tụng Mùa Vọng I đã xác quyết: “Khi ngự đến lần thứ nhất, mặc lấy thân xác yếu hèn, Người đã thực hiện hồng ân mà Chúa dự định từ xưa và mở đường cứu độ đời đời cho chúng con”.
Để củng cố cho niềm xác tín nầy, Phụng vụ mùa Vọng mời gọi dân Chúa sống lại tâm tình “mong đợi Đấng Thiên Sai” của đoàn dân Cựu ước, trong thái độ trông cậy và khát khao ơn cứu độ đến từ lòng nhân hậu và Giao ước tín trung của Thiên Chúa…qua sứ điệp của các ngôn sứ, đặc biệt ngôn sứ Isaia, một trong 3 gương mặt được Phụng vụ Mùa Vọng thường xuyên nhắc đến (Isaia, Gioan Tẩy Giả và Đức Maria).
Chẳng hạn, với Chúa Nhật I Mùa Vọng năm A hôm nay, ngôn sứ Isaia đã cho chúng ta thấy: giữa một hoàn cảnh éo le và đầy tăm tối thất vọng của kiếp sống nô lệ, mất nước, lưu đày, một viễn tượng huy hoàng ở cuối chân trời lịch sử của dân tộc Ít-ra-en đã khai mở: “Trong tương lai, núi Nhà Đức Chúa đứng kiên cường vượt đỉnh các non cao, vươn mình trên hết mọi ngọn đồi. Dân dân lũ lượt đưa nhau tới, nước nước dập dìu kéo nhau đi…Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái”.
Tin Vui đó, viễn tượng một thế giới hòa bình an lạc đó chắc chắn không phải là một thứ “tuyên truyền ngẫu hứng” của một tay “thần kinh bất ổn” mà là “Giao ước ngàn đời của chính Thiên Chúa”, và là kế hoạch yêu thương mà Ngài đã chuẩn bị từ bao đời và sẽ hiện thực trong ngày “adventus” của Con Một dấu yêu. Và hơn 600 năm sau lời tiên tri đó, Đấng là Em-ma-nu-en, là Hoàng tử Bình An, là Đấng Cứu thế, là Thiên Chúa Làm Người đã xuất hiện; Ngài đến để giải phóng toàn diện lịch sử con người, là qui tụ toàn nhân loại trong một Vương Quốc bao la vĩnh cửu.
Nếu phải chọn một dấu chỉ, một hình ảnh cụ thể nào để minh hoạ cho ý nghĩa nầy trong bối cảnh của thế giới hôm nay, thì chúng ta có thể chọn hình ảnh cuộc đón tiếp tưng bừng, long trọng và đầy ắp hoà bình, yêu thương của hai dân tộc Thái Lan và Nhật bản dành cho “Vị Đại diện của Đức Kitô”, Đức Giáo Hoàng Phanxicô, vừa qua. Đặc biệt, tại thành phố Hirosima-Nhật Bản, bị tàn phá bởi bom nguyên tử của thế chiến II, một sứ điệp hoà bình và bảo vệ sự sống đã được Đức Giáo Hoàng Phanxicô công bố cho thế giới, như một hiện thực hoá của lời Isaia thuở trước: “Dân dân lũ lượt đưa nhau tới, nước nước dập dìu kéo nhau đi…Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái”.
Ý nghĩa trên của Mùa Vọng cùng với sứ điệp của Isaia, chúng ta được gọi mời sống Mùa Vọng và chuẩn bị mừng lễ Chúa Giáng Sinh bằng cách canh tân cuộc sống để hướng tới một tương lai đầy hy vọng, tươi sáng. Cuộc canh tân nầy đòi hỏi phải vứt bỏ đi những nỗi chán chường, thất vọng của một lối sống đạo mang dấu vết của nô lệ, lưu đầy, của chán nản, buồn tênh trong thái độ biếng lười, ích kỷ và vô trách nhiệm. Vứt bỏ đi lối sống buông trôi, lờ lững, không biết tới ngày mai, không dám đối diện với tương lai. Vứt bỏ đi cuộc sống chỉ có biết bon chen, ganh ghét, oán thù… vì vật chất chóng qua, vì dục vọng thấp hèn… mà chẳng tính gì đến chuyện vĩnh hằng tối hậu, chẳng màng chi đến cuộc “hội ngộ” với một Đấng đang đến và sẽ đến…!
Cách riêng, đối với những người giáo dân Việt Nam, Giáng Sinh là dịp tất bật nhất trong năm và việc dọn mừng đại lễ Giáng Sinh luôn chiếm ưu tiên về vật chất cũng như tinh thần. Một sự đầu tư và chuẩn bị công phu, tốn kém, nhọc mệt…, nếu chỉ dừng lại ở khía cạnh “trang trí và quảng cáo” mà thiếu vắng “ngọn lửa thiêng liêng” cùng với tiêu đích tối hậu: gặp gỡ Đức Kitô, cái giá của “mùa Vọng” có khi lãng phí!
Và từ lời mời gọi “hướng về ngày adventus của Đấng Mêsia”của Isaia để chuẩn bị cuộc hạnh ngộ đầy ắp tin yêu và ân sủng với Đấng Emmanuen trong đại lễ Giáng Sinh sắp tới, Lời Chúa hôm nay không quên nhắc bảo chúng ta về ngày quang lâm của Vua Kitô trong ngày chung thẩm; và đây cũng là trọng điểm ý nghĩa thứ hai của mùa Vọng mà kinh Tiền Tụng I Mùa vọng đã xác quyết: “để khi Người đến lần thứ hai trong uy linh, nhờ hồng ân bây giờ được tỏ hiện, chúng con sẽ lãnh nhận điều Chúa đã hứa mà ngày nay chúng con đang tỉnh thức vững dạ đợi chờ” .
Vâng, “tỉnh thức vững dạ đợi chờ” ngày Nước Cha trị đến, ngày Vị Thẩm phán Tối cao phân xử giữa chiên và dê qua “bản án về tình yêu”, ngày Con Người sẽ đến”… lại không chỉ là con đường dành riêng của Mùa Vọng mà là cuộc sống xuyên suốt trong cuộc hành trình đức tin của người Kitô hữu.
Chính trong ý nghĩa đó, với Chúa Nhật khai mạc Năm Phụng vụ mới hôm nay, Giáo Hội chọn một bài giảng của Chúa Giêsu sau khi Chúa tiến vào Giêrusalem để cử hành những biến cố sau cùng của cuộc đời dương thế, bài giảng về tỉnh thức, sắp sẵn: “sắp sẳn, tỉnh táo như người đang đón đợi khách quí, như kẻ đang nai nịt hành trang lên đường hay như ngôi nhà đang thắp sáng với đầy đủ những con người đang tỉnh thức canh phòng đến độ không còn chỗ hở nào để kẻ trộm thâm nhập”. Đây không phải là chuyện dễ ợt, mà là một cuộc phấn đấu nhọc mệt, là cả một cuộc hành trình cam go và mạo hiểm, một cuộc sống khôn ngoan biết tiên liệu và tỉnh táo đối diện với những “bất trắc đột xuất”, như hình tượng Noe trong biến cố “Nạn Đại Hồng Thủy”, hay hình ảnh canh chừng kẻ trộm trong đêm khuya mà Đức Kitô đã diễn tả.
Riêng đối với thánh Phaolô khi giảng Tin Mừng cho công đoàn tín hữu tại thủ đô của một đế quốc: Rôma - vừa có đội quân hùng mạnh nhất thế giới, cũng vừa là trung tâm của ăn chơi truỵ lạc nhất hành tinh lúc bấy giờ, thì ngôn ngữ “sắp sắn, tỉnh thức” của Chúa Giêsu trong Tin Mừng Matthêô được ngài minh hoạ, diễn tả bằng hình ảnh sống động của một chiến binh: “Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những hành vi đen tối và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu. Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giê-su Ki-tô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thoả mãn các dục vọng.”.
Vâng, sống Mùa Vọng là sống như thế đó. Bởi chưng Mùa Vọng của Phụng vụ cũng chính là Mùa Vọng của cuộc đời; và Đức Kitô hôm, qua hôm nay và tận cùng vẫn là Đức Kitô đang sống, như ĐGH Phanxicô xác quyết trong tông huấn Christus Vivit: “Đức Kitô đang sống! Người là niềm hy vọng của chúng ta, và bằng một cách tuyệt vời, Người mang tuổi trẻ đến cho thế giới của chúng ta, và mọi sự Người chạm đến đều trở nên trẻ trung, mới mẻ và tràn đầy sức sống. Vậy, những lời đầu tiên mà Cha muốn nói với mọi Kitô hữu trẻ là: Đức Kitô đang sống và Người muốn các con được sống! Chúng ta vui mừng cử hành ngày “Tân Niên Phụng Vụ” trong tâm tình hân hoan, tin tưởng, trong thái độ khiêm tốn tạ ơn được gặp gỡ, được đồng hành với chính Đấng Emmanuen, và là Đấng đang hiện diện trong chính Hy Tế Tạ ơn nầy. Đây là giờ phút không phải chúng ta hát mà là thực sự sống chính cái ý nghĩa của lời ca Nhập Lễ vừa vang lên lúc khởi đầu: “Con vươn linh hồn lên tới Chúa”. Amen.
68. Chờ đón Chúa đến thăm
Có một câu chuyện ngụ ngôn nhiều ý nghĩa, tôi muốn kể cũng anh chị em nhân dịp chuẩn bị đón Chúa đến. Chuyện kể rằng: Vào buổi chiều hôm ấy, bác thợ giầy thức giấc thật sớm. Bác quyết định chuẩn bị căn phòng làm việc của mình cho gọn ghẽ, để chờ đón một vị khách qúy là chính Chúa Giêsu, vì trong giấc mộng ban đêm, Ngài đã hiện ra báo cho bác biết, Ngài sẽ ghé thăm ngay hôm nay.
Bác thợ đánh giầy ngồi chờ, tâm hồn tràn ngập hân hoan. Những tia nắng ban mai dọi qua khung cửa làm cho căn phòng ấm áp thêm. Chợt nghe tiếng gõ cửa nhè nhẹ, lòng bác thêm hồi hộp, sung sướng vì được Chúa ghé thăm. Nhưng khi cánh cửa mở ra, người khách đối diện lại là ông đưa thư quen thuộc, tay chân tím bầm, mặt mũi xám ngoách, vì trời cuối đông lạnh buốt. Không nỡ để ông run rẩy ra đi, bác mời ông vô nhà pha trà tiếp khách. Sau khi được sưởi ấm tấm thân, người đưa thư đứng dậy cám ơn rồi ra đi tiếp tục công việc.
Bác thợ giầy trở lại chỗ cũ chờ đón Chúa đến. Nhìn qua khung cửa hàng, bác thấy một em bé đang khóc xướt mướt trước cửa nhà. Bác ra mở cửa gọi nó lại, hỏi nguyên do, nó mếu máo cho biết là nó lạc mất mẹ và không biết đường về. Bác thợ giầy lấy giấy viết vài chữ nguệch ngoạc đặt trên bàn, báo cho người khách qúy biết mình phải đi ra ngoài lo tìm nhà cho em bé. Nhưng tìm đường dẫn em về nhà không phải là chuyện nhỏ. Mãi đến sẩm tối bác mới tìm được và khi trở về nhà thì phố đã lên đèn.
Vừa bước vào đã thấy có người ngồi đợi, nhưng đó không phải là Chúa Giêsu, mà là một người đàn bà tiều tụy, mệt lả vì có con ốm nặng cần giúp đỡ. Bác thợ giầy thấy thế liền vội vàng đến nhà giúp đỡ em bé, đến nửa đêm mới về. Bác lăn vô giường ngủ chẳng kịp thay quần áo.
Thế là một ngày qua đi mà Chúa cũng chưa đến thăm bác nữa. Nhưng trong giấc ngủ vùi vì mệt mã, bác nghe thấy tiếng Chúa nói: "Cám ơn con đã dọn trà cho Ta uống, đã dẫn Ta về nhà, đã săn sóc an ủi Ta đau yếu. Cám ơn con đã tiếp đón Ta hôm nay".
Ý nghĩa câu chuyện quá rõ ràng. Cuộc chờ đón Chúa không phải là một vinh quang trần thế, không phải trong vui vẻ hài hòa, mà Chúa đến trong mọi hoạt cảnh, từ sáng đến trưa, từ trưa tới khuya. Chúa đến qua hiện thân của mọi người ta gặp hàng ngày.
Điều quan trọng là ta có sẵn sàng, có niềm nở, có vui tươi chấp nhận họ với cả sự hy sinh chính mình không. Nén bạc tác động của tình thương, của tình yêu, của tình bác ái chân thành và đầy ý nghĩa muốn như bác thợ giầy mới là tác động đón Chúa cách tích cực. Việc làm ấy mới đem lại lợi lộc gấp trăm.
Hàng năm chúng ta vẫn thích đón mừng Chúa Giáng Sinh, và hàng năm Ngài vẫn gõ của từng quán trọ, từng cửa lòng mỗi người. Nhưng chúng ta tiếp đón Chúa thế nào? Có đến nỗi Chúa phải sinh ra trong hang lạnh giá lòng chúng ta không? Và nếu còn như thế, Ngài cũng sẽ tiếp tục nói mãi trong giấc mộng của chúng ta. Hãy mở rộng tâm hồn đón Ngài. Hãy sửa soạn tâm hồn, sửa sang con tim cho ngay chính. Ngài cần tách trà ấm tình cho người lạnh nhạt với chúng ta. Ngài cần cánh tay nâng đỡ những người nhờ vả chúng ta. Ngài cần sự cảm thông tha thứ cho người có lỗi với chúng ta. Ngài cần chúng ta cho đi những gì mình muốn giữ lại. Bao nhiêu nghĩa cử ấy là bấy nhiêu lễ Giáng Sinh đẹp trong đời. Xin hãy suy nghĩ và thực hiện trong những ngày chờ đón Chúa đến.
“Hãy leo lên núi Chúa, tới nhà Thiên Chúa Giacóp”
Vâng, Chúa Kitô thật sự là một Con Người Lịch Sử, là Đấng Thiên Sai, Đấng đến để “cứu dân mình khỏi tội”, đúng như ý nghĩa tên Giêsu của Người đã được thiên thần nói đến khi báo mộng cho Thánh Giuse trong Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 1 câu 21, cũng đúng như sứ mệnh của Người đã được tư tế Giacaria thân phụ của Gioan tiên báo trong Phúc Âm Thánh Luca ở đoạn 1 câu 77. Bởi thế Dân Do Thái của Người nói riêng, hơn ai hết, đã trông đợi Người tới, như được tỏ hiện rõ ràng hơn hết qua việc họ tuốn đến với Gioan Tẩy Giả để xin lãnh nhận phép rửa của thánh nhân, như Phúc Âm theo Thánh Mathêu cho Chúa Nhật thứ hai và thứ ba Mùa Vọng thuật lại, vì họ tưởng Gioan này là Đấng Thiên Sai, như Phúc Âm Thánh Gioan cho thấy ở đoạn 1 từ câu 19 đến 22. Tuy nhiên, cho tới nay, dân Do Thái vẫn trông đợi Đấng Thiên Sai của họ, vẫn sống trong một thời điểm như thời điểm Mùa Vọng Kitô hữu chúng ta hôm nay bước vào đây. Dân Do Thái sở dĩ tiếp tục mông đợi Đấng Thiên Sai của mình vì Con Người Lịch Sử Giêsu cách đây hơn 2000 năm không phải là Đấng Thiên Sai họ đợi trông. Đúng thế, theo dự án cứu độ của Thiên Chúa, Con Người Lịch Sử Giêsu là Đấng Thiên Sai này không phải chỉ đến để “cứu dân mình khỏi tội”, mà còn cứu cả loài người khỏi tội lỗi và sự chết nữa, vì Người là Đấng Cứu Thế, chứ không phải chỉ là Đấng Cứu Tinh Dân Tộc Do Thái như một vị anh hùng thời thế vẫn xuất hiện trong giòng lịch sử của họ thôi. Đó là lý do vừa mở màn cho phụng niên để cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô, hình ảnh nhân loại nói chung đã được Phụng Vụ Lời Chúa nhắc đến rồi, như bài đọc một của Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng cho thấy: “Tất cả các dân nước sẽ tuốn về núi của nhà Chúa; nhiều người sẽ tới mà nói: ‘Hãy đến, nào chúng ta hãy leo lên núi Chúa, tới nhà Thiên Chúa Giacóp”, và bài đọc một của Chúa Nhật thứ hai Mùa Vọng cũng cho thấy: “Vào ngày ấy, gốc Jesse mọc lên như một dấu hiệu cho các dân nước thấy, Các Dân Ngoại sẽ tìm kiếm, vì nơi Người cư ngụ sẽ được vinh quang”. Chính Con Người Lịch Sử Giêsu này là Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần “Redemptor Hominis” đã làm sáng tỏ ý nghĩa của bốn tuần lễ Mùa Vọng, một thời đoạn tượng trưng cho 4 ngàn năm toàn thể nhân loại trông đợi Đấng Thiên Sai, Đấng ngay từ đầu lịch sử thế giới đã được Thiên Chúa Hóa Công hứa ban, như Sách Khởi Nguyên ghi nhận ở đoạn 3 câu 15 về giòng dõi người nữ đạp đầu rắn quỉ.
Tuy nhiên, nếu thực sự Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần đã đến rồi, cách đây hơn 2000 năm, thì Kitô giáo nói chung và Giáo Hội Công Giáo nói riêng còn cần gì phải cử hành Mùa Vọng để chờ đón Người đến thế gian lần thứ nhất này nữa mà làm gì, còn cần gì phải như Dân Do Thái cho tới bay giờ vẫn đợi trông Đấng Thiên Sai của họ, vì nhân vật Giêsu Nazarét ở giữa họ cách đây hơn 2000 năm, một nhân vật đã hoàn toàn bị họ căm hờn phủ nhận, đến nỗi, họ thà nhận giặc làm vua còn hơn nhìn nhận nhân vật lộng ngôn phạm thượng này (xem Mt 26,65; Jn 19,7), như họ đã tuyên bố thẳng thắn với tổng trấn Philatô: “Chúng tôi không có một vua nào khác ngoài Cêsa” (Jn 19,15)? Thật vậy, theo lịch trình phụng niên, Mầu Nhiệm Chúa Kitô Giáng Sinh và Mầu Nhiệm Chúa Kitô Phán Xét hoàn toàn khác nhau, ở chỗ, một mầu nhiệm mở màn cho phụng niên và một mầu nhiệm kết thúc phụng niên. Thế nhưng, theo bản chất và ý nghĩa của mình, nếu phụng vụ là việc long trọng cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô, cử hành những gì do Vị Thiên Chúa Làm Người đã thực hiện trong lịch sử loài người, như nhập thể, tử giá và phục sinh, những Biến Cố Thần Linh không thể qua đi như mọi biến cố lịch sử trần gian khác, trái lại, chúng sẽ muôn đời tồn tại như chính vị Tác Giả Thần Linh của chúng, với Tác Hiệu Thần Linh phát sinh từ những Biến Cố Thiên Chúa thực hiện này, thì qua việc cử hành phụng vụ, Chúa Kitô quả thực hiện diện nơi phụng vụ và tác động qua phụng vụ một cách mầu nhiệm.
Bởi thế, bởi “Chúa Kitô quả thực hiện diện nơi phụng vụ và tác động qua phụng vụ một cách mầu nhiệm”, mà khi cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô trong Mùa Vọng là thời đoạn trông đợi Người đến lần thứ nhất, Giáo Hội chẳng những muốn hướng con cái mình về biến cố Chúa Kitô đến lần thứ hai, mà còn muốn con cái mình, nhờ Phụng Vụ Lời Chúa và Phụng Vụ Thánh Thể, thực sự cảm nghiệm được việc Chúa Kitô đang hiện diện trong Giáo Hội cho tới tận thế, cho tới khi Người đến lần thứ hai. Như vậy, Kitô hữu chúng ta chỉ thực sự Sống Phụng Vụ nói chung và Sống Mùa Vọng nói riêng, khi chúng ta có được Cảm Nghiệm Thần Linh này, một cảm nghiệm về “Ơn cứu độ của chúng ta gần hơn khi chúng ta mới chấp nhận đức tin”, như Thánh Phaolô nhắc nhở một cách sâu xa trong Thư gửi Giáo Đoàn Rôma ở bài đọc thứ hai hôm nay. Đó là lý do, trong cả ba chu kỳ phụng vụ A, B và C, của Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng, Giáo Hội bao giờ cũng chọn bài Phúc Âm về lời Chúa Giêsu cảnh giác các môn đệ của Người, (chứ không phải cảnh giác chung dân Do Thái hay cảnh giác riêng nhóm Pharisiêu hoặc cảnh giác thành phần thượng tế và kỳ lão lãnh đạo trong dân), về việc “hãy tỉnh thức” chờ Chúa đến. Bài Phúc Âm theo Thánh Mathêu Năm A hôm nay đã chứng thực điều này như sau: “Vậy các con hãy tỉnh thức! Các con không biết được ngày nào Chúa của các con đến”.
Đúng vậy, cho dù Chúa Kitô Cứu Thế đã đến với chung loài người và đang ở cùng Giáo Hội của Người cho tới tận thế, tức cho tới khi Người đến lần thứ hai, thế nhưng, nếu xét về con số, thì 4/5 nhân loại, tức đa số loài người vẫn chưa nhận biết Người, trong khi đó, chính thành phần mang danh Kitô hữu, thành phần 1/5 dân số nhân loại hiện nay đã chính thức chấp nhận Người qua Bí Tích Rửa Tội, cũng đã quay ra chối bỏ Người, một thái độ được bộc lộ tỏ tường nơi thế giới Kitô Giáo Âu Mỹ qua hiện tượng phá sản đức tin bằng văn hóa sự chết hiện nay. Như thế, đối với hầu hết nhân loại, kể cả thành phần ngoài lẫn trong Kitô Giáo, Chúa Kitô Cứu Thế đã trở thành vô nghĩa, không có giá trị gì cả, kể như không có, hay có chăng nữa, cùng lắm cũng chỉ là một nhân vật lịch sử thuần túy vậy thôi, giống hệt như các vị sáng lập những đạo giáo khác vậy. Chính vì để tránh khỏi tình trạng như Tiền Hô Gioan đã cảnh giác dân Do Thái ở Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 1 câu 26: “Có một Đấng ở giữa các người mà các người không biết”, một tình trạng chẳng những xẩy ra cho Kitô hữu thời chúng ta, thời 2001 năm sau Chúa Kitô Giáng Sinh, mà còn xẩy ra ngay cho cả Kitô hữu ở vào thời Giáo Hội sơ khai, thời Chúa Kitô vừa mới về trời, Thánh Phaolô đã kêu gọi Giáo Đoàn Rôma rằng: “Anh em biết thời gian chúng ta đang sống đây. Đó là thời giờ anh em phải tỉnh giấc… Đêm qua rồi; ngày gần đến. Chúng ta hãy loại trừ những việc làm tối tăm và hãy mặc lấy khí giới ánh sáng”.
Vâng, đúng thế, chính “những việc làm tối tăm” của Kitô hữu đã khiến cho họ, dù ở bất cứ thời nào, không còn thấy được hay thấy rõ Chúa Kitô “là ánh sáng thế gian” (Jn 8:12) nữa, đúng như Người đã cho Nicôđêmô biết ở Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 3 câu 19: “Aùnh sáng đã đến trong thế gian, song con người đã chuộng tối tăm hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều là những việc gian ác”. Mà “những việc làm tối tăm” đây là gì, nếu không phải là những việc liên quan đến đam mê nhục dục, như Chúa Giêsu đã đề cập đến trong Phúc Âm hôm nay khi Người nhắc lại “thời Noe… người ta ăn uống, cưới vợ gả chồng… hoàn toàn không còn để ý gì nữa cho đến khi lụt xẩy đến mà hủy diệt họ”. Trong bài đọc hai hôm nay, Thánh Phaolô cũng khuyên Giáo Đoàn Rôma “anh em hãy loại trừ những việc làm tối tăm” là những việc liên quan đến đam mê nhục dục như sau: “Chúng ta hãy sống một cách đoan chính như giữa ban ngày; đừng chè chén say sưa, đừng dâm ô lăng loàn, đừng cãi lẫy hờn ghen. Trái lại, anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô và đừng chiều theo những ước muốn xác thịt”.
Vấn đề thực hành sống đạo: Để có được Cảm Nghiệm Thần Linh về thực tại Chúa Kitô là Lời đã nhập thể 2001 năm trước đây, cũng như về thực tại Người còn đang mầu nhiệm ở với Giáo Hội của Người cho đến tận thế, trước hết, chúng ta cần phải “tỉnh thức”, bằng cách “loại trừ những việc làm tối tăm”, như ý hướng của Thánh Phaolô trong bài đọc hai cũng như của chính Chúa Kitô trong bài Phúc Âm hôm nay huấn dụ. Phải chăng chính lúc chúng ta “loại trừ những việc làm tối tăm” là lúc chúng ta đang “leo lên núi Chúa”, đang lên cao hơn, đang từ từ được tự do thanh thoát hơn, “cho tới khiù được mặc lấy quyền lực từ trên cao” (Lk 24:49), một tầm mức và trạng thái đã được tiên tri Isaia bóng bẩy diễn tả như một “đỉnh núi cao nhất” trong bài đọc thứ nhất hôm nay: “Trong những ngày tới đây, ngọn núi của nhà Chúa sẽ được thiết lập như một đỉnh núi cao nhất, vượt trên các ngọn đồi… Chúng ta hãy leo lên núi Chúa, đến nhà Thiên Chúa của Giacóp”? Phải chăng chỉ khi nào chúng ta leo lên tới ngọn của “đỉnh núi cao nhất” này, tức lúc chúng ta được tràn đầy “quyền lực từ trên cao”, chúng ta mới đến được “nhà Thiên Chúa của Giacóp”, tức mới gặp được “Con Người Giêsu Kitô” (1Tim 2:5), Đấng “đã đến trong xác thịt” (1Jn 4:2), Đấng chính là “Vị Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1:23)?
69. Dọn lòng đón Chúa--Lm Minh Vận
Mùa Vọng là mùa khơi dậy cho con cái Chúa một niềm vui đầy hy vọng và trông đợi Chúa đến. Sự trông đợi Chúa đây, không phải như các tổ phụ, các tiên tri và dân Do Thái xưa mong đợi Chúa Cứu Thế đến trần gian, vì Chúa Cứu Thế đã đến, Người sinh ra bởi Đức Trinh Nữ Maria tại Belem đã 2000 năm rồi.
Nhưng trong Mùa Vọng, Giáo Hội muốn nhắc nhớ và khuyên nhủ con cái, dọn tâm hồn trong sạch để xứng đáng đón rước Chúa đến với mỗi tâm hồn chúng ta, bằng ơn thánh, bằng tình yêu thương và an bình của Chúa. Đó là món quà đặc biệt nhất Chúa muốn ban tặng cho các con cái ngoan thảo của Chúa trong dịp mừng kỷ niệm Chúa Giáng Sinh sắp tới.
Vậy chúng ta cần phải chuẩn bị thế nào để tâm hồn chúng ta được xứng đáng đón tiếp Chúa đến với chúng ta?
I. HÃY TỈNH THỨC VÀ CHỜ ĐỢI
Trong bài Tin Mừng hôm nay, khi đề cập đến lụt đại hồng thủy thời ông Noe, đang lúc người ta chỉ mải mê ăn chơi xa xỉ, thì bất ngờ đại hồng thủy đến, cuốn đi tất cả; Chúa đã khéo lợi dụng câu truyện này để khuyên nhủ chúng ta: "Vậy các con hãy tỉnh thức, hãy sẵn sàng, vì lúc các con không ngờ, Chúa các con sẽ đến"(Mt 24:44).
Cô Thanh là một cô gái rất ngoan đạo, được sinh ra và lớn lên trong một gia đình gia giáo, được truyền thụ một nền giáo dục đạo hạnh. Lúc nào cô cũng khát khao được gặp Chúa và siêng năng lợi dụng thánh hóa các công việc hằng ngày, nhất là công việc cô đang đảm trách là đứng bán hàng trong một cửa tiệm tạp hóa do cha mẹ cô trao phó. Một đêm kia, đang nằm ngủ, cô được mộng báo là hôm sau cô được Chúa Kitô tới thăm nơi cửa tiệm. Giấc chiêm bao sống động và vui sướng đến nỗi, cô Thanh tưởng rằng câu truyện đó là một thực tại sẽ xảy ra. Thế là ngay sáng hôm sau, khi vừa tới cửa tiệm, cô lo quét dọn, sắp đặt và trang hoàng lịch sự để đón tiếp Chúa tới thăm. Cô Thanh cuống lên giục người phụ tá phất trần, lau bụi, chưng hoa và cho biết hôm nay sẽ đón tiếp một vị Thượng Khách. Cô phụ tá tên là Huyền Vi rất vui vẻ và hăng say trong việc chuẩn bị, để đón tiếp vị Thượng Khách. Huyền Vi chỉ xin một ơn huệ là nhờ cô Thanh lái xe đưa về nhà lo thuốc thang cho bố, rồi sẽ trở lại cửa tiệm ngay chỉ trong vòng 30 phút thôi.
Cô Thanh chia buồn vì bố Huyền Vi bệnh, rất muốn giúp nhưng không thể làm được hôm nay, vì công chuyện quá khẩn cấp trong việc chuẩn bị. Lại nữa, lỡ ra lúc vắng mặt 30 phút vị Thượng Khách tới thì sao. Thế là cả hai đều chăm chú vào việc dọn dẹp chuẩn bị.
Mỗi lần cánh cửa tiệm mở, nghe thấy chuông báo hiệu có người vào là cô Thanh phóng ngay cặp mắt về hướng đó... Nhưng vô hiệu, vì không thấy bóng vị Thượng Khách, ngoại trừ những khách hàng quen thuộc thường lệ, đến trao đổi lời chào thăm và mua bán.
Vào quãng giữa trưa, một người hành khất từ ngoài đường bước vào, thân mình gầy còm hốc hác nấp dưới tấm áo rách tả tơi bẩn thỉu, đầu tóc rối bù tanh hôi. Người xấu số ngửa tay van lơn: "Nhờ ông đi qua, nhờ bà đi lại cho tôi chút cháo đổ vào bụng, đã mấy ngày không cơm..." Cô Thanh cầm mấy đồng cắc dí vào tay ông rồi vội vàng dẫn ra cửa, dường như không muốn kẻ hôi tanh nán lại, lỡ ra vị Thượng Khách bất ngờ tới thăm.
Chiều hôm đó cũng qua đi như mọi ngày. Cửa tiệm vẫn thế, kẻ ra người vào, kẻ đến người đi... trong số đó có một bà quả phụ tìm đến cửa hàng mong được sự giúp đỡ, vì con bà phạm pháp bị bắt giam. Bà ta bối rối lo sợ, chẳng biết kêu với ai. Nghe truyện thương tâm, cô Thanh rất cảm động hết lòng muốn giúp đỡ, nhưng chẳng dám rời cửa tiệm phút nào, vì sợ Chúa đến mà không được gặp.
Đã đến giờ đóng cửa, cô phụ tá ra về, khách hàng hết vãng lai. Đường phố đã chìm ngập trong cảnh hoàng hôn hiu quạnh, nhưng Chúa Giêsu vẫn chưa thấy đến thăm. Ngã lòng vì chờ đợi mỏi mệt, cô Thanh thất vọng ra về nghĩ bụng: "Thật điên rồ chạy theo giấc chiêm bao!"
II. CHÚA ẨN THÂN NƠI KẺ RỐT HẾT
Về tới nhà, sau khi nghỉ ngơi, ăn uống, thu dọn nhà cửa; tới giờ đọc kinh tối như thường lệ và suy niệm Lời Chúa. Tình cờ, cô Thanh mở sách Tin Mừng theo Thánh Matheu đoạn 25, cô đọc thấy những dòng sau đây: "Bấy giờ Vua phán với những kẻ đứng bên phải: "Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh cơ nghiệp Nước Trời, đã dọn sẵn cho các ngươi từ khi tạo thành vũ trụ. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho Ta ăn, Ta khát các ngươi đã cho Ta uống, Ta đau yếu các ngươi đã an ủi, Ta ở tù các ngươi đã thăm viếng". Bấy giờ các kẻ lành thưa lại rằng: "Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà nuôi dưỡng, khát mà cho uống, mình trần mà đã cho mặc? Có bao giờ thấy Chúa đau yếu hay ở tù mà chúng con đã đến thăm viếng Chúa đâu?" Vua đáp lại: "Những gì các ngươi đã làm cho anh chị em hèn mọn nhất của Ta là làm cho chính Ta"(Mt 25:34-40). Cô Thanh hồi tưởng lại những gì xảy ra trong ngày và nghĩ rằng giấc chiêm bao đã thành sự thật... Chúa Giêsu đã đến thăm cửa tiệm hôm ấy mà cô đã không ngờ. Chúa đã đến và Chúa lại đến hằng ngày, qua mỗi người anh chị em chúng ta. Nếu chúng ta biết nhận ra Chúa, nồng hậu tiếp đón Chúa, Chúa sẽ tỏ mình ra cho chúng ta qua mỗi người anh chị em, cho dù là những người hèn mọn nhất trên trần gian.
Kết Luận
Là con cái Chúa, chúng ta hãy lợi dụng Mùa Vọng như một thời cơ thuận tiện, để chuẩn bị tâm hồn xứng đáng đón tiếp Chúa ngự đến với mỗi người chúng ta; bằng cách thực thi Đức Bác Ái, biết nhận ra Chúa, đón tiếp Chúa nơi tha nhân, chia sẻ cơm bánh với những người đói khát, biết cảm thương an ủi những người sầu khổ, nâng đỡ những người yếu đuối, khích lệ những người thất vọng ngã lòng. Hơn nữa, Chúa còn muốn chúng ta hướng tâm hồn lên cao hơn, biết yêu thương cả những kẻ thù nghịch, làm ơn lành cho những kẻ ghen ghét mình, lại cầu nguyện cho những kẻ vu oan cáo vạ, bắt bớ, bách hại chúng ta nữa.
Chu toàn được những điều Chúa muốn trên đây, là chúng ta đã biết chuẩn bị tâm hồn sẵn sàng đón tiếp Chúa đến với chúng ta, bất cứ giờ phút nào. Chúa sẽ sung sướng ngự vào tâm hồn chúng ta như Chúa của sự bình an và nguồn hạnh phúc; ban cho chúng ta được tràn ngập niềm vui sướng Thiên Đàng ngay khi còn ở trần gian này.
70. Tỉnh thức để khỏi bị bắt chợt--Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
Tin mừng Mt 24: 37- 44: Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dựa vào biến cố đại hồng thủy thời ông Noe để dậy chúng ta bài học phải tỉnh thức để sẵn sàng chờ đợi Chúa đến trong vinh quang.
CÂU HỎI GỢI Ý
1. Phần đầu của diễn từ này đã kể ra những dấu hiệu rõ ràng báo trước cuộc Quang lâm. Còn đoạn văn chúng ta đây, khởi đầu phần hai, nhấn mạnh điều gì? Có mâu thuẫn giữa hai phần không?
2. Mt là người duy nhất trong bốn tác giả Tin Mừng dùng chữ "Quang lâm" (Parousia) (24,3.27.37.39). Chữ này có nghĩa nào trong thế giới La-Hy?
3. Phải chăng các câu 40-41 nhằm trình bày cuộc Phán xét tận cùng như một thứ định mệnh mù quáng và ngẫu nhiên? Đâu là điểm chung giữa nhung hình ảnh rút ra từ cuộc sống hằng ngày?
4. Các câu 42- 44 có cho biết sự tỉnh thức hệ tại điều gì không? Các dụ ngôn tiếp theo đó (24, 45- 51; 25, 1- 13; 25, 14- 30) có lấy lại và soi sáng chủ đề tỉnh thức này không?
5. Trong dụ ngôn ở câu 43- 44, việc Con Người được so sánh với một tên trộm có đáng ngạc nhiên không? Phải chăng đấy là trọng tâm của dụ ngôn? Giáo Hội sơ khai đã mặc cho dụ ngôn này ý nghĩa nào?
***
1. Trong phần đầu của diễn từ Cánh chung (cc.1- 36), Chúa Giêsu đã nhấn mạnh: Con Người chắc chắn sẽ đến và đến một cách rõ ràng. Mặc dù có những hạng thiên sai và ngôn sứ giả (cc.24- 26) mà các tín hữu phải đề phòng, người ta vẫn không thể lầm lẫn được. "Vì như sấm chớp lòe bên đông rạng bên tây thế nào, thì cuộc Quang lâm của Con Người cũng sẽ như vậy" (c.27). Dụ ngôn cây vả nằm trong chiều hướng, ý nghĩa đó (cc.32-34): đừng hoang mang trước làm gì vô ích, sẽ có những dấu hiệu chắc chắn báo động cho các ngươi.
Với các câu 37-41, ta đi sang một ý tưởng khác, không phải là hệ luận của ý tưởng trước đó. Nếu Con Người sẽ phải đến cách rõ ràng, ai nấy đều nhận ra được, thì Người cũng đến một cách đột ngột bất ngờ. Việc đối chiếu với câu chuyện lụt đại hồng thủy thời Noe nhấn mạnh tới nguy cơ của tình thế ấy.
Để nói về việc Con Người trở lại, thánh Matthêô, duy nhất trong bốn tác giả, đã dùng từ ngữ "Quang lâm" (Parousia) (24,3.27.37.39). Nguyên khởi, chữ này có nghĩa là "đến, hiện diện". Trong thế giới La-Hy (Hy lạp-la mã), người ta dùng nó để chỉ việc hoàng đế long trọng ngự đến hay chính thức thăm viếng một thành nào. Trong Kitô giáo sơ khai, từ ngữ sớm được sử dụng để nói về cuộc trở lại vinh quang của Chúa Kitô vào ngày cánh chung (x. 1Tx 2, 19; 4, 15; 2 Tx 2, 1. 8. 9; 1 Cr 15, 23). Trong ngày ấy, phải tỏ ra không gì đáng trách (1 Tx 3, 16; 5, 23), vì như bản văn cho thấy, phán xét đi liền với Quang lâm.
Chúa Giêsu, khi kể các dụ ngôn, thường ưa dùng những ám dụ lấy từ Cựu ước, dễ hiểu đối với thính giả cây nho: hình ảnh Israel; người cha, vị quan tòa, ông chủ đất, người chủ hộ: hình ảnh Thiên Chúa, mùa gặt: hình ảnh cuộc Thẩm xét v.v...). ở đây Người tạo ra một ám dụ mới: cuộc Quang lâm của Con Người vào lúc tận cùng giống như một trận đại hồng thủy thứ hai. Hình ảnh được chọn cho thấy khá rõ ý tưởng diễn tả: cánh chung sẽ là một tai ương thình lình đổ xuống đầu mọi người. Thay vì mâu thuẫn với ý tưởng trước nói về biến cố được nhiều dấu hiệu tiên báo, các câu 37-41 trình bày một viễn tượng khác: thái độ của con người. Thiên hạ thời Noe không ngờ được chuyện gì cả và vẫn cứ ăn uống, cưới vợ lấy chồng. Sự vô tri này thật là nguy hiểm: họ đã chết vì đã không nhận ra dấu hiệu nào. Ngày tận cùng cũng vậy. Tai ương treo trên đầu mọi người và sẽ rơi lúc nào không hay. Trong ngày đó, toan tính gì thì đã quá muộn: phải mở mắt ngay từ lúc này đây!
2. Cuộc Phán xét chẳng những bất ngờ mà còn tức khắc. Người ta sẽ không còn giờ, còn cách nào chuẩn bị. Và khi mà thiên hạ tưởng là chẳng có gì khác biệt, thì lúc ấy lại có một cuộc lựa lọc: lúc ấy ta sẽ biết ai là trinh nữ khôn ngoan và dại khờ, ai là tôi tớ tín thành và bất trung (25, 1 -30). Để diễn tả ý tưởng đó, bản văn dùng những hình ảnh lấy trong đời sống thường ngày: hai người làm ngoài đồng, hai bà đang xay bột.
Chắc hẳn đây là một nhóm thí dụ làm thành một ngạn ngữ bình dân mà Chúa Giêsu trích ra cho môn đồ. Thật thế, một bản văn Do thái còn giữ lại bằng tiếng copte, Khải huyền của Xôphônia (1, 8- 16) có kể ra 3 thị kiến mà chẳng giải thích, như thể độc giả đã quá quen thuộc cảnh tượng; ba thị kiến này tương ứng lạ lùng với Mt và Lc: "Lúc bấy giờ tôi thấy hai người đang sóng bước trên cùng một lộ trình: tôi nhìn họ nói chuyện với nhau. Và tôi cũng thấy hai người đàn bà đang xay bột và tôi nhìn họ trong lúc họ cùng nhau trò chuyện. Và tôi cũng thấy hai người trên giường trong lúc họ đang nằm nghỉ " (x. P.Lacan, Joumal Asiatique, 1966, tr. 169- 177). Ba lần lặp đi lặp lại này, thường thấy trong văn chương hy bá, cho ta liên tưởng tới một châm ngôn thông dụng mà các Tin Mừng cũng như cuốn sách Khải huyền Do thái nói đây đều tham chiếu.
Dầu sao, những thí dụ bình dân kia thật rõ ràng. Kẻ này người nọ đều lao động, đều cùng làm một công việc (hoặc cùng nghỉ ngơi, theo Luca), chẳng có gì khác nhau. Về phương diện này, cảnh hai người đàn bà đang xay bột thật đặc biệt sống động. Cối họ dùng là một thứ cối xay bằng tay nhỏ như ta còn thấy ngày nay bên Đông phương. Nó gồm hai khói đá tròn lắp chồng lên nhau; khối dưới nằm yên, và có một trục đứng; khối trên xoay động và có lỗ trũng ở giữa. Để xay, hai bà ngồi hai bên cối, cùng nắm một cái cán thẳng đứng và xoay tròn khối đá bên trên. Họ phải hòa hợp động tác với nhau và làm theo một nhịp điệu. Luca có nhấn mạnh đến tính cách tập thể của công việc này: "Hai bà cùng nhau xay bột". Nhìn họ làm việc ta chẳng thấy có gì khác giữa hai người. Thế nhưng, "một sẽ được đem đi, và một sẽ bị để lại ".
Vì vào giờ ấy sẽ có sự phân biệt rẽ đôi giữa loài người bề ngoài xem ra giống nhau. Chỉ lúc đó mới thật sự xuất hiện sự xung khắc ghê gớm giữa họ: người này được cứu, người kia hư mất. Và dù không ai biết, người này đã ở trong ánh sáng và kẻ kia đã ngập trong tăm tối rồi. Đến lúc ấy mới chuẩn bị, mới ăn năn, mới xin can thiệp thì đã quá muộn.
3. Đứng trước giây phút chung cục cấp bách và thình lình như nước lụt đó, người tín hữu phải luôn tỉnh thức. Các câu 42 và 44 không cho ta biết phải tỉnh thức như thế nào mà chỉ nói: môn đồ Chúa hãy san sàng luôn vì đã được báo động. "Hãy tỉnh thức": mệnh lệnh đó kết thúc đoạn so sánh với lụt đại hồng thủy (c.42) và mở đầu một khai triển mới. Thật vậy, chủ đề tỉnh thức được lấy lại và minh giải qua những dụ ngôn cho thấy các hậu kết thực tiễn của việc chờ mong Chúa Kitô trở lại. Tỉnh thức chẳng phải là một thái độ nội tâm mơ hồ hay một nhân đức tiêu cực, cũng không có vẻ gì là một sự chờ đợi nôn nóng hay rối loạn cả. Đó là lòng trung thành với nhiệm vụ đã được giao phó (dụ ngôn người quản gia), là việc chuẩn bị đón Chúa Kitô trở lại (dụ ngôn mười trinh nữ), là yêu sách chu toàn trách nhiệm của mình (dụ ngôn các nén bạc), là bổn phận giúp đỡ các anh em hèn mọn nhất của Chúa Kitô.
4. Ý nghĩa dụ ngôn tên trộm (c.43) tự nó không khó hiểu. Cái tế nhị và khó khăn là vấn đề áp dụng dụ ngôn đó lúc ban đầu ở Đông phương, nơi trộm cắp hoành hành ban đêm, người ta thường rất sợ những cuộc thăm viếng như vậy lắm. Lề luật đã tiên liệu trường hợp gia chủ giết tên trộm nếu bắt gặp hắn đang đêm (Xh 22,2). Do đó, thay vì truy tầm nguồn gốc chủ đề tên trộm này trong những ám chỉ xa xôi, mơ hồ của Cựu ước (Gr 49, 4; G 24, 14), có lẽ nên nghĩ đến một vụ trộm vừa mới xảy ra tại địa phương - như động từ ở thì quá khứ muốn bảo (tất ông đã tỉnh thức và đã không để nhà bị đào ngạch). Chúa Giêsu dùng sự kiện đó để một lần nữa báo động cho các thính giả biết cơn khủng hoảng gần kề: hãy đề phòng để khỏi bị bắt chợt như gia chủ kia. Ông ấy đã không thể đoán trước; nhưng các ngươi, các ngươi chẳng được quyền nói: "Nếu tôi đã hay mọi chuyện". Vì đù không rõ ngày giờ, các ngươi vẫn biết tai biến sẽ tới bởi Ta đã báo cho hay. Như vậy ý nghĩa nguyên thủy của dụ ngôn này chắc hẳn trùng với ý nghĩa của dụ ngôn Noe.
Sự kiện trên giải thích một điểm có lẽ đã làm ta bỡ ngỡ là lối so sánh cuộc viếng thăm của tên đạo chích với cuộc trở lại của Con Người. Trọng tâm dụ ngôn không nằm trên lối so sánh đó, nhưng trên tính cách bất ngờ của biến cố. Một chuyện xảy ra không ai lường trước được. Vì vậy phải chờ đợi, cho dù chẳng biết thời cơ. Đàng khác, cần lưu ý rằng, đối với Kitô hữu, ngày trở lại của Chủ là một ngày vui chứ chẳng phải là một ngày tai biến.
Hình như ở đây truyền thống sơ khai đã mặc cho dụ ngôn này ý nghĩa ám dụ (và Kitô học). Ta thấy có dấu vết của việc chuyển từ dụ ngôn sang ám dụ khi so sánh Mc 13, 35:,"Các ngươi không biết lúc nào chủ nhà trở về " với Mt 24,42: "Các ngươi không biết ngày nào Chủ các ngươi đến." Ở đây cộng đoàn Kitô hữu đã áp dụng cho mình một dụ ngôn có ý nghĩa tổng quát hơn nhiều. Trong tình thế họ đang sống, trước sự trì hoãn của ngày Quang lâm, cộng đoàn đã hơi xê dịch trọng tâm dụ ngôn khi lấy tên trộm làm hình ảnh Con Người. Chúa Giêsu đã nhấn mạnh sự đột ngột của ngày Chung thẩm. Còn Kitô hữu sơ khai lại nghĩ tới Đấng sẽ đến phán xét vào ngày cánh chung. Chủ sẽ đến, đó là điều họ đoan chắc, nhưng Người sẽ đến thình lình. Thành ra phải không ngừng thức tỉnh.
Ta biết hình ảnh tên trộm ấy được Tân ước nhắc lại nhiều lần. Chắc chắn nó phát xuất từ dụ ngôn này, bởi vì các bản văn Do thái giáo nói về ngày cánh chung không hề dùng đến nó. Thế mà trong 1 Tx 5, 2- 4 cũng như 2 Pr 3, 10, chính Ngày của Chúa theo nghĩa Cựu ước (x.Am 5,18), tức là ngày sau cùng, (được so sánh với một tên trộm Ngày ấy bắt chợt mọi người, tín hữu cũng như lương dân; chỉ có những ai săn sàng mới không bị chộp thình lình. Như vậy, dụ ngôn đã được hiểu theo ý nghĩa Chúa Giêsu muốn. Tuy nhiên, trong Khải huyền (3, 3; 16, 15), Chúa Kitô đến như một kẻ trộm, và Người chỉ báo động cho Kitô hữu thôi. Chúng ta gặp lại ở đó ý nghĩa mà Giáo Hội sơ khai đã tìm thấy trong dụ ngôn.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
"Thiên hạ cứ ăn uống": Lụt đại hồng thủy xảy đến vì nhân loại đã hoàn toàn sa đọa. Nhưng ở đây Mt không chủ ý nhắc đến sự đồi trụy có tính cách truyền kỳ của thời Noe; ông chỉ muốn nói đến đời sống bình thường của con người. Điều bản văn muốn nhấn mạnh là: một đời sống hoàn toàn tự nhiên như thế, không trái gì với luật Thiên Chúa, chẳng đồi trụy chút nào, vẫn không hề làm cho người ta tưởng nhớ đến ngày phán xét. Vậy mà, chính trong những điều kiện như thế, cuộc chung thẩm sẽ bất ngờ xảy ra.
"Một sẽ được đem đi, và một sẽ bị để lại ”: Được đem đi có nghĩa là được đem về Nước Trời, và bị để lại có nghĩa là bị hư mất mãi mãi.
KẾT LUẬN
Lời Chúa Giêsu khẳng quyết ta không thể biết đâu là ngày giờ tận cùng như muốn bảo chúng ta đừng tính toán, giả định thời gian Người đến. Mối hy vọng Người trở lại đừng biến thành một sự chờ mong nôn nóng, song như là niềm xác tín rằng: Đấng đã và đang đến sống giữa các thân thuộc Người, sẽ ban cho cuộc đời con người và vũ trụ một ý nghĩa đích thực, để Thiên Chúa trở nên mọi sự trong mọi người (1 Cr 15, 24- 28).
Nhưng được giải tỏa khỏi thắc mắc "khi nào và làm sao", Kitô hữu lại càng phải sống như thể ngày đó gần kề. Trong ý nghĩa này, bản văn không mời gọi ta luôn ngước mắt về trời cho bằng hãy quan tâm đến những bổn phận thường nhật mà Chủ bảo phải làm. Ngày giờ tận cùng càng bí ẩn bao nhiêu, thì sự tỉnh thức càng khẩn thiết bấy nhiêu. Lời kêu gọi của các Tin Mừng: "Hãy sẵn sàng? Hãy tỉnh thức" phải vang dội trong tâm khảm những ai đang đón chờ ngày hội ngộ lớn lao đó, không như một mối ám ảnh về ơn rỗi riêng tư, nhưng như một đòi hỏi trung thành với nhiệm vụ Chủ đã trao phó.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Bên ngoài, không có gì phân biệt hai nông dân đang làm việc ngoài đồng và hai bà đang xay bột. Nhưng trước mặt Thiên Chúa, có một cái phân biệt họ, đó là thái độ nội tâm. Một người thuộc về số những kẻ không ngờ được chuyện gì, người kia thuộc về số biết rõ. Người thì chỉ lưu ý đến cuộc sống, dự định của mình, kẻ kia. quan tâm đến Thiên Chúa và ngày Ngài trở lại. Một chỉ nghĩ đến công việc riêng tư còn người kia làm việc trước mặt Thiên Chúa, Thiên Chúa cũng hiện diện trước mặt họ y như công việc họ đang làm. Người thì ngủ, kẻ lại tỉnh thức. Lời này chiếu dãi ánh sáng trên cuộc sống hằng ngày của ta. Cái quan trọng không phải là việc làm nhưng!à cách làm.
2. Lời khuyên tỉnh thức chờ mong Chúa Giêsu đến không chỉ nhắm vào thời sau cùng, nhưng còn nhắm tới việc Người đến trong đời mỗi người chúng ta: giờ chúng ta chết. Không ai hay được giờ ngày mình chết, chẳng ai biết cách tính toán, dự phòng. Giờ chết có thể đến thình lình, bất ngờ, đang lúc làm việc ngủ nghỉ, hay giải trí. Việc chuẩn bị chết cũng là việc chuẩn bị ngày Quang lâm. Nếu thật sự quan tâm đến tính cách bất ngờ và bí ẩn của giờ đó, nếu sẵn sàng luôn luôn, ta sẽ có một thái độ thực sự Kitô giáo để đón chờ Chúa đến.
3. Chúng ta, người tín hữu, đang sống trong một thế giới mà đối với nó, niềm xác tín việc Chúa Kitô trở lại với bao hậu quả kèm theo chẳng có một ý nghĩa gì. Thế giới quanh ta không chống cũng chẳng bênh việc trở lại đó; họ không hay biết điều ấy; họ cho là ảo tưởng, hão huyền. Niềm xác tín của chúng ta bị xem là dị thường, kỳ lạ; đức tin chúng ta vẫn luôn bị đồng hóa vào một thứ mê tín lỗi thời. Thế gian có lẽ chấp nhận sự hiện hữu của Giáo Hội như một tôn giáo tổ chức chặt chẽ, khả dĩ phục vụ được nhân loại trong vài vấn đề nhất thời hơi quá sức con người; thế gian thừa nhận Giáo Hội xét như Giáo hội giống với nó và đồng hóa với nó, nhưng ý nghĩa sâu xa của Giáo Hội là nhắc nhở và chuẩn bị ta chờ đón Chúa đến thì thế gian không bao giờ hiểu được. Thành ra thật là vô ích khi người tín hữu đi tìm trong thế gian và trong não trạng hiện thời những lý do để tin vào Chúa Giêsu và tin vào ngày Người trở lại; thế gian luôn bất lực, ngay cả trong nhung mộng ước, dự định điên rồ nhất và cuồng loạn nhất của nó. Vì thế, Chúa đã nhấn mạnh: "Hãy tỉnh thức, hãy sẵn sàng". Người biết rõ rằng đời sống thường nhật với bao nhiệm vụ gia đình và xã hội, cũng như não trạng đang sinh động nhân loại quanh ta, không thể giúp gì cho ta trong chuyện ấy; hơn nữa, ta thường xuyên bị lôi kéo vào sự vô ý thức chung, vào sự mê ngủ thiêng liêng toàn diện. Đôi khi ta đau khổ, lắm lần ta bỡ ngỡ vì tình trạng đó; song đừng viện cớ ấy mà thoái thác và làm phai nhạt trong ta niềm xác tín ngày Chúa trở lại.
4. Suốt Mùa Vọng này, Chúa sẽ tỏ mình cho mỗi người chúng ta. Đấy là điều chắc chắn: Chúa sẽ thông ban chính mình cho kẻ tìm Người qua sự bằng an nội tâm sâu xa hơn, một đức ái thực sự hơn, một sức can đảm mạnh mẽ để đương đầu với trách nhiệm hơn. Ta hãy chú ý và tỉnh thức để bắt gặp giờ của Người; giờ ấy sẽ làm cho ta nếm được tình yêu đích thật của Người và củng cố niềm tin của chúng ta vào việc Người đến lần sau hết.
71. Không một ai biết giờ--Lm. FX. Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Khối diễn từ cuối cùng gồm trọn chương 23 Mt, “Những lời nguyền rủa người Pharisêu”, trước đây vẫn được coi như tách biệt, và phân đoạn Mt 24,1–25,46, “Diễn từ cánh chung”: Cả khối từ câu 23,1 đến câu 25,46 làm thành bài diễn từ duy nhất có chức năng nhắc nhở những người trong nhà sống một đời sống trung thực với những hành vi, công bình, nhân ái, dưới ánh sáng của cuộc chiến thắng cánh chung của Thiên Chúa và cuộc phán xét đang đến. Bài Tin Mừng Mt 24,37-44 nằm trong khối diễn từ cuối cùng này.
Phụng vụ cho đọc từ c. 37, nhưng có lẽ nên đọc bản văn ngay từ câu 36, vì: 1) Tư tưởng của câu 36 này được trình bày trong cc. 37-44; 2) Hai từ ngữ “ngày và giờ” trong c. 36 được nhắc lại trong cc. 42 và 44 làm thành một lối hành văn “đóng khung”, khiến cả phân đoạn 24,36-44 thành một đơn vị thống nhất. Các nhà chú giải thường cắt phân đoạn ở c. 36 thay vì ở c. 37 như trong bản văn Phụng vụ.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Bài học thời Nôê (24,37-39), với công thức “cuộc quang lâm của Con Người cũng sẽ như vậy” ở c. 37 và c. 39 đóng khung đoạn văn thành một đơn vị; đơn vị này xoáy vào trọng tâm là “ngày Quang Lâm của Con Người”;
2) Cuộc phân rẽ vào ngày Quang Lâm (24, 40-41): Hai câu này vừa là kết luận cho đoạn 37-39, vừa là tiền đề (và cũng là kết luận) cho lời kêu gọi và dụ ngôn ở cc. 42-44;
3) Bài học về canh thức và sẵn sàng (24,42-44), với dụ ngôn “Kẻ trộm đêm khuya”, được đóng khung thành một đơn vị bằng hai công thức tương tự “ngày Chúa của anh em đến” (c. 42) và “giờ Con Người sẽ đến” (c. 44); đơn vị này xoáy vào hai từ cụ thể được tác giả Mt dùng để gọi ngày Quang Lâm, “ngày và giờ”.
3.- Vài điểm chú giải
- thời ông Nôê (37): Kinh Thánh kể việc Nôê đóng tàu trong sách Sáng thế (6,11-13).
- quang lâm (37.39) (HL: parousía, nghĩa đen là “sự hiện diện”): Trong Mt 24,29-31, Đức Giêsu cho biết rằng Người sẽ trở lại “uy nghi” (= với quyền lực), “ vinh hiển” (= với vinh quang), “ngự giá mây trời” (= trên mây trời). Các hình ảnh đó cho hiểu Người sẽ trở lại trong tư cách Đấng chiến thắng. Đây là một cuộc khải hoàn.
- một người được đem đi, một người bị bỏ lại (40.41): Hai động từ của bản văn Hy-lạp ở thái bị động paralambanetai và aphietai nên phải hiểu chủ ngữ là Thiên Chúa. Dựa theo truyền thống, có thể hiểu: sự kiện các thiên thần “tập hợp những kẻ được [Con Người] tuyển chọn” (c. 31; x. Mc 13,27) cho thấy paralambanetai có nghĩa là “được cứu thoát”, nên phải dịch là “được đem đi”, aphietai, có nghĩa là “bị kết án”, nên phải dịch là “bị bỏ lại”.
- canh thức (42) (HL: grêgoreô): có nghĩa là “không ngủ”. Đây là thái độ Đức Giêsu yêu cầu phải có nơi những người đang trông chờ Người đến (x. Mt 25,13; Mc 13,33-37; Lc 12,35-40). Sự canh thức, ở trong tình trạng “báo động”, giả thiết phải có một niềm hy vọng vững chắc và đòi hỏi tâm trí luôn sẵn sàng (đây cũng là “sự tiết độ”: 1 Tx 5,6-8; 1 Pr 5,8).
- không biết ngày nào (42): Đức Giêsu vừa khẳng định mạnh mẽ rằng Người sẽ lại đến, vừa nhấn mạnh rằng không ai biết được ngày giờ đó (24,36.42.44). Không ai biết và cũng không ai có thể tính toán để tìm ra ngày giờ ấy cả.
- kẻ trộm (43): Kinh Thánh dùng hình ảnh tên trộm để nói tới tính bất ngờ của ngày Chúa đến (x. 1 Tx 5,2; 2 Pr 3,10; Kh 3,3; 16,15).
- vào canh nào (43): Một đêm thường được chia thành bốn canh (HL: phylakê): chiều (từ khi mặt trời lặn đến 9g tối), nửa đêm (từ 9g tối đến 12g đêm), khi gà gáy (từ 12g đêm đến 3g sáng) và sáng (từ 3g sáng đến bình minh, khoảng 6g sáng).
- khoét vách (43): Nhà dân Do Thái thời Đức Giêsu thường được làm bằng đất với cành cây khô, nên kẻ trộm có thể lọt vào nhà bằng cách khoét thủng vách tường đất.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Bài Tin Mừng chúng ta đọc hôm nay, nếu không được hiểu đúng, sẽ gây khó khăn cho chúng ta.
Trước tiên, can phải xem Đức Giêsu đang nói về chuyện gì. Tại sao Người đưa vào trong câu chuyện: ông Nôê, hai người đàn ông đang làm việc trên cánh đồng, hai người đàn bà đang xay bột, và một tên trộm? Câu trả lời nằm ở đầu chương 24: ở đây Đức Giêsu đang nói về những dân cư Giêrusalem không muốn hoán cải. Các môn đệ sửng sốt vì những lời Thầy nói, đã hỏi Người hai điều: khi nào chuyện ấy xảy ra và có dấu hiệu báo trước chăng (cc. 2-3). Thay vì trả lời họ, Đức Giêsu dạy họ những điều đến hôm nay vẫn còn giá trị: chúng ta phải luôn luôn canh thức. Rồi Người đưa ra ba ví dụ.
* Bài học thời Nôê (37-39)
Vào thời Nôê, có hai hạng người: những người chỉ biết hưởng thụ cho bản thân và những người tỉnh thức biết lắng nghe các lời lưu ý.
Những người hoàn toàn để mình bị cuốn hút vào trong cuộc sống trần thế, với những sinh hoạt cụ thể và những phương diện bề ngoài ai cũng thấy được (ăn uống, cưới vợ lấy chồng), thì chỉ biết vui hưởng đời này, không muốn quan tâm đến bất cứ điều gì khác nữa. Vả lại, nạn hồng thủy chỉ được loan báo, chứ chưa xảy ra. Cũng thế, cuộc Quang Lâm của Chúa Giêsu cũng chỉ mới được loan báo, chứ chưa xảy ra. Tính cụ thể của các sự việc trần thế và kinh nghiệm hiện tại dường như thực hữu hơn là bản thân Đức Chúa như Người đã loan báo. Do đó, người ta bị hút vào hiện tại và hoàn toàn không màng đến Người, không nghĩ đến trách nhiệm của mình đối với Người. Dù sao, biến cố quan trọng ấy cũng đã được loan báo, nên chúng ta phải chịu trách nhiệm về tình trạng bản thân khi Người đến. Cần phải luôn canh thức và sẵn sàng.
Bài học là: Vào thời Nôê, nhiều người đã bị chết; vậy những kẻ không chấp nhận Đức Giêsu hoặc tuân theo lời Người, cũng sẽ chết khi thành thánh bị tàn phá. Còn những ai đón nhận sứ điệp của Người, sẽ được cứu độ và sẽ trở thành những người đầu tiên thuộc đoàn dân Người.
* Cuộc phân rẽ vào ngày Quang Lâm (40-41)
Với ví dụ thứ hai rút ra từ cuộc sống thường ngày, Đức Giêsu cho thấy rằng mọi người bình đẳng trong các sinh hoạt trần thế, và không một hoàn cảnh bên ngoài nào bảo đảm cho người ta có một tư cách xứng đáng cả. Về bề ngoài, không có nét nào phân biệt giữa hai người đàn ông đang làm ruộng, hoặc hai người đàn bà đang kéo cối xay. Tuy nhiên, khi Đức Giêsu quang lâm, sẽ xảy ra một cuộc phân rẽ tận căn: những ai đã sẵn sàng với Người thì được đón vào sống hiệp thông với Người, còn những người khác thì bị loại trừ. Số phận vĩnh viễn của mỗi người tùy thuộc cách thức mỗi người sống với Người trong thời gian này. Từ chỗ thấy rằng mọi người đều có phần công việc và lao khổ, hạnh phúc và bất hạnh, đau khổ và niềm vui, sống và chết, người ta dễ rơi vào ảo tưởng là sự vâng phục hoặc bất phục tùng đối với Thiên Chúa, sự ngay thẳng hay gian tà không hề quan trọng gì cả, là mọi sự đều như nhau, chẳng có ý nghĩa gì, bởi vì mọi sự sẽ kết thúc giống nhau cho mọi người! Đức Giêsu điều chỉnh lối suy tư sai lạc này.
Bài học là: “Anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến” (c. 42).
* Bài học về canh thức và sẵn sàng (42-44)
Đến đây, Đức Giêsu cho ví dụ thứ ba. Nếu chúng ta biết ngày giờ Chúa đến, hẳn là chúng ta sẽ chuẩn bị và chờ đợi. Nhưng Đức Giêsu dùng dụ ngôn kẻ trộm đêm khuya để báo cho chúng ta rằng Người sẽ đến thật bất ngờ, chúng ta không thể tiên liệu. Do đó, chúng ta phải luôn luôn sẵn sàng, từng giờ từng phút: “Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (c. 44).
Tất cả những lời kêu gọi tỉnh thức này có ý nghĩa gì đối với chúng ta hôm nay? Phải chăng Thiên Chúa thật sự đến như một kẻ trộm, và gọi người ta đến mà xét xử vào lúc họ ít sẵn sàng nhất? Thật khó mà đặt lòng tin vào một vị Thiên Chúa như thế! Nếu đây là cách giải thích đúng các lời nói của Đức Giêsu, hẳn là chúng ta sẽ không có một sứ điệp cứu độ, mà chỉ có một lời đe dọa ác độc. Thật ra điều Người muốn nói với chúng ta hoàn toàn khác hẳn.
Trong mỗi khoảnh khắc, chúng ta phải sống một cuộc sống phù hợp với ý muốn của Người và có thể lãnh trách nhiệm trước mặt Người. Chính vì Người không cho thấy tất cả ý định của Người mà chúng ta phải hiểu rằng chúng ta hoàn toàn lệ thuộc vào Người. Sự kiện lúc này Người còn đang ẩn mình và rất “ở yên” không được khiến chúng ta bị lừa. Như thế, điều Đức Giêsu muốn nói với chúng ta hôm nay là Người luôn luôn muốn cứu chúng ta, làm cho chúng ta hạnh phúc, nhưng chúng ta phải luôn ý thức về sự hiện diện của Người.
+ Kết luận
Theo kinh nghiệm thông thường, người ta cho rằng chính loài người và các sức mạnh thiên nhiên qui định dòng lưu chuyển của từng số phận con người và toàn thể lịch sử nhân loại. Quan niệm này khiến người ta nghĩ rằng sự việc vẫn cứ tiếp tục như thế, trừ phi là xảy ra mộttai họa trên toàn thể vũ trụ. Nhưng Đức Giêsu lại đến loan báo rằng Nước Trời đã gần kề, có nghĩa là Thiên Chúa dứt khoát quyết định bung mở quyền chúa tể của Ngài ra (x. 4,17). Điều này sẽ được thể hiện khi Con Người đến với quyền lực và vinh quang Thiên Chúa (24,30). Khi Người tỏ mình ra vĩnh viễn cho hết mọi người với quyền lực thần linh của Người trước toàn thể thế giới, mỗi người sẽ xuất hiện ra trước mặt Người trong chiều hướng và giá trị đã đạt được. Với biến cố Đức Giêsu đến vĩnh viễn, mỗi người cũng sẽ đạt tới ánh sáng trong bản chất thâm sâu của mình. Mỗi người bị liên kết sâu xa với ngày Đức Giêsu trở lại, do đó phải sống trọn cuộc đời trong chiều hướng này. Và bởi vì không một ai biết chính xác ngày giờ Người trở lại (24,36.42.44), mỗi người cần luôn luôn sống trong tư thế sẵn sàng đón Người khi Người lại đến.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Đức Giêsu khẳng định là không một ai có thể biết được ngày giờ Người trở lại trần gian và tính toán để tìm ra ngày giờ ấy. Do đó, điều hết sức hệ trọng là luôn sẵn sàng cho biến cố ấy, tức là lưu ý đến tính bất xác, tính bất khả tri và bất khả tiên liệu của ngày giờ đó, hầu tránh được lối sống mù quáng. Chúng ta vẫn đang hy vọng Người trở lại. Nhưng đây không phải là một nỗi niềm chờ mong khắc khoải, mà là một xác tín rằng Người cũng là Đấng đã đến và đang đến sống giữa chúng ta: chính Người đang và sẽ đưa lại ý nghĩa chân thật cho cuộc đời và vũ trụ chúng ta.
2. Vì đã được Đức Giêsu dạy là không thể tìm ra đáp án cho các câu hỏi “khi nào và cách nào”, người Kitô hữu chỉ càng chăm chú sống y như thể ngày đó đang đến rồi. Tuy nhiên, canh thức và sẵn sàng không có nghĩa là cứ đưa mắt nhìn về trời! Lời Chúa mời gọi chúng ta quan tâm đến những nhiệm vụ hằng ngày chúng ta đã và sẽ đảm nhận. Sống và làm việc đúng như Người đã giáo huấn chúng ta, đó là cách thức tốt nhất để đón Người vào ngày Người trở lại. Sự canh thức càng có tính thúc bách khi chúng ta không biết giờ cùng tận. Tiếng hô của bài Tin Mừng: “Anh em hãy sẵn sàng! Hãy canh thức!” phải vang lên trong tim của những người đang chờ mong cuộc gặp gỡ vĩ đại.
3. Nhìn bề ngoài, không có dấu chỉ nào giúp phân biệt người đang sống đúng thánh ý Thiên Chúa và người không sống như thế, khi mà ai nấy đều đang sống chìm vào giữa những thực tại trần gian. Do đó, chúng ta không được nhìn vào người khác để lượng định bản thân và nhất là để mình rơi vào mộtthứ yên tâm giả tạo. Tốt nhất là hãy nhớ lại các giáo huấn Đức Giêsu đã ban cho chúng ta, rà soát xem chúng ta đã đưa ra thực hành như thế nào. Bài Giảng trên núi trong TM Mt chính là một cẩm nang giúp người Kitô hữu sống canh thức và sẵn sàng.
4. Chúng ta nhớ rằng chúng ta luôn luôn lệ thuộc vào Đức Giêsu và chúng ta luôn chịu trách nhiệm trước mặt Người. Đức Giêsu đến vào Ngày Quang Lâm không còn phải là trong tư cách Đấng Cứu thế, nhưng trong tư cách vị Thẩm Phán tối cao. Do đó, ngày Người đến sẽ là ngày giờ của sự thật, bởi vì sẽ là ngày giờ để trả lời (“trả lẽ”) với Người về những nhiệm vụ chúng ta phải chu toàn và là ngày giờ chúng ta được vén mở (= mạc khải) cho hiểu biết mọi sự.
72. Chú giải của Noel Quesson
Một năm phụng vụ mới bắt đầu. Năm nay (A), chúng ta sẽ đọc mỗi Chúa nhật một đoạn Tin Mừng theo Thánh Matthêu. (Năm B là năm Tin Mừng Maccô, và năm C là năm Tin Mừng Luca).
Quả thế, thời ông Noê thế nào, thì ngày quang lâm Con Người cũng sẽ như vậy.
Đó là Mùa Vọng.
Ta biết từ này bắt nguồn từ tiếng La-tinh adventum, nghĩa là sự đến, đã đến đấy là từ đầu tiên của sách Tin Mừng này. Một ai đó. Đức Giêsu không giới thiệu mình cho chúng ta như một người của quá khứ, nhưng như một người của tương lai. Người nói về việc người đến, về việc người quang lâm như một biến cố tương lai.
Lễ Giáng sinh sắp đến, đối với chúng ta không phả là một cách làm giả bộ, như chúng ta vui sướng chờ một người đã đến và chúng ta nhớ nhung gợi lại một câu chuyện lạ lùng xưa.
Đức Giêsu đã nói với chúng ta Người sắp đến; thời ông Noê thế nào, thì ngày quang lâm Con Người cũng sẽ như vậy.
Này đây Chúa đến! Ta hãy để cho Chúa đi qua!
Mỗi buổi sáng Thiên Chúa đều mới mẻ.
Vì trong những ngày trước nạn hồng thủy, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, cho mãi đến ngày ông No-ê vào tàu.
Những đầu óc nông cạn có lẽ sẽ nói: tại sao lại phải tìm quá xa và đi ngược mãi lên đến thời hồng thủy và Tàu No-ê. Người ta phải làm chi đây? Này! Đức Giêsu, chính Người đang nghĩ ta đang ở "vào thời No-ê". Và Người mô tả về điều người ta lo lắng. Đó chính là bức tranh của xã hội ta đương. đại: làm việc, ăn uống, dựng vợ, gả chồng. Tất cả những chuyện đó, chẳng có gì tự nhiên hơn!
Trong sách Sáng Thế (16,5-13), cơn hồng thủy được trình bày như một hình phạt cái tội vô luân của con người thời đó; "Đức Chúa thấy rằng con người quá gian ác trên mặt đất, và lòng họ chỉ toan tính những ý đồ xấu xa suốt ngày". Truyền thống thượng tế khi kéo dài và bi kịch hóa mạc khải Kinh Thánh, đã nghiêm khắc mô tả "sự sa đọa nhục dục của những người đương thời No-ê kéo theo hỗn loạn sang lãnh vực phong tục... và cuối cùng đi tới hủy hoại về đạo lý và xã hội đến nỗi loài người tự hủy diệt chính mình mà không còn hy vọng sống xót…” (chú giải về sách Sáng Thế của Rachi).
Đức Giêsu, trái lại, tuyệt đối không hề nói gì về nạn vô luân. Người không trách móc những người đương thời No-ê, đó chỉ là những đàn ông và đàn bà đang hít thở niềm vui của cuộc sống! Người không trách họ về sự sa đọa của họ. Cuối cùng thì họ chẳng làm chuyện chi xấu xa cả: họ chú tâm đến những nhu cầu hoàn toàn bình thường của cuộc sống, chẳng có một hậu ý gì.
Thế thì họ quấy quá ở chỗ nào? Đức Giêsu có thể trách móc họ điều gì nào?
Họ không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thủy tới cuốn đi hết thảy.
Họ không bị khiển trách vì phóng đãng mà cũng chẳng phải vì tội lỗi. Chính vì họ “không biết sớ hãi gì cả!” không lo đến chuyện chính yếu... không có một nhận thức đúng đắn về thực tại…
Họ có vẻ tin là họ bất tử! Mắt họ bị bịt không thấy thân phận con người của mình. Họ phải chịu cái chết "nuốt trôi” để rồi, trong phút chốc, họ khám phá thấy rằng họ không phải là “những thần linh” và nếu muốn sống thì họ cần đến Chúa!
Chúng ta luôn luôn ở vào "những ngày thời No-ê!".
Loài người hôm nay, cũng thế, họ như bị đánh thuốc mê. Tiến bộ vật chất chính nó có xu hướng ru ngủ chúng ta. Người ta tin thế gian này vững vàng, chỗ người ta đã quen sống, cho đến ngày đến lúc chợt tỉnh ngộ, thì còn tàn bạo hơn cả trước kia người ta đã vô ý thức quá về mối nguy hiểm. Có một cảnh tượng hiện đại của cận đại hồng thủy; đấy là cuộc lạm phát tiền tệ quốc tế nhận chìm hết mọi nền kinh tế, đấy làm sự tăng giá đột ngột như một cơn són triều của dầu khí và những nguyên liệu thiết yếu nhất, đấy là một căn bệnh không tiên đoán được, đấy là một ta nạn … Và tất cả mọi thứ an toàn của chúng ta đều bị cuốn trôi hết!
Ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy.
Lần thứ hai, Đức Giêsu dùng đến từ "quang lâm" “parousia" trong tiếng Hy Lạp. Thực sự, từ này có nghĩa là sự "hiện diện", "đã đến": Có mặt ở đấy! Xưa người ta dùng từ ấy, trong thế giới Hy-La để chỉ "những cuộc đi thăm chính thức của các hoàng đế".
Chúng ta có xu hướng hơi thái quá đem áp dụng nghĩa “parousia" cho Ngày Tận Cùng Các Thời Đại, khi nghĩ rằng ta có những cơ may là không trông thấy ngày tận thế. Đúng là cách ta đánh giá sai lầm về các sự vật mà Đức Giêsu muốn chúng ta cảnh giác: Thực sự, Đức Giêsu nói với chúng ta rằng Người đến "thăm chính thức” chúng ta trong lúc ta bận rộn những chuyện thường ngày nhất, tại nơi ta làm việc tại nhà ta, ở nới ta ăn uống, trong các quan hệ giữa đàn ông và đàn bà của ta. Lúc lào ta cũng phải sẵn sàng cho Đức Giêsu "ngự đến", "đến cuối cùng", ' có mặt ở đó".
Bấy giờ hai người đàn ông đang làm nương, thì một người được đem đi! một người bị bỏ lại; hai người đàn bà đang kéo cối xay, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại...
Đó là cuộc sống hằng ngày.
Chính trong những lúc bận rộn rất thường ngày của chúng ta mà Đức Giêsu đến, giữa lúc người nông dân đang làm, người nội trợ đang làm... và ta có thể thêm, nơi văn phòng, ngoại phố, lúc ta đang lái ôtô.
Vậy anh em hãy canh thức, bởi vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến.
Đức Giêsu khuyên chúng ta phải "tỉnh thức": Hãy canh thức! Hãy chuẩn bị cho tương lai chúng ta. Bởi lẽ Chúa "đến", Chúa "có mặt" mọi ngày.
Đức Giêsu "đến” tạo ra một cách thế riêng của người ở chỗ mà người ta không thấy có gì khác nhau, bởi lẽ không có gì phân biệt giữa hai người này đang cùng làm ruộng, hai người đàn bà cùng kéo cối xay này. Chỉ có chính Chúa mới thấy cái khác nhau: Một người thì sắn sàng, người kia thì không! Bấy giờ một người được ở với Chúa, ở trong ánh sáng còn người kia không được ở với Chúa, phải ở trong tối tăm. Hiển nhiên là không có vấn đề độc đoán.
Toàn bộ Kinh Thánh nhắc lại rằng Thiên Chúa "cứu độ". Và nếu ta hiểu rõ đoạn nói về nạn hồng thủy, thì phải thấy ở đó có một “hành vi cứu thoát”: Khi con người bấy giờ đang đi tới đại họa, thì mọi chuyện đi theo chiều hướng ngược lại khi Thiên Chúa can thiệp, để làm cho một nhân loại mới xuất hiện. No-ê, chính là người được Thiên Chúa “cứu độ”.
Nhưng, hãy chú ý, tàu đã sắn sàng, hôm nay, cho nạn hồng thủy của bạn. Đức Kitô Đấng Cứu Độ, đã vào trong biển nước chết chóc, lôi kéo thêm người vào Giáo Hội, trên thuyền của Người, tất cả những ai theo Người. Và khi vào thời No-ê theo nguyên văn Kinh Thánh, loài người đầu tiên thực sự đã biến mất trọn vẹn, thì Đức Giêsu, nói đến 50% những người được cứu độ... một trên hai.. năm trinh nữ khôn ngoan, khác với năm trinh nữ dại khờ (Mt 25,12). Và hiển nhiên chúng ta biết rằng đó không phải là những phần trăm theo toán học.
Không hề muốn nói đến một bầu không khí sợ hãi, Đức Giêsu lôi những người “đang đứng", những người "canh thức", những người "đang rình". Cái "liều lĩnh" trong cuộc sống kinh tế, xã hội, gia đình, mời gọi ta thấy trước, lo chuẩn bị tỉ mỉ. Ong chủ doanh nghiệp đang "thiêm thiếp ngủ” sẽ kết án chính cái doanh nghiệp của mình. Chàng trai trẻ không lo chuẩn bị tái lai của mình, thì chính mình sẽ chịu trách nhiệm làm hỏng cuộc đời mình, giống hệt như nhau. Người đàn ông hay đàn bà không bao giờ nghĩ đến Chúa sẽ làm hỏng cuộc "viếng thăm" của Người.
Vậy anh em hãy canh thức, bởi vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến. Anh em hay biết điều này: nếu chủ nhà biết vào canh kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông đã thức...
Đừng làm cho cuộc đời mình cứ ngủ! Hãy tỉnh thức!
Sinh vật nào thức tỉnh, con vật đang săn mồi, cuối cùng chính là thứ "được sống". Tỉnh thức không hề có nghĩa là "tích lũy cho nhiều hệ thống an ninh", "chắn rào chung quanh nhà để tránh cướp": Không! Tỉnh thức, chính là “sắn sàng" để đối phó, chính là "được vận động liên tục” để hành động:.. Tỉnh thức, chính là trái nghịch với "để buông trôi", lo lắng, bất cần.
Không nên nói "giá mà tôi đã biết trước" vì đã quá muộn rồi, bởi lẽ chúng ta đã được cảnh báo trước rồi.
Nếu chủ: nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến... Hẳn ông đã thức không để nó khoét vách nhà mình đâu.
Trong tâm trí chúng ta, hiển nhiên hình ảnh của “người kẻ trộm" gắn liền với sợ hãi. Chắc chắn ta có thể đọc một bài khác về hình ảnh này. Thế thì theo Đức Giêsu, kẻ trộm đến làm gì? Nó "khoét vách nhà" anh" ta đến mở cái gì đang bị đóng lại, bỗng nhiên ta khám phá một ý nghĩa tượng trưng kỳ diệu; qua những lời lẽ chân thực củ dụ ngôn: Chúa luôn luôn:đến "để mở" thế gian cứ đóng không cho Người vào. Khi Người đến cửa nhà chúng ta, Chúa sẽ vào nhà ai tỉnh thức để mở cho người! Nhưng ai để cho mình phải bất ngờ …coi chừng! Cửa không phải lúc nào cũng mở luôn luôn đâu.
Chúng ta có lỡ không để chúng ta ngỏ vào thế giới của Thiên Chúa không?
Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến.
Người Kitô hữu sẽ được giải thoát khỏi cái ngày..luôn luôn sắn sàng. Vâng! Con Người đến bất cứ lúc nào trong đời. Người đến thường xuyên, đơn giản đến độ có vẻ như luôn luôn không ngờ đến.
Ta có tin vào điều mạc khải này của Chúa không?
73. Sống tỉnh thức--Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI.
1. Những câu hỏi “Khi nào” và “thế nào” không có giải đáp:
Chúng ta mở đầu bài Phúc Âm bằng đoạn cuối cùng, hay gần như cuối cùng của Tin Mừng thánh Mátthêu. Như thế, Phụng vụ muốn khẳng định ngay rằng Đấng mà chúng ta đang chờ đón đến với chúng ta dịp lễ Giáng Sinh, chính là Đấng sẽ trở lại vào ngày tận thế, và cũng là Đấng luôn luôn đến với chúng ta.
Đáp lại lời các môn đệ đang trầm trồ trước vẻ huy hoàng của đền thờ Giêrusalem, Đức Giêsu khiến mọi người sửng sờ khi báo trước rằng, dấu chỉ tuyệt vời của sự hiện diện Thiên Chúa đối với dân Ngài ấy chắc chắn sẽ bị huỷ diệt. Ngài khẳng định: Tất cả những gì các con xem thấy, sẽ chẳng còn hòn đá nào trên hòn đá nào; tất cả sẽ bị huỷ diệt (24,2).
Trở lại núi Cây Dầu, nơi ta có thể nhìn thấy toàn cảnh Thành Thánh và Đền Thờ, Đức Giêsu ngồi xuống lập tức các môn đệ tới tấp đặt câu hỏi: Xin Thầy hãy nói cho chúng con biết khi nào điều đó xảy đến. Xin hãy nói cho chúng con đâu sẽ là dấu chỉ cho biết Thầy đến, và đâu là dấu chỉ cho biết ngày tận thế (24, 3).
Đức Giêsu bỏ qua không trả lời những câu hỏi này, bởi vì theo Ngài, đó là điều bí mật của Chúa Cha (24,36).
2. Một huấn lệnh cần phải được tuân giữ ngay lập tức.
Nếu Đức Giêsu từ chối không tham dự vào những cuộc tranh luận của các môn đệ - xưa cũng như nay - về việc Con Người sẽ trở lại "Khi nào" và "thế nào", thì Ngài lại mạnh mẽ khẳng định rằng đó là điều không thể tránh né. Vì thế, Ngài khuyến khích các tín hữu đang sống trong dòng lịch sử, hãy luôn luôn sẵn sàng: "Vậy hãy tỉnh thức, bởi vì các con không biết khi nào Chúa sẽ đến. Vậy các con hãy sẵn sàng: chính vào giờ các con không ngờ mà Con Người đến. Trong Phúc âm thánh Matthêu, có bốn dụ ngôn minh hoạ lời Ngài dạy. Sau đây là những dụ ngôn được chọn cho Chúa nhật thứ I Mùa Vọng:
- Dụ ngôn về lụt đại hồng thuỷ:
Vào thời Noe, chỉ một mình tổ phụ được "chừa lại", khi ngài vào trong tàu; chỉ một mình ngài được cứu thoát, bởi vì ngài biết nhìn thấy trước biến cố lụt lội phủ lấp trái đất, ngài đã đọc được những dấu chỉ loan báo việc sắp xảy đến. Những người khác cứ tiếp tục cuộc sống thường ngày, không chút mảy may nghi ngờ, nên đã bị "nuốt trửng", không phải vì hạnh kiểm họ xấu, mà vì không biết phòng xa. Cũng vậy, khi Con Người đến, Ngài sẽ quyết định dứt khoát mối liên hệ đời thường nhất giữa những người đang sát cánh bê nhau miệt mài trong cùng một công việc "đang làm ruộng" hay "đang xay bột". Một số người biết chuẩn bị tích cực sẽ "được đem đi", nghĩa là "được cứu thoát". Những người khác, cứ sống mà không biết thấy trước ngày sắp đến, sẽ bị "bỏ lại".
- Dụ ngôn kẻ trộm ban đêm:
Con Người đến như lụt đại hồng thuỷ không ai biết trước, như việc tên trộm lẻn đến ban đêm, âm thầm chọc thủng những tấm vách mỏng mang của những mái nhà rách nát xứ Palestine. Vì thế, thái độ duy nhất phải có là luôn luôn "tỉnh thức", "sẵn sàng". Không phải trong sợ hãi, mà là trong thanh thản; không phải co rúm tê liệt đi, mà là trong niềm khao khát và năng động mong chờ ngày Chúa đến. Bằng cách lãnh nhận trách nhiệm của chúng ta. Bằng cách chu toàn sứ mạng được trao phó (24,45-5l): Bằng cách đến cứu giúp những anh em nghèo túng.
"Vậy người Kitô hữu dấn thân sống như là ngày tháng xét đã đến. Hiện tại của thế giới bị chất vấn bởi tương lai. ước mong rằng người tín hữu luôn trung thành với ơn gọi và sứ mạng đã lãnh thận" ("Célébrer", n. 224, trang 18).
BÀI ĐỌC THÊM:
1.”Đức Giêsu đến gặp chúng ta một cách bất ngờ, nhưng không phải là không báo trước"
Ngày và giờ là bí mật của Chúa Cha. Đó không phải là cơn thịnh nộ và sự trừng phạt vào ngày đã định. Nói rằng chỉ một mình Chúa Cha biết ngày tận thế và việc con Người trở lại, có nghĩa là đặt thế giới và nhân loại trong tay của Ngài, trong đôi tay nhân từ của Ngài. Đó là đặt chúng ta trong sự thanh thản, an toàn: ai có thể rứt chúng ta ra khỏi đôi tay của Chúa Cha? Chúng ta còn sợ gì nếu chúng ta được ấp ủ trong tình yêu của Ngài?
Đức Giêsu không mời gọi ta sợ hãi, nhưng mời gọi ta tỉnh thức. Ngài so sánh lụt đại hồng thuỷ và ông Noe: Người ta không nghi ngờ gì hết cho đến khi lụt đại hồng thuỷ đến cuốn trôi hết tất cả mọi sự. Tất cả mọi người mãi lo lắng sự đời: người ta mãi lo ăn uống, cưới vợ gã chồng. Chúng ta cũng vậy, chúng ta mãi lo lắng sự đời, và đó là điều cần thiết! Chính lúc đó, Chúa đến gặp chúng ta. Nhưng để khỏi bị bất ngờ khi Ngài đến, chúng ta phải chuẩn bị như ông Noe. Cũng giống như ông, chúng ta có lời Chúa cảnh báo và nhắc nhở chúng ta; Đức Giêsu nói: Đó, Thầy đã báo trước cho các con. Ngài đến gặp chúng ta một cách bất ngờ, nhưng không phải là không báo trước. Cuộc gặp gỡ này không chỉ diễn ra vào lúc tận thế. Cái chết của mỗi người cũng sẽ bất ngờ. Phải chăng cái chết không là ngày tận thế, ngày tận thế riêng của mỗi người, lúc mà Đức Giêsu đến gặp riêng mỗi người? Ít nhất điều đó đã cảnh báo chúng ta qua ví dụ của Phúc âm: Bấy giờ hai người đàn ông trên cánh đồng: một người sẽ được đem đi, người kia bị bỏ lại; hai người đàn bà đang xay bột ở cối xay: một người được đem đi, một người bị bỏ lại... Quan trọng nhất vẫn là tỉnh thức. Không lo lắng, nhưng chú ý, chú ý vào Chúa Cha, chú ý vào Đức Giêsu Kitô. Nếu chúng ta không biết ngày và giờ, thì điều quan trọng là phải biết Ngài, và phải nhận ra Ngài khi Ngài đến với chúng ta. Đức Giêsu nhắc đi nhắc lại hai lần rằng vì ta không biết nên ta phải tỉnh thức: Vậy hãy tỉnh thức, bởi vì các con không biết ngày nào Chúa sẽ đến... Để kết thúc, Ngài dùng một ví dụ chỉ cho thấy sự nghiêm trọng của tình thế, và sự gấp rút phải tỉnh thức. Ví dụ hơi mâu thuẫn, vì nói về một ông chủ nhà tỉnh thức, bởi lẽ ông ta biết giờ kẻ trộm lẻn đến ban đêm. Khi biết, thì dễ chờ đợi hơn còn chúng ta, chúng ta thấy thời gian dài, mà chẳng hay biết gì. Không biết là một lý do khiến chúng ta đừng ngủ say. Được hay thua thì điều quan trọng là đừng để tường nhà mình bị chọc thủng. Con Người đến gặp chúng ta. Đừng có ngủ say trong thời gian đó: "Đó là lý do tại sao các con phải tỉnh thức, bởi vì vào giờ mà các con không ngờ Con Người sẽ đến”.
2. “Vì không biết Ngài các con hãy tỉnh thức"
"Lời khẳng định của Đức Giêsu về việc chúng ta không biết Ngài, giờ tránh cho chúng ta khỏi mọi tính toán về ngày Chúa đến, niềm hy vọng Ngài trở lại luôn luôn còn đó, không phải là một chờ đợi bồn chồn, mà là một chắc chắn về Đấng đã đến, đang đến sống giữa những người thân yêu của Ngài, sẽ đen lại ý nghĩa đích thực cho cuộc sống và cho vũ trụ của chúng ta, Thiên Chúa nên mọi sự trong mọi người" (1Cr 15,24-28).
Được giải thoát khỏi những vấn nạn "khi nào và thế nào" rồi, người Kitô hữu chỉ còn lo chú ý vào việc phải sống như là ngày đó đã đến thực sự. Trong ý nghĩa đó những câu chúng ta vừa đọc mời chúng ta hướng về trời ít hơn là gọi chúng ta quan tâm đến những bổn phận hằng ngày mà Thầy chúng ta đòi hỏi. Sự tỉnh thức càng quyết liệt hơn khi giờ kết thúc vẫn còn chưa điểm. Tiếng kêu của Phúc âm: "Hãy sẵn sàng, hãy tỉnh thức phải vang dội trong tâm hồn của người đang chờ đợi cuộc hội ngộ lớn lao, không phải như một nỗi árn ảnh liên hệ đến ơn cứu độ riêng tư của mình, mà như một đòi hỏi trung thành với những sứ mạng Thầy trao phó".
3. “Hãy có một con tim tỉnh thức”
"Thiên Chúa cứu chuộc dân Ngài. Thiên Chúa cứu chuộc nhân loại. thiên Chúa thức tỉnh ta. Thiên Chua mời gọi ta. Tới phiên ta trả lời Ngài.
Nếu ta ngủ mê, quá bận rộn với những công việc vật chất, ta sẽ ở bên lề biến cố Thiên Chúa tỏ mình ra là Đấng Cứu độ. Chẳng lẽ mối lo mua bánh hay thu hoạch rau quả không thể nối tiếp những phút suy nghĩ về ý nghĩa cuộc đời. Những phút ta dừng 1ại để kiểm điểm mối tương giao với Thiên Chúa. Một tinh thần nhắc nhở chúng ta đừng quá đầu tư vào cuộc sống vật chất đến nỗi không nhìn ra ơn cứu độ mà Thiên Chúa thực hiện nơi ta, "ngày tốt đẹp" mà Ngài đã nói với ta hay sao. Nếu muốn chụp lấy tấm ván cứu độ, ta hãy mở rộng đôi mắt. Tinh thần minh mẫn. Con tim tỉnh thức, tâm hồn đợi chờ. Và ta sẽ đi chuyến tàu đang tới".
74. Cầu nguyện trong Mùa Vọng
Ngài đã xuống tận đáy lòng con, xin cho con chỉ tập trung vào tận đáy lòng con. Ngài...
Ngài đã xuống tận đáy lòng con,
xin cho con chỉ tập trung
vào tận đáy lòng con.Ngài là thượng khách của lòng con,
xin cho con bước vào nhà
là chính đáy lòng con.Ngài chọn cư ngụ trong lòng con,
xin cho con biết ngồi yên
ngay tại đáy lòng con.
Duy Ngài ở lại trong con,
xin cho con biết chìm sâu
xuống tận đáy lòng con.Duy Ngài hiện diện trong lòng con,
xin cho con biết xóa mình
khi Ngài ở bên con.Khi con đã gặp Ngài,
không còn con và Ngài nữa.
Con chẳng là gì cả,
và Ngài là tất cả.
(Rabbouni, 120 lời nguyện bạn trẻ VN – Theo Swami Abhisiktananda)
BẢY BƯỚC CẦU NGUYỆN
(15 phút mỗi buổi sáng, và 15 phút trước khi nghỉ đêm).
Buổi sáng
1. Mở đầu với Kinh Sáng Soi: Cúi xin Chúa sáng soi cho chúng con được biết việc phải làm, cùng khi làm xin Chúa giúp đỡ cho mỗi kinh mỗi việc chúng con, từ khởi sự cho đến hoàn thành đều nhờ bởi ơn Chúa. Amen.
2. Thinh lặng cầu xin ơn Chúa Thánh Thần.
3. Đọc chậm rãi lời của Đức Thánh Cha và lời gợi ý.
4. Thinh lặng suy niệm và rút ra một lời một ý tưởng để sống trong ngày. Tâm sự với Chúa để kết thúc phần suy niệm buổi sáng.
Buổi tối.
1. Cuối ngày trước khi đi ngủ dành 10 phút để nhìn lại: Bài cầu nguyện hôm nay đã đi với tôi và đã giúp tôi như thế nào? Tôi có khó khăn gì trong cầu nguyện? Có thể tôi chưa thấy bài cầu nguyện giúp tôi trong ngày sống. Nếu vậy thì tại sao? Tôi có chú tâm và ý thức đủ để “dành một chỗ” cho bài cầu nguyện ở trong lòng tôi và trong ngày sống của tôi chưa?
2. Viết lại một vài hàng (tối đa nửa trang A4) về hoa quả mà tôi nhận được trong ngày sống cầu nguyện hôm nay.
3. Cám Ơn Chúa về những hồng ân trong ngày, và xin Chúa thứ lỗi về những yếu đuối. Xin Chúa ban thêm sức mạnh và bình an để nghỉ đêm và bắt đầu ngày sống mới.
Chúa nhật thứ I Mùa Vọng năm A
Lời của Đức Thánh Cha Phanxicô:
Hôm nay, Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng, chúng ta bắt đầu một năm phụng vụ mới. Điều đó có nghĩa là, cùng với Chúa Giê-su, Mục Tử của chúng ta, Dân Chúa lại bắt đầu một hành trình mới. Chúa Giê-su dẫn bước chúng ta xuyên suốt qua lịch sử của nhân loại để hướng về sự hoàn tất của Vương Quốc Thiên Chúa. Vì thế, ngày này thật đặc biệt: Ngài giúp cho chúng ta thấu hiểu được sâu hơn ý nghĩa của lịch sử. Chúng ta ý thức rằng, thật đẹp biết bao nhiêu, khi tất cả chúng ta cùng đi hành trình này chung với nhau: Giáo Hội với ơn gọi và sứ mạng của mình, cũng như toàn thể nhân loại với văn hoá đặc trưng và với các nền văn minh. Tất cả chúng ta đang cùng nhau trên trường để bước đi xuyên suốt qua thời gian này.
Lời gợi ý:
Bạn và tôi đều được là những thành viên trong Giáo Hội, trong cộng đồng nhân loại, để cùng có cuộc hành trình chung tiến về nhà Cha trên trời. Đó là một hồng phúc. Bạn hãy ý thức về điều này. Bạn không lẻ loi trên đường. Bạn có người thân trong gia đình bạn, trong cộng đoàn bạn, bạn có Đức Thánh Cha, có tôi và mọi người đi với bạn. Hãy vui mừng và cảm tạ Chúa về điều đó.
Bạn suy nghĩ xem, bạn bắt đầu năm phụng vụ mới này với Chúa Giê-su như thế nào, để bạn tìm thấy được ý nghĩa và niềm vui sống của người con cái Thiên Chúa?
Cuối cùng bạn hãy dành thời gian cầu nguyện với lời Thánh Vịnh 122,1:
“Vui dường nào khi thiên hạ bảo tôi:
Ta cùng trẩy lên đền thánh CHÚA!”
Bài tập trong tuần (05 phút): Chú tâm đến thời gian
Tư thế có thể ngồi hoặc đứng. Thinh lặng, thở ra hít vào. Chú ý đến hơi thở. Sau một vài lần thở ra hít vào, chú ý đếm âm thầm: MỘT- khi thở ra. HAI – khi hít vào. MỘT – HAI chính là giây phút của cuộc sống. MỘT – HAI chính là thời gian của cuộc đời, là món quà cao quý Chúa ban. Hãy cảm tạ Chúa về thời gian bạn có.
75. Đợi chờ, nhưng phải hành động--Jos. Vinc. Ngọc Biển
Mỗi khi Mùa Vọng về, người ta thường nhắc nhau đi tham dự các buổi tĩnh tâm, xưng tội, làm các việc bác ái và hy sinh để chuẩn bị đón mừng lễ Chúa Giáng Sinh. Tại sao lại thế? Thưa, vì Mùa Vọng chính là mùa sống lại tinh thần đợi trông Con Thiên Chúa xuống thế làm người để cứu độ nhân loại của dân Dothái xưa, và ngày nay, chúng ta đang đợi chờ Chúa đến với chúng ta lần thứ hai trong ngày quang lâm. Tuy nhiên, đợi trông không có nghĩa là cứ ngồi rồi mong ngóng như con trẻ mong mẹ đi chợ về. Cũng không phải như những người ngủ mê, sống ù lì và há miệng chờ sung rụng. Nhưng đợi trông ở đây gắn liền với hành động, một thứ hành động trong tỉnh thức. Tỉnh thức để biết được đâu là điểm chính yếu, đâu là phụ thuộc, đâu là cái vĩnh hằng, đâu là cái nhất thời. Tỉnh thức cũng là tinh thần của người khôn ngoan biết chọn lựa cái tốt và loại trừ cái xấu. Chờ đợi theo tinh thần của những người tin là hướng về phía “Ánh Sáng” mà tiến bước trong hân hoan.
1. Hãy tỉnh thức và sẵn sàng
Bài Tin Mừng hôm nay, được nối tiếp một loạt giáo huấn của Đức Giêsu về ngày cánh chung; những đau đớn sẽ xảy ra trong ngày đó; ngày đó chắc chắn sẽ xảy ra, nhưng xảy ra ngày nào thì không ai biết (x. Mt 24, 1-36).
Trang Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nhấn mạnh trực tiếp đến tính bất ngờ của ngày ấy và làm sáng tỏ sự bất định của cái chết khi trích dẫn câu chuyện thời ông Noe: “Những ngày trước đại hồng thuỷ, người ta ăn uống, dựng vợ gả chồng, mãi đến chính ngày ông Noe vào tàu mà người ta cũng không ngờ, thình lình đại hồng thuỷ đến và cuốn đi tất cả” và “khi Con Người đến, cũng sẽ xảy ra như vậy” (x. Mt 24, 37-39). Ngày đó sẽ là ngày tách chiên ra khỏi dê, lọc lúa ra khỏi cỏ lùng, là ngày thưởng phạt theo lẽ công bằng. Ai đã chuẩn bị xứng đáng thì sẽ hân hoan, còn ai không sẵn sàng thì bị loại ra, số phận của mỗi người hoàn toàn khác nhau tùy vào thái độ của họ. Chính cái làm nên điều khác biệt đó là biết tỉnh thức hay không!
Như vậy, tỉnh thức chính là điều kiện cần cho ơn cứu độ. Để chứng minh điều này, Đức Giêsu đã đưa ra hình ảnh hai người đàn ông đang làm ruộng, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại; hai người đàn bà đang kéo cối xay, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại (x. Mt 24, 40). "Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến” (Mt 24, 42). Bởi vì ngày ấy đến như kẻ trộm lúc đêm khuya (x. Mt 24, 43). Như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em (x. Lc 21,34).
Quả thật, ngay từ giây phút này, chúng ta phải chuẩn bị cho tốt, để nếu điều đó xảy ra cho chúng ta cách này hay cách khác, ban ngày hay đêm khuya, ta đâu có sợ hãi chi.
Hãy tỉnh thức, tức là không mê ngủ, nhưng luôn "thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn" để đón Chúa đến bất cứ lúc nào (x. Lc 12,35-48). Tỉnh thức còn là sự trung tín với Chúa bằng việc cầu nguyện không ngừng (x. Lc 18,1), không nhàm chán hay nản chí (x. Lc 18,1).
Tỉnh thức như: người đầy tớ hoàn thành nhiệm vụ được trao phó (x. Mt 24, 45-51).
Như năm cô trinh nữ khôn ngoan biết phòng xa mang dầu theo (x. Mt 25, 1-13)
Như người được trao vốn và đem kinh doanh sinh lời lãi cho ông chủ (x. Mt 25, 14-30)
Cuối cùng, tỉnh thức bằng cách sống yêu thương và phục vụ theo tinh thần của Chúa (x.Ga 13,6); (Ga 15,13).
Như vậy, tinh thần của Mùa Vọng không phải là đợi chờ trong mòn mỏi, day dứt khôn nguôi nhưng là đợi chờ trong hy vọng. Cũng không phải đợi chờ mà không làm gì cả, nhưng làm việc trong đợi chờ với thái độ tỉnh thức Và, không phải đợi chờ một ai đó, nhưng là đợi chờ chính Con Thiên Chúa.
Thánh Phaolô cũng khuyên các tín hữu của mình hãy chuẩn bị sẵn sàng để đón đợi ngày Chúa đến. Ngài đã không khuyên cách chung chung, mà là cụ thể: “Chúng ta hãy từ bỏ những hành vi ám muội và mang khí giới ánh sáng. Chúng ta hãy đi đứng đàng hoàng như giữa ban ngày, không ăn uống say sưa, không chơi bời dâm đãng, không tranh chấp ganh tị”. Bởi vì “Giờ phần rỗi của chúng ta gần đến… Đêm sắp tàn, ngày gần đến” (x. Rm 13, 11-14).
2. Sống Lời Chúa
Hãy tỉnh thức là điều mà Đức Giêsu muốn mời gọi mỗi chúng ta. Sứ điệp lời Chúa hôm nay nhắc nhớ chúng ta rằng: đừng dại dột mà chỉ lo cho cuộc sống hiện tại này, đừng bám vào những thứ phù vân, bởi vì phù vân chỉ là phù vân. Phù vân nối tiếp phù vân. Đừng sống như những vật vô tri, không biết lo cho ngày mai. Cũng đừng sống như những người nghĩ mình không bao giờ phải chết. Nhưng hãy chuẩn bị cho tương lai của mình một cuộc sống hạnh phúc thật bằng việc siêng năng cầu nguyện, xưng tội, rước lễ, làm việc bác ái, hy sinh hãm mình, loại trừ cái xấu và thay vào đó là những điều tốt.
Nếu không tỉnh thức nội tâm thực sự, thì những hành vi bề ngoài như làm hang đá, đèn sao sầm uất, trang trí lộng lẫy chỉ là những trò giả tạo, giả hình. Chỉ như cái thùng kêu to là cái thùng rỗng, nhưng thực chất bên trong chẳng có gì. Thật vậy, những hình thức bên ngoài đó chỉ có giá trị khi nó được nội tâm hóa từ bên trong, tức là bên trong đã có và đây chỉ là diễn tả ra bên ngoài mà thôi.
Lạy Chúa, xin cho chúng con mỗi khi Mùa Vọng về, là mỗi dịp chúng con cần thức tỉnh lương tâm; đồng thời biết hành động đúng theo tinh thần của Chúa để được ơn cứu độ trong ngày Chúa đến đón đợi chúng con. Amen.
76. Tỉnh thức--Huệ Minh
Năm Phụng vụ mới lại bắt đầu bằng Mùa Vọng với tâm tình chuẩn bị, đón chờ ngày Chúa đến.
Năm Phụng vụ mới lại bắt đầu bằng Mùa Vọng với tâm tình chuẩn bị, đón chờ ngày Chúa đến: Chúa đến trong ngày lễ Giáng Sinh sắp tới, nhưng căn bản là ngày Chúa quang lâm: Chúa sẽ trở lại trong vinh quang vào ngày thế tận, như lời tuyên xưng hằng ngày trong Thánh lễ: Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa lại đến.
Mùa vọng mới mà Giáo Hội bắt đầu cử hành trong Phụng vụ của mình với Chúa Nhật thứ nhất Mùa vọng, không phải là thời gian để Giáo Hội nhìn lại quá khứ, nhìn về biến cố Con Thiên Chúa đã Giáng Sinh và cử hành biến cố này với Lễ Giáng Sinh. Tắt một lời, Mùa vọng không phải là mùa chuẩn bị mừng Lễ Giáng Sinh, nhưng Mùa vọng là thời gian hướng con người về tương lai, về biến cố Chúa ngự đến lần thứ hai trong vinh quang vào lúc cuối cùng của lịch sử nhân loại, khai mạc trời mới đất mới, làm cho mọi sự đạt đến cùng đích duy nhất của mình là Thiên Chúa.
Mùa Vọng là mùa trông chờ Chúa đến. Chúng ta trông chờ Chúa đến là bởi vì chúng ta không được thoả mãn với tình trạng hiện tại của chúng ta. Dầu có tận tâm tận lực, chúng ta vẫn gặp phải không biết bao nhiêu điều trái ý, chẳng hạn như bệnh tật, nghèo đói, cô đơn, chia ly và chết chóc. Chúng ta tin rằng Chúa sẽ đến để lấp đầy những khát vọng chính đáng của chúng ta, đồng thời sẽ mang lại một đời sống hạnh phúc.
Chờ đợi luôn chứa đựng hy vọng. Hy vọng đòi hỏi đợi chờ. Có những người tự tử vì họ không còn hy vọng. Họ không còn gì để đợi chờ. Có những người đầy nghị lực vượt gian khổ, vì họ luôn hy vọng điều tốt lành đang ở phía trước. Họ kiên nhẫn đợi chờ. Họ đợi chờ trong hy vọng.
Tháng ngày lênh đênh trên sóng nước bao la của con tàu No-ê là cuộc hành trình chờ đợi trong hy vọng. Mong đợi thấy được ánh mặt trời của ngày mới rực sáng trên mặt đất hồi sinh.
Đó là Mùa Vọng của con tàu Nô-ê. Mùa Vọng của những người luôn được Chúa yêu mến và luôn biết yêu mến Chúa. Những người luôn tỉnh thức để trung thành với niềm tin yêu vào Thiên Chúa.
Muốn có được niềm hy vọng, người ta luôn phải phấn đấu. Không ai đạt được mục đích mà chỉ "nằm há miệng chờ sung". Để trung thành với niềm tin yêu vào Thiên Chúa đòi hỏi con người luôn nổ lực để tự hoàn thiện bản thân. Phải có hy sinh, đau đớn, khổ luyện, con người mới vươn lên được. "Ngọc kia chẳng giũa chẳng mài. Cũng thành vô dụng, cũng hoài ngọc đi".
Mùa vọng là mùa đợi chờ, mùa trông mong. Người ta trông mong quà cáp, thư từ, tiền lương, xum họp gia đình nhân dịp lễ Noel. Người tìn hữu được mời gọi trông mong ngày Chúa quang lâm. Ngày đó sẽ đến, nhưng không biết khoảng thời gian nào. Ngày đó sẽ đến như kẻ trộm. Ngày đó sẽ đến một cách bất chợt và thình lình. Sự khôn ngoan luôn nhắc nhở chúng ta là hãy tỉnh thức để luôn sẵn sàng đón chờ ngày đó sẽ đến.
Vị Mục Tử nhân lành Giêsu cảnh báo từ ngàn xưa: "Hãy tỉnh thức!"(Lc 21,36); " Sẽ có những điềm lạ trên trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẻ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét"(Lc 21,25).
"Hãy tỉnh thức": - để sống cho ra sống, sống có mục đích, có lý tưởng, cố gắng hoàn thiện đời mình!
"Hãy tỉnh thức": - để tỉnh táo phân biệt chính- tà; tội- phước; cố gắng thoát kiếp "con"để sống đẹp kiếp "người"!
"Hãy tỉnh thức": - để làm vui lòng cha, để làm mát dạ mẹ, để gia đình luôn là bến đậu vững chắc trước bão đời đang vùi dập tình thân huyết thống; đang phá tan đạo Hiếu gia phong; đang hủy hoại nếp đời nếp đạo.
Tỉnh thức trong hy vọng là nhận thức rằng người đời có một Thiên Chúa yêu thương và đời người có một vận mệnh tương lai. Có nhiều thứ tương lai lắm: tương lai gần như hôm nay đối với ngày mai; tương lai xa như đời này đối với đời sau; tương lai hẹp như chỉ giới hạn trong đời ta, tương lai rộng như mở ra với đời người; tương lai từng phần tùy theo mức độ khả thi và tương lai toàn phần chỉ có thể có khi con người tiến về vĩnh cửu.
Thế nhưng rồi điều quan trọng ở chỗ tương lai ấy không phải là một sự kiện mà chính là một Đấng, mà Đấng ấy vốn đã hy vọng vào ta, đợi chờ ta từ thuở nào, để khỏi phải tay chân thừa thãi ỏn ẻn làm quen mà gặp được là đã tay bắt mặt mừng đến độ thân tình của lòng trông cậy, để khỏi phải rỉ tai nhau như thế kỷ XIX với khẩu hiệu "con người là tương lai của con người" nên dẫn đến chiến tranh đổ vỡ, mà sẽ là hô vang sứ điệp "Thiên Chúa là tương lai của con người" cho xanh lên niềm hy vọng đượm thắm lẽ cậy trông.
Tỉnh thức trong hy vọng cũng là canh thức để cộng tác với ơn Chúa mà thể hiện niềm hy vọng đời mình. Sẽ là một thứ hy vọng quắt quay như những em bé ve chai gập mình bới tìm sự sống trên đống phế thải; sẽ là một thứ hy vọng mong manh như kẻ qua đường mua tấm vé số và sẽ là một thứ hy vọng đầy rủi ro như kẻ hùn hạp làm ăn mà không nắm trong tay vốn kiến thức kinh doanh; nhưng sẽ là một niềm hy vọng "bốn mùa" xanh tốt, khi con người biết kiên định phát triển vốn liếng ơn thánh và khả năng nơi mình, cho dẫu cuộc sống vẫn còn đầy dẫy những thử thách cam go.
Sự tỉnh thức của người Kitô hữu không gì khác hơn là cuộc sống trước mặt Thiên Chúa, cuộc sống với Thiên Chúa. Người ta làm đúng y cũng những điều đó, nhưng chúng có thêm một ích lợi, một chiều dày. "Một sẽ bị đem đi, và một sẽ được để lại". Những người tỉnh thức đã bám rễ trong vĩnh cửu, những người thủ cựu thì ở trên bề mặt, lúc nào họ cũng có nguy cơ bị quét đi.
Và khi ta nghĩ đến ngày tận thế cũng cần như nghĩ đến cái chết của mình.
Cái chết dạy người ta biết cách sống. Ngày tận thế dạy người ta biết cách xây dựng thế giới trên nền tảng vĩnh cửu, trên những giá trị trường tồn.
Đối với Kitô giáo, ngày tận thế không phải là ngày buồn, ngày của hủy diệt và tang tóc, nhưng là ngày của thân xác được sống lại, ngày khai sinh một thế giới mới không bị hận thù và chết chóc đe dọa.
Ngà