+ Chúa Nhật 22/01/2023 -MỒNG MỘT TẾT QUÝ MÃO. CẤU BÌNH AN CHO NĂM MỚI – Ánh sáng xuất hiện cho người ngồi trong bóng sự chết.
- In trang này
- Lượt xem: 40,811
- Ngày đăng: 21/01/2023 10:00:00
Ánh sáng xuất hiện cho người ngồi trong bóng sự chết.
22/01 – CHÚA NHẬT 3 THƯỜNG NIÊN NĂM A
MỒNG MỘT TẾT QUÝ MÃO. CẤU BÌNH AN CHO NĂM MỚI.
"Người vào Capharnaum để ứng nghiệm lời tiên tri Isaia đã tiên báo".
CHÚA NHẬT 3 THƯỜNG NIÊN A
Lời Chúa: Mt 4, 12-23
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, nghe tin Gioan bị nộp, Chúa Giêsu lui về Galilêa. Người rời bỏ thành Nadarét, đến ở miền duyên hải, thành Capharnaum, giáp ranh đất Giabulon và Nepthali, để ứng nghiệm lời đã phán bởi miệng tiên tri Isaia rằng: "Hỡi đất Giabulon và đất Nepthali, đường dọc theo biển, bên kia sông Giođan, Galilêa của ngoại bang! Dân ngồi trong tối tăm đã thấy ánh sáng huy hoàng; ánh sáng đã xuất hiện cho người ngồi trong bóng sự chết". Từ bấy giờ, Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng và nói: "Hãy hối cải, vì nước trời đã gần đến!"
Nhân lúc Chúa Giêsu đi dọc theo bờ biển Galilêa, Người thấy hai anh em là Simon, cũng gọi là Phêrô, và Anrê, em ông, cả hai đang thả lưới dưới biển, vì hai ông là ngư phủ. Người bảo hai ông rằng: "Các ngươi hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những ngư phủ lưới người ta". Lập tức hai ông bỏ lưới đó mà theo Người.
Ði xa hơn một đỗi, Người lại thấy hai anh em khác là Giacôbê con ông Giêbêđê, và Gioan em ông đang vá lưới trong thuyền với cha là Giêbêđê. Người cũng gọi hai ông. Lập tức hai ông bỏ lưới và cha mình mà đi theo Người.
Và Chúa Giêsu đi rảo quanh khắp xứ Galilêa, dạy dỗ trong các hội đường của họ, rao giảng tin mừng nước trời, chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền trong dân.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
MỒNG MỘT TẾT QUÝ MÃO
Lời Chúa: Mt 6,25-34
"Các con chớ áy náy lo lắng về ngày mai".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy bảo các con. Chớ áy náy lo lắng cho mạng sống mình: lấy gì ăn; hay cho thân xác các con: lấy gì mà mặc. Nào mạng sống không hơn của ăn, và thân xác không hơn áo mặc sao?
Hãy nhìn xem chim trời, chúng không gieo, không gặt, không thu vào lẫm, thế mà Cha các con trên trời vẫn nuôi chúng. Nào các con không hơn chúng sao? Nào có ai trong các con lo lắng áy náy mà có thể làm cho mình cao thêm một gang được ư?
Còn về áo mặc, các con lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng coi chúng mọc lên thế nào? Chúng không làm lụng, không canh cửi. Nhưng Thầy nói với các con rằng: Ngay cả Salomon trong tất cả vinh quang của ông, cũng không phục sức được bằng một trong những đóa hoa đó.
Vậy nếu hoa cỏ đồng nội, nay còn, mai bị ném vào lò lửa, mà còn được Thiên Chúa mặc cho như thế, huống chi là các con, hỡi những kẻ kém lòng tin? Vậy các con chớ áy náy lo lắng mà nói rằng: "Chúng ta sẽ ăn gì, uống gì, hoặc sẽ lấy gì mà mặc?" Vì chưng, dân ngoại tìm kiếm những điều đó. Nhưng cha các con biết rõ các con cần đến những điều đó.
Tiên vàn các con hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn các điều đó Người sẽ ban thêm cho các con. Vậy các con chớ áy náy lo lắng về ngày mai, vì ngày mai sẽ lo cho ngày mai. Ngày nào có sự khốn khổ của ngày ấy".
CHÚA NHẬT 3 THƯỜNG NIÊN A 2023
Lời Chúa: Is 8,23b – 9,3; 1Cr 1,10-13.17; Mt 4,12-23
1. Galilê, vùng dân ngoại--‘Manna’--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.
Suy Niệm
Khi Gioan bị bắt, Đức Giêsu đã lánh qua Galilê.
Galilê là vùng ven, ít nguy hiểm cho Ngài.
Dân cư ở đây phần đông là dân ngoại.
Người Do Thái ở đây bị coi là những kẻ sống bên lề Dân Chúa.
Nhưng Galilê lại là nguyên quán của Ngôi Lời làm người,
và là nơi Đức Giêsu chọn để bắt đầu thi hành sứ vụ.
Từ Galilê, Ngài sẽ sai môn đệ đi khắp thế gian (Mt 28,19).
Đức Giêsu rời bỏ Nadarét, để đến cư ngụ tại Caphácnaum.
Caphácnaum là địa bàn hoạt động được Ngài ưa thích.
Có lúc nó được gọi là thành của Ngài (9,1), dù bất xứng (11,23).
Galilê, Nadarét, Caphácnaum chẳng có chút tiếng tăm (Ga 1,46),
nhưng Đức Giêsu vẫn là một ngôn sứ xuất thân từ đó (Mt 21,11).
Hãy ngắm nhìn Đức Giêsu trên những nẻo đường.
Ngài rút về Galilê, Ngài đến Caphácnaum, đi dọc theo bờ biển.
Khắp miền Galilê in dấu chân của Ngài (Mt 4,23),
Ngài không vào hoang địa như Gioan, rồi gọi người ta đến.
Ngài đích thân đến với con người ngay giữa đời thường.
Ngài cứ đi không nghỉ, không đóng đô ở một chỗ.
Nhu cầu quá lớn không cho phép Ngài dừng lại (Mc 1,38).
Đức Giêsu chuyển động và kéo người ta chuyển động theo Ngài.
Những người đầu tiên là các ngư phủ mà Ngài quen biết.
Tuy là những người ít học, không giàu có hay địa vị,
nhưng đối với Ngài, họ có đủ tố chất cần thiết
để trở nên những người cộng sự của Ngài.
Sự kiên trì khi thả lưới giúp họ biết nhẫn nại chờ đợi.
Sự hòa đồng giúp họ chấp nhận nhau và làm việc chung.
Sự can đảm trước sóng gió giúp họ đối diện với nghịch cảnh.
Khả năng nhận ra khi nào và chỗ nào nên thả lưới
sẽ giúp họ khám phá những vùng truyền giáo màu mỡ.
"Các anh hãy theo Tôi": một lời mời gọi lên đường.
Hãy gắn bó với Tôi và chia sẻ thao thức của Tôi.
Để lên đường cần bỏ lại cái êm ấm được phép,
êm ấm bên gia đình, bên vợ con như Phêrô,
êm ấm bên khoang thuyền, cạnh người cha đang vá lưới.
Theo Chúa là chấp nhận ra khơi hay đúng hơn là
chấp nhận lên bờ, bóc mình ra khỏi khung cảnh sống quen thuộc.
Chấp nhận bấp bênh, không nhà cửa, không nghề nghiệp,
là để có thể đi đến mọi nhà, gặp mọi người,
và tận tụy cho sứ mệnh loan báo Nước Thiên Chúa.
Đức Giêsu đã đi rao giảng Tin Mừng về Nước Trời gần bên.
Để đón lấy quà tặng đó, cần sám hối, hoán cải.
Hoán cải là để Ngài kéo vào một chuyển động,
là quay lại, là bỏ con đường mình đã quen từ lâu,
để đi cùng chiều với Chúa và ngược chiều với cái tôi ích kỷ.
Đức Giêsu gieo rắc niềm vui khắp nơi.
Niềm vui cho người nghe, niềm vui cho người khỏi bệnh.
Bước chân không mỏi, lời nói thiết tha, trái tim gần gũi?
Hôm nay Hội Thánh vẫn sống giữa những Galilê dân ngoại.
Chúng ta có đủ niềm vui để làm Galilê bừng sáng không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Đi kèm với lời giảng, Đức Giêsu đã chữa bệnh và trừ quỷ. Theo ý bạn, người rao giảng Lời Chúa hôm nay cần phải làm gì kèm theo, để dễ được người nghe đón nhận?
Đức Giêsu đã gọi bốn bạn trẻ khi họ đang tất bật với cuộc sống. Có khi nào Chúa gọi bạn lúc bạn đang vất vả kiếm sống không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, các sách Tin Mừng chẳng khi nào nói Chúa cười,
nhưng chúng con tin Chúa vẫn cười
khi thấy các trẻ em quấn quýt bên Chúa.
Chúa vẫn cười khi hồn nhiên ăn uống với các tội nhân.
Chúa đã cố giấu nụ cười trước hai môn đệ Emmau
khi Chúa giả vờ muốn đi xa hơn nữa.
Nụ cười của Chúa đi đôi với Tin Mừng Chúa giảng.
Nụ cười ấy hòa với niềm vui của người được lành bệnh.
Lạy Chúa Giêsu, có những niềm vui
Chúa muốn trao cho chúng con hôm nay.
Có sự bình an sâu lắng Chúa muốn để lại.
Xin dạy chúng con biết tươi cười,
cả khi cuộc đời chẳng mỉm cười với chúng con.
Xin cho chúng con biết mến yêu cuộc sống,
dù không phải tất cả đều màu hồng.
Chúng con luôn có lý do để lo âu và chán nản,
nhưng xin đừng để nụ cười tắt trên môi chúng con.
Ước gì chúng con cảm thấy hạnh phúc,
vì biết mình được Thiên Chúa yêu thương
và được sai đi thông truyền tình thương ấy. Amen.
2. Lựa chọn của Chúa Giêsu--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Địa lý nước Do Thái chia làm ba miền. Miền Nam được gọi là Giuđêa. Miền Trung là Samaria. Miền Bắc là Galilêa. Thủ đô Giêrusalem thuộc về miền Nam. Đây là trung tâm chính trị và tôn giáo. Vua Hêrôđê đóng đô ở Giêrusalem. Đền thờ Giêrusalem là trái tim của dân tộc Do Thái. Hằng năm người ở mọi miền tuốn về Giêrusalem dự lễ. Đây cũng là nơi quy tụ quyền lực tôn giáo. Có dinh thầy cả thượng phẩm. Có các luật sĩ, biệt phái, văn nhân. Người ở Giuđêa coi Giêrusalem là đền thờ duy nhất, đạo ở Giuđêa là chính thống. Họ tẩy chay người ở Samaria, coi Samaria là ngoại đạo vì người ở Samaria xây cất đền thờ riêng trên núi Garidim. Người ở Giuđêa không bao giờ đi lại tiếp xúc với người Samaria. Còn miền Galilêa ở phía Bắc, tuy không có đền thờ đối nghịch với Giuđêa, nhưng bị Giuđêa khinh miệt vì đó là nơi pha tạp đủ mọi sắc dân, là đất của dân ngoại.
Khởi đầu sứ vụ công khai, Chúa Giêsu đã không chọn rao giảng tại Giêrusalem. Bởi vì Giêrusalem là vùng toàn tòng theo đạo, nhưng lại kiêu căng hợm mình, loại trừ người khác. Khi mới sinh ra, Chúa Giêsu đã phải chạy trốn bạo vương Hêrôđê. Hôm nay Hêrôđê con ông lại ra lệnh giết thánh Gioan Baotixita chỉ để thỏa mãn ước vọng ngông cuồng của một phụ nữ. Chúa Giêsu đã không chọn Giêrusalem làm điểm xuất phát, bởi vì các thày thượng tế, các văn nhân, luật sĩ, biệt phái đã chai đá, luôn tìm cách bắt bẻ, chứ không biết mở rộng tâm hồn đón nhận giáo lý của Người.
Người đã chọn Galilêa vì Galilêa là vùng quê nghèo khiêm tốn, nhưng dân cư thuộc đủ mọi chủng tộc đã biết mở lòng đón nhận giáo lý của Người. Người đã chọn Galilêa vì ở đây không có loại trừ, mọi người biết đón nhận nhau, chung sống hòa thuận. Người đã chọn Galilêa vì Galilêa là vùng đất bị khinh miệt, dân cư bị gạt ra ngoài lề xã hội. Ngay từ buổi ban đầu Chúa Giêsu đã không để giáo lý của Người bị đóng khung trong bốn bức tường đền thờ, bị giới hạn trong một khung cảnh địa lý và dành riêng cho một giai cấp. Ngay từ buổi ban đầu Chúa Giêsu đã vạch ra cho Giáo Hội một đường hướng. Đó là ra đi, ra đi không ngừng nghỉ, ra đi đến những chân trời xa lạ, ra đi đến với mọi người thuộc đủ mọi chủng tộc, ngôn ngữ, màu da. Đó là đi đến với những người bị bỏ rơi, bị khinh miệt, bị gạt ra ngoài lề xã hội.
Việc lựa chọn môn đệ của Chúa Giêsu cũng rất độc đáo. Người không lựa chọn môn đệ trong đền thờ, nhưng lựa chọn môn đệ giữa chợ đời. Người không lựa chọn những kẻ nhàn hạ rảnh rang, nhưng lựa chọn những người đang tất bật làm việc. Người không chọn những người trí thức uyên thâm, thông kinh hiểu luật, nhưng lựa chọn những anh thuyền chài, đơn sơ, cục mịch. Ý định truyền giáo của Người là rất rõ ràng. Người lựa chọn những người dám ra đi, dám mạo hiểm, sẵn sàng từ bỏ, không ngần ngại, không do dự. Người lựa chọn những con người có trái tim mở rộng, biết hy sinh quên mình, không bám víu vào bất cứ một điểm tựa nào, dù là lề luật, dù là đền thờ, dù là kiến thức. Buông tất cả để chỉ nắm lấy Thiên Chúa. Bỏ tất cả để chỉ đi theo Chúa.
Những lựa chọn của Chúa Giêsu khiến tôi hiểu rằng: Người yêu thích những tâm hồn rộng mở biết sống hài hòa, biết đón nhận anh em. Người yêu thích những tâm hồn đơn sơ nhỏ bé, ưa thích sống đời khiêm nhường bình dị. Người yêu thích những tâm hồn nồng nàn yêu thương. Đó là những tâm hồn dễ dàng đón nhận và chia sẻ Tin Mừng. Đó là những thửa đất tốt cho hạt giống Tin Mừng nảy mầm, đơm bông kết trái.
Lạy Chúa Giêsu, xin mở lòng con để con đón nhận được Lời Chúa và để Lời Chúa sinh nhiều bông hạt.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Chúa Giêsu có những lựa chọn khác với thường tình. Tại sao?
2) Tại sao Chúa không bắt đầu rao giảng tại thủ đô Giêrusalem, nhưng lại bắt đầu từ Galilêa, vùng đất dân ngoại?
3) Tại sao Chúa lại chọn tông đồ giữa đám thuyền chài thất học?
3. Bước theo Ánh Sáng--TGM. Giuse Vũ Văn Thiên
Trong những Chúa nhật vừa qua, chúng ta đã dừng lại ở khái niệm “Ánh Sáng”. Khởi đi từ những chứng từ Cựu ước, chúng ta đã chiêm ngắm Ánh Sáng là Đức Giêsu Kitô. Khi tuyên xưng Đức Giêsu là “Ánh Sáng bởi Ánh Sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật”, Giáo Hội muốn khẳng định, Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, cùng bản thể với Thiên Chúa Cha và từ nơi Chúa Cha mà đến.
Dưới cái nhìn của tác giả Tin Mừng thánh Matthêu, việc Chúa Giêsu xuất hiện và rao giảng Tin Mừng đã ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia của thời Cựu ước. Qua lời giáo huấn của Chúa Giêsu, “Toàn dân đi trong tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi”. Bài đọc I, trích từ sách ngôn sứ Isaia, là bài đọc mà chúng ta đã nghe trong lễ Đêm Giáng sinh, chính là nguồn mà Thánh Matthêu trích dẫn. Với nét văn chương hùng hồn, trang trọng và gợi hình, đoạn sách thánh này là một trong những áng văn chương tuyệt vời của Cựu ước. Cùng với Thánh Matthêu và cộng đoàn Kitô hữu thời sơ khai, Giáo Hội hôm nay tiếp tục tuyên xưng Đức Giêsu là Ánh Sáng trần gian.
Chúa Giêsu là Ánh Sáng của trí tuệ. Người là sự Khôn ngoan của Chúa Cha. Đức Khôn ngoan đã nhập thể làm người. Người đến trần gian để mở trí cho con người của mọi thời đại, giúp họ nhận biết Chúa là Cha của gia đình nhân loại và nhận biết mọi người cùng là anh chị em với nhau. Lời giảng của Chúa Giêsu về đề tài ánh sáng, được chứng minh bằng phép lạ chữa người mù từ khi mới sinh trong Tin Mừng Thánh Gioan đã khẳng định: Chúa Giêsu khai sáng trí tuệ và nhận thức của con người, giúp họ thoát khỏi sự vô tri, đồng thời nhận ra con đường Chân lý và nhờ đó được ơn Cứu độ.
Chúa Giêsu là Ánh Sáng của Lòng Thương Xót của Chúa Cha. Người là gương mặt thương xót của Chúa Cha. Nơi Người, con người cảm nhận được tình thương của Chúa Cha. Tình thương ấy giúp họ vượt lên những chông gai của cuộc sống, để rồi giữa thế gian đầy cạm bẫy và khó khăn, họ vẫn tin vào lòng thương xót của Chúa, được tiếp thêm nghị lực siêu nhiên và chỗi dậy sau mỗi lần vấp ngã.
Chúa Giêsu là Ánh Sáng của lòng nhân ái. Giáo huấn của Chúa nhằm giúp con người nhận ra mọi người đều là anh chị em với nhau. Không ai là một hòn đảo. Người ta cũng không thể hiện hữu một mình, nhưng hiện hữu với người khác, nhờ người khác và cho người khác. Chỉ khi đó, cuộc sống mới có ý nghĩa. Giới răn quan trọng nhất mà Chúa Giêsu dạy chúng ta, đó là giới răn yêu thương. Nhờ yêu thương mà cuộc đời này trở nên đẹp đẽ, đáng yêu và đáng sống. Đức yêu thương tô điểm cho cuộc đời này và làm cho nó có ý nghĩa. Thánh Phaolô đã khuyên giáo dân Côrinhtô dẹp bỏ những chia rẽ trong nội bộ, kể cả những chia rẽ dựa trên những khái niệm giáo huấn. Quả vậy, vào thời đó, giữa nội bộ cộng đoàn Kitô hữu, có những người nhận mình là môn đệ của Phaolô, người khác lại nói mình thuộc về Kêpha (tức là Phêrô), người khác nữa lại nói mình thuộc Apôlô. Thánh Phaolô đã giải thích để mọi người hiểu: Phaolô, Kêpha hay Apôlô chỉ là những phương tiện để chuyển tải thông điệp Tin Mừng của Chúa. Chính Chúa Giêsu mới là Thày và là Chúa, đồng thời là Đấng đáng cho mọi người tôn thờ.
Thánh Matthêu kể lại việc Chúa Giêsu gọi bốn môn đệ đầu tiên, cũng là hai cặp anh em. Đó là anh em ông Simôn và Anrê; anh em ông Giacôbê và Gioan. Đây là những thành phần trụ cột trong số những ông đồ sau này. Họ là những cộng sự viên của Đức Giêsu. Họ đã trung thành cho đến cùng để phụng sự Thày mình và đã chấp nhận hy sinh mạng sống để làm chứng cho Chúa Giêsu. Theo Thánh Matthêu, hai cặp anh em được kêu gọi đều sẵn sàng và nhiệt tình bước theo Chúa Giêsu. Họ là những người đã bước theo Ánh Sáng và được Ánh Sáng chiếu soi, để rồi đến lượt họ lại trở nên ánh sáng cho trần gian.
Hôm nay cũng là ngày mồng Hai tết Canh Tý, là ngày cầu cho Ông Bà, Cha Mẹ. Yêu mến cha mẹ không chỉ là bổn phận để đền đáp ơn sinh thành, nhưng còn là những nghĩa cử đẹp lòng Chúa, xứng đáng được Ngài ban ơn và cho sống trường thọ trên dương gian. Yêu mến và hiếu thảo với cha mẹ, cũng chính là thi hành Luật Chúa. Cầu nguyện cho cha mẹ chưa đủ, chúng ta còn phải hiếu thảo, yêu mến và tôn trọng vâng lời cha mẹ. Khi cha mẹ tuổi già, con cháu cần phải chăm sóc chu đáo.
Nếu Chúa Giêsu là Ánh Sáng của trí tuệ, tình thương và lòng nhân ái, thì mỗi tín hữu là những người được mời gọi bước theo Ánh Sáng. Hãy đón nhận Ánh Sáng, đồng thời để cho Ánh Sáng chiếu soi, ngõ hầu cuộc đời của mỗi chúng ta trở nên ánh sáng chiếu soi trần gian.
4. Khởi điểm truyền giáo--ViKiNi--‘Xây Nhà Trên Đá’--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Chúa Giêsu khởi đầu truyền giáo bằng 3 việc: Đề tài hối cải, môi trường thích hợp và chọn nhân sự hợp tác.
+ Hối cải là đề tài quan trọng của Gioan tiền hô (Mt. 3. 2) của Chúa Giêsu và của Phêrô (Cv. 2, 28) lúc bắt đầu rao giảng Tin mừng. Hối cải là bước dứt khoát đầu tiên tiến vào nước trời, là sức mạnh nhạy bén biến đổi đời người nên mới. Nền tảng sự hối cải là khiêm tốn, nhìn nhận sự lầm lạc, tội lỗi của mình trước Thiên Chúa. Đề tài hối cải rất thích hợp với tâm hồn của dân Galilê. Họ thờ Thiên Chúa nhưng lòng họ bị ô nhiễm quá nhiều bóng tối sự chết, bóng tối của tà thần, của tệ đoan xã hội, của lòng tham do các dân ngoại tới cư ngụ, buôn bán ở Caphanaum.
+ Môi trường thích hợp: Caphanaum là thành phố thương mại phồn thịnh và quan trọng, nằm trên đường từ bắc qua trung đến nam nước Do Thái, là đường liên lạc giữa các nước Địa Trung hải đến các nước Trung Đông như: Libăng, Jorđanie, Irak, Iran, Ả rập, cho nên Đế quốc Roma đã đặt đồn quan thuế ở đây. Caphanaum còn là thành phố nằm trên bờ biển hồ Tibê, rất thuận tiện cho việc giao thông, chuyên chở, đi lại.
Chúa Giêsu chọn Caphanaum làm trung tâm vì ba lý do:
Thứ nhất để thực hiện đúng lời tiên Isaia đã loan báo từ 732 năm trước cho các chi họ sống chung đụng với các dân ngoại.
Thứ hai, Caphanaum là quê hương của bốn môn đệ đầu tiên, mà có lẽ nhà Phêrô là nơi thuận tiện cho việc truyền giáo.
Thứ ba, đây là lý do quan trọng nhất: để cho muôn dân được thấy “một ánh sáng huy hoàng”
+ Nhân sự hợp tác: Ánh sáng đó đã bắt đầu bừng lên trong những thanh niên chài lưới có tâm hồn cường tráng, trong một thân xác tráng kiện “mens sana in corpore sano”, nên họ vừa nghe tiếng Chúa gọi: “Hãy theo Ta”, Phêrô, Anrê, Giacôbê, Gioan liền bỏ chài lưới đi theo Người. Họ đã dứt khoát đổi đời, tiến bước theo Người. Họ đã bỏ hết của cải, thuyền bè, chài lưới, bạn bè, gia đình, cha mẹ, mọi thứ thân yêu nhất ở đời. Họ không thắc mắc tương lai sẽ ra sao? Sướng hay khổ, vinh nhục, giàu nghèo? Hoàn toàn tin tưởng vào Thầy đi theo cái một.
Lạy Chúa Giêsu, biết bao lần Chúa đã gọi con từ bỏ tham lam, danh vọng, tội lỗi, biết bao lần Chúa đã gọi con làm một việc bác ái, một hy sinh nho nhỏ, một giờ hồi tâm, một nửa giờ lễ, một phút cầu nguyện, nhưng con chẳng đáp lời. Lạy Chúa xin tha thứ, xin cho con biết hối cải, biết đổi mới cuộc đời, quyết tâm theo tiếng gọi của Chúa như Phêrô, Anrê, Giacôbê và Gioan.
5. Vì Nước Trời...--Dã Quỳ
Trong cuộc sống, khi làm bất cứ công việc gì, người ta cần phải có mục đích. Việc càng lớn hay quan trọng thì càng cần phải lên kế hoạch và chương trình hành động rõ ràng thì mới mong có thể thành công. Trong bài Tin Mừng hôm nay, hơn ai hết, Chúa Giêsu đã có một chương trình thật rõ cho sứ vụ của Người: Chúa đến rao giảng Tin Mừng Nước Trời, kêu gọi người ta sám hối; mời gọi và chọn một số người để huấn luyện các ông trở thành môn đệ tiếp nối sứ mệnh của Chúa; an ủi và chữa lành cho dân. Những việc Chúa làm nói lên mục đích Người đem ánh sáng cho muôn dân, cho những ai còn ngồi trong bóng tối và cứu độ nhân loại. Với mỗi người Kitô hữu hôm nay, Chúa cũng mời gọi ta lắng nghe Lời Chúa dạy, đi theo Chúa và tiếp bước sứ mạng của Chúa.
Chúa Giêsu di chuyển, thay đổi nơi chốn và rời làng quê mà Người đã từng sống và lớn lên ở đó, để đến một làng khác cần Người hơn. Người sẽ có những hàng xóm mới, những người thân quen mới và những tương quan mới. Chính ở nơi miền đất này, vùng đất dân ngoại mà Chúa đã bắt đầu sứ mạng "Này đất Dơvulun và Náptali... hỡi Galilê, miền đất của dân ngoại! Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng..." Chúa đến, Người muốn gặp gỡ muôn dân còn đang ngồi trong bóng tối, những người đang mong chờ ánh sáng Chúa chiếu rọi. Chính vì thế, Chúa đã rảo bước trên đường, từ thành này sang làng khác để rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Vậy đâu là chủ đề trong lời giảng đầu tiên của Chúa và Người nói về điều gì? Đâu là điều cốt yếu trong lời giảng dạy của Chúa?
"Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần." Đó là tất cả sứ điệp Tin Mừng Chúa muốn nói với chúng ta lúc này. Ta hãy lắng nghe lời Chúa nhắn nhủ "Nước Trời đã đến gần". Chúa Giêsu-hiện thân của Nước Trời đã đến, Người ở đó với chúng ta, nếu ta biết và muốn đón tiếp Người. Và để đón nhận Nước Trời, sống theo tinh thần Nước Trời, Chúa mời gọi chúng ta "Anh em hãy sám hối", hãy thay con tim, đổi lối sống, quay trở về với Thiên Chúa và với lòng mình.
Tất cả có thể trở nên tốt đẹp khi ta biết hoán cải và đó là một tin vui, một điều tuyệt hảo. Nếu chúng ta không biến đổi, lời rao giảng của Chúa chỉ là lời giảng dạy đạo đức khuyên ta làm điều này, tránh điều kia. Sám hối không phải là sự bi quan sầu não của kẻ thất vọng mà là một niềm hy vọng, một sức lực mới giúp chúng ta vươn lên. Vì Nước Trời, ta ăn năn cải thiện đời sống. Thế nên, sám hối thực lòng là thay đổi cách sống của ta sao cho phù hợp với Tin Mừng, là sống yêu thương, tha thứ, nhân hậu, quảng đại, bác ái... với anh chị em; là thay đổi não trạng, lối suy nghĩ ích kỷ, độc đoán để biết đón nhận điều mới và giáo lý mà Chúa Giêsu dạy dỗ. Vì vậy, sám hối là điều kiện cần thiết để nhận ra tình thương xót thứ tha của Chúa, để đón nhận ơn cứu độ và để trở nên những môn đệ trung tín của Chúa.
Tiến trình giảng dạy của Chúa được tiếp nối bằng việc Chúa gặp và chọn gọi bốn môn đệ đầu tiên "Người đang đi..., thì thấy hai anh em kia...Người bảo các ông: 'Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành kẻ lưới người như lưới cá..."( x. Mt 4,18-19.21) Ở đây, thánh Matthêu cho chúng ta thấy việc chọn gọi và huấn luyện các môn đệ thật quan trọng cho sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Chúng ta sẽ không còn thấy Chúa Giêsu giảng dạy trước đám đông dân chúng nữa, nhưng các môn đệ qua mọi thời vẫn còn tiếp tục sứ vụ của Chúa.
Vì thế, ơn gọi môn đệ là sáng kiến của Chúa và là chương trình của Chúa cho chúng ta. Chúa muốn người môn đệ đến, ở lại với Chúa, lắng nghe lời Chúa dạy, thụ huấn với Chúa những bài học cuộc sống khi ở cùng, và đi theo sát kề Chúa. Đón nhận tình yêu và tất cả mọi biến cố cuộc đời của Chúa "Người lên núi và gọi đến với Người những kẻ Người muốn...để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng" (x. Mc 3,13-14) Như vậy, người môn đệ chỉ còn một lòng sẵn sàng đáp lại tiếng Chúa gọi và tức khắc lên đường theo Chúa "Lập tức, hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người." Chọn cuộc sống của Chúa làm của mình, thực sự trở thành thừa tác viên của Chúa, cộng tác với Chúa trong mọi sứ vụ truyền giáo, thực hiện chương trình của Chúa, làm việc cho công trình của Người và giúp Người cứu độ nhân loại.
Trong sứ vụ của Chúa, những hành động đi kèm lời giảng dạy là việc "chữa lành tất cả mọi bệnh hoạn tật nguyền của dân." Chúa Giêsu luôn chạnh lòng thương và bày tỏ tình xót thương của Người. Đây là dấu chỉ Thiên Chúa ở với dân Ngài, với tác phẩm Ngài tạo nên. Chúa giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời để chữa trị tâm hồn và thỏa cơn đói khát tinh thần của con người. Chúa còn chữa lành biết bao bệnh tật, an ủi và nâng đỡ những con người đau khổ, bị khinh miệt gạt ra lề tôn giáo và xã hội, là "Những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần." Chúa yêu thương chúng ta, thấu hiểu chúng ta và chỉ muốn ta được hạnh phúc.
Thế nhưng, trong thế giới mà chúng ta sống hôm nay đang là một thế giới ô nhiễm về nhiều mặt, từ bầu khí ô nhiễm tinh thần qua tin, sách báo, phim ảnh... đang len lỏi vào cuộc sống, đến ô nhiễm về không khí, nước, thực phẩm và sản phẩm... Đâu đâu cũng thấy sự nhiễm độc và nguy hại sinh ra bao bệnh tật hiểm nghèo. Tình trạnh thê thảm này là trách nhiệm của chúng ta và cũng đang là thách đố của chúng ta! Hãy cầu xin Chúa dạy ta biết sám hối về chính những gì ta đã làm, đã sống không phù hợp với tinh thần của Chúa và Tin Mừng Chúa dạy. Hãy cải thiện lối sống để thực thi đức công bằng, bác ái với tha nhân và sống lương thiện trong sản xuất, buôn bán, sử dụng,...
Sứ vụ của Chúa Giêsu cũng là sứ mạng của mỗi Kitô hữu chúng ta hôm nay. Ước gì chúng ta biết lắng nghe lời Chúa dạy, sẵn lòng theo Chúa trong việc thực thi Tin Mừng và năng ở với Chúa, gặp gỡ Chúa trong cầu nguyện, qua các Bí tích. Thật lòng trở về với Chúa và thành tâm sám hối những yếu đuối, lỗi lầm, sa ngã. Khi đã đón nhận, nghiệm thấy tình thương Chúa, ta cũng biết lên đường rao truyền Lời Chúa, nói về Chúa cho anh chị em, và thể hiện niềm vui được Chúa yêu thương cho những ai ta gặp gỡ. Xin cho từng Kitô hữu Việt Nam luôn biết dấn thân, hăng hái lên đường, đem ánh sáng Chúa Kitô cho anh chị em trên quê hương vẫn còn ở trong cảnh tối tăm, để tất cả cùng được ánh sáng Chúa chiếu dọi và được hưởng hạnh phúc Nước Trời.
Lạy Chúa Giêsu, tạ ơn Chúa đã đến với chúng con. Xin chiếu dãi ánh sáng Tin Mừng của Chúa vào trong chúng con. Xin biến đổi số phận của tất cả nhân loại, cho chúng con được hưởng hạnh phúc và ơn cứu độ. Amen.
6. Chúa Nhật 3 Thường Niên--Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Vào ngày lễ kính thánh Giê-rô-ni-mô vừa qua (30/09/2019), Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã ban Tông Sắc Aperuit Illis (“Ngài đã mở trí cho họ”) để thiết lập Chúa Nhật III Thường Niên là Chúa Nhật Lời Chúa. Đáp lại lời mời gọi của Đức Thánh Cha, Đức Cha Vinh Sơn chủ tịch Ủy Ban Kinh Thánh ấn định Chúa Nhật III Thường Niên dành riêng để cử hành, để suy tư và để công bố Lời Chúa.
Thật ra, mỗi lần tham dự Thánh Lễ là mỗi lần chúng ta tôn kính Lời Chúa là nguồn sống của các tín hữu rồi. Hiến Chế Mặc Khải viết: “Giáo Hội vẫn luôn tôn kính Thánh Kinh giống như tôn kính chính Thánh Thể Chúa, đặc biệt trong Phụng Vụ Thánh, Giáo Hội không ngừng lấy bánh ban sự sống từ bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Mình Chúa Ki-tô để trao ban cho các tín hữu” (Hiến Chế Mặc Khải, số 22).
Vì thế, khi thiết lập Chúa Nhật III Thường Niên là Chúa Nhật Lời Chúa, Đức Thánh Cha mời gọi các tín hữu ý thức nhiều hơn về tầm quan trọng của Lời Chúa trong cuộc sống của mình khi đề nghị “các linh mục ở giáo xứ có thể tìm ra hình thức tương xứng nhất để đặt cuốn Kinh Thánh, hay một trong các sách của bộ Kinh Thánh, cho toàn thể cộng đoàn, để làm nổi bật tầm quan trọng của việc tiếp tục đọc bản văn trong đời sống hàng ngày, để đào sâu bản văn và để cầu nguyện với Kinh Thánh, trong khi tham chiếu bằng cách thế đặc biệt theo cách đọc Lectio Divina” ( “Tông Sắc Aperuit Illis, số 3”)
Trong Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật III Thường Niên năm A, Bài Đọc I và Tin Mừng nêu bật sứ vụ khởi đầu của Đức Giê-su: chính ở Ga-li-lê, miền đất của dân ngoại, Đức Giê-su chọn để công bố Lời Ngài, trong khi Bài Đọc I ghi lại lời kêu gọi khẩn thiết của thánh Phao-lô về sự hiệp nhất của các Ki-tô hữu.
Is 8: 23; 9:3
Ngôn sứ I-sai-a tiên báo với dân Ga-li-lê bất hạnh, nạn nhân của chính sách cai trị hà khắc của đế quốc Át-sua vào thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên, rằng sẽ đến ngày một ánh sáng huy hoàng rực rỡ sẽ chiếu sáng trên họ.
1Cr 1: 10-13, 17
Trước nạn bè phái, thánh Phao-lô khẩn khoản kêu mời các tín hữu Cô-rin-tô hiệp nhất với nhau. Đó cũng là nỗi bận lòng lớn lao của Giáo Hội là kêu mời mọi tín hữu cầu nguyện cho các Ki-tô hữu trên thế giới được nên một với nhau. Thánh Phao-lô công bố tính bất khả phân của Đức Ki-tô.
Mt 4: 12-23
Trong Tin Mừng hôm nay, thánh Mát-thêu trích dẫn bản văn của ngôn sứ I-sai-a (Bài Đọc I) để chứng tỏ rằng chính nơi Đức Giê-su mà Kinh Thánh được ứng nghiệm: Đức Giê-su đã chọn Ca-phác-na-um, một thành ven biển hồ Ga-li-lê làm cứ điểm truyền giáo của Ngài. Ở đó, Ngài đã kêu gọi các môn đệ đầu tiên của Ngài, họ là những ngư phủ.
BÀI ĐỌC I (Is 9: 1-4)
Bài Đọc I trích từ một trong ba sấm ngôn vĩ đại của ngôn sứ I-sai-a đệ nhất về sự sinh hạ của một Hài Nhi, tên biểu tượng của con trẻ là “Em-ma-nu-en, Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Ba sấm ngôn này được gặp thấy trong các chương 7 đến chương 12 của sách I-sai-a, các chương này hình thành nên một tuyển tập được gọi là “sách về Đấng Em-ma-nu-en”. Sấm ngôn thứ nhất (7: 10-14) loan báo sự sinh hạ của một Hài Nhi, sấm ngôn thứ hai (8: 23b-9: 6) mô tả vài nét đặc trưng của triều đại Hài Nhi này, và sấm ngôn thứ ba (11: 1-9) bày tỏ triều đại của Hài Nhi là triều đại của những ân ban siêu nhiên, và là kỷ nguyên của hòa bình và cứu độ.
Đoạn văn hôm nay là phần thứ nhất của sấm ngôn thứ hai, nói về sự tương phản giữa cảnh đời gian truân tăm tối trong hiện tại với những viễn cảnh huy hoàng tươi sáng trong tương lai.
1. Cảnh đời tăm tối trong hiện tại
Về phương diện lịch sử, tự ngồn gốc vùng Ga-li-lê được phân chia cho hai chi tộc Dơ-vu-lun và Nép-ta-li, khi dân It-ra-en vào Đất Hứa. Nhưng hai chi tộc này không bao giờ thành công trong việc đánh đuổi dân bản địa Ca-na-an nên ngay từ đầu dân cư Ga-li-lê đã là dân tạp chủng. Về phương diện địa lý, vùng đất Ga-li-lê tiếp giáp với các quốc gia ngoại bang, vì thế không thể tránh khỏi ảnh hưởng văn hóa và tư tưởng của dân ngoại chung quanh. Hơn nữa, những con đường lớn của thế giới đều đi ngang qua miền Ga-li-lê, trong khi xa tít về phía Nam, miền Giu-đê thu mình vào một góc, cô lập, khép kín như câu thành ngữ: “Giu-đê không có đường đi đâu hết, còn Ga-li-lê đi khắp nơi”. Vì thế không lạ gì miền Ga-li-lê đã trở thành miếng mồi xâm lăng của các dân ngoại chung quanh và các đế quốc hùng mạnh thay nhau cai trị vùng này.
Sấm ngôn I-sai-a ám mô tả số phận bi thảm giáng xuống trên dân cư của vương quốc miền Bắc (cũng được gọi là “vương quốc Ít-ra-en”) dưới cuộc xâm lăng của đế quốc Át-sua vào những năm 734-732 trước Công Nguyên. Cuối cùng vương quốc miền Bắc hoàn toàn bị diệt vong, thủ đô là Sa-ma-ri bị chiếm, một số lượng lớn dân cư bị lưu đày, những dân ngoại bang thế chỗ. Sự đàn áp tàn bạo đến mức vị ngôn sứ mô tả rằng chỉ có sự can thiệp của Thiên Chúa vào triều đại của Vua Mê-si-a, vùng đất này mới có thể được giải thoát.
Quyền lực của đế quốc Át-sua sẽ ngự trị trên vùng đất này cho đến năm 612 trước Công Nguyên cho đến khi bị đế quốc Ba-by-lon xâm chiếm. Như vậy, sau thời kỳ phục dịch đế quốc Át-sua, dân Ít-ra-en sẽ làm tôi đế quốc Ba-by-lon. Họ chỉ gặp lại cuộc sống thanh bình nhờ sự giải thoát của đế quốc Ba-tư. Dưới thời đô hộ của đế quốc Ba-tư, dân Ít-ra-en được hưởng một chính sách cai trị mềm dẻo, nhưng sự giải thoát nửa vời này không là điều vị ngôn sứ nghĩ đến: cái nhìn của ông còn đi xa hơn thế nhiều. Quả thật, khi đề cập đến những biến cố đương thời của mình, vị ngôn sứ nói: “Trong thời gian đầu”, diễn ngữ thời gian này ám chỉ đến hoàn cảnh hiện nay và mở ra một tương lai xa mà ông thoáng thấy. Vì thế, niềm phấn khởi của ông trước ánh sáng rạng ngời trên miền Ga-li-lê được xem như lời sấm mang chiều kích thiên sai: sấm ngôn này, một trong những sấm ngôn giàu hình ảnh, loan báo Tin Mừng cứu độ và sứ mạng của dân Ga-li-lê, dân thụ hưởng vinh quang của Đức Chúa.
2. Những viễn cảnh huy hoàng tươi sáng trong tương lai
Chính trong cảnh đời tăm tối không lối thoát trong hiện tại mà vị ngôn sứ loan báo những viễn cảnh huy hoàng tươi sáng trong tương lai. Cặp đối lập “ánh sáng / bóng tối” là chủ đề Kinh Thánh nổi tiếng chạy xuyên suốt toàn bộ lịch sử cứu độ, kể từ ngày Thiên Chúa tách ánh sáng ra khỏi bóng tối (St 1: 3-4) cho đến ngày chung cuộc, khi những ác nhân bị ném ra ngoài vào trong bóng tối hãi hùng. Qua toàn bộ lịch sử này, ơn cứu độ, niềm vui, niềm tin, chung chung được diễn tả bằng hình ảnh ánh sáng. Ở đỉnh điểm của tiến trình này, Đức Giê-su tự giới thiệu mình: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8: 12).
Trong thị kiến của vị ngôn sứ, ánh sáng biểu tượng niềm vui cứu độ. Niềm vui này sẽ rạng ngời trên khắp miền Ga-li-lê và được mô tả bằng những hình ảnh như niềm vui của nhà nông vào ngày thu hoạch mùa màng sau công việc đồng án gian lao vất vả và như niềm vui của những lính chiến chia nhau những chiến lợi phẩm sau cuộc chiến gian khổ.
Nguyên do của niềm vui này chính là thời phục dịch sắp chấm dứt, kẻ hà hiếp sắp bị đánh bại. Khúc ca khải hoàn này được sánh ví như ngày chiến thắng quân Ma-đi-an (Tl 7: 1-25), một cuộc chiến thắng quá vẹn toàn, đạt được nhờ quân số quá nhỏ bé (300 chiến binh) đến nỗi chiến công này không hề phai nhạt trong ký ức của dân chúng như tiêu biểu cho hành động của Thiên Chúa.
Như vậy, Ga-li-lê, miền đất dân ngoại, có sứ mạng chiếu giãi ánh sáng của Thiên Chúa đến các dân ngoại. Sấm ngôn của vị ngôn sứ đã được ứng nghiệm bảy thế kỷ sau đó, khi Đức Giê-su công bố sứ điệp của Ngài ở miền Ga-li-lê dân ngoại này. Đó chính là điều mà trong số các tác giả Tin Mừng, thánh Mát-thêu quan tâm bậc nhất trong việc minh chứng con người và sứ mạng của Đức Giê-su đã được các ngôn sứ loan báo, chúng ta không thể nào bỏ qua.
BÀI ĐỌC II (1 Cr 1: 10-13, 17)
Bài Đọc II được trích từ “Thư thứ nhất của thánh Phao-lô gửi tín hữu Cô-rin-tô” giúp chúng ta nắm bắt những nguyên do sâu xa của cuộc khủng hoảng mà Giáo Đoàn non trẻ này gặp phải.
1. Nạn bè phái (1 Cr 1: 11-12)
Bốn phe phái đối đầu với nhau ở lòng Giáo Đoàn Cô-rin-tô:
– Phe theo thánh Phao-lô: Thánh Phao-lô cũng có nhiều ủng hộ viên trong cộng đoàn này.
– Phe theo ông A-pô-lô: Nhờ vào sách Công Vụ 18: 24-28, chúng ta biết rằng ông A-pô-lô là một người Do thái quê ở A-lê-xan-ri-a, thủ đô của kiều bào Do thái giáo và một trong những thủ đô trí thức của thế giới vào thời đó. Nhờ có tài hùng biện và thông thạo Kinh Thánh, ông rao giảng rất thành công ở Ê-phê-xô. Từ đó, ông đã sang miền A-khai-a dùng tài hùng biện của mình mà phục vụ Giáo Hội. Thánh Phao-lô, khi từ biệt Cô-rin-tô, đã giao phó cho ông A-pô-lô Giáo Đoàn non trẻ này. Tuy nhiên, ông A-pô-lô đã không lưu lại lâu ở Cô-rin-tô, nhưng cũng để lại ở đây một ảnh hưởng mạnh mẻ. Chắc hẳn, tài hùng biện chói sáng của ông làm lu mờ đi cách rao giảng đơn sơ và bộc trực của thánh Phao-lô (x. 1Cr 2: 1, 3, 5). Kết quả là một sự chia rẽ giữa những người theo phe ông A-pô-lô và những người vẫn trung thành với thánh Phao-lô.
Việc nhắc đến ông A-pô-lô ở cuối thư gửi tín hữu Cô-rin-tô này cho phép chúng ta khẳng định rằng ông A-pô-lô không để cho sự thành công lôi cuốn mình và cương quyết tự xóa mình trước thánh Phao-lô cho đến khi hoàn cảnh được tái lập: “Còn về anh A-pô-lô, tôi đã tha thiết xin anh ấy đến thăm anh em cùng với các anh em khác. Nhưng lúc này anh ấy nhất định không chịu đi, anh ấy sẽ đi khi có dịp thuận tiện” (1 Cr 16: 12).
– Phe theo thánh Phê-rô: Có thể chính thánh Phê-rô, hay một trong những cộng sự viên thân cận của thánh nhân, đã đến Cô-rin-tô. Nhưng chúng ta cũng có thể nghĩ rằng những Ki-tô hữu gốc Do thái tìm kiếm nơi thánh Phê-rô một điểm tựa để bênh vực những lập trường duy Do thái của họ chống lại lập trường bao dung của thánh Phao lô đối với dân ngoại (x. Gl 2: 1-14).
– Phe theo Đức Ki-tô: Có thể đó là những Ki-tô hữu vẫn ở trong chính lộ (x. 1Cr 1: 13) hay những người tự phụ là mình gắn bó với Đức Ki-tô mà không nhận uy quyền của bất kỳ vị Tông Đồ nào.
2. Câu trả lời của thánh Phao-lô (1 Cr 1: 10, 13, 17)
Đối diện với nạn bè phái, thánh Phao-lô kêu mời khẩn thiết đến sự hiệp nhất và trình bày giáo huấn về tính bất khả phân của Đức Giê-su: tính duy nhất của Hy Tế Thập Giá, Phép Rửa, và Tin Mừng.
– Kêu mời khẩn thiết đến sự hiệp nhất
Thánh Phao-lô kêu mời các tín hữu Cô-rin-tô hiệp nhất với nhau. Lời mời gọi dứt khoát, nồng nàn và khẩn thiết này được đặt ngay ở đầu, thậm chí trước khi viện dẫn hoàn cảnh của những chia rẽ. Thư gửi tín hữu Phi-líp-phê (Pl 2: 1-11) cho chúng ta lời giải thích lý do tại sao phải “một lòng một ý” với nhau.
Chính “nhân danh Đức Giê-su Ki-tô” mà các tín hữu Cô-rin-tô được mời gọi hiệp nhất với nhau, bởi vì những gì đụng chạm đến cộng đoàn là đụng chạm đến chính con người của Đức Ki-tô (Cv 9: 5). Như vậy, chia rẽ là phân chia chính Thân Thể Đức Ki-tô (x. 1Cr 12: 12t; Gl 3: 28).
– Tính bất khả phân của Đức Ki-tô
Sự sai lầm của các tín hữu Cô-rin-tô chính là đặt Tin Mừng trên cùng một bình diện với tất cả những khôn ngoan mà họ thường nghe các môn đệ của các triết gia nổi tiếng như Platon, Aristote, Zénon… truyền bá. Đối diện với những trào lưu triết học này, người ta có thể tranh luận không dứt và quyết định theo phe này hay phe kia (x. 1Cr 3: 3-4). Tin Mừng thì hoàn toàn khác. Tiên vàn, đây là công bố một sự kiện: cái chết và sự sống lại của Đức Ki-tô. Đức tin không là một sự gắn bó với một giáo thuyết, nhưng tận hiến bản thân mình cho Đức Ki-tô. Người môn đệ loan báo Tin Mừng không gì khác hơn là người loan báo Đức Ki-tô, vì thế người môn đệ là môn đệ của Đức Ki-tô, chứ không là môn đệ của bất kỳ Tông Đồ nào. Người môn đệ ấy sống cuộc sống của Đức Ki-tô, chứ không cuộc sống của bất kỳ Tông Đồ nào. Người ấy được cứu độ nhờ cái chết và sự sống lại của Đức Ki-tô chứ không nhờ cái chết của bất cứ Tông Đồ nào. Người ấy đã được rửa tội nhân danh Đức Ki-tô, chứ không nhân danh một ai khác (Cv 2: 38; 8: 16; 10: 48; vân vân).
Để tránh triệt để sự ngộ nhận, lời dạy của thánh Phao-lô được trình bày ngay tức khắc hoàn toàn khác với lời dạy của các triết gia hay các nhà hùng biện. Không cốt trình bày những lập luận có sức thuyết phục đối với tư tưởng này hay tư tưởng kia, nhưng chỉ cốt công bố mầu nhiệm của Đức Ki-tô chết trên Thập giá và sống lại. Vì thế, Tin Mừng không là đối tượng của sự chứng minh, nhưng ngỏ lời với đức tin.
Ngôn từ của thánh Phao-lô trong thư không cốt nhấn mạnh sự nối tiếp giữa những quan niệm ngoại giáo Hy lạp như ở A-thê-na (Cv 17: 16-33), nhưng đúng hơn trình bày thẳng thắn sự điên rồ của Thập Giá là sự khôn ngoan cao vời khôn sánh của Thiên Chúa tương phản với tất cả sự khôn ngoan của phàm nhân.
TIN MỪNG (Mt 4: 12-23)
Tin Mừng Mát-thêu được trích trong Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật III Thường Niên năm A gồm bốn phần: Hoàn cảnh khởi đầu sứ vụ của Đức Giê-su ở Ga-li-lê (4: 12-16), lời rao giảng đầu tiên của Đức Giê-su (4: 17), thu nạp các môn đệ đầu tiên (4: 18-22), và sứ vụ của Đức Giê-su ở Ga-li-lê (4: 23).
1. Hoàn cảnh khởi đầu sứ vụ của Đức Giê-su ở Ga-li-lê (Mt 4: 12-16)
Dấu ấn của thánh Mát-thêu in đậm đặc biệt trong đoạn văn này, nếu chúng ta so sánh với những đoạn văn liên hệ của các tác giả Nhất Lãm khác.
Sau khi chịu phép rửa của Gioan Tẩy giả (Mt 3: 13-17), đoạn trải qua những chước cám dỗ trong sa-mạc (Mt 4: 1-11), và cuối cùng nghe tin “ông Gioan Tẩy giả đã bị nộp” (4: 12), Chúa Giê-su biết đã đến lúc Ngài bắt tay vào sứ vụ: nhiệm vụ dọn đường của Gio-an Tẩy Giả đã hoàn tất, vai phụ rút lui vào hậu trường để nhường chỗ cho vai chính là Đức Giê-su. Thánh Mát-thêu cũng như thánh Mác-cô sẽ dùng cùng một diễn ngữ “bị nộp” để nói về việc Đức Giê-su bị bắt. Như vậy, Gioan Tẩy Giả loan báo về Đức Giê-su không chỉ bằng lời rao giảng, nhưng còn bằng cuộc sống nữa. Qua động từ: “bị nộp”, thánh Mát-thêu muốn nói rằng số phận của ông Gioan Tẩy Giả báo trước số phận tương tự đang chờ đợi Đức Giê-su.
Sự kiện Đức Giê-su lánh sang miền Ga-li-lê khi nghe tin ông Gioan Tẩy Giả bị nộp khiến chúng ta nghĩ rằng Đức Giê-su không còn cảm thấy an toàn ở miền Giu-đê. Tuy nhiên, vị vua đã tống giam Gioan Tẩy Giả là tiểu vương Hê-rô-đê An-ti-pa lúc đó cai trị xứ Ga-li-lê. Dường như lý do sâu xa của việc Đức Giê-su chuyển dời miền đất hoạt động của mình sang miền Ga-li-lê được gặp thấy trong Tin Mừng Gioan: “Nhóm Pha-ri-sêu nghe tin Đức Giê-su thâu nạp và làm phép rửa cho nhiều môn đệ hơn ông Gio-an. Biết thế, Đức Giê-su bỏ miền Giu-đê mà trở lại miền Ga-li-lê” (Ga 4: 1-3). Thánh Lu-ca nói một cách đơn giản: “Được quyền năng Thần Khí thúc đẩy, Đức Giê-su trở về miền Ga-li-lê” (Lc 4: 14).
Còn thánh Mát-thêu thì trình bày quyết định của Đức Giê-su bằng những từ ngữ như quyết định của thánh Giu-se khi quay trở về từ Ai-cập đến cư ngụ ở Na-da-rét: “Khi nghe tin Ác-khê-lao đã kế vị vua cha là Hê-rô-đê, cai trị miền Giu-đê, nên ông sợ không dám về đó… ông lánh qua miền Ga-li-lê… để ứng nghiệm lời đã phán qua miệng các ngôn sứ” (Mt 2: 19-23). Cũng một cách thức như vậy trong bài trình thuật này: “Khi Đức Giê-su nghe tin ông Gioan đã bị nộp, Người lánh qua miền Ga-li-lê… để ứng nghiệm lời ngôn sứ I-sai-a”. Việc kể tên hai địa danh xa xưa “Dơ-vu-lun và Nép-ta-li” rõ ràng dọn đường cho lời trích dẫn sấm ngôn I-sai-a. Hai địa hạt này chiếm phần lớn miền Ga-li-lê, bị đế quốc Át-sua sát nhập, bị Hy lạp hóa vào thời cai trị của đế quốc Hy lạp, vì thế phần lớn là người ngoại bang đến định cư. Lời loan báo của ngôn sứ I-sai-a về cuộc giải thoát được thánh Mát-thêu thấy ứng nghiệm nơi sứ vụ của Đức Giê-su.
Đức Giê-su đến ở Ca-phác-na-um, một thành ven biển hồ Ga-li-lê. Thành Ca-phác-na-um được hưởng một hoàn cảnh ưu đãi, thành phố giáp ranh giới với ba nước: Pa-lét-tin, Phê-ni-xi và Xy-ri-a: thành phố này là một phần của miền Ga-li-lê được gọi là “miền đất của dân ngoại”. Đức Giê-su chọn thành phố này làm địa bàn hoạt động của Ngài. Dân bản địa chủ yếu là những ngư phủ, thợ thủ công và tiểu điền chủ.
Quả thật, kiểu nói: “Ga-li-lê, miền đất của dân ngoại” hình thành nên trọng tâm của lời trích dẫn Is 8: 23-9: 1 và cũng của sứ mạng Đức Giê-su. Khi nói: “Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm” (Mt 4: 16), thánh ký ám chỉ đến tình trạng tinh thần của dân Do thái vào thời ông, trong những miền dân cư tạp chủng. Như vậy, thánh ký nêu bật Đức Giê-su muốn chia sẻ cùng một cảnh ngộ với dân Ngài, như Ngài đã làm trong suốt thời gian ẩn dật cũng như khi chịu phép rửa. Chính vì dân Ngài, Đức Giê-su được sai đi trước tiên đến “những chiên lạc nhà Ít-ra-en” (Mt 10: 6; 15: 24), nhưng cũng gặp gỡ dân ngoại, vì hoàn cảnh cụ thể của dân cư miền này đặt Ngài vào mối liên hệ với họ. Chính “những kẻ đang ngồi trong bóng tối tử thần” này mà Đức Giê-su là “ánh sáng bừng lên chiếu rọi”.
2. Lời rao giảng của Đức Giê-su (4: 17)
Lời rao giảng đầu tiên của Đức Giê-su (4: 17) lặp lại y nguyên lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả (3: 2). Tuy nhiên, cũng một lời kêu gọi sám hối nhưng do bởi hai nhân vật với hai vai trò khác nhau: Gioan Tẩy Giả, người có sứ mạng làm phép rửa trong nước để dọn lòng cho con người đón tiếp Đức Giê-su, Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần (Mt 3: 11). Vì thế, lời kêu gọi sám hối của Đức Giê-su trở nên khẩn thiết hơn, vì Triều Đại Thiên Chúa đã khởi sự ở nơi sự hiện diện của Ngài. Cõi vĩnh hằng đã đột nhập vào thời gian, Triều Đại Thiên Chúa đã xâm nhập vào cõi thế. Vì thế, điều quan trọng hơn cả là con người phải quay tầm nhìn của mình khỏi hạ giới mà hướng về thượng giới, đổi hướng đi để tiến gần đến Đức Giê-su. Muốn thế thì phải nghe và theo Đức Giê-su.
3. Thu nạp các môn đệ đầu tiên (Mt 4: 18-22)
Lời rao giảng của Đức Giê-su ở miền Ga-li-lê được ghi nhận là đã gặp thấy lời đáp trả tích cực ở nơi bốn môn đệ đầu tiên. Bài trình thuật của thánh Mát-thêu về ơn gọi của các môn đệ đầu tiên rất gần với bài trình thuật của thánh Mác-cô (bài trình thuật Lu-ca thì hơi khác). Câu chuyện thật đột ngột: hai anh em ông Si-mon và ông An-rê đang thả lưới bắt cá, liền bỏ nghề nghiệp của mình mà cất bước theo Đức Giê-su. Còn hai anh em ông Gia-cô-bê và ông Gioan, sự đoạn tuyệt càng mãnh liệt hơn, họ không chỉ bỏ lại nghề nghiệp của mình, nhưng còn cả người cha mà họ có bổn phận phụng dưỡng nữa. Trước đây, chỉ vọn vẹn có ba từ: “Người bỏ Na-da-rét” gợi lên việc Đức Giê-su thoát ly gia đình, bạn bè, nghề nghiệp và làng quê thân yêu Ngài, giờ đây Ngài cũng sẽ đòi hỏi các môn đệ của Ngài một đoạn tuyệt như vậy.
Hai anh em Si-mon và An-rê cũng như hai anh em Gia-cô-bê và Gioan ở đây chưa được gọi là môn đệ. Đức Giê-su chỉ đòi hỏi họ đi theo Ngài, như ngôn sứ Ê-li-a đã làm như thế đối với Ê-li-sa (x. 1V 19: 20-21). Tuy nhiên, chúng ta có thể đọc thấy ở đây mối liên hệ của thầy với trò rồi, nhất là khi thêm vào “Tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá”, Đức Giê-su ngay tức khắc liên kết họ vào sứ mạng của Ngài. Bài diễn từ sai đi (ch, 10) và dụ ngôn chiếc lưới thả xuống biển (13: 47-50) sẽ đem lại nền tảng vững chắc cho lời công bố bí nhiệm này. Khi gọi những cộng tác viên đầu tiên của mình và mời gọi họ thoát ly khỏi môi trường gia đình và nghề nghiệp của họ, Ngài muốn nói với họ tầm mức biểu tượng sứ mạng của họ: tiếp nối sứ mạng của Ngài, đồng thời biến đổi hoàn cảnh phàm nhân của họ. Thánh Mát-thêu nhấn mạnh vừa sự nối tiếp lẫn sự đoạn tuyệt trong lời mời gọi theo Ngài.
4. Sứ vụ của Đức Giê-su ở Ga-li-lê (Mt 4: 23)
Sau khi đã mô tả ơn gọi của các môn đệ đầu tiên, thánh Mát-thêu lại tiếp tục trình bày sứ vụ của Đức Giê-su: “Đức Giê-su đi khắp miền Ga-li-lê, giảng dạy trong các hội đường, loan báo Tin Mừng Nước Trời, và chữa dân chúng hết bệnh hoạn tật nguyền” (4: 23). Ở đây, chúng ta thấy ba khía cạnh sứ vụ của Đức Giê-su: giảng dạy – loan báo Tin Mừng Nước Trời – chữa lành. Chúng ta sẽ gặp lại đúng y nguyên trình tự này ở 9: 35: “Đức Giê-su đi khắp các thành thị, làng mạc, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước trời và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền”.
Phạm vi hoạt động của Đức Giê-su được ghi nhận “khắp miền Ga-li-lê”. Ngài không tự giới hạn vào việc quy tụ một nhóm nhỏ môn đệ, một trường đào tạo, theo cách thức của các kinh sư, nhưng với tư cách một nhà giảng thuyết lưu động, Đức Giê-su muốn rằng sứ điệp của Ngài phải đến với tất cả mọi người và được lan truyền ra khắp nơi.
7. Hãy hối cải, vì nước Trời đã gần đến--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Bước vào Chúa nhật thứ III thường niên, chúng ta thấy Chúa Giêsu sau khi chịu phép rửa tại sông Giorđan, được Gioan giới thiệu cho mọi người biết Người là: "Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian " (Ga 1, 29). Điều các ngôn sứ đã báo trước nay được thực hiện: "Tại Galilêa các dân tộc và dân chúng thấy một ánh sáng vĩ đại" (Is 9, 1-4 (Hr 8, 23b - 9, 3). Ánh sáng vĩ đại ấy là ai nếu không phải là Chúa Giêsu. Thật thế, Chúa Giêsu xuất hiện giữa dân chúng, như ánh bình minh rạng ngời buổi sáng, xua tan bóng tối đêm đen. Dân chúng thấy Ngài như thấy ánh sáng huy hoàng… xuất hiện cho người ngồi trong bóng tối sự chết (x.Mt 12, 16), ánh sáng ấy nay tỏ rạng công khai khi rao giảng: "Hãy hối cải, vì nước Trời đã gần đến" (Mt 12, 17).
Ánh sáng ấy là Chúa Giêsu
Matthêu giải thích, Chúa Giêsu "rời bỏ thành Nadarét, đến ở miền duyên hải, thành Capharnaum, giáp ranh đất Giabulon và Nepthali". Với địa danh chính xác như thế, nhưng mục đích của tác giả không phải là cung cấp cho chúng ta những chỉ dẫn du lịch. Ý tưởng thần học của Matthêu được giải thích ngay: "Để ứng nghiệm lời đã phán bởi miệng tiên tri Isaia" (Bài đọc I).
Ứng nghiệm điều gì? Giabulon và Nepthali là hai vùng thuộc miền Bắc lúc ấy đang bị sát nhập vào vương quốc Asyri. Thật là hổ người khi nhớ lại quá thất bại và bị đuổi ra ngoài. Tuy nhiên, vị tiên tri với niềm tin vững mạnh đã tuyên bố: "Dân ngồi trong tối tăm đã thấy ánh sáng huy hoàng". Nói cách khác, Isaia muốn khơi lên niềm hy vọng nơi những người tin cậy Chúa, Đấng giải thoát họ, nên ông không ngần ngại nói về ơn cứu rỗi. Đó là sức mạnh của Lời Chúa, Lời thực hiện những gì đã tuyên bố, Isaia gợi lên niềm vui đến từ đức tin: "Dân chúng vui mừng trước nhan Chúa như nhà nông vui mừng trong mùa gặt". Thánh Vịnh một lần nữa vang lời động viên: "Tôi tin rằng tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh. Hãy chờ đợi Chúa, hãy sống can trường, hãy phấn khởi tâm hồn và chờ đợi Chúa". Niềm tin này khiến chúng ta vui mừng vì lời hứa của Thiên Chúa được thực hiện: "Chúa là sự sáng và là Đấng cứu độ tôi". Sự sáng ấy nay cụ thể hóa nơi con người Đức Giêsu Kitô, thánh Matthêu xác định: Chúa Giêsu lui về Galilêa. Người rời bỏ thành Nadarét, đến ở miền duyên hải, thành Capharnaum, giáp ranh đất Giabulon và Nepthali, để ứng nghiệm lời đã phán bởi miệng tiên tri Isaia rằng: "Hỡi đất Giabulon và đất Nepthali, đường dọc theo biển, bên kia sông Giođan, Galilêa của ngoại bang! Dân ngồi trong tối tăm đã thấy ánh sáng huy hoàng; ánh sáng đã xuất hiện cho người ngồi trong bóng sự chết".
Bước theo Chúa Giêsu cần phải hối cải
Ánh bình minh đã ló rạng, từ trên cao chiếu soi dân ngồi trong bóng tối là chính Chúa Giêsu Kitô. Ai bước vào trong ánh sáng ấy cần phải: "Hối cải" nghĩa là đi từ bóng tối ra ánh sáng, từ tội lỗi sang đời sống là con cái Chúa, từ tuyệt vọng đến hy vọng, từ chán nản đến vui mừng. Và Chúa muốn ánh sáng ấy chiếu soi mọi người; nên Chúa đã chọn các môn đệ như những người phụ tá.
Khi Chúa Giêsu gọi các môn đệ của mình "Hối cải". Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta rằng, dù thuộc về Phaolô, Phêrô hay Apôlô cũng chỉ có một Đức Kitô. Mọi con mắt phải hướng về Ngài, chính Ngài cứu chuộc chúng ta. Vì thế, khi gọi các môn đệ, là để các ông trở nên những chứng nhân của Tin Mừng, nên thánh Phaolô có thể nói: "Đức Kitô không sai tôi đi rửa tội, mà là đi rao giảng Tin Mừng, không phải bằng lời nói khôn khéo, kẻo thập giá của Đức Kitô ra hư không". Phaolô được chọn, để loan báo một Đấng Cứu Thế bị đóng đinh cho thế gian.
Ngày nay Chúa cũng mời gọi chúng ta mang vào thế giới sứ điệp sự thật và tình thương của Ngài. Chúng ta hãy sẵn sàng tham gia vào sứ mạng này và nhất là cầu nguyện xin Chúa đừng để những chia rẽ và tranh chấp giữa các tín hữu Kitô làm lu mờ khả năng chiếu tỏa của Tin Mừng.
Hối cải để hiệp nhất
Lời Chúa mời gọi chúng ta: "Hãy hối cải, vì nước Trời đã gần đến", vẫn luôn có tính chất thời sự của Tin Mừng. Sự quyết tâm hoán cải, trở về cùng Chúa Kitô là con đường dẫn đưa Giáo Hội đến sự hiệp thông hữu hình trọn vẹn vào thời kỳ Thiên Chúa thiết định. Các cuộc gặp gỡ đại kết trong thời gian gần đây gia tăng trên thế giới là một dấu chỉ chứng tỏ điều đó.
Trước giờ Kinh Truyền Tin trưa Chúa nhật 23/1/2011, Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI đưa ra lời kêu gọi sau đây: "Ngày nay cũng vậy, để trở thành dấu chỉ và phương thế kết hiệp sâu xa với Thiên Chúa trong thế giới, các tín hữu Kitô chúng ta phải xây dựng cuộc sống trên 4 cột trụ, đó là: cuộc sống trên nền tảng đức tin của các Tông Ðồ được chuyển lại trong Truyền Thống sinh động của Giáo Hội, tình hiệp thông huynh đệ, Thánh Thể và kinh nguyện. Có thế, Giáo Hội mới được kết hiệp bền vững với Chúa Kitô và chu toàn sứ mạng của mình, dù có những chia rẽ như thánh Phaolô Tông Ðồ nói đến: "Hỡi anh em, tôi khuyên nhủ anh em tất cả hãy đồng tâm hiệp ý trong lời nói, để không có sự chia rẽ nơi anh em, nhưng hãy kết hiệp trọn vẹn trong tư tưởng và cảm thức" (1 Cr 1,10). Thực ra Thánh Tông Đồ đã biết trong cộng đoàn Kitô ở Côrintô, đã nảy sinh những bất thuận và chia rẽ; vì vậy, ngài nghiêm nghị viết thêm rằng: "Phải chăng Chúa Kitô bị chia rẽ sao?" (1,13). Ngài quả quyết mọi chia rẽ trong Giáo hội là làm xúc phạm đến Chúa Kitô, Thủ Lãnh duy nhất và là Chúa, chúng ta luôn luôn có thể tái hiệp nhất, nhờ sức mạnh vô tận của ơn thánh Chúa.
Theo giáo huấn của thánh Phaolô, chúng ta được mời gọi loại bỏ gương mù chia rẽ nơi chúng ta để mang sứ điệp của Chúa Kitô Phục Sinh cho tất cả mọi người. Chúng ta hãy cầu nguyện xin Chúa cho sớm đến ngày Giáo Hội được hoàn toàn hiệp nhất. Amen.
8. Ơn Cứu Độ--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.
“Đức Chúa là ánh sáng và ơn cứu độ của tôi, tôi còn sợ chi ai” (Tv. 27). Thiên Chúa không chỉ là Đấng cứu độ người, nhưng Ngài còn là Đấng đong đầy mọi khát vọng của con người. Nơi Ngài, con người được hạnh phúc trọn vẹn và đích thực.
1. Ơn cứu khỏi chết và ơn được sống hạnh phúc
Một người cầm chắc cái chết, chẳng hạn bị bệnh nan y không thể chữa nổi nữa, hay bị tai nạn đắm tàu sắp chết chìm, nhưng nếu họ được cứu thoát chết: đó là ơn cứu mạng. Ơn cứu độ, là ơn cứu sống. Trong cuộc sống, ai cũng mang ơn cha mẹ sinh ra mình, đó là ơn sinh thành. Ơn sinh thành là ơn có một không hai; vì không ai được sinh ra về thể lý hai lần. Ơn cứu mạng, cũng quý như ơn sinh thành, vì nếu không người đó đã bị chết. Khi người nào cứu sống được ai đó, người đó sẽ được biết ơn đến như thế nào!
Tuy vậy, nếu sống mà không hạnh phúc con người cũng chẳng muốn sống. Có một số người sống không hạnh phúc, nên họ muốn tự tử. Trong cuộc sống có một số người thất tình, họ không muốn sống nữa! Có một số người vì bị bệnh nặng, đau đớn nhiều, họ cũng muốn chết. Có những người vì bị bệnh mà phải làm phiền người khác, họ muốn chết vì không muốn làm phiền người khác. Như vậy, sống chưa phải là một ơn trọn vẹn, nếu đó không phải là sống hạnh phúc. Ơn cứu độ hàm nghĩa ơn cứu sống, và cũng là ơn sống hạnh phúc nữa.
Hạnh phúc hay không phần lớn tùy ở mình. Tuy nhiên con người cũng bị ảnh hưởng bởi người khác nữa; chẳng hạn trong đời sống gia đình, nếu người vợ tuyệt vời mà gặp người chồng “không biết mình chẳng biết người”, thì người vợ đó cũng khó hạnh phúc. Trong đời sống tu trì, nếu có người cùng cộng đoàn khó tính và thiếu trưởng thành, thì đời sống của những người khác cũng bị ảnh hưởng. Tuy dù những yếu tố thể lý ảnh hưởng trên tâm lý, con người với hiểu biết đúng đắn, vẫn có thể hạnh phúc, hay ít nhất bớt khổ, trong một mức độ nào đó. Chẳng hạn nếu chấp nhận người khác và chấp nhận khả năng giới hạn của mình, con người sẽ hạnh phúc hơn.
Hạnh phúc là tình trạng và cảm xúc của một người, nên chính người đó là một yếu tố quan trọng không thể thay thế được! Hơn nữa, dường như ở trên trần thế này, không có hạnh phúc trọn vẹn. Vì khi sống trên trần thế này, mạng sống con người có thể bị người khác cướp đi, điều quý nhất của mình cũng có thể bị người khác lấy mất bằng vũ lực và cưỡng đoạt. Vậy làm sao mình có thể hạnh phúc được! Hơn nữa, với thời gian, con người biến đổi: già và bệnh tật. Lực bất tòng tâm. Làm sao con người hạnh phúc! Dường như hạnh phúc trọn vẹn chỉ có ở “đời sau”.
Hạnh phúc trọn vẹn chỉ có ở đời sau. Hạnh phúc con người cũng là một ơn Thiên Chúa ban cho người nữa. Tuy nhiên Thiên Chúa luôn muốn con người sống hạnh phúc trọn vẹn với Ngài, bây giờ và mãi mãi.
2. Thiên Chúa là Đấng cứu độ con người
Thiên Chúa, Đấng yêu thương con người. Ngài luôn nghe tiếng con người khẩn nài và lưu tâm cứu giúp con người. Ngài trợ giúp con người ngay trong những gì thuộc phạm vi trần thế: Ngài cứu giúp dân Do Thái khi họ không còn có thể trông chờ nơi ai khác. Thiên Chúa bênh đỡ những người khốn khổ và bị áp bức, khi họ chỉ còn có thể trông chờ nơi Ngài thôi.
Lịch sử dân Do Thái cho thấy Thiên Chúa nghe tiếng dân cùng khổ khẩn cầu, và Ngài đã dùng Môsê để giải phóng họ. Thiên Chúa đã nghe tiếng kêu xin của bà Anna người hiếm con, và cho bà người con trai rất tuyệt là Samuel. Thiên Chúa đã thương bà goá nghèo không lương thực, đã nuôi bà cùng người con và tiên tri Elia trong thời gian dài đói kém.
Thiên Chúa yêu thương yêu tha thứ tội lỗi cho con người. Ngài ban Đức Yêsu cho con người, để qua Đức Yêsu con người hiểu biết hơn về Thiên Chúa. Đức Yêsu là bằng cớ cho thấy Thiên Chúa yêu thương và tha thứ cho con người. Qua Đức Yêsu con người cũng nhận ra con đường phải theo để sống hạnh phúc.
3. Đức Yêsu là Đấng cứu độ: Đấng giúp con người sống hạnh phúc
Đức Yêsu, mẫu gưong giúp con người sống hạnh phúc. Đức Yêsu đã sống trong cảnh nghèo như những người nghèo đã sống; Ngài cũng hẩm hiu trong cảnh nghèo hèn ít học. Tuy vậy, Ngài vẫn “triển nở và hạnh phúc” trong cuộc sống. Người nghèo, chưa phải là người không hạnh phúc. Những em bé nghèo, không phải là những em bé bất hạnh hơn những em bé giầu. Có nhiều em bé nhà giầu, nhưng không được cha mẹ chăm sóc đủ, đã buồn phải bỏ nhà ra đi, và đôi khi hoang phí cả đời. Cũng có những em bé nhà giầu và được cưng chiều săn sóc quá mức, đã không có tự do để triển nở về mọi mặt.
Nhiều người không thành công, và Đức Yêsu cũng không thành công trên đường đời, trong giảng dạy. Lúc đầu Đức Yêsu có vẻ thành công, được người ta theo và nghe nhiều, nhưng với thời gian và đòi hỏi của Tin Mừng, người ta đã bỏ Ngài. Trong mọi trường hợp, Ngài vẫn yêu thương mọi người, ngay cả những người thù ghét Ngài. Ngài chấp nhận tất cả. Chấp nhận, là một yếu tố để sống bình an và hạnh phúc.
Cái chết trên thập giá của Đức Yêsu, một lần nữa cho con người biết rằng, hạnh phúc đích thực chỉ trọn vẹn ở đời sau. Hạnh phúc đích thực, là hậu quả và là phần thưởng cho những người sống theo gương Đức Yêsu. Thiên Chúa là ơn cứu độ cho tất cả mọi người.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Bạn có cảm nghiệm bất hạnh hoặc đau khổ bao giờ chưa? Xin bạn chia sẻ!
2. Theo bạn, con người hạnh phúc nhất khi nào?
3. Bạn có bí quyết để sống bớt khổ và hạnh phúc không? Xin bạn chia sẻ.
9. Đức Giêsu đến ở Caphácnaum--Lm. Trầm Phúc
Chúa Giêsu bắt đầu thi hành sứ vụ rao giảng của Ngài. Ngài được Gioan Tẩy Giả giới thiệu. Sau khi Gioan bị cầm tù, Chúa Giêsu tiếp tục rao giảng, nhưng Ngài muốn lánh mặt về xứ Galilê, tới thành Caphacnaum là một thành phố lớn để tránh gây xôn xao trong dân, vì việc Gioan bị tù ai cũng biết. Nhưng khi nói đến miến Bắc Galilê, thánh Matthêu không chỉ nói đến một chi tiết địa dư mà muốn nhấn mạnh đến tầm rộng lớn của sứ mệnh Chúa Giêsu. Vì thế thánh nhân đã dùng một câu của Tiên tri Isaia nói về các dân tộc đang “ngồi trong vùng bóng tối của tử thần” đã thấy một ánh sáng huy hoàng để cho thấy Tin Mừng phải được lan rộng đến mọi dân tộc. Ngay từ đầu, khi Chúa Giêsu mới bước ra rao giảng, thánh Matthêu đã cho thấy tính cách phổ quát của Tin Mừng và khi kết thúc sách Tin Mừng, thánh nhân cũng nói đến điều đó: “Chúng con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi dân tộc”.
Lời rao giảng đầu tiên của Chúa Giêsu là tiếp nối công cuộc của Gioan Tẩy Giả: “Anh em hãy ăn năn sám hối, vì Nước Trời đã đến gần”. Nhưng lời kêu gọi của Chúa không giống như của Gioan, xem Nước Trời như thời cuối cùng và là ngày xét xử. Kẻ lành, người dữ phải được xét xử phân minh. Người tội lỗi sẽ lãnh án phạt. Chúa Giêsu mời gọi ăn năn sám hối mà không đe dọa. Ngài thân tình mời gọi tất cả mọi người không trừ ai. Đó là con đường chắc chắn nhất để tìm Nước Trời. Chúng ta cũng như người Do Thái xưa, phải đi vào con đường hoán cải mới có thể nhìn thấy hồng ân Chúa.
Nghe nói đến Nước Trời, chúng ta thường nghĩ là một không gian nào đó, rộng lớn như nước Mỹ hay Trung Quốc. Không, Nước Trời chính là Chúa Giêsu, Đấng gánh tội trần gian, Đấng mang lại sự sống mới trong Thánh Thần, vì chỉ có một Danh duy nhất, vì “không có một Danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ Danh đó mà được cứu độ”. Muốn được Nước Trời đó, chúng ta phải đi vào con đường sám hối mà thôi. Chúng ta được sinh ra trong tội, chúng ta vẫn là người tội lỗi, chính Đức Thánh Cha vẫn tuyên xưng rằng ngài là người tội lỗi. Chúng ta cần hoán cải để được tha thứ, để đón chờ Nước Trời.
Nhưng ăn năn sám hối là gì? Chúng ta chỉ nói vài câu tỏ ra hối tiếc tội lỗi mình rồi thôi hay sao? Ăn năn sám hối đâu chỉ là một vài lời than thở, là một việc làm qua loa lấy lệ! Mà là một thái độ nội tâm thành thực, nhìn biết một cách rõ ràng tội lỗi của mình và thật tâm muốn từ bỏ những gì xấu xa mình đã làm và cương quyết muốn sửa đổi để nên tốt hơn, để sống theo lời Chúa hơn. Có thể nói là một cuộc đổi hướng để trở về với Chúa.
Người Do Thái chỉ biết lo buồn vì những lỗi phạm của họ, nhưng chúng ta thì khác. Việc sám hối của chúng ta mang một chiều sâu mới vì đã có Chúa Giêsu. Ăn năn sám hối là một hồng ân chứ không là một hành vi cá nhân của một người. Hồng ân này là do tình yêu. Hối nhân ăn năn vì muốn yêu mến Chúa thì chính Chúa sẽ ban cho họ một tâm tình thống hối chân thật trào dâng từ bên trong chứ không là những cảm giác bên ngoài. Ăn năn thống hối là một tâm tình phát xuất từ tình yêu. Ăn năn sám hối là từ bỏ những việc xấu xa để trở về với tình yêu của Chúa, đón nhận lại tình yêu mà chúng ta đã bỏ quên, đón nhận lại chính Đấng đã yêu chúng ta trước. Đó chính là ăn năn thống hối chân thực.
Chúng ta có cần ăn năn sám hối như Chúa đã kêu gọi không? Hay chỉ hời hợt nói vài câu than thở rồi yên tâm? Nhiều người không cảm thấy cần ăn năn gì cả vì họ nghĩ rằng họ không có tội gì nhiều, chỉ có một vài lỗi nhỏ thôi, và lại có rất nhiều công nghiệp như người Pharisêu kia, đứng trước bàn thờ Chúa huênh hoang tự đắc: tôi làm được nhiều việc lành, ăn chay, bố thí mà quên rằng có một khối kiêu căng khổng lồ đang che mất ánh sáng. Rất nhiều tín hữu đã rơi vào tâm trạng công chính giả hiệu đó mà không bao giờ biết thống hối ăn năn, tự cho mình bằng khen công chính.
Các thánh thường dạy chúng ta sống trong tâm tình thống hối luôn, không phải để bôi đen cuộc sống nhưng để làm cho nó luôn trong sáng càng ngày càng hơn. Các thánh cũng dạy chúng ta trở về với Chúa mỗi ngày để chỉ có Chúa là đích điểm chú ý của chúng ta mà thôi, căng thẳng về Chúa như vụn sắt hướng về nam châm, cuộc sống chúng ta mới sáng tươi rực rỡ. Đó là ý định yêu thương của Chúa. Chúng ta hãy nghe lời Chúa: “Hãy ăn năn sám hối”.
Sau đó Chúa Giêsu đi dọc theo bờ biển hồ và kêu gọi mấy người chài lưới. Thánh Matthêu nói hai lần: “Lập tức, các ông bỏ chài lưới… bỏ cha lại mà theo Người”.
Lập tức, nghĩa là không tính toán, không so đo hơn thiệt. Chúng ta có nghĩ rằng tại sao các ông dám theo một người mà họ chưa biết người đó là ai không? Tại sao họ có thể quyết định một cách bất ngờ như vậy? Không tính trước, không suy nghĩ. Trong tình trạng đó, chúng ta dám không? Họ nghĩ về người đó như thế nào mà dám liều như thế? Chúng ta không thể trả lời và đây phải chăng là một mầu nhiệm?
Theo Ngài để làm gì? Để lưới người. Họ chỉ biết bao nhiêu đó, và họ có biết lưới người là gì không? Họ không biết gì cả, nhưng họ tin vào người đã gọi họ. Họ nhìn nhận nơi người đó có một cái gì đó hấp dẫn họ. Tiếng gọi của Ngài như một mệnh lệnh chứ không chỉ là một lời mời gọi suông: “Hãy theo Ta”. Và họ bỏ mọi sự mà theo Ngài. Abraham chỉ nghe một tiếng nói: “Hãy ra đi” và ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu. Môsê ít ra cũng còn thấy bụi gai trong đám lửa hỏa hào và một tiếng gọi. Ông vâng phục. Tiên tri Giêrêmia đã đối thoại với Chúa và sau cùng đã vâng theo. Tiên tri Isaia đã nhìn thấy vinh quang Chúa trong Đền thờ và Chúa đã kêu gọi ông, ông đã chấp nhận. Chúng ta có được kêu gọi không?
Chúa mời gọi mọi người tùy theo hoàn cảnh riêng của mỗi người, nhưng mỗi người đều được mời gọi. Ngày chúng ta được bước vào Giáo hội qua Bí tích Thánh Tẩy, đó là một tiếng gọi và mỗi ngày tiếng gọi ấy vẫn vang lên trong tâm hồn chúng ta: “Hãy theo Ta”. Chúng ta có lắng nghe không? Chúng ta có biết rằng Chúa vẫn ân cần mời gọi chúng ta đi theo Ngài để lưới người không? Chúa vẫn tôn trọng tự do của chúng ta, Ngài mời gọi mà không ép buộc. Nhưng lắm khi chúng ta không lắng nghe tiếng Ngài. Chúng ta ngại bỏ mọi sự, vì chúng ta không biết Chúa là ai, chúng ta tiếc hành tỏi, những nồi thịt ngon Ai Cập.
Có những người như các tông đồ, bỏ mọi sự mà theo Ngài, nhưng có những người theo Ngài mà vẫn sống trong môi trường của mình, trong gia đình, mà vẫn từ bỏ mọi sự, nghĩa là không bám víu vào trần thế. Họ vẫn sống cho Chúa trong thực tế của đời sống mình. Những người này là đa số, và chính họ là muối đất, là men trong bột. Giáo hội cần và rất cần những người đó. Ai nghe tiếng Chúa mời gọi và đi theo Ngài, dù ở đâu, trong môi trường nào, họ vẫn tham dự vào việc “lưới người ta” của Giáo hội. Mọi người đều được mời gọi vào làm vườn nho của Chúa. Chỉ cần thiện chí và dấn thân. Dù là giờ thứ mấy Chúa vẫn có việc làm cho họ. Vinh dự cho chúng ta biết bao, dù chúng ta chỉ là những tay chài lưới nhỏ hèn Chúa vẫn có thể giúp ích cho các linh hồn!
Hôm nay, tiếng gọi ấy vẫn còn vang vọng trong mỗi tâm hồn. Hôm nay, chúng ta sẽ làm gì cho Chúa? Đừng mặc cảm vì chúng ta nhỏ hèn hay dốt nát. Trong tay Chúa, mọi người đều có giá trị. Chúa biết sử dụng những gì Ngài đã tạo nên, miễn là chúng ta không cưỡng lại tiếng gọi.
Hôm nay Ngài có mặt. Ngài mời chúng ta theo Ngài thì chính Ngài lại đến trong chúng ta, trở nên bánh để chúng ta ăn và nhờ tấm bánh thần linh này, chúng ta được mạnh sức, đủ can đảm để thưa với Ngài: “Này con đây, xin Chúa hãy sai con”.
10. Ánh sáng trần gian--Lm. Minh Vận, CRM
Trong câu truyện tâm tình, một người bảo trợ, đúng hơn là một vị ân nhân người Mỹ, đã nói với hai vợ chồng anh chị người Việt Nam: "Không biết vì tội gì của cha ông các bạn, mà ngày nay người dân Việt Nam các bạn phải lưu lạc khắp thế giới, giống như dân Do Thái xưa vì tội giết Chúa Cứu Thế mà họ đã phải đầy ải đi khắp thế giới? Phải chăng vì tội của vua chúa các bạn đã bách hại Đạo Công Giáo, đã giết chết biết bao Tín Hữu? Điều đó không ai trong chúng ta dám quyết đoán, nhưng có một điều rất quan trọng mà tôi dám quả quyết là: Chúa dùng cách thế đó để gởi các bạn đến đất nước này, cũng như tới các dân tộc khác trên khắp thế giới, để các bạn đem Đức Tin, lòng đạo đức và lòng tôn sùng Đức Trinh Nữ Maria đến cho chúng tôi và cho các dân tộc khác. Cũng như Giáo Hội Công Giáo hồi sơ khai, các Tín Hữu bị vua chúa bắt bớ, tầm nã, cấm cách, nên đã phải trốn tránh nay đây mai đó, tản mát đi khắp nơi khắp chốn; bởi nhờ sự bắt bớ này, mà các Tín Hữu có cơ hội, đi tới đâu họ truyền bá Đức Tin, đem Tin Mừng Cứu Rỗi của Chúa tới đó, khiến các dân tộc được mau chóng nhận biết Chúa và tôn thờ phụng sự Người.
I. CHÚA KITÔ ÁNH SÁNG CỦA THIÊN CHÚA
Bài sách tiên tri Isaia hôm nay đã tiên báo: Đang lúc các dân tộc bước đi trong miền u minh và bóng tối sự chết, thì xuất hiện một luồng sáng vĩ đại chiếu soi họ. Luồng sáng vĩ đại đó là chính Chúa Kitô, Đấng Thiên Sai đã nhập thể làm người, đến trần gian để chiếu soi nhân loại đang ngụp lặn trong vực thâm u của mê tín, dị đoan, tin vơ, thờ quấy, tôn thờ tà thần ngẫu tượng... Ngài ban cho nhân loại niềm hân hoan phấn khởi và vui sướng, vì Ơn Cứu Độ của Chúa đã gần đến, như lời đáp ca chúng ta vừa nhắc đi nhắc lại: "Chúa là Sự Sáng, là Đấng Cứu Độ tôi! Chúa là Đấng Phù Trợ đời tôi, tôi sợ gì ai!"
Chúa Kitô đã tuyên bố: "Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống"(Jn 14:6). Chúa đến để giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ tội lỗi và quyền lực Satan hỏa ngục, tỏ cho chúng ta thấy con đường về với Thiên Chúa; Người cũng chỉ cho chúng ta biết những chân lý chúng ta phải tin để làm lẽ sống hướng dẫn cuộc đời, giúp chúng ta sống một cuộc sống có ý nghĩa, một cuộc sống có lý tưởng, để đạt tới một cứu cánh cao cả tuyệt đối. Người ban cho chúng ta sự sống vĩnh cửu, sự sống siêu nhiên, sự sống ơn nghĩa thánh của con cái Thiên Chúa. Vì Chúa Kitô là Đàng chúng ta phải theo, là Sự Thật chúng ta phải tin kính, là Sự Sống chúng ta phải nương nhờ. Thánh Mathêu nhắc lại lời tiên tri Isaia để chứng minh Chúa Kitô là Ánh Sáng trần gian khi ngài viết: "Muôn dân ngồi trong bóng tối tăm đã thấy Ánh Sáng huy hoàng, Ánh Sáng đã xuất hiện cho người ngồi trong bóng tối sự chết". Chính Chúa Kitô cũng đã quả quyết: "Ta là Ánh Sáng trần gian, ai theo Ta sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ được Ánh Sáng ban sự sống soi chiếu" (Jn 8:12).
II. CHÚNG CON LÀ ÁNH SÁNG TRẦN GIAN
Giáo Hội đã ý thức sứ mạng Chúa ủy thác là tiếp tục đem Ơn Cứu Độ của Chúa đến cho các linh hồn, nên qua Công Đồng Vaticanô II, Giáo Hội đã tự nhận mình là Ánh Sáng các dân tộc" (Lumen Gentium). Sứ mạng đem Ơn Cứu Độ đến cho các linh hồn là bổn phận khẩn thiết của mỗi người chúng ta, vì chính Công Đồng đã quả quyết: "Ơn gọi làm Kitô Hữu tự bản chất cũng gọi là ơn gọi làm tông đồ" (Apos Act # 2). Công Đồng còn giải thích thêm: "Giáo Dân làm tông đồ là thông phần vào chính sứ mạng Cứu Độ của Giáo Hội. Mỗi Tín Hữu đều được Chúa đề cử làm tông đồ qua việc lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy và Thêm Sức. Các Bí Tích, nhất là Bí Tích Thánh Thể thông ban và nuôi dưỡng trong họ Đức Ái đối với Thiên Chúa và đối với loài người, nhân đức này là linh hồn của mọi hoạt động tông đồ" (Lumen Gentium #33). Công Đồng còn nhấn mạnh hơn nữa sứ mạng Tông Đồ của chúng ta khi viết: "Mỗi Môn Đệ của Chúa Kitô tùy theo địa vị của mình đều có bổn phận góp phần truyền bá Đức Tin" (Lumen Gentium #17).
Đem Đức Tin đến cho tha nhân là mệnh lệnh Chúa truyền: "Các con hãy làm chứng nhân cho Thầy" (Lc 24: 48). Chúa cũng phán dạy chúng ta như đã phán với Thánh Pherô: "Con hãy củng cố Đức Tin cho anh em con". Và: "Các con hãy đi làm vườn nho cho Thầy" (Lc 22:31-32). Hơn nữa, Chúa còn quả quyết với chúng ta: "Các con là muối địa cầu, là ánh sáng trần gian" (xem Mt 5:13-16).
Những lời Chúa truyền trên đây như mệnh lệnh cấp bách và thôi thúc, để chúng ta ý thức sứ mạng của chúng ta là phải nỗ lực thực thi thế nào cho xứng với ơn gọi và sứ mạng cao cả Chúa ủy thác. Làm vinh danh Chúa còn là bổn phận do Đức Công Bằng và Bác Ái đòi buộc chúng ta phải có đối với anh chị em đồng loại. Như Thánh Phaolô, chúng ta hãy tự răn mình: "Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng của Chúa cho anh chị em tôi, bằng chính đời sống gương mẫu thánh thiện của tôi" (xem 1 Cor 9:16).
Kết Luận
Chúng ta hãy thực thi lời Chúa đã truyền dạy: "Các con hãy làm việc thiện để cho nhân loại thấy các việc các con làm mà ngợi khen Cha các con trên trời" (Mt 5:16).
Cần thiết, chúng ta hãy lợi dụng mọi cơ hội, mọi hoàn cảnh thuận lợi để làm vinh danh Chúa, để xây dựng Cộng Đồng và Giáo Hội, bằng mọi phương thế Chúa ban và nhất là bằng đời sống thánh thiện gương mẫu của mỗi người chúng ta.
11. Ánh sáng
Trong một cuộc oanh tạc miền Bắc Việt Nam, một chiến đấu cơ đã bị bắn rớt, và anh phi công bị bắt. Trong 6 tháng đầu, anh bị biệt giam trong một căn phòng hoàn toàn tối tăm. Chỉ sau 2 tuần, anh bắt đầu cảm thấy như mất trí, và hầu như không còn nghị lực để sống. Ngày kia, anh tình cơ nhìn thấy một tia sáng lờ mờ chiếu qua một lỗ rất nhỏ trên tường. Nhờ tia sáng lờ mờ đó, tâm trí anh từ từ trở lại bình thường, và anh tìm lại được sức mạnh để sống.
Ánh sáng rất cần thiết cho con người, đặc biệt cho con người ngày nay. Những ai đã từng pải chịu cảnh mất điện sau những cuộc động đất hay những trận bão mới cảm thấy khó chịu đến thế nào, nhất là phải chịu cảnh tối tăm khi màn đêm buông xuống.
Xét về mặt tự nhiên, con người đã cần ánh sáng, sự cần thiết ấy còn mãnh liệt hơn trong đời sống siêu nhiên. Từ khi con người phạm tội, nhân loại bị chìm sâu trong bóng đêm của tội lỗi và những hậu quả của tội. Họ mãi chờ mong cho đến ngày được giải thoát. Nhưng khi sự giải thoát đến trong Đức Kitô, thì con người lại chối từ ánh sáng Chúa ban, vì con người thích sống trong bóng tối tội lỗi hơn trong ánh sáng ơn nghĩa Chúa (Ga 3,19).
Ngày Adong và Evà phạm tội là khởi đầu của một lịch sử con người trốn tránh Thiên Chúa, thay vì tìm đến Ngài để được ơn tha thứ. Ma quỷ tinh khôn trong vấn đề kìm kẹp con người dưới xích xiềng của tội lỗi. Lúc đầu, hắn cám dỗ cho con người phạm tội. Sau khi phạm tội rồi, hắn gieo vào lòng tội nhân những tư tưởng thất vọng, vì cảm thấy không xứng đáng được ơn tha thứ hay không thể thoát vòng tội lỗi. Rồi từ đó, hắn làm cho tội nhân không còn cảm thấy áy náy khi phạm tội. Lần đầu đánh bạc, mất mấy chục đã cảm thấy chua xót, nhưng rồi từ từ mất xe, mất nhà cũng chẳng thấy áy náy là bao. Chính vì thế, để tiến vào ánh sáng, việc đầu tiên là phải nhận ra thực trạng tội lỗi và bất toàn của mình. Vì chỉ khi đó, con người mới được tận hưởng sự tự do của con cái Chúa, vì không những họ sẽ được giải thoát khỏi tội lỗi, mà còn được ánh sáng huy hoàng của Chúa đem hy vọng cho tâm hồn, đem ý nghĩa đến cho cuộc đời, và sau cùng, được dự phần vĩnh phúc quê trên trời.
Trước hết, ánh sáng Chúa Kitô giải thoát con người khỏi tội lỗi. Nhân loại từ nay đã đổi chủ. Trước kia, con người làm nô lệ cho tội lỗi; nay nhờ sự chết và phục sinh của Chúa Kitô, Thiên Chúa đã bẻ gãy xiềng xích tội lỗi, để tuỳ nay con người có Thiên Chúa là Cha. Tin Mừng cứu độ của Chúa soi sáng cho con người biết đâu là thiện là ác, vì Chúa Kitô là Đường, là Sự Thật và Sự Sống. Trong mọi cảnh huống của cuộc đời, Chúa soi sáng cho tâm hồn biết chọn điều thiện và tránh điều ác. Chính Chúa cũng là sức mạnh giúp con người chiến thắng tội lỗi. Ánh sáng Chúa cũng đem lại niềm hy vọng cho những ai đang bị đè bẹp bởi những đau khổ của cuộc đời. Thế kỷ 21 này đem lại nhiều tiện nghi vật chất cho con người, nhưng những cảnh khổ đau, chiến tranh, hận thù, đói khát, vẫn còn xuất hiện khắp nơi. Chúa Kitô luôn kêu mời con người hãy đến với Người: “Hỡi những ai mỏi mệt và gánh nặng hãy đến cùng Ta, Ta sẽ bổ sức cho các ngươi” (Mt 11,28). Chúa ban niềm hy vọng cho những ai phải đón nhận số phận phải chết, vì Chúa hứa ban phúc trường sinh cho họ (Ga 6,40). Trong những giây phút khổ sầu này, chính ánh sáng Chúa sẽ đem lạ sự bình an và ý nghĩa cho cuộc đời con người.
Cũng như một tia sáng nhỏ cũng đủ đem lại hy vọng và sức sống cho một tù nhân, ước chi ánh sáng Chúa Kitô giải thoát chúng ta khỏi bỏ đàng tội lỗi, và đem lại nguồn hy vọng và sức sống cho cuộc đời của chúng ta.
12. Chúa Nhật 3 Thường Niên
Xét về địa lý thì nước Do Thái chia làm 3 miền. Miền Nam gọi là Giuđêa. Miền Trung là Samaria. Miền Bắc gọi là Galilêa. Thủ đô Giêrusalem thuộc về miền Nam. Đây là trung tâm chính trị và tôn giáo. Vua Hêrôđê đóng đô ở Giêrusalem. Đền thờ Giêrusalem là trái tim của dân tộc Do Thái. Hằng năm mọi người tuôn về Giêrusalem dự lễ. Đây cũng là nơi quy tụ quyền lực tôn giáo, nơi đây có dinh của thầy cả Thượng phẩm, các luật sĩ, Biệt phái....Người ta coi Giêrusalem là đền thờ duy nhất, đạo ở Giuđêa là chính thống. Họ tẩy chay người Samaria vì coi Samaria là người ngoại giáo, vì Samaria xây cất đền thờ riêng trên núi Garizim. Dân Giuđêa không bao giờ đi lại tiếp xúc với dân Samaria. Còn miền Galilêa ở phía Bắc, tuy không có đền thờ đối nghịch, nhưng bị dân Giuđêa khinh miệt vì đó là nơi pha tạp đủ mọi sắc dân, là đất của dân ngoại.
Vào thời Đức Giê-su, đạo Do Thái chỉ còn là cái vỏ bên ngoài. Đa số các tín hữu chỉ còn giữ đạo một cách hình thức. Họ đặt quá nặng việc tham dự những lễ nghi tôn giáo, những vẻ thấy được bên ngoài. Vì thế, lễ nghi thì ngày càng gia tăng vẻ long trọng, luật lệ ngày càng nhiều, càng phức tạp, các cơ sở vật chất cũng gia tăng. Họ coi thường giới răn mến Chúa yêu người. Các nhà lãnh đạo tôn giáo chỉ còn là những người thích ăn mâm cao cỗ đầy, hưởng thụ những quyền lợi mà luật lệ tôn giáo đã dành cho (Mt 23, 6 - 7), nhiều khi lại cấu kết với thế quyền để đàn áp bóc lột dân chúng (Mt 23, 14). Họ dạy người khác làm những điều tốt đẹp mà chính họ lại không chịu làm (Mt 23, 3). Nhiều khi họ không biết cái nào là cái chính cái nào là cái phụ trong tôn giáo (Mt 23, 16 - 22) để dạy người ta giữ: nên cái chính yếu thì bị coi nhẹ, còn cái phụ thì lại được quan trọng hóa lên. Vì thế, họ trở thành những kẻ "dẫn đường mù quáng" (Mt 23, 24).
Khởi đầu sứ vụ công khai, Đức Giêsu đã không Giêrusalem là điểm xuất phát, bởi vì các thầy thượng tế, luật sĩ, biệt phái đã chai đá, luôn tìm cách bắt bẻ, chứ không đón nhận giáo lý của Người. Người đã chọn Galilêa, vì nơi đây là một vùng quê nghèo khiêm tốn, nhưng dân cư thuộc đủ mọi chủng tộc, đã biết mở rộng đón nhận giáo lý của Người. Người đã chọn Galilêa vì ở đây không có loại trừ, nhưng mọi người biết đón nhận lẫn nhau, sống hòa thuận. Người đã chọn Galilêa, vì đây là vùng đất bị khinh miệt, dân cư bị gạt ra ngoài lề xã hội. Ngay từ buổi ban đầu Đức Giêsu đã không để giáo lý của Người bị đóng khung trong bốn bức tường đền thờ, bị giới hạn trong một khung cảnh địa lý và dành riêng cho một giai cấp.
Ngay từ buổi ban đầu Đức Giêsu đã vạch ra cho Giáo Hội một đường hướng. Đó là ra đi, ra đi không ngừng nghỉ, ra đi đến với mọi người thuộc đủ mọi chủng tộc, ngôn ngữ,... Đó là đi sứ mạng của Đức Giê-su, sứ mạng canh tân tôn giáo trên tình yêu. Thế nên, các môn đệ mà Ngài chọn để làm cộng sự viên với Ngài trong cuộc canh tân này, cũng không phải là người Giuđêa mà đều là người Galilê. Việc lựa chọn môn đệ của Chúa Giêsu cũng rất độc đáo. Người không chọn lựa môn đệ trong đền thờ, Người lựa chọn những người đang tất bật làm việc. Người không lựa chọn bậc trí thức, thông kinh hiểu luật, nhưng lựa chọn những anh thuyền chày đơn sơ. Ý định truyền giáo của Người rất rõ ràng. Người lựa chọn những người dám mạo hiểm, sẵn sàng từ bỏ, không do dự. Người lựa chọn những người có trái tim mở rộng, biết hy sinh quên mình, không bám víu vào một điểm tựa nào, dù là lề luật, dù là đền thờ, dù là kiến thức. Buông tất cả để chỉ nắm lấy Thiên Chúa. Bỏ tất cả để chỉ được đi theo Chúa.
Các ông là những ngư dân ít học, mặc dù theo đạo Do Thái, nhưng biết rất ít những kiến thức tôn giáo. Đức Giê-su đến đã làm thay đổi: tinh thần mới, quan niệm mới, lề luật mới, cơ cấu mới, v.v... Sự thay đổi này đã gây nên một sự phản kháng mạnh mẽ nơi giới trí thức, giới lãnh đạo trong Do Thái giáo. Chắc chắn họ có lý của họ, và cái lý ấy cũng dựa rất chắc chắn trên nền tảng Kinh Thánh! Điều đó cho thấy không phải cứ có lý, có nền tảng Kinh Thánh là đủ, mà còn phải có tinh thần của Thiên Chúa, có tình yêu và sự chân thật (Mt 23, 23),
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy: vừa được Đức Giê-su mời gọi, thì Phê-rô và An-rê " lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người". Gia-cô-bê và Gio-an cũng vậy: "lập tức, các ông bỏ thuyền, bỏ cha lại mà theo Người". Họ mau mắn, không chần chừ tính toán ẩn tàng một chút liều lĩnh, phó thác, tin tưởng vào Đức Giê-su. Chính nhờ những đức tính này mà khi được Thánh Thần tác động, các ông trở nên có đủ mọi thứ đức tính, mọi thứ tài năng hơn người, trở nên những tông đồ can đảm, luôn luôn mạnh dạn làm chứng cho Đức Giê-su, không chút sợ hãi (Cv 4, 29. 31; 9, 27 - 28; 18, 26; 19, 8; 28, 31).
Những sự lựa chọn của Chúa Giêsu khiến cho chúng ta thấy: Người yêu thích những tâm hồn rộng mở, biết sống hiền hoà, biết đón nhận anh em. Người yêu thích những tâm hồn đơn sơ nhỏ bé, thích sống đời khiêm nhường bình dị. Người yêu thích những trái tim nồng nàn yêu thương. Đó là những tâm hồn dễ dàng đón nhận và chia sẻ Tin Mừng. Chỉ những thửa đất tốt đó cho hạt giống Tin Mừng nẩy mầm, đơm bông kết trái.
Ngày nay, Đức Giê-su vẫn tiếp tục cần rất nhiều người cộng tác với Ngài. Ngài luôn luôn mời gọi tất cả mọi Ki-tô hữu làm điều ấy. chúng ta có nghe thấy tiếng Ngài mời gọi trong thẳm sâu tâm hồn không? Và chúng ta đáp lại thế nào? Chúng ta "lập tức" chấp nhận, hay còn phải suy nghĩ xem mình có đủ khả năng, có đủ thì giờ, có đủ đức độ không? Nếu chúng ta có đủ khả năng, đủ thì giờ, đủ đức độ như các kinh sư Do Thái xưa, thì chắc hẳn Ngài đã chẳng kêu gọi chúng ta đâu, vì chúng ta sẽ cậy vào sức riêng mình, chứ không nhờ cậy vào Ngài nữa! Chính vì biết chúng ta thiếu tất cả những thứ ấy Ngài mới kêu gọi chúng ta, như đã từng kêu gọi các tông đồ xưa. Điều quan trọng khi đi theo Ngài là chúng ta phải biết rằng mình thiếu những thứ ấy để chúng ta khiêm nhường cậy dựa vào sức của Ngài, chứ không phải sức của mình. Điều lạ lùng và hết sức nghịch lý nhưng lại là thực tế, đó là ta sẽ làm được tất cả khi thật tình nghĩ rằng "không có Thầy, các con chẳng làm gì được" (Ga 15, 5), nhưng "tôi có thể làm được tất cả nhờ Đấng ban sức mạnh cho tôi" (Pl 4,13), vì "đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được" (Lc 1, 37).
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con bắt chước các tông đồ xưa, nghe Đức Giê-su kêu gọi là "lập tức" bỏ tất cả mà đi theo, không suy nghĩ, đắn đo, tính toán. Xin ban cho chúng con tinh thần tin tưởng và phó thác nơi quyền năng vô biên của Cha trong mọi sự. Amen.
13. Ánh sáng thế gian
Chiều hôm ấy, hai cậu bé rủ nhau vào rừng chơi. Thế rồi một trận mưa bất thần đổ xuống. Mưa dai dẳng suốt hai tiếng đồng hồ. Đến lúc tạnh thì trời đã tối. Hai cậu bé vừa lạnh lại vừa sợ. Nỗi sợ hãi càng gia tăng khi hai cậu bé không còn tìm thấy con đường dẫn về nhà. Nhưng rồi một ánh sáng bỗng xuất hiện từ xa. Hai cậu bé khấp khởi mừng thầm. Cả hai đều cố gắng vừa kêu vừa gọi. Thì ra người anh đang cầm chiếc đèn đi tim hai cậu bé. Và cuối cùng đã đưa hai cậu bé trở về an toàn.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay và chúng ta có thể xác quyết: Đức Kitô chính là người anh của chúng ta. Vâng lệnh Chúa Cha, Ngài đã xuống thế, thắp lên một ngọn lửa hầu dẫn đưa chúng ta trở về quê trời. Chính vì thế mà từ ngàn xưa, các tiên tri đã nói: Dân ngồi trong tối tăm đã nhìn thấy ánh sáng huy hoàng. Ánh sáng đã xuất hiện cho những người ngồi trong bóng sự chết.
Thế giới như đang chìm trong tăm tối và nhân loại đã quên mất con đường để trở về nhà. Nhưng rồi Đức Kitô đã đến như một thứ ánh sáng chói loà, xé tan bóng tối hầu soi sáng cho tâm hồn chúng ta. Ngài chính là ánh sáng, như chúng ta đã nghe Kinh Thánh xác quyết: Dân đi trong tối tăm đã nhìn thấy một ánh sáng. Trong phần đáp ca, chúng ta đã thưa lên: Chúa là sự sáng và là Đấng cứu độ tôi. Và cũng theo Kinh Thánh, thì ánh sáng được tựng trưng cho chính Thiên Chúa, như chúng ta vốn thường tuyên xưng: Tôi tin kính một Chúa Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa, Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, Ánh Sáng bởi Ánh Sáng. Chính Ngài cũng đã từng tuyên bố với dân chúng: Ta là ánh sáng thế gian. Ai theo Ta, sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ nhận được ánh sáng ban sự sống.
Đức Kitô là ánh sáng cho mỗi người chúng ta như thế nào? Xin thưa: Tất cả những khó khăn của đời sống đều được giải quyết trong ánh sáng của Đức Kitô. Điều gì là thật và điều gì là giả. Điều gì là thiện và điều gì là ác. Làm thế nào để đạt tới niềm hạnh phúc vĩnh cửu? Thế giới này là gì? Bản thân chúng ta là ai? Chúng ta bởi đâu mà đến và rồi sẽ đi về đâu? Chúa Giêsu sẽ giúp chúng ta tìm kiếm, Ngài soi sáng và hướng dẫn để chúng ta hiểu được những điều đã nêu lên. Với ánh sáng của Đức Kitô, chúng ta sẽ tìm thấy giải đáp thoả đáng.
Ai trong chúng ta cũng đều có những khó khăn, chẳng hạn như: sức khoẻ, kinh tế, cô đơn, tình yêu. Đưa ra vấn nạn thì dễ, nhưng giải quyết được những vấn nạn ấy mới là sự khó và đáng nói. Thế nhưng, một khi chúng ta bước theo Đức Kitô, chúng ta sẽ tìm thấy con đường phù hợp, bởi vì Chúa là đường, là sự thật và là sự sống. Hơn thế nữa, Ngài chính là ánh sáng soi đường dẫn lối cho chúng ta.
14. Ơn gọi.
Như chúng ta đã biết nỗi ưu tư số một trong cuộc sống công khai của Chúa Giêsu là tìm những người cộng tác với mình trong công cuộc rao giảng Tin Mừng và cứu độ trần gian. Chính vì thế mà ngay khi bắt đầu cuộc sống công khai, Ngài đã chọn cho mình những môn đệ.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy, đang lúc đi dọc theo bờ biển, Ngài đã gọi Phêrô và Andrê: Các anh hãy theo tôi. Tôi sẽ làm cho các anh trở thành những kẻ lưới người như lưới cá. Liền sau đó, Ngài cũng đã gọi Giacôbê và Gioan. Thái độ của những môn đệ đầu tiên này thật là mau mắn và dứt khoát. Các ông đã bỏ chài lưới, bỏ ghe thuyền, bỏ cha già mà đi theo Chúa.
Còn chúng ta thì sao? Ngày hôm nay Chúa không hiện ra để kêu gọi chúng ta hay truyền dạy chúng ta phải làm điều nọ, điều kia, nhưng tiếng Chúa vẫn âm thầm gởi đến với chúng ta qua các sự kiện, qua các biến cố cuộc đời. Bởi vì mỗi biến cố là một dấu chỉ của thánh ý Chúa. Mỗi sự việc là một bài toán mà đáp số là sứ điệp Chúa muốn chúng ta đón nhận. Vì thế, cần phải tỉnh thức để nhận ra ý Chúa và sứ điệp của Ngài.
Thực vậy có nhiều người đã nghe được tiếng Chúa, một thứ tiếng vọng lên từ bên trong, tuy âm thầm nhưng rất rõ, mời gọi nhưng không kém phần thúc thách. Đáp lại tiếng Chúa là bước vào một khúc quanh mới của đời mình và từ đó bản thân được đổi khác.
Ơn gọi của Mẹ Têrêsa Calcutta là một thí dụ. Mẹ sinh năm 1910 tại Nam Tư. Năm 18 tuổi Mẹ nhập dòng Đức Bà Lorettô ở Ái Nhĩ Lan. Sau đó được cử sang Ấn Độ để vào tập viện. Mẹ đã cống hiến gần 20 năm trời cho việc dạy môn địa lý tại một trường của nhà dòng dành cho các thiếu nữ thuộc những gia đình khá giả. Nếu Chúa không lên tiếng gọi, thì chắc cuộc đời Mẹ sẽ trôi đi êm đềm bên đám học trò giàu có. Thế rồi vào một ngày nọ, nhân đi qua một đường phố ở Calcutta, Mẹ bắt gặp một người đàn bà đang hấp hối trên vỉa hè. Chuột và kiến đã kéo đến gặm nhấm con người bất hạnh đó. Mẹ liền vực người thiếu phụ tới nhà thương. Mẹ nhất định cứ đứng ở trước cổng cho đến khi người ta mở cửa đón nhận bệnh nhân sắp chết. Từ biến cố này Mẹ cảm nhận được lời mời gọi của Chúa, muốn Mẹ hiến mình cho những kẻ bị bỏ rơi. Và thế là Mẹ xin ra khỏi dòng, đến sống ở một khu vực tăm tối của thành phố. Chắc hẳn lúc đó, Mẹ không ngờ mình sẽ là người sáng lập một hội dòng mới chuyên lo việc bác ái, giúp đỡ những người nghèo khổ.
Lắng nghe và tìm biết ý Chúa qua các biến cố, qua các sự kiện đã đành. Điều quan trọng hơn là có dám đáp trả lời mời gọi của Ngài hay không. Nhiều khi chúng ta đắp tai ngoảnh mặt làm ngơ như không hề nghe thấy tiếng Chúa, để khỏi phải đáp trả, khỏi phải từ bỏ. Bởi vì chúng có quá nhiều những sợi dây vấn vương quấn chặt lấy cuộc đời và bản thân, khiến chúng ta không dễ gì tháo gỡ được. Những sợi dây vấn vương ấy là tiền bạc, địa vị, vui thú... Từ bỏ là đặt mọi sự dưới Chúa, coi Chúa là giá trị tuyệt đối, vượt lên trên tất cả. Và như thế phải có tình yêu mãnh liệt mới có thể từ bỏ lập tực những gì chúng ta đang ôm ấp bởi vì từ bỏ là thước đo tình yêu của chúng ta đối với Chúa.
15. Con người phục vụ
Anh chị em thân mến.
Trong thời buổi kinh tế thị trường, con người được phục vụ tối đa, vì người ta rất tôn trọng khách hàng, xem khách hàng như Thượng Đế, nên sẵn sàng đáp ứng mọi yêu cầu của khách hàng.
Trở về quá khứ không xa lắm, mọi người rất vất vã trong việc trang trí nhà cửa, hay mua sắm những thứ hơi nặng nhọc thì cũng rất e ngại. Ngày hôm nay, tất cả mọi sự đều được phục vụ đến nơi đến chốn. Đồ đạc dù nặng nề đến đâu cũng có người mang đến tận nhà khi có nhu cầu. Việc phục vụ như thế có lợi cho cả hai. Trước tiên có lợi cho người phục vụ: họ được trả công xứng với công việc họ làm. Kế đến là khách hàng được đáp ứng đúng với những gì mình mong muốn. Mọi người biết đáp ứng nhu cầu cho nhau thì tất cả cùng có lợi.
Chúa Giêsu cũng đã nhìn thấy nhu cầu của con người, nên Ngài cũng đã đáp ứng. Không phải chỉ trong những ngày của thời đại hôm nay, mà đã từ rất lâu và rất lâu. Ngài đã đến với con người, không phải chỉ những người ưu tú nhất, nhưng đến với tất cả mọi người, kể cả những người bị khinh dể, bị chê bai và bị chà đạp. Ngài đã đến với họ, đến với những người còn trong u tối. Để như thế, Ngài từ bỏ kinh thành Jérusalem, từ bỏ noi cao sang quyền quý, từ bỏ cả nơi Ngài sinh sống để đến với tất cả mọi người. Đến để mang lợi ích đến cho người khác, đến mà không tìm lợi ích cho mình, đến để phục vụ, để mang ánh sáng chân lý, để cho con người được sống. Ngài đến vì yêu thương nên Ngài bất chấp tất cả. Đó là sứ mạng của Ngài đến trần gian. Những ai biết hối lỗi, biết lắng nghe và biết đón nhận ánh sáng chân lý thì họ sẽ được đáp ứng tất cả. Còn nếu những ai cứ ngoan cố trong pháo đài mình dựng nên, để rồi tự hào, kiêu căng không lắng nghe, không hối cải, thì Ngài đành phải rời bỏ nơi đó mà ra đi.
Là con người ai cũng đều mong ước được phục vụ theo nhu cầu. Nhưng nếu con người không có nhu cầu thì làm sao người phục vụ có thể đáp ứng được, hoặc con người không cần đến người phục vụ, mặc dù nhu cầu vẫn cần thiết nhưng con người không thấy, cũng không muốn được sự cần thiết, vì ngỡ mình đang đầy đủ, đang dư thừa, đang có tất cả nên không cần phải nhờ đến ai. Chính lúc đó, con người đang chết lần chết mòn trong sự thiếu thốn mà họ không biết. Họ bị xa rời tất cả: xa rời môi trường sống, không phải vì môi trường không đáp ứng được cho họ. Nhưng vì họ không cần đến môi trường. Xa rời những người thân, không phải vì những người thân không quan tâm đến họ, nhưng vì họ không cần đến người khác. Xa rời hạnh phúc và bình an. Không phải vì những điều đó không đến với họ, nhưng họ không nhận ra mình thiếu thốn, nên không biết đón nhận. Đó là tâm trạng của những con người mà Chúa Giêsu đã phải đau buồn mà rời xa để đến nơi khác. Họ đang ngoan cố trong sự lầm lạc của mình để không còn nhận ra điểu gì phải lẽ nữa hết.
Mỗi người trong chúng ta đang sống trong thời đại văn minh, chúng ta cũng được một môi trường tương đối thuận lợi để phát triển tài năng trí tuệ. Chúng ta cũng có những niềm tự hào về bản thân và về tất cả những gì mình đang có. Cũng chính vì những gì đang có đó mà nhiều khi chúng ta không còn nhìn thấy được những gì mình không có hoặc chưa có, nên cứ ngỡ rằng mình đang có đầy đủ và không còn thiếu gì hết, vì thế nên không cần phải thay đổi hay thêm điều gì nữa. Chính những lúc đó, chúng ta không còn biết lắng nghe, không còn nhìn thấy mình nữa, mà cứ ngỡ rằng mình đang tuyệt đối. Khi đó chúng ta đang mang tâm trạng của những người không chấp nhận Chúa Giêsu và Ngài đành buồn bã như nổi buồn đối với những người cách đây 2000 năm. Ánh sáng mang đến, nhưng không được tiếp nhận. Bình an mang đến, nhưng không có nhu cầu để cho sự bình an được phục vụ. Hạnh phúc bên cạnh, nhưng không ai biết dùng đến. Không lẽ chúng ta là những người tự hào đang sống trong thời đại mới, thời đại văn minh, mà không nhận ra được những nhu cầu cần thiết như thế sao? Như vậy lời kêu gọi: hãy hối cải, vì Nước Trời đã gần đến; không phải là nói với chúng ta sao?
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người nhận ra được nhu cầu cần thiết của mình, để biết lắng nghe Tiếng Chúa và đến gần Chúa hơn.
16. Theo như ý Chúa
Anh chị em thân mến.
Nhìn những cánh đồng lúa xanh tươi bát ngát, một cảm giác êm nhẹ như len lén đi vào tâm hồn con người, tạo nên một nét thanh bình dịu dàng mà không một khung cảnh nào có thể sánh kịp. Nhưng nếu để một chút suy tư, chúng ta cũng dể dàng nhận thấy: nét thanh bình này cũng thay đỗi, cũng biến chuyển theo thời gian; từng đợt lúa xanh rồi chín vàng, được con người thu hoạch và những màu xanh cũng lại tiếp tục như thế. Khi những cây lúa xanh tươi kia đã hết kỳ hạn, nó phải nhường chỗ cho những cây lúa khác tiếp tục sứ mạng hiến màu xanh tươi tốt cho đời, đồng thời mang lại lợi ích cho con người. Từng thế hệ cây lúa nối tiếp nhau chu toàn sứ mạng đem sức sống cho đời. Nó phải chu toàn sứ mạng khi mưa cũng như khi nắng, khi thuận lợi cũng như khi bất lợi, nó vẫn phải mang đến cho đời những gì cần thiết.
Nếu có cây lúa nào đến thời kỳ thu hoạch mà nó không chịu rời chỗ của nó, nhường cho những hạt lúa khác có điều kiện nẩy mầm, thì số phận của những người hưởng nhờ sức sống từ cây lúa sẽ ra sao ? Còn mảnh đất nơi nó ngự trị có lẽ sẽ trở nên khô cằn.
Chúng ta vừa chứng kiến một sự thay đỗi:
Gioan đến thi hành sứ mạng, ông thi hành hết sức tốt đẹp, ông đem lợi ích đến cho nhiều người, nên ông tạo được uy tín cho mình, cũng tạo được niềm tin cho nhiều người tin vào những gì ông rao giảng. Đến mùa thu hoạch, kết thúc sứ mạng, ông không thể chần chừ thêm nữa. Đoạn kết sứ mạng có vẻ đau thương; trước mắt người đời, ông như bị Thiên Chúa bỏ quên. Nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, sứ mạng ông kết thúc, ông nhường chỗ lại cho sứ mạng khác, tiếp tục đem sức sống cho đời, sứ mạng cao trọng hơn ông.
Chúa Giêsu thi hành sứ mạng, đem sức sống mới cho đời, đem niềm vui của Thiên Chúa đến cho con người. Ngài thi hành sứ mạng theo Thánh Ý của Thiên Chúa chứ không phải theo ý con người, nên Ngài tránh xa những gì mà con người tìm trong hư danh.
Nếu Gioan cứ để cho mọi người ngưỡng mộ mình mà không chịu rút lui, thì chương trình của Thiên Chúa sẽ trục trặc với ông, và những người trông chờ ơn cứu độ cũng vất vả với ông. Nhưng ông biết vâng phục khi sứ mạng hoàn tất, nên lợi ích ông mang đến cho đời thật mãnh liệt.
Trong cuộc sống đời thường, ai cũng muốn chứng tỏ tài năng của mình cho mọi người nhìn thấy, để rồi mong muốn được mọi người ngưỡng mộ. Con người muốn tận hưởng niềm vui đó, nên không nhìn thấy được giới hạn của chính mình, càng không nhìn thấy được tài năng của người khác. Như thế thì con người làm sao biết được sứ mạng của mình phải hoàn tất để mang niềm vui và sức sống cho đời.
Mỗi người trong chúng ta, nhìn vào chính mình xem, có nhận ra được sứ mạng mà mình đang mang để đem niềm vui và sức sống cho đời. Chúng ta có lẽ cũng biết được những trách nhiệm trong cuộc sống, cũng có lý tưởng để mà bước đi, đôi khi cũng tìm được niềm vui trong phục vụ. Cũng có những lúc, chúng ta cũng tự hào về công việc của mình, nên cố hết sức, dùng tài năng để làm cho công việc được tốt hơn, đạt hiệu quả cao hơn, để được mọi người ngưỡng mộ khen tặng nhiều hơn, và chúng ta đã dừng lại ở đó. Chính vì dừng lại nên không còn nhìn thấy chính mình, không nhìn thấy người khác, nên không còn biết lắng nghe, không biết chấp nhận người khác, không bằng lòng với những gì trái ý mình. Những lúc đó mảnh đất con người của chúng ta đã trở nên khô cằn, vì những hạt giống mang lợi ích cho đời không thể nẩy mầm mới để mang lại sức sống mới được nữa, mà nó chỉ biết giữ lấy kết quả của thời quá khứ.
Nếu chúng ta nhìn thấy được thánh ý Chúa, biết chấp nhận, biết lắng nghe và thi hành trọn vẹn, cho dù có những đau thương hay mất mác, cho dù dường như người đời vô ơn bạc tình, nhưng đó là sứ mạng, là nhiệm vụ đem sức sống và hạnh phúc cho đời theo thánh ý Chúa chứ không phải theo ý của riêng mình. Được như thế thì cánh đồng lúa xanh tươi của con người sẽ từng thế hệ nối tiếp nhau, không bao giờ phải khô cằn hư hoại được. Như thế chúng ta đang bước đi trên con đường sứ mạng mà Gioan và Chúa Giêsu đã đi khi xưa.
Xin Chúa dẫn dắt chúng ta trong từng bước đi của cuộc đời.
17. Hiệp nhất trong Đức Kitô--Lm Bùi Quang Tuấn
Chuyện kể một nhà buôn nọ rất sùng đạo. Mặc dầu vất vả làm ăn nhưng anh ta không bao giờ bỏ việc khấn vái với thần thánh. Gặp kỳ cạnh tranh gay gắt trong công việc, anh ta càng gia tăng lời khẩn cầu gấp bội.
Động lòng trắc ẩn, một hôm thần tiên hiện ra với anh và nói: "Thấy nhà ngươi thành tâm cầu xin nên ta không nỡ chối từ. Thôi thì bây giờ cứ cho ta biết ngươi muốn gì, ta sẽ ban cho... và đồng thời để tỏ cho nhân gian biết lòng quảng đại của ta thì hễ ban cho ngươi điều chi, ta cũng ban cho đồng nghiệp hay hàng xóm của ngươi như thế... và có khi gấp đôi luôn".
Nghe thần phán, lòng anh thương gia chuyển từ vui mừng hân hoan qua sầu buồn lo lắng. Anh tự nhủ: "Nếu bây giờ mình xin một chiếc Lexus thì mấy thằng bạn...chúng nó sẽ được hai chiếc. Ái dà, thế thì không được! Nhưng nếu mình xin cho được trúng số 5 triệu thì mấy nhà hàng xóm... họ sẽ được tới 10 triệu. Thế lại càng không được! Còn nếu mình xin cho có vợ đẹp con khôn thì coi chừng đồng nghiệp sẽ có vợ đẹp gấp đôi vợ mình, con khôn gấp đôi con mình. Đó là chưa nói tới chuyện chúng nó được hai vợ, trong mình chỉ có một... Thời buổi cạnh tranh như thế này thì phải làm sao cho hơn người chứ. Nhưng xin như thế thì làm sao mà hơn được".
Chàng thương gia nhíu mày đắn đo. Một lát sau, chợt anh ta reo lên như vừa tìm ra điều gì thú vị. Anh đến quì xuống và thưa với thần: "Lạy ngài, xin vui lòng cho tôi đui một con mắt".
Quả là một lời khẩn cầu quái lạ! Không xin cho mình được may mắn vì sợ người khác trỗi hơn. Song lại xin cho mình rủi ro để kẻ khác sẽ bị tổn hại nhiều hơn. Xin cho mình đui một con mắt để kẻ khác mù luôn. Đây quả là tiểu nhân và quá dã tâm.
Thế nhưng, nếu thành thật rà soát lòng mình thì không chừng tính chất dã nhân và tiểu tâm kia, tức là những đố kỵ, ghen ghét, nhỏ nhen, tàn bạo lại đang ẩn nấp đâu đó trong người tôi, để rồi nếu được thành công may mắn hơn ai thì nó sẽ nằm im bất động. Thảng hoặc, nó còn tỏ ra "quảng đại" và "thương xót" kẻ không may. Nhưng nếu ai đó trổi vượt hơn mình thì cái chất tiểu tâm và dã nhân kia sẽ bùng lên khó lòng dập tắt.
Chính cái chất đố kỵ, ghen tương, so bì kia đã là mầm mống của boa chia rẽ, bè phái, tranh chấp, phân ly, giận hờn, đui chột, mù loà trong cộng đồng nhân loại. Lắm người chẳng chịu nhường bước ai; điều gì của mình cũng đúng hơn, đẹp hơn, tốt hơn, và như thế kẻ khác tất phải sai hơn, xấu hơn, và dở hơn.
Tình trạng hơn thua làm nảy sinh phe nhóm bè phái, cùng với bao tranh chấp ghét ghen, không chỉ xảy ra ngoài đời, trong các đoàn thể chính trị xã hội, nhưng phải đau lòng mà nói: có khi nó còn xuất hiện trong những tổ chức manh danh có đạo, hay thuộc về Giáo hội.
Và đâu phải chỉ có trong Giáo hội của thời đại hôm nay, nhưng từ thời sơ khai, hiện tượng tranh chấp, phe nhóm, cũng đã xảy ra: "Tôi, tôi về phe Appolo. Tôi, tôi về phe Phaolô. Còn tôi, tôi về phe Kêpha Phêrô".
Sự phân chia phe nhóm trong cộng đoàn thế kia, một phần là do các sở thích và tình cảm cá nhân quá nặng. Một số thấy Phaolô là con người cương trực, ăn thẳng nói ngay, nên phục và mến lắm. Nhưng số khác thì không chịu nổi tính khí đó, nên đã chạy theo Phêrô, vị này vừa là thủ lãnh tông đồ lại vừa "dễ dãi, sao cũng được". Thơ Galat có kể rằng khi vắng mặt các thành viên Do thái trong cộng đoàn thánh Giacôbê, Phêrô đã ngồi ăn chung, uống chung với dân ngoại, nhưng khi thấy họ đến thì ông lại tránh đi. Thế nên một lần kia Phaolô đã trách Phêrô trước mặt mọi người: "Nếu ông, một người Do thái, ông còn sống như người ngoại chứ không như người Do thái, thì làm sao ông lại thúc bách người ngoại sống như Do thái được?" (Gal 2:14).
Có lẽ vì Phêrô "dễ dãi" như thế nên nhiều người thích và đi theo ủng hộ. Trong khi đó một số người khác lại khoái Apollo. Ông này ăn nói lưu loát, có khả năng diễn thuyết hùng hồn, bao biện luận để minh chứng Chúa Giêsu là Đức Kitô thật là sắc bén và chí lý. Thế nên họ thích nghe hơn, và rồi cái gì Apollo nói cũng đúng, cũng hay; còn Phaolô thì cứng quá, và Phêrô lại mềm mỏng quá.
Những khuynh hướng lưu luyến và tình cảm nặng tính cá nhân đó đã tạo nên phân rẽ trầm trọng trong cộng đồng Dân Chúa thời sơ khai, đến nỗi Phaolô đã kêu lên: "Nhân danh Đức Giêsu Kitô, tôi nài xin anh em hãy lo cho được đồng tâm hiệp ý với nhau. Đừng chia rẽ, nhưng hãy đoàn kết trong cùng một thần trí và một tâm tình". (1 Cor 1:10).
Thiết tưởng, lời kêu gọi đó vẫn còn vang vọng cho đến hôm nay, trong mọi cơ cấu tổ chức của giáo xứ, cộng đoàn, và gia đình. Hãy đồng tâm ý hiệp với nhau. Đừng vì khuynh hướng, sở thích, quan điểm, hay tình cảm cá nhân chi phối mà ủng hộ, hợp tác với người này người nọ hoặc chống đối, chê bai, lạnh lùng với người kia.
Lời thánh Phaolô vẫn còn đó: Đức Kitô bị phân chia rồi sao? Chân lý và Tin mừng của Đức Kitô bị xé mãnh rồi sao? Và Tin mừng làm sao có được trong ghen ghét, tị hiềm, đố kỵ, phân ly, xâu xé. Có chăng chỉ là tin buồn thôi.
"Nhân danh Đức Kitô, tôi nài xin anh em hãy liên kết trong cùng một thần trí và một tâm tình". Thần trí đó là thần trí yêu thương, và tâm tình đó là tâm tình khiêm hạ. Chớ ao ước những điều bất chính, khổ đau cho kẻ khác. Đừng muốn mình chột để người ta bị mù. Nhưng hãy cầu cho nhau những sự may lành. Hãy "vui với người vui", vì điều đó đôi khi còn khó hơn "khóc với người khóc". Hãy tạ ơn Thiên Chúa cho nhau. Và điều quan yếu, hãy hiệp nhất với nhau.
Hiệp nhất chính là tinh thần và sứ mạng của Chúa Giêsu mà những ai tự xưng là môn đệ của Ngài phải tiếp nối. Bởi lẽ Chúa Giêsu đến thế gian không mục đích nào khác hơn là gieo trồng hiệp nhất: hiệp nhất con người lại với Thiên Chúa, hiệp nhất con người lại với nhau, hiệp nhất bao tan vỡ tâm hồn hầu qua đó tình thương của Thiên Chúa, bình an từ trời cao, và niềm vui ơn cứu độ được tuôn trào đến khắp trần gian.
Tình thương, bình an, và niềm vui đó cũng chính là phần thưởng muôn đời cho những ai can đảm bước trên con đường mà Đức Giêsu đã đi.
18. Suy niệm của Lm. Thu Băng, CRM
“Dân tộc ngồi trong bóng tối
đã thấy sự sáng” (Mt.4:12-17)
Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ của Ngài sau khi Gioan chấm dứt phận sự của ông. Ngài không khép kín trong một quốc gia hay trong một dân tộc nào, nhưng cho toàn cõi trái đất.
Theo sử liệu thì Ga-li-lêa là miền phong phú, nơi tụ họp các dân tộc, các sắc dân, các tôn giáo. Nơi có nhiều môn phái tôn giáo như Pharisiêu, Sađukêu, Do Thái Jawher, tóm lại, nó tượng trưng cho một thế giới lớn mà Chúa muốn trao phó cho Giáo Hội của Ngài “Dân ngồi trong bóng tối đã thấy ánh sáng huy hoàng”.
Thánh Mathêu nói về 2 dân tộc Giabulon và Neptali thuộc chi họ Israel bị xâm chiếm và bị diệt chủng, bị đô hộ và nhập hóa. Họ giống như nước ta trong thời bắc thuộc: đàn bà phải lấy Tầu, đà ông phải đi lính cho chết. Nhưng người còn trung thành, còn yêu nước tìm cơ thuận tiện quật khởi. Họ nghĩ mình bị đè bẹp, bị ngồi chờ trong bóng tối sự chết.
Ngày nay tại quê hương, bao người Công Giáo cũng nghĩ mình đang bị đè bẹp trong bóng tử thần, nhưng họ cố trung thành, cố vươn lên bao nhiêu có thể.
Chúng ta nghĩ gì về số phận người trẻ công giáo trong thế giới hôm nay? Họ có phải đang bị tối tăm và sự chết thiêng liêng không? Thế giới này khác nào như Galilêa, đủ mọi sắc dân, đủ mọi tôn giáo, mọi phong tục, mọi lối sống làm người trẻ giữa thế giới này không bị cấm đạo, không bị lối sống dân tộc, không bị bách hại công khai, nhưng nếu nghĩ đến số phận con người, nghĩ đến giá trị tinh thần, nghĩ đến gia đạo, thì chúng ta cũng bị ảnh hưởng xã hội bằng sức mạnh của điện ảnh, của đam mê, của phong trào, của phong tục ngoại quốc làm cho chúng ta bị tiêu diệt.
Làm thế nào để Chúa là ánh sáng đời tôi?
Giáo Hội có sứ mệnh khơi dậy còn chúng ta có nhiệm vụ khai sáng. Hãy phơi bầy ý nghĩ ta trước mặt Chúa. Hãy hỏi xem cái gì là thật giả, cái gì là tốt xấu, là đúng sai. Đúng nhất là câu trả lời theo ánh sáng lương tâm Chúa soi dẫn. Hãy đặt đời sống mình dưới ánh sáng của Chúa và trung thành với lương tâm ngay thẳng.
Làm thế nào để trở nên ánh sáng? Để lấy lại ánh sáng chân thực này? Câu cuối cùng của bài Phúc Âm: Hãy ăn năn, hãy đổi chiều hướng, hãy đổi lại cõi lòng. Hãy xưng tội. Khi thấy mình xa ánh sáng Chúa soi dẫn, ta cần phải đặt vấn đề, phải hỏi để sửa lại.
19. Chúa chọn Galilê--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Tin mừng Mt 4: 12-23 Galilê là khởi điểm Kitô giáo. Chính tại đây, Chúa Giêsu bắt đầu cuộc rao giảng Tin mừng, chọn gọi các Tông đồ, tuyên bố Luật mới.
Địa dư Palestine có ranh giới:
- Đông giáp sa mạc Syria và Ả rập. - Tây giáp Địa Trung Hải. - Bắc giới hạn từ thung lũng núi Liban chạy đến núi Hermon. - Nam giáp ranh Iđumê, miền đất hoang vu Bersabê và Biển Chết.
Cựu ước thường dùng kiểu nói "từ Đan đến Bersabê" để chỉ miền đất Do thái cư ngụ. Chiều dài từ chân núi Liban tới Bersabê là 230 km; chiều rộng từ Địa Trung Hải đến sông Giođan là 37-150km. Diện tích phía tây Giođan là 15.643 km2, phía Đông (Transjordanie) là 9482km2. Tổng cộng là 25.124km2.
Palestina thời Chúa Giêsu chia làm bốn miền:
- Galilêa có thành Capharnaum, Nazareth.
- Samaria nằm giữa xứ Palestina với những con đường nối liền Nam-Bắc.
- Giuđêa là miền núi có thủ đô Giêrusalem và Pêrêa bên kia sông Giođan.
- Phía Bắc là miền Decapolis nơi dân cư phần nhiều thuộc văn hoá Hylạp.
Palestina có địa lý đặc biệt: Thung lũng Giođan chia Palestina làm hai miền: Palestina và Transjordanie. Thung lũng này là hiện tượng địa lý duy nhất trên địa cầu: bắt đầu từ núi Taurus, ngang qua Celesyria, đến Palestina, rồi tiếp tục theo phía Đông bán đảo Sinai tới Biển Đỏ. Phía Bắc (thành Đan) cao hơn Địa trung hải 550m; càng về phía Nam càng thấp xuống. Tibêriade thấp hơn Địa trung hải 208m; tới Biển Chết mực nước thấp hơn 392m. Sông Giođan phát nguồn từ núi Hermôn, chạy qua hồ El-Hule (dài 6000m, sâu từ 3-5m), rồi qua hồ Tibêriade, đổ vào Biển chết. Hồ Tibêriađê (gọi là Giênêzarét) dài 21km, rộng 12 km, sâu 45m, nước trong xanh và nhiều cá. Biển chết dài 85km, rộng 16km, nước biển nhiều độ mặn nên không vật nào có thể sống được. Miền Duyên hải từ núi Libanô đến núi Camêlô, rộng từ 2-6km. Từ núi Camêlô đến Gaza phía Nam, bờ biển rộng đều và thẳng với các hải cảng Akko, Haifa và Jaffa (Joppé). Giữa Haifa và Jaffa, vua Hêrôđê xây thêm hải cảng Cêsarêa. Từ núi Camêlô đến Jaffa là bình nguyên Sharon phì nhiêu. Từ Jaffa xuống phía nam là bình nguyên Sêphêla thuộc xứ Pelistin (danh xưng Palestina xuất phát từ chữ này). Bình nguyên Esdrelon từ phía Bắc núi Camêlô chạy theo hướng Đông Nam, chia phần đất phía Tây sông Giođan làm hai phần: Galilê phía Bắc, Samaria và Giuđêa phía Nam. Miền Galilê: phía bắc nhiều núi, nam là bình nguyên Esdrelon, miền duyên hải là đồng bằng, giữa là đối núi thấp dần về phía sông Giođan.
Bên kia sông Giođan(Transjordanie)là miền đồi núi, chia làm 3 phần:
- Trachonitide thuộc Đông-Bắc hồ Tiberiade.
- Miền Thập tỉnh phía đông-nam hồ.
- Pêrêa thuộc phía đông sông Giođan và Biển chết, đối diện với Samaria và Giuđêa.
Người Do thái không chiếm cứ hoàn toàn miền bên kia sông Giođan. Trước thời kỳ Hy hóa, đã xuất hiện tại mạn Bắc nhiều bộ lạc Aram. Thời Hy hóa, từ sau cuộc chinh phục của Alexandre đại đế, nhiều người Hy lạp đến đây cư ngụ. Thời Đức Giêsu, họ lập thành miền Thập tỉnh, có khoảng 10 thành liên minh với nhau. Các thành nổi tiếng hơn cả là Damascô, Hippos, Gadara, Gerasa, Pella, Philadelphia.
Thủ đô Giêrusalem là trung tâm chính trị và tôn giáo. Vua Hêrôđê đóng đô ở Giêrusalem. Đền thờ Giêrusalem là trái tim của Dân tộc Do thái. Hàng năm, khắp mọi miền đất nước người ta đổ về Giêrusalem để dự lễ. Đây cũng là nơi quy tụ quyền lực tôn giáo, có dinh của Thầy Cả Thượng phẩm, có các luật sĩ, biệt phái, văn nhân. Dân chúng ở Giuđê coi Giêrusalem là đền thờ duy nhất, đạo ở Giuđêa là chính thống. Họ tẩy chay người Samari là dân ngoại vì dân Samari xây cất đền thờ trên núi Garizim. Dân Giuđê không bao giờ đi lại tiếp xúc với dân Samari. Họ cũng khinh miệt dân Galiê vì đó là nơi pha tạp mọi sắc dân là đất của dân ngoại. Giuđê là vùng có đạo toàn tòng, là trung tâm của đạo Do Thái, còn Galilê là miền giáp ranh giữa ranh vùng có đạo và vùng ngoại đạo. Quả thực đây là vùng xôi đậu. Về mặt chính trị, vùng này chịu ảnh hưởng ngoại bang thật sâu đậm. Về mặt chủng tộc, ở đây người Do Thái sống lẫn lộn giữa dân ngoại. Về mặt tôn giáo, Galilê thua xa Giuđê, bị coi là ở bên lề của cộng đồng dân Chúa. Đối với dân thủ đô, Galilê chỉ là tỉnh lẻ, nhà quê. Đối với người mộ đạo sùng tín, miền Bắc thật đáng ngờ vực. Đó là miền hầu như thuộc ngoại bang, nơi hội tụ dân ngoại. Một dân cư pha tạp, nông dân và ngư dân có giọng nói nặng chịch vốn là đề tài phong phú cho các câu chuyện diễu cợt hằng ngày...
Khởi đầu sứ vụ công khai, Chúa Giêsu không chọn rao giảng ở Giêrusalem mà chọn Galilê.
Galilê không rộng lắm, từ bắc chí nam dài khoảng 60 cây số, dân cư sống đông đúc. Đất hẹp người đông. Thời Josephus làm tổng trấn, ông đếm được 294 làng, mỗi làng không dưới 15.000 dân. Galilê không những là khu đông dân cư nhưng dân ở đó cũng có một cá tính đặc biệt. Galilê sẵn sàng mở cửa đón những ý niệm mới. Josephus nói về dân Galilê như sau: "Bao giờ họ cũng thích cải cách, bản tính họ thích thay đổi và thích bạo động. Họ luôn sẵn sàng theo một thủ lãnh và phát khởi một cuộc nổi dậy. Họ nổi tiếng là người nóng tính và thích cãi vã. Tuy nhiên, họ cũng là những người hào hùng nhất".
Đặc tính bẩm sinh của người Galilê giúp việc truyền giáo cho họ rất thuận lợi. Thái độ cởi mở đón nhận những tư tưởng mới cũng góp phần cho việc truyền giáo trở nên dễ dàng. Có lẽ vì những yếu tố này mà Chúa Giêsu chọn Galilê làm trung tâm truyền giáo. Những tín đồ chính thống ở kinh đô chiêm ngưỡng sự siêu việt của mình, chế diễu và tránh xa những người bị loại trừ ở phía Bắc. Chúa Giêsu rao giảng tại Galilê, xa thói ngạo mạn, tính tự tôn và sự mù quáng của dân thành đô. Chúa chọn Galilê vì ở đây mọi người biết chấp nhận nhau chung sống hoà bình.
Galilê là khởi điểm Kitô giáo. Chính tại đây, Chúa Giêsu bắt đầu cuộc rao giảng Tin mừng, chọn gọi các Tông đồ, tuyên bố Luật mới. Các Tin mừng Nhất Lãm đã kết thúc thời kỳ đầu rao giảng tại Galilê của Chúa Giêsu bằng lời tuyên xưng của Phêrô "Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt 16). Sự chọn lựa miền đất Galilê có một ý nghĩa quan trọng theo Tin mừng Matthêu. Để ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia nói: "Này đất Dơvulun, và đất Náptali, hỡi con đường ven biển, và vùng tả ngạn sông Giođan, hỡi Galilê, miền đất của dân ngoại! Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tốt tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng. Những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi". Matthêu khi trích dẫn Isaia, có ý nói rằng Chúa Giêsu vâng phục theo ý muốn của Chúa Cha; Người làm điều mà Thiên Chúa đã nói. Đây là sự vâng phục cao cả, to lớn và kỳ diệu được đảm nhận với tự do và tình yêu. Thánh sử cũng nhấn mạnh đến sự liên tục của Chúa Giêsu với toàn bộ lịch sử của dân Người. Cuộc phiêu lưu vĩ đại đã khởi đi từ một miền đất bị nguyền rủa. Thế giới mới đã ăn rễ sâu vào vùng đất nhơ uế nhưng cởi mở đón tiếp mọi bất ngờ của Thánh Thần. Chúa Giêsu là ánh sáng bừng lên giữa thế gian. Ngài muốn soi sáng tất cả mọi người, kể cả các anh em ly khai, những người lạc giáo, những lương dân và những người vô thần.
Bài Phúc âm Chúa nhật hôm nay kể lại cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và bốn môn đệ đầu tiên ở biển hồ Galilê.
Chúa Giêsu đã gọi và chọn các tông đồ là những người chài lưới tầm thường. Đáng lý Chúa phải chọn những người ưu tú trong đám trí thức và được coi là đàng hoàng ở Giuđê mới phải. Tại sao Chúa lại chọn những người làm nghề chài lưới? Phải chăng Người ngụ ý dạy các môn đệ phải luôn luôn sẵn sàng rời bỏ đất liền và thế giới riêng của mình, nghĩa là rời bỏ cái khung cảnh an toàn và đóng kín của mình để ra khơi, giữa đại dương mênh mông vô bờ bến và đầy gian nguy, tức là đến với thế giới rộng lớn và xa lạ để cứu vớt thế giới?
Chúa Giêsu kêu gọi các tông đồ không phải trong khuôn khổ một lễ hội tôn giáo hoặc một hoạt động tâm linh... nhưng ở giữa đời sống thường ngày của họ, trong lúc họ đang làm công việc nghề nghiệp. Các môn đệ ngư phủ tuy là những người ít học, không giàu có, không địa vị, nhưng đối với Chúa, họ có đủ tố chất cần thiết để trở nên những người cộng sự của Người. Chẳng hạn, sự kiên trì khi thả lưới giúp họ biết nhẫn nại chờ đợi; sự hòa đồng giúp họ chấp nhận nhau và làm việc chung; sự can đảm trước sóng gió giúp họ đối diện với nghịch cảnh; khả năng nhận ra khi nào và chỗ nào nên thả lưới sẽ giúp họ khám phá những vùng truyền giáo màu mỡ. Cuộc gặp gỡ này đã làm thay đổi số phận của những con người lênh đênh trên biển hồ ngày trước. Cuộc gặp gỡ này là khởi đầu cho công cuộc thay đổi thế giới. Cuộc gặp gỡ làm nên những huyền diệu trong lịch sử nhân loại.
Các ngài gặp gỡ và bước theo Chúa để học nơi Chúa. Họ nhận ra rằng: Chúa Giêsu, Thầy Dạy của các bậc thầy, không những chỉ dạy Lời Chúa nhưng chính Người là Lời Chúa. Người không những chỉ dạy cho cách sống mới mà chính Người là Sự Sống. Người không những chỉ cho biết ý nghĩa của "Đường sự Sống", mà chính Người là Đường Sự Sống, là Ánh Sáng.
Chúa Giêsu đã kêu gọi các môn đệ. Các ngài đáp trả chân tình. Các ngài được sống thân mật với Chúa. Các ngài ra đi làm chứng cho tình yêu Chúa. Đó là hành trình ơn gọi của các Tông Đồ. Đó cũng là hành trình ơn gọi của mỗi Kitô hữu.
Truyền giáo ngày nay trong thế giới nói chung và trong xã hội Việt Nam nói riêng không nhắm trước tiên hay chủ yếu vào việc "chinh phục các linh hồn" cho Chúa càng nhiều càng tốt, (chúng ta không chạy theo số lượng) nhưng đem tinh thần Phúc Âm thấm nhuần vào con người và vào mọi thực tại nhân sinh. Vì thế, để thi hành sứ mạng cao cả đó, chúng ta không nhất thiết phải đi tới một vùng địa lý nào khác, mà lấy chính môi trường sống của mình làm "vùng đất ngoại bang", và noi gương của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, chúng ta hãy coi các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội là những vùng giáp ranh, những vùng biên giới, những "vùng Galilê, miền đất của dân ngoại" mà Chúa sai chúng ta đến. Và hơn nữa "miền Galilê ngoại giáo" của ta là chính bản thân ta vì vẫn còn những vùng tăm tối ngay trong tâm hồn và cuộc sống của ta chưa được ánh sáng Chúa Kitô soi chiếu và biến đổi. Chính Người vẫn còn nói với ta hôm nay, những kẻ đã tin theo Người: "Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng." (Mc 1, 15).
20. Ánh Sáng huy hoàng--Anmai
Chuyện kể rằng vào thời vua Akhát, con vua Giotham, cháu vua Útdigiahu, trị vì Giuđa, thì vua Aram là Rơxin, và vua Israel là Pecác, con ông Romangiahu, lên đánh Giêrusalem, nhưng không thể tấn công được. Tin dữ đến với nhà Đavít rằng: "Aram đã đóng quân ở Épraim." Khi nghe được tin dữ ấy lòng vua cũng như lòng dân đều rung động như cây rừng rung rinh trước gió.
Thiên Chúa, mãi mãi yêu thương dân của Ngài nên rồi Ngài ra tay cứu dân. Ngài bảo với Isaia: "Ngươi hãy cùng với Sơa Giasúp, con ngươi, ra đón vua Akhát ở cuối kênh dẫn nước của hồ trên, phía đường dẫn tới cánh đồng Thợ Nện Dạ. Ngươi hãy nói với nhà vua: "Ngài hãy coi chừng, cứ bình tĩnh, đừng sợ, chớ sờn lòng trước hai cái đầu que củi chỉ còn khói đó, trước cơn giận sôi sục của Rơxin, vua Aram, và của người con Rơmangiahu. Vì Aram cùng với Épraim và người con Rơmangiahu đã mưu tính hại ngài và nói: "Ta hãy lên đánh Giuđa, làm cho nó khiếp sợ ta, và đặt con ông Tápên làm vua ở đó."
Thiên Chúa không chỉ cứu dân Israel thoát khỏi bàn tay của Aram nhưng còn làm vẻ vang dân của Ngài ở miền bên kia sông Giođan - vùng đất của dân ngoại. Lời hứa ấy chúng ta vừa nghe Isaia thuật lại: “Thời đầu, Người đã hạ nhục đất Dơvulun và đất Náptali, nhưng thời sau, Người sẽ làm vẻ vang cho con đường ra biển, miền bên kia sông Giođan, vùng đất của dân ngoại. Ơn giải thoát.
Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi. Chúa đã ban chứa chan niềm hoan hỷ, đã tăng thêm nỗi vui mừng. Họ mừng vui trước nhan Ngài như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt, như người ta hỷ hoan khi chia nhau chiến lợi phẩm. Vì cái ách đè lên cổ dân, cây gậy đập xuống vai họ, và ngọn roi của kẻ hà hiếp, Ngài đều bẻ gãy như trong ngày chiến thắng quân Mađian”.
Có lẽ thời vua Akhát là thời mà dân cảm thấy hạnh phúc nhất vì lẽ không chỉ sống trong cảnh anh bình thịnh vượng mà còn được niềm vui. Niềm vui ấy tăng lên khi thắng trận mà còn được chia nhau chiến lợi phẩm, ách nặng không còn đè lên cổ và không phải chịu đòn roi của kẻ hà hiếp nữa. Và, hạnh phúc lớn nhất của họ là từ nay họ đã được ơn giải thoát, ơn cứu độ.
Hạnh phúc của dân thời ấy phải chăng cũng là hạnh phúc của vua Đavít? Ở Thánh Vịnh 27 – Thánh Vịnh đáp ca mà chúng ta vừa đọc, vừa nghe lại chính là tâm tình, là nỗi niềm hạnh phúc của Đavít khi ông nhận ra Chúa chính là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của đời ông.
Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi,
tôi còn sợ người nào?
Chúa là thành luỹ bảo vệ đời tôi,
tôi khiếp gì ai nữa?
Khi ác nhân xông vào, định nuốt sống thân tôi,
ai ngờ chính đối phương, chính những thù địch ấy,
lại lảo đảo té nhào.
Dù cả một đạo quân vây đánh, lòng tôi chẳng sợ gì.
Dù có phải lâm vào chiến trận, tôi vẫn cứ cậy tin.
Một điều tôi kiếm tôi xin,
là luôn được ở trong đền Chúa tôi
mọi ngày trong suốt cuộc đời,
để chiêm ngưỡng Chúa tuyệt vời cao sang,
ngắm xem thánh điện huy hoàng.
Cuối tâm tình ấy của Thánh Vịnh 27, Đavit đã thốt lên:
Tôi vững vàng tin tưởng
sẽ được thấy ân lộc Chúa ban trong cõi đất dành cho kẻ sống.
Hãy cậy trông vào Chúa, mạnh bạo lên, can đảm lên nào!
Hãy cậy trông vào Chúa.
Quả thật, nhìn lại cuộc đời của Đavít, chúng ta thấy hết sức hay và hết sức đặc biệt. Mang trong mình thân phận hết sức yếu đuối của con người, đã phạm trọng tội nhưng ông đã quay trở về với Thiên Chúa là Tình Yêu. Cảm nhận hay nói đúng hơn là xác tín của ông về một Thiên Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ là một xác tín mà chúng ta cần phải học hỏi, cần phải cảm nhận để nhìn nhận Chúa chính là nguồn ơn cứu độ và là nguồn ánh sáng thật của đời chúng ta chứ không phải là ai khác.
Thiên Chúa vẫn yêu thương, Thiên Chúa vẫn cứu độ con người bằng cách này cách khác. Thiên Chúa đã bày tỏ Tình Yêu của Ngài cho con người mọi lúc mọi nơi có thể được.
Một “ánh sáng” mà Thiên Chúa gửi đến cho cuộc đời đang lui vào bóng tối đó là Gioan Tẩy Giả thì một “ánh sáng” khác đó là Đấng Cứu Độ trần gian đã được gửi đến cho nhân loại.
Sau khi “ánh sáng” Gioan đến và làm chứng cho Ánh Sáng, cho Sự Thật đã bị thế gian đẩy lùi và thủ tiêu thì ánh sáng Giêsu đã đến để tiếp tục làm chứng cho Ánh Sáng thật, cho Sự Thật trên thế gian này.
Trước khi Chúa Giêsu nhập thể, thế gian ở trong tình trạng tối tăm và đáng sợ. Nhưng giữa tình trạng hãi hùng này đã vọng lên tiếng nói trấn an của Isaia, là vị tiên tri đã hứa với dân chúng rằng chẳng bao lâu nữa một ánh sáng vĩ đại sẽ xuất hiện để phá tan đêm tăm tối. Và lời hứa của tiên tri Isaia đã được thực hiện viên mãn khi Chúa Giêsu nhập thể.
Matthêu so sánh Chúa Giêsu đến và xuất hiện giữa cuộc đời như một ánh sáng huy hòang chiếu soi mọi người đang sống trong bóng đêm sâu thẳm. Matthêu thấy Chúa Giêsu là sự hòan thành lời tiên tri cao cả của Isaia: “Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hòang, những kẻ ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu soi”. Chúa Giêsu đã từng vẽ nên sứ vụ của Ngài bằng những lời tương tự khi Ngài nói: “Ta là ánh sáng thế gian”.
Con người cũng như vạn vật cần có ánh sáng để sống, riêng với con người thì không những ánh sáng cần cho sự sống của thân xác mà còn giúp cho con người khỏi cô đơn. Bóng tối thường làm cho con người cảm thấy cô đơn và sợ hãi. Có nhiều thứ bóng tối trong cuộc đời chúng ta: bóng tối của ích kỷ, của ganh ghét, của hận thù, của đam mê. Càng giam mình trong những bóng tối ấy, chúng ta càng cảm thấy cô đơn và càng trở nên bệnh họan. Người nào càng sống ích kỷ, và người nào càng nghiền ngẫm đắng cay hận thù, người đó càng hạ giảm nhân tính của mình. Vì thế, chúng ta cần có ánh sáng để sống, để lớn lên trong tình người như để chữa trị những băng họai trong tâm hồn.
Lời của ngôn sứ Isaia nói xưa đã được Chúa Giêsu làm nên hiện thực. Chúa Giêsu chính là ánh sáng. Ngài đến để soi sáng cho kẻ ngồi trong bóng tối, ban niềm vui, niềm hy vọng sống cho tất cả mọi người. Chúa cũng muốn chúng ta khám phá ánh sáng của Ngài. Chúa mời gọi chúng ta cũng trở nên ánh sáng cho những người mà chúng ta gặp gỡ.
Trong cuốn Justs for today người ta có kể lại: ông J. Keller, một nhà diễn thuyết nổi tiếng, đang nói truyện trước trăm ngàn thính giả tại vận động trường Los Angeles, Hoa kỳ, đang diễn thuyết, ông bỗng dừng lại và nói: “Bây giờ xin các bạn đừng sợ, tôi sắp cho tắt tất cả các đèn điện trong sân vận động này”. Ông vừa dứt lời thì cả sân vận động chìm trong bóng tối. Nhà diễn thuyết nói tiếp: “Bây giờ tôi xin đốt một que diêm, những ai nhìn thấy que diêm tôi đốt, xin kêu lên: “Đã thấy”. Cả sân vận động vang dội tiếng: “Đã thấy”. Rồi tất cả đèn điện lại được bật sáng. Diễn giả giải thích: “Ánh sáng của một nghĩa cử sẽ chiếu sáng trong đêm đen của nhân lọai như thế. Một lần nữa, tất cả đèn điện lại tắt. Một giọng nói vang lên ra lệnh: “Tất cả những ai ở đây có đem theo diêm quẹt hãy bật lửa, xin hãy đốt cháy lên”. Bỗng chốc, cả sân vận động rực sáng. Diễn giả kết luận như sau: “Nếu tất cả chúng ta cùng hiệp lực với nhau, chúng ta có thể chiến thắng bóng tối của sự dữ, hận thù bằng những đốm sáng nhỏ của tình thương và lòng tốt của chúng ta”.
Ánh sáng Giêsu đến trần gian để xóa tan mọi hận thù, chia rẽ, tranh giành. Ánh sáng Giêsu đến thế gian để quy tụ tất cả mọi người nên hiệp nhất, nên một trong Tình Yêu của Ngài. Hiệp nhất, yêu thương cũng chính là tâm tình mà Thánh Phaolô mời gọi cộng đoàn Côrintô mà chúng ta vừa nghe: Thưa anh em, nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tôi khuyên tất cả anh em hãy nhất trí với nhau trong lời ăn tiếng nói, và đừng để có sự chia rẽ giữa anh em, nhưng hãy sống hoà thuận, một lòng một ý với nhau. Thật vậy, thưa anh em, người nhà của bà Khơlôe cho tôi hay tin có chuyện bè phái giữa anh em. Tôi muốn nói là trong anh em có những luận điệu như: "Tôi thuộc về ông Phao-lô, tôi thuộc về ông Apôlô, tôi thuộc về ông Kêpha, tôi thuộc về Đức Kitô." Thế ra Đức Kitô đã bị chia năm xẻ bảy rồi ư? Có phải Phaolô đã chịu đóng đinh vào khổ giá vì anh em chăng? Hay anh em đã chịu phép rửa nhân danh Phaolô sao?
Tâm tình Thánh Phaolô để lại hôm nay cũng là tâm tình hết sức dễ thương mà chúng ta phải học hỏi, phải bắt chước. Một khi đã nhận ra ánh sáng Giêsu trong đời mình thì khi ấy chúng ta cũng phải sống yêu thương, hiệp nhất, một lòng một ý với anh chị em đồng loại.
Hãy bắt đầu là ánh sáng của Giêsu ngay từ trong môi trường nhỏ bé là gia đình, là chòm xóm, là công sở, nơi xứ đạo của chúng ta.
Nguyện xin ánh sáng Giêsu đến và ở lại trên mỗi người chúng ta để ngày mỗi ngày chúng ta cũng chiếu tỏa ánh sáng Giêsu trong cuộc đời của mỗi người chúng ta.
21. Chúa Giêsu là ánh sáng thật
Thời gian gần đây người dân Việt Nam liên tục sống trong cảnh bị cúp điện. Những khi bị cúp điện làm cho người dân cảm thấy như ngột ngạt và tối tăm. Vì có người cho rằng thà rằng không có điện mà đã có rồi bị cúp làm cho sinh hoạt hằng ngày trong cuộc sống như tê liệt. Nhất là nhờ có điện mà việc thắp sáng cho sinh hoạt hằng ngày trở nên nhẹ nhàng và thoải mái hơn. Mà những ngày cúp điện tới khuya làm cho sinh hoạt của người dân vào lúc đầu hôm trở nên khó khăn hơn.
Nói như vậy để cho thấy ánh sáng là một trong những nhu cầu thiết yếu của cuộc sống của con người. Ánh sáng của đèn dầu, của đèn điện, của mặt trời hay của mặt trăng có giới hạn của nó. Nó sẽ tan biến theo thời gian. Vậy có ánh sáng nào tồn tại mãi để soi bước cho người tín hữu chúng ta?
Đoạn Tin mừng hôm nay nằm trong khung cảnh sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa - biến cố Người chính thức ra đi thi hành sứ mạng của mình. Theo văn mạch của Tin mừng theo Thánh Matthêu thì những vùng đất được kể hôm nay là những vùng đất đặc biệt. Dân chúng nơi đang sinh sống trong những vùng đất này đang khao khát Đấng Cứu Thế. Vì Đấng Cứu Thế đến sẽ giải thoát họ.
Đáp lại nỗi lòng khao khát đó Chúa Giêsu đã đến với họ. Như lời tiên báo của tiên tri Isaia: "Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi" (Mt 4, 16). Vậy, giờ đây họ đã được chiếu sáng bởi ánh sáng thật là Chúa Giêsu. Người đi đến đâu là sự giải thoát được thực hiện nơi đó.
Tuần trước chúng ta đã được Thánh Gioan Tẩy Giả giới thiệu Chúa Giêsu chính là Chiên Thiên Chúa, Đấng đến gánh tội thay cho trần gian (Ga 1, 29). Thật vậy, những ai bước theo Chúa Giêsu và chọn Người làm gia nghiệp đời sẽ được sống dồi dào và hạnh phúc. Chính Người đã tuyên bố: "Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống." (Ga 8, 12)
"Tôi chỉ tin một Ðức Kitô, Ðấng tôi hằng yêu mến". Đó là lời tuyên tín của Thánh nữ Anê trước những lời dụ ngon dỗ ngọt và thậm chí là những lời răn đe của những người bắt bớ thánh nhân. Một thiếu nhi mới 13 tuổi ở độ tuổi mà người ta gọi là ăn chưa no lo chưa tới mà đã biết dùng chính mạng sống của mình để bảo vệ cho niềm tin của mình vào Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu chính là ánh sáng thật soi dẫn chúng ta trên đường về với Chúa Cha. Hãy bảo vệ niềm tin và sống niềm tin của mình vào Người trong đời sống đạo của mình.
22. Suy niệm của Lm. Giuse Trương Đình Hiền
Dẫn nhập đầu lễ:
Kính thưa ông bà anh chị em,
Nếu Chúa Nhật tuần trước phụng vụ giới thiệu cho chúng ta một Đức Kitô là Tôi Tớ khiêm hạ của Thiên Chúa, là Đấng đến để phục vụ chương trình cứu độ trong tư thế của một Người Con khiêm nhu, vâng phục, hy sinh…, thì Chúa Nhật hôm nay, Phụng vụ giới thiệu cho chúng ta một Đức Kitô Ngôn Sứ, một Đức Kitô loan báo Tin Mừng, một Đức kitô truyền giáo, một Vị Thừa Sai, một Nhà Giải Phóng. Vâng, Đức Kitô đến để giải phóng chúng ta, để giải phóng nhân loại khỏi vòng tăm tối của quỉ ma, tội lỗi và sự chết, để đem tất cả vào sự sáng của niềm vui ơn cứu độ. Niềm tin của chúng ta vào Đức Giêsu-Kitô là như thế; và đó cũng chính là niềm hy vọng, là lẽ sống, là chân lý vĩnh hằng mà chúng ta sẽ không gặp được ở bất cứ một nơi nào khác.
Giảng Lời Chúa:
1. Một thế giới luôn có bóng tối
Sau biến cố Tổ tông loài người sa ngã, cửa địa đàng đóng lại, có thiên thần cầm gươm lửa đứng canh, tổ tông loài người bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng để lầm lũi bước đi trong thương đau khổ lụy… để rồi sau đó phải chứng kiến nào bạo lực, nào sẻ chia, nào hồng thủy, nào chiến tranh loạn lạc…
Mấy lời kinh thánh đơn sơ đó đã diễn tả thân phận loài người và thế giới mà loài người sinh sống ngay từ đầu đã mang dấu vết của bất toàn, của đổ vỡ, của lầm than của bóng tối.
Và mỗi ngày, trên hành tinh nầy, chúng ta chứng kiến bao nhiêu chuyện đáng buồn cứ liên tục xảy ra, liên tục phát triển: khủng bố, chiến tranh, phá thai, ly dị, cướp bóc, hận thù, và bao nhiêu tội ác ngập tràn… Quả thật, thế giới của chúng ta hôm qua, hôm nay và ngày mai là một thế giới đã hằn sâu vết thương của tội nguyên tổ, một thế giới đang bị những thế lực của bóng tối, của tội lỗi và ma quỷ quậy phá, lũng đoạn.
2. Một thế giới được nâng lên, được cứu chuộc:
Nhưng chính trong thế giới nầy, chứ không một thế giới nào khác, Con Thiên Chúa đã xuống thế làm nguời, đã cắm lều cư ngụ giữa chúng ta:
- Ngài sinh ra trong chế độ của một bạo chúa: Hêrôđê.
- Ngài lớn lên trong một đất nước đang bị ngoại bang xâm lăng: It-ra-en đang thời bị đế quốc Rôma đô hộ.
- Ngài sống trong một xã hội mà tôn giáo đang xuống cấp và phân rẽ, bạo lực gia tăng, giàu nghèo cách biệt, bệnh hoạn tật nguyền tràn ngập khắp nơi…
Chính Tin mừng Matthêô hôm nay đã ấn chứng thêm điều đó khi tường thuật việc Chúa Giêsu đến với vùng dân ngoại bên kia bờ sông Giođan, dân Náp-ta-li, dân Dơ-vu-lon, để loán báo tin Mừng cho họ. Phải chăng đó cũng chính là điều mà bài đọc 1 hôm nay, I-sa-ia đã tiên báo: “Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiéu rọi…”
Chính trong bối cảnh đó, Đức Giêsu thành Na-da-rét đã công bố một Tin Vui: “Nước Thiên Chúa đã đến đây rồi”, “lời ngôn sứ hứa hẹn tiên báo ngày xưa nay đã trở thành hiện thực”. Và điều kiện để gặp được, để đi vào Vương Quốc đó lại chính là một cuộc “cách mạng nội tâm”, một cuộc “đổi đời từ căn bản”, một cuộc hoán cải trở lại, metanoia dứt dạc, tận cùng từ trái tim đến hành động, từ quan niệm đến thực hành:
- Thay vì ích kỷ thủ lợi cho mình hãy biết quảng đại cho đi
- Thay vì tham lam thu vén cho đầy túi hãy biết gạt bỏ để sống siêu thoát, khó nghèo giản đơn.
- Thay vì nhầy nhụa vẫn đục dâm ô, hãy vươn cao với cõi lòng thanh tao trong sáng.
- Thay vì khao khát nắm quyền để đàn áp bóc lột, cầm quyền sinh sát, hãy biết quỳ xuống khiêm hạ rửa chân và phục vụ anh em.
- Thay vì bạo loạn, gây hấn, chuốc oán hận thù, hãy làm lành làm phúc, xây dựng hòa bình…
Cứ chấp nhận những đòi hỏi ấy đi, cứ thực hành các nguyên tắc của “Tám Mối phúc thật” đi, tức khắc một thế giới mới sẽ được khai sinh, một nhân loại mới sẽ được cứu chuộc.
Kể từ buổi chiều Thứ Sáu cách đây 2000 năm trên ngọn đồi Can-Vê ngoại thành Giê-ru-sa-lem, khi Đức Kitô công bố Tin Vui cuối cùng: “Hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với ta”, thì mỗi giờ, mỗi ngày đều có một thế giới mới được khai sinh, một “vương quốc của sự thật, sự sống, công bình và yêu thương” dần dần ló dạng ở cuối chân trời.
- Vâng, một thế giới mới khai sinh cùng với Hội Thánh khi Hội Thánh họp nhau cử hành phụng vụ.
- Một thế giới mới được khai sinh cùng với bao tâm hồn thánh thiện đã sống trọn vẹn con đường của Phúc âm.
- Một thế giới mới sẽ tiếp tục được khai sinh với bao thế hệ chứng nhân tông đồ hăng say lên đường thực thi sứ vụ truyền giáo.
- Và một thế giới được khai sinh cùng với bao cuộc đời âm thầm khiêm hạ chắt chiu từng giọt mến Chúa, từng giây yêu người trong những tăm tối đời thường nhưng vẫn hân hoan trong niềm tin yêu hy vọng.
Vâng, bao lâu còn có những người Kitô hữu, còn có những con người biết sống xả kỷ yêu thương, biết phục vụ quên mình, biết trung thành với ơn gọi và sứ mệnh là bấy lâu bóng tối của sự dữ sẽ bị đẩy lùi để nhường chỗ cho một thế giới mới tràn ngập ánh vinh quang của Thiên Chúa.
Sứ điệp phụng vụ hôm nay không cho phép chúng ta sống tiêu cực và nản lòng trước một thế giới đầy thương tích, một cuộc sống vẫn dở dang…Bởi vì Thiên Chúa không thể cứu độ con người theo kiểu “mì ăn liền”, mà Ngài gọi mời chúng ta cọng tác, dấn thân và lao mình về phía trước. Điều quan trọng cũng cần chúng ta lưu ý mà thư thánh Phaolô gởi giáo đoàn Cô-rinh-tô trong bài đọc hôm nay đang nhắc khéo đó chính là: phải hiệp nhất, yêu thương, nên một, phải liên kết như cành nho trong thân nho, như chi thể trong thân thể, để làm nên một sức mạnh tổng hợp, một thế đứng mạnh mẽ. Bởi vì không phải A-pô-lô hay Phaolô nhưng chính Thiên Chúa và công cuộc cứu độ của Ngài mới là cùng đích.
Sau hết, nếu chúng ta đã cố gắng hết mình mà sao thấy cuộc đời nầy, thế giới nầy vẫn chưa có gì chuyển biến, thì ta hãy học kinh nghiệm này của Ludovic Giraud qua mấy dòng cuối của lời kinh của ông:
Và khi trên cánh đồng truyền giáo
Con đã không ngừng gieo vãi
Thế mà không thấy gì mọc lên,
Thì xin Chúa cho con giữ trọn niềm vui,
Xác tín rằng một ngày nào đó,
Vào giờ của Chúa
Nhờ lời nói và những cố gắng của con,
Rốt cuộc thì Chúa sẽ thống trị trên vũ hoàn. Amen.
23. Ơn cứu độ cho mọi người
Phật Giáo cho rằng đời là bể khổ. Nhưng tại sao khổ? Tại dục vọng hoành hành nên con người khổ. Mà dục vọng hoành hành do đâu? Phật giáo chưa giải thích rõ nguồn gốc này. Là người Kitô giáo chúng ta biết lý do. Trước kia, khi ông bà nguyên tổ của chúng ta chưa ăn trái cấm thì đời chưa khổ. Loài người lúc đó không phải đau khổ và không phải chết. Loài người lúc đó sống trong tình nghĩa với Chúa, hạnh phúc, tràn đầy sự hiểu biết và kính mến Chúa. Lúc đó, ước muốn của loài người luôn tùng phục ý chí cao thượng, luôn theo ý Chúa muốn. Từ khi loài người bỏ Chúa(ăn Trái Cấm), muốn sống ngoài sự kiểm soát của Chúa thì lý trí con người trở nên mờ tối, ý chí yếu ớt, dục vọng nổi dậy hoành hành.
Và vì nhiều người tìm cách phủ nhận đời sau, chỉ biết đời này, nên dục vọng càng được mạnh thế. Có người để sở thích điều khiển cuộc đời mình, có người coi tiền bạc là trên hết, có người cậy dựa vào quyền lực chóng qua, có người chìm đắm trong lạc thú, vô kỷ luật, bất chấp đạo đức truyền thống. Từ khi con người bỏ Chúa, con người trở nên ích kỷ, chỉ biết có mình, chỉ biết hưởng thụ. Những người này giống như những con thiêu thân. Họ đi tìm bã phù hoa, và họ cho đó là hạnh phúc. Nhưng kỳ thực họ đang lao vào ngõ bí. Tâm hồn họ trống rỗng và họ tìm cách lấp khoảng trống đó bằng những niềm tin không đâu như coi ngày, coi giờ, coi tuổi, coi bói, tìm cái lạ hoặc bỏ tiền vào các cuộc chơi phung phí. Loài người lạc đường, không biết đâu là hạnh phúc thật, đâu là những cái bẫy của ma quỷ hay thế gian đưa ra.
Vì thế, Chúa từ trời vì lòng thương xót loài người lầm lạc đã sai Con Một mình là Đức Giêsu Kitô đến dạy cho con người biết đường lên trời, cho con người biết Phúc Thật ở đâu. Phúc thật không phải ở nơi giàu có, tranh chấp, hơn thua, ức hiếp người khác. Nhưng là biết sống tinh thần nghèo, biết thương xót, biết nhận lỗi, là hiền lành tha thứ, là giữ lòng thanh sạch, là hoà thuận thương yêu và dám làm chứng cho chân lý.
Tất cả các mối phúc này thế gian cho là thua thiệt nhưng lại là có phúc thật. Người sống theo 8 mối phúc này thì lương tâm thanh thản, được coi là hiền nhân. Tuy nhiên, đôi khi họ bị thế gian coi là ngu dại hoặc có khi bị oán ghét vô cớ vì làm cho kẻ ác phải hổ thẹn, bị cắn rứt lương tâm vì họ không thông đồng với kẻ gian ác, không ủng hộ cho những hành vi trục lợi của kẻ xấu. Còn những ai biết suy nghĩ thì ca ngợi họ như những mẫu gương đáng cho mình học hỏi.
Con đường theo Chúa Giêsu là con đường bảo đảm dẫn về quê thật. Tuy nhiên, ai muốn đi trên đường này thì trước tiên phải có lòng chân thành, khiêm tốn nhìn nhận sự yếu kém, giới hạn của mình, biết hối cải và mở lòng ra cho Chúa chiếu dọi ánh sáng của Ngài vào lòng chúng ta, giúp chúng ta thắng vượt được tính ích kỷ và những xu hướng xấu.
Chúa Giêsu đã đến trần gian hơn 2000 năm rồi, nhưng nhiều người vì thành kiến đã không muốn tìm hiểu con đường Ngài dạy. Cũng có thể do chúng ta, tuy là môn đệ Chúa nhưng lại chưa sống lời Ngài, chưa làm chứng cho sự Phục Sinh của Ngài. Thế gian này vẫn còn nhiều sai lầm. Ước chi mỗi người biết khiêm tốn nhận ra những sai sót của mình mà chỉnh đốn cuộc sống, làm cho cuộc đời mình tràn đầy ý nghĩa, tràn đầy niềm vui thánh thiện, biết cống hiến những khả năng Chúa ban mà phục vụ anh em mình. Nhờ đó, mọi người sẽ nhận ra ơn Cứu Chuộc của Chúa Giêsu Kitô.
24. Được cứu độ bằng tình yêu--Lm. HK
Epictète là một triết gia - nô lệ tại xứ Syracuse. Ông vua độc tài của Syracuse đọc sách của Epictète viết, thấy hay quá nên mới ra quyết định cho Epictète không phải làm nô lệ nữa. Epictète trả lời:
- Vua hãy tự giải thoát chính mình đi.
- Nhưng ta là vua mà, ông vua độc tài ngạc nhiên.
- Một nhà độc tài là kẻ phải làm nô lệ cho các dục vọng của mình, còn một người nô lệ làm chủ được các dục vọng của mình mới là một người tự do. Hỡi Đức Vua, hãy tự giải thoát chính mình đi.
Ai cũng thấy rõ sức mạnh rất lớn của các dục vọng trong lòng mình, như cổ nhân đẽ khéo ví von: “Vũ vô kiềm toả năng lưu khách, sắc bất ba đào dị nịch nhân” (Mưa không xiềng xích vẫn lưu được khách, sắc chẳng ba đào dễ đắm lòng người).
Có dục vọng tốt nhưng cũng có dục vọng xấu lôi kéo con người và xích chặt tâm hồn họ vào tội lỗi. Trong Thánh Kinh, các dục vọng tội lỗi được diễn tả như bóng tối mịt mù ràng buộc và ngăn cản nhân loại trên đường tìm đến hạnh phúc đời đời: “Họ phải sống trong cảnh tối tăm mù mịt, kiếp lầm than xiềng xích gông cùm; vì họ chống cưỡng lời Thiên Chúa, dám khinh nhờn lệnh Đấng Tối Cao” (Tv 107,10).
Các dục vọng xấu là dư âm của cuộc sa ngã đầu tiên, khi người ta bị cám dỗ bước vào con đường vị kỷ, qui ngã, muốn trở nên Thiên Chúa.
Cái mất lớn nhất tính vị kỷ đã gây ra cho con người là làm cho họ mất khả năng nói lời yêu thương, tiếng nói của thần tính mà Thiên Chúa ban tặng cho loài người. Sau khi sa ngã, Ađam và Eva đã quên đi tình liên đới, không còn biết đến niềm vui của sự cho đi: Ađam đã đổ tội cho Eva: “Người đàn bà Ngài cho ở với con, đã cho con trái cây ấy, nên con ăn” (St 3,12).
Để hoàn toàn loại trừ xu hướng vị kỷ, là bóng tối dẫn đến sự chết và là cái ách đè nặng lên cuộc sống con người, Đấng Cứu thế đã chiếu sáng thế gian bằng một tình yêu tuyệt đối, một tình yêu trút bỏ chính mình vì người khác: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” (Pl 2,6-8).
Tình yêu Đức Kitô là ánh sáng phá tan gông cùm của bóng tối sự chết luôn đè nặng lòng người. “Cái ách đè lên cổ dân, cây gậy đập xuống vai họ, và ngọn roi của kẻ hà hiếp, Ngài đều bẻ gẫy” (Is 9,1). Tình yêu đó làm thoả mãn được cái đói từ sâu thẳm trong lòng người, nên có sức lôi cuốn người ta bỏ tất cả đi theo Ngài … không hề có việc trả giá: “Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà theo Người… Lập tức các ông bỏ thuyền, bỏ cha lại mà theo Người” (Mt 4,20.22).
Thế nhưng giữa người tin vào Đức Kitô vẫn còn đó những bóng tối vị kỷ ngay trong việc truyền bá tình yêu cứu độ. Thánh Phaolô đã cảnh báo về một tình yêu đã bị đánh mất vẻ đẹp, nơi những người muốn rao giảng một Tin Mừng của riêng mình: “Tôi muốn nói là trong anh em có những luận điệu như: ‘Tôi thuộc về ông Phaolô, tôi thuộc về ông Apôlô, tôi thuộc về ông Kêpha, tôi thuộc về Đức Kitô”!
Vì thế, thánh Phaolô coi tình yêu quên mình của Đức Kitô chịu đóng đinh mới là tất cả những gì cần được rao giảng: “Đức Kitô … sai tôi đi rao giảng Tin Mừng, và rao giảng không phải bằng lời lẽ khôn khéo, để thập giá Đức Kitô khỏi trở nên vô hiệu” (1Cr 1,12.17).
Đúng thế, thập giá Đức Kitô cũng có thể ra vô hiệu khi bị che chắn bởi bóng tối của lòng vị kỷ, tình yêu tinh tuyền của Đức Kitô bị lu mờ bởi sự chia rẽ giữa các Kitô hữu. Vì thế mà thánh Phaolô tha thiết nài xin: “Đừng làm chi vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác” (Pl 2,2-4).
Khi làm việc trong bóng tối, điêu khắc gia đại tài Michelangelo thường gắn một cây nến nhỏ trên nón mình để cái bóng của ông không đổ lên bức tranh đang vẽ, lên pho tượng đang đắp. Điều đó làm cho F.L.McKean suy nghĩ: “chúng ta cũng phải hết sức cẩn thận, đừng để cho cái bóng của mình, những kẻ tìm kiếm tư lợi, đổ trên điều mà chúng ta đang làm cho Chúa Kitô”.
“Lạy Chúa Giêsu, xin dạy con biết ở nhiệt thành, biết mến Chúa cho xứng đáng, biết thi ân mà không xá kể, biết chiến đấu mà không sợ đau thương, biết hoạt động mà không tìm an nghỉ. Tận tình với chức vụ mà không mong phần thưởng nào khác, một biết mình làm theo ý Chúa luôn. Amen” (thánh Ignatiô Loyôla).
25. Hãy hối cải, vì nước Trời đã gần đến--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Bước vào Chúa nhật thứ III thường niên, chúng ta thấy Chúa Giêsu sau khi chịu phép rửa tại sông Giorđan, được Gioan giới thiệu cho mọi người biết Ngài là: "Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian " (Ga 1, 29). Điều các ngôn sứ đã báo trước nay được thực hiện: "Tại Galilêa các dân tộc và dân chúng thấy một ánh sáng vĩ đại" (Is 9, 1-4 (Hr 8, 23b - 9, 3). Ánh sáng vĩ đại ấy là ai nếu không phải là Chúa Giêsu. Thật thế, Chúa Giêsu xuất hiện giữa dân chúng, như ánh bình minh rạng ngời buổi sáng, xua tan bóng tối đêm đen. Dân chúng thấy Ngài như thấy ánh sáng huy hoàng... xuất hiện cho người ngồi trong bóng tối sự chết " (Mt 12, 16), ánh sáng ấy nay tỏ rạng công khai khi rao giảng: " Hãy hối cải, vì nước Trời đã gần đến" (Mt 12, 17).
Ánh sáng ấy là Chúa Giêsu
Matthêu giải thích, Chúa Giêsu "rời bỏ thành Nadarét, đến ở miền duyên hải, thành Capharnaum, giáp ranh đất Giabulon và Nepthali". Với địa danh chính xác như thế, nhưng mục đích của tác giả không phải là cung cấp cho chúng ta những chỉ dẫn du lịch. Ý tưởng thần học của Matthêu được giải thích ngay: " để ứng nghiệm lời đã phán bởi miệng tiên tri Isaia " (Bài đọc I).
Ứng nghiệm điều gì? Giabulon và Nepthali là hai vùng thuộc miền Bắc lúc ấy đang bị sát nhập vào vương quốc A-sy-ri. Thật là hổ người khi nhớ lại quá thất bại và bị đuổi ra ngoài. Tuy nhiên, vị tiên tri với niềm tin vững mạnh đã tuyên bố: "Dân ngồi trong tối tăm đã thấy ánh sáng huy hoàng". Nói cách khác, Isaia muốn khơi lên niềm hy vọng nơi những người tin cậy Chúa, Đấng giải thoát họ, nên ông không ngần ngại nói về ơn cứu rỗi. Đó là sức mạnh của Lời Chúa, Lời thực hiện những gì đã tuyên bố, Isaia gợi lên niềm vui đến từ đức tin:" dân chúng vui mừng trước nhan Chúa như nhà nông vui mừng trong mùa gặt. " Thánh Vịnh một lần nữa vang lời động viên: "Tôi tin rằng tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh. Hãy chờ đợi Chúa, hãy sống can trường, hãy phấn khởi tâm hồn và chờ đợi Chúa". Niềm tin này khiến chúng ta vui mừng vì lời hứa của Thiên Chúa được thực hiện: "Chúa là sự sáng và là Đấng cứu độ tôi ". Sự sáng ấy nay cụ thể hóa nơi con người Đức Giêsu Kitô, thánh Matthêu xác định: "Chúa Giêsu lui về Galilêa. Người rời bỏ thành Nadarét, đến ở miền duyên hải, thành Ca-pharnaum, giáp ranh đất Giabulon và Nepthali, để ứng nghiệm lời đã phán bởi miệng tiên tri Isaia rằng: "Hỡi đất Giabulon và đất Nepthali, đường dọc theo biển, bên kia sông Giođan, Galilêa của ngoại bang! Dân ngồi trong tối tăm đã thấy ánh sáng huy hoàng; ánh sáng đã xuất hiện cho người ngồi trong bóng sự chết".
Bước theo Chúa Giêsu cần phải hối cải
Ánh bình minh đã ló rạng, từ trên cao chiếu soi dân ngồi trong bóng tối là chính Chúa Giêsu Kitô. Ai bước vào trong ánh sáng ấy cần phải: " Hối cải"nghĩa là đi từ bóng tối ra ánh sáng, từ tội lỗi sang đời sống là con cái Chúa, từ tuyệt vọng đến hy vọng, từ chán nản đến vui mừng. Và Chúa muốn ánh sáng ấy chiếu soi mọi người; nên Chúa đã chọn các môn đệ như những người phụ tá.
Khi Chúa Giêsu gọi các môn đệ của mình "Hối cải". Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta rằng, dù thuộc về Phaolô, Phêrô hay Apôlô cũng chỉ có một Đức Kitô. Mọi con mắt phải hướng về Ngài, chính Ngài cứu chuộc chúng ta. Vì thế, khi gọi các môn đệ, là để các ông trở nên những chứng nhân của Tin Mừng, nên Thánh Phaolô có thể nói: " Đức Kitô không sai tôi đi rửa tội, mà là đi rao giảng Tin Mừng, không phải bằng lời nói khôn khéo, kẻo thập giá của Đức Kitô ra hư không. " Phaolô được chọn, để loan báo một Đấng Cứu Thế bị đóng đinh cho thế gian.
Ngày nay Chúa cũng mời gọi chúng ta mang vào thế giới sứ điệp sự thật và tình thương của Ngài. Chúng ta hãy sẵn sàng tham gia vào sứ mạng này và nhất là cầu nguyện xin Chúa đừng để những chia rẽ và tranh chấp giữa các tín hữu Kitô làm lu mờ khả năng chiếu tỏa của Tin Mừng.
Hối cải để hiệp nhất
Lời Chúa mời gọi chúng ta: "Hãy hối cải, vì nước Trời đã gần đến", vẫn luôn có tính chất thời sự của Tin Mừng. Sự quyết tâm hoán cải, trở về cùng Chúa Kitô là con đường dẫn đưa Giáo Hội đến sự hiệp thông hữu hình trọn vẹn vào thời kỳ Thiên Chúa thiết định. Các cuộc gặp gỡ đại kết trong thời gian gần đây gia tăng trên thế giới là một dấu chỉ chứng tỏ điều đó.
Trước giờ Kinh Truyền Tin trưa Chúa nhật 23/1/2011, Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI đưa ra lời kêu gọi sau đây: "Ngày nay cũng vậy, để trở thành dấu chỉ và phương thế kết hiệp sâu xa với Thiên Chúa trong thế giới, các tín hữu Kitô chúng ta phải xây dựng cuộc sống trên 4 cột trụ, đó là: cuộc sống trên nền tảng đức tin của các Tông Đồ được chuyển lại trong Truyền Thống sinh động của Giáo Hội, tình hiệp thông huynh đệ, Thánh Thể và kinh nguyện. Có thế, Giáo Hội mới được kết hiệp bền vững với Chúa Kitô và chu toàn sứ mạng của mình, dù có những chia rẽ nhưThánh Phaolô Tông Đồ nói đến: "Hỡi anh em, tôi khuyên nhủ anh em tất cả hãy đồng tâm hiệp ý trong lời nói, để không có sự chia rẽ nơi anh em, nhưng hãy kết hiệp trọn vẹn trong tư tưởng và cảm thức" (1 Cr 1,10). Thực ra Thánh Tông Đồ đã biết trong cộng đoàn Kitô ở Côrintô, đã nảy sinh những bất thuận và chia rẽ; vì vậy, ngài nghiêm nghị viết thêm rằng: "Phải chăng Chúa Kitô bị chia rẽ sao?" (1,13). Ngài quả quyết mọi chia rẽ trong Giáo hội là làm xúc phạm đến Chúa Kitô, Thủ Lãnh duy nhất và là Chúa, chúng ta luôn luôn có thể tái hiệp nhất, nhờ sức mạnh vô tận của ơn thánh Chúa.
Theo giáo huấn của thánh Phaolô, chúng ta được mời gọi loại bỏ gương mù chia rẽ nơi chúng ta để mang sứ điệp của Chúa Kitô Phục Sinh cho tất cả mọi người. Chúng ta hãy cầu nguyện xin Chúa cho sớm đến ngày Giáo Hội được hoàn toàn hiệp nhất. Amen.
26. Ơn cứu độ phổ quát--R. Veritas
Đức Thánh Cha Phaolô II đã có lần mạnh mẽ lên tiếng kêu gọi toàn thể Giáo Hội tại Mỹ Châu, hãy tìm giải pháp cho những vấn đề trầm trọng đang tác hại tại lục địa này. Chúng ta hãy cùng lắng nghe một đoạn trong bài giảng của Đức Thánh Cha trong Thánh Lễ cử hành tại Guadalupe, Mexico:
Giáo Hội đã có Tin Mừng sự sống và sự can đảm của tiên tri, Giáo Hội lại có các nền văn hoá của chết chóc. Ước gì đại học của hy vọng này cũng là đại học của sự sống, đấy là tiếng báo động lớn của chúng ta, hãy kiến tạo một cuộc sống mới xứng đáng cho tất cả mọi người, cho các thai nhi đã được cưu mang trong lòng mẹ, cho những trẻ em bụi đời sống ngoài đường phố, cho những người dân bản xứ, cho những người dân Phi Châu, cho những người di dân vì tị nạn, cho những người trẻ chiếm nhiều cơ hội để thăng tiến đời mình, cho những người già cả, cho tất cả những ai đang nếm trải sự nghèo khổ hay bị loại ra bên lề xã hội.
Đã đến lúc chúng ta phải nhất quyết loại trừ ra khỏi đại học Mỹ Châu này bất cứ sự tấn công nào chống lại sự sống. Xin đừng bao giờ có bạo lực, đừng bao giờ có khủng bố và buôn bán ma túy, đừng bao giờ có nạn tra tấn, hay những hình thức lạm dụng khác, cần phải chấm dứt việc kết án tử hình, đừng bao giờ có nạn khai thác bóc lột những kẻ yếu thế, đừng bao giờ có nạn kỳ thị chủng tộc, đừng bao giờ có những khu ổ chuột cùng khổ, đừng bao giờ có những tệ nạn như vậy. Đó là những tệ nạn không thể dung chấp được, những tệ nạn này kêu thấu đến tận Trời cao và mời gọi các tín hữu Kitô hãy có một nếp sống khác, hãy dấn thân vào trong xã hội, mục kích phù hợp hơn với đức tin của mình".
Những lời trên đây của vị chủ chăn Giáo Hội hoàn vũ là một tiếng vang của chính Tin Mừng mà Chúa Giêsu đã mang đến cho nhân loại cách đây hơn hai ngàn năm. Hiện nay tại các nhà thờ Anh Giáo bên Anh Quốc, người ta đang thấy trưng bày những tấm bích chương có vẽ hình Chúa Giêsu giống hệt dung mạo của nhà cách mạng nổi tiếng Thêghê Bara, ông là một bác sĩ, đã từng là bạn của chủ tịch Fidel Castro, người Cuba. Ông muốn quảng bá lý tưởng cách mạng bạo động cho toàn thể Châu Mỹ Latinh, thế nhưng ông đã ngã gục vào giữa thập niên sáu mươi.
Chúa Giêsu quả thật là một nhà cách mạng nhưng Ngài không hề có chủ trương dùng bạo động để thực hiện cách mạng. Hơn nữa, cuộc cách mạng mà Chúa Giêsu đã thực hiện càng không có tính cách chính trị, kinh tế hay xã hội. Cuộc cách mạng mà Chúa Giêsu thực hiện qua chính cuộc sống của Ngài và được Giáo Hội tiếp tục giảng dạy và thể hiện thiết yếu là cuộc cách mạng bản thân. Tính cách mạng ấy được Chúa Giêsu thốt lên khi bắt đầu khai mạc sứ vụ công khai của Ngài: "Hãy hối cải vì Nước Trời đã đến gần".
Trong chương trình cách mạng ấy của Chúa Giêsu, chúng ta bắt gặp lẽ khôn ngoan nghìn đời của các nhà hiền triết Đông Tây: "Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ". Có tu thân nghĩa là cố sống cho ra người thì người ta mới có thể lãnh đạo gia đình, cai trị đất nước và mang lại thái bình cho thế giới.
Khi nghe lời kêu gọi hòa bình của Giáo Hội, nhà độc tài Stalin đã thách thức, thử hỏi xem Giáo Hoàng có bao nhiêu sư đoàn? Có thể Stalin đã quên lời nhận xét của người sáng lập ra chủ nghĩa cộng sản là Lênin như sau: "Chỉ cần mười người như thánh Phanxicô nghèo, thì cũng đủ để cải tạo xã hội Nga".
Quả thật ở bất cứ thời đại nào, thế giới cần nhiều vị thánh hơn là những con người tài ba. Khoa học và kỹ thuật đang tiến bộ với tốc độ nhanh chóng khiến chúng ta phải chóng mặt, các tiện nghi ngày càng tối tân, con số các nhà tỷ phú trên thế giới ngày càng gia tăng, của cải do con người tạo ra ngày càng ứ đọng, vậy mà tình hình thế giới được các phương tiện truyền thông đưa lên vẫn là một bức tranh xám xịt. Chiến tranh, chết chóc và nhất là đói khổ vẫn còn bao phủ phần lớn địa cầu của chúng ta. Bên này bán cầu thừa mứa của cải vật chất, thì bên kia bán cầu còn tới không biết bao nhiêu người đang lâm cảnh chết đói. Trong một quốc gia, một thiểu số nhỏ kẻ nắm giữ trong tay phần lớn của cải, còn số đông phải quằn quại trong khốn khổ. Nguyên nhân của sự chênh lệch ấy giải pháp cho vấn đề nằm ngay trong chính lòng con người, bao lâu vẫn còn có những người chiếm giữ quyền hành trong tay và chối bỏ những quyền cơ bản nhất của người khác thì bấy lâu vẫn còn có một số người phải quằn quại đói khổ. Bao lâu con người chưa hối cải và sống cho ra người thì bấy lâu thế giới vẫn không bao giờ có được hòa bình thật sự.
Hãy hối cải, hãy sống cho ra người, nếu chúng ta quyết tâm thực hiện mệnh lệnh này của Chúa Giêsu trong môi trường sống của chúng ta hằng ngày, thì không những chúng ta đóng góp vào cuộc cải tạo xã hội mà còn chứng tỏ cho mọi người thấy được rằng, Nước Trời thực sự đang đến.
Đó là niềm xác tín, đó là niềm tin của chúng ta, giờ đây chúng ta hãy cùng nhau nài xin Chúa ban cho chúng ta niềm tin này.
27. Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng--Radio Veritas Asia
Gợi ý để sống và chia sẻ Tin Mừng
Bài Tin Mừng hôm nay giới thiệu hai việc làm quan trọng của Ðức Giêsu, đó là: rao giảng về Nước Thiên Chúa (cc.12-17) và kết nạp những môn đệ đầu tiên (cc.18-22)
Rao giảng về Nước Thiên Chúa. - Tin Mừng Matthêu cho thấy Ðức Giêsu được công khai giới thiệu là Con Thiên Chúa về cuối trình thuật Người chịu phép rửa (3,13-17). Kế đến, Người đã tỏ ra hoàn toàn gắn bó với ý của Thiên Chúa qua các cơn cám dỗ nơi sa mạc (4,1-11). Chính qua thử thách Ðức Giêsu tỏ rõ Người mật thiết với Thiên Chúa như thế nào trong tư cách là Con Thiên Chúa.
Từ Giuđê, Ðức Giêsu xuống Galilê để thi hành thừa tác vụ của mình cách công khai (4,12-17). Sự kiện ông Gioan Tẩy Giả bị tiểu vương Hêrôđê bắt bỏ tù chưa phải là lý do chính yếu để Ðức Giêsu thi hành sứ vụ tại Galilê thay vì tại Giuđê. Lý do chính yếu là ý của Thiên Chúa, như được loan báo trong sách ngôn sứ Isaia 9,1-2.
Cốt lõi của lời Ðức Giêsu rao giảng về Nước Thiên Chúa được tóm gọn trong câu 17: "Anh em hãy sám hối vì Nước Thiên Chúa đã đến gần." Gioan Tẩy giả đã từng rao giảng nguyên văn cũng lời đó (3,2).
Sám hối (metanoia trong Hy ngữ) là thay đổi não trạng. Không chỉ dứt bỏ hành động tội lỗi nhưng dứt bỏ tâm trạng hướng ta tới hành động đó. Cần thống hối để trở về đường thiện, tức là trở lại (epistrephein trong Hy ngữ).
Nhưng tại sao cần phải sám hối? Lý do vì Nước Thiên Chúa đã đến gần. Nước Thiên Chúa chỉ về quyền lực và cuộc phán xét do Ngài, cũng như chỉ về quyền thống trị của Ngài trên mọi thọ tạo. Ta sẽ thấy cuộc chiến thắng tối hậu của Thiên Chúa được khai trương nơi tác vụ của Ðức Giêsu là Con Thiên Chúa.
Chính Thầy đã chọn anh em để anh em đi và mang lại nhiều hoa trái
Kết nạp những môn đệ đầu tiên. - Trình thuật của Matthêu về cuộc kết nạp này cũng giống như trong Mc 1,16-20. Theo kế hoach tổng quát, Matthêu giới thiệu ba môn đệ trở thành bộ ba thân cận nhất trong nhóm Mười Hai, đó là Phêrô, Giacôbê và Gioan. Bộ ba này sẽ có mặt khi Ðức Giêsu cho một người đã chết sống lại (Mc 5,37), khi Người biến hình trên núi (Mt 17,1) và khi Người cầu nguyện tại vườn Ghết-sê-ma-ni (Mt 26,37).
Các môn đệ sẽ là những người đến gần Ðức Giêsu khi Người giảng bài giảng trên núi, bài giảng này được kể như hiến chương về Nước Thiên Chúa (Mt 5,1). Chính từ những người được gọi là môn đệ, Ðức Giêsu sẽ thiết lập nhóm Mười Hai (Mt 10,1-4). Và nhóm Mười Hai này sẽ là nhóm được giao sứ mạng đi đến với muôn dân và làm cho muôn dân trở nên môn đệ của Ðức Giêsu (Mt 28,19).
Giữa nhóm Mười Hai, nổi bật nhất là ông Simon, được Ðức Giêsu gọi bằng danh xưng mới là Phêrô. Khi ông Simon tuyên xưng Ðức Giêsu là "Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống." Ðức Giêsu liền nói với Simon: "Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Ðá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi." (Mt 16,16-18).
Vậy mọi Kitô hữu đều phải trở nên môn đệ của Ðức Giêsu, môn đệ theo nghĩa họ phải tuân giữ mọi điều Ðức Giêsu đã dạy. Những điều ấy nhóm Mười Hai có nhiệm vụ truyền lại cho muôn dân (Mt 28,20). Chính nhờ gương sáng của các tông đồ, là các môn đệ đầu tiên, người Kitô hữu nhận ra mình được mời gọi để tiến triển như thế nào trong ơn gọi làm môn đệ Chúa Giêsu.
Cựu Ước hầu như không có ý niệm về người môn đệ theo cái nhìn của Chúa Giêsu. Trước thời lưu đày Babylon (597-538 B.C), dân Ít-ra-en còn có một số ngôn sứ với đồ đệ tháp tùng, như ngôn sứ Êlia có Êlisêu là môn đệ. Sau thời lưu đày, tại Ít-ra-en, người ta thấy xuất hiện các thầy Rápbi thay thế các ngôn sứ. Các thầy này dạy người ta các luật phải giữ trong Do thái giáo dựa theo các truyền thống khác nhau. Các thầy rápbi không chọn học trò để truyền kiến thức; chính các học trò chọn đến với thầy rápbi nào họ muốn.
Chính Thầy đã chọn anh em (Ga 15,16). - Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy chính Ðức Giêsu đã chọn các moan đệ đầu tiên (cc.19.21). Sau này, Người còn gọi ông Lêvi (Mt 9,9). Người cũng gọi ông Philipphê (Ga 1,43). Tóm lại, "Người gọi đến với Người những kẻ Người muốn" (Mc 3,13). Trong Tin Mừng Gioan, điều đó được Ðức Giêsu khẳng định rất rõ: "Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái và hoa trái anh em tồn tại" (Ga 15,16).
Với xã hội Do thái, chọn học với một thầy rápbi là xây dựng cho mình một nghề, nghề đó bảo đảm cho học viên chỗ đứng đáng ước ao trong xã hội. Với Ðức Giêsu, điều hứa hẹn khác hẳn. Trở nên môn đệ của Ðức Giêsu là để ở lại với Người để chia sẻ cuộc sống và sứ mạng của Người. Cốt lõi của ơn gọi làm môn đệ Chúa Giêsu là cuộc dấn thân vào sự sống và vào sứ mạng của Người.
Bước theo Ðức Giêsu là bước trên đường Thập Giá đưa tới vinh quang
Ðó chính là điều Chúa Giêsu phục sinh nói với hai môn đệ đi Emmau: "Nào Ðấng Kitô chẳng phải chịu đau khổ rồi mới vào trong vinh quang của Người sao? (Lc 24,26). Ai đến học với một thày rápbi đạo Do thái, không bao giờ chấp nhận điều kiện như vậy. Người đó không buộc phải từ bỏ điều gì thuộc về nghề nghiệp và chỗ đứng của mình trong xã hội.
Ngược lại, người môn đệ Ðức Giêsu phải nhận lấy cái nhìn của Ðức Giêsu làm cái nhìn của mình về mọi sự. Lý do vì Ðức Giêsu là Con Thiên Chúa đến thiết lập Nước của Ngài trên mọi thọ tạo. Toàn thể tạo thành phải được điều khiển theo ý Ngài và ý đó chính Ðức Kitô là Con Thiên Chúa, biết rất rõ: "Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ Người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mạc khải cho." (Mt 11,27).
Ðức Kitô mạc khải cho các môn đệ ý của Thiên Chúa không qua một bài báo hoặc một cuốn sách. Tất cả các sách Tân Ước sau này mới được viết ra. Ðó là khi trọn ý của Thiên Chúa đã được chu toàn qua lời nói và việc làm của Ðức Giêsu là Con Thiên Chúa. Nhờ Chúa Thánh Linh soi sáng, các môn đệ là những người được gọi để ở lại với Ðức Giêsu từ khi Người công khai rao giảng về Nước Thiên Chúa cho tới khi Người tắt thở và được phục sinh, khi ấy mới rõ ý Thiên Chúa đã trở nên sống động nơi cuộc đời của Ðức Giêsu là Con Thiên Chúa.
Nền giáo dục mà các môn đệ của Ðức Giêsu được hấp thụ là một nền giáo dục thiết thân với sự sống, nỗi chết và sự sống lại của Ðức Giêsu. Các ông được khuyến cáo đảm nhận lấy nền giáo dục đó: "Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng nhân hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách của tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng" (Mt 11,28-29).
Luật Cựu Ước xưa trở nên ách nặng nề cho dân Thiên Chúa. Nay Ðức Giêsu là hiện thân của Tình Yêu Thiên Chúa, đến làm cho mọi sự trở nên nhẹ nhàng nhờ sức mạnh của yêu thương. Chính Ngài hy sinh để muôn dân được hạnh phúc. Ngài mời gọi họ trở nên môn đệ Ngài và đi trên cũng một con đường yêu thương chính Ngài lãnh đạo.
Một số câu hỏi gợi ý
1. Bạn hiểu thế nào về sám hối khi nói: Sám hối đòi ta không chỉ dứt bỏ hành động tội lỗi mà còn phải dứt bỏ não trạng hướng ta tới những hành động đó?
2. Bạn hiểu thế nào khi nói: Bước theo Ðức Giêsu là bước trên đường thập giá đưa tới vinh quang?
28. Phẩm chất đầu tiên của người môn đệ--Lm. Ignatiô Trần Ngà
(Để minh họa cho sứ điệp của Tin Mừng hôm nay, chúng ta thử phác hoạ tâm trạng của Simon Phêrô khi được gọi làm tông đồ và được Chúa Giêsu trao trọng trách trong Giáo Hội)
Hôm ấy, tại thành Xêdarê Philípphê, sau khi Simon Phêrô tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống và được Chúa Giêsu long trọng tuyên bố trước mặt các môn đệ: "Simon, Anh là Tảng Đá, và trên Tảng Đá nầy, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy... Thầy sẽ trao cho Anh chìa khoá Nước Trời. Những gì Anh cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc, những gì Anh tháo cởi dưới đất, trên Trời cũng tháo cởi" (Mt 16, 13-19)... thì liền sau đó, Simon Phêrô đâm ra đăm chiêu nghĩ ngợi. Simon vẫn nghĩ rằng một người thuyền chài quê mùa chất phác như mình thì chẳng làm được gì khác ngoài việc quăng chài hay kéo lưới.
Đêm ấy, trằn trọc không ngủ được vì những lời Thầy vừa công bố và trong thinh lặng của màn đêm, Simon hồi tưởng lại buổi sáng đẹp trời cách đó không lâu trên biển hồ Galilê, đang khi ông và An-rê đang quăng chài dưới biển thì Thầy tiến đến. Thầy giơ tay vẫy chào và cất tiếng gọi mời: "Các Anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các Anh thành những kẻ lưới người như lưới cá!"
Lời Thầy có sức cuốn hút nhiệm mầu. Thế là hai anh em bỏ thuyền bỏ lưới theo Thầy.
Đi một quãng nữa, Thầy gặp hai anh em khác con ông Dêbêđê, là ông Giacôbê và người em là Gioan. Hai ông này đang cùng với cha là ông Dêbêđê vá lưới ở trong thuyền. Thầy lại cất tiếng mời gọi, lập tức các ông bỏ thuyền, bỏ cha lại mà theo Thầy. (Mt 4, 18-22)
Thế là bốn bạn chài quê mùa xứ Galilê bỗng nhiên trở thành những môn đệ đầu tiên của Thầy Giêsu, được gọi lên đường chinh phục thế giới...
Đang mơ màng với dòng suy tưởng, Simon chợt thấy Thầy mới trở về sau giờ cầu nguyện, Anh liền mời Thầy ra ngoài góc sân và nói:
"Thầy ơi! Tại sao sáng nay Thầy lại đề cao con quá vậy? Con đáng sá gì mà Thầy đặt con làm Đá Tảng cho Thầy xây Hội Thánh, con có là gì mà nắm giữ chìa khoá Nước Trời! Thầy không nhớ con xuất thân từ một gã thuyền chài ư? Sao Thầy không chọn những luật sĩ uyên bác? Sao Thầy không tìm người lãnh đạo nơi hàng ngũ những người biệt phái uy tín và đạo đức mà lại chọn dân chài như chúng con?
Chúa Giêsu ôn tồn vỗ vai Simon: "Simon, đừng lo! Đây không phải là việc của con người mà là việc của Thiên Chúa. Rồi đây các Anh sẽ là những người thay đổi bộ mặt thế giới".
* * *
Để chinh phục thế giới, Thiên Chúa đã chọn bốn người thuyền chài làm những môn đệ đầu tiên và lại giao cho ngư phủ Simon Phêrô thay Ngài lãnh đạo Hội Thánh.
Tại sao Chúa Giêsu lại trao cho hạng ngư phủ đảm nhận những cương vị hết sức hệ trọng nầy?
Phải chăng tiêu chí đầu tiên của Chúa Giêsu khi tuyển chọn môn đồ và những người kế vị mình trong sứ mạng cao cả và đầy gian truân là phải dạn dày sương gió, là không ngại khó, sẵn sàng đối đầu với bão tố cuồng phong? Ngư phủ là những người vốn có những tố chất như thế trong máu thịt mình.
Nếu không có những con người dạn dày sương gió như thánh Phanxicô Xavie vượt đại dương đi đến với các dân tộc xa lạ trên lục địa châu Á mênh mông, không có những người xâm mình mạo hiểm như các nhà thừa sai Paris đến rao giảng Tin Mừng tại Việt Nam trong thời kỳ cấm cách và bắt bớ... thì làm gì có hạt giống đức tin triển nở dồi dào trên các vùng đất Á Châu cũng như ở Việt Nam!
Và hôm nay, Giáo Hội Việt Nam đang khựng lại trên con đường truyền giáo, số lượng những người theo Chúa không thể tăng lên trong suốt nhiều thập kỷ qua, cũng chỉ vì thiếu những con người dạn dày sương gió bất chấp nguy khó để loan báo Tin Mừng.
* * *
Lạy Chúa Giêsu, Giáo Hội Việt Nam cũng như Hội Thánh Chúa trên khắp hoàn cầu đang cần những con người nhiệt thành, mạo hiểm, cần đến những người dám lìa bỏ bờ bến an toàn để dấn bước ra khơi.
Xin Chúa tiếp tục rảo bước trên quê hương chúng con và kêu gọi thêm nhiều tâm hồn thiện chí để bổ sung vào đội ngũ các môn đệ tiên phong của Chúa ngày xưa.
Xin cho ngọn lửa của Chúa Thánh Linh trong ngày lễ Ngũ Tuần tiếp tục cháy lên trong lòng các môn đệ Chúa để cho Tin Vui, Tin cứu độ của Chúa được loan báo cho hết mọi người.
29. Đừng ngủ mê trong tội--Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Tiếng bà vợ dịu ngọt nói chồng: Anh ơi đi xưng tội đi. Lâu rồi không thấy anh xưng tội.
Anh chồng đáp: Xưng xong có chừa được đâu mà xưng.
Cô vợ: Thế thì hôm nay anh đừng ăn nhé
Anh chồng: Không ăn mà chết đói à!
Cô vợ: Vì ăn xong rồi cũng đói, thế thì ăn làm gì cho mệt.
Anh chồng!
Con người thường ít muốn thay đổi. Cho dù cuộc sống của họ đang chìm ngập trong tội lỗi. Họ vẫn ngại đến với tòa giải tội. Họ sợ phải đối diện với sự thật. Vì sự thật sẽ phơi bầy toàn bộ hành vi bất chính, tội lỗi của họ. Họ vẫn sống chai lỳ trong điều gian ác mà vẫn không áy láy lương tâm. Chính vì lối sống mất ý thức về tội lại không dám đối diện với sự thật khiến họ lao mình vào cuộc sống với những đam mê hưởng thụ bất chấp luân thường đạo lý, hay lao vào tìm kiềm danh lợi thú bất chấp thủ đoạn tàn bạo. Điều này đã làm cho xã hội tội lỗi tràn lan đến mức độ chưa bao giờ tội pham nhiều như ngày nay.
Ngày 03.01.2014 một phiên tòa lưu động có số bị cáo đông nhất Việt Nam từ trước đến nay đã diễn ra tại sân trại giam của công an tỉnh Quảng Ninh tổng cộng đến 89 bị cáo dính đến 4 đường dây mua-bán, vận chuyển trên 4,400 bánh heroin hiện diện tại phiên tòa dự tính kéo dài ba tuần lễ.
Theo báo Tiền Phong, phiên tòa nói trên cũng quy tụ số luật sư biện hộ đông nhất từ trước đến nay: 41 người. An ninh phiên tòa lưu động được xiết chặt, vì người ta dự đoán có thể tới 66 bản án tử hình sẽ được tuyên.
Án tử hình rất nhiều nhưng xem ra không ý thức về tội, không có lòng sám hối nên tội phạm vẫn gia tăng. Ngay cả các tội nhân tại tòa cũng thường ít nói lời xin lỗi vì mình đã gây nên những đau khổ cho xã hội bởi hành vi bất chính của mình. Thậm chí cả người nhà tội nhân còn bênh vực cho hành vi tội lỗi của con cái mình.
Mới đây trong một phiên tòa khi tòa tuyên án kẻ cầm đầu bọn cướp chuyên nghề chặt tay cướp xe thì tiếng la hét đanh đảnh của một người mẹ đã hét lên không chấp nhận sự thật ấy. Bà quát to rằng: con tôi không giết người sao lại tử hình con tôi? Bà còn quay lại chỗ những người bị hại mà con bà chặt tay để cướp của nói rằng: Biết con tao tử hình thì tao đã cho người giết chết chúng mày! Xen lẫn tiếng bà là tiếng người chị gái bảo rằng: “ai bảo chúng này đi xe đẹp đeo nhẫn vàng làm gì?”
Hóa ra đi xe đẹp, đeo nhẫn vàng cũng có tội? Có phải tình yêu thì chẳng cần quan tâm đến đạo đức. Người ta nhân danh tình yêu để hại người, để vào hùa và bênh đỡ nhau như gia đình bị can “chặt tay cướp SH” chăng?
Là người đều có những lầm lỗi hay có những lần vấp ngã, điều quan yếu là biết nhận lỗi và đứng lên làm lại cuộc đời. Không nhận ra sai lỗi. Không cảm nhận sự vấp ngã. Con người cũng mất ý thức về tội. Con người càng mất lòng sám hối ăn năn. Thực ra, nhân vô thập toàn. Con người cần biết giới hạn của mình để sám hối từng ngày, để canh tân từng phút. Có sám hối, có canh tân con người mới thăng tiến từ tinh thần đến vật chất.
Lời rao giảng đầu tiên của Chúa Giêsu không kêu gọi chống bất công hay đòi quyền lợi mà là kêu gọi sám hối canh tân. Chúa kêu gọi con người phải sám hối vì cội rễ của bất công, của sa đọa, tội lỗi là con người mất ý thức về giá trị cuộc sống. Con người không tuân theo luân thường đạo lý thì làm sao có một xã hội văn minh tình thương. Con người cần phải sám hối để nhận ra những lỗi lầm của mình đã gây nên thiệt hại tinh thần lẫn vật chất cho tha nhân. Chính hành vi tội lỗi mình đã làm cho sự dữ lan tran, xã hội loạn lạc lầm than.
Nhưng đáng tiếc nhân loại ngày hôm nay không ý thức việc mình làm đã gây nên đau khổ cho tha nhân. Con người vẫn nhân danh tự do cá nhân để hành xử thiếu văn hóa, thiếu trách nhiệm với tha nhân. Con người vẫn nhân danh hạnh phúc cá nhân để loại trừ hạnh phúc cuả tập thể, của xã hội. Nếu ai cũng biết sống mình vì mọi người thì sẽ không có những vụ tham nhũng lớn như Dương Chí Dũng, Bầu Kiên hay Huyền Như... Tất cả vì lợi ích cá nhân mà gây nên biết bao hậu quả tai hại cho xã hội và đất nước.
Ước gì là người ky-tô hữu chúng ta hãy biết xét mình hằng ngày, hãy ăn năn từng giờ để đừng ngủ mê trong tội lỗi, nhưng biết thay đổi đời sống cho phù hợi với tin mừng. Xin đừng vì quyền lợi cá nhân mà gây thiệt hại cho xã hội. Xin đừng đề cao tự do cá nhân để làm mất trật tự cho xã hội và cộng đồng. Xin Chúa giúp chúng ta luôn biết khiêm tốn nhìn nhận sự yếu đuối của bản thân để nhờ ơn Chúa mà canh tân đời sống mỗi ngày một tốt hơn. Amen.
30. Chúa Kitô là ánh sáng--Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Có lúc nào đó trong cuộc sống chúng ta tự hỏi lòng mình: Tôi là ai? Tôi sinh ra trong cuộc đời này để làm gì? Chết rồi đi đâu? Đây là những câu hỏi quyết định hướng đi của đời người, nó quyết định phận số của một con người. Đau khổ hay bất hạnh. Lạc quan hay bi quan. Sống có trách nhiệm hay lười biếng, buông thả? Sống có ích hay trở thành gánh nặng cho xã hội đều tùy thuộc vào chọn lựa căn bản này của từng người chúng ta.
Nhìn vào xã hội hôm nay chúng ta thấy, có người chủ trương cho rằng con người là loài vật nên chẳng cần luân thường đạo lý, chẳng cần tự chủ bản thân, sống buông thả theo đam mê nhục dục như muôn loài sống theo bản năng của mình. Có người chủ trương cho rằng sống là để hưởng thụ nên luôn tranh giành lẫn nhau, luôn lấn áp với nhau theo kiểu "cá lớn nuốt cá bé". Họ chà đạp lên nhau chỉ vì danh lợi thú trần gian. Có người chủ trương cho rằng chết là hết nên chẳng cần ăn ngay ở lành, chẳng cần tích đức đời sau nên sinh ra đạo tặc, dâm ô và biết bao tệ nạn đau buồn khác. Hằng ngày trên truyền hình, truyền thanh vẫn luôn cập nhật những thông tin đáng buồn như cướp dật, hoang dâm, xì ke, ma tuý, tham nhũng, giết người... Tại sao vậy? Tại sao xã hội có luật pháp mà vẫn còn đó những tội phạm? Tại sao bóng tối của sự dữ vẫn còn đầy rẫy trong xã hội văn minh hôm nay? Tại sao lương tâm không bằng lương thực? Tại sao nhân phẩm không bằng nhu yếu phẩm? Tại sao tình người không bằng đồng tiền? Tại sao vì tiền, vì quyền, vì tình mà nhiều người đã đánh mất nhân tính của mình? Có lẽ chỉ vì đã nhìn nhận sai về căn tính con người, về ý nghĩa cuộc đời nên dẫn đến biết bao hệ luỵ khổ đau cho con người.
Có câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: loài người thuở xa xưa khi chưa biết soi gương trang điểm nên dường như cũng chẳng hề biết khuôn mặt mình tròn méo thế nào. Vì thế mới có chuyện đau lòng xảy ra giữa đôi vợ chồng trẻ miền quê hẻo lánh. Một lần anh chồng có việc phải lên kinh thành, người vợ dặn chồng nhớ mua cho mình một cái trâm cái đầu. Nhưng khốn nỗi anh chàng nhà quê chưa một lần nhìn thấy cái trâm cài đầu nó như thế nào? Cô vợ nhìn lên bầu trời đêm thấy ánh trăng lưỡi liềm liền nói: "Cái trâm nó giống như ánh trăng kia, nếu anh quên, anh cứ nhìn lên ánh trăng thì sẽ nhớ". Người chồng đã ra đi. Kinh đô quả thật khác lạ so với anh. Cái gì cũng mới. Cái gì cũng hay. Anh chồng đã say sưa, mải miết tham quan những cảnh lạ ở kinh thành cả mười ngày sau mới về. Lúc này anh mới chợt nhớ lời vợ dặn, anh liền nhìn lên bầu trời và thấy ánh trăng tròn trịa của đêm trăng rằm. Anh vào cửa hàng tạp hoá và anh mua một cái gương soi mặt vì nó hình tròn giống như ánh trăng. Lòng vui rộn ràng anh quay trở về với vợ hiền. Anh vui mừng trao món quà cho cô vợ bé nhỏ của mình. Cô vợ mở quà ra xem. Ngạc nhiên tại sao lại là hình ảnh của một cô gái ở trong món quà. Bởi lẽ, cả đời cô chưa hề biết gương là gì, nên khi thấy bóng dáng một người con gái trong gương cô đã tức giận và quát tháo nên rằng: "Tôi dặn anh mua cái trâm cài đầu, tại sao anh đem về cho tôi một đứa con gái nào đây?". Anh chồng lúc này mới nhìn vào gương và thấy khuôn mặt một người đàn ông trông giống như bố mình ngày xưa, nên anh cãi rằng: "Không phải, đây là bố tôi". Và anh dành lại cái gương, miệng không ngớt kêu lên: "Ơ bố ơi! Quả thực là bố hiện về với con". Cô vợ tức quá giựt lại và bảo: "Bố ông bao giờ, đây là con nào rõ ràng mà ông còn chối cãi được sao?". Anh chồng xem ra không cãi nổi vợ, bèn buồn bã bỏ đi. Mẹ chồng thấy vậy đến an ủi nàng dâu, và người con dâu đã đưa cho mẹ chồng xem bằng chứng về sự dan díu của chồng mình. Mẹ chồng xem qua rồi đi đến kết luận: "Thôi đừng ghen tương làm chi cho khổ, tao thấy con này nó cũng già quá rồi!"
Vâng, xem ra cái nhìn tiên tri của ngôn sứ Isaia vẫn đúng cho thời đại hôm nay, vì "đoàn dân đang ngồi trong bóng tối" cũng chính là hình ảnh của nhân loại hôm nay. Một thế giới đầy những bong tối của tội lỗi, của sa đoạ, của ích kỷ và hưởng thụ đã làm cho nhiều người mù quáng chạy theo những đam mê lầm lạc và dìm mình trong bong tối của danh lợi thú trần gian. Họ đã lạc mất hướng đi đời người. Họ chẳng cần biết mình là ai? Họ chỉ cần tiền. Họ không cần đạo đức hay phẩm giá con người. Điều họ cần là làm sao có tiền để hưởng thụ. Vì có "tiền mua tiên cũng được". Vì mải miết chạy theo đồng tiền họ đã đánh mất hướng đi đời người. Cuộc sống không có định hướng, không có mục đích là nguyên nhân dẫn đến những tệ nạn: cướp giật, tham nhũng, xì ke ma tuý và mại dâm cùa thời đại hôm nay.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: "Hãy sám hối". Sám hối để bước ra khỏi bóng đêm của tội lỗi, ghen tương, đố kỵ, chia rẽ để bước vào ánh sang của yêu thương và hiệp nhất. Sám hối để bước ra khỏi vũng lầy của đam mê nhục nhục, của tha hoá đạo đức để sống cao thượng theo đúng phẩm giá con người là "nhân linh hơn vạn vật". Sám hối để nhìn nhận những sai trái của mình đã gây nên những bất công, những khổ đau cho anh em và quyết tâm thay đổi đời sống theo đúng đòi hỏi của Tin mừng mà Chúa Kitô đã loan báo. Vì Chúa Kitô chính là ánh sáng đã chiếu giãi trên thế gian. Từ nay Tin mừng cứu độ của Chúa sẽ soi sáng cho con người biết đâu là thiện, là ác, vì chính Ngài là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, ai bước theo Ngài sẽ không phải đi trong tối tăm nhưng bước đi trong tự do của con cái sự sáng.
Thế nhưng, nhân loại hôm nay vẫn thích bóng tối hơn ánh sáng. Người ta sợ ánh sáng của Tin mừng sẽ phơi bầy bộ mặt thật của mình nên họ luôn tìm cách che dấu bằng thủ đoạn, lừa đảo và giả hình và dần dần đánh mất ý thức về tội. Tỗi lỗi vẫn tràn lan. Con người tự làm khổ mình, làm khổ nhau bởi chính những điều gian ác, bất công của mình gây nên.
Xin Chúa Kitô là Đường, là Sự Thật và là Sự sống giải thoát chúng ta khỏi làm nô lệ của danh lợi thú trần gian để chúng ta sống trong tự do của con cái Chúa. Xin Chúa Kitô là ánh sáng trần gian dẫn dắt chúng ta đi theo chân lý vẹn toàn ngõ hầu chúng ta luôn sống đúng với phẩm giá cao quý của con người là hình ảnh của Chúa. Xin cho mỗi người chúng ta cũng trở thành ánh sáng để dẫn dắt anh chị em chúng ta bước đi trong ánh sáng lề luật và phúc âm của Chúa. Amen.
31. Hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần đến--Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
Tin mừng Mt 4: 12-17 Và đề tài sám hối rất thích hợp với tâm hồn của dân Galilê. Họ thờ Thiên Chúa nhưng lòng họ bị ô nhiễm...
Galilê không rộng lắm, từ bắc chí nam dài khỏang 60 cây số. Đất hẹp người đông. Thời Josephus làm tổng trấn, ông đếm được 294 làng, mỗi làng không dưới 15.000 dân (khoảng 4.400.000). Galilê không những là khu đông dân cư mà dân ở đó còn có một cá tính đặc biệt: Galilê sẵn sàng mở cửa đón những ý niệm mới. Josephus nói về dân Galilê như sau: ”Bao giờ họ cũng thích cải cách, bản tính họ thích thay đổi và thích bạo động. Họ luôn sẵn sàng theo một thủ lãnh và phát khởi một cuộc nổi dậy. Họ nổi tiếng là người nóng tính và thích tranh cãi. Tuy nhiên, họ cũng là những người hào hùng nhất”. Đặc tính bẩm sinh của người Galilê khiến việc truyền giáo cho họ rất thuận lợi. Thái độ cởi mở đón nhận những tư tưởng mới cũng góp phần cho việc truyền giáo trở nên dễ dàng. Có lẽ vì những yếu tố này mà Đức Giêsu chọn Capharnaum làm trung tâm truyền giáo.
Nội dung việc rao giảng: thánh Matthêu đã tóm gọn nội dung việc rao giảng của Đức Giêsu trong một câu :”Hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần đến”.
Và đề tài sám hối rất thích hợp với tâm hồn của dân Galilê. Họ thờ Thiên Chúa nhưng lòng họ bị ô nhiễm quá nhiều bóng tối sự chết, bóng tối của tà thần, của tệ đoan xã hội, của lòng tham do các dân ngọai cư ngụ, buôn bán ở Capharnaum.[1]
”Hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần đến”.
Nguyên gốc của từ sám hối là quay trở lại.
"Hãy sám hối và quay trở lại cùng Thiên Chúa": Một từ diễn tả chính xác lòng sám hối đó là ăn năn thống hối.
Từ ăn năn (contritio) phát xuất từ tiếng La Tinh conterere: nghiền nát, chà đạp, tan thành miếng nhỏ. Đó là quả tim chai đá của chúng ta, mà Kinh Thánh nói đến, đang tan vỡ.
Từ thống hối (compunctio), từ đồng nghĩa conpungere: châm, đâm. Vào một lúc nào đó, quả tim chúng ta cuối cùng bị tổn thương, bị đâm thủng. Từ vết thương lòng đó, một dòng nước sẽ phun ra những giọt lệ thống hối.[2]
Một câu chuyện minh họa cho giọt lệ thống hối:
Một tên sát nhân vào xưng tội và cha giải tội ra việc đền tội: Con hãy cầm lấy chiếc lọ này và việc đền tội của con là đổ nước cho đầy vào chiếc lọ đó. Thế nhưng trong cả hàng mấy chục năm không làm sao đổ đầy được chiếc lọ đó.
Anh bị tù, rồi một hôm anh vượt ngục.
Trời đã về tối, anh trốn vào một nghĩa trang. Tuyệt vọng và cô đơn. Anh nhớ về câu chuyện đã nghe từ lâu lắm, không biết ai kể, ở đâu. Chuyện kể về một người cha có đứa con đi hoang nhưng suốt đời chẳng tiến thân được, sau cùng nó lần mò về nhà cha thú nhận tội lỗi và sự bất lực của nó. Và cha nó đã ôm nó vào lòng. Hình ảnh tình thương ấy làm anh rơi lệ.
Anh ngước nhìn lên cây thập tự lớn trên ngôi mộ. Anh thấy mình nhỏ bé, yếu đuối và trần trụi. Trong cơn đau khổ cùng cực, anh nhìn lên thập giá khóc sướt mướt. Vô tình, giọt nước mắt rơi vào miệng lọ rồi từ từ nước dâng đầy.
Anh không hay biết gì, cứ ôm lấy thập giá như một người có sức đem lại cho anh nguồn an ủi.
Khóc nhiều hơn, càng khóc thì anh càng thấy vơi đi những buồn phiền.
Anh nhìn lên tượng Chúa dâng một lời nguyện, lời nguyện đầu tiên sau mấy chục năm sống trong tội ác. Lời nguyện như có sức nhiệm mầu cho anh thanh thản.
Anh không hiểu rõ những gì xảy ra trong tâm hồn, nhưng anh biết có một sự thay đổi, có điều gì đó khác lạ.
Anh muốn đem câu chuyện về chiếc lọ để nói với thập giá. Khi anh đưa chiếc lọ lên trước tượng chịu nạn thì anh ngạc nhiên kinh hoàng. Nước đã đầy. Anh cho tay vào lọ để thử, đúng là nước. Nước tràn ra bên ngoài.
Anh không tin ở mắt mình, anh dốc ngược chiếc lọ, nước trong lọ chảy xuống thấm vào lòng cát khô. Anh nghe xôn xao trong tâm hồn. Vừa đưa miệng lọ ngửa lên, giọt nước mắt vô tình rơi vào lòng chai, nước lại từ từ dâng lên.
Anh sửng sốt vì hiện tượng lạ lùng, nhưng chính lúc ấy trí khôn anh trở nên minh mẫn. Anh hiểu vì sao lọ đã đầy. Chỉ có nước mắt mới làm chiếc lọ đầy.
Và rồi hình ảnh câu chuyện người con hoang đàng lại trở nên sống động trong tâm hồn anh. Và anh đã hiểu tại sao chỉ có nước mắt mới làm đầy cái lọ.
Và Lời cha già năm xưa trong tòa giải tội lại vang vọng bên tai: tội của con được tha khi con đổ nước đầy cái lọ này!”
Anh nhìn lọ nước sóng sánh đầy nước. Một cảm xúc mãnh liệt dâng trào ứ ngập tâm hồn. Anh chạy đến ôm lấy tượng chịu nạn không nói được lời nào, xúc động cực độ. Anh nức nở khóc, khóc như một đứa trẻ: Lạy Chúa, xin thương xót con.
Đang khi đó, ở các thành phố lân cận, người ta treo hình anh khắp nơi, họ đang lùng bắt một tên tù vượt ngục.[3]
Kính thưa ông bà anh chị em, đó là câu chuyện giọt lệ của lòng sám hối. Hãy sám hối vì Nước trời đã gần đến. Amen
--------------------------
[1] Giuse Đinh Lập Liễm
[2] André Louf, Au gré de sa grâce (buông theo ân sủng),trg.97
[3] Nguyễn Tầm Thường, Đường về Thượng trí trg.111-117
32. Suy niệm của Lm. Nguyễn Bình An
Khủng hoảng là cơn bệnh da diết và trường kỳ của mọi người, mọi gia đình, mọi tôn giáo, mọi quốc gia và trong mối bang giao quốc tế. Khủng hoảng kinh tế khi gia đình hay cộng đồng hoặc quốc gia thiết hụt vì chi trội hơn thu và nạn thất nghiệp cao. Khủng hoảng tinh thần khi gia đình, xã hội có những cuộc tranh cãi, chia rẽ và hận thù. Khủng hoảng an ninh khi tranh chấp xẩy ra và hai nước cùng động binh chuẩn bị chinh chiến. Khủng hoảng đức tin khi tín hữu coi nhẹ luật mến Chúa và yêu tha nhân để dấn thân vào công tác chống đối, chỉ trích, xuyên tạc, tạo tị hiềm, và gây chia rẽ từ hạ tầng cơ sở là cộng đoàn và giáo xứ, lên đến giáo phận và giáo đô Rôma. Khủng hoảng tu trì khi cảnh "cá đối bằng đầu" thịnh hành theo thuyết tự do cá nhân; khi mục đích tối thượng là "nên thánh theo lời khuyên Phúc âm" bị sao nhãng và đặt nhẹ; khi tam đức như đức khó nghèo, vâng phục và trinh khiết không còn được tôn trọng và tuân giữ. Khủng hoảng mầu da hay sắc tộc khi các sắc dân đứng lên tranh đấu, bạo động, chém giết.
Mỗi năm vào ngày thứ Năm tuần thánh tại một số nhà thờ Chính toà trên nước Mỹ, đang khi Giám mục và các linh mục đồng tế bên trong thì bên ngoài, phong trào tranh đấu biểu tình và đòi quyền cho phái nữ được tham dự vào chức linh mục thừa tác như nam giới trong Giáo hội hò la và giận dữ. Cuộc khủng hoảng này đang được đội lốt dưới chiêu bài "trọng nam khinh nư "và "đòi bình đẳng" trong Giáo hội. Nhiều lần Đức Giáo hoàng đã kiên nhẫn lắng nghe, giải thích và dùng hình ảnh tuyệt vời và thế đứng đặc biệt của Đức Maria như mẫu mực và hướng đi cho phụ nữ. Maria không là linh mục, nhưng là mẹ của linh mục. Maria là phàm nhân, nhưng là Mẹ Thiên Chúa. Maria không là Cứu Chúa, nhưng là Đấng Đồng công cứu chuộc. Maria không dám tự nhận hay đòi một danh xưng cao sang nào, trái lại Maria khiêm tốn thưa "này tôi là tớ nữ Chúa, tôi xin vâng nhận Thiên ý." Khủng hoảng trong lòng Maria như thế được giải kết trong vâng phục ý Chúa và trong ý thức thân phận hèn mọn của mình.
Thánh Phaolô trong bài đọc thứ hai đã vạch mặt chỉ tên những người lạm dụng và thao túng tôn giáo. Họ tạo cuộc khủng hoảng bè phái và dùng tôn giáo như khí cụ đấu tranh. Họ chia thân thể mầu nhiệm Đức Kitô ra những phái nhóm khác nhau để thủ lợi. Họ dùng tên các tông đồ để gây thanh thế cá nhân và tạo mâu thuẫn, đối kháng và chia rẽ trong cộng đồng và giáo hội. Cơn khủng hoảng giáo phái từ đó tiến triển theo cấp số nhân và hôm nay trong cộng đồng Kitô hữu (Tin lành, Công giáo và Chính thống) có khoảng chừng 400 giáo phái khác nhau. Trong Giáo hội Công giáo, tuy sự hợp nhất còn duy trì được, nhưng cũng có khoảng vài trăm dòng nam nữ biệt lập. Tất cả đều vì Chúa và các linh hồn. Tất cả đều được nuôi sống nhờ lòng hảo tâm và dâng cúng của các tín hữu. Cơn khủng hoảng muôn đời sẽ không giải quyết được vì tín hữu thì cầu cho được "hằng ngày dùng đủ", và họ xử dụng cái dùng đủ ấy để cung cấp sự giầu sang và xây dựng các lâu đài, cơ sở cho các dòng. Từ đó các dòng trở nên gánh nặng cho tín hữu. Thế hệ nầy sang thế hệ khác tiếp nối nhau giúp đỡ, và dâng cúng cho Giáo hội nói chung và làm giàu cho các dòng nói riêng mà vẫn không sao dập tắt cơn khát.
Thần học cứu rỗi của Đức Kitô khai mạc bằng lời "hãy hối cải vì nước Trời đã gần" quả thật đang bị khủng hoảng do sự thiếu khả năng và thiện chí rao giảng. Đồng thời hình ảnh nước Trời đang lu mờ và mất hút trong cơn sốt vật chất miên man và vô độ của con người. Tiên tri Isaia đã phóng lên không trung ánh sáng vĩ đại của Đức Kitô (bài đọc1). Ánh sáng ấy đáng lẽ phải giải thoát nhân loại và đưa nhân loại vào cõi sống. Nhưng khủng hoảng là ách đang đè trên vai họ, là gậy của kẻ lạm thu họ chưa bị bẻ gẫy và đang thao túng nên ánh sáng chưa tỏ rạng đủ cỡ. Ánh sáng ấy sẽ chỉ thực sự tỏ soi khi những giầy trận, những áo choàng rướm máu, những ách gông nặng hay nói chung là các khủng hoảng trở thành mồi lửa. Khi ấy mọi dân và cả những ai đang ngồi trong bóng tối sự chết mới thấy một ánh sáng vĩ đại và huy hoàng. Hoa trái của ánh sáng huy hoàng sẽ là "đồng tâm hiệp nhất... "và kết đoàn trong một thần trí và một tâm tình (bài đọc 2). Thiếu đồng tâm, hiệp nhất, một thần trí và một tâm tình thì tứ phương còn đang bị thiêu đốt bởi khủng hoảng!!!
33. Nước Trời đã đến gần--Jos. Hồng Ân
Loan báo Tin Mừng Nước Trời là sứ điệp quan trọng, nên Chúa Giêsu đã quên ăn, quên ngủ, không quản chi mệt nhọc, vất vả đi khắp các làng mạc, thành thị loan báo Tin Mừng, mời gọi mọi người ăn năn sám hối, đón nhận Nước Trời để được ơn cứu độ. Chúa còn chọn gọi và sai các môn đệ ra đi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho muôn dân nước.
Khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin mừng, Chúa Giêsu đã kêu gọi: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 4, 17). Chúa Giêsu muốn cho thấy tầm quan trọng của Nước Trời, điều kiện căn bản để đón nhận Nước Trời là phải sám hối, không sám hối thì không thể vào được Nước trời, Nước Trời chỉ dành cho những ai biết sám hối, nhìn nhận tội lỗi của mình, sửa đổi đời sống để nên hoàn thiện và cầu xin Chúa tha thứ. Điệp khúc này được lặp đi lặp lại rất nhiều lần trong các lời giáo huấn của Ngài. Có trở về, có thay đổi, có sám hối con người mới vào được Nước Thiên Chúa. Sám hối là khởi điểm của cuộc hành trình đức tin Kitô giáo. Sám hối còn là chìa khoá để vào Nước Trời.
Chúa Giêsu dạy chúng ta phải ưu tiên tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước hết, còn mọi thứ khác Ngài sẽ ban cho sau (x. Lc 12, 31). Ngài còn dạy: “Hãy bán của cải mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá” (Lc 12, 33). Nước Thiên Chúa là cùng đích đời người nên có giá trị tuyệt đối, phải đặt lên trên hết mọi sự, phải sẵn sàng hy sinh tất cả và bằng mọi giá để vào được Nước Trời (x. Mt 13, 44-46). Thánh Phaolô nói: “Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mạc khải nơi chúng ta” (Rm 8,18). Vì vậy, để vào được Nước Trời, chúng ta cần phải sám hối, từ bỏ những gì là xấu xa tội lỗi, từ bỏ những gì ngăn cản ta tìm kiếm Nước Trời. Từ bỏ những gì nước trần gian, nước của sa tan lôi kéo chúng ta như: tiền của vật chất, danh vọng địa vị, thú vui xác thịt. Chúng ta phải luôn chiến đấu với ba thù: ma quỷ, thế gian và xác thịt.
Sau khi kêu gọi dân chúng sám hối để đón nhận Nước Trời, Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ, để các ông đi theo Người, cộng tác với Người rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa. “Người đang đi dọc theo biển hồ Galilê, thì thấy hai anh em kia, là ông Si-môn, cũng gọi là Phê-rô, và người anh là ông An-rê, đang quăng chài xuống biển, vì các ông làm nghề đánh cá. Ngài bảo các ông: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá” (Mt 4, 18-19). Các ông không so đo tính toán, không ngần ngại lên đường đi theo Chúa: “Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người” (Mt 4, 20). Chúa gọi các ông đi theo Người, không phải để thành lập một tập đoàn kinh tế hay chính trị. Nhưng là để các ông học hỏi nơi Người cách sống và làm việc, tất cả vì công cuộc loan báo Tin Mừng Thiên Chúa, tất cả vì hạnh phúc, vì phần dỗi của con người.
Chúa đi rao giảng Tin Mừng Nước Trời, Ngài không chỉ rao giảng trên môi miệng, mà còn bằng việc làm cụ thể, “Đức Giêsu đi khắp miền Galilê, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa hết mọi kẻ bệnh hoạn tật nguyền trong dân” (Mt 4, 23). Chúa rao giảng và chữa lành bệnh hoạn, tật nguyền phần hồn, phần xác, để giúp con người nhận ra giá trị đích thực của Nước Trời là được bình an hạnh phúc, không còn đau khổ, bệnh tật, không phải bom chen, cạnh tranh… Vì đó là sứ điệp quan trọng, nên trước khi về trời, Đức Giêsu đã truyền cho các tông đồ: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16, 15).
Ngày nay, tiếng Chúa nói “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” vẫn còn vang vọng bên tai của chúng ta. Chúa vẫn kêu gọi, vẫn chữa lành để ta nhận ra chân giá trị của Nước Trời. Vậy mà ta vẫn bưng tai bịt mắt không nghe cũng chẳng nhìn, cho là Nước Trời còn xa tít trên chín tầng mây, nên không quan tâm, không để ý, không xem xét, vẫn mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá, không đáp lại lời mời gọi của Chúa, không chịu sám hối, vẫn tiếp tục đi trên con đường tội lỗi, vẫn tìm kiếm khoái lạc, tìm hưởng thụ, sống bất công, điêu ngoa, gian dối, lừa lọc, giận hờn ghen ghét, mưu mô sảo quyệt, đội trên đạp dưới làm hại anh em. Nhiều khi đi làm tông đồ cũng dựng bè kéo cánh, cũng tranh giành sự ảnh hưởng, tranh giành chỗ đứng, tranh giành nơi làm việc, dèm pha, nói xấu đủ điều…
Là Kitô hữu, chúng ta hãy đáp lại lời mời gọi của Chúa, biết sám hối, nhìn nhận tội lỗi của mình, từ bỏ tất cả những gì là tội lỗi xấu xa, quay trở về với Chúa, cầu xin Người thứ tha, để ta đón nhận Tin Mừng Nước Thiên Chúa và hưởng ơn cứu độ Người ban. Chúng ta cũng hãy cộng tác với Chúa ra đi loan báo Tin Mừng, kêu gọi mọi người ăn năn sám hối để đón nhận Nước Trời.
34. Suy Niệm Chúa Nhật 3 Thường Niên--Lm. Giuse Nguyễn Minh Chánh
Tin mừng Mt 4: 12-23 Đối với Chúa Giêsu sám hối là hành động phải khẩn trương không chờ đợi, là việc làm thường xuyên...
1. Lời của Thánh Phaolô ngay ở đầu thư thứ nhất gởi cho cộng đoàn Côrintô trong phụng vụ Lời Chúa của chúa nhật hôm nay, bộc lộ nỗi niềm chua xót của Thánh nhân về sự rạn nứt chia rẽ trong cộng đoàn tín hữu Côrintô. Tông đồ Phaolô cho biết giữa các Kitô hữu có chuyện bè phái với nhau: “có những luận điệu như: tôi thuộc về Phaolô, tôi thuộc về Apôlô, tôi thuộc về ông Kêpha, tôi thuộc về Đức Kitô” ( 1 Cr 1, 12).
Đứng trước bóng tối đang che phủ cộng đoàn Kitô hữu Côrintô, thánh Phaolô khuyên họ can đảm phá tan bóng tối đang bao trùm ra khỏi cộng đoàn. Sức mạnh để chiến thắng bóng tối đó là đời sống hiệp nhất, thánh Phaolô nói: “thưa anh em, nhân danh Đức Kitô, Chúa chúng ta, tôi khuyên tất cả anh em hãy nhất trí với nhau trong lời ăn tiếng nói, và đừng để có sự chia rẽ giữa anh em, nhưng hãy sống hòa thuận một lòng một ý với nhau”(1 Cr 10,10).
2. Các mối chia rẽ trong cộng đoàn Kitôhữu là thái độ rất nguy hiểm sẽ làm tổn thương nặng nề đến thân thể mầu nhiệm Chúa Kitô. Hơn nữa tình trạng sống chia rẽ tự bản chất luôn đi ngược hoàn toàn với ước muốn của Đức Kitô, khi Ngài cầu nguyện cùng ChúaCha cho các môn đệ: “Xin cho chúng nên một”(Ga 17,22). Vì hiệp nhất là khát mong của Đức Kitô, nên thánh Phaolô mạnh dạn nói cho tín hữu Côrintô biết rằng: Đức Kitô không thể nào bị chia năm sẻ bảy (X 1 Cr 10, 13). Bởi vì thánh Phaolô không chấp nhận một người nào khi tự xưng mình thuộc về Đức Kitô, lại xô đẩy người anh em cùng niềm tin với mình ra khỏi cộng đoàn, coi mình như là mẫu mực để phán đoán đức tin và việc làm của người anh em. Đây là một trong những nguyên nhân gây ra sự đổ vỡ tất cả mọi nỗ lực của Giáo Hội, trong việc xây dựng tình hiệp nhất.
3. Bài Tin mừng hôm nay thuật lại sự xuất hiện công khai của Chúa Giêsu khi Ngài rao giảng Tin mừng. Và những lời nói đầu tiên của sứ điệp Ngài rao giảng đó là sự sám hối: “Anh em hãy sám hối, vì nước trời đã đến gần” (Mt 4,17). Đối với Chúa Giêsu sám hối là hành động phải khẩn trương không chờ đợi, là việc làm thường xuyên trong thời gian của cuộc sống, là thước đo nói lên thái độ thiện chí và khiêm nhường của người môn đệ Chúa Kitô. Hơn nữa sám hối là con đường sẽ hàn gắn mối hiệp thông của người môn đệ với Thiên Chúa là nguyên lý sự hiệp nhất cũng như với anh chị em của mình, là điều kiện để chữa lành vết thương chia rẽ trên thân mình Hội Thánh là nhiệm thể Chúa Kitô.
4. Hằng ngày khi sống giữa anh chị em lương dân, người môn đệ Chúa Kitô luôn cảm thấy mình mang lấy trách nhiệm rất nặng nề là phải nỗ lực trở thành ánh sáng cho lương dân. Đây là tâm tình mà Tiên tri Isaia trong bài đọc thứ nhất kêu mời: “Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi” (Is 9, 1). Thật là nghịch lý khi phải mang trong mình sứ mạng thao thức trở nên ánh sáng mà vẫn còn có sự thù hận, xúc phạm, bè phái, phân biệt giữa các cá nhân, các hội đoàn, các xứ đạo với nhau…. Thái độ này sẽ là cản trờ khủng khiếp cho việc rao giảng sứ điệp Tin mừng về sự hiệp nhất, là sức mạnh tàn phá mọi nỗ lực của Hội Thánh trên con đường xây dựng sự hiệp nhất,là vết thương đau đớn hằng in sâu trên thân mình Giáo Hội.
5. Như vậy để xây dựng sự hiệp nhất với nhau, để niềm khát mong trở thành ánh sáng cho muôn dân, người môn đệ Chúa Kitô hãy can đảm thực hiện cuộc hành trình, đó là hãy để sứ điệp Tin mừng của Chúa Kitô hướng dẫn và ăn rễ sâu vào đời sống hằng ngày là: “hãy sám hối”.Khi sám hối chúng ta sẽ được nhìn thấy tội lỗi của mình, được Chúa tha thứ những bất toàn. Khi biết sám hối chúng ta sẽ có nhiều cơ hội đón nhận tâm tình hòa giải và lời tha thứ của anh chị em, vết thương chia rẽ trong cộng đoàn dễ dàng được hàn gắn. Quyết tâm sám hối chúng ta còn phải không ngừng nỗ lực thực hiện cuộc hành trình sống như Đức Kitô mà thánh Phaolô đã mời gọi: “Giữa anh em với nhau, anh em hãy có tâm tình như Đức Kitô” (Pl 2, 5). Tâm tình như Đức Kitô là:”nhất trí với nhau trong lời ăn tiếng nói, và đừng để có sự chia rẽ giữa anh em, nhưng hãy sống hòa thuận một lòng một ý với nhau” (1 Cr 1, 10).
Xin Mẹ Maria giúp chúng ta kiên trì đi trên cuộc hành trình sám hối và không biết mệt mỏi sống tâm tình như Đức Kitô, nhờ đó những nỗ lực xây dựng sự hiệp nhất trong Hội thánh luôn được tiến triển tích cực, cũng như giữa thế gian chúng ta sẽ trở nên ánh sáng cho muôn người. Amen.
35. Chọn Chúa – Sống với Chúa--Lm. Joshepus Quang Nguyễn
Địa lý nước Do Thái chia làm ba miền. Miền Nam được gọi là Giuđêa. Miền Trung là Samaria. Miền Bắc là Galilêa. Thủ đô Giêrusalem thuộc về miền Nam. Đây là trung tâm chính trị và tôn giáo. Đền thờ Giêrusalem là trái tim của dân tộc Do Thái. Ấy mà, khởi đầu sứ vụ công khai, Chúa Giêsu đã không chọn rao giảng tại Giêrusalem, bởi vì Giêrusalem là vùng toàn tòng theo đạo, nhưng lại kiêu căng hợm mình, loại trừ người khác, lại nữa, bởi vì các thày thượng tế, các văn nhân, luật sĩ, biệt phái đã chai đá, luôn tìm cách bắt bẻ, chứ không biết mở rộng tâm hồn đón nhận giáo lý của Người. Cho nên, Chúa Giêsu đã chọn Galilêa vì Galilêa là vùng quê nghèo khiêm tốn, nhưng dân cư thuộc đủ mọi chủng tộc đã biết mở lòng đón nhận giáo lý của Người và mọi người biết đón nhận nhau, chung sống hòa thuận. Đặc biệt, việc lựa chọn môn đệ của Chúa Giêsu cũng rất độc đáo. Người không lựa chọn môn đệ trong đền thờ, nhưng lựa chọn môn đệ giữa chợ đời. Người không lựa chọn những kẻ nhàn hạ rảnh rang, nhưng lựa chọn những người đang tất bật làm việc. Người không chọn những người trí thức uyên thâm, thông kinh hiểu luật, nhưng lựa chọn những anh thuyền chài, đơn sơ, cục mịch. Cụ thể, bài Tin Mừng hôm nay cho thấy, đang lúc đi dọc theo bờ biển, Ngài đã gọi Phêrô và Andrê: “Các anh hãy theo tôi. Tôi sẽ làm cho các anh trở thành những kẻ lưới người như lưới cá”. Liền sau đó, Ngài cũng đã gọi Giacôbê và Gioan. Thái độ của những môn đệ đầu tiên này thật là mau mắn và dứt khoát. Các ông đã bỏ chài lưới, bỏ ghe thuyền, bỏ cha già mà đi theo Chúa.
Rõ ràng, Chúa Giêsu lựa chọn những người dám ra đi, dám mạo hiểm, sẵn sàng từ bỏ, không ngần ngại, không do dự. Người lựa chọn những con người có trái tim mở rộng, biết hy sinh quên mình, không bám víu vào bất cứ một điểm tựa nào, dù là lề luật, dù là đền thờ, dù là kiến thức. Buông tất cả để chỉ nắm lấy Thiên Chúa. Bỏ tất cả để chỉ đi theo Chúa. Những lựa chọn của Chúa Giêsu khiến chúng ta hiểu rằng: Người yêu thích những tâm hồn rộng mở biết sống hài hòa, biết đón nhận anh em. Người yêu thích những tâm hồn đơn sơ nhỏ bé, ưa thích sống đời khiêm nhường bình dị. Người yêu thích những tâm hồn nồng nàn yêu thương. Đó là những tâm hồn dễ dàng đón nhận và chia sẻ Tin Mừng. Đó là những thửa đất tốt cho hạt giống Tin Mừng nảy mầm, đơm bông kết trái.
Còn mỗi người Kitô hữu chúng ta thì sao? Ngày hôm nay Chúa không hiện ra để kêu gọi mỗi người chúng ta nhưng tiếng Chúa vẫn âm thầm mời gọi mỗi người chúng ta qua các sự kiện, qua môi trường chúng ta đang sống; và qua những biến cố xảy đến trong cuộc đời của mỗi người chúng ta. Bởi vì qua mỗi biến cố trong cuộc đời là một dấu chỉ của thánh ý Chúa. Mỗi sự việc, mỗi biến cố sứ điệp Chúa muốn chúng ta đón nhận. Vì thế, mỗi người chúng ta cần phải tỉnh thức cần phải mau mắn và dứt khoát để nhận ra ý Chúa và đón nhận sứ điệp của Ngài mà sống. Vậy, chúng ta hãy nhận ra Chúa vẫn đang hiện diện trong những biến cố sự kiện ấy, trong thế giới, giữa cuộc sống chúng ta, để rồi chúng ta tiếp tục đón nhận được niềm vui và ánh sáng chân lý và Tin Mừng của Người. Đức Kitô vẫn đang đến gặp chúng ta ngay giữa những sinh hoạt, những niềm vui và những nỗi phiền sầu của chúng ta, để mời gọi chúng ta đi theo Chúa. Chúng ta được thúc bách rời bỏ chính mình, từ bỏ tính ích kỷ, từ bỏ đi sự cứng cỏi, từ bỏ những thói hư tật xấu để sống với Người mỗi ngày trong mọi sự và qua mọi người chúng ta gặp gỡ. Cho nên, Thánh Phaolô trong bài đọc 2 khuyên dạy: “Nhân danh Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, tôi khuyên tất cả anh em hãy nhất trí với nhau trong lời ăn tiếng nói, và đừng để có sự chia rẽ giữa anh em, nhưng hãy sống hoà thuận, một lòng một ý với nhau”.
Với người việt nam, trong những ngày đầu năm mới Canh Tý, có lẽ ai trong chúng ta cũng có một quyết tâm mới. Có người quyết tâm bỏ thuốc lá. Có người quyết tâm bỏ uống rượu. Có người quyết tâm dành thêm tiền bạc để đi buôn, để xây nhà,v.v... Có người quyết tâm hăng hái học hành để chuẩn bị cho một tương lai sáng lạn. Có quyết tâm đó, nhưng lắm khi sức người có hạn, chúng ta lại bỏ cuộc giữa đàng, đâu lại vào đó, con sâu của chán nản, của thất vọng lúc nào cũng chực sẵn để gậm nhấm tâm hồn chúng ta. Là Kitô hữu, mỗi người chúng ta hãy đáp lại lời mời gọi của Chúa, biết sám hối, biết nhìn nhận tội lỗi của mình, cầu xin Người thứ tha, để ta đón nhận Tin Mừng Nước Thiên Chúa và hưởng ơn cứu độ Người ban. Chúng ta cũng hãy cộng tác với Chúa ra đi loan báo Tin Mừng, kêu gọi mọi người ăn năn sám hối để đón nhận Nước Trời. Đồng thời, hãy dâng lời tạ ơn Chúa đã ban cho chúng ta chào đón năm mới bình an.
- Tạ ơn Chúa đã luôn có mặt trong cuộc sống của chúng ta để dẫn dắt chúng ta trong từng phút giây của cuộc sống.
- Tạ ơn Chúa đã giữ vững chúng ta trong niềm tin vào Tình Yêu của Ngài.
- Tạ ơn Chúa cho riêng chúng ta. Tạ ơn Chúa cho tất cả mọi người trong đó có ông bà tổ tiên đã cho chúng ta được sinh ra làm người Việt Nam. Tạ ơn cha mẹ đã sinh ra và giáo dục chúng ta nên người. Tạ ơn những người thân thương ruột thịt đã đùm bọc chúng ta. Tạ ơn những người bạn tốt đã nâng đỡ chúng ta bằng muôn nghìn cách thể hiện của tình yêu. Tạ ơn những người vô danh mà sự hiện diện và âm thầm đồng hành đã giúp chúng ta được sống như con người. Tạ ơn tất cả những người khốn khổ kém may mắn hơn chúng ta. Nhờ đó tiếng gọi sống yêu thương huynh đệ liên đới với mọi người xung quanh còn vang vọng trong tâm hồn và cả đời sống của chúng ta. Với tất cả tâm tình tạ ơn. Chúng ta hãy dâng lên Chúa một năm mới với cả niềm cảm mến tri ân của chúng ta. Amen.
36. Dọn lòng đón Chúa Xuân đến với gia đình--Lm. Joshepus Quang Nguyễn
Hàng năm cứ vào khoảng ngày 24, 25 tháng Chạp, nhiều gia đình người Việt Nam đi tảo mộ. Người ta ra mộ để đi thăm viếng, vun lại những nấm mồ, phát cỏ dại, chặt cây cối quanh mộ, sửa sang, tu bổ phần mộ của những người quá cố trong gia đình và các vị tổ tiên nhiều đời trước đó. Vì sao họ phải đi tảo mộ một năm một lần? Vì người ta tin rằng “cao nấm ấm mồ”. Hơn nữa, sửa sang nấm mồ cũng là một trong những việc hiếu đạo của con cái, thể hiện lòng kính trọng đối với đấng sinh thành và các bậc tổ tiên đã khuất. Cho nên, đi tảo mộ mỗi dịp xuân về cũng là thể hiện của tình cảm hướng về với nguồn cội vì “Con người có tổ có tông. Như cây có cội, như sông có nguồn”.
Lời Chúa trong Thánh Lễ Chúa nhật cuối cùng của năm Bính Thân dạy bảo chúng ta hãy chuẩn bị bên trong tâm hồn vì Chúa mùa xuân vĩnh cửu đang đến từng người trong gia đình chúng ta. Cụ thể, Tin Mừng Matthêu kể rằng: “Sau khi ông Gio-an bị nộp, Đức Giê-su đến miền Ga-li-lê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. Người nói: Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng". Rõ ràng Chúa Giêsu nói sám hối rồi mới tin vào Tin Mừng. Như vậy, việc làm đầu tiên của đức tin là sám hối, ăn năn. Vì chưng con người không ai là trọn lành chỉ mình Chúa là Đấng trọn lành. Chính Thánh vua Đa-vít đã khẳng định: “Lạy Chúa, Ngài thấy cho: lúc chào đời con đã vương lầm lỗi, đã mang tội khi mẹ mới hoài thai” (Tv 51,7). Cho nên, Chúa Giêsu trước khi về trời, Chúa căn dặn rằng: “Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội” (Lc 24,47).
Như vậy, sám hối chưa phải là tấm vé để vào Thiên Đàng nhưng là điều kiện để có đức tin. Đức tin có đó nhưng nó sống hay chết là tùy thuộc cung cách sống đạo, tức sống Lời Chúa ở nơi mỗi người chúng ta trong cuộc sống và trong gia đình chúng ta hằng ngày. Hôm nay, chúng ta quy tụ về đây để dâng Thánh lễ Chúa nhật để cùng với Chúa nhìn lại 365 qua, nhìn vào chính mình, nhìn lại cuộc đời Kitô hữu của mình 365 qua mình sống đức tin như thế nào trong tương quan với Chúa và với tha nhân, nhất là với những người trong gia đình chúng ta? Đức tin của chúng ta đã thật sự sống động chưa? Có nghĩa rằng đã sống trọn lành như lòng Chúa Giêsu mong muốn chưa? Nếu tốt rồi, hãy tạ ơn Chúa, nếu chưa tốt còn nhiều thiếu sót, lầm lỗi thì hãy ăn năn sám hối thật lòng để rồi đến hòa giải với Chúa và với anh em vì Chúa mùa xuân đang đến. Thiết tưởng cũng nhắc anh chị em rằng căn nguyên của sám hối là làm hòa với Chúa và với tha nhân. Đặc biệt năm nay là năm Giáo Hội Việt Nam mới gọi mọi gia đình hãy sống ơn gọi Hôn Nhân Gia Đình, vì vậy, chúng ta cùng nhìn lại đời sống gia đình của chúng ta hầu xin Chúa tha thứ và làm hòa với nhau đó là một hình thức dọn lòng đón Chúa xuân đến gia đình chúng ta trong mùa xuân này và mãi mãi.
Thứ nhất đối với Chúa, hãy sớm đi lãnh nhận ơn hòa giải và dốc lòng chừa tội lỗi để nói như Lời Chúa trong bài đọc 1, Ngôn sứ Isaia nói rằng Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta niềm vui hoan hỷ và tăng thêm nỗi vui mừng cho chúng ta vì chúng ta đang đi trong bóng tối tăm nay nình thấy ánh sáng.
Thứ hai hãy làm hòa với những người trong gia đình. Đối với vợ chồng thì vợ chồng là cùng xương cùng thịt với nhau, vợ chồng sống chung với nhau từng giây phút trong đời mà sống chung là có đụng, mắc lỗi là thường tình. Cho nên, khi hai người mắc lỗi với nhau thì ai cũng cảm thấy khó tha thứ. Khi ấy, họ dễ dàng chối bỏ nhau, coi nhau như kẻ thù: “chồng gì anh vợ gì tôi, chẳng qua cái nợ đời chi đây”. Nhưng bất cứ hôn nào cũng đặc trên nền tảng vững bền là tình yêu. Mà “Yêu nhau vạn sự chẳng nề, một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng”. Vì vậy, trong đời sống gia đình chuyện mắc lỗi với nhau, đổ nát là chuyện thường tình vì con người chứ đâu phải là thánh. Xin nhớ cho rằng trong chuyện đổ nát ấy nếu vợ chồng biết tha thứ, biết thông cảm cho nhau thì tình yêu gia đình ấy bền chặt và thăng tiến. Cho nên, ông bà có câu: “tưởng rằng đá nát thì thôi, ai ngờ đá nát nung vôi là nồng”. Còn Lời Chúa trong bài đọc 2, Thánh Phaolô dạy: “Nhân danh Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, tôi khuyên tất cả anh em hãy nhất trí với nhau trong lời ăn tiếng nói, và đừng để có sự chia rẽ giữa anh em, nhưng hãy sống hoà thuận, một lòng một ý với nhau”. “Anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau. Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo” (Cl 3,12-14). Còn đối với con cái, ông bà ta có câu: “Nước mắt chảy xuống, hổ dữ không ăn thịt con”, các ngài muốn nói rằng cha mẹ luôn yêu thương con cái và sẵn sàng tha thứ vô điều kiện. Còn Lời Chúa dạy: “Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này. Những bậc làm cha mẹ, đừng làm cho con cái tức giận, nhưng hãy giáo dục chúng thay mặt Chúa bằng cách khuyên răn và sửa dạy” (Ep 6,1-9). Vậy, hỡi những kẻ làm con, hãy xét mình xem, chúng mình đã thi hành điều răn thứ 4 một cách trọn hảo chưa, nếu có ở mức độ nào? Nếu chưa thì mau mau ăn năn và xin lỗi cha mẹ, làm hòa với cha mẹ mình đi để được Chúa mùa xuân giáng phúc cho chính chúng ta.
Cuối cùng, đối với chính mình, tôn tử dạy các đồ đệ mình rằng: “tri kỷ tri bỉ”, biết mình biết ta trăm trận trăm thắng. Biết mình tức luôn sống trong tư thế sẵng sàng, tỉnh thức mọi lúc để khỏi sa chước cám dỗ, khỏi phạm tội với Chúa và tha nhân. Nếu có lỡ phạm tội hãy tỉnh thức, sám hối ăn năn trở về với Chúa để được hòa giải với chính mình và với Chúa.
Xin cho Lời Chúa hôm nay thúc bách mỗi người hãy siêng năng sám hối để Nước Chúa luôn ngự trị trong từng gia đình trong giáo xứ chúng ta nhờ đó mỗi thành viên trong gia đình là hoa thơm trái ngọt cho Chúa, Giáo Hội và xã hội trong những ngày xuân và mãi mãi. Amen.
37. Từ bỏ
Nếu phân tích việc kêu gọi của Đức Giêsu, ta thấy Thánh sử Mátthêu đã sử dụng thể văn kêu gọi đã được sử dụng trong phần Cựu Ước, chẳng hạn việc kêu gọi ngôn sứ Êlia, Êlisê. Trình thuật này không nhắc đến cũng như không hề quan tâm đến khía cạnh tâm lý nhằm làm nổi bật đến lời kêu gọi của vị tôn sư, và việc đáp trả đầy gắn bó và tin tưởng của các môn đồ. Chỉ cần một lời bảo: "Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh trở thành lưới người như lưới cá". Cũng thế, người môn đệ lý tưởng, kẻ từ bỏ mọi sự không chút do dự, không một lời biện bạch, mà tuyệt đối tin theo và nhanh chóng đáp trả, được thể hiện qua hai chữ "lập tức". Nhưng để trở thành một môn đệ lý tưởng, trở thành "ngư phủ bắt người", nghĩa là thành kẻ rao giảng và chứng nhân nước trời. Chúa Giêsu đòi hỏi các môn đệ tương lai trước tiên phải biết hy sinh từ bỏ.
Điều nổi bất nhất nơi các môn đệ được Chúa kêu gọi đó là sự từ bỏ, được thể hiện qua việc đáp trả của các môn đệ. Sau khi nghe Đức Giêsu kêu gọi hai môn đệ Phêrô và Anrê "đang quang chài" lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người. Cũng thế, ông Giacôbê và Gioan đang vá lưới với cha cũng lập tức bỏ thuyền, bỏ cha lại mà đi theo Người. Chúng ta dễ dàng thấy được các tông đồ không những chỉ từ bỏ vật chất, mà còn từ bỏ cả bản thân từ bỏ cả tình cảm.
Trong một xã hội văn minh vật chất, sống một nếp sống chỉ biết hưởng thụ, làm cho con người chỉ còn biết mình chỉ còn biết chủ nghĩa cá nhân, biết phung phí tiền bạc như nước mà không bao giờ màng đến hay quan tâm đến nhu cầu của tha nhân. Một nền văn minh hưởng thụ đó được đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II gọi là "nền văn minh sự chết". Thử hỏi nền văn minh như thế sẽ đưa con người đến đâu, bao nhiêu người dám từ bỏ để nghe theo tiếng Chúa gọi mà quảng đại hy sinh cho lý tưởng cao cả như các tông đồ xưa. Các ngài cũng có nghề nghiệp, có người thân, và có người còn có cả gia đình vợ con...nhưng sau khi nghe tiếng Đức Giêsu gọi các ngài đã "Lập tức" từ bỏ để đi theo Người, không cần một điều kiện, không cần một đòi hỏi. Một điều thật hay là khi đáp trả tiếng Chúa gọi các ngài vẫn chưa biết Đức Giêsu là ai, nhưng nếu có cái nhìn sâu xa chúng ta sẽ thấy họ bị thúc đẩy bởi mãnh lực thốt ra từ lời nói của Đức Giêsu, làm họ không thể cưỡng lại được. Đó chính là động lực Thánh Thần cùng nỗ lực bản thân đã biến đổi các ông từ " ngư phủ lưới cá" thành "ngư phủ lưới người".
Khi nói đến sự từ bỏ bản thân, thì người ta cứ nghĩ mình đã hy sinh cho một lý tưởng cao cả lắm, mình đã dâng cho Chúa nhiều lắm... Thật ra, đó chính là ảo tưởng, vì những gì chúng ta đang có là của Chúa. Thử nghĩ xem, cuộc sống này, thời gian này, vật chất này... tất cả đều do Chúa ban mà có. Nếu chúng ta có hiến thân mình là chúng cũng chỉ là trả lại cho Chúa mà thôi, hay nói đúng hơn từ bỏ là dâng hiến lại cho Chúa những gì thuộc về Ngài mà từ trước đến giờ ta cứ ngỡ là thuộc về mình, mà vô tình hay cố ý chúng ta đã giữ lại cho mình. Vì thế, chính lúc thờ ơ không đáp trả chính là lúc chúng ta đang sống bất công đối với Chúa.
Nhìn lại qua dòng lịch sử của Giáo Hội, có rất nhiều mẫu gương đã tự bỏ mình để Chúa biến đổi thành công cụ trong lòng bàn tay của Người. Đó là những vị thánh đã đi bước trước để chúng ta bước theo. Các ngài đã được biến đổi khi mau mắn đáp trả tiếng Chúa. Từ sự đáp trả này mà các ngài đã trở thành sứ giả Tin Mừng, sứ giả của Chân Lý, thành dụng cụ của tình bác ái. Nhìn vào đó chúng ta có thể khẳng định: mỗi người đều có thể trở thành dụng cụ hữu ích trong lòng bàn tay của Chúa, khi biết chấp nhận theo ý Người trong cuộc sống của mình, như thánh Biển Đức đã mang lại cho thế giới Tây phương về đời sống tiết độ, về sự khôn ngoan và công chính. Thánh Phanxicô đã giải thoát mình khỏi sự ràng buộc vật chất để lòng được thanh thoát phục vụ người nghèo và hết tình yêu mến Chúa. Còn chân phước Têrêsa Calcutta sống với đau khổ bệnh tật quên mình cho đến chết...Vì thế với khả năng Chúa ban chúng ta đừng bi quan, chỉ cần nỗ lực, cộng thêm tình yêu và lòng nhiệt thành thì tất cả chúng ta đều có thể trở thành thành nhân trong cuộc sống ngày nay.
Thiên Chúa luôn kêu mời chúng ta trong mọi hoàn cảnh nhưng chúng ta đã đáp trả chưa, khi Ngài mang đến cho chúng ta lời đề nghị của tình yêu, chúng ta có sẵn sàng đón nhận lời mời gọi của Người để dấn thân phục vụ Giáo Hội và cộng đoàn của Người như những người chài lưới xưa kia ở Galilê không? Hay chúng ta còn qúa cẩn thận rào đón, hoặc chúng ta còn e sợ vì tương lai mông lung khi bước theo Chúa chăng? Nếu có như thế vì chúng ta còn qúa ích kỷ chỉ biết lo cho cái tôi của mình.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết thể hiện tình yêu đối với Chúa và tha nhân bằng việc làm cụ thể đó là sự hy sinh và dâng hiến, xin cho ngày càng có nhiều người dám quảng đại dâng mình trong cánh đồng truyền giáo của Chúa. Và nhất là cho giới trở ngày nay biết sống cho người khác và vì người khác hơn nữa. Amen.
38. Ánh sáng hiệp nhất--Lm Phạm Quốc Hưng
"Dân ngồi trong tối tăm đã thấy ánh sáng lớn lao; và kẻ ngồi trong bóng tối sự chết, một ánh sáng đã rạng lên".
Ngày nọ, một vị linh sư gọi các đệ tử của mình lại và hỏi họ: "Khi nào thì ta biết đêm chấm dứt và ngày bắt đầu?" Các đệ tử liền lần lượt trả lời: "Khi ta có thể thấy được sự khác biệt được giữa con trâu và con bò"; "Khi ta có thể phân biệt được con vịt và con ngan"; "Khi ta có thể nhận dạng được trái cam và trái táo." Vị linh sư gật gù và nói: "Các con đang nói về ánh sáng tự nhiên như yếu tố phân biệt ngày và đêm. Nhưng chúng con có biết khi nào thì chúng ta có ánh sáng tâm linh để ra khỏi bóng đêm của tâm hồn không?" Thấy họ bối rối, ngài liền nói: "Khi chúng ta nhận ra những người xung quanh thực sự là anh chị em của mình để yêu thương và giúp đỡ họ".
Trong Tin mừng hôm nay, khi thuật về việc Chúa Giêsu bắt đầu cuộc đời truyền giáo công khai và kêu gọi các tông đồ đầu tiên, thánh Matthêô đã giới thiệu Chúa Giêsu như Đấng đã làm trọn lời ngôn sứ Isaia đã nói trước đây: " Dân ngồi trong tối tăm đã thấy ánh sáng lớn lao; và kẻ ngồi trong vùng bóng tối sự chết, một ánh sáng đã rạng lên" (Mt 4:16 & Is 9:1).
Theo đó, Chúa Giêsu chính là ánh sáng đem lại sự sống thần linh và tình yêu hiệp nhất cho nhân loại, ánh sáng tâm linh mà vị linh sư muốn nói đến trên đây, như chính Chúa đã tuyên bó sau này: "Sự sáng thế gian, chính là Ta! Ai theo Ta sẽ không phải đi trong tối tăm, nhưng nó sẽ có ánh sáng sự sống" (Jn 8:12) Thực vậy, Chúa Giêsu đã dạy mọi người nhận biết Thiên Chúa là Cha duy nhất và hết thảy mọi người là anh chị em của nhau nên phải thực sự yêu thương hiệp nhất với nhau.
Sứ điệp đầu tiên của Chúa Giêsu thực là ngắn ngủi vì được tóm gọn trong một câu: "Hãy hối cải vì Nước Trời đã gần bên" (Mt 4:17)
Sự hối cải mà Chúa Giêsu muốn mói đến ở đây chính là việc chúng ta phải bước ra khỏi bóng đêm của tội lỗi, ganh tương, đố kỵ, chia rẽ để bước vào ánh sáng ban ngày của yêu thương và hiệp nhất. Vì tội lỗi suy cho cùng chính là sự phá hủy liên hệ yêu thương hiệp nhất giữa Thiên Chúa và con người, để từ đó dẫn đến sự chia rẽ rạn nứt nơi chính nội tâm con người và giữa con người với nhau.
Chúa Giêsu đến trần gian không có mục đích gì khác hơn là khôi phục lại sự hiệp nhất hài hòa giữa Thiên Chúa và nhân loại, giữa con người với nhau, và chính nơi tâm hồn mỗi người. Sự hiệp nhất trong tình yêu này chính là lý tưởng của Chúa Giêsu và là điều Ngài hằng tha thiết cầu xin cùng Chúa Cha để trở nên hiện thực như lời cầu nguyện hiến tế của Ngài: "để hết thảy chúng nên một" (Jn 17:21)
Và Chúa Giêsu đã phải trả giá cho sứ mạng này bằng sự sống, sự chết và sự sống lại của chính Ngài. Ngài đã trở thành chính sự hiệp nhất giữa Thiên Chúa và con người, cũng như là nguyên lý tạo thành sự hiệp nhất giữa con người với nhau và nơi chính bn thân mỗi người. Chấp nhận Chúa Giêsu có nghĩa là chấp nhận ánh sáng sự sống, ánh sáng dẫn ta bước đi trên con đường yêu thương hiệp nhất.
Các môn đệ đầu tiên được Chúa kêu gọi trong Tin mừng hôm nay là những người được mời gọi sống tinh thần yêu thương hiệp nhất ấy. Thời gian các ông theo Chúa là thời gian các ông được Chúa huấn luyện để hối cải từ một lối sống chia rẽ, ghen tương, đố kỵ đến một cuộc sống yêu thương hiệp nhất. Dấu chỉ của người môn đệ Chúa Kitô cũng không gì khác hơn là tình yêu hiệp nhất: "Chính nơi điều này mà mọi người sẽ biết các ngươi là môn đồ Ta: ấy là nếu các ngươi có lòng yêu mến lẫn nhau" (Jn 13:35). Cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi cũng được đánh dấu bằng tình yêu hiệp nhất này: "Ngày ngày họ đồng tâm nhất trí chuyên cần lui tới Đền thờ, bẻ bánh ở nhà, cùng nhau chia sẻ của nuôi thân, lòng hân hoan, dạ đơn thành" (Acts 2:46)
Theo gương Chúa Giêsu, trong bài học hai của thánh lễ hôm nay, thánh Phaolô - vị tông đồ dân ngoại - đã kêu gọi các tín hữu tiên khởi sống tinh thần yêu thương hiệp nhất trong đời sống cộng đoàn và tỏ dấu quan tâm về sự chia rẽ bè phái đang diễn ra nơi họ. Thánh Tông đồ viết: "Hỡi anh em, nhân Danh Chúa chúng ta, Đức Giêsu Kitô, tôi nài xin anh em hãy lo cho được đồng ý với nhau hết thảy, đừng để có sự chia rẽ trong anh em, nhưng hãy đoàn kết trong cùng một tâm trí, cùng một quan điểm" (1 Cor 1:10).
Trong ánh sáng của Chúa Kitô, thánh Phaolô nhận ra tất cả tín hữu đã liên kết chặt chẽ với nhau và làm nên một thân thể duy nhất nơi Chúa Kitô nhờ Thần khí Người. Tất cả mọi sự chia rẽ trong cộng đoàn Hội thánh đều là những hành động chia cắt chính Chúa Kitô. Sự chia rẻ bè phái xảy ra trong Hội thánh ở Corinthô là vì các tin hữu không đặt trọn niềm tin vào Chúa Kitô nhưng lại dựa vào uy thế của các vị lãnh đạo khác nhau. Đây là dấu chỉ cho thấy đức tin của các tín hữu ở đây còn là một đức tin ấu trĩ què quặt, một đức tin chưa trưởng thành vì không dựa vào Chúa Kitô mà chỉ bám vào tình cảm cá nhân dành cho người này hay người khác.
Mới đây, một giáo dân ở một giáo xứ nọ cho tôi hay là bà và gia đình cảm thấy chán nản buồn rầu bỏ cả xưng tội chịu lễ như muốn mất đức tin chỉ vì có sự thay đổi cha xứ, vì linh mục ở giáo xứ bà không làm gương về sự yêu thương hiệp nhất như các ngài thường giảng, và vì có sự chia rẽ bè phái trong giáo xứ.
Tâm sự của bà đã cho thấy niềm tin của bà chưa phải là một niềm tin trưởng thành vì còn lệ thuộc quá nhiều vào tư cách của các chủ chăn mà chưa đặt trọn nơi Chúa Kitô. Nhưng sự kiện này cũng cho thấy sự yêu thương hiệp nhất là yếu tố vô cùng quan trọng trong đời sống của một cộng đoàn Kitô hữu. Thiếu yêu thương hiệp nhất, đời sống cộng đoàn trở nên buồn nản và có thể dẫn đến sự tan rã của cộng đoàn. Vì vậy, bổn phận của mỗi người trong cộng đoàn Kitô hữu là phải dấn thân hy sinh để xây dựng tình thương và hiệp nhất trong gia đình và cộng đoàn, phải quên mình và từ bỏ những ý riêng để gìn giữ sự hiệp nhất trong Chúa với tha nhân.
Khi thấy sự hiệp nhất yêu thương của gia đình, cộng đoàn hay giáo xứ bị suy thoái và tổn thương, mỗi người cần phải xét mình và cố gắng từ bỏ tất cả những gì có thể làm thiệt hại đến sự hiệp nhất yêu thương. Việc bỏ bê các việc đạo đức hay các sinh hoạt trong cộng đoàn và nhất là việc nói hành nói xấu nhau lúc này không giúp ích gì mà chỉ gây thêm tội trước mặt Chúa. Trái lại, đây là lúc mỗi người trong cộng đoàn càng phải khiêm nhường và khoan dung nhẫn nại hơn trong cách đối xử với nhau, phải nỗ lực tha thiết hơn trong đời sống cầu nguyện, và phải siêng năng đến với Chúa Giêsu Thánh thể là nguyên lý của sự hiệp nhất trong cộng đoàn để xin Ngài tái tạo và củng cố sự hiệp nhất nơi cộng đoàn.
Lạy Chúa Giêsu là ánh sáng tái tạo hiệp nhất giữa Thiên Chúa và con người cũng như hiệp nhất giữa con người chúng con với nhau, nhờ lời Mẹ Maria chuyển cầu, xin Chúa giúp chúng con được ơn hối cải đểtừ bỏ tất cả những cảm nghĩ, lời nói và hành động nào có thể làm tổn thương sự hiệp nhất của chúng con với Chúa và với nhau. Xin Chúa giúp chúng con biết nỗ lực xây dựng sự hiệp nhất trong mọi môi trường chúng con sống. Xin soi sáng cho chúng con nhận biết rằng mọi người chúng con là anh chị em với nhau vì có cùng một Cha trên trời, và cùng là chi thể của nhau, để chúng con luôn sống như những người con thảo của Chúa Cha và những chi thể đích thực của Nhiệm thể của Chúa. Amen.
39. Bóng tối và ánh sáng
Mở đầu đoạn Tin mừng hôm nay, chúng ta bắt gặp những động từ diễn tả những hành động xem ra rất bi quan như: bị nộp, lui về, rời bỏ. Ai mang những hành động bi quan đó. Thưa chính là Gioan và Chúa Giêsu: Gioan thì nộp cho vua Hêrôđê, Chúa Giêsu thì phải âm thầm rút lui khỏi Galilê và rời bỏ Nazareth . Có vẻ như Gioan và Chúa Giêsu là những con người thua trận trong một trận chiến giữa bóng tối và ánh sáng.
Gioan là người công chính. Suốt cuộc đời, ông đã sống và làm chứng cho sự thật. Ông không ngừng kêu gọi con người ăn năn sám hối , từ bỏ con đường tội lỗi, kịch liệt lên án những hành động loạn luân của vua Hêrôđê . . để rồi cuối cùng ông bị nộp vào tay kẻ gian ác như những con người thua trận bị bắt làm tù bình vậy. Gioan không phải là ánh sáng nhưng không thuộc về ánh sáng và chiến đấu cho Sự Sáng. Nhưng xem ra Bóng Tối đã chiến thắng Sự Sáng và khống chế Sự Sáng. Sứ vụ làm Tiền Hô, làm người dọn đường cho Đấng Thiên sai đến của Gioan chấm dứt với việc bị bắt vào tù và chờ đến ngày bị kẻ ác giết chết. Cuộc hiến giũa bóng tối và ánh sáng vẫn tiếp diễn. Khi sứ vụ của Gioan kết thúc, thì sứ vụ của Đức Giêsu bắt đầu. Sự khởi đầu của Đức Giêsu cho sứ vụ của mình xem ra cũng chẳng sáng sủa gì. Khi ở Giuđêa, Đức Giêsu bị nhóm Sa-đốc và Biệt Phái chống đối. Họ đã bắt giam Gioan Tẩy Giả thì cũng sẽ tới lúc họ sẽ bắt giam d. Vì thế, khi Gioan bị bắt, Đức Giêsu tạm lánh mặt khỏi vùng Giuđêa và lui về Miền Bắc là Gialilê.
Sự cứng lòng và thành kiến của Dân miền Giuđêa là căn cớ cho Đức Giêsu rao giảng cho dân ngoại trong vùng Duyên hải thành Capharnaum ở Galilêa. Nhưng khi đến Galilêa, Đức Giêsu cũng không chọn Nazareth là quê hương của Ngài để rao giảng mà ngài lại chọn Capharnaum. Lý do tại sao thì Tin mừng cũng đã cho chúng ta biết trong đoạn văn tường thuật về việc Chúa Giêsu về quê hương Nazareth của mình để rao giảng. Chính Ngài đã phải mở miệng nói rằng : "Không một tiên tri nào được đón tiếp và tôn trọng tại quê hương của mình". Việc Gioan Tẩy Giả bị nộp cũng liên kết với việc Đức Giêsu bị nộp sau này, vì đó là chương trình của Thiên Chúa Cha. Thánh Mathêu cố ý dùng động từ "bị nộp" để nói về Gioan Tẩy Giả trong đoạn Tin mừng này, cũng như nói về việc Đức Giêsu "bị nộp" sau này (Mt 17, 22) cho ta thấy được Gioan và Đức Giêsu có cùng chung số phận; số phận của những con người một lòng sống cho sự thật và một lòng tuân theo Thánh ý của Chúa Cha.
Đức Giêsu khởi đầu ngay khi Thiên Chúa cho sứ vụ của Gioan Tẩy giả kết thúc. Điều này cho chúng ta thấy được là 2 sứ vụ của Gioan và của Đức Giêsu có liên kết chặt chẽ với nhau trong cùng một chương trình của Thiên Chúa. Việc Gioan Tẩy Giả bị nộp cũng liên kết với việc Chúa Giêsu bị nộp sau này, vì đó là chương trình của Chúa Cha. Thánh Mathêu cố ý dùng động từ "bị nộp" nói về Gioan Tẩy Giả trong đoạn Tin mừng này cũng như nói về Chúa Giêsu cũng sẽ bị nộp sau này nhằm cho chúng ta thấy được số phận của Gioan Tẩy giả cũng như của Chúa Giêsu, số phận đầy bị thương trước mặt người đời của những con người sống cho Sự thật và một lòng vâng theo thánh ý của Thiên Chúa.
Nhìn vào số phận của Gioan Tẩy Giả và của Chúa Giêsu, ta càng tin tưởng vào chương trình của Thiên Chúa nơi chúng ta. Mọi sự diễn ra trong cuộc đời này đều nằm trong sự quan phóng của Thiên Chúa. Là người môn đệ của Đức Giêsu, chúng ta rồi cũng sẽ đi trên con đường Đức Giêsu đi, chúng ta cũng sẽ chịu cùng chung số phận với Ngài trong những công việc nhằm minh chứng cho Sự thật hay thi hành thánh ý Thiên Chúa Cha trong cuộc đời này. Sống cho Sự thật, chiến đấu cho Sư sáng, cho vinh quang của Nước Chúa thì chắc chắn chúng ta sẽ phải rất hy sinh và sẽ mang nhiều thương tích nơi mình, thậm chí có thể mất mạng sống của mình nữa. Nhưng chúng ta hãy nhìn vào Đức Giêsu. Con đường mà Ngài đã qua chắc chắn làm cho nhiều người ngán ngại và tháo lui, nhưng vinh quang Phục sinh vô cùng vinh hiển của Ngài đang chiếu sáng khắp mọi nơi và đang mở rộng cửa để đón chờ những người con trung thành của Ngài tiến tới.
Đừng sợ bị chống đối, bị bắt bớ; nhưng hãy cầu nguyện sao cho chúng ta có đủ sức để chiến thắng trong cuộc chiến quyết liệt này. Hãy cảnh giác luôn vì ranh giới của Bóng tối và Aùnh sáng rất gần nhau. Đừng vì nhất đảm mà đầu hàng và tháo lui. Chọn lựa một con đường không có hy sinh, không có ừ bỏ, không có thập giá là chúng ta đã chọn một con đường mà Chúa Giêsu của chúng ta đã không đi qua và không có Chúa ở đó. Hãy bước trên con đường mà chính Đức Giêsu đã đi qua thì mới có thể đạt tới vinh quang Phục sinh và sự sống vĩnh cửu được. Hạnh phúc vĩnh cửu hay trầm luân đời đời là do quyết định của chúng ta bây giờ.
Ước gì đừng có ai trong chúng ta chọn lựa lối bước trên con đường rộng thênh thang mà Đức Giêsu đã không đi qua, nhưng hãy chọn lựa con đường mà Ngài đã đau đớn và cực lòng bước đi lên đồi Calvê ngày nào để được cùng Ngài hưởng vinh phúc Thiên đàng mãi mãi.
40. Ơn gọi đâu dành để riêng ai!--Lm Giuse Lê Quan Trung
Có lẽ do khởi đầu sứ vụ rao giảng công khai về Tin Mừng Nước Trời, Đức Giêsu đã tuyền chọn bốn môn đệ đầu tiên: Simon Phêrô-Anrê-Giacôbê-Gioan, mà sau này cả bốn vị đều trở thành Đức Giám Mục với vị đứng đầu là Đức Giáo Hoàng tiên khởi Phêrô, mà từ đó rất nhiều người, hễ nghe nói tới ơn gọi, là họ nghĩ ngay đến ơn thiên triệu, ơn gọi giáo sĩ, tu sĩ, ơn gọi dâng hiến, ơn gọi “độc thân vì nước trời”!
Cũng từ đó, nhiều thảm cảnh đã xảy ra trong các gia đình, họ tộc: không chấp nhận những đứa con đã đi dự tu, đã vào chủng viện, đã vô nhà dòng, mà còn dám cả gan bỏ Chúa, dám trở lại thế gian để lấy chồng, lấy vợ!
Họ coi đó là một nỗi ô nhục, một vết chàm tím bầm mà muôn đời không cách nào tẩy xóa được. Giận cho họ mà cũng thương cho họ biết bao!
Ý Chúa nào phải chỉ tuyển một ơn gọi đóng khung! Một ơn gọi tách biệt! Một ơn gọi riêng lẻ! Chúa muốn tất cả mọi người đều trở thành người thợ trong vườn nho của Chúa tùy theo khả năng, tùy theo tấm lòng, tùy theo sự lựa chọn của tự mỗi người mà! Không hiểu đúng ơn gọi sẽ không chọn đúng ơn gọi. Không chọn đúng, không thể nào sống đúng! Và nỗi bất hạnh chắc chắn sẽ xảy ra,chỉ là sớm hay muộn thôi!
1) Hạnh phúc đâu chỉ trong đời dâng hiến:
Lựa chọn nào cũng có mất mát. Tuyển lọc nào cũng có rụng rơi. Hạnh phúc nào phải cũng trả giá. Mộng mơ một hạnh phúc vẹn tuyền, toàn hảo, không đau đớn, không đánh đổi, không hy sinh, là một ảo vọng! Ngay bước khởi đầu khi được Chúa gọi mời,với bản chất tự nhiên và nhân bản,ai dám bảo bốn môn đệ tiên khởi đều thanh thản, vui vẻ, phấn khởi lên đường liền? Cũng phải đớn đau từ giã mẹ cha. Cũng phải đắng lòng rời con xa vợ. Cũng phải bịn rịn chia tay bạn hữu. Tình người chia cắt, phải dễ đâu một sớm một chiều! Trình thuật của thánh Matthêu ngắn gọn (Mt 4, 18- 4,22), nhưng sự lựa chọn của các ngài, quyết tâm theo Chúa của các ngài, bỏ lại sau lưng tất cả thân bằng quyến thuộc của các ngài, thật không đơn giản chút nào nếu ta đọc hết cả bốn tin mừng mà bốn thánh sử Matthêu, Maccô, Luca và Gioan đã ghi lại. Không ít lần họ đã bị thử thách mà thử thách đến tận cùng: bằng chính cái chết để thể hiện, để bảo vệ, để giữ trọn và để phát triển niềm tin của mình.
Chúa gọi nhiều, chọn ít! Ai cũng biết điều đó. Nhưng “ít” đây không có nghĩa là loại trừ nhóm không được chọn! Với Chúa, mỗi người Chúa giao những nén bạc riêng, trong những hoàn cảnh riêng, môi trường riêng, khả năng riêng. Hạnh phúc nhất chính là khi ta tìm gặp niềm vui nơi chính ơn gọi, vị trí, chổ đứng của mình trong ý định của Thiên Chúa với sự cộng tác tích cực của mình. Khi mình yêu thích công việc ấy và biết chắc, dẫu lựa chọn đó sẽ có thể một lúc nào đó gây cho mình nhiều đớn đau, nhiều buồn tủi, nhiều cam go, nhưng rồi mình sẽ đủ sức vượt qua vì tình yêu và niềm vui đã đủ lớn để trợ lực cho sự lựa chọn của mình.
2) Hạnh phúc đâu chỉ nếp sống hôn nhân:
Chỉ những ai đã từng nếm trải cuộc sống hôn nhân mới cảm nghiệm rõ một điều: hôn nhân không chỉ toàn là đóa hoa hồng hạnh phúc! Mà trong đó cũng có đủ vị cay đắng ngọt bùi! Không ít người đã quyết tâm hiến dâng đời mình để phục vụ Chúa và tha nhân trong nếp sống tu trì, nhưng rồi nữa đường gãy gánh, vì không lường trước hết cái giá phải trả của nếp sống ấy. Bởi một chút nản chí sờn lòng vì nhiệt tình phục vụ của mình không được đón nhận hay đáp ứng một cách tích cực, không cậy nương vào Chúa, không đủ tình với Chúa… Bến bờ tựa nương của họ sẽ là những luật bù trừ: đặt tình yêu của mình vào một đối tượng khác! Để rồi khi cơn khủng hoảng dịu lại,qua đi, hiểu được chuyện thì đã muộn màng! Bởi họ không lường trước được: hôn nhân đâu chỉ là những đóa hồng tươi! Gặp lúc nắng, hồng tươi cũng héo!
Ngay thuở ban đầu, Chúa đã liên kết con người bằng tình yêu giới tính, bằng kết hợp âm dương, bằng tình yêu nam nữ. Chính ơn gọi đó đã dẫn dần đến ơn gọi hiến dâng. Ai sống đúng ơn gọi của mình, người đó sẽ tìm thấy hạnh phúc đích thực! Dù ơn gọi gia đình hay ơn gọi dâng hiến, cái nào cũng có niềm vui và nỗi buồn, đắng cay và ngọt dịu, khó khăn và dễ dàng của nó. Miễn là ta thực sự yêu chính đời sống của ơn gọi đó, thì mầm hạnh phúc không ở đâu xa.
3) Hạnh phúc còn ở nhiệm vụ Chúa trao:
Ơn gọi hiến dâng, ơn gọi gia đình, là những ơn gọi đặc biệt mà Chúa trao ban và ta tự đón nhận để tìm hạnh phúc cho đời mình. Đã chọn, đừng luyến tiếc! Đã chọn, đừng “bắt cá hai tay”! Đã chọn, đừng ngậm ngùi tủi phận, đừng ân hận dày vò, đừng đắn đo ngó lại! Hạnh phúc nhất là hiểu đúng lời Chúa dạy! Sống đúng lời Chúa trao! Làm đúng lời Chúa dặn! Không dễ, cũng không khó, nếu ta biết: hạnh phúc thật của đời ta không có điểm dừng, điểm tận cùng, điểm kết thúc ở đời này, mà là ở cuộc đời mai hậu.
Làm tròn bổn phận và tìm được niềm vui trong bổn phận, đó đã là hạnh phúc!
Chu toàn nhiệm vụ được giao,là ta đã đáp ứng thật tâm lời mời gọi của Chúa: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá” (Mt 4,19). Bài ca sứ vụ loan báo Tin Mừng Nước Trời của một ngư phủ chuyên nghiệp, của một thợ vườn nho lành nghề chính là đời sống tỏa rạng niềm vui và hạnh phúc trong chính đời sống chứng nhân nơi ơn gọi mà mình đang sống, làm tròn những bổn phận: chủ chăn nơi cộng đoàn đức tin, cha mẹ con cái trong gia đình, ban mục vụ, ban hành giáo, ca đoàn, lễ sinh, giáo dân trong giáo xứ và thấy mình luôn bình an, luôn hạnh phúc dù gặp không ít những trắc trở khi sống khi thực hiện những nhiệm vụ đó, là mình đã không bị lệch hướng trên con đường đáp lại lời Người!
41. Mọi người là con Chúa cả!--Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng
Những chuyến đi của con người …
Thuở ban đầu, Thiên Chúa tạo dựng con người có nam có nữ, Ngài đặt tên cho họ là Adam và Eva. Đó là cộng đồng Dân Chúa đầu tiên, là xã hội đầu tiên của nhân loại. Con người được sống trong một môi trường bình an và hạnh phúc.
Nhưng con người đã bỏ Chúa mà đi.
“Người đàn bà thấy trái cây đó: ăn thì phải ngon, trông thì đẹp mắt, và đáng quý vì làm cho mình được tinh khôn. Bà liền hái trái cây mà ăn, rồi đưa cho cả chồng đang ở đó với mình; ông cũng ăn. Bấy giờ mắt hai người mở ra, và họ thấy mình trần truồng: họ mới kết lá vả làm khố che thân.
Nghe thấy tiếng Đức Chúa là Thiên Chúa đi dạo trong vườn lúc gió thổi trong ngày, con người và vợ mình trốn vào giữa cây cối trong vườn, để khỏi giáp mặt Đức Chúa, là Thiên Chúa. (St.36-8).
Đó là chuyến đi đầu tiên của con người rời xa Chúa. Chuyến đi nội tâm đầy bất an và bất hạnh. Chúa vẫn ở bên con người, nhưng lòng con người đã khác, khoảng cách với Thiên Chúa đã xa. Và những ngày đầm ấm hạnh phúc bên Thiên Chúa đã lùi vào dĩ vãng.
“Đức Chúa là Thiên Chúa đuổi con người ra khỏi vườn Ê-đên để cày cấy đất đai, từ đó con người được lấy ra. Người trục xuất con người, và ở phía đông vườn Ê-đên, Người đặt các thần hộ giá với lưỡi gươm sáng lóe, để canh giữ đường đến cây trường sinh. (St.3,23-24).
Và dòng đời cứ thế trôi đi …
Con người lại tiếp tục vương những lỗi lầm, tiếp tục có những chuyến đi lìa xa Tình Chúa. Mầm móng kiêu căng và tham vọng tiếp tục sinh sôi nẩy nở trong thế giới nội tâm con người, Máu và nước mắt, khổ đau và tuyệt vọng tiếp tục tràn lan trong kiếp sống nhân sinh!
Đức Chúa phán với Ca-in: “Aben em ngươi đâu rồi?” Ca-in thưa: “Con không biết. Con là người giữ em con hay sao?” Đức Chúa phán: “Ngươi đã làm gì vậy? Từ dưới đất, tiếng máu của em ngươi đang kêu lên Ta! Giờ đây ngươi bị nguyền rủa bởi chính đất đã từng há miệng hút lấy máu em người, do tay ngươi đổ ra” (St.4,9-11).
Con người càng lúc càng lún sâu vào những suy nghĩ và hành động đen tối, tiến dần đến thái độ chối từ và chống lại Thiên Chúa. Và cũng vì thế, con người càng chia rẻ, phân tán. Không còn một nhân loại hiệp nhất, đệ huynh, quây quần bên Thiên Chúa.
“Nào! Ta hãy xây cho mình một thành phố và một tháp có đỉnh cao chọc trời. Ta phải làm cho danh Ta lẫy lừng, để khỏi bị phân tán trên khắp mặt đất”.
Đức Chúa xuống xem thành và tháp con cái loài người đang xây. Đức Chúa phán “Đây, tất cả chúng nó họp thành một dân, nói một thứ tiếng. Chúng mới khởi công mà đã như thế thì từ nay, chẳng có gì chúng định làm mà không làm được. Nào! Ta xuống và làm cho tiếng nói của chúng phải xáo trộn, khiến chúng không ai hiểu ai nữa”. Thế là Đức Chúa phân tán họ từ chỗ đó ra khắp nơi trên mặt đất, và họ phải thôi không xây thành phố nữa. Bởi vậy, người ta đặt tên cho thành ấy là Ba-ben, vì tại đó, Đức Chúa làm cho xáo trộn tiếng nói của mọi người trên mặt đất, và cũng từ chỗ đó, Đức Chúa đã phân tán họ ra khắp nơi trên mặt đất”. (St.11,3-9).
Và, con người mất dần hình ảnh Thiên Chúa trong lòng họ. Dần dần họ là trở thành Dân Ngoại, không còn niềm tin vào Thiên Chúa.
Cũng có những cuộc tìm về Thiên Chúa, nhưng hình ảnh Thiên Chúa đã bị hiểu sai lầm, lệch lạc, mờ ảo, nhạt nhòa.
Cũng có những cuộc tìm về Thiên Chúa với tấm lòng thành tâm, thiện chí, nhưng không biết con đường, không nhận ra hướng đi.
Cũng có những cuộc tìm về Thiên Chúa, nhưng niềm tin hòa lẫn cùng lợi lộc thế tục. Trắng đen, hư thực pha trộn, không biết đâu là chánh, đâu là tà!
Những chuyến đi của Thiên Chúa…
Ngay từ buổi ban đầu, sau khi con người sa ngã, Thiên Chúa vẫn yêu thương con người, dù rằng con người đã phản bội Thiên Chúa với quyền tự do chọn lựa của mình.
“Ta sẽ đặt hận thù giữa ngươi và người đàn bà, giữa dòng giống ngươi và dòng giống nó. Dòng giống nó sẽ đạp đầu ngươi, còn ngươi sẽ táp lại gót chân” (St.3,15).
Để thực hiện chương trình cứu chuộc con người, Thiên Chúa đã chọn cho mình một “Dân riêng” để chuẩn bị một chuyến đi viếng thăm nhân loại. “Thiên Chúa xuống thế làm người và ở cùng chúng ta”.
Hạnh phúc thay quốc gia được Chúa làm Chúa Tể. Hạnh phúc thay dân nào Người chọn làm gia nghiệp. (Tv.33,12).
Và, Ơn Cứu Độ đã đến với mọi nước, mọi dân, khởi đi từ Do Thái, dân riêng của Chúa.
Vì Ơn Cứu Độ là của mọi dân tộc, là của con người, Chúa Giêsu không thể chấp nhận sự tự hào đến mức kiêu căng tự phụ của Do Thái, đặc biệt là những người Pha-ri-sêu về việc họ là dân riêng của Chúa. Thái độ ấy dẫn đến hình ảnh một Thiên Chúa chỉ biết đến họ vì chỉ có họ mới xứng đáng và loại trừ tất cả mọi dân tộc khác, những dân tộc mà người Do Thái liệt vào dân ngoại và không được Thiên Chúa đoái thương.
“Thưa ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ… Cha ông chúng tôi đã thờ phượng Thiên Chúa trên núi này; còn các ông lại bảo: Giê-ru-sa-lem mới chính là nơi phải thờ phượng Thiên Chúa”. Chúa Giêsu phán:”này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem. Các người thờ Đấng các người không biết; còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do Thái. Nhưng đã đến giờ - và chính là lúc này đây – giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng người như thế. (Ga 4,19-23).
Chúa Giêsu đã đến với mọi người. Thiên-Chúa-làm-người cứu độ tất cả mọi chúng sinh tin tưởng vào Ngài. Ngài là ánh sáng muôn dân. Ngài đem đến cho nhân loại hình ảnh Thiên Chúa là Cha và rất mực yêu thương con người.
Hỡi Galilê, miền đất của dân ngoại! Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi. (Mt.4,15-16).
Và, Chương Trình Cứu Độ được tiếp tục mãi cho đến ngày Chúa đến. Chúa Giêsu đã tuyển chọn 12 môn đệ tiếp tục sứ mạng loan báo Tin Mừng Tình Thương của Thiên Chúa đối với con người. Sứ mạng ấy cũng chính là sứ mạng đem mọi người về với Chúa, đem mọi người trở về địa vị cao cả nhất và nhân bản nhất, đó là được làm con Thiên Chúa.
Có một chuyến đi quyết định, đó là chuyến đi của “Thiên Chúa viếng thăm dân người”. Đó là chuyến đi khởi đầu cho những chuyến đi trên mọi miền đất nước Do Thái.
“Đức Giêsu đi khắp các thành thị, làng mạc, giảng dạy trong các hội đường của họ, rao giảng Tin Mừng Nước Trời và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền. Đức Giêsu thấy đám đông, Người chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt. Bấy giờ Người nói với các môn đệ rằng: “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt thì ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về”. (Mt. 9,35-38).
Và, bước theo Thầy Chí Thánh, các môn đệ tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu, nhân danh Ngài, các ông đã thực hiện những chuyến đi đến khắp cùng bờ cõi trái đất để làm chứng nhân cho Giêsu, Đấng quy tụ nhân loại về một mối.
“Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc.16,15).
Tất cả, là vì mục đích: “muôn dân được thuộc về Chúa”, con người được trở về thuở ban đầu: “được làm con cái Chúa”.
Cuộc hành trình niềm tin chỉ cần sám hối và tin vào Chúa Giêsu, Đấng dẫn dắt chúng ta về với Chúa Cha, bến bờ hạnh phúc trong Vương Quốc Tình Yêu của Thiên Chúa.
“Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt.28, 18-20).
Cuộc trở về của con người.
Vườn Địa Đàng ngày nào, sau bao nhiêu năm “lưu lạc”, con người được quay trở về, được sống trong Tình Cha - Miền Đất Hứa - sau một đời lâm lụy ở trần gian.
Không còn là Dân Ngoại, Dân Riêng, tất cả là một trong Tình Yêu Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Ki-tô, con người được quay quần trong thế giới yêu thương huynh đệ. Không có con đường nào khác ngoài con đường Tình Yêu mà Thiên Chúa đã vạch ra cho loài người.
Tất cả chúng ta, dầu là Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều chịu phép rửa trong cùng một thần khí để trở nên một thân thể (1Cr.17,21).
Đó là ước mơ của cả nhân loại sống hòa bình, hiệp nhất trong một Chân Lý Tình Yêu. Đó là Vườn Địa Đàng tìm thấy, hạnh phúc vô biên mà con người đã đánh mất ngày nào.
Chỉ một Chúa, một đức tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người và trong mọi người. (Ep.4,5-6).
Lạy Chúa,
Xin cho niềm tin vào Giêsu được lan tràn khắp địa cầu,
Xin cho mọi người chúng con
can đảm loan truyền niềm tin vào Thiên Chúa,
Xin hiệp nhất chúng con nên một,
trong tình yêu của Ngài. Amen.
42. Được gọi--Mar. Phạm Hoàng Đăng
Bài Tin Mừng ngày hôm nay được chia làm ba phần khác nhau, nhưng đều có mối liên kết cuối mỗi phần để tạo nên một bức tranh đẹp trong sứ vụ của người mục tử đang trên hành trình tìm kiếm đàn chiên của mình.
- Chúa Giêsu rao giảng – Ngài bắt đầu sứ vụ của Ngài
- Chúa Giêsu gọi các môn đệ đầu tiên – Ngài chọn những trợ tá xứng đáng cho Ngài.
- Và Chúa Giêsu tiếp tục rao giảng – nhưng thêm một chi tiết nữa, đó là chữa bệnh và trừ quỷ.
Cả ba phần đều chứa đựng nhiều cảm xúc của nguời đọc về lòng nhân từ, yêu thương của Chúa. Mọi người bị cuốn vào phần đầu tiên và phần thứ ba nhiều hơn khi Chúa rao giảng, chữa bệnh và trừ quỷ. Nhưng điểm chính trong bản văn Tin Mừng hôm nay lại ở phần giữa, phần mà Chúa gọi những môn đệ đầu tiên.
Lẽ dĩ nhiên không đơn giản mà đường đột Chúa đến gọi các vị ngư phủ mà họ theo, dễ gì phải không. Chúa Giêsu, Ngài biết rõ những nguời mình sẽ gọi là ai, gia cảnh thế nào. Đơn giản là trong những thời gian rao giảng xung quanh vùng biển hồ Galilê này, Người đã quan sát, đã nhận biết đối tượng mà Người sẽ chọn lựa là ai. Và dĩ nhiên ở chiều ngược lại, các ngư phủ cũng biết rõ về cái ông tên Giêsu mà hay đi lang thang dọc bờ biển rao giảng điều tốt lành đó như thế nào, ra sao,…hai bên đã hiểu nhau và giờ chỉ còn chờ một mẫu số chung nữa mà thôi.Rồi thì một ngày đẹp trời nọ, giữa họ đã có mẫu số chung, một mẫu số hoàn hảo.
Bản văn của Matthew không chỉ được đọc và nhìn như là việc gọi đơn thuần, nhưng cần phải được mỗi người để ý và khoanh tròn những động từ có sức cuốn hút mãnh liệt dành cho chính bản thân mỗi người đọc.
“ Thấy, gọi, bỏ, theo”
Những động từ dứt khoát, không do dự từ nơi người gọi và cả người được gọi. nhữngđộng từ đọng lại những suy tư trăn trở cho bất kỳ người Kitô hữu nào, trong bất kỳ bậc sống nào khi đã hiểu những động từ này gắn liền với cuộc đời mình.
Vợ chồng được Chúa thấy và mời gọi họ vào đời sống hôn nhân, và họ cần dám từ bỏ những ích kỷ, ghen tương, mâu thuẫn gia đình mà theo lẫn nhau. Theo với lời hứa chung thuỷ mà họ từng cầm tay nhau thề hứa trước Chúa. Theo để tha thứlầm lỗi cho nhau, để yêu thương và tôn trọng nhau mọi ngày suốt đời nhau.
Ở ơn gọi tu trì hay đời sống độc thân thì lời mời gọi nơi những động từ ở bài đọc hôm nay càng đuợc hiểu và đáp trả mãnh liệt hơn. Chúa đã thấy và mời gọi, Ngài gọi bằng tình yêu, bằng cái nhìn êm ái…và sự đáp trả để được nên thánh cũng bằng những động từ dứt khoát “Bỏ và Theo”. Bỏ -bỏ mọi sự- như ta biết rằng Thánh Phêrô cũng có gia đình, có vợ, con. Nhưng trong bản văn hôm nay thì ta thấy được một cụm từ “ lập tức bỏ” sự từ bỏ không lưu luyến, không vấn vương mà là “ lập tức”- rất dứt khoát.
Cũng có thể là đằng sau đó là một cuộc chia tay, cuộc gặp gỡ ngắn gọn, nhẹ nhàng “ em ở lại, anh đi nhé…”của Thánh Phêrô. Nhưng thực tế cho thấy một sự quyết định dứt khoát theo Chúa của Thánh nhân. Tương tự như với anh em của Giacôbê và Gioan, lại cụm từ “ lập tức bỏ” xuất hiện. hai anh em ông này cũng dứt khoát bỏ thuyền- vật chất thế gian, bỏ cha- tình thân ruột thịt mà đi theo Chúa.
Gần như chắc chắn sẽ có nhiều người phản ánh sự dứt bỏ phũ phàng của các ông. Nhưng điều cốt yếu ở đây và sự khẳng định cụ thể là các ông đã từ bỏ, từ bỏ thật sự để bôn ba cùng Thầy Giêsu. Sự bôn ba bắt nguồn từ việc họ đã được thấy và được gọi. Ánh mắt nhìn mãnh liệt và lời gọi êm ái nhưng dứt khoát.
Ngày nay, những động từ trên cũng vẫn tiếp tục được nhắc đến trong mỗi bậc sống của mỗi người chúng ta. Mỗi người được gọi, gọi từ ngàn xưa vì tình yêu bao la của Chúa. Người được gọi không có gì- không cần phải là đại gia, quan chức, nhưng là bất kỳ ai và vì họ xứng đáng được gọi. Lời mời gọi và đáp trả là của mỗi cá nhân. Chỉ khi bỏ và theo từ khi họ được thấy và được gọi thì họ mới nhận ra rằng họ được Thiên Chúa mời gọi. Cứ như càng học, càng quên, khi theo –khi đáp trả thì mới ngộ ra rằng mình đã theo. Và sự theo được thể hiện nơi lòng trung tín, yêu thương và tha thứ cho nhau trong mỗi bậc sống của mỗi người.
43. Suy niệm của André Sève.
ĐỨC KITÔ Ở NƠI NÀO MÀ KHÔNG CÓ AI BỊ LOẠI TRỪ CẢ
Matthêu thích tạo nên những toàn thể. Trước khi cống hiến cho chúng ta Bài Giảng Trên Núi đầy ấn tượng, ngài tổng hợp công việc truyền giáo của Chúa Giêsu trong cái bước đầu nhiều sóng gió, trong đó cái nhìn khám phá ra những chân trời càng ngày càng rộng lớn hơn. (Tôi đọc đến đoạn 23 bởi vì cắt đứt một bố cục hoàn toàn như vậy là điều đáng tiếc).
Động thái thứ nhất: Chúa Giêsu lui về Galilê, rời Nagiarét để lấy Caphanaum làm cơ sở hoạt động và bắt đầu giảng dạy.
Động thái thứ hai: Chúa Giêsu đi trên bờ hồ và nói với bốn người: “Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các con trở thành những kẻ đánh lưới người. Từ bỏ tất cả, họ theo Ngài”. Thế là khai sinh một Giáo Hội có bản chất truyền giáo.
Động thái thứ ba: Ngài rảo “khắp” miền Galilê. “Khắp” là từ mấu chốt. “Danh tiếng của Chúa Giêsu đồn ra khắp miền Syri; người ta đem đến cho Ngài tất cả những ai đau ốm; rất nhiều người theo Ngài”. Tầm nhìn không ngừng mở rộng ra và lời trích dẫn tiên tri Isaia rất có ý nghĩa: “Galilê của các dân tộc!”.
Galilê là ngã ba đường nơi có nhiều người qua lại, người ngoại giáo sống lẫn lộn với người Do Thái. Trong khi xác định rằng Chúa Giêsu chọn Galilê để truyền giáo, Matthêu muốn lưu ý ngay tầm vóc của sự cứu độ của Đấng Cứu Thế. Trước tiên được dành riêng cho người Do thái, sự cứu độ sẽ lan tỏa tới tất cả mọi người.
“Ánh sáng đã xuất hiện trên những người ngồi trong bóng tối và sự chết”.
Trước khi lắng nghe chi tiết những lời nói của Chúa Giêsu trước khi xem Ngài hành động, sự suy niệm của chúng ta cần phải có tầm cỡ cần thiết để không bao giờ thu hẹp bất cứ cái gì thuộc về sự cứu độ. Tôi không biết đã đọc ở đâu: “Chúa Kitô ở nơi nào mà không có gì đóng kín, nơi mà không có người nào bị loại trừ”. Tôi vui mừng, nhưng sau đó cảm thấy nực cười: trong lịch sử, nhân danh chính Chúa Kitô, có biết bao nhiêu là bức tường và biết bao nhiêu sự loại trừ.
Những người trẻ tuổi khó mà hiểu được những chia rẽ giữa những người Kitô hữu và những hình thức loại trừ. Ít nhất trên đểm này họ là những người thầy của chúng ta do sự cảm nhận Tin Mừng tế nhị hơn của họ. Biết bao lần tôi đã nghe những người Kitô hữu ở tuổi trưởng thành tỏ ra khinh bỉ một loại người nào đó. Họ nói “Bọn họ!”. Giống như thể có những người được Chúa thương riêng, những người Công Giáo và nhất là những người hành đạo, sau đó là vô số người bị Chúa quên lãng, những người mọi rợ, những quái nhân, những kẻ vô luân, những kẻ không tin có Chúa.
Không, “không tin có Chúa” chỉ có nghĩa khi nói về những người từ chối Thiên Chúa (nhưng họ từ chối Thiên Chúa nào?). Trước mặt Chúa, chỉ có những con cái của Ngài mà thôi. Điều này có khó chấp nhận hay không? Do đâu mà có sự loại trừ cuồng nhiệt như thế?
Có thể là do quan niệm “dân tộc được chọn” ít được giải thích cho sáng tỏ. Ở đây, tôi sẽ không tránh né một câu hỏi làm tôi luôn bối rối: ‘tại sao có sự chọn lựa của Thiên Chúa’. Tôi thường gặp câu hỏi này trong những bài phỏng vấn tôi, khi thì dưới dạng một sự khắc khoải, khi thì đầy tức giận. Người ta nói với tôi: ‘Bạn được sinh ra trong một gia đình Công Giáo, còn tôi được sinh ra trong một gia đình cộng sản triệt để vô thần. Do đó bạn có đức tin, còn tôi thì không. Tại sao Chúa của bạn cho những người này tất cả còn những người khác thì không cho gì hết?’. Tôi không trả lời được. Tôi không biết tại sao thế giới được chia ra thành người Do Thái, người Kitô hữu, người Hồi Giáo, người Phật Giáo, người theo thuyết không thể biết và người vô thần.
Tôi có thể nói lên hai điều. Trước hết khẳng định rằng Chúa ban tất cả hoặc không ban gì hết là sai. Những điều Ngài cho thì khác nhau và Ngài để cho những khác biệt đó hoạt động. Tạo vật của Ngài là một thế giới những sự khác biệt. Những nơi nào có con người hiện hữu thì nơi đó Chúa để mắt nhìn đến người đó. Ngài ban cho người đó những ơn sủng phù hợp với điều người đó làm nhằm hoàn thành nhiệm vụ làm người của họ, cho dù người đó sống vào thời kỳ nào, ở đâu và có nền văn hoá nào.
Tiếp đến, tất nhiên đã có một dân tộc được chọn: dân tộc Do Thái. Và một dân tộc thứ hai được chọn, đó là những người Kitô hữu nối tiếp dân tộc Do Thái (Matthêu nhấn mạnh rất nhiều trên sự liên tục này). Chúa Giêsu là Đấng Cứu thế được các sứ ngôn loan báo. Ngài là Môisê mới của một dân tộc không biên giới. Người Kitô hữu chỉ được cứu độ để trở thành những kẻ cứu độ, để trở thành những dấu chỉ của sự cứu độ của Chúa Giêsu Kitô được trao ban và được sống bằng nhiều cách mà không có kẻ nào bị loại trừ cả.
Ý tưởng Thiên Chúa là Cha của tất cả mọi người sẽ giúp chúng ta tránh được việc co mình lại cố thủ và loại trừ. Chúng ta chỉ có quyền gọi Chúa Giêsu là “Đấng Cứu độ chúng con” nếu điều đó muốn nói với chúng ta: Đấng Cứu độ mọi người. Trong miền Galilê của các dân tộc đã bắt đầu một sự quy tụ mà không ai có quyền giới hạn cả.
44. Nước Trời đang đến--Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Không thể phủ nhận một trong những chủ đề chính của lời rao giảng của Chúa Kitô đó là “hãy ăn năn sám hối” (x.Mt 4,17; Mc 1,15). Sám hối ăn năn không chỉ là nhìn nhận sự sai lầm trong thái độ, hành vi của mình, cũng không chỉ là ân hận về những lầm lỗi mình đã phạm, nhưng còn là một sự thay đổi tận căn lối sống của mình. Các nhà chú giải Kinh Thánh thường phân tích hạn từ “Metanoia”, nghĩa là nghĩ khác trước, đổi ý, đổi tâm tình, đổi não trạng…để khẳng định ăn năn sám hối là thay đổi cách ăn, nếp ở, thay đổi hướng đi, để trở về với Thiên Chúa, sống theo đường lối Thiên Chúa chỉ dạy.
Làm cho một người thay đổi lối sống quả là không dễ chút nào, nhất là khi lối sống ấy đã trở thành nếp do một quá trình hình thành từ lâu. Tuy nhiên, với Thiên Chúa thì mọi sự đều là có thể. Và một phương thế Thiên Chúa đã thực thi đó là chiếu giải ánh sáng tình yêu diệu kỳ. Sứ ngôn Isaia đã loan báo xưa: “Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng…”(Is 9,1). Ánh sáng ấy chính là tình yêu, là ân sủng mà Thiên Chúa đổ xuống trên họ, khi cho họ thoát khỏi ách gông cùm nô lệ. Thánh sử Matthêu đã lấy lại lời của sứ ngôn Isaia để áp dụng vào trường hợp dân chúng vùng Capharnaum, những người đang hưởng phúc lành của Chúa Giêsu, Đấng đi đến đâu thì giáng phúc thi ân đến đó (x.Cvtđ 10,38).
Để mời gọi các nhà lãnh đạo cũng như dân chúng sám hối ăn năn, thay đổi đời sống, thì các ngôn sứ ngày xưa thường nghiêng chiều việc cảnh báo về các tai hoạ do Thiên Chúa sẽ đoán phạt nhiều hơn là tình yêu và lòng từ nhân của Thiên Chúa. Vị ngôn sứ cuối cùng của Cựu ước là Gioan tẩy giả cũng như vậy. Ngài nghiêm nghị cảnh báo nhiều người thuộc phái Pharisiêu và phái Sađốc: “Hỡi nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống…cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quẳng vào lửa” (Mt 3,7-10, x.Lc 3,7-18).
Chúa Giêsu thì trái lại, Người chủ yếu mạc khải về tình yêu vô bờ của Thiên Chúa để con người cảm mến, tin tưởng trở về. Các Tin Mừng Nhất lãm tường thuật lời rao giảng của Chúa Giêsu khi Người khởi đầu sứ vụ như sau: “Thời kỳ đã mãn, và Triều đại Nước Thiên đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15); “Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 4,17); “Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe đó là: ‘Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Thiên Chúa” (Lc 4,18-19). Tin Mừng thứ tư thì tuờng thuật việc Chúa Giêsu hoá nước thành rượu ngon tại một tiệc cưới ở Cana cho dù trước đó Người nói rằng giờ của Người chưa đến (x.Ga 2,1-12).
Trời càng sáng thì những chỗ bẩn, chỗ nhơ càng lộ rõ. Ân phúc của Thiên Chúa là ánh sáng giúp con người nhận ra thân phận tội lỗi của mình. Hơn thế nữa, tình yêu của Thiên Chúa chính là ánh sáng dẫn đưa con người quay bước trở về. Khi biết mình được yêu, được tha thứ, được đón nhận thì tội nhân sẽ can đảm chỗi dậy và đổi thay. Trên con đường chiếu giải ánh sáng thiên linh, Chúa Giêsu mời gọi một số người cộng tác là các tông đồ, các môn đệ. Người đã sai các vị đi rao giảng Tin Mừng Nước Trời bằng việc chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỷ và chia sẻ ơn bình an (x.Mt 10,1-16).
Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban và sai Con của Người đến thế gian không phải để luận phạt thế gian nhưng để những ai tin vào Con của Người thì được sống muôn đời (x.Ga 3,16-17). Đến thế gian, một trong những sứ mạng chính yếu của Chúa Kitô đó là mạc khải chân dung Thiên Chúa là Cha toàn năng, Đấng đầy quyền năng và cũng là Đấng toàn thiện, toàn hảo, Đấng không chỉ “không dập tắt tim đèn còn khói, không bẻ gảy cây lau bị giập” mà còn “cho mưa rơi đều trên người lành lẫn kẻ bất lương, cho mặt trời mọc lên soi sáng người công chính lẫn tội nhân”, Đấng khộng chỉ sẵn sàng bỏ chín mươi chín con chiên trên núi để đi tìm một con chiên lạc đàn mà còn sẵn sàng giang rộng cánh tay đón nhận đứa con đi hoang trở về, cho dù lý do nó trở về là để kiếm chút cơm canh lót dạ mà thôi (x.Mt 6,43-45; Lc 15).
Có thể nói rằng đường lối của Thiên Chúa chủ yếu là tỏ bày tình yêu để con người cảm mến, tin tưởng mà hoán cải, đổi thay. Tuy nhiên chúng ta cũng có thể nhận ra đây là đường lối chung của Thiên Chúa dành cho người bé mọn, kẻ yếu đuối, người tội lỗi, thấp hèn. Còn với một số ít người xem ra cố chấp, tự hào về tài năng, chức quyền hay về chút công trạng của mình mà ở lỳ trong tội, thì Chúa Kitô có vẻ nghiêm khắc cách khác thường. Nhiều người biệt phái, luật sĩ hay tư tế Do Thái thời bấy giờ ở trong trường hợp này. Và Chúa Kitô đã dùng những kiểu nói đanh thép để cảnh tỉnh họ như “khốn cho các nguơi”, hay “vô phúc cho các ngươi” (x.Lc 6,24-26; 11,37-52; Mt 23,1-36).
Cũng như các môn đệ năm xưa, chúng ta hôm nay được Chúa Kitô mời gọi làm kẻ chài “lưới người như lưới cá”. Để mời gọi tha nhân hoán cải ăn năn không gì hơn là hãy cho họ thấy Nước Trời đang ở giữa họ (x.Lc 17,21), tức là nỗ lực dệt xây một môi trường sống trong tình thương và chân lý, trong bình an và sự liên đới hiệp thông, thoát khỏi vòng kiềm tỏa của thần dữ. “Nếu Tôi dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ thì quả là Triều Đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông” (Lc 11,21). Khi chúng ta tích cực gieo rắc ân tình, thì một cách nào đó, chúng ta làm cho người yếu đuối, kẻ tội lỗi nhận biết họ vẫn được yêu thương, được đón nhận. Tuy nhiên, chúng ta cũng đừng quên mạnh mẻ cảnh báo những ai vì quá tham danh, hám lợi hay vì cao ngạo mà cố chấp và cố tình ở lỳ trong tội, đồng thời gây cớ vấp phạm cho kẻ bé mọn, gây thiệt hại cho những người cô thân, phận bé. Nước Trời thường được Chúa Giêsu ví như bữa tiệc đầy sơn hào hải vị mà Thiên Chúa ban cách nhưng không (x.Mt 22,1-10), nhưng Nước Trời cũng được ví như tấm lưới kéo từ biển lên, cá tốt thì cho vào giỏ, còn cá xấu thì bị vứt ra ngoài (x.Mt 13,47-48).
45. Đức Kitô gọi đích danh tên của chúng ta nơi phép Rửa tội--‘Mở Ra Những Kho Tàng’--Charles E. Miller
Ngày hôm nay thánh Matthêu thuật lại cho chúng ta việc Chúa Giêsu kêu gọi một số tông đồ. Ngài có thể kể câu chuyện này cách chung chung, nghĩa là chỉ thông báo cho chúng ta biết Chúa Giêsu tụ họp một số môn đệ ở chung quanh Người, thay vì ngài trình bày như thế, thánh Matthêu đã cho chúng ta biết tên của các vị tông đồ được Chúa Giêsu kêu gọi. Các tông đồ đó là Simon (sau này tên là Phêrô) và Andrê em của ông. Giacôbê và Gioan em ông. Có một điều gì đó đặc biệt nơi cái tên của chúng ta.
Trên một “sô” diễn trên tivi, có một bài hát diễn tả tình cảm thật đẹp khi chúng ta đi đến một nơi mà mọi người đều biết tên của bạn. Thật hồi hộp và cảm động biết bao khi bốn người dánh cá nghe thấy Chúa Giêsu gọi tên họ, mời gọi họ đi theo Người. Họ phải bịn rịn lắm khi từ bỏ nghề nghiệp, gia đình và nhà cửa để đi theo Chúa Giêsu. Họ đã thấy nơi Chúa Giêsu có điều gì đó rất khác với những chứng nhân trước đó. Phải có ánh sáng đức tin trợ giúp họ, để họ nhìn thấy Chúa Giêsu thật sự là Con Thiên Chúa. Nhưng lúc ban đầu ánh sáng ấy không mạc khải cách kỳ diệu như tiên tri Isaia đã tiên tri khi ông viết: “Dân chúng đi trong tối tăm nay đã thấy ánh sáng lớn lao”. Nhưng đó mới chỉ là một ánh sáng mờ nhạt, một ánh sáng cho phép họ có những lúc vẫn còn nghi ngờ ở Chúa Giêsu, có lúc còn chối Chúa, hay bỏ rơi Chúa trong cuộc thương khó của Người. Nhưng ánh sáng đó không hề tắt bao giờ. Đúng hơn, nó đang dần dần lớn lên và khi Chúa Thánh Thần ngự đến vào ngày lễ Hiện Xuống, ánh sáng đó đã trở thành một ngọn lửa chiếu sáng và ấm áp. Sự tận tuỵ đã thay đổi sự nghi hoặc.
Những điều đó cũng đã xảy ra cho chúng ta như thế. Qua Giáo Hội, lúc chúng ta chịu phép rửa tội, Đức Kitô đã gọi đích danh tên của mỗi người chúng ta. Người nói qua giọng vị linh mục: “Anna (hoặc Anrê) Linh (hoặc Long) (hay bất cứ tên nào) Cha rửa con nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Chúng ta được trao cho một ngọn nến cháy sáng, biểu hiện cho đức tin của chúng ta. Cho dù lúc đó chúng ta là những đứa bé hay những người đã trưởng thành, chúng ta lãnh nhận ánh sáng đức tin. Đầu tiên ánh sáng ấy chỉ là một đốm sáng mờ nhạt nhưng với bí tích Thêm Sức, bí tích này kiện toàn phép rửa tội, ánh sáng đó trở nên sáng rực.
Với đức tin chúng ta nhìn thấy Chúa Giêsu thật sự là Con Thiên Chúa, là Đấng mà Chúa Cha đã sai đến trong thế gian, được thụ thai trong cung lòng Đức Trinh Nữ Maria bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần. Chúng tôi tin Chúa Giêsu đã đi rao giảng Tin Mừng của Nước Thiên Chúa, Tin Mừng mà chúng ta vẫn tiếp tục lắng nghe Thánh Kinh và những lời giáo huấn khác của Giáo Hội. Chúng ta biết rằng sứ vụ truyền giáo đã dẫn Người lên Giêrusalem, nơi mà Người phải chịu đau khổ, chịu chết và sống lại để cứu chuộc chúng ta. Đức tin của chúng ta dạy rằng nhờ việc chúng ta thông dự vào tiệc Thánh Thể, chúng ta được chia sẻ sự kỳ diệu của sự chết và sự sống lại của Con Thiên Chúa.
Chúng ta theo Đức Kitô bởi chúng ta là thành phần của thân xác Người, thân thể mầu nhiệm của Người là Giáo Hội. Chúng ta có thể cảm nghiệm được tâm tình của Thánh Vịnh 27: “Chúa là ánh sáng và là Đấng Cứu Độ tôi, tôi còn sợ chi ai? Chúa là nơi nương ẩn của đời sống tôi, tôi còn sợ gì ai?”
Thánh Vịnh viết tiếp: “Một điều tôi xin Chúa, một đều tôi kiếm tìm, đó là được cư ngụ trong nhà Chúa suốt đời tôi”. Chúng ta phải luôn luôn trung thành với ơn gọi phép Rửa của chúng ta, để được ở lại trong nhà Chúa là Giáo Hội của Người và đừng bao giờ nghi hoặc, hoặc bỏ rơi Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã kêu gọi đích danh tên chúng ta để chúng ta trở nên những người tiếp bước của Người.
46. Trung tín với Chúa và trung tín với con người--‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’
Bài này cho thấy Chúa Giêsu khởi sự rao giảng Tin Mừng. Người bắt đầu loan báo Tin Mừng về Nước Trời. Việc này làm nổi rõ ngay từ đầu điều mà ta có thể gọi là lòng trung tín của Đức Kitô, trung tín với Chúa Cha và trung tín với con người. Thật vậy, Chúa Giêsu loan báo Tin Mừng về Nước Trời, chớ không phải một sứ điệp giới hạn về một thứ giải phóng trần gian nào. Làm như thế, Người trung tín với Chúa Cha với chính mình, với Thánh Thần. Đàng khác, Người đi khắp Galilêa, nghĩa là tìm đến với con người tại nơi họ ở và như họ là, Người khai thông những khả năng tốt nhất của họ (kể cả khả năng trở nên Tông đồ). Trong điểm này, Người đã trung tín với con người. Ở đây ta gặp một vấn đề lớn lao, vấn đề này đã được đặt ra cho Giáo Hội trong suốt lịch sử. Đó là: làm thế nào cống hiến tất cả sự phong phú nhân loại cho Phúc Âm và làm thế nào sống toàn bộ Phúc Âm trong thực tại con người? Người Kitô hữu phải hoàn toàn thuộc về Đức Kitô, đồng thời trọn vẹn là con người, hay nói đúng hơn, trọn vẹn con người bởi vì trọn vẹn thuộc về Đức Kitô. Phải dùng tinh thần Phúc Âm hoàn lại tất cả đời sống con người cho chân lý của nó sự trong sáng, sự sung mãn của nó. Vì Tin Mừng về Nước Trời được loan báo cho toàn bộ đời sống con người.
Đâu là những con đường mà việc loan báo này đi theo?
1) Hãy trở lại, vì Nước Trời đã đến gần. Trở lại đi đôi với Nước Chúa điều đó có nghĩa gì? Phải chăng có nghĩa rằng Tin Mừng là lời loan báo về một cuộc thay đổi ách thống trị trên con người? Thật vậy, nếu theo bản chất con người được tự do chọn lựa ông chủ thống trị mình, thì nó luôn luôn có một ông chủ. Nếu nó không chọn Nước Chúa, nó tự buộc mình phải chịu những ách nô lệ (như bản năng, lòng ích kỷ, - tiền tài, quyền lực ma quỷ v, v…). Đức Kitô loan báo cho ta biết chọn lựa những điều giải phóng ta. Người gọi ta chọn lựa Thiên Chúa, tức là sự thống trị của Tình Yêu. Để phục hồi đời sống con người lại tình trạng nguyên vẹn của nó, phải từ bỏ ách nô lệ của sự ác và chọn lựa Chúa làm Đấng thống trị của Tình Yêu. Để phục hồi đời sống con người lại tình trạng nguyên vẹn của nó, phải từ bỏ ách nô lệ của sự ác và chọn lựa Chúa làm Đấng thống trị ta.
2) Chữa lành mọi bệnh tật. Đức Kitô dùng quyền năng của lòng nhân hậu để hỗ trợ lời rao giảng của Người. Những vụ chữa bệnh phần xác, ngoài giá trị riêng biệt nó có, còn biểu thị sự hồi phục con người tinh thần, tức là con người tự gốc rễ của nó. Hành động Đức Kitô nhằm phục hồi trọn vẹn điều mà tội lỗi đã muốn làm hư hỏng, tổn thương yếu nhược, phá huỷ. Đức Kitô trung tín với con người ở chỗ Người hành động để con người trở lại tình trạng nguyên vẹn đầu tiên như Thiên Chúa đã nghĩ tưởng, và như thế Người cũng trung tín với Thân Phụ Người, Đấng đã muốn cho tất cả mọi người khởi đầu từ đó mà trở nên con cái Người.
47. Tiếng gọi của Chúa--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
Năm 1950, một hội nghị đại diện 17 quốc gia đã bầu Albert Schweitzer làm “người hùng của thế kỷ”. Hai năm sau (1952). Albert Schweitzer được giải thưởng Nobel hoà bình. Schweitzer được toàn thế giới tuyên dương là một thiên tài đa dạng: Ông vừa là một triết gia lừng danh, một nhà thần học nổi tiếng, một sử gia đáng kính, một nhạc công sôlô trong dàn nhạc và còn là một bác sĩ thừa sai nữa.
Nhưng điểm nổi bật nhất nơi ông là niềm tin Kitô giáo sâu sắc. Chính niềm tin này đã khiến ông thành “người hùng của thế kỷ”: Năm 21 tuổi, Schweitzer tự hứa với mình là sẽ nghiên cứu nghệ thuật và khoa học cho đến năm 30 tuổi, rồi sẽ cống hiến cuộc đời còn lại cho những người thiếu thốn bằng một hình thức phục vụ trực tiếp nào đó. Và thế rồi, vào sinh nhật thứ 30 của ông, nhằm ngày 13/10/1905, ông đến một hộp thư ở Paris gởi một số thư về cho bố mẹ và bè bạn thân thiết nhất, báo cho họ biết ông sắp sửa ghi tên vào đại học để lấy bằng y khoa, sau đó ông sẽ đi Phi Châu sống như một bác sĩ thừa sai để phục vụ đám dân nghèo.
Những lá thư của ông lập tức bị phản đối ngay. Bà con và bè bạn ông đồng loạt phản đối dự tính mà họ cho là điên rồ của ông. Họ bảo ông là một người đem chôn dấu tài năng đã được uỷ thác cho ông… Tuy nhiên, Schweitzer vẫn khăng khăng thực hiện những ý định của mình. Năm 38 tuổi, ông trở thành một bác sĩ y khoa thực thụ. Năm 43 tuổi, ông đến Phi Châu mở một bệnh viện cạnh bờ rừng của khu vực gọi là Phi Châu xích đạo. Tại đây, ròng rã suốt hơn bốn mươi năm trời, ông đã dùng hết tài năng và sức lực để đêm ngày tận tuỵ săn sóc những người dân bản xứ nghèo nàn bệnh tật, với tất cả tình yêu thương và lòng nhân ái. Sau cùng ông đã chết ở đó vào năm 1965, hưởng thọ 90 tuổi.
Thưa anh chị em, động lực nào đã khiến ông Albert Schweitzer quay lưng lại với danh vọng và của cải trần gian để dấn thân làm việc cho đám dân cùng khổ nhất trong đám dân nghèo ở Phi Châu như thế?
Theo lời ông, thì một trong những động cơ thôi thúc ông làm điều đó chính là do ông suy gẫm Tin Mừng của Chúa Giêsu. Ông đã lắng nghe tiếng gọi của Ngài và quyết tâm đáp lại bằng cách dấn thân phục vụ dân nghèo ở Phi Châu. Ông nói: “Tôi không thể hiểu được tại sao tôi lại được phép sống một cuộc đời hạnh phúc như thế đang khi chung quanh tôi còn biết bao nhiêu người đang quằn quại trong đau khổ”.
Ngày nay, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục lên tiếng kêu gọi và đòi hỏi những ai đã nghe tiếng kêu gọi của Ngài phải có một đáp trả dấn thân cụ thể: Hãy sám hối! Hãy sống Tin Mừng Nước Trời! Hãy loan báo Tin Mừng cho đồng bào, cho nhân loại! Có nhiều người đã nghe được tiếng Chúa gọi. Một thứ tiếng vang lên từ bên trong, nhẹ nhàng nhưng rõ nét, mời gọi nhưng không kém phần thúc bách. Đáp lại tiếng Chúa là bước vào một khúc quanh của đời mình, và tứ đó đời mình đổi khác.
Chúa Giêsu gọi tôi như xưa Ngài đã gọi các môn đệ đầu tiên bên bờ hồ Galilê. Chúa vẫn hay gọi con người một cách bất ngờ. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy điều đó. Phêrô và Anrê, Giacôbê và Gioan, bốn vị này đã từng quen biết ít nhiều với Chúa Giêsu, nghe lời Ngài giảng và thấy Ngài làm phép lạ, nhưng họ không ngờ là một ngày nào đó, Ngài sẽ gọi họ làm Tông đồ. Đức Giêsu đi dọc theo bờ biển như một sự tình cờ. Ngài tình cờ thấy bốn anh em đang làm việc, kẻ quăng chài, người vá lưới. Tất cả ở trong một bầu khí êm đềm và huynh đệ. Đức Giêsu biết việc Ngài sắp làm. Ngài gọi những người Cha muốn. Tiếng gọi của Ngài vang lên thật bất ngờ. Tiếng gọi đưa đến những chia cắt không thể nói là không đau đớn. Các môn đệ đầu tiên đã phải từ giã nghề chài lưới, nghề đã nuôi sống gia đình họ và đã giúp họ trưởng thành, nghề đã đem lại cho họ biết bao kỷ niệm vui buồn. Chấp nhận bỏ nghề là chấp nhận bấp bênh. Các ngư phủ nay phải sống trên bờ, để đi theo một ông thợ mộc cũng đã bỏ nghề! Hơn nữa, họ còn phải từ giã gia đình và họ hàng thân thuộc. Họ đã coi Chúa Giêsu hơn cha mẹ, vợ con, nghề nghiệp, tương lai. Thái độ của các môn đệ đầu tiên thật đáng phục. Đó là thái độ lý tưởng của người nghe Chúa gọi, và sẵn sàng theo Ngài ngay lập tức.
Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu vẫn tiếp tục gọi mỗi người chúng ta hôm nay. Không phải một người đã chết từ 20 thế kỷ gọi chúng ta, nhưng là một Đấng đang sống. Ngài gọi đúng tên từng người trong chúng ta và Ngài muốn giao cho chúng ta một công tác đặc biết. Chúa Phục Sinh hôm nay vẫn cứ mời gọi từng người chúng ta cộng tác với Ngài trong chương trình vĩ đại, đó là chương trình cứu độ toàn thế giới. Tôi có nghe tiếng Ngài không? Tôi có muốn nghe được tiếng của Ngài không?
Nhiều khi chúng ta giả vờ không nghe tiếng Chúa để khỏi phải đáp lại, khỏi phải từ bỏ và đoạn tuyệt. Có nhiều tạo vật đang quấn lấy đời ta, không dễ gì gỡ được: Tiền bạc, sự ổn định, sự thoải mái tiện nghi, chút tiếng tăm địa vị, chút thoả mãn nơi thân xác… Từ bỏ là đặt mọi sự dưới Chúa, coi Ngài như giá trị cao nhất vượt trên mọi giá trị. Phải có tình yêu lớn lao mới có thể từ bỏ lập tức những gì chúng ta đang ôm ấp. Từ bỏ trở thành thước đo tình yêu của ta đối với Thiên Chúa. Đời người Kitô hữu là một cuộc lắng nghe không ngừng những tiếng gọi mời của Chúa. Chỉ những ai biết yêu mới nghe thấy và dám thực hiện ý Chúa tỏ lộ qua từng ngày, từng biến cố của đời mình.
Có thể nói, một trong những hoạt động chính của Chúa Phục Sinh là cất tiếng gọi con người. Ngài không ngừng mời gọi với một sự kiên nhẫn lạ lùng. Ngài gọi con người dưới trăm ngàn hình thức. Không phải chỉ là gọi ai đó đi tu, nhưng Ngài còn gọi cả giáo dân theo Ngài, theo Ngài bằng cách ở lại gia đình và môi trường xã hội để làm chứng cho Ngài, như một Albert Schweitzer, một Kitô hữu, một triết gia, một nhà thần học, một sử gia, một nhạc công sôlô và là một bác sĩ thừa sai. Chúa Giêsu vẫn cứ gọi và lay động trái tim mọi người, kể cả những kẻ chưa biết Ngài. Đời chúng ta là một chuỗi những tiếng gọi của Chúa. Tiếng gọi nào cũng mới mẻ và cụ thể. Nếu chúng ta đáp lại, Ngài sẽ đưa chúng ta đi xa hơn trong tình bạn, qua những tiếng gọi mới.
Các môn đệ đã đáp lại tiếng gọi của Chúa, không phải bằng lời nói, nhưng bằng hành vi từ bỏ thực sự. Chúa không mời gọi mọi người từ bỏ gia đình để sống đời thánh hiến, nhưng Chúa lại mời gọi tất cả chúng ta bỏ tính ích kỷ và cứng cỏi của mình để sống yêu thương tha nhân. Bỏ cái gì ngoài mình, không phải là điều quá khó. Nhưng bỏ chính bản thân mình với những dự tính, ước mơ, điều đó khó hơn nhiều.
Thưa anh chị em, nghe tiếng Chúa, đáp lại bằng cách từ bỏ và đi theo, đó là chu trình mà người tín hữu phải sống nhiều lần trong ngày, trong đời: “Hãy theo Thầy”. Chúa cứ nói với tôi câu đó hoài trong suốt đời tôi, và tôi hiểu rằng theo Chúa là được triển nở trong tự do yêu mến.
48. Ánh sáng muôn dân
Thiên Chúa là Ánh Sáng. Đúng thế, sách Sáng Thế Ký kể lại rằng: ngày thứ tư, Thiên Chúa dựng nên các tinh tú trên bầu trời. Ngài xếp đặt chúng để chiếu tỏa ánh sáng cho địa cầu và phân chia ngày đêm. Và như vậy, ngay từ đầu Thiên Chúa đã dựng nên ánh sáng.
Trong Cựu ước, ánh sáng vốn thường được dùng để nói lên vinh quang của Thiên Chúa.
Thực vậy, Thiên Chúa đã hiện ra với ông Maisen trong bụi gai bốc cháy:
- Bấy giờ ông Maisen nhìn thấy bụi cây cháy bừng, nhưng không bị thiêu rụi. Ông tự bảo: mình phải lại xem cảnh tự kỳ lạ này mới được, vì sao bụi cây lại không cháy rụi?
Thiên Chúa cũng đã hiện diện giữa dân Ngài qua áng mây và cột lửa. Sách Xuất Hành ghi lại:
- Khi ra khỏi Ai Cập, Đức Chúa đi đằng trước họ, ban ngày thì ở trong cột mây để hướng dẫn, ban đêm thì ở trong cột lửa để soi sáng, nên họ có thể đi cả ban ngày lẫn ban đêm. Ban ngày cột mây đi trước dân không rời, ban đêm cột lửa cũng vậy.
Ngày Thiên Chúa ký kết với dân Do thái giao ước tại Sinai, lúc bấy giờ ngọn núi rực sáng như bốc cháy. Sách Xuất Hành ghi lại:
- Bấy giờ mây bao phủ núi…Vinh quang Đức Chúa xuất hiện trên đỉnh núi trông giống như ngọn lửa thiêu, trước mắt con cái Israel.
Thế nhưng, Thiên Chúa không phải chỉ là ánh sáng tự nhiên bên ngoài, con mắt chúng ta có thể trông thấy, mà hơn thế nữa, Ngài còn là ánh sáng siêu nhiên bên trong để soi dẫn bước đường chúng ta đi và ban cho chúng ta sự sống.
Thực vậy, Thiên Chúa đã dùng luật pháp và lời các tiên tri để hướng dẫn đường đi nước bước cho con người. Ngài chính là đèn soi lối cho họ. Ngài là ánh sáng và là ơn cứu độ của họ.
Khi mở mắt chào đời, chúng ta nhìn thấy ánh sáng và chúng ta chính thức bước vào cuộc sống. Cũng vậy, nếu bước đi trong ánh sáng của Chúa, nếu bước đi dưới sự soi dẫn của Ngài, chắc chắn chúng ta sẽ được vào cõi sống với vinh quang bất diệt.
Đối với chúng ta ngày hôm nay, Đức Kitô chính là nguồn sáng duy nhất.
Thực vậy, trong đêm Giáng Sinh, ánh sáng của Chúa đã bao phủ khi sứ thần loan báo tin vui. Thánh Luca ghi nhận:
- Kìa sứ thần Chúa đứng bên họ và vinhquang của Chúa chiếu tỏa chung quanh, khiến họ kinh khiếp hãi hùng.
Tiếp đến, ánh sáng của ngôi sao lạ cũng đã chiếu soi để dẫn đưa ba nhà đạo sĩ phương đông đến tìm gặp và thờ lạy Hài Nhi Giêsu nơi máng cỏ Bêlem.
Khi Chúa biến hình trên đỉnh Tabôrê, khuôn mặt Ngài sáng ngời và y phục Ngài trở nên trắng tinh như tuyết. Đây phải chăng chính là một hình ảnh báo trước vinh quang phục sinh của Ngài, bởi vì Ngài chính là ánh sáng thế gian.
Sau cùng, Ngài đã dùng luồng ánh sáng chói lòa để quật ngã thánh Phaolô trên con đường Đamas, biến thánh nhân từ một kẻ thù địch trở thành một tông đồ nhiệt thành đem Tin mừng đến cho muôn dân.
Thế nhưng, điều quan trọng hơn nữa Đức Kitô chính là ánh sáng chiếu soi tâm hồn, dẫn bước chúng ta trên con đường tìm gặp Chúa.
Thực vậy, ngày hôm nay khi Ngài bắt đầu cuộc sống công khai, thánh Matthêu đã áp dụng lời tiên tri Isaia sau đây cho Ngài:
- Đoàn dân ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi.
Chính Ngài cũng đã xác nhận:
- Ta là ánh sáng thế gian, ai tin Ta sẽ không đi trong tối tăm.
Ánh sáng ấy sẽ dẫn chúng ta tới vùng đất của sự sống vĩnh cửu, nếu chúng ta biết bước theo sự soi dẫn của Ngài, có nghĩa là nếu chúng ta biết tuân giữ những điều Ngài truyền dạy.
Hẳn chúng ta không thể nào quên được một hình ảnh sống động vào đêm thánh vọng Phục sinh, khi cây nến cháy được rước và tiến lên từ cuối nhà thờ trong bóng tối dày đặc, vị linh mục đã xướng:
- Ánh sáng Chúa Kitô.
Phải, ánh sáng Chúa Kitô đã chiếu dọi vào tâm hồn mỗi người, thế nhưng chúng ta có tiếp nhận ánh sáng ấy hay chúng ta lại ưa thích sự tối tăm? Giống như người đau mắt ghét bỏ ánh sáng, thậm chí có kẻ còn ra sức dập tắt ánh sáng ấy.
Cuộc đời chúng ta là một tấm bi kịch, một cuộc chiến đấu giữa ánh sáng và bóng tối. Chúng ta phải có thái độ chọn lựa dứt khoát và quyết liệt: - Chọn ánh sáng hay bóng tối? Cố gắng trở nên con cái Thiên Chúa hay con cái thế gian?
Mỗi người phải thành thực trả lời với Chúa và chính câu trả lời ấy sẽ ảnh hưởng tới tương lai và ấn định số phận đời đời của chúng ta.
49. Ánh sáng
Dân ngồi trong tăm tối đã nhìn thấy ánh sáng huy hoàng.
Nhìn vào lịch sử, chúng ta thấy ngày xưa có những nhân vật khôn ngoan và thông thái, tuy đã chết từ lâu, nhưng vẫn còn được người đời nhắc đến, chẳng hạn như Aristote, Platon, César…Đồng thời, có những dân tộc đã trải qua những thời đại hoàng kim của mình, chẳng hạn người Hy Lạp nổi tiếng về văn hóa, người La Mã nổi tiếng về binh đội…
Còn hôm nay, chúng ta cũng có những nhà bác học với những phát mình làm đảo lộn cách thức suy nghĩ và hành động thường tình, chẳng hạn như máy hơi nước, máy vô tuyến, điện lực, nguyên tử…Đồng thời cũng có những quốc gia giàu mạnh nắm giữ vai trò của một siêu cường như Hoa Kỳ, Nga…
Thế nhưng, tất cả mới chỉ nổi tiếng, mới chỉ giỏi giang về những sự việc trước mắt và ở đời này. Còn nhụ sự việc thiêng liêng về đời sau, về linh hồn, về Thiên Chúa, thì họ lại hoàn toàn chẳng biết gì và không hề nói tới. Không nói tới, bởi vì có biết đâu mà nói.
Chevreul, một khoa học gia, đã phát biểu:
- Các bạn khoa học của tôi thật tài giỏi trong những lãnh vực chuyên môn, thế nhưng trong lãnh vực tôn giáo, họ không hơn gì những em nhỏ mới được xưng tội rước lễ lần đầu. Miệt mài vào công việc nghiên cứu trong những lãnh vực chuyên môn ấy, họ không cho tôn giáo là quan trọng, nên không chịu tìm hiểu cũng như không chịu sống theo những tiêu chuẩn của tôn giáo.
Đúng thế, lãnh vực của khoa học là lãnh vực của thực nghiệm. Khoa học khởi đi từ những hiện tượng, những sự việc cụ thể, để rồi dẫn tới những định luật và áp dụng những định luật ấy vào đời sống thực tế.
Còn quốc gia thì bận rộn với vấn đề chính trị, quân sự, ngoại giao và kinh tế, chỉ có tôn giáo mới lo đến linh hồn, đến đời sau, đến Thiên Chúa và đem lại lời giải đáp cho những vần đề đã từng làm chúng ta băn khoăn và thắt mắc.
May áo, chúng ta phải đến với thợ may. Đóng giày, chúng ta phải đến với thợ giày. Bắt điện, chúng ta phải đến với thợ điện. Về những sự đời này, chúng ta phải đến với những chính trị gia, những vị tướng lãnh, những nhà kinh tế…Còn về những sự đời sau, chúng ta phải đến với tôn giáo. Làm khác đi là đến với những nơi không có thẩm quyền, hoặc không đủ khả năng. Làm khác đi là đến lầm địa chỉ.
Một số vấn đề then chốt đã từng làm cho chúng ta băn khoăn và thắt mắc, chẳng hạn: Tôi bởi đâu mà đến? Tôi sống ở trên đời để làm gì? Và chết rồi tôi sẽ ra làm sao? Kẻ bất lương và người lành thánh có gì khác nhau ở bên kia cái chết?
Đứng trước những vấn đề này, chỉ có tôn giáo và nhất là Kitô giáo mới đưa ra được những lời giải đáp thỏa đáng. Bởi đó, thánh Tôma tiến sĩ đã có lý khi nói:
- Một bà lão thuộc giáo lý có khi còn am hiểu hơn những nhà bác học tài giỏi.
Đạo là đường, là ánh sáng. Không có đạo và nhất là không sống đạo, thì dù có thông thái và khôn ngoan tới đâu chăng nữa cũng vẫn là những kẻ đáng thương còn ngồi trong tăm tối.
Tuy nhiên, có điều thật bẽ bàng và cay đắng, đó là ánh sáng đã chiếu trong u tối, nhưng u tối lại không tiếp nhận ánh sáng. Sở dĩ như vậy vì họ không muốn bước đi trong ánh sáng. Họ giống như những người đau mắt, luôn ghét bỏ ánh sáng.
Vì thế, khôn ngoan về những sự việc ở đời này mà thôi chưa hẳn đã là khôn ngoan thực sự, trái lại nhiều khi còn dại đột và kém sáng suốt, bởi vì như lời Chúa đã xác quyết:
- Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì có ích lợi chi.
Hãy đón nhận ánh sáng của Chúa, có nghĩa là hãy lắng nghe và thực thi những điều Chúa truyền dạy, bởi vì lời Chúa chính là đèn soi đường dẫn lối cho chúng ta đi.
50. Ngư phủ
Hôm nay Chúa Giêsu gọi bốn tông đồ đầu tiên trong số 12 vị: Simon Phêrô, Andrê, Giacôbê và Gioan. Đây chính là bước khởi sự thành lập Giáo Hội với sứ mạng phúc âm hóa. Một khởi điểm cho sự thành lập mầu nhiệm Vương Quốc Thiên Chúa như Tông Huấn Evangelii Nuntiandi của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI gửi cho thế giới ngày nay: “Giáo Hội có một nhận thức sâu xa về lời của Đấng Cứu Chuộc “Ta phải công bố Tin Mừng về Vương Quốc của Thiên Chúa”.
Năm 1998, tại hội nghị có tên là “Thi Hành Công Lý” (Doing Justice), một trong những thuyết trình viên đã dùng bức tượng “Kẻ Nô Lệ Dở Dang” (Unfinished Slave) hay “Người Tù Tỉnh Thức” (Awakening Prisoner) của nhà nghệ sĩ vĩ đại Michelangelo để minh họa cho bài nói chuyện của mình. Bức tượng miêu tả một con người đang phấn đấu để được tự do thoát ra khỏi những giới hạn của một tảng đá cuội lớn mầu xám. Hình ảnh của con người được biểu lộ dần dần, qua những nhát búa đục đẽo đầy ân huệ của người nghệ sĩ. Nó bùng phá ra khỏi khối đá lao tù để đi vào sự tự do bằng việc trở nên làm con người hoàn toàn… Bình phẩm về kiệt phẩm này, thuyết trình viên đã nói:
“Hình ảnh của người nô lệ đang được giải thoát này xác định vị trí của chúng ta trong vai trò căn bản của Giáo Hội hôm nay: sứ mạng phúc âm hóa của Giáo Hội… Từ ngữ “phúc âm hóa” được rút ra từ tên gọi được ban cho một người nô lệ trong nước Hy Lạp cổ xưa. Người nô lệ được giao trọng trách mang tin mừng chiến thắng về cho dân chúng đang chờ mong ở nhà khi chiến trận xảy ra. Để đáp lại công lao loan báo tin mừng chiến thắng này của người nô lệ, dân chúng ban thưởng cho người nô lệ ân huệ được tự do”.
Người nô lệ thời Hy Lạp ngày xưa đã diễn tả cho chúng ta thấy rằng sự tự do không phải chỉ hệ tại một lời công bố, nhưng là một sự biến đổi ở chính bản thân con người. Bản thân người nô lệ được giải thoát khỏi sự lệ thuộc, được tự do chính là Tin Mừng.
Ngay từ ban đầu, các tông đồ đã không đi theo Chúa với cùng một mục đích như Chúa muốn. Họ theo Chúa Giêsu với những tư tưởng, ước mơ, và dự định riêng tư của mỗi người. Người muốn bỏ Giêrusalem để lên Rôma bằng mọi cách. Người khác muốn nhìn thấy vương quốc Israel được tái tạo theo như dòng tộc của nhà Đavid. Kẻ muốn ngồi bên hữu Chúa Giêsu trong nước Giêrusalem mới… Nhưng Ngài đã giúp họ vượt thoát ra khỏi những ý định riêng tư đó mà mang lấy sứ mạng làm “ngư phủ bắt người”, đi rao truyền Tin Mừng cứu độ của Đức Giêsu Kitô.
Các tông đồ đã trung thành với sứ mạng của mình. Sách Công vụ Tông đồ đã nói với chúng ta tất cả những điều họ đã làm: “Họ chuyên cần nghe các tông đồ giảng dạy, hiệp thông với nhau, tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện… Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung… Họ đồng tâm nhất trí…”
“Giáo Hội đã gắn bó với chương trình phúc âm hóa từ trong bản chất thâm sâu”. Giáo Hội chỉ có một chương trình, một sứ mạng, và một mục đích duy nhất: “Trong Chúa Giêsu Kitô, con của Thiên Chúa làm người, đã chết, và sống lại từ cõi chết: sự cứu rỗi được trao ban cho mọi người, như là một ân sủng và lòng từ bi của Thiên Chúa”. Và ngày nay, mỗi người Kitô hữu, chúng ta cũng được mời gọi đến để tiếp tục bước theo con đường của Chúa Giêsu đã đi qua và đã dạy chúng ta.
51. Sống đức tin
Vị linh mục tuyên úy hỏi người thủy thủ trẻ tuổi: “Ai đã dẫn đưa bạn tới Chúa Giêsu Kitô?” Anh ta chần chừ suy nghĩ, vì nghĩ rằng phải sử dụng tên tuổi của những nhà giảng thuyết trứ danh, bèn hỏi lại vị tuyên úy: “Thưa cha, chắc không cần phải là người giảng thuyết chứ?” Rồi anh nói tiếp: “Đó là sự thực hành của mẹ con”. Hầu hết chúng ta đã đón nhận đức tin từ cha mẹ. Khi lớn lên không bao giờ thắc mắc rằng chúng ta đã không phải là Kitô hữu. Chúng ta giữ đức tin trong khi được dạy cách làm dấu, đọc kinh Lạy Cha, đi nhà thờ dự lễ… học cách thức chào hỏi, lễ phép bởi cha mẹ, thầy cô nơi trường học. Do đấy, tất cả mọi người trong gia đình, cộng đoàn hay xã hội đều được mời gọi đóng góp vào sứ mạng “ngư phủ bắt người”. Bạn có tin được không, ngay cả con chó cũng có thể dẫn đưa một người về với Đức Kitô.
Một ông lão không bao giờ để ý gì tới Thiên Chúa, hay đời sống tinh thần, nhưng vợ ông lại là một Kitô hữu rất đạo đức. Bà đã cầu nguyện cho chồng nhiều năm, nhưng dường như lời cầu xin của bà chưa được đáp trả vì ông không bao giờ chịu đến nhà thờ chung với bà. Người đàn bà đạo hạnh đáng thương này đi lễ hằng tuần với một con chó già. Nó đi theo bà vào nhà thờ, rồi phủ phục nằm im dưới gầm ghế ngồi. Khi người đàn bà chết, con chó có vẻ buồn bã lắm. Một vài lần, lão già chú ý thấy con chó rời nhà vào một giờ nhất định, rồi trở về đúng giờ. Một buổi sáng Chúa nhật, ông lão đi theo con chó xem nó đã đi đến đâu. Con chó dường như có vẻ hứng khởi và vui vẻ khi có người cùng đi với nó dọc theo lối bộ hành cho đến cửa nhà thờ. Ông lão ngừng lại khi thấy nó nhanh nhẹn nhẩy lên những bậc thềm rồi đứng chờ ông ở cửa nhà thờ. Sau khi đứng lại nghỉ ngơi giây lát, chưa quyết định phải làm gì, ông lão tự nhủ: “Vào nhà thờ theo con chó cũng được. Đâu có hại gì!” Ông đã vào nhà thờ, đi theo con chó đến ngay chỗ vợ ông vẫn thường ngồi. Nhớ đến vợ, ông ngồi xuống và lắng nghe. Chúa nhật kế tiếp, ông lão lại đi đến nhà thờ với con chó trung thành của ông. Dần dần, người ta đã thấy ông ở trong nhà thờ ngay chỗ vợ ông vẫn thường ngồi với con chó nằm thinh lặng dưới gầm ghế. Sau cùng ông đã tham gia cộng đoàn và cho phép Tin Mừng thấm nhập vào cuộc đời ông.
Phúc âm hóa là công trình biến đổi con người trở nên giống hình ảnh của Chúa Kitô. Đó là công việc giải thoát con người khỏi tội lỗi. Sách Giáo lý Công giáo số 900 mời gọi chúng ta trong vai trò “ngư phủ bắt người” này như sau: “Cũng như tất cả các tín hữu đều được Thiên Chúa ủy nhiệm cho việc tông đồ, vì đã lãnh nhận phép rửa tội và phép thêm sức, các giáo dân có nghĩa vụ và có quyền lợi làm việc, từng cá nhân hoặc từng nhóm lại thành các hiệp hội, để sứ điệp cứu độ của Thiên Chúa được mọi người trên trái đất biết tới và đón nhận”.
52. Ðón nhận ánh sáng
Một trong những điều cần thiết để con người có thể sống được đó là ánh sáng. Ánh sáng giúp cho con người làm việc được dễ dàng và thoải mái. Chẳng hạn ánh sáng giúp cho con người gặp gỡ nhau; Ánh sáng giúp cho các học sinh, sinh viên học bài và nghiên cứu sách vở.... Tuy nhiên ánh sáng đó sẽ trở nên vô dụng đối với những ai không biết đón nhận.
Tuần trước chúng ta đã được Thánh Gioan Tẩy Giả giới thiệu Chúa Giêsu: "Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian". (Ga 1, 29). Hôm nay, chúng ta tiếp tục được giới thiệu một nét quan trọng của Chúa Giêsu qua lời loan báo của tiên tri Isaia. Lời loan báo ấy lại được Thánh Mathêu nói đến: "Ðoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi " (Mt 4, 16). Chúa Giêsu chính là ánh sáng thật phát xuất từ Chúa Cha. Người đến trần gian để đem cho con người sự sống thật.
Trong bài ca Benedictus, ông Dacaria đã thốt lên: "...Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn, cho Vầng Ðông tự chốn cao vời viếng thăm ta, soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối và trong bóng tử thần, dẫn ta bước vào đường nẻo bình an". (Lc 1, 78 - 79)
Chính Chúa Giêsu cũng tự nói về mình: "Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống " (Ga 8, 12).
Như thế, ai biết đón nhận Chúa Giêsu thì sẽ có được sự sống và bình an đích thật. Mở đầu đoạn Tin mừng Chúa nhật hôm nay chúng ta thấy Chúa Giêsu đã: "lánh qua miền Ga-li -lê. Rồi Người bỏ Na-da-rét, đến ở Ca-phác-na-um, một thành ven biển hồ Ga-li-lê, thuộc địa hạt Dơ-vu-lun và Náp-ta-li " (Mt 4, 12 - 13) để rao giảng. Ðáng lẽ, Người phải rao giảng ở quê hương mình là Nagiaret trước nhưng vì họ đã không biết đón nhận. Cụ thể là họ đang bắt giam Thánh Gioan Tẩy giả - ng ười đến làm chứng cho Chúa Giêsu. Ðang khi đó những người ở những vùng đất này họ đang khao khát đón nhận ánh sáng từ Chúa Giêsu mang đến.
Trong một lần cầu nguyện với Chúa Cha, Chúa Giêsu đã thưa: "Lạy Cha là Chúa Tể trời đất , con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn" (Mt 11, 25). Chỉ những ai biết khiêm tốn và thật sự khao khát đón nhận thì ánh sáng từ Chúa Cha mang đến mới có ích lợi và giá trị cho họ. Ðón nhận ánh sáng ấy chính là làm theo những dạy của Người. Bỡi lẽ "Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi ". (Tv 118, 105)
53. Sám hối
Có một vị ẩn sĩ nọ, sau bao nhiêu năm tu luyện bỗng thấy hương thơm sự thánh thiện của mình bay tỏa khắp nơi, nhiều người tiến đến vấn ký cũng như để xin ông cầu nguyện cho. Từ đó vị ẩn sĩ thường hãnh diện về tiếng tăm của mình. Một buổi sáng nọ, ông đến thăm một ngôi nhà thờ nằm bên cạnh một dòng sông. Đi dọc theo bờ sông, ông thấy có một người đàn ông đang ngồi khóc lóc thảm thiết. Đến gần, vị ẩn sĩ mới nhận ra đó là người đàn ông mà khi nghe nhắc đến tên tất cả mọi người dân trong vùng đều phải run sợ, vì hắn là một tên cướp giết người không gớm tay.
Vị ẩn sĩ định làm ngơ bỏ đi, nhưng người đàn ông tiến đến quì gối xuống trước mặt ông và xưng tội. Nghe xong một danh mục những tội mà cả đời ông không dám nghĩ tới, và khi so sánh với cuộc sống hoàn toàn trong sạch của mình, vị ẩn sĩ tự nhiên nổi giận. Ông nghĩ đến cơn giận thánh của Chúa Giêsu khi vào Đền thờ Giêrusalem, thế là thay vì đưa tay ban phép giải tội, vị ẩn sĩ lại to tiếng quát bảo người đàn ông như sau: “Một tên đầu trộm đuôi cướp như ngươi mà hy vọng được Chúa tha thứ sao? Ta nói thật cho ngươi: cây gậy ta đang cầm trên tay đây trở thành bông còn dễ hơn là việc Chúa tha thứ cho ngươi”.
Nói xong những lời đó, vị ẩn sĩ bỏ mặc cho tội nhân chìm đắm trong thất vọng và ông tiếp tục cất bước. Thế nhưng ông chưa kịp đi được mười bước thì cây gậy của ông đang cầm trong tay bỗng bị cắm sâu xuống đất. Ông dùng tất cả sức lực của mình để kéo nó lên khỏi đat nhưng cây gậy vẫn không nhúc nhích. Và lạ lùng thay, từ thân cây gậy, lá, cành và hoa trái từ từ mọc lên. Rồi nhà ẩn sĩ lại nghe có tiếng phán bảo: “Sự tha thứ của Chúa dành cho một tội nhân sám hối còn dễ hơn một cây gậy trổ bông. Một người có tội biết ăn năn trở lại được tha thứ còn dễ dàng hơn là một kẻ kiêu hãnh”.
Quả thực, trọng tâm của bài Tin mừng hôm nay chính là lời kêu gọi sám hối của Chúa Giêsu: “Hãy sám hối vì Nước Trời đã gần đến”. Đó cũng là mệnh lệnh đầu tiên của Chúa Giêsu khi Ngài bắt đầu sứ vụ công khai rao giảng Tin Mừng. Ơn cứu độ mà Chúa Giêsu loan báo và thực hiện chính là việc giải phóng con người khỏi tội lỗi. Tất cả những bệnh hoạn, tật nguyền mà Chúa Giêsu thuyên chữa khi bắt đầu sứ vụ công khai là một dấu hiệu của tội lỗi. Cứu chữa con người khỏi những tật bệnh trong thân xác, Chúa Giêsu muốn cho con người thấy Ngài đến để giải thoát con người khỏi tội lỗi và tất cả những hệ lụy của nó. Nhưng tất cả những phép lạ mà Chúa Giêsu thực hiện không phải là những ảo thuật, bùa chú mà là sự gặp gỡ giữa con người với quyền năng Thiên Chúa, là một sự thi thố tình yêu không giới hạn của Ngài.
Do đó, con người chỉ có thể chứng kiến được phép lạ khi tuyên xưng quyền năng của Chúa Giêsu: “Chính lòng tin của con đã chữa con”. Chúa Giêsu đã không ngừng lập đi lập lại câu đó mỗi lần thuyên chữa một bệnh nhân. Lòng tin của con người được thể hiện qua việc con người tuyên xưng niềm tin của mình nơi quyền năng của Chúa Kitô.
Thiên Chúa mời gọi chứ không áp đặt. Ngài luôn chờ đợi sự ưng thuận của con người. Do đó, bước đầu tiên mà Thiên Chúa đòi hỏi nơi con người chính là sám hối, nghĩa là nhìn nhận thân phận tội lỗi yếu hèn của mình, và đó cũng là thái độ cơ bản và thường hằng trong cuộc sống con người. Bao lâu con người còn nhận ra thân phận yếu hèn của mình thì bấy lâu con người còn nhận ra sự cần thiết của ơn cứu rỗi mà Đức Kitô đã tặng ban. Trái lại, nếu con người phủ nhận thân phận tội lỗi của mình thì con người cũng sẽ khước từ ơn cứu rỗi của Thiên Chúa.
Sám hối không chỉ là một tiếng khóc của thất vọng, mà phải là một sức bật mới giúp cho con người vươn lên: “Hãy sám hối vì nước trời đã gần đến”. Nước trời chính là động lực của lòng sám hối. Lòng sám hối đích thực là phải quyết tâm hướng về thực tại của nước trời và những thực tại đó chính là hòa bình, bác ái, yêu thương, quảng đại, cảm thông, tha thứ. Thể hiện lòng sám hối chính là thực thi những giá trị ấy. Hãy sám hối vì nước trời đã gần đến, hay đúng hơn hãy sám hối để cho nước trời được đến giữa mọi người.
54. Sám hối
Khi nghe tin Gioan tẩy giả bị bắt, Chúa Giêsu biết cuộc đời công khai của Ngài bắt đầu ý định cứu rỗi của Chúa Cha muốn thực hiện qua Ngài. Ngài rời bỏ Nagiarét, nơi Ngài sinh ra và lớn lên từ thời thơ ấu, đến miền duyên hải thành Caphácnaum, thuộc địa hạt Dơvulun và Náptali; và Ngài khởi sự rao giảng rằng: “Anh em hãy ăn năn sám hối, vì nước trời đã đến gần”.
“Hãy ăn năn sám hối”, lời kêu mời của Chúa Giêsu nhắc lại lời mời gọi sám hối của Gioan Tẩy giả. Thiên Chúa đã nhập thể làm người và đã đích thân rảo qua các nẻo đường để rao giảng Tin Mừng. Là ánh sáng, Chúa không thể giấu mình được, Ngài cần chia sẻ chính mình. Ngài đã đến không như một ánh lửa leo lét, nhưng như ánh sáng huy hoàng để soi lối cho những ai đang ngồi trong bóng tối tử thần tìm về ơn cứu độ.
Nhưng để nhận ra ánh sáng đó, cần phải có lòng ước muốn. Ánh sáng cũng vô ích cho những ai không muốn thấy, bởi vì đối với người mù, ngay cả mặt trời chính ngọ cũng chẳng khác gì đêm tối. Ánh sáng chỉ thuận lợi cho những ai muốn và có thể sử dụng nó. Thiên Chúa tôn trọng tự do của con người. Ngài đến để giải thoát con người khỏi đêm tối tội lỗi, nhưng con người chỉ vui hưởng ơn cứu độ khi sẵn lòng đón nhận ánh sáng là Chúa Kitô. Ơn phúc nhưng không vẫn có đó, nhưng hiệu nghiệm hay không là tùy từng người. Điển hình là phản ứng của dân chúng thời đó: trong khi những người bình dân tin vào Tin mừng được lành bệnh thể xác và tinh thần, thì cũng có người như nhóm biệt phái, thay vì đón nhận ơn phúc, họ lại tìm cách bắt bớ Chúa.
Nguyện cho lời Chúa hôm nay hoán cải tâm hồn chúng ta, để ánh sáng Chúa lan tỏa trong chúng ta, đánh tan mọi ảnh hưởng của tội lỗi.
55. Khởi điểm
Chúng ta hết thảy đểu đã nghe những nhà bình luận thể thao la lên: Đây là một khởi điểm! Dù là một cuộc đua ngựa, trượt tuyết, chạy đường dài, người ta đều la lên: Đây là một khởi điểm! Chúng ta đã trông thấy những lực sĩ giương bắp thịt lên và mặt mày căng thẳng chờ dấu hiệu khởi hành, vì việc khởi hành là quan trọng. Khởi hành tốt tạo điều kiện cho phần còn lại của cuộc chạy đua.
Hôm nay, Tin Mừng kể lại cho chúng ta khởi điểm của Chúa Giêsu, bắt đầu sứ vụ của Ngài. Khởi điểm quan trọng vì nó cho hoạt động của Chúa Giêsu ý nghĩa của nó.
Ba nét nêu lên đặc điểm của bản văn này: chuyển động, những cuộc cắt đứt, một sứ điệp.
Việc Gioan Tẩy Giả bị bắt giam giống như một dấu hiệu khởi điểm đối với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu chuyển động: Ngài rút lui về Galilê rồi từ giã Nagiarét để đến Capharnaum, rồi Ngài đi dọc theo bờ hồ và kêu gọi các môn đệ đầu tiên. Ngài kêu gọi họ bước theo Ngài.
Những cuộc di chuyển này của Chúa Giêsu gây ra những sự cắt đứt. Bước đi, bao giờ cũng để lại sau lưng mình những phong cảnh, những sự vật và những con người. Chúa Giêsu cắt đứt với ngôi làng thời thơ ấu của Ngài: Nagiarét, để đi đến một môi trường mới mẻ: thành phố Capharnaum quốc tế. Các môn đệ cũng cắt đứt với môi trường của họ để theo đuổi một cuộc mạo hiểm mới với Chúa Giêsu. Họ để lại đằng sau họ ngôi làng, nghề nghiệp, gia đình. Tất cả những chuyển động này không chỉ là di chuyển đơn thuần mà thôi. Chúng được hướng về một sứ điệp phải loan truyền. Một sứ điệp của Thiên Chúa: “Hãy sám hối vì nước trời đã đến gần”.
Nói cách khác, Thiên Chúa đến, Ngài đến gần anh em, Ngài mang đến cho anh em sự sống và hạnh phúc. Thiên Chúa mang ánh sáng đến cho những người xứ Galilê, Do thái và ngoại giáo, đến cho những người ngồi trong bóng tối. Thiên Chúa mang sự sống và hạnh phúc đến cho tất cả những ai ngồi trong bóng sự chết. Hết thảy mọi người đều được mời gọi hoán cải, đứng dậy, đón nhận hồng ân của Thiên Chúa. Đứng dậy, thay đổi cuộc sống vì Thiên Chúa làm những điều mới mẻ nơi Chúa Giêsu Kitô.
Những cuộc di chuyển này của Chúa Giêsu, những sự cắt đứt này, sứ điệp một Thiên Chúa gần gũi này có liên quan đến chúng ta hôm nay không? Dĩ nhiên rồi. Vì nếu Chúa Giêsu đã bước đi trên những nẻo đường xứ Galilê, là vì chúng ta. Nếu Ngài đã cắt đứt với ngôi làng của Ngài là vì chúng ta. Sứ điệp của Ngài liên quan đến chúng ta và không chỉ nhắm những người ở xứ Galilê mà thôi.
Bởi sự nối kết những thế hệ tín hữu, sứ điệp của Chúa Giêsu đã đến với chúng ta và chúng ta đã trở thành môn đệ của Chúa Giêsu. Trở thành môn đệ không phải là chỉ đón nhận Chúa Giêsu Kitô, mà còn trở nên trách nhiệm về sứ điệp của Ngài, tức là di chuyển để loan truyền nó. Sứ điệp này không phải là một quả bóng chúng ta giữ trong tay chúng ta, ta phải ném nó lại cho những người khác.
Làm sao di chuyển hôm nay vì Thiên Chúa và sứ điệp của Ngài? Bằng cách thực hành những giá trị của Tin mừng. Đây là ba giá trị khiến chúng ta phải di chuyển và dẫn đưa chúng ta đến những sự cắt đứt với các giá trị của thế gian này.
Thực thi tính nhưng không. Đây là một giá trị quan trọng của Tin mừng: Nếu anh em làm ơn cho những kẻ làm ơn cho anh em, nếu anh em chỉ cho những kẻ trả lại cho anh em… thì anh em bắt chước những kẻ tội lỗi. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta cắt đứt với những thái độ tìm lợi nhuận, hoán cải theo tinh thần nhưng không.
Tha thứ. Chúa Giêsu đã tha thứ cho những kẻ giết Ngài. Ngài nói với chúng ta: “Hãy thương yêu kẻ thù, hãy cầu nguyện cho những kẻ bách hại các con”. Có lẽ chúng ta không có kẻ thù, cũng không có những kẻ bách hại, nhưng một số người làm tổn thương chúng ta, tấn công chúng ta bởi lời nói, cử chỉ, thái độ của họ. Chúng ta phải cắt đứt với ước muốn trả thù của chúng ta, hoặc đơn giản hơn với sự khinh bỉ của chúng ta đối với kẻ khác.
Hủy bỏ những khoảng cách. Trong Tin mừng, Chúa Giêsu lo lắng hủy bỏ những khoảng cách: “Ngài ngồi ăn với những kẻ tội lỗi và người thu thuế, Ngài để cho những người phong cùi đến gần Ngài”, tóm lại Ngài lui tới với những kẻ bên lề xã hội, đủ loại, vì sứ điệp của Ngài nhắm tới hết thảy mọi người như các môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta phải vượt các rào cản ngăn cách chúng ta với tha nhân, những người nhập cư, da đen, mắc bệnh Sida, người nghèo.
Những việc thực hành Tin Mừng này làm cho chúng ta trở thành những người di chuyển. Đi đến với những kẻ mà chúng ta không trông mong họ đền đáp gì cả, đi đến với những người làm ta đau khổ, đi đến với những kẻ khác với chúng ta.
Hôm nay, ta đừng sợ xét xem chúng ta có phải là những môn đệ di chuyển vì Thiên Chúa không. Vì Thiên Chúa không có đôi chân nào khác ngoài chân của chúng ta.
56. Họ đã bỏ mọi sự mà theo Chúa
Vào ngày nắng hạ kia, có cậu bé ra đường tình cờ nhìn thấy một đồng xu nhấp nhoáng dưới chân mình. Cậu bé nhặt đồng xu lên nắm chặt trong tay và khuôn mặt cậu bé tỏ lộ rất là vui mừng. Đồng xu kia thuộc về chú bé mà không phải làm gì hết! Kể từ ngày đó cứ hễ ra đường là đầu chú bé cúi xuống với đôi mắt mở to liếc nhìn khắp chỗ để may ra vớ được thêm đồng tiền nào chăng. Suốt cuộc đời chú bé kiếm được 302 đồng một xu, 24 đồng năm xu, 41 đồng 10 xu, 8 đồng 25 xu, 3 đồng 50 xu, và tờ một đô-la bị rách, tổng cộng tất cả là 12 đồng 80 xu. Tất cả số tiền thuộc về chú bé mà không phải mất gì hết. Song chú bé ấy đã mất đi 35.127 lần nhìn xem hoàng hôn, 327 lần ngắm nhìn cầu vồng, những cảnh huy hoàng rực rỡ của lá phong đổi mầu vào mùa thu, những áng mây trắng trôi lang thang trên bầu trời xanh ngắt, chim bay thú chạy, ánh mặt trời cùng những nụ cười chào hỏi của những đi qua lại. Còn biết bao điều khác nữa mà chú bé đã bỏ quên. Ý câu chuyện muốn nói là trên thế giới này cũng có biết bao người như chú bé đã đi qua cuộc sống trong tâm thức bị tù đầy, bỏ qua không biết bao nhiêu chuyện lý thú có thể khám phá qua cuộc sống dương gian này.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Thánh Matthêu thuật lại rằng: Chúa Giêsu đang đi bộ dọc theo bờ biển Galilê, chợt Ngài nhìn thấy hai anh em là Simon cũng gọi là Phêrô, và em là Anrê. Cả hai anh em đều là dân thuyền chài. Chúa Giêsu gọi họ, "Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi thành những kẻ lưới cá người" (Mt 4,19). Ngài kêu mời họ vào cuộc thám hiểm kỳ bí lý thú trong chính đời sống mới, vào sự cảm nghiệm đời sống tình yêu của chính Ngài. Và ngay lập tức họ đã bỏ mọi sự, tầu bè, cha mẹ, để theo Chúa như Thánh Matthêu đã kể.
Simon Phêrô, và các tông đồ khác theo Chúa để học nơi Chúa. Chẳng bao lâu, họ nhận ra rằng Đức Giêsu, Thầy Dạy của các bậc thầy, không những chỉ dạy Lời Chúa nhưng chính Ngài là Lời Chúa. Ngài không những chỉ dạy cho cách sống mới mà chính Chúa Giêsu là Sự Sống. Ngài không những chỉ cho biết ý nghĩa của “Đường sự Sống", mà chính Ngài là Đường sự Sống, là Ánh Sáng.
Ông Thomas Carlyle không những là sử gia mà còn là một nhà văn nổi tiếng của Scottish, có lần ông nhận được lá thư của một sinh viên trẻ muốn trở thành thầy giáo viết cho ông như vầy: "Thưa ông Carlyle, tôi muốn trở thành một giáo viên. Ông có thể chỉ cho tôi biết cách làm sao để nên một thầy giáo thành công không?" Ông Carlyle trả lời: "Hãy nên như là một học trò, như anh muốn người khác trở nên". Còn mọi cách khác chỉ là trò đùa vô lý!" Và đó chính là cách thức Kitô hữu dạy dỗ. Điều gì Chúa Giêsu dạy chúng ta làm thì chính Ngài đã làm trước. Chỉ có một cách chắc chắn chúng ta có thể "liên kết với Ngài" là hãy sống như Ngài đã sống theo như Thánh Gioan Tông đồ đã viết (1Ga 1,5-6). Hơn nữa, chúng ta phải hối cải nếu như chúng ta muốn sống giống Chúa Giêsu vì đó là cách duy nhất.
"Để trở nên môn đệ Ta, thực hành điều Ta dạy, đón nhận Ta là gương mẫu sống, ôm ấp Đời Sống Mới mà Ta ban cho, biến đổi không chỉ đạo giáo của con nhưng là toàn bộ cuộc sống từ thói quen đến tương lai, con phải biến đổi-- đặc biệt mọi cách thức của con nếu như con muốn theo Ta".
Chúng ta đã biết Thánh Kinh, những lời giáo huấn của Chúa, và những cách thức Ngài đã làm gương...
Bạn có chúc lành cho những người chúc dữ mình không? (Lc 6,28).
Bạn có bố thí cho những ai xin bạn không? (Lc 6,30).
Bạn có làm điều tốt cho kẻ ghét bạn không? (Lc 6,27).
Bạn có thương kẻ thù bạn không? (Lc 6,27).
Bạn có từ bi với mọi người không? (Lc 6,36).
Khi thấy tha nhân cần giúp đỡ, bạn có nhìn nhận Chúa Giêsu trong họ không? (Mt 25,31-64).
Hãy để những vấn đề kể trên thành hành động và lối sống của bạn.
Chúa Giêsu đã sống giữa dân tộc Ngài, và rao truyền Tin Mừng về một Thiên Chúa Yêu Thương sẽ đem họ đến sự toàn hảo. Hình ảnh một Thiên Chúa Tình Yêu được biểu lộ qua Chúa Giêsu và những việc Ngài làm. Ngài tỏ lộ chính mình Ngài như một Gương Mẫu Tuyệt Hảo cho dân chúng noi theo để đáp trả Thiên Chúa đáng kính yêu của họ. Nhưng dân tộc Ngài lại ra án lệnh Ngài phải chết. Họ không chấp nhận giáo thuyết có một Thiên Chúa Yêu Thương ở giữa họ. Chúa Giêsu đã tuyên bố rõ ràng là nếu họ muốn theo Ngài thì phải thay đổi tất cả từ tâm linh đến cách sống của họ. Họ phải thay đổi cách đối xử với tha nhân cũng như người ngoại bang; và họ đã không thể chấp nhận những giáo huấn ấy.
Họ không muốn thay đổi những gì họ đang nắm giữ, vì thay đổi là đụng chạm đến an ninh, lòng tự ái, giáo điều và tinh thần nghiêm khắc của họ. Chúa Giêsu đến rao giảng một Thiên Chúa Yêu Thương đã ban tặng cho họ một cách thức tốt hơn. Đời sống sẽ được phong phú hơn bởi một tinh thần và một hệ thống giá trị mới hoàn toàn. Tất cả những điều ấy sẽ ban tặng cho ai thống hối và đi theo Ngài. Nhưng họ không thể chấp nhận lời kêu gọi để tiến tới sự cao siêu hơn; bởi đó họ đóng đinh Ngài và Ngài đã chết trong chính sự u mê của họ.
57. Ánh sáng bừng lên trong bóng tối của tử thần - JS
Vị ngôn sứ cuối cùng của Cựu Ước đã bị giao nộp. Số phận của ông Gioan cũng không hơn gì các ngôn sứ đi trước. Ông dám lên tiếng và đã trả giá cho sự thật. Ánh sáng chân lý tưởng chừng bị dập tắt để rồi mọi sự lại rơi vào bóng đêm của tử thần.
Đức Kitô chợt xuất hiện nơi miền Galilê dân ngoại. Người là ánh sáng đã bừng lên giữa những nhiễu nhương của tăm tối tội lỗi trần gian. Người đến công bố triều đại Thiên Chúa, đem đến ơn giải thoát cho những ai "đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần".
Đức Kitô đến công bố sự thật về một "Nước Trời đã gần đến". Lời Người làm vang vọng những lời của ông Gioan. Người xác định lại điều Gioan đã loan báo về Nước Trời đã gần đến. Người công bố với uy tín của Đấng "đến sau" nhưng "có trước", "trổi vượt hơn", vì Người là "Đấng Thiên Chúa tuyển chọn".
Ngài mời gọi mọi người hãy có thái độ chuẩn bị tích cực nhất: "anh em phải sám hối". Tính cấp bách của lời này không thua gì của Gioan. Người ta phải trở về với Chúa sớm nhất, không trì hoãn. Những ai không dứt khoát với con đường tối tăm, thỏa hiệp với sự dữ thì chẳng bao giờ xứng đáng với Nước Thiên Chúa. Do đó, lòng dạ của Biệt phái, của? Hêrôđê rất xa vắng với Nước Thiên Chúa gần bên, nhất là khi họ bắt nộp và âm mưu giết hại Gioan. Chúa Giêsu không phải ngẫu nhiên mà đến rao giảng ở miền Galilê dân ngoại. Xứ Giuđê quá cứng lòng, đã khước từ sứ điệp của Gioan. Điều đó đã buộc Đức Giêsu đến ngỏ lời với dân ngoại miền Galilê.
Dọc biển bờ hồ Galilê đã có những tâm hồn mở ra cho Nước Thiên Chúa. Họ chỉ là những anh chài lưới nghèo nàn chất phác. Nhưng con tim họ thì quảng đại mạnh mẽ khác thường. Vậy là giữa khoảng không thinh lặng không lời đáp trả đã có những con người biết lắng nghe lời mời gọi của Đức Kitô. Họ không chỉ là những công dân mới của Nước Thiên Chúa. Họ còn mang lấy sứ mạng rao giảng Tin Mừng Nuớc Thiên Chúa cho muôn dân. Từ đây, thế gian tăm tối phải mở mắt thấy rằng nó có thể bịt miệng giết Gioan, hay đóng đinh Đức Kitô, nhưng chẳng thể ngăn nổi ánh sáng Lời Chúa chiếu tỏa trên môi miệng môn đệ Người.
Phêrô, Anrê, Giacôbê, Gioan đã bỏ lại tất cả để theo Chúa. Hẳn là Đức Kitô phải hấp dẫn lắm và sự nghiệp Nước Thiên Chúa phải cao đẹp lắm mới khiến các chàng ngư phủ mau mắn theo Người như vậy. Vậy mà Chúa Giêsu chẳng hứa hẹn điều dễ dãi. Rồi số phận của Chúa Giêsu và các môn đệ cũng chẳng khác gì Gioan. Nhưng các ông và tất cả các môn đệ thuộc về Đức Kitô sẽ nhận ra cái logic của Tin Mừng khác với trần gian: "trong mọi thử thách, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta" (Rm 8, 37).
Mọi người chúng ta đang mang lấy ánh sáng Đức Kitô trong mình. Ánh sáng của Người đến xua tan những ngóc ngách tăm tối để lòng ta không ngừng thuộc trọn về Người. Chúng ta hãy mở cửa tâm hồn mình cho ánh sáng chân lý Chúa chiếu soi. Phải sám hối thật lòng để xứng đáng với Nước Thiên Chúa đến.
Như các môn đệ, Chúa mời gọi ta đem ánh sáng cứu độ Chúa cho mọi người. Nếu thế gian không có ánh sáng Chúa chiếu rọi thì sẽ mãi ở trong lầm lạc, vô phương giải thoát. Và nếu ánh sáng trong lòng ta đã tắt lịm thì sẽ chẳng thể thắp sáng cho ai được. Ta hãy xin Chúa ban cho ta ánh sáng của Người và mau mắn đáp trả sứ mệnh loan báo Tin Mừng cứu độ cho muôn dân.
58. Suy niệm của JK
Câu hỏi gợi ý:
1. Theo bài Tin Mừng hôm nay, thì Galilê là vùng đất của dân ngoại, thế nhưng Đức Giêsu lại sinh trưởng và xuất thân từ vùng này. Các môn đệ của Ngài cũng thế. Điều đó có ý nghĩa gì không? Tại sao Ngài không sinh trưởng ở vùng đất của dân có đạo như Giuđê (Giêrusalem)?
2. Tại sao để canh tân tôn giáo, Đức Giêsu không chọn các môn đệ là người có học thức, hay có nhiều hiểu biết về tôn giáo như các kinh sư, Pharisiêu, mà lại chọn những người ít học, đơn sơ, nghèo nàn, nhút nhát?
3. Các môn đệ có những đặc điểm nào mà Đức Giêsu lại thích chọn họ hơn là các kinh sư? Có thể rút ra bài học gì cho chính bạn?
Suy tư gợi ý:
1. Đức Giêsu đến để canh tân lại đạo Do Thái
Vào thời Đức Giêsu, đạo Do Thái chỉ còn là cái vỏ bên ngoài, bên trong thì trống rỗng. Các tín hửu chỉ còn giữ đạo một cách hình thức. Họ đặt quá nặng việc tham dự những lễ nghi tôn giáo, những vẻ thấy được bên ngoài. Vì thế, lễ nghi thì ngày càng rườm rà, càng gia tăng vẻ long trọng, luật lệ ngày càng nhiều, càng phức tạp và gây nên lắm phiền hà, các cơ sở vật chất cũng gia tăng. Còn tinh thần bên trong tức kính sợ Thiên Chúa và yêu thương đồng loại là hai điều răn lớn nhất trong lề luật (Mt 22,35-40) thì bị coi nhẹ. Và «công lý, tình thương và sự chân thật» (Mt 23,23) là yếu tố cốt tủy nhất của tôn giáo thì bị xem thường.
Các nhà lãnh đạo tôn giáo chỉ còn là những người thích ăn trên ngồi trốc, hưởng thụ những đặc quyền đặc lợi mà luật lệ tôn giáo đã dành cho (Mt 23,6-7), nhiều khi lại cấu kết với thế quyền để đàn áp bóc lột dân chúng (23,14). Họ dạy người khác làm những điều tốt đẹp mà chính họ lại không chịu làm (23,3). Nhiều khi họ không biết cái nào là cái chính cái nào là cái phụ trong tôn giáo (23,16-22) để dạy người ta giữ: nên cái chính yếu thì bị coi nhẹ, còn cái phụ thì lại được quan trọng hóa lên. Vì thế, họ trở thành những kẻ «dẫn đường mù quáng» (23,24), «mù lại dắt mù» (Lc 6,39).
Thế nên sứ mạng của Đức Giêsu là đến để làm một cuộc đại canh tân và cách mạng về tôn giáo. Có thể nói Ngài lập nên một đạo mới trên chính nền tảng của đạo cũ, hoặc Ngài đưa vào đạo cũ một tinh thần mới. Điều này khiến ta phải tự hỏi: tình trạng sống đạo của người Kitô hữu hiện nay có cần canh tân hay cách mạng như thế không? Và ai có nhiệm vụ ấy?
2. Nơi xuất xứ và cộng sự viên của Đức Giêsu trong việc canh tân và cách mạng của Ngài
Là một nhà cách mạng tôn giáo, nhưng Đức Giêsu lại xuất thân từ Nadarét, thuộc vùng Galilê (miền Bắc) là «miền đất của dân ngoại» (xem bài Tin Mừng), chứ Ngài không sống ở vùng Giu-đê (miền Nam) là vùng của Do thái giáo với kinh đô và đền thờ Giê-ru-sa-lem. Vì thế, Đức Giêsu được gọi là «người Galilê» (x. Mt 21,10; 26,69; Lc 23,6; 26,59; Mt 21,11). Theo quan niệm của dân chúng thì Galilê chẳng phát sinh được điều gì đáng giá: «Đấng Kitô mà lại xuất thân từ Galilê sao?» (Ga 7,41). «Ông cứ nghiên cứu đi rồi sẽ thấy: không một ngôn sứ nào xuất thân từ Galilê cả» (Ga 7,52).
Các môn đệ mà Ngài chọn để làm cộng sự viên với Ngài trong cuộc canh tân này, cũng không phải là người Giuđê mà đều là người Galilê. Các ông là những ngư dân ít học, mặc dù theo đạo Do Thái, nhưng biết rất ít những kiến thức tôn giáo. Ngài không chọn làm môn đệ những người thuộc giới kinh sư hay luật sĩ của Do Thái giáo, là những người có rất nhiều kiến thức tôn giáo. Cách lựa chọn môn đệ của Ngài đáng cho chúng ta suy nghĩ. Tại sao Ngài không chọn các kinh sư giỏi giang làm môn đệ? (trừ Phaolô – được chọn sau này làm tông đồ thay thế Giuđa – là một kinh sư).
Để làm một cuộc canh tân, Thiên Chúa đã dùng những yếu tố hầu như hoàn toàn mới, vì «không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ, vì như vậy, rượu sẽ làm nứt bầu, thế là rượu cũng mất mà bầu cũng hư. Nhưng rượu mới, bầu cũng phải mới!» (Mc 2,22). Làm sao có thể đổi mới tôn giáo được với những con người cũ, có những quan niệm cũ, nề nếp suy tư cũ, lối sống cũ với nhiều sai lạc mà họ vẫn cố chấp cho là chân lý không thể thay đổi được? Bằng chứng: cho tới ngày nay, Đức Giêsu đến đã 20 thế kỷ rồi, nhưng đạo Do Thái vẫn còn đang trông chờ một Đấng Cứu Tinh!
Đức Giêsu đến đã làm thay đổi rất nhiều: tinh thần mới, quan niệm mới, lề luật mới, cơ cấu mới, v.v… Sự thay đổi này đã gây nên một sự phản kháng mạnh mẽ nơi giới trí thức, giới lãnh đạo trong Do Thái giáo. Chắc chắn họ có lý của họ, và cái lý ấy cũng dựa rất chắc chắn trên nền tảng Kinh Thánh! Điều đó cho thấy không phải cứ có lý, có nền tảng Kinh Thánh là đủ, mà còn phải có tinh thần của Thiên Chúa, tức «công lý, tình thương và sự chân thật» (Mt 23,23), và nhất là tinh thần phó thác và đổi mới theo Thánh Linh, Đấng luôn luôn đổi mới mọi sự (x. Tv 104,30; Ep 4,23; Kh 21,5).
Cuộc canh tân của Đức Giêsu phải được xây dựng trên những yếu tố mới mẻ, không thể dính líu nhiều với đạo cũ. Điều này khiến cho những ai thường tự hào mình là «đạo gốc» phải suy nghĩ. Là người «đạo gốc» mà cách sống đạo chẳng có «gốc» (=chẳng có nền tảng) là «công lý, tình thương và sự chân thật» (Mt 23,23) thì thật đáng xấu hổ!
3. Thiên Chúa cần những người cộng tác
Đức Giêsu không thực hiện cuộc canh tân tôn giáo một mình, Ngài cần rất nhiều người cộng tác. Người cộng tác ấy không nhất thiết phải là người có học, thông minh, nhiều tài năng, hiểu biết nhiều về Kinh Thánh, hay có quyền thế, v.v… Các môn đệ Ngài tuyển chọn chẳng phải là hạng trí thức: «Họ ngạc nhiên khi thấy ông Phêrô và ông Gioan mạnh dạn, và biết rằng hai ông là những người không có chữ nghĩa, lại thuộc giới bình dân» (Cv 4,13). Chính Đức Giêsu cũng chẳng phải là người có học: «Người Do thái lấy làm ngạc nhiên. Họ nói: "Ông này không học hành gì, mà sao lại thông thạo chữ nghĩa thế!"» (Ga 7,15). Về đức độ, các môn đệ cũng chẳng phải là hơn người: khi Đức Giêsu bị bắt, tất cả các ông đều bỏ trốn, để mặc Ngài chịu trận một mình, Phêrô thậm chí còn chối phắt Thầy mình. So với các anh hùng của dân tộc ta (như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Huệ…) thì các ông thua xa.
Điều mà Ngài cần nơi những người cộng tác với Ngài là: mau mắn, không chần chừ tính toán. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy: vừa được Đức Giêsu mời gọi, thì Phêrô và Anrê «lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người». Gia-cô-bê và Gio-an cũng vậy: «lập tức, các ông bỏ thuyền, bỏ cha lại mà theo Người». Sự mau mắn, không chần chừ tính toán được Matthêu diễn tả bằng hai chữ «lập tức». Nó đòi hỏi phải có một chút liều lĩnh, phó thác, tin tưởng vào Đức Giêsu. Chính nhờ những đức tính này mà khi được Thánh Thần tác động, các ông trở nên có đủ mọi thứ đức tính, mọi thứ tài năng hơn người. Từ những con người chết nhát, các ông đã trở nên những tông đồ can đảm, luôn luôn mạnh dạn làm chứng cho Đức Giêsu, không chút sợ hãi (xem Cv 4,29.31; 9,27-28; 18,26; 19,8; 28,31).
Ngày nay, để canh tân Giáo Hội, Đức Giêsu vẫn tiếp tục cần rất nhiều người cộng tác với Ngài. Ngài luôn luôn mời gọi tất cả mọi Kitô hữu làm điều ấy. Bạn có nghe thấy tiếng Ngài mời gọi trong thẳm sâu tâm hồn không? Bạn đáp lại thế nào? Bạn «lập tức» chấp nhận, hay còn phải suy nghĩ xem mình có đủ khả năng, có đủ thì giờ, có đủ đức độ không? Nếu bạn có đủ khả năng, đủ thì giờ, đủ đức độ như các kinh sư Do Thái xưa, thì chắc hẳn Ngài đã chẳng kêu gọi bạn đâu, vì bạn sẽ cậy vào sức riêng bạn, chứ không thèm nhờ cậy vào Ngài nữa! Chính vì biết bạn thiếu tất cả những thứ ấy Ngài mới kêu gọi bạn, như đã từng kêu gọi các tông đồ xưa. Điều quan trọng khi đi theo Ngài là bạn phải biết rằng bạn thiếu những thứ ấy để bạn khiêm nhường cậy dựa vào sức của Ngài, chứ không phải sức của mình. Bạn không nghe thấy Ngài cầu nguyện với Cha Ngài như vầy sao? «Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha» (Mt 11,25). Điều lạ lùng và hết sức nghịch lý nhưng lại là thực tế, đó là ta sẽ làm được tất cả khi thật tình nghĩ rằng «không có Thầy, anh em chẳng làm gì được» (Ga 15,5), nhưng «tôi có thể làm được tất cả nhờ Đấng ban sức mạnh cho tôi» (Pl 4,13), vì «đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được» (Lc 1,37).
Vậy, nếu nghe thấy Ngài mời gọi bạn cộng tác với Ngài, bạn nên mau mắn chấp nhận. Chính nhờ sự mau mắn này, bạn – cũng như các tông đồ xưa – sẽ được biến đổi để làm được tất cả những gì Ngài mong muốn.
Cầu nguyện
Lạy Cha, nếu cần con cộng tác với Cha trong bất kỳ việc gì, thì đây con sẵn sàng, mặc dù con chẳng tài đức gì. Con chỉ muốn bắt chước các tông đồ xưa, nghe Đức Giêsu kêu gọi, là «lập tức» bỏ tất cả mà đi theo, không suy nghĩ, đắn đo, tính toán. Xin ban cho con tinh thần tin tưởng và phó thác nơi quyền năng vô biên của Cha trong mọi sự. Amen.
59. Suy niệm của nhóm Đồng Hành
Chi Tiết Hay
* Người Do Thái tránh dùng chữ "Thiên Chúa". Thay vì nói "Triều Đại Thiên Chúa", họ dùng "Nước Trời".
* Qua Giáo Hội Chúa Kitô thể hiện với mọi người. Qua Giáo Hội Chúa Kitô kêu gọi mọi người tham gia vào công trình cứu độ vĩnh cữu. Do đó, cho đến khi Chúa Giêsu lại đến, Triều Đại Thiên Chúa hiện nay là Giáo Hội.
* Đức Giêsu là một chiến lược gia giỏi. Ngài có một nhận định sắc bén về địa thế, thời điểm, và con người:
* Galilê là một giao điểm lưu thông chánh của các đại lộ từ Ai-cập đến Xyria. Galilê là một vùng tuy nhỏ nhưng rất trù phú và đông dân cư. Một làng nhỏ nhất trong vùng này có đến 15.000 dân. Đức Giêsu chọn Ca-phác-na-um làm tâm điểm cho sứ vụ của Ngài. Đây là một làng phía đông bắc của Biển Hồ Galilê với nhiều chủng tộc khác nhau.
* Đức Giêsu kêu gọi các người chài vào lúc mùa đánh cá đã chấm dứt. Lúc ấy họ rảnh rỗi để có thể đeo đuổi những hoạt động khác.
* Trong Gioan 4:35-42, các ông Simon, Anrê, Giacôbê, và Gioan đã gặp Đức Giêsu trước lúc này.
* Vì có Jerusalem, người Giuđê coi người miền Galilê là "nhà quê". Nadarét là một làng trong vùng Galilê, do đó Đức Giêsu được coi là người Galilê.
* Ngành ngư nghiệp là một kỷ nghệ quan trọng của vùng Biển Hồ Galilê vào thời đó. Các ông Simon, Anrê, Giacôbê, và Gioan có lẽ không phải là dân nghèo, nhưng mà là những thương gia với một sự nghiệp vững chắc và một đời sống ổn định. Lưới cá, thuyền bè và tình thân gia đình là những dấu hiệu của thành công trong mắt của các đồng nghiệp.
* Theo truyền thống, môn đệ chọn một người thầy (rabbi) để học Luật để trở thành một ông thầy. Trái lại, Đức Giêsu, một người thầy, lại tuyển chọn môn đệ. Các thầy khác dạy Luật, Đức Giêsu rao giảng về Triều Đại Thiên Chúa, và tìm sự thông hiệp với đường lối của Ngài.
* Hội đường (sygnagogue) là nơi người Do thái tụ họp cho những sinh hoạt cộng đồng và những nghi thức tôn giáo như là giảng dạy, trình luật và án phạt. Những lễ nghi cúng tế và thờ phượng chỉ được làm trong đền thờ.
Một Điểm Chính
ĐỒNG HÀNH VỚI CHÚA KITÔ XÂY DỰNG TRIỀU ĐẠI THIÊN CHÚA
Đức Giêsu công bố khởi đầu Triều Đại Thiên Chúa. Triều đại ấy ở ngay trên thế gian này. Ăn năn và sám hối là điều kiện tiên quyết để vào triều đại này.
Triều Đại của Tình Yêu và Thánh Thiện này là cho cả nhân loại không phân biệt màu da hay chủng tộc. Đây là dấu chỉ Thiên Chúa can thiệp một cách đặc biệt để cứu rỗi nhân loại. Ngài cũng muốn chúng ta phải mở lòng cho ân sủng của Thiên Chúa và cải thiện đời sống chúng ta.
Chúng ta phải chọn hoặc theo Đức Giêsu hoặc chống lại Ngài. Qua sự kêu gọi các ông Simon, Anrê, Giacôbê, và Gioan vào Triệu Đại Thiên Chúa, Đức Giêsu cũng mời gọi chúng ta cùng đồng hành với Ngài để xây dựng Triều Đại Thiên Chúa. Đó là sứ mệnh.
Suy Niệm
1. Chúa Giêsu gọi Simon, Anrê, Giacôbê, và Gioan theo Người ngay khi Người ĐI NGANG qua, trong lúc họ đang lo chu toàn những trách nhiệm hằng ngày riêng của họ. Trong cuộc sống hằng ngày, tôi có thể nhận định được lời mời gọi của Chúa để làm bạn đồng hành với Đức Kitô không?
2. Hãy suy gẫm về thái độ của các ông Simon, Anrê, Giacôbê, và Gioan khi Chúa Giêsu kêu gọi họ theo Người ngay khi Người ĐI NGANG qua. Tôi có thái độ nào để đáp lại ơn gọi của Thiên Chúa?
3. Triều Đại Thiên Chúa là Giáo Hội hiện nay. Cảm nghĩ của tôi ra sao về Giáo Hội? Trong khái niệm sứ vụ (ministry) và sứ mệnh (mission), tôi đã đóng góp những gì để xây dựng Giáo Hội?
60. Chương trình hoạt động của Đức Giêsu--Lm. FX. Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Nói tổng quát, bốn chương đầu của Mt là Mở đầu cho toàn Tin Mừng I.
Về ngữ cảnh của đoạn văn chúng ta đọc hôm nay, chúng ta có thể xác định như sau: Trong ch. 1–2, sau khi đã dùng một thứ Diễn văn ngôn sứ rút ra từ Cựu Ước mà cho thấy làm thế nào Lời Chúa đưa lại ý nghĩa cho “xuất xứ của Đức Giêsu Kitô, con cháu vua Đavít, con cháu tổ phụ Abraham” (1,1-17) và thực hiện chương trình của Người xuyên qua lịch sử loài người (1,18-25), sang ch. 3–4, Mt cho chúng ta thấy rằng, khi đến tuổi trưởng thành, Đức Giêsu đã đảm nhận trách nhiệm về sứ mạng của Người trước nhan Thiên Chúa Cha, Đấng đã sai phái Người. Những gì Kinh Thánh đã nói về Người, Người sẽ hoàn tất cách ý thức và tự do. Được đầy Thánh Thần, Người sắp được Chúa Cha bổ nhiệm làm Đấng Mêsia chân chính đi đáp ứng nỗi niềm chờ mong của dân chúng.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành bốn phần:
1) Galilê, địa bàn hoạt động của Đức Giêsu (4,12-16);
2) Đối tượng chính của lời Đức Giêsu rao giảng (4,17);
3) Những người đầu tiên được nhận lời rao giảng (4,18-22);
4) Các hình thái chính của hoạt động của Đức Giêsu (4,23).
3.- Vài điểm chú giải
- Khi Đức Giêsu nghe tin ông Gioan đã bị nộp (12): Trong các đoạn Mt 10,4; 17,22; 20,18-19; 26,2, tác giả cũng nói rằng Con Người “bị nộp” (paredothê); như thế, Gioan Tẩy Giả và Đức Giêsu có chung mộtsố phận. Dạng bị động hàm ý biến cố thuộc về ý muốn của Thiên Chúa: chương trình của Thiên Chúa đã được hoàn tất trong cuộc đời Gioan, cũng như sau này, sẽ được hoàn tất trong cuộc đời Đức Giêsu. Hơn nữa, hai sứ vụ được liên kết với nhau trong chương trình của Thiên Chúa: Đức Giêsu bắt đầu hoạt động công khai vào lúc Thiên Chúa cho chấm dứt sứ vụ của Gioan.
- Người lánh qua (anachôreô, “lui về”) (12): Miền Giuđê là pháo đài của Do-thái giáo chính thức, với hai nhóm bảo vệ là Pharisêu và Xađốc. Đã bắt được Gioan, hẳn là họ sẽ tìm cách loại trừ cả Đức Giêsu. Vì thế, Người quyết định khởi đầu sứ vụ tại miền Galilê, nơi mà ảnh hưởng của Thượng Hội Đồng và của nhóm Pharisêu không mạnh bao nhiêu. Khi sử dụng động từ anachôreô ở đây như ở 2,12 (x. 9,24; 12,15; 15,21;…), rất có thể Mt cho hiểu rằng chính thái độ cứng tin của miền Giuđê (dưới ảnh hưởng của phái Pharisêu, tỏ ra bằng việc loại trừ Gioan) đã khiến Đức Giêsu phải ngỏ lời với “Galilê, miền đất của dân ngoại”.
- bỏ Nadarét (13): Không phải là Người bỏ rơi, nhưng là không chọn Nadarét làm khởi điểm cho sứ vụ. Đức Giêsu chọn Caphácnaum: Mt chuẩn bị đưa vào sấm ngôn Is 8,23–9,1. Caphácnaum chính là miền đất xưa kia hai chi tộc Dơvulun và Náptali đã cư ngụ (x. Gs 19,10-16.32-39). Mt trích sấm ngôn Isaia này là để trả lời vấn nạn vì sao Đức Giêsu chọn miền Galilê làm nơi sân khấu chính để khởi đầu hoạt động của Người: điều đó nằm trong chương trình của Thiên Chúa (như sấm ngôn Is đã loan báo).
- Dơvulun … Náptali (15-16): Hai chi tộc này chiếm phần lớn miền Galilê, đã bị đế quốc Átsua thôn tính vào năm 734, và sau đó bị hy-hóa vào thời các triều vua dòng họ Sêlêukhô. Từ đó họ đã bị Dân Ngoại tràn ngập. Ngôn sứ Isaia (ch. 8 và 9) đã loan báo ngày giải phóng. Mt thấy chính Đức Giêsu sẽ giải phóng họ, không phải về phương diện chính trị quân sự, mà là về tôn giáo.
- Galilê, đất của dân ngoại (15): Đối lại với Giuđê tinh tuyền về giống nòi, Galilê trở thành biểu tượng của cuộc quy tụ phổ quát: đây là Đất Hứa đang mở ra với Đức Giêsu, là Israel chân chính, sau khi Người đã ở trong hoang địa và vượt qua sông Giođan. Chúng ta gặp mộtđề tài quen thuộc của Mt: Đức Giêsu ngỏ lời trước tiên với các chiên lạc nhà Israel (x. 10,6; 15,24).
- một ánh sáng huy hoàng (16): Ánh sáng này sẽ xuất hiện ra với các môn đệ vào cuộc Hiển Dung (x. 17,2) và còn xuất hiện huy hoàng rực rỡ hơn nữa vào Ngày Phục Sinh.
- Anh em hãy hối cải, vì Nước Trời đã đến gần (17): Công thức này tương tự với công thức ở 3,2 (Gioan Tẩy Giả) và 10,7 (các môn đệ). Bằng cách đó, tác giả Mt khẳng định sự tiếp nối của các sứ mạng: việc rao giảng của Gioan chuẩn bị cho việc rao giảng của Đức Giêsu, và việc rao giảng của các môn đệ nối dài sứ điệp của Đức Giêsu.
- Nước Trời (17): Đây là cách Mt nói quanh để tránh gọi tên Thiên Chúa, nên “Nước Trời” chính là “Nước Thiên Chúa” (nhưng cũng có bốn lần ông dùng cụm từ “Nước Thiên Chúa”: 12,28; 19,24; 21,31.43). Basileia có thể dịch ra là “triều đại, vương quyền, vương quốc”. Còn “trời” (tôn ouranôn) không có nghĩa là “Nước” này thuộc về thiên giới, nhưng có nghĩa là Đấng đang ở trên trời (5,48; 6,9; 7,21) thì đang trị vì trên thế giới. Do trung thành với truyền thống Cựu Ước, Mt biết rằng vương quyền luôn luôn thuộc về Thiên Chúa (x. Tv 22,29; 103,19; 145,11-13). Đây là sứ điệp chính của Đức Giêsu: Người loan báo “Nước” (Triều Đại) này đang/đã đến và chính Người thực hiện trong tư cách là Con Người (x. 26,64; Đn 7,13-14 [LXX]: Mt 28,18). Trong Mc và Lc, có những chỗ Đức Giêsu đã công bố Nước Thiên Chúa như là mộtthực tại thuộc về tương lai (x. Mc 14,25; Lc 11,2; …), và có những chỗ Người lại bảo đó là mộtthực tại đang có trong hiện tại nơi sứ vụ và nơi bản thân Người (x. Lc 7,18-23; 10,23t…). Do dựa trên loạt bản văn thứ nhất hoặc thứ hai mà có hai lý thuyết ở hai đối cực: “thời cánh chung đã đến” và “thời cánh chung đang đến”.
- đã đến gần (eggiken, 17): Eggiken là thì hoàn thành của động từ eggizô, “đến gần”. Đây là mộttừ vẫn đang gây nhiều tranh luận. Các bản dịch khá khác nhau: “est tout proche” (BJ), “s’est approché” (TOB), “is at hand” (King James 1611; NAB 1988), “is fast approaching” (để nêu bật tính cấp bách: x. Albright trong Anchor Bible), “is near, is at hand” (Zerwick). C.H. Dodd cho rằng eggiken được dịch từ mộtđộng từ a-ram có nghĩa là “đạt tới; đến”. Vì thế, ông dịch là “Nước Trời đã đến”. Nhưng eggizô (do tính từ eggys, “gần”) có nghĩa là “đến sau; tiến lại gần”; do đó, đa số các nhà chú giải chọn cách dịch là “Nước Trời đã gần (đến)”.
- Cc. 16-22: Truyện Đức Giêsu kêu gọi các môn đệ đầu tiên được kể theo mẫu các ơn gọi ngôn sứ trong Cựu Ước (x. Êlisa: 1 V 19,19). Bài này không nói đến chiều kích tâm lý, nhằm làm nổi bật lời kêu gọi của Đức Giêsu và lời đáp gắn bó bằng đức tin hơn. Lược đồ này diễn tả tương quan tiêu biểu giữa Đức Giêsu và người môn đệ lý tưởng: Thầy vừa lên tiếng gọi, môn đệ bỏ mọi sự mà đi theo ngay, không lưỡng lự, không thắc mắc. Đức Giêsu chỉ yêu cầu các ông đi theo Người và sống với Người, và chỉ sai phái các ông đi loan báo Tin Mừng sau Phục Sinh (khác với Mc 6,12-13 và Lc 9,6). Khi viết như thế, có lẽ Mt muốn ưu tiên nêu thật rõ dung mạo có một không hai của Thầy.
- những kẻ lưới người như lưới cá (19): Phải chăng đây là một ám chỉ đến sách Êdêkien (47,10)? Bản dịch TOB bảo hiểu Mt 4,19 và Lc 5,10 theo Mc 1,17 (chú thích c): hình ảnh tiêu cực và như đe dọa (x. Kb 1,15.17; Gr 16,16) để diễn tả rằng các tông đồ sẽ đi rao giảng Tin Mừng hầu quy tụ người ta lại mà chịu phán xét và được vào Nước Thiên Chúa (x. Mt 13,47-50). Nhưng nếu hiểu theo Lc 5,10, thì ý nghĩa tích cực hơn nhiều: động từ zôgreô (do zôos, “sống”, và agreô, “bắt”) có nghĩa là “bắt (mà cứu sống)” (Zerwick). Có lẽ cũng nên hiểu Mt 13,47-50 theo hướng này.
Dù sao, có thể nói rằng Nước Trời như đã được thiết lập khi Đức Giêsu kêu gọi các môn đệ, bởi vì Nước Trời chủ yếu là mộtcộng đoàn gồm những con người quy tụ quanh Đức Giêsu trong sự hiệp thông với Chúa Cha.
- khắp miền Galilê (23): Đức Giêsu đến nhắm ngỏ lời với toàn thể dân Người trong khắp xứ (chứ không như các kinh sư Do-Thái).
- giảng dạy … chữa … (23): “Đức Giêsu đi khắp miền Galilê / các thành thị, làng mạc / giảng dạy (didaskôn, participle) trong các hội đường của họ, rao giảng (kêryssôn, part.) Tin Mừng Nước Trời, và chữa (therapeuôn, part.) hết các bệnh hoạn tật nguyền của dân” (4,23 và 9,35). Câu này đóng khung khối từ ch. 5 đến ch. 9. Năm chương này làm thành một đơn vị về văn chương và đề tài. Nội dung của đơn vị này sẽ nhắc lại và triển khai ba phân-từ (participle) chứa trong câu tổng hợp này.
Giáo huấn của Bài Giảng trên núi (ch. 5–7) và những cuộc chữa bệnh (ch. 8–9: 10 phép lạ) là hai hình thái của Tin Mừng về Nước Trời. Đức Giêsu công bố Nước Trời bằng lời nói (ch. 5–7) và bằng hành động (ch. 8–9). Bài Giảng trên núi minh họa đặc biệt những điều kiện để gia nhập và phát triển trong Nước Trời. Có thể nói Bài Giảng này nối dài câu “Anh em hãy sám hối (hoán cải)”, Bài Giảng này như là lời đáp của con người khi Nước Trời đến (x. 4,23).
- chữa hết mọi kẻ bệnh hoạn tật nguyền trong dân (23): Nền văn chương khải huyền thời Đức Giêsu (x. Các Thánh vịnh Salômôn) đầy những ý tưởng về Thiên Chúa là Đấng che chở người công chính và tránh cho họ khỏi bệnh hoạn và những nghịch cảnh. Hoạt động chữa bệnh của Đức Giêsu đáp ứng mộtniềm chờ mong nơi dân chúng, nhất là thực hiện lời sấm Is về Người Tôi Trung của Đức Chúa mang lấy bệnh tật của dân (x. Is 53,4), mà ông đã áp dụng cho Đức Giêsu (x. Mt 8,17).
Còn toàn bộ Tin Mừng cho thấy rằng Đức Giêsu không chọn nguyên tắc là chữa tất cả các bệnh nhân, y như thể Người muốn cho người ta hưởng nhờ tối đa khả năng làm phép lạ của Người. Người chỉ thực hiện mộtsố phép lạ chữa bệnh có ý nghĩa liên hệ đến Nước Trời và quyền bính của riêng Người.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Galilê, địa bàn hoạt động của Đức Giêsu (12-16)
Đức Giêsu đã đến sông Giođan để được Gioan ban phép rửa cho; Người đã dừng lại ở phía nam Thánh Địa (x. 3,13–4,11). Thế rồi tại sao Người lại trở về để hoạt động tại miền Galilê, là miền không được coi là quê hương của Đấng Mêsia (x. Ga 7,41.42.52)? Tại sao Người không ở lại miền Giuđê và Giêrusalem, là trung tâm của dân Thiên Chúa? Mt cho biết là Đức Giêsu rút lui (lánh đi), Người cảm thấy bị đe dọa và nhường bước cho áp lực của những hoàn cảnh bên ngoài. Sự đe dọa đã khiến cha nuôi Người phải đổi chỗ ở vào đầu đời Người (2,13.14.22) và sẽ còn bó buộc Người liên tục rút lui cả trong thời gian hoạt động công khai (12,15; 14,13). Với các môn đệ sau này, Người dạy họ trốn sang thành khác, khi bị bách hại (10,23). Cũng như Người, họ phải bố trí đời sống dựa theo những hoàn cảnh bên ngoài. Nơi số phận của Gioan, đã bị vua Hêrôđê cho bắt và sẽ cho giết chết theo ngẫu hứng (x. 14,3-12), kết cục cuộc đời Đức Giêsu đã được loan báo: Người cũng sẽ bị giao nộp vào tay loài người (17,22), cho sự gian tà và độc ác của họ. Như thế, ngay trên bước khởi đầu hoạt động của Đức Giêsu, bóng tối của kết cục bi thảm đã được trương ra. Hoạt động của Người được triển khai dưới dầu chỉ là cuộc Khổ Nạn của Người. Tuy nhiên, tất cả những điểm này đều thuộc về chương trình của Thiên Chúa: chính Thiên Chúa đã để cho Gioan và sẽ để cho Đức Giêsu “bị nộp”; sự kiện Gioan bị nộp là như tín hiệu Thiên Chúa dùng để báo cho Đức Giêsu biết đã đến lúc Người hoạt động.
Cũng như Người đã đến cư ngụ tại Nadarét (2,22t), nay Đức Giêsu đến hoạt động tại Galilê và Caphácnaum, do bị bó buộc bởi các biến cố bên ngoài. Trong cả hai trường hợp, tác giả ghi nhận là như thế, ý muốn của Thiên Chúa do các ngôn sứ loan báo được thể hiện. Cho dù nhiều lần phải điều chỉ do các bó buộc bên ngoài, hành trình của Đức Giêsu vẫn hoàn toàn ở dưới sự hướng dẫn của Thiên Chúa. Người đi về vùng ngoại biên Israel, vào “Galilê, đất của dân ngoại”, tại đó cũng có người ngoại cư ngụ và chung quanh là các miền đất Dân ngoại. Hoạt động của Người nhắm đến dân Israel (15,24), nhưng tại đây cũng lan tỏa ra các Dân ngoại và được họ nhận biết (x. 4,24t). Điều đã được loan báo bởi cuộc viếng thăm của các hiền sĩ (2,1-12) và điều sẽ được công bố trong sứ mạng cuối cùng của các môn đệ trong liên hệ với muôn dân (28,19), nay cũng được tỏ hiện tại các nơi chính mà Người hoạt động: Người cũng là ánh sáng cho Dân ngoại nữa. Tại nơi đã chỉ có bóng tối của tử thần, đã bừng lên mộtánh sáng. Đối với loài người chúng ta, mặc dù chúng ta biết nhiều, kết cục và ý nghĩa của đời sống hoàn toàn vô phương dò thấu và mờ mịt. Bằng sứ điệp của Người về Thiên Chúa, Đức Giêsu mang ánh sáng và khai mở sự sống viên mãn.
* Đối tượng chính của lời Đức Giêsu rao giảng (17)
Các lời “Anh em hãy hối cải, vì Nước Trời đã đến gần” tóm tắt toàn thể sứ điệp của Đức Giêsu. Tiếng gọi đi trước, nhưng hoàn toàn lệ thuộc lời loan báo, vì dựa trên lời này (“vì”). Thuật ngữ “Nước Trời” chỉ có trong Mt, tương ứng với “Nước Thiên Chúa” trong phần còn lại của Tân Ước. Theo cách dùng của người Do-thái, họ tránh từ “Thiên Chúa” và thay thế bằng “trời” (x. 21,25; Lc 15,18). “Nước Trời” chính là triều đại hoặc quyền chủ tể của Thiên Chúa như là vua. Tất cả hoạt động của Đức Giêsu quy chiếu về Triều Đại. Triều Đại không có nghĩa là mộtđiều gì khác và tách biệt với Thiên Chúa, nhưng là chính Thiên Chúa trong tư cách Chúa Tể và Vua của dân Người, cùng với các hậu quả của quyền chủ tể trên dân. Dân thì luôn luôn thuộc về nhà vua; quyền chủ tể vương giả có nghĩa là dấn thân với lòng tốt và sự quan tâm mà lo lắng cho đời sống của dân, như một mục tử lo lắng cho đời sống của đàn chiên (x. Tv 23,1).
Triều Đại này đã đến gần, chứ chưa hoàn toàn hiện diện. Đức Giêsu sẽ dạy họ cầu nguyện “xin triều đại Cha ngự đến” (6,10). Tuy nhiên, Triều Đại này đã đến gần vĩnh viễn. Thiên Chúa đã quyết định giương cao Vương quyền này trước mặt tất cả các thế lực khác và thực hiện Vương quyền này cách công khai và hết sức hữu hiệu. Không còn có thể quay lui, mà chỉ có thể bước tới cho đến khi Triều Đại này được tỏ hiện trọn vẹn. Thiên Chúa sẽ không trì hoãn và cứ ẩn mình mãi. Người sẽ không bỏ rơi loài người cho các thế lực của thiên nhiên và lịch sử, cũng như cho hoàn cảnh trong đó họ phải quy phục lẫn nhau. Người sẽ chấm dứt tất cả các thế lực này và chính Người sẽ trực tiếp là Vua và Chúa. Đức Giêsu sẽ làm sáng tỏ bản chất của Triều Đại này đặc biệt trong sứ điệp của Người về Thiên Chúa như là Cha và trong hoạt động bác ái của Người để chữa lành và giúp đỡ.
Trước lời công bố là lời mời gọi: “Hãy hối cải!”. Đức Giêsu mời các thính giả quay về với Thiên Chúa. Họ phải quay mặt về Người, chăm chú lắng nghe, với lòng tin tưởng và hy vọng. Con người chỉ có thể hoán cải nếu Thiên Chúa quay về cách nhưng-không với con người. Tuy nhiên, lời kêu gọi hoán cải được đặt ở đầu, bởi vì lời đáp của chúng ta với Thiên Chúa là điều tuyệt đối cần thiết, và có thể thất bại nếu không được nói ra. Hành động của Thiên Chúa thì đã chắc chắn; vì thế, Đức Giêsu đã nhấn mạnh nhiều trên sự cần thiết phải hoán cải.
* Những người đầu tiên được nhận lời rao giảng (18-22)
Một trong những điều kiện căn bản đề Đức Giêsu có thể hoạt động là Người có quanh mình mộtsố người để họ đi đường với Người thường xuyên, thiết lập với Người mộtsự hiệp thông đời sống và có thể trải nghiệm trọn vẹn hoạt động của Người. Đức Giêsu không hoạt động tùy hứng hay theo ngẫu nhiên, cũng không bắt hoạt động của Người lệ thuộc những cuộc gặp gỡ tình cờ và chóng qua. Người có mộtcộng đoàn môn đệ bao quanh. Lời kêu gọi “Hãy hối cải!” được nhắc lại và được làm sáng tỏ bởi tiếng gọi “Hãy đi theo tôi!”. Đức Giêsu đã gọi bốn môn đệ đầu tiên là Simôn và Anrê, Giacôbê và Gioan đi theo Người. Ta sống sự hoán cải trong khi đi theo Đức Giêsu. Ai theo Người thì tin tưởng vào Người, bởi vì Người biết kết cuộc và biết con đường phải theo. Ai đi theo Người thì gắn bó với Người và chấp nhận được Người hướng dẫn. Khi đi theo Người, các môn đệ được đưa vào trong sứ điệp về Nước Trời và vào trong việc hoán cải như là câu trả lời đúng đắn với sứ điệp này.
Những ai đi theo Đức Giêsu thì phải ra khỏi hoàn cảnh sống trước đó và gắn bó với Người. Tuy nhiên, dây liên kết này không tách họ khỏi những người khác, trái lại phải chuẩn bị họ cho mộtnhiệm vụ mới nơi loài người. Đức Giêsu gọi đi theo Người, đồng thời cho biết ý định của Người: “Tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá”(4,19). Xuyên qua cuộc cộng đồng sinh tử với Người, Đức Giêsu chuẩn bị họ tiếp nối sứ mạng của Người, trong tư cách là những sứ giả của Người (x. 9,36–10,42; 28,16-20).
* Các hình thái chính của hoạt động của Đức Giêsu (23)
Hoạt động của Đức Giêsu được triển khai khắp miền Galilê và được thực hiện qua giáo huấn, lời giảng và các phép lạ chữa bệnh (4,23). Lời dạy về sự hoán cải đúng đắn, lời loan báo và giải thích Tin Mừng về Nước Trời, và sự xác nhận các điều đó nhờ các cuộc chữa bệnh là những điểm chìa khóa của hoạt động của Đức Giêsu.
+ Kết luận
Là vị Tiền Hô của Đấng Mêsia, Gioan đã dừng chân tại hoang địa và ở tại sông Giođan mà làm phép rửa cho những ai đến với ông. Còn Đức Giêsu, Đấng Mêsia, đã sống đời “du thuyết”; Người rảo khắp miền Galilê mà công bố rằng Nước Trời đang đến. Ngay từ đầu, Người đã tỏ ra là vị Mục Tử tốt lành đi tìm “các chiên lạc của nhà Israel”. Và vì quan tâm bảo đảm cho hoạt động của Người được hữu hiệu lâu dài, Người đã quy tụ các “ngư phủ lưới người” đầu tiên, để họ sống với Người và với nhau. Sau này, các ông sẽ nối tiếp Người, đi loan báo Nước Trời khắp nơi, không phải chỉ cho dân Israel, mà cho mọi người thuộc mọi thời đại.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Vào ngày hôm nay, Đức Giêsu vẫn còn công bố sứ điệp về Nước Trời giữa lòng cộng đoàn cử hành Phụng vụ. Lời Người vẫn cấp bách như thuở nào: “Hãy hối cải, vì Nước Trời đã gần đến”. Thiên Chúa vẫn đang tìm cách hiển trị trong đời sống chúng ta mộtcách rõ nét hơn; Người có thể áp đảo chúng ta, nhưng Người không muốn, vì Người tôn trọng tự do của chúng ta. Do đó, chúng ta được mời gọi xét lại tâm hồn mình, bỏ đi những trở ngại khiến trái tim chúng ta không mở rộng ra được với các viễn tượng phổ quát của Thiên Chúa. Nếu chúng ta không loại bỏ được những trở ngại đó, là chúng ta như đang bị bệnh tật. Khi đó, chúng ta có thể xin với Đức Giêsu và Người sẽ chữa chúng ta lành.
2. Các hoàn cảnh bên ngoài không phải chỉ là những bó buộc, nhưng thường cũng là những chỉ dẫn Thiên Chúa ban để chúng ta đi đúng đường lối của Người. Đức Giêsu đã chứng tỏ như thế. Các thánh cũng đã hiểu như thế, qua các cuộc mò mẫm tìm kiếm ý Chúa. Hôm nay, chúng ta được mời gọi lưu ý đến các hình thái này mà Thiên Chúa đang dùng để hướng dẫn chúng ta.
3. “Hãy hối cải!”. Loài người không được quay lưng lại với Thiên Chúa, rời xa Người và tìm hạnh phúc và ơn cứu độ ở chỗ khác. Hành động Thiên Chúa đến với loài người đòi buộc họ đáp trả bằng cách di chuyển về phía Thiên Chúa. Họ không thể được Người đến gặp và nhận được các phúc lành của Triều Đại Người, nếu họ quay về với những người khác. Ngay từ đầu, lời rao giảng của Đức Giêsu đã nêu bật hai đề tài chính này: Người nói rõ là chúng ta có thể chờ đợi gì nơi Nước Thiên Chúa và đồng thời, Người trình bày cho thấy đâu là các hình thái của sự hối cải chân thật. Cả hai yếu tố này được trình bày rõ ràng trong các Mối Phúc (5,3-12).
4. Đức Giêsu xuất hiện là đưa lại ánh sáng và niềm vui. Hôm nay, chúng ta có nhận ra Người vẫn đang hiện diện trong thế giới, giữa lòng cuộc sống chúng ta, để chúng ta tiếp tục đón nhận được niềm vui và ánh sáng? Đàng khác, chúng ta đã được chọn để nối tiếp sứ mạng của Người. Chúng ta đang chu toàn sứ mạng đó thế nào? Đức Kitô vẫn đang đến gặp chúng ta ngay giữa những sinh hoạt, những niềm vui và những nỗi phiền sầu của chúng ta, để mời gọi chúng ta đi theo Người. Có lẽ Người không lôi kéo chúng ta theo Người về mặt thể lý cho bằng về mặt thiêng liêng: chúng ta được thúc bách rời bỏ chính mình, bỏ tính ích kỷ, bỏ đi sự cứng cỏi, để sống với Người mỗi ngày trong sự từ bỏ và trong tình yêu.
5. “Hãy theo tôi”. Tiếng gọi của Đức Giêsu nhằm mời gọi các môn đệ đầu tiên cũng là mộtlời mời hoán cải liên tục. Chúng ta được mời gọi lấy mộtquyết định cương quyết đầu tiên, đôi khi là mộtđoạn tuyệt đau đớn nào đó, rồi ngày qua ngày, kiên trì bước theo giáo huấn của Người, chúng ta sẽ thực hiện những bước hối cải mới để càng trở nên môn đệ hơn.
61. Suy niệm của Noel Quesson
Khi Đức Giêsu nghe tin ông Gioan đi bị nộp...
Chúng ta luôn nghĩ rằng thời đại của chúng ta là một thời đại xáo trộn nhất với những vụ bạo lực, bắt cóc tin, giết người tấn công có vũ trang. Vả lại, Tin Mừng của Matthêu giới thiệu với chúng ta thời đại của Đức Giêsu như một thời đại bi đát. Đúng vào lúc mà chính quyền bắt giam người anh họ của Người, không cho ông giảng dạy nữa, Đức Giêsu quyết định tiếp lục sự giảng dạy đó! Phải có lòng can đảm, Đức Giêsu mới dám lao vào một cuộc phiêu lưu cũng sẽ đưa Người đến cùng một số phận bi thảm. Ở đây Matthêu sử dụng cùng một từ ngữ như trong cuôc khổ nạn: "Nghe tin ông Gioan đã bị nộp". Trong vài tuần lễ nữa, Đức Giêsu sẽ nói: "Này chúng ta lên Giêrusalem. Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư; họ kết án tử hình Người và nộp Người cho dân ngoại" (Mt 20,18 - 26,2).
Đời sống của tôi cũng thế, có lẽ khó sống. Những cuộc xung đột mà tôi phải sống chẳng phải là cơ hội để tôi hiệp thông với Đức Giêsu sao?
Người lánh qua miền Galilê...
Từ "lánh qua” lui về, là từ đặc biệt của Tin Mừng Matthêu. Thánh sử nhấn mạnh rằng Đức Giêsu (vốn là Thiên Chúa!) là một hạng người bị cấm cách, lưu đày lúc nào cũng phải chạy trốn, và bị những kẻ thù ghét truy nã (Matthêu 12,15 - 14,13 - 15,21). Cũng với những công thức ấy Matthêu đã cho thấy Giuse chạy trốn khỏi miền Giuđê lui về miền Galilê vì Áckêlao nguy hiểm đã kế vị vua cha (Mt 2, 22-23).
Rồi Người bỏ Nadarét, đến ở Caphácnaum. Một thành ven biển hồ Galilê. thuộc địa hạt Dơvulun và Náptali.
Đức Giêsu dời chỗ. Người rời bỏ ngôi làng nhỏ nơi Người đã sống thời thơ ấu. Nói đến ở một "thành phố trong thế kỷ cơ động của chúng ta, tôi thích nghĩ rằng Đức Giêsu cũng đã phải làm quen với những láng giềng mới, tạo ra các mối quen hệ mới, thay đổi môi trường! Vậy, Đức Giêsu đã chọn thành phố nào để ở như sau này người ta sẽ nói "thành phố của Người” (Matthêu 9,1). Caphácnaum! Đó là thành phố của Simon Phêrô. Nhưng sự khai quật gần đây đã khám phá ra ngôi nhà khiêm tốn của người ngư dân đó, rất gần cảng... Đức Giêsu đã đến cư ngụ trong ngôi nhà đó. Caphácnaum là một thành phố biên giới, nằm trên đường biên giới của hai quốc gia của Hêrôđê và của Philípphê. Thành phố này có một trạm thu thuế, rnột đội quân La mã đồn trú. Khác với Nadarét là một thị trấn nhỏ, nằm ẩn khuất sau những đồi núi, Caphácnaum là nơi qua lại và tụ tập nhiều dân là địa điểm quan trọng trên con đường ven biển nối liền Đamát, cửa vào sa mạc, đến Xêsarê cửa ra biển Địa Trung Hải. Đức Giêsu không dời chỗ mà không có lý do. Sự chọn lựa này có một ý nghĩa.
“Để ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia nói: "Này đất Dơvulun, và đất Náptali, hỡi con đường ven biển, và vùng tả ngạn sông Giođan, hỡi Galilê, miền đất của dân ngoại! Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tốt tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng. Những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi".
Matthêu khi trích dẫn Isaia, có ý nói rằng Đức Giêsu vâng phục theo ý muốn của Chúa Cha: Người làm điều mà Thiên Chúa đã nói. Đây là sự vâng phục cao cả, to lớn và kỳ diệu được đảm nhận với tự do và tình yêu. Thánh sử cũng nhấn mạnh đến sự liên tục của Đức Giêsu với toàn bộ lịch sử của dân Người: vì thế có sáu mươi sáu lời trích dẫn của Cựu Ước trong Tin Mừng của Matthêu. Nhưng chúng ta có thể thấy ở đây một ý chí có cân nhắc Đức Giêsu: Người đi đến với những người xa Thiên Chúa nhất.
Miền đất Galilê là một tỉnh pha trộn nhiều sắc dân, một sứ sở mở rộng cho các đoàn thương nhân. Đức Giêsu đến ở đó! Người không định rao giảng trước tiên cho thành Giêrusalem, và miền đất thánh Giuđê... nhưng trong miền đất phía Bắc, mở ra cho các ảnh hưởng ngoại giáo và do đó bị giới lãnh đạo Do Thái nghi ngờ và khinh bỉ như miền đất lạc giáo không nhiều thì ít. Giáo Hội ngày nay có mang tính chất truyền giáo như Đức Giêsu không?
Phần tôi thì sao? Những phản ứng sâu xa của tôi là gì? Có phải tôi chỉ lui tới thân mật với những người suy nghĩ giống tôi? Có phải tôi tránh tiếp xúc với những người ngoại giáo và vô thần? Có phải theo bước Đức Giêsu. Tôi đến chỗ ngã tư đường chỗ giao lưu với dân ngoại? Có phải tôi sẽ mạnh dạn đến xứ sở của “bóng tối và sự chết", để đưa vào đó một chút “ánh sáng"?
Tôi chiêm ngắm Đức Giêsu rời bỏ ngôi làng nhỏ của người... đến cư ngụ ở Caphácnaum...
Từ lúc đó Đức Giêsu bắt đầu rao giảng, và nói rằng: "Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần".
Đức Giêsu tiếp tục việc rao giảng của Gioan Tẩy Giả không thay đổi một lời (Mt 3,2) Và Đức Giêsu đến lượt mình bị giết chết, Phêrô sẽ lặp lại cùng một sứ điệp (Cv 2,38). "Anh em hãy sám hối, hãy thay đổi!”. Chúng ta có xác tín rằng chúng ta một sự đổi hướng phải thực hiện không? Chúng ta không tự phát quay hướng Thiên Chúa, Tha Thể tuyệt đối cũng như về người khác… Theo tính tự nhiên, chúng ta lấy mình làm trung tâm. Nếu chúng ta sáng suốt, chúng ta phải thừa nhận rằng chúng ta có một sự đổi hướng hoàn toàn phải thực hiện… để Thiên Chúa thật sự ngự trị trong lòng chúng ta... để Nước Thiên Chúa được ở đây trong đời tôi.
Một cách cụ thể, sự sám hối, hoán cải nào mà Thiên Chúa đòi hỏi tôi trong lúc này?
Người đang đi dọc theo biển hồ Galilê, thì thấy hai anh em kia, là ông Simon, chúng gọi là Phêrô, và người anh là ông Anrê, đang quăng chài xuống biển vì các ông làm nghề đánh cá. Người bảo các ông: "Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá".
Cảnh nầy lầ một cảnh tầm thường và hoàn toàn đơn giản theo thể cách của Matthêu. Không có gì là phi thường, đặc biệt. Theo Matthêu, hành động đầu tiên của Đức Giêsu không phải là một phép lạ nhưng là một lời kêu gọi. Cuộc phiêu lưu của Giáo Hội, cuộc cách mạng đã thay đổi bộ mặt của trời đất, đã bắt đầu như thế... trong hoàn cảnh tầm thường của các ngư dân làm công việc mỗi ngày của họ. Chúng ta hãy lưu ý tầm quan trọng đó: Đức Giêsu “kêu gọi" các tông đồ của Người không phải trong khuôn khổ một lễ hội tôn giáo hoặc một hoạt động tâm linh... nhưng ở giữa đời sống mỗi ngày của họ, trong lúc họ đang làm công việc nghề nghiệp!
Quả Đức Giêsu có sự táo bạo? Chính Người đã khởi xướng, chính Người đã kêu gọi. Xem ra Người hoàn toàn biết rõ Người muốn đi đến đâu! Người lôi kéo người ta đi theo Người. Người điềm nhiên nói rằng mọi người được dựng nên cho Người, phải đi đánh lưới họ, như người ta đi lưới cá.
Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người.
Ngày nay, có sự thiếu ơn gọi. Tin Mừng ngày hôm nay phải thức tỉnh chúng ta. Chắc chắn, Chúa vẫn tiếp tục gọi. Ai sẽ chấp nhạn sống cuộc phiêu lưu trong hoạt đọng tông đồ như trong thời kỳ đó? Lúc đó, những người được gọi đã đáp lại vô điều kiện... Còn tôi?
Đi một quãng nữa: Người thấy hai anh em khác con ông Dêbêđê, là ông Giacôbê và người em là ông Gioan. Hai ông này đang cùng với Cha lã ông Dêbêđê vá lưới ở trong thuyền. Người gọi các ông, lập tức các ông bỏ thuyền, bỏ cha lại mà theo Người.
Sự đáp lại ơn gọi quả mau lẹ đối với chúng ta xem ra như không có thật. Chúng ta chớ nên quên rằng những người như Gioan và Giacôbê đã được Gioan Tẩy Giả chuẩn bị về mặt tâm lý và lịch sử. Vả lại đây không phải là lần đầu tiên họ gặp Đức Giêsu. Họ đã gặp Người ở bờ sông Giođan (Ga 1,35-50). Tuy nhiên, chúng ta không nên giảm nhẹ những yêu sách triệt để của Đức Giêsu: Câu chuyện được xây dựng trên sơ đồ ngôn sứ Êlisa cũng đã đốt cày của ông, nướng bò của ông "để không bao giờ còn quay lại đàng sau. Chúng ta không đơn thuần trong một quan hệ “bình thường" của môn đệ với rápbi hay giáo trưởng của họ. Không phải Giacobê và Gioan, cũng không phải Phêrô và Anrê đã tìm kiếm Đức Giêsu mà chính Đức Giêsu với sự cao cả của Người đã có sáng kiến mời gọi họ.
Và nếu đó là Thiên Chúa mời gọi tôi? Tôi sẽ làm gì?
Thế rồi Đức Giêsu đi khắp miền Galilê, giảng dạy trong các hội đường của họ, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền của dân.
Matthêu tóm lược ở đây mọi hoạt động của Đức Giêsu. Thánh sử nói lại nguyên văn câu này trước lúc Nhóm Mười Hai bắt tay vào việc truyền giáo (Mt 9,35). Tôi phải dành thời gian để chiêm niệm trong thinh lặng và kéo dài về Đức Giêsu. Tôi tưởng tượng Người, đang bước đi trên mọi nẻo đường, từ làng này sang làng khác.
Người rao giảng Tin Mừng. Ở đây có từ ngữ "kêrussôn" mà nghĩa theo mặt chữ là cao rao (kêu gào) Tin Mừng. Từ này gợi ý một anh mõ làng (một người rao tin) đến gần để công bố một tin: Nước Thiên Chúa đã đến! Người cũng giáo huấn dạy dỗ. Từ dùng ở đây là "didaskôn" gợi ý một hoạt động được triển khai nhiều hơn và mang tính sư phạm nhiều hơn. Giờ đây chúng ta tưởng tượng Đức Giêsu được vây quanh bởi những kẻ mà người kể cho nghe những dụ ngôn, ví dụ là như thế. Một số nhà chú giải Kinh Thánh nghĩ rằng Đức Giêsu đã sử dụng các phương pháp giảng dạy của các giáo trưởng thời đại Người... tức là bắt họ học thuộc lòng những bản văn mà họ không được quên. Sau cùng, Người chữa lành. Và chúng ta còn ghi nhận từ ngữ Hy Lạp mà người nào biết tiếp Pháp sẽ nhận biết dễ dàng: "thérapeuôn". Đức Giêsu là một người đầy lòng nhân hậu, Người luôn chạnh lòng thương vì tất cả những đau khổ mà Người gặp trên con đường Người đi qua.
Lạy Chúa, xin chữa lành chúng con! Xin cứu chúng con! và làm cho chúng con thành những người cứu độ với Chúa.
62. Tức khắc họ bỏ thuyền mà theo Ngài--Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Từ một thời đại đã chấm dứt đến một thời đại đang bắt đầu.
Phần đầu bài Phúc âm Chúa nhật thứ III hôm nay (câu 12-16) được coi như đoạn kết chương nhập đề của Matthêu. Một đoạn kết đã phác hoạ những đề tài sắp khai triển.
Bắt đầu là một cuộc tĩnh tâm. Đức Giêsu rời bỏ sông Giođan, lui về ẩn ở miền Galilêa. Trong phần tường thuật về thời thơ ấu, Matthêu đã giúp ta làm quen với lối "ẩn dật” chiến thuật này khi gặp đe doạ, bắt bớ. Hãy nhớ lại cuộc chạy trốn sang Ai Cập khi Hêrôđê ra lệnh tàn sát các trẻ vô tội, và khi trở về không về Giuđêa nơi bạo chúa Arkêlaô thống trị, nhưng, để được an toàn, đã về Nadarét, xứ Galilêa. Trong khi Đức Giêsu thi hành sứ vụ, ta sẽ thấy Người "ẩn mình" khi sức ép của địch thù quá căng thẳng, cho đến khi từ nơi ẩn dật Xêsarê Philipphê, Người bắt đầu chuyến đi lên Giêrusalem để đương đầu với đau đớn, khổ nạn.
Nguyên nhân của việc rút vào bóng tối này đã được thánh sử nói rõ: đó là việc Gioan Tẩy Giả bị bắt giữ.
Đó là dấu hiệu kết thúc một thời đại. Thời của Lề Luật và các tiên tri - Gioan Tẩy Giả qua đi có nghĩa là bắt đầu một thời đại mới, thời đại hoàn tất trong Đức Giêsu Kitô. Nhưng cách kết thúc tác vụ của Người Tiền hô đã tiên báo chung cuộc dành cho Đấng mà Ngài có trách nhiệm loan báo việc ngự đến!
Trốn tránh sự thù địch của Hêrôđê Antipas, môi trường hoạt động truyền giáo của Đức Giêsu sẽ là Galilêa. Tên Galilêa có nghĩa là: nơi hội tụ các dân tộc đã phiên dịch chính xác tính chất của miền đất biên giới nơi đủ mọi sắc dân chung sống, tràn ngập ảnh hưởng ngoại lai, vùng đất mà Giuđêa và Giêrusalem nghi kỵ nếu không nói là khinh bỉ.
Matthêu nhìn thấy ở đó cả một biểu tượng. Có chỗ tên gọi đó là miền đất thuộc Zabulon và Nephtali. Thực vậy; từ lâu không còn ai hài tên này ra nữa. Cl. Tassin giải thích: vì đối với các đôc giả của Matthêu cũng như đối với ta, tên ấy đã lỗi thời, không còn ghi trong sử sách. Việc hài tên chỉ cho thấy rằng: cùng với sự khai mạc tác vụ Đức Giêsu tại Galilêa, lời sấm Isaia loan báo từ thời 2 chi họ ấy bị sát nhập vào Assyrie, 734-732 trước Công nguyên, đã được thực hiện; "Dân đi trong tăm tối đã thấy ánh sáng huy hoàng" (bài đọc I Chúa nhật này). Tin Mừng mà Đức Giêsu khởi sự rao giảng tại Galilêa, "nơi hội tụ dân ngoại không phải chỉ dành cho 1 dân tộc, nhưng cho tất cả mọi người, không phân chia, không loại trừ. Như một biểu tượng, Người đã hướng về dân ngoại và những kẻ bị loại trừ.
Cl. Tassin kết luận: "Ta có thế tóm tắt tư tưởng của Matthêu như sau: Đức Giêsu đã chọn Galilêa vì Galilêa tượng trưng cho thế giới dân ngoại. Quả vậy, trung thành với sứ mệnh clta Emanuel được sai đến với nhà Israel, Ngài vẫn ngỏ lời với dân Do Thái. Nhưng biểu tượng vẫn còn đó. Vào thời của tác giả Phác âm, các tên "Zabulon và Nephtali" nhắc lại cảnh lưu đầy, phân tán, vết thương mở ra niềm hy vọng mãnh liệt về một cuộc tập họp toàn thể dân Thiên Chúa. Ta thấy núi Galilêa nơi tất cả mọi người được mời đến tập họp: dựa trên cơ sở nào, bằng cách nào thì bài giảng trên núi sẽ cho ta biết".
2. Một lời làm nổi lên một dân tộc mới.
Câu 17 mở ra một khía cạnh mới của Phúc âm Matthêu, dành cho việc Đức Giêsu khai mạc nước Trời. Một công thức đặc sắc được dùng để dẫn nhập: "Bắt đầu từ đó Đức Giêsu khởi sự..., một công thức mà ta sẽ gặp lại ở 16,21 khi Đức Giêsu khởi hành lên Giêrusalem "Bắt đầu từ lúc đó, Đức Giêsu Kitô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết Người phải lên Giêrusalem, chịu đau khổ rất nhiều vì những bậc trưởng lão, các thầy cả và các luật sĩ sẽ bị giết, nhưng ngày thứ ba, Người sẽ sống lại". Có thể nói rằng, ngay từ khi khai mạc, việc loan báo Tin Mừng đã di vào một lộ trình đau khổ. Trước hết Matthêu trình bày một bản đúc kết các lời giảng của Đức Giêsu, lời giảng này đôi khi nhắc lại lời giảng của Gioan Tẩy Giả: "Hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần đến”.
+ “Nước Trời": Một kiểu nói của người Do Thái, vì kính trọng, nên tránh hài tên Thiên Chúa ra. Riêng Marco đã dứt khoát nói về Triều đại của Thiên Chúa. Triều đại này không ở xa khuất trên mây xanh, nhưng ở "rất gần".
+"Hãy hoán cải ": hiệu quả của Triều đại Thiên Chúa tuỳ thuộc vào sự đón nhận của loài người.
Kế đó, tác giả Phúc âm cho độc giả một cái nhìn bao quát về những hoạt động truyền giáo của Đức Giêsu khởi đầu sứ vụ Galilêa. Di chuyển không ngừng nghỉ (l3, 21, 23, 24) Đức Giêsu tự đưa mình vào hoạt động Người mời gọi đến với Người, bước theo Người, trở nên môn đệ của Người.
+ Trước tiên, "Khi người đi trên bờ hồ Galilêa”. Người kêu gọi các anh em: "Simon còn gọi là Phêrô và Mátthêu hữu ý đặt lên hàng đầu những người được gọi và Matthêu trình bày như khuôn mẫu của những người theo Đức Giêsu "và André em ông", "Jacobê, con Zebede và Gioan em ông”.
Ta có 2 tường thuật ngắn về ơn kêu gọi xây trên cùng một_ kiểu mẫu và hiển nhiên cảm hứng từ 1 Các vua 19,19: Êlia kêu gọi Êlisêô.
Đức Giêsu thấy có người. Đó là những ngư phủ đánh cá trong hồ.
Người bảo họ: Hãy theo Ta. Lập tức họ bỏ thuyền, bỏ lưới mà theo Người.
Cấu trúc 2 vế này có ưu điểm là làm nổi bật vừa sáng kiến của Đức Giêsu, Người kêu gọi, vừa câu trả lời nhanh nhẹn không ngần ngại của những người được gọi.
Đức Giêsu không chỉ muốn biến những người mà Người gọi đã bỏ nghề nghiệp mà theo Người thành những người ngưỡng mộ đơn sơ hoặc những thính giả thăm chú nghe giáo huấn của Người. Nhưng Người muốn họ trở thành những người cộng tác với người trong việc chinh phục con người: hãy theo Ta, Ta sẽ biến các người thành những kẻ chinh phục con người.
Claude Tassin giải thích: "Kiểu nói "chài lưới người ta đã ngầm loan báo sứ mạng Kitô hữu, thánh sử đã nhấn mạnh một điểm: Làm môn đệ chính là làm nhà truyền giáo. Ở đây, Đức Giêsu kêu gọi các môn đệ, những người sẽ nghe lời Thầy Chí Thành và sẽ chứng kiến việc Người làm. Phêrô, Anrê, Gioan, Giacôbê quả là những tên gọi cao cả đối với Kitô hữu thuộc thế hệ thứ hai. Nhưng, Matthêu, ta kính trọng ký ức của họ ủi họ đã từng là môn đệ, đã được kêu gọi vô điều kiện bởi Đấng khai mạc Nước Trời".
+ Sau đó, toàn miền Galilêa trở thành diễn trường cho Đức Giêsu rao giảng. Được cải hoá nhờ Tin Mừng, được chữa lành khỏi bệnh tật, những người trước kia không thể bước đi nay bắt đầu đi lại và tạo thành một "dân tộc ": tại miền "Galilêa, nơi hội lụ dân ngoại', đã manh nha một dân mới của Thiên Chúa thuộc mọi chủng tộc mọi ngôn ngữ, mọi nước và mọi dân phát sinh nhờ lời rao giảng Tin Mừng.
BÀI ĐỌC THÊM
1. Bình minh của hy vọng
(Mgr. L. Daloz, Le Régne de cieux s’est approché).
Đức Giêsu vào cuộc có nghĩa là ánh sáng đến với nhân loại. Trích dẫn Isaia không đơn thuần đem lại một chỉ dẫn về địa lý. Đó là một biểu tượng: là lối thoát của dân tộc Do Thái, sinh ở Bêlem, vì là dòng dõi David, trở thành người Galilêa ở Nazareth, Đức Giêsu đến đón rước các dân tộc. Tức thì sứ mệnh của Người mang lấy dáng vóc phổ quát. Tự bản thân chúng ta cũng phải cúi chào tia sáng đầu tiên này loé lên soi cho các dân đang sống trong bóng tối: Đức Giêsu đến gặp gỡ ta, đó là khởi đầu ơn cứu độ của ta, là bình minh của niềm hy vọng. Ta chiêm ngưỡng vẻ đẹp của ánh bình minh này với lòng biết ơn rồi làm sống lại trong ta cảm giác kỳ diệu khám phá ra Đức Kitô, ánh sáng bừng lên soi chiếu vào mắt ta. Vâng, đối với ta vì cả mọi dân tộc, ánh sáng chính là Lời nói lạ lùng mà Phúc âm không cho ta biết đối tượng: Từ lúc ấy, Đức Giêsu bắt đầu rao giảng: hãy năn sám hối, vì Nước Trời đã gần đến. Lời của Giêsu trên vũ trụ, vượt qua những biên cương của vùng đất hứa cho dân của Giao ước cũ, biến cả thế giới thành vùng đất hứa của Nước trời. Những nỗ lực và lực và toan tính của các vị truyền giáo đều phát xuất từ một lời duy nhất này. Bây giờ đến phiên chúng ta phải chuyển nhữngg từ Phúc âm tạo âm vang cho lời kêu gọi đầu tiên của Đức Giêsu khi Người đứng trước miền Galilê của các dân tộc, trên bờ sông thế giới.
2. Cuộc phiên lưu vĩ đại khởi đi từ một vùng đất bị khinh khi.
Đối với dân thủ đô, Galilêa chỉ là tỉnh lẻ. Đối với ai mộ đạo sùng tín, miền Bắc thực đáng ngờ vực. Đó là rniền hầu như thuộc ngoại bang, nơi hội tụ dân ngoại. Một dân cư pha tạp, nông dân và ngư dân có giọng nói nặng phịch vốn là đề tài phong phú cho các câu chuyện giễu cợt hằng ngày.
Trong khi những tín đồ chính thống ở kinh đô nghiền ngẫm sự khinh khi, chiêm ngưỡng sự siêu việt của mình, chế diễu và tránh xa những người bị loại trừ ở phía Bắc, thì Đức Messia Cứu Chúa, ánh sáng muôn dân, "tới cư ngự' tại Capharnaum, bên bờ hồ". Xa khỏi kinh đô vĩnh hằng, khỏi thói ngạo mạn, tự tôn, và sự mù quáng của họ. Gioan Tiền hô, vị ngôn sứ của lòng thống hối, đã trở thành kẻ sách nhiễu, gây rối. Ông bị chém đầu. Từ đó Tin Mừng bị nghi ngờ và sứ giả Tin Mừng bị theo dõi gắt gao...Nhưng Đức Giêsu đã gặp những tâm hồn cởi mở đón tiếp nơi những người hiếu động và bé nhỏ nhất của dân Người.
Chính trên bờ hồ chứ không phải trên các bậc cấp của đền thờ, giữa đám ngư phủ bận rộn công việc chứ không phải nơi những vị tư tế chuyên lo phụng tự mà Đức Giêsu sẽ chọn các môn đệ của Người. Đúng là một nước cờ ngược lại mọi lôgic. Chính những người ít khả năng nhất, ít được chuẩn bị nhất lại là những người đầu tiên nhận được ánh sáng và đi theo Đấng là "Đường, và Sự Thật và là Sự Sống”.
Ngay tức khắc, thành phần lao động đơn sơ chất phác nhưng có trái tim nhạy bén đã tin tưởng vào ngôn sứ, người rao giảng chẳng có danh nghĩa chính thức, người chạy trốn chính quyền hợp pháp câu nệ thói tục và lối giải thích của họ. Những người tội lỗi bỗng nhiên bị chất vấn, đã cảm thấy ánh sáng mà ngay những kẻ rắc rối khó tính nhất cũng phải nhượng bộ... và họ đã đi theo Người. Cuộc phiêu lưu vĩ đại đã khởi đi từ một miền đất bị nguyền rủa. Thế giới đổi mới đã ăn rễ sâu vào vùng đất nhơ uế, nhưng cởi mở đón tiếp mọi bất ngờ của Thánh Thần, của Thiên Chúa...
Hôm nay cũng thế, Đấng Phục Sinh vẫn tiếp tục sứ mệnh của Người không theo cách người ta nghĩ. Người tỏ mình ra dạy dỗ, và kêu gọi không theo những chuẩn mực hay lý luận của người phàm chúng ta. Không khác gì vào thời của Đền Thở, Đức Giêsu không chỉ giam mình trong các truyền thống nhân loại, trong các tính toán của các chuyên gia, trong phán quyết của các quyến lực Người không bị giam hãm trong Giáo Hội của Người, Giáo Hội đang bị chia rẽ, nơi người thì tự cho mình là thuộc phe Phaolô và Giacôbê, Anrê, Matthêu như thể kitô đã bị chia cắt và như thể là giáo huấn của người không quan trọng bằng giáo huấn của môn đệ Người. Trong khi con cái trong nhà cãi cọ, xâu xé thân thể mầu nhiệm Đức Kitô và đóng đinh Người, Người chạy đến nơi "hội tụ dân ngoại và tìm được sự tiếp đón nồng hậu, tìm được môn đệ trong đám người bị khai trừ và những người sống ngoài lề xã hội.
63. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
TRỞ VỀ GALILÊ VÀ KÊU GỌI CÁC MÔN ĐỒ ĐẦU TIÊN
CÂU HỎI GỢI Ý
1) Thành ngữ “Galilê các dân ngoại (4,15) gợi lên điều gì đối với người đương thời của Chúa Giêsu và Matthêu? Phải chăng đó là một sự khai mở có tính cách phổ cập, theo viễn tượng đã được phác họa ở chương 2?
2) Matthêu muốn diễn tả gì khi đặt ngay đầu sứ vụ Chúa Giêsu trình thuật quá giản lược về việc gọi bốn môn đồ đầu tiên (4, 18-22)? Đặc biệt đâu là mối liên lạc giữa nó với bản toát lược hoạt động của Chúa Giêsu (4, 23-25) và với diễn từ kế tiếp (ch. 5-7)?
Xét về phương diện văn chương, đây là một bản toát lược trước hoạt động của Chúa Giêsu suốt cả giai đoạn tương ứng với phần đầu Tin Mừng Matthêu (4, 18-16, 20) Matthêu trình bày cho thấy Người khai mạc sứ vụ tại Galilê, sau biến cố quyết định là việc tống giam Gioan Tẩy giả. Chính trong giai đoạn sứ vụ tại Galilê này mà các tác giả Nhất Lãm đã thu gộp lại điểm chính yếu của những gì các ông tường thuật về ngôn hành của Chúa Giêsu.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
* "Nghe tin Gioan bị tống giam", dịch sát chữ: "Nghe nói Gioan đã bị nộp" (so sánh với Mt 10, 4; 17,22; 20, 18-19; 26, 2: trong tất cả các đoạn vừa kể, Matthêu dùng chữ "bị nộp", parêdothê để nói về Con Người như ở đây, điều đó ngụ ý Gioan Tẩy Giả và Chúa Giêsu có chung một số phận): Thể thụ động ngầm bảo rằng biến cố xảy ra do ý muốn Thiên Chúa; chương trình của Thiên Chúa hoàn tất nơi Gioan, như nơi Chúa Giêsu sau này. Hơn nữa, cả hai sứ vụ đều liên kết làm một trong chương trình Thiên Chúa: Chúa Giêsu khởi đầu hoạt động công khai của Người vào lúc Thiên Chúa chấm dứt hoạt động Gioan.
* "Người trở lại", dịch sát chữ: "Người lui về" (anachoreô): Tại Giuđê, Chúa Giêsu như ở trong pháo đài của Do thái giáo chính thức, mà đại diện là nhóm Saducêo và Biệt phái. Hạng người sau, tích cực hơn dịch thủ họ nhiều, hằng quan tâm gây ảnh hường tôn giáo trên dân và tỏ ra nghi ngại những ai không xuất thân từ trường của họ. Để chống lại Chúa Giêsu, họ đã vạch trần gốc tích Galilê của Người (x. Ga 7,52: "Không một ngôn sứ nào đến từ Galilê cả"). Việc tống giam Gioan Tẩy giả có thể đã khuyến khích họ loại trừ Người nữa luôn. Thấy mình ở trong một vùng bất an, Chúa Giêsu có lẽ đã quyết định khai mạc thực sự sứ vụ Người tại Galilê. Trong vùng này, là vùng cách biệt Giuđê về phương diện địa dư và chính trị, ảnh hưởng của Hội đồng Công tọa và của Biệt phái khá yếu ớt. Khi lại sử dụng ở đây động từ anachoreô (rút lui, lui về) có lẽ Matthêu muốn ngụ ý (như ở 2,12; 9,24; 12,15; 15,21 v.v) rằng sự cứng lòng của miền Giuđê (do ảnh hưởng Biệt phái), biểu lộ qua việc khước từ Gioan Tẩy giả, đã bắt buộc Chúa Giêsu phải ngỏ lời với "Galilê của dân ngoại”.
* "Rời Nadarét", dịch sát chữ: "Bỏ Nadarét", không có nghĩa là Chúa Giêsu, khi trở về Galilê, viếng Nadarét trước rồi sau đó bỏ quê hương. Matthêu chỉ nhấn mạnh Người “không" muốn chọn quê hương mình như khởi điểm xuất phát sứ vụ, nhưng là Capharnaum. Chi tiết này chắc hẳn không phải chỉ là một chú thích địa dư. Nó nhắm chuẩn bị cho sấm ngôn Isaia nơi các 13-14, y như chi tiết “ven bờ biển" vậy.
* "Trong địa hạt Dabulôn và Nepthali": Capharnaum ngày xưa nằm trong vùng định cư của hai bộ lạc Dabulôn và Nepthali (Gs 19, 10-16. 32-39). Vào thời Chúa Giêsu, không còn lối phân chia lãnh thổ như thế nữa; do đó sẽ chẳng hiểu được lời quy chiếu này nếu không có câu trích dẫn Isaia đi liền theo sau đề cập tới đất Dabulôn và đất Nepthali.
Sở dĩ Matthêu muốn móc nối với Isaia ở câu 14 như vậy, là vì muốn trả lời cho một vấn nạn về Galilê, khởi điểm và sân khấu chính của hoạt động Chúa Giêsu. Tại sao Chúa Kitô đã dành phần lớn thời gian Người cho cái vùng heo hút này, nơi đã chẳng có một ngôn sứ nào của Thiên Chúa xuất thân? Thưa vì theo kế đồ Thiên Chúa (được công bố qua sấm ngôn Isaia), Đấng Messia phải thi hành sứ vụ Người tại Galilê.
Các câu 15-16 trích dẫn Is 8,23 - 9,1 là đoạn trực tiếp liên hệ đến hay bộ lạc cổ Israel dã chiếm giữ phần lớn miền Galilê và đã bị quân Assyri sáp nhập năm 734. Dưới ách Hy-Lạp vào thời các vua nhà Séleucos, họ bị dân ngoại bao vây tứ bề. Công cuộc giải phóng mà ngôn sứ loan báo cho họ, Matthêu thấy được thực hiện trong sứ vụ Chúa Giêsu; Thật vậy, trong Isaia 8 và 9, không chỉ có vấn đề giải phóng quân sự và chính trị, nhưng còn giải phóng khỏi "tối tăm" và “sầu khổ" do việc các bộ lạc cổ ấy hoàn toàn bị lương dân xâm nhập. "Galilê các dân ngoại" là tên biểu thị đám dân hỗn tạp của vùng Galilê này, đối nghịch với chủng tộc tinh tuyền của miền Giuđê. Ở đây "Galilê các dân ngoại" xuất hiện như biểu tượng của việc triệu tập phổ quát: đó là đất hứa được phô bày cho Chúa Giêsu, Israel đích thực, sau thời gian Người cư trú ở hoang địa và vượt qua sông Giođan. Ta gặp nơi đây một trong các chủ đề ưa thích của Matthêu: sứ vụ của Chúa Giêsu trước tiên được dành cho "các chiên lạc nhà Israel" (10,6; 15,24) nhưng vẫn liên hệ sâu xa với dân ngoại. Câu "Dân ngồi trong tối tăm" tóm tắt một cách tượng trưng tình trạng ngoại giáo hóa ấy của vùng Galilê, tức tình trạng thiêng liêng của những người Do thái trong vùng. Một ánh sáng lớn lao": "ánh sáng" xuất hiện ở đây tại Galilê và tỏ lộ cho các môn đồ trong cuộc Biến Hình (17,2) là ánh sáng tiên báo cuộc Phục sinh của Chúa Kitô.
* "Từ bấy giờ, Chúa Giêsu bắt đầu...": câu này đánh dấu khởi điểm chính thức của sứ vụ Chúa Giêsu và sự viên mãn của thời gian. Thành ngữ sẽ chỉ trở lại nơi 16,21 để loan báo cuộc khởi hành của Chúa Giêsu tiến về Giêrusalem để chịu tử nạn. Do đó, đối với Matthêu, việc loan báo Nước Trời đã nằm vào trong lộ trình đau khổ.
* "Hãy hối cải vì Nước Trời đã gần bên": Kiểu nói tổng hợp này của Matthêu giống y kiểu nói ở 3,2 (Gioan Tẩy giả) và ở 10,7 (huấn thị cho môn đồ sắp đi truyền giáo). Nó khẳng định tính cách liên tục giữa việc rao giảng của Gioan, là bước chuẩn bị cho việc Chúa Giêsu rao giảng, với việc rao giảng của các môn đồ, là sự tiếp nối sứ điệp của Thầy họ.
Thành ngữ lạ lùng "Nước Trời" (hầu hết như vậy trong Matthêu) phản ảnh não trạng Do thái đương thời, cái não trạng tránh đọc tên Thiên Chúa vì tôn kính Ngài. Như thế có lẽ nó sao lại thành ngữ Chúa Giêsu đã dùng. Còn "Nước Thiên Chúa " (Mc và Lc) hình như phát xuất từ việc sửa đổi thành ngữ nguyên thủy để thích ứng với thế giới Hy lạp. Chủ đề này có nét nổi bật là quyền cai trị của Thiên Chúa và do đấy đương nhiên bao hàm ý tưởng một cộng đoàn được Thiên Chúa điều khiển. Chúa Giêsu đã công bố Nước Thiên Chúa ấy sẽ đến (Mc 14,25; Lc 11,2..) nhưng cũng đã tới rồi trong sứ vụ và trong bản thân của Người (Lc 7, 18-23; 10,23tt...). Hai lý thuyết cực đoan hiện thời, cánh chung luận tương lai (hậu kết) vây cánh chung luận hiện tại, đều đưa vào loạt bản văn đầu hay loạt bản văn sau (về ý niệm nước Trời" này, xin xem chú thích dài của BJ).
Eggiken, thì quá khứ của động từ eggizô, là một trong những tiếng của Tân Ước được tranh luận nhiều nhất hiện nay. Phải dịch nó là "đã gần bên” hay "đã tới rồi”? Eggizô (do egguạ, "gần ") tự nó có nghĩa là "đến sau, tới gần", nghĩa tán trợ cho lối dịch thứ nhất. Song C.H.Dodd lại quả quyết eggiken là tiếng phiên dịch. từ một động từ Aram có nghĩa "đến, đạt thấu". Lối giải thích của Dodd, "Nước trời đã tới", cũng có thể đúng, nhưng phần lớn các nhà chú giải thích kiểu dịch "Nước Trời đã gần" hơn.
* "Hãy hối cải": Việc Chúa Giêsu khai mạc Nước Trời tạo thành giây phút tột đỉnh của lịch sử cứu rỗi. Trước lời mời gọi ấy của Thiên Chúa, mỗi người đều bị bó buộc phải dứt khoát chọn lựa. Việc đáp lại lời Ngài phải biểu lộ ra bằng lòng thống hối và đức tin.
Việc kêu gọi các môn đồ đầu tiên (cc.18-22) được tường thuật lại với thể văn "kêu gọi ngôn sứ" của Cựu Ước, chẳng hạn việc Elia kêu gọi Elidê (IV 19, 19): Trình thuật này hoàn toàn loại trừ khía cạnh tâm lý (như cảm xúc của những kẻ được gọi, việc nhấn mạnh đến tính cách nghiêm trọng của giờ v.v...) để làm nổi bật lời kêu gọi của vị Tôn sư và câu đáp trả đầy gắn bó tin tưởng của các môn đồ. Do đấy có thể bảo bản phác họa này vẽ ra mối tương quan kiểu mẫu giữa Chúa Giêsu và người môn đồ lý tưởng, kẻ từ bỏ mọi sự không chút do dự hay biện bạch để theo Người ngay từ lời mời gọi đầu tiên. Chúa Giêsu chỉ đòi hỏi các môn đồ tương lai trước hết hãy sống với Người và theo Người. Công việc tông đồ của họ sẽ bắt đầu sau này, lúc họ đã chứng kiến cuộc Tử Nạn-Phục Sinh của Người (trái lại Mc 6, 12-13 và Lc 9,6 thì có tường thuật một chuyến truyền giáo của các môn đồ trước Tử Nạn-Phục Sinh; Matthêu im lặng có lẽ vì muốn nhấn mạnh tính cách độc nhất của con người vị Tôn sư) Các sứ đồ sẽ thành "ngư phủ bắt người", nghĩa là thành kẻ rao giảng và chứng nhân Nước Trời. Thành ngữ này có lẽ ám chỉ tới một sấm ngôn của Edêkien (Ed 47,10). Dầu sao, có thể bảo rằng, theo một ý nghĩa nào đó, Nước Trời đã như được thiết lập qua việc gọi các môn đồ đầu tiên ấy, vì Nước Trời tự bản chất là một cộng đoàn gồm những người quy tụ quanh Chúa Giêsu trong mối thông hiệp với Chúa Cha.
* "Khắp xứ Galilê": Việc du hành thuyết giáo này của Chúa Giêsu tương ứng với một khía cạnh quan trọng trong sứ vụ của Người; Người không nhắm mục đích xây dựng một nguyện đường khép kín với một nhóm môn đồ như các giáo sĩ, cũng chẳng phải là quy tụ các kẻ tinh tuyền vào sa mạc như ông Thầy phái Essêni, song là rao giảng cho toàn dân trong khắp xứ.
* "Giảng dạy... chữa lành": Lối tiếp liên này, được dùng lại với cùng những hạn từ trong 9,35, cho thấy phải hiểu cơ cấu toàn bộ của Tin Mừng Matthêu ra sao. Trái với quan niệm của nhiều nhà chú giải thừa nhận kiểu tiếp liên trình thuật-diễn từ vì muốn lấy các chương 5 - 7 soi sáng 3 - 4, và chương 10 soi sáng 8-9), hình như ta có thể bảo: qua thành ngữ "giảng dạy... chữa lành”, Matthêu muốn gợi ý rằng lối tiếp liên diễn từ-trình thuật là cơ cấu của Tin Mừng của ông, nên phải lấy các chương 8- 8, thay vì 3- 4, để soi sáng 5- 7, và lấy 11- 12 soi sáng chương 10 v.v.. Thật vây việc giải thích toàn bộ Matthêu theo cách thứ hai này xem ra thỏa đáng hơn nhờ ánh sáng của các cuộc nghiên cứu gần đây theo chiều hướng đó (Krentz, Rolland, Radennakers v.v...).
* "Chữa lành mọi tật nguyền bệnh hoạn": ý tưởng "Thiên Chúa bảo vệ kẻ công chính và cho họ khỏi bệnh tật rủi ro" đầy dẫy trong văn chương khải huyền thời Chúa Giêsu (x. Thánh vịnh Salomon). Thành thử hoạt động chữa bệnh của Người đáp lại một nỗi mong chờ nào đó của dân chúng, và đặc biệt thực hiện lời tiên báo của Isaia mà Matthêu áp dụng cho Chúa Giêsu (8,17) về Người Tôi Tớ mang lấy bệnh tật dân mình (53,4): Chính vì sấm ngôn ấy, mà quyền lực chữa bệnh của Chúa Giêsu làm cho địch thù Người khó chịu: bị bắt buộc phải thừa nhận sự kiện, họ không còn cách gì hơn là gán việc đó cho Bêelzêbul (12,24). Đừng tổng quát hóa lời minh xác Chúa Giêsu chữa lành mọi bệnh nhân; toàn bộ trình thuật Tin Mừng cho thấy Người không nhắm mục đích chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền, như thể muốn cho thiên hạ hưởng nhờ quyền năng làm phép lạ của mình nhiều ngần nào có thể; đúng ra Người chỉ chữa trị một vài bệnh nhân để mặc khải ý nghĩa Nước Trời và uy quyền riêng của Người.
KẾT LUẬN
Trái với Gioan Tẩy Giả chuyên đứng bên bờ sông Giođan để làm phép rửa cho những kẻ đến với ông, Chúa Giêsu, ngay từ đầu sứ vụ, đã tỏ ra là một diễn giả lưu động, rảo khắp miền Galilê và đâu đâu cũng tuyên bố Nước Trời đến gần. Người muốn mình tức khắc là Mục Tử tốt nao nức đi tìm "chiên lạc nhà Israel". Và vì ưu tư đảm bảo hiệu lực lâu bền cho công việc mình, Người đã quy tụ ngay các "ngư phủ bắt người". Đầu tiên để họ tiếp tục việc loan báo Nước Trời khắp nơi, cho mọi người thuộc mọi thời đại.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Ngày nay Chúa vẫn còn loan báo Nước Người cho ta qua việc công bố Lời Người giữa lòng cộng đoàn phụng vụ. Ta biết rằng cách thức nghe lời đó là "hối cải", là tiêu trừ những gì đê tiện, của lòng mình, là mở rộng con tim theo những viễn tượng, phổ quát của Người. Bấy giờ, việc loan báo ấy sẽ chữa lành tâm hồn ta và đổ vào đó một niềm hân hoan vĩ đại. Ta sẽ vượt lên khỏi chính mình và khám phá được ánh sáng rạng ngời của Thiên Chúa.
2) Chẳng phải các môn đồ đã chọn Chúa Giêsu, song chính Người đã chọn gọi họ, đã bắt lấy họ nơi họ đang làm lụng, nơi họ bận rộn với công việc trần thế. Ngày nay cũng vậy Chúa Kitô đến tìm ta giữa công việc, niềm vui, nỗi nhọc của ta. Người muốn lôi ta theo Người không phải bằng cách đòi ta bỏ mọi sự để rao giảng Nước Trời (điều ấy, Người chỉ xin một vài kẻ thôi) nhưng một cách thiêng liêng bằng cách yêu cầu ta từ bỏ chính mình, bỏ lòng ích kỷ và chai đá, để sống với Người cuộc sống hằng ngày của ta trong siêu thoát và tình yêu.
3) Việc hối cải Chúa Giêsu yêu cầu không phải là một cái gì có thể hoàn thành trong giây lát, trong một ngày và một lần thay cho tất cả. Chắc chắn ngay lúc đầu nó đòi hỏi một sự kiên định lập trường và đôi lúc một sự cắt đứt đau đớn. Nhưng nhất là nó đòi hỏi một cuộc lấy lại không ngừng chính mình để kiên nhẫn và khiêm tốn đi theo Chúa Giêsu, cho dù yếu đuối đến đâu. Vì tiếng nói của Chúa Giêsu vẫn luôn vang vọng trong cuộc đời chúng ta: "Hãy theo Thầy".
64. Tích cực giãi ánh sáng tin yêu cho tha nhân--Lm Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH:
Nghe tin Gio-an Tẩy Giả bị nộp, Đức Giêsu từ Giê-ru-sa-lem lui về Ga-li-lê để tránh bị theo dõi, và hoạt động trong môi trường có nhiều dân ngoại như Ngôn sứ I-sai-a đã tiên báo. Người chọn thành Ca-phác-na-um làm trung tâm truyền giáo và từ đây Người đi các nơi rao gảng Tin Mừng Nước Trời. Nội dung các bài giảng được tóm lại như sau: "Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã gần đến". Đức Giêsu cũng chọn 4 môn đệ đầu tiên gồm 2 đôi anh em. Một là Si-mon Phê-rô và An-rê đang thả lưới trên biển hồ. Hai là Gia-cô-bê và Gio-an đang vá lưới trong thuyền cùng với cha và các người làm công. Vừa nghe Đức Giêsu kêu gọi, các ông đã lập tức bỏ nghề lưới cá và từ giã người thân để cộng tác trong sứ vụ loan báo Tin Mừng Nước Trời.
CHÚ THÍCH:
- C 12-13: + Nghe tin ông Gio-an đã bị nộp: Thánh Mát-thêu dùng từ "bị nộp" thay vì "bị bắt" khi nói về Gio-an, giống như khi nói về Đức Giêsu (x. Mt 10,4; 17,22; 26,2). Qua đó cho thấy số phận của Gio-an giống như Đức Giêsu. Dùng từ "bị nộp" ở thể thụ động là có ý nói biến cố xảy ra là do ý của Thiên Chúa. Đức Giêsu bắt đầu rao giảng khi Gio-an chấm dứt sứ mạng tiền hô dọn đường. + Người lánh qua miền Ga-li-lê: Khác với Gio-an Tẩy Giả, Đức Giêsu lui về Ga-li-lê là vùng đất có nhiều dân ngoại sinh sống, để khởi sự rao giảng Tin Mừng. Cũng tại Ga-li-lê, Người sẽ quy tụ các môn đệ lần cuối cùng để sai đi khắp thế gian, tiếp tục sứ mạng mà Người khởi sự hôm nay. + Người bỏ Na-da-rét đến ở Ca-phác-na-um: Đức Giêsu đã không chọn quê hương Na-da-rét, nhưng chọn Ca-phác-na-um để bắt đầu sứ mạng rao giảng. + Một thành ven biển hồ Ga-li-lê: Thành Ca-phác-na-um nằm trong vùng đất định cư của hai chi tộc Dơ-vu-lun và Náp-ta-li (x. Gs 19,10.32-39).
- C 14-16: + Để ứng nghiệm lời Ngôn sứ I-sai-a nói: I-sai-a tiên báo vùng Ga-li-lê thuộc hai chi tộc Dơ-vu-lun và Náp-ta-li, không những được thoát ách thống trị của quân Át-sy-ri về chính trị quân sự, mà còn được giải phóng khỏi cảnh "tối tăm sầu khổ" do bị dân ngoại chiếm cứ. + Hỡi Ga-li-lê miền đất của dân ngoại: Ga-li-lê là nơi bị khinh dể vì là vùng đất có nhiều dân ngoại sống chung với dân Do thái, và chưa có vị ngôn sứ nào xuất thân ở đó (x. Ga 1,46). Điều này nằm trong chương trình hành động của Đấng Thiên Sai đã được Ngôn sứ I-sai-a báo trước. + Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm: Mát-thêu ứng dụng việc Đức Giêsu đến làm cho miền đất này khỏi bóng tối sự chết bằng việc rao giảng Tin Mừng Nước Trời. "Ánh sáng huy hoàng" là chính Đức Giêsu biểu lộ khi Người hiển dung trên núi cao (x. Mt 17,2), và tiếp tục chiếu rọi khi Chúa Phục Sinh hẹn gặp các môn đệ để sai họ đi truyền giáo (x Mt 28,16-20).
- C 17-18: + Từ lúc đó, Đức Giêsu bắt đầu rao giảng và nói: Đối với Mát-thêu thì đây là thời điểm Đức Giêsu bắt đầu thi hành sứ mạng cứu thế tại Ga-li-lê. Lời giảng được Mát-thêu tóm gọn trong câu: "Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần". Đây cũng là nội dung mà Đức Giêsu truyền cho các môn đệ khi sai các ông đi truyền giáo (x. Mt 10,7). + "Anh em hãy sám hối": Câu này giống như lời rao giảng của Gio-an Tẩy Giả trước đó (x. Mt 3,2). + Vì Nước Trời đã đến gần: Nước Trời, hay cũng gọi là Nước Thiên Chúa. Vì Mát-thêu viết Tin Mừng cho người Do thái, nên tránh gọi tên Thiên Chúa để biểu lộ lòng kính trọng Thánh Danh của Người như điều răn thứ hai dạy: "Chớ kêu tên Đức Chúa Trời vô cớ". Nước Thiên Chúa là một cộng đoàn do Thiên Chúa cai quản. Nước này đã tới gần trong con người và sứ vụ của Đức Giêsu. + Biển hồ Ga-li-lê: Là một biển hồ hình quả trám dài 21 cây số, rộng 12 cây số, cũng có tên là hồ Giê-nê-sa-rét hay Ti-bê-ri-a. + Si-mon cũng gọi là Phê-rô: Si-mon là tên của ông Phê-rô trước khi theo Đức Giêsu. Đức Giêsu đã đổi tên Si-mon thành Phê-rô nghĩa là "Tảng Đá" (x. Mt 16,18).
- C 19-20: + Kẻ lưới người như lưới cá: Đức Giêsu sẽ trao sứ mạng đánh lưới các linh hồn của người ta, giống như việc chài lưới bắt cá trên biển. + Lập tức bỏ chài lưới: Đây là thái độ dứt khoát và mau mắn đáp lại lời mời gọi của Đức Giêsu: bỏ nghề cũ để theo nghề mới.
- C 21-23: + Gia-cô-bê: Có hai Tông đồ tên Gia-cô-bê. Đây là Gia-cô-bê theo Chúa trước nên được người ta gọi là Gia-cô-bê Tiền, phân biệt với Gia-cô-bê Hậu theo Chúa sau. Gia-cô-bê và em là Gio-an cùng Si-mon Phê-rô làm thành nhóm ba người thân tín của Đức Giêsu. Nhóm này được luôn theo sát Đức Giêsu và được chứng kiến Người hiển dung trên núi cao (x. Mt 17,1). Trong cuộc khổ nạn, ba người này cũng được đi theo Người vào vườn Ghết-sê-ma-ni chứng kiến Người cầu nguyện trước khi bị bắt đang khi các ông khác phải ở ngoài vườn (x. Mt 26,37-46). + Lập tức các ông bỏ thuyền bỏ cha...: Cũng như Si-mon và An-rê đã bỏ ngay nghề cũ, Gia-cô-bê và Gio-an cũng dứt khoát từ bỏ tài sản là thuyền, và từ giã người thân là cha già mà đi theo làm môn đệ Đức Giêsu. + Đức Giêsu đi khắp miền Ga-li-lê: Việc truyền giáo cần phải năng động. Đức Giêsu và các môn đệ phải đi khắp miền Ga-li-lê rao giảng Tin Mừng Nước Trời. + Chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền của dân: Viêc chữa bệnh kèm theo việc rao giảng Tin Mừng vì là dấu chỉ thời đại Thiên Sai đã bắt đầu (x. Mt 10,8; 11,4-5).
CÂU HỎI:
1) Tại sao Mát-thêu dùng kiểu nói "Sau khi Gio-an bị nộp" thay vì "bị bắt"? 2) Gio-an Tẩy Giả rao giảng phép rửa sám hối tại miền nào, và Đức Giêsu khởi sự rao giảng Tin Mừng Nước Trời tại miền nào? 3) Đức Giêsu đã làm gì để chiếu soi ánh sáng huy hoàng của Người vào miền Ga-li-lê đang ở trong bóng tối sự chết? 4) Lời giảng của Đức Giêsu được tóm lại trong câu nào? 5) Tại sao Mát-thêu dùng từ "Nước Trời đã đến gần" thay vì "Nước Thiên Chúa đã đến gần" như Lu-ca? 6) Bạn biết gì về biển hồ Ga-li-lê? 7) Phê-rô là ai? Tên Phê-rô nghĩa là gì và ông được Đức Giêsu đổi tên khi nào? 8) Trong Nhóm 12 có mấy ông tên Gia-cô-bê? Hai ông Gia-cô-bê được phân biệt theo Chúa trước và sau thế nào? 9) Noi gương bốn môn đệ đầu tiên, ngày nay chúng ta nên làm gì khi được Chúa mời gọi đi theo Chúa? 10) Đức Giêsu nêu gương nhiệt tình đi loan báo Tin Mừng ra sao? Người thi hành sứ mạng bằng những công việc gì?
II. SỐNG LỜI CHÚA:
1. LỜI CHÚA: "Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha anh em, Đấng ngự trên trời" (Mt 5,16).
2. CÂU CHUYỆN: ĐỨC GIÁO HOÀNG PHAN-XI-CÔ ''NHÂN VẬT CỦA NĂM'' 2013
Gần đây vào ngày 11 tháng 12 năm 2013, tạp chí Time, một tờ tuần báo Mỹ có uy tín hàng đầu thế giới, đã bình chọn Đức giáo hoàng Phan-xi-cô là nhân vật của năm 2013 với lời ca ngợi rằng chỉ trong 9 tháng đứng đầu Giáo hội Công giáo, ngài đã đem đến một tiếng nói và một nhận thức mới. Nhờ lối sống khiêm tốn giản dị và tầm ảnh hưởng tinh thần lớn lao ngài đã làm bừng lên một mùa xuân mới trong Giáo Hội Công giáo hoàn cầu, đặc biệt tại các nước Âu Mỹ. Giới truyền thông thế giới đã đặt cho ngài những danh hiệu cao quý như: "Giáo Hoàng của Người Nghèo"; "Giáo Hoàng của Quần Chúng"...
Theo Telegraph, Đức giáo hoàng Phan-xi-cô đã đánh bại các nhà lãnh đạo thế giới và người làm rò rỉ các bí mật động trời là Edward Snowden, để giành giải "Nhân vật của Năm" do tờ tạp chí danh tiếng Time bình chọn. Dù mới chỉ đảm nhiệm vai trò năm đầu tiên, cựu hồng y người Ác-hen-ti-na đã được ban biên tập của tạp chí Time chọn là người có ảnh hưởng nhất thế giới năm 2013.
Bà Nacy Gibbs, thư ký tòa soạn của tờ Time giải thích: "Hiếm khi nào một người mới xuất hiện trên thế giới đã lập tức thu hút được sự chú ý từ người già lẫn người trẻ, người sùng đạo lẫn người ngoại đạo, như Giáo hoàng Phan-xi-cô", Giáo hoàng năm nay 76 tuổi, tên thật là Jorge Mario Bergoglio, sinh tại Bunenos Aires nước Ác-hen-ti-na. Ngài được tấn phong làm Tổng giám mục vào năm 1998, rồi trở thành Hồng y năm 2001 và đắc cử chức vụ Giáo hoàng trong cuộc mật nghị tại Vatican vào ngày 13 tháng 3 năm 2013, thay cho Giáo hoàng Bê-nê-đích-tô 16 xin về hưu. Giáo hoàng Phan-xi-cô nổi tiếng vì sự khiêm nhường và cam kết vì người nghèo từ rất lâu trước khi trở thành nhà lãnh đạo của Giáo hội Công giáo.
Đầu tháng này, tạp chí Time đã thu hẹp danh sách chung kết gồm 5 người, trong đó có Tổng thống Syria Bashar Assad, Thượng nghị sĩ bang Texas Hoa Kỳ Ted Cruz và Nhà hoạt động vì quyền của người đồng tính Edith Windsor. Người thứ hai trong danh sách Nhân vật của Năm là Edward Snowden, cựu nhân viên Cơ quan An ninh Quốc gia Mỹ (NSA), người tiết lộ chương trình theo dõi bí mật của chính phủ Mỹ, hiện đang xin tị nạn chính trị tại Nga. Tạp chí Time bắt đầu bình chọn "Nhân vật của Năm" lần đầu vào năm 1927. Các biên tập viên tạp chí đã chọn ra người mà họ cho là có ảnh hưởng nhiều nhất đến tin tức trong một năm, bất kể xấu hay tốt. Năm ngoái, Tổng thống Mỹ Barack Obama đã được Time bình chọn là nhân vật của năm 2012.
Những tin tức hình ảnh về Đức giáo hoàng đã thể hiện tình thương đối với người nghèo, người khuyết tật và tỏ ra gần gũi với người lớn trẻ em đều được báo chí và các hãng thông tấn quốc tế loan truyền rộng rãi. Đây cũng là niềm vinh dự cho Giáo hội Công giáo trong bối cảnh Giáo hội gần đây đang là tâm điểm cho những lời phê phán chỉ trích của giới truyền thông trên thế giới liên quan đến các vụ tai tiếng về các vấn đề ấu dâm, vấn đề tài chánh của ngân hàng Vatican hay sự rò rỉ thông tin mật của Tòa thánh...
Sự quyết tâm canh tân bằng lối sống đơn sơ nghèo khó và đổi mới nhân sự của Đức Phan-xi-cô bước đầu đã đem lại những thành quả nhất định cho Hội thánh Công giáo. Sự thành công này trở thành động lực thúc đẩy các tín hữu chúng ta cũng phải biết thanh luyện bản thân, đổi mới đời sống và cung cách phục vụ tha nhân, hầu loan báo tin mừng hữu hiệu hơn cho đồng bào Việt Nam thân yêu hôm nay.
3. SUY NIỆM:
1. Đức Giêsu hoàn thiện Luật Mô-sê:
Đạo Do Thái thời Đức Giêsu đã xuống cấp trầm trọng: Các đầu mục Do thái là các kinh sư và người pha-ri-sêu quá câu nệ hình thức đạo đức, coi trọng kinh kệ lễ nghi bề ngoài mà coi thường tâm tình mến Chúa bên trong nên đã bị Đức Giêsu nặng lời khiển trách là bọn đạo đức giả như sau: "Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình". Vì họ đã tỏ ra cố chấp không những không gia nhập vào Nước Trời do Người rao giảng, mà còn ngăn cản người khác không cho họ vào (x. Mt 23,13); Vì họ tìm cách thu gom tiền bạc bằng các lễ nghi kinh kệ dài dòng (x. Mt 23,14); Vì đã không lo dạy dỗ dân chúng (x. Mt 23,15), coi trọng những điều tùy phụ như nộp thuế thập phân hoa màu mà coi nhẹ điều cốt yếu là sự công bình, lòng nhân và thành tín (Mt 23,23-24)...
Đức Giêsu đến không hủy bỏ Lề Luật Mô-sê nhưng để kiện toàn, để canh tân bằng việc đưa vào Luật một tinh thần mới, tóm lại trong hai giới răn quan trọng là "mến Chúa hết lòng và yêu người thân cận như yêu chính mình" (x. Mt 22,35-40); Người cũng bãi bỏ hy lễ và hiến lễ toàn thiêu bằng chiên cừu của đạo cũ bằng việc thiết lập một lễ tế mới là Người dâng mình là Con Chiên Thiên Chúa chịu sát tế trên bàn thờ thập giá để đền tội cho nhân loại (x. Dt 10,8-10).
2. Đức Giêsu tuyển chọn các cộng tác viên:
Đức Giêsu không thi hành sứ mạng cứu thế cách đơn độc, nhưng đã kêu gọi nhiều người theo làm môn đệ để cộng tác với Người loan báo Tin Mừng Nước Trời. Người không chọn những người có học vị cao, có tài ăn nói lưu loát, có kiến thức sâu rộng... như các kinh sư và biệt phái làm môn đệ của Người, nhưng đã chọn những người thuyền chài ít học (x. Cv 4,13). Ngay chính Người cũng không xuất thân từ một trường danh tiếng như người Do-thái đã phải ngạc nhiên nói rằng: "Ông này không học hành gì, mà sao lại thông thạo chữ nghĩa thế!" (Ga 7,15). Các môn đệ của Đức Giêsu cũng không mấy trổi vượt về đức độ biểu hiện qua thái độ ganh tị nhỏ nhen, ham mê địa vị quyền hành đòi ngồi hai bên tả hữu của Thầy (x. Mt 20,23-24), tính tình nóng nẩy đòi tiêu diệt làng Sa-ma-ri không đón nhận Thầy trò (x. Lc 9,53-56) và hèn nhát chối Thầy ba lần (x. Ga 18,25-27) hoắc bỏ Thầy thoát thân khi Thầy gặp nạn (x. Mt 26,56). Nhưng ưu điểm của các ông là mau mắn dứt khoát đi theo Thầy, sẵn sàng bỏ nghề chài lưới bắt cá để học nghề chài lưới đánh bắt các linh hồn (x. Mt 4,19-20), lập tức bỏ thuyền bỏ cha mà đi theo Người (x. Mt 4,21-22), sẵn sàng đi con đường hẹp leo dốc là từ bỏ bản thân và vác thập giá mình mà theo chân Chúa (x. Mt 16,24), sẵn sàng từ bỏ vợ con, ruộng nương, nhà cửa... Sự mau mắn dứt khoát này đòi các ông phải liều lĩnh, tin cậy phó thác tương lai cuộc đời trong tay Đức Giêsu. Chính nhờ những đức tính này mà khi được ơn Thánh Thần tác động, các ông đã được biến đổi nên tốt với đủ các đức tính, tài năng ăn nói (x. Cv 2,4) và trở nên khôn ngoan mạnh dạn nói lời Thiên Chúa (x. Cv 4,31).
3. Mau mắn đáp lại tiêng Chúa mời gọi:
Ngày nay Đức Giêsu tiếp tục mời gọi mọi tín hữu cộng tác với Người loan báo Tin Mừng. Vậy chúng ta đã đáp lại ơn gọi của Chúa thế nào? Chúng ta có lập tức và dứt khoát đi theo Người hay nại đủ lý do đê trì hoãn như sợ không có đủ khả năng, không có thời giờ, thiếu tài đức... Nên nhớ rằng: Nếu chúng ta mà có đủ mọi điều kiện như các kinh sư Do Thái khi xưa, thì chắc Đức Giêsu cũng không gọi chúng ta đi theo Người, vì khi ấy chúng ta sẽ cậy dựa vào sức riêng của mình hơn cậy nhờ vào sức mạnh và ơn Chúa trợ giúp. Chính vì biết rõ chúng ta thiếu khôn ngoan thông thái nên Đức Giêsu mới kêu gọi chúng ta như Người đã cầu nguyện ngợi khen Chúa Cha: "Lạy Cha là Chúa Tể trời đất. Con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha" (Mt 11,25-26). Vì không có Chúa, chúng ta chẳng làm gì được (x. Ga 15,5b), như Tông đồ Phao-lô đã nói: "Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được hết!" (Pl 4,13). "Vì khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh" (2 Cr 12,10), và như sứ thần Gáp-ri-en nói với Đức Ma-ri-a khi truyền tin: "vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được" (Lc 1,37). Vậy, nếu nghe thấy tiếng Chúa mời gọi, mỗi người chúng ta cần phải mau mắn đáp lại như ngôn sứ Sa-mu-en xưa: "Lạy Chúa, xin cứ phán vì tôi tớ Chúa đang nghe" (1 Sm 3,9). Chính nhờ sự mau mắn này, mà cũng như các tông đồ xưa, chúng ta sẽ được ơn biến đổi để chu toàn sứ vụ loan báo Tin Mừng Nước Trời.
4. Tích cực góp phần loan Tin Mừng ngay trong môi trường mình đang sống:
Mặc dù Chúa Giêsu đã về trời, nhưng Người muốn chúng ta tiếp tục sứ vụ của Người giữa trần gian hôm nay. Vậy chúng ta phải làm gì? Trước hết chúng ta ý thức Chúa gọi chúng ta như Người đã gọi những môn đệ đầu tiên. Chúa bảo chúng ta hãy tiếp tay với Người để "lưới người" như lưới cá. Chúa không đòi chúng ta phải đi đâu xa, nhưng thả lưới ngay nơi mình đang sống và làm việc. Tấm lưới chúng ta thả có thể là lời nói, việc làm phản ánh lối sống của Đức Giêsu và nói lên tình thương của Thiên Chúa. Nếu tấm lưới ấy lỡ bị rách, chúng ta cần phải vá lại. Cũng vậy, nếu đời sống chúng ta trở nên xấu xa tội lỗi, làm sao chúng ta có thể loan báo Tin Mừng và giúp chữa lành các thói hư cho tha nhân được. Vậy mỗi ngày trước khi ngủ đêm, chúng ta phải hồi tâm "vá lưới" bằng cách xét mình để nhận ra những lỗi lầm và sai sót để xin Chúa giúp canh tân noi gương Chúa làm và lời Người dạy.
Theo Chúa là chấp nhận ra khơi, chấp nhận cuộc sống nghèo khó nay đây mai đó, không nhà cửa, là phải lên đường đến với mọi nhà và gặp gỡ hết mọi người. Theo Chúa là sẵn sàng đón nhận những sự thù ghét bách hại vì danh Chúa, chấp nhận đi con đường hẹp và ít người muốn đi, nhưng lại là con đường chắc chắn dẫn đến hạnh phúc đời đời. Hôm nay các tín hữu chúng ta cũng đang sống giữa những bà con đại đa số là người lương, chúng ta sẽ làm gì để rao giảng Tin Mừng, để biến đổi vùng đất này bừng lên ánh sáng tin yêu của Đức Giêsu? (x. Mt 10,7-8). Hãy noi gương Đức Thánh Cha Phan-xi-cô sống đơn giản gần gũi người nghèo khổ bệnh tật và bị bỏ rơi để chiếu ánh sáng tin yêu của Chúa như Người đã dạy: "Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha anh em, Đấng ngự trên trời" (Mt 5,16).
4. THẢO LUẬN:
1) Kèm theo lời giảng, Đức Giêsu đã chữa bệnh và trừ quỷ. Theo bạn, người rao giảng Lời Chúa hôm nay cần làm gì kèm theo việc rao giảng, để được người nghe dễ dàng đón nhận? 2) Hôm nay, bạn sẽ đáp trả tiếng Chúa thế nào khi được ai đó mời bạn tham gia vào các sinh hoạt hội họp cầu nguyện và làm công tác theo linh đạo của các hội đoan tông đồ giáo dân?
5. NGUYỆN CẦU:
Lạy Chúa Giêsu. Hôm nay xin Chúa dạy chúng con luôn biết chiếu ánh sáng của Chúa bằng việc tươi cười, ngay cả những lúc xem ra cuộc đời không mỉm cười với chúng con. Xin cho chúng con biết yêu mến cuộc sống, dù không phải lúc nào cuộc sống cũng màu hồng đáng yêu. Thực ra, chúng con luôn có nhiều lý do để lo âu chán nản và buông xuôi giữa chừng. Nhưng xin Chúa đừng để nụ cười bị tắt trên môi chúng con. Xin cho chúng con ý thức rằng: "Một ông thánh buồn là một ông thánh đáng buồn!". Ước gì chúng con luôn thấy mình thật hạnh phúc vì được Chúa yêu thương. Xin cho chúng con luôn mang niềm vui của Chúa, để làm cho gia đình, khu xóm, xí nghiệp hay trường học của con được tràn đầy niềm vui ơn cứu độ của Chúa.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
65. Sám hối thì mới được cứu độ--Jos.Vinc. Ngọc Biển, SSP.
Trong 4 Tin Mừng được viết lại cuộc đời Chúa Cứu Thế, thì thánh sử Mátthêu đặc biệt nhắm vào người Dothái thời bấy giờ. Vì thế, ngài thường trưng dẫn những điều đã được tiên báo trong Cựu Ước để làm toát lên sự nối tiếp giữa Cựu Ước và Tân Ước, ngõ hầu hậu thuận cho việc chứng minh Đức Giêsu chính là Đấng Thiên Sai đã được các ngôn sứ loan báo trước đó.
Thế nên, hôm nay, thánh sử Mátthêu đã làm toát lên sự tiếp nối giữa Gioan và Đức Giêsu ngay sau khi Gioan kết thúc thì Đức Giêsu khởi đầu. Nhưng có lẽ lời giáo huấn về sự sám hối và sứ vụ truyền giáo là đề tài quan trọng hơn cả!
Chính vì điều này mà trình thuật Tin Mừng cho chúng ta thấy chủ đích của Đức Giêsu khi lựa chọn Capharnaum để loan báo Tin Mừng đầu tiên, đồng thời, cũng cho thấy được nội dung quan trọng của lời rao giảng này.
1. Tại sao Đức Giêsu lại chọn Capharnaum là nơi khởi đầu sứ vụ?
Khởi đầu sứ vụ công khai của Đức Giêsu và cũng là khởi đầu hành trình truyền giáo, Đức Giêsu đã chọn Capharnaum là trung tâm truyền giáo. Có nhiều lý do để Ngài chọn nơi này mà không chọn nơi khác! Một trong những lý do chính là bởi vì dân này là một dân ngoại và đã được tiên báo từ thời Cựu Ước để đón nhận Tin Mừng: “Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu soi”. Tại sao lại có lời loan báo này? Thưa, vì dân Capharnaum là một dân ô hợp từ nhiều nơi hội tụ về. Họ đến đây sau khi dân Israel bị lưu đày ở Babylon.
Chính vì là dân tứ xứ, nên họ bị coi là dân ngoại. Khái niệm dân ngoại đối với Capharnaum không chỉ về địa dư hành chính là cách xa đền thờ Giêrusalem, mà họ còn bị coi là dân ngoại khi những truyền thống của cha ông bị lơ là.
Thật vậy, người Galilê không mặn mà với những lễ nghi truyền thống của tổ tiên. Vì thế, lẽ tất yếu, họ bị những người Dothái coi thường và khinh bỉ vì đã không sống những tập tục của tiền nhân.
Tuy nhiên, điều đáng quý của người Galilê và đặc biệt là dân thành Capharnaum này chính là sự chân tình, cởi mở và hiếu khách. Chính vì điều này mà họ dễ dàng đón nhận Đức Giêsu cũng như tiếp nhận những giáo huấn mới mẻ của Ngài. Đây có lẽ là lý do chính yếu mà Đức Giêsu đã dễ dàng thâu nhận được 4 môn đệ đầu tiên tại nơi đây để cùng Ngài tiếp nối sứ vụ loan báo Tin Mừng.
2. Nội dung của lời rao giảng
Đề tài sám hối chính là nội dung lời loan báo đầu tiên và quan trọng của Đức Giêsu khi khởi đầu sứ vụ.
Nếu Gioan đã loan báo về đề tài sám hối để chuẩn bị dân dọn lòng chờ đợi Đấng Cứu Thế, thì khi Đức Giêsu đến, Ngài mời gọi họ không phải sám hối để đón Ngài ngự đến nữa, vì Ngài đã đến và hiện diện giữa dân của Ngài, nhưng Ngài mời gọi họ hãy sám hối vì “Nước trời đã đến gần”.
Sự tiếp nối của Gioan và Đức Giêsu về đề tài sám hối hé mở cho chúng ta thấy tầm quan trọng của sứ điệp. Có thể nói: sám hối chính là điều kiện tiên quyết để được vào Nước Trời. Ngược lại, nếu không sám hối thì sẽ chẳng bao giờ thuộc về công dân của Nước Hằng Sống.
Vậy, tại sao phải sám hối?
Khi nói đến sám hối là nói đến sự trở về. Trở về tức là từ bỏ con đường, lối sống, cung cách, quan niệm cũ để đón nhận một cái gì đó mới và hợp hơn.
Thật vậy, có những người đi sai một con đường, cần phải trở về và khởi đầu lại thì mới có thể tới đích.
Cũng có người sống theo lối sống xưa kia mà nay không còn phù hợp, nên cần thay đổi.
Lại có người có những cách hành xử chỉ hợp với người này mà không hợp với người kia; chỉ hợp với nơi này mà không phù hợp với nơi khác, vì thế, cần thích ứng và hội nhập để cho phù hợp với đối tượng và nơi chốn mình hiện diện.
Và cũng không thiếu những người khư khư giữ quan niệm của riêng mình mà đâu biết rằng điều đó không thể áp dụng và hấp dẫn đối với thời cuộc…
Chính vì điều đó, nên cần trở về mới mong đạt tới đích, nếu không trở về, có lẽ sự phấn đấu của mình chỉ là công dã tràng! Ở điểm này, thánh Augustinô đã nói: “Chạy nhanh đấy nhưng lạc đường.
Đại triết gia thời cổ Hylạp xưa, ông Platon, đã nói: “Người chạy thì bao giờ cũng phải tới đích. Nếu không tới đích thì chạy mau lẹ đến đâu cũng bằng vứt đi”.
Tuy nhiên, làm cách nào để sám hối có hiệu quả? Thưa, đơn giản, đó là: phải biết khiêm nhường nhìn nhận mình là người bất toàn, thiếu xót và bất xứng.
Đây cũng là điều kiện cần để mình được lớn lên theo khuôn mẫu của Thiên Chúa, bởi vì, càng khiêm tốn, con người càng giống Thiên Chúa.
Khiêm tốn là biết mình. Biết những mặt mạnh và mặt yếu của mình. Cổ nhân thường nói: “Khôn chết, dại chết, biết là sống”. Chính vì thế, ông Socrate đã mở đầu triết thuyết của mình bằng câu châm ngôn nổi tiếng: “Anh hãy tự biết mình” (Connais-toi, toi même).
Có lẽ nhiều người vẫn tự hào rằng mình biết nhiều thứ, nhưng biết mình tưởng chừng là dễ dàng, bởi vì nó gần mình hơn ai hết, nhưng thật ra lại là khó nhất, bởi lẽ có nhiều người cả đời vẫn không biết mình!
Vì thế, không lạ gì khi có người nói: “Không ai biết khuôn mặt thật của mình bao giờ, họa chăng có biết là biết qua một trung gian chiếc gương. Tuy nhiên, điều đó cũng không phải thật 100%”.
Tương tự như thế, về phần linh hồn con người cũng khó có thể biết được nếu không có ơn Chúa và Giáo Huấn của Người soi dẫn. Như vậy, Lời Chúa và ơn Chúa Thánh Thần là điều cần thiết trong việc giúp cho con người nhận ra điểm yếu của mình để chấn chỉnh và sửa sang cũng như thay đổi, vì: “Lời Chúa là đèn soi cho chúng ta bước, là ánh sáng chỉ đường chúng ta đi”.
3. Sống Sứ điệp Lời Chúa
Trong đời sống đạo hiện nay của mỗi chúng ta, dù là cá nhân hay tập thể… nhiều khi rơi vào tình trạng ghen tương, đố kỵ, ích kỷ, dã tâm … tất cả do thói kiêu ngạo, hóng hách chỉ đạo. Đây cũng chính là mầm mống gây nên những chia rẽ, bất hòa trong gia đình, đoàn thể và xã hội.
Oái oăm thay! Sự thật ấy ít người biết đến, hay nếu có biết đến thì cũng cố chấp và không chịu thay đổi để đón nhận điều tốt hơn! Vẫn còn đó những người đang đi sai đường, trật lối nhưng thay vì quay trở về để khởi đầu một hành trình mới nhằm đạt tới đích, ngược lại họ tiếp tục lún sâu trong cái tôi ích kỷ của chính mình để rồi dẫn đến tình trạng nằm ù lỳ trong vũng lầy êm ái của tội và rơi vào tình trạng: “Mù dắt mù cả hai cùng sa xuống hố”.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết sám hối để được cứu độ. Hơn nữa, cần phải sám hối để trở thành khí cụ của sự hiệp nhất và lòng thương xót của Chúa nơi anh chị em.
Ước mong sao lời mời gọi của Đức Giêsu khi xưa cho người đương thời với Ngài về lòng sám hối ăn năn, thì cũng là lời mời gọi, hối thúc cho mỗi chúng ta hôm nay.
Lạy Chúa Giêsu, lời Chúa hôm nay đã khẳng đinh: “Hãy sám hối vì Nước Trời đã gần đến”. Xin cho chúng con hiểu rằng: “Nếu không sám hối thì không thể được cứu độ”. Vì thế, xin Chúa giúp cho chúng con nhận ra sự yếu đuối của bản thân, ngõ hầu có được một tâm hồn khiêm nhường thẳm sâu để đáng được hưởng dồi dào ơn thánh của Chúa và được đi trong đường lối của Người để đạt tới đích là quê trời vĩnh cửu. Amen.
65. Sám hối để biết mình và biết Chúa--Jos.Vinc. Ngọc Biển
Trong tiến trình phát triển của con người, bình thường khi đã đến tuổi trưởng thành, chúng ta sẽ lựa chọn cho mình một định hướng làm động lực để chúng ta phấn đấu. Ước mơ đó có thể là bác sĩ, kỹ sư, nhà giáo... và chúng ta đều hy vọng cho ước mơ đó được thành hiện thực, để cuộc đời tương lai có ý nghĩa hơn.
Hôm nay, thánh Mátthêu thuật lại cho chúng ta biết Đức Giêsu khởi đầu sứ vụ công khai, Ngài đã kêu gọi dân chúng: "Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần" (Mt 4, 17); đồng thời Đức Giêsu cũng mời gọi các môn đệ đầu tiên để huấn luyện và sai các ông ra đi loan báo về Triều Đại đó của Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa hay Triều Đại của Ngài chính là mơ ước hay mục đích của mỗi chúng ta.
1. "Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần"
Khi nói đến Nước Trời hay Triều Đại của Thiên Chúa, nhiều người cứ nghĩ đó là một nơi chốn được định vị rõ ràng, nhưng không phải vậy, đây là một tình trạng. Tình trạng đó là con người được hạnh phúc, bình an và tràn ngập yêu thương. Như vậy, cũng có thể chúng ta đã đạt được hay đang trên đường đi tìm kiếm. Dấu chỉ của những người đã đạt được chính là hạnh phúc vì có Chúa ở cùng. Khi có Chúa là nguồn hạnh phúc thì lúc ấy, chúng ta mới có “sổ đỏ”, và “hộ khẩu thường trú” để trở thành “công dân của Nước Trời” đúng nghĩa.
Tuy nhiên, để được nhận tấm thẻ căn cước, giấy thông hành để được Nước Trời thì điều kiện cần phải có, đó là “sám hối”.
Khi Đức Giêsu rao giảng Tin Mừng và nói: "Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần" (Mt 4, 17), lời mời gọi này như một động lực thôi thúc mạnh mẽ hơn sứ điệp mà Gioan đã mời gọi trước đó. Điều này cũng có nghĩa là Thiên Chúa chấm dứt họat động của Gioan Tẩy Giả (ông bị bắt cầm tù). Sứ vụ của Đức Giêsu được gạnh nối từ Gioan. Nếu Gioan loan báo về Đấng Mêsia, Ngài là Cứu Chúa, thì khi Đức Giêsu đến, Ngài đã chứng minh cho mọi người thấy, Ngài chính là Đấng mà Gioan đã loan báo. Gioan chỉ đóng vai trò giới thiệu, còn Đức Giêsu thì chính là nội dung của lời giới thiệu đó. Vì thế khi Gioan bị bắt và bị cầm tù, nhiệm vụ của ông đã xong, vai phụ phải lui vào hậu trường để nhân vật chính xuất hiện.
Tại sao, hai con người, nhưng cùng chung một sứ vụ và đều mời gọi dân chúng sám hối vì Triều Đại Thiên Chúa đang đến gần?
Thưa, vì thái độ sám hối là điều kiện cần để được cứu độ, nên tự nó cho thấy tầm quan trọng của hành vi sám hối. Quan trọng là vì: sám hối để biết Chúa là chân lý, là ánh sáng, là lẽ sống, là sự thật. Sám hối cũng chính là ý thức mình cần đến Chúa, đi theo Chúa và chọn Chúa là lý tưởng, là mục đích tối hậu của cuộc đời. Qua hành vi sám hối, con người dễ nhận biết mình yếu đuối, bất toàn, mong manh và mỏng dòn. Ý thức được điều đó, nên một triết gia lỗi lạc là Socrate đã mở đầu triết thuyết của ông bằng câu châm ngôn nổi tiếng: “Anh hãy tự biết mình” (Connais-toi, toi même).
Sám hối còn là để xác định đúng hướng và đi đúng đường, nhằm trách đi lạc và không đạt được mục tiêu. Triết gia Platon, đã nói: “Người chạy thì bao giờ cũng phải tới đích. Nếu không tới đích thì chạy mau lẹ đến đâu cũng bằng vứt đi”. Thánh Augustinô khen những người như vậy là những người “bene currit, sed extra viam - chạy nhanh đấy nhưng lạc đường”.
Thật vậy, người xưa thường nói: “Khôn chết, dại chết, biết là sống”. Sám hối chính là để biết mà được sống.
Sám hối cũng là điều kiện cần để ta lên đường đi tìm một cái gì đó tốt hơn, ý nghĩa và đảm bảo hơn. Nếu bốn môn đệ đầu tiên trong bài Tin Mừng hôm nay, các ông không có hy vọng, không khiêm tốn thì không thể nào ngay lập tức, bỏ cha, bỏ lưới để đi theo Đức Giêsu được.
Nếu có sám hối và tin vào Đức Giêsu thì mới dứt khoát và sẵn sàng ra đi để trở thành những kẻ lưới người như lưới cá. Có sám hối thì mới không bị vướng bận vào những chuyện phụ thuộc để toàn tâm toàn ý lo những việc chính yếu của sứ mạng.
Thật vậy, nếu không sám hối thì chúa tể của con người chính là cái bụng! Chỉ lo tìm kiếm những sự trần tục nhằm thỏa mãn xác thịt, cuốn theo những khuynh hướng thấp hèn, sa đọa, nhục dục mà quên đi Hạnh Phúc Vĩnh Hằng, còn sám hối và ý thức được thân phận giới hạn của con người thì mới biết:”ái mộ những sự Trên Trời”.
2. Sống sứ điệp Lời Chúa
Linh mục nhạc sĩ Ân Đức đã sáng tác bài hát “Biết Chúa, biết con”, trong đó có đoạn viết như sau:
“Biết Chúa là Thiên Chúa độc nhất là Cha là Chúa trời đất.
Biết Chúa Vua muôn loài, biết Chúa thương con người.
Biết Chúa là tạo hóa là Đấng sinh thành nên con.
Biết con là tạo vật, một đời sống kiếp con người.
Biết con không là gì, chỉ là bụi cát mà thôi.
Biết con thân phàm hèn, mỏng giòn, muôn vàn yếu đuối.
Biết con bao tội tình để lòng xao xuyến khôn nguôi”.
Khi biết Chúa là Đấng yêu thương như vậy, thì còn đâu chuyện chia rẽ, ghen ghét, còn đâu chuyện tôi nhóm nọ, anh nhóm kia... bởi vì trong những yếu đuối, lỗi lầm của anh em, thì chính mình cũng đều mắc phải hết. Vì thế, chính mình cần phải sám hối trước và xây dựng tình hiệp nhất huynh đệ trong yêu thương. Thấy được bản chất của con người là hiếu thắng, nên trong cộng đoàn của ngài có những chuyện gây chia rẽ, nên thánh Phaolô đã nói: “Thưa anh em, nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tôi khuyên tất cả anh em hãy nhất trí với nhau trong lời ăn tiếng nói, và đừng để có sự chia rẽ giữa anh em, nhưng hãy sống hòa thuận một lòng một ý với nhau” (1Cr 1,10). Khi cùng chung nhau một lý tưởng, một mục đích thì đâu còn có chuyện: “Tôi thuộc về Phaolô, tôi về phe Apôlô, còn tôi về phe Phêrô, và tôi thuộc về phe Chúa Kitô. Vậy Chúa Kitô bị phân chia rồi sao?” (1Cr 1,12-13a). Và, thánh Phaolô khuyên họ hãy hướng về Đức Giêsu để tìm ra con đường của mình mà đi tới chứ không phải nơi người này hay người kia.
Vậy, điều trước tiên, sám hối là quay trở về với Chúa, lấy Chúa làm mục đích cho cuộc đời mình mà vươn tới. Sám hối cũng là để xin ơn tha thứ và từ bỏ con đường tội lỗi, là một động tác gột rửa tâm hồn, để sống cho hợp với ý Chúa, đem lại bình an nội tâm và liên đới với mọi người.
Thứ đến, sám hối là làm mới lại tinh thần, canh tân đời sống và thay đổi não trạng cũ để đổi lấy tâm tình mới. Sám hối còn là trở nên trong sạch từ ý nghĩ đến hành động. Sám hối để xây dựng tình hiệp nhất, bác ái và yêu thương.
Cuối cùng, sám hối còn là để gắn bó với Chúa, hầu sẵn sàng ra đi loan báo Triều Đại của Thiên Chúa, trở thành những người chinh phục lưới người như lưới cá.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết đáp lại lời mời gọi của Chúa để sống tinh thần sám hối thật lòng, hầu có thể đón nhận Triều Đại của Thiên Chúa đến với chúng con cách trọn vẹn và sẵn sàng ra đi loan báo sứ mạng ấy cho mọi người. Amen.
67. Buông theo Thần Khí--Huệ Minh
Tin mừng Mt 4: 12-23 Ngay khi bắt đầu sứ vụ công khai, Đức Giêsu đã kêu gọi các môn đệ đầu tiên.
Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ công khai tại miền Galilê. Sau khi chịu Phép Rửa của ông Gioan tại sông Giođan (Mt 3,13-17), Đức Giêsu được Thần Khí dẫn vào sa mạc để chịu thử thách (Mt 4,1-11). Sau đó, khi nghe ông Gioan đã bị nộp, Người lánh qua miền Galilê, rồi bỏ Nadarét, đến Caphácnaum và từ đó, Người bắt đầu rao giảng Tin Mừng (Mt 4,12-17). Ngay khi vừa bắt đầu sứ vụ, Đức Giêsu đã kêu gọi các môn đệ đầu tiên (Mt 4,18-22), và dân chúng rất đông ở khắp miền Galilê đến để nghe Người rao giảng và được chữa lành (Mt 4,23-25).
Và rồi Chúa Giêsu đã bắt đầu sứ vụ ở miền Galilê bằng việc “rao giảng Tin Mừng Nước Trời” và “chữa lành hết mọi kẻ bệnh hoạn tật nguyền trong dân”. Hành động này của Đức Giêsu là cách hiện thực hóa lời tiên báo của ngôn sứ Isaia đã được Tin Mừng trích dẫn: “Hỡi Galilê, miền đất dân ngoại, đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi”.
Ngay khi bắt đầu sứ vụ công khai, Đức Giêsu đã kêu gọi các môn đệ đầu tiên. Việc các ông lập tức từ bỏ mọi sự mà theo Người vô điều kiện là một cách đáp trả tận căn lời kêu gọi “hoán cải” trong lời rao giảng đầu tiên của Đức Giêsu. Các ông là những người dấn thân trọn vẹn qua việc từ bỏ hoàn toàn nếp sống cũ, của cải vật chất, nghề nghiệp và cả những tương quan trần thế, kể cả cha mẹ và anh em ruột thịt để theo Đức Giêsu, trở thành những môn đệ “kề cận” của Người.
Ơn gọi này được khởi xướng từ Đức Giêsu, nhưng để thành sự thì hoàn toàn do thái độ đáp trả của người được gọi. Nhờ vậy, họ thiết lập với Đức Giêsu một sự hiệp thông sâu xa để có thể trải nghiệm được toàn bộ đời sống của Đức Giêsu qua các lời giáo huấn và hành động của Người, và tiếp tục sứ vụ loan báo Tin Mừng Nước Trời cho muôn dân để quy tụ mọi người về trong một Giáo Hội duy nhất, như quy tụ “cá vào trong lưới”.
Đức Giêsu bảo các ông: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá. Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người.” Sự từ bỏ mọi sự này như là một đòi buộc cốt yếu đối với sứ vụ của người làm môn đệ Đức Giêsu. Nhờ đó, họ được tự do thanh thoát và có thể mở ra một tương quan mới rộng lớn hơn hướng đến mọi người và giúp mọi người được đón nhận ơn cứu độ. Tin Mừng Mátthêu đã xây dựng hình ảnh người môn đệ như một mẫu gương lý tưởng cho mọi Kitô hữu.
Sự dứt khoát của các ông cho thấy họ đã tìm được kho tàng, chân lý, lẽ sống đích thực là chính Chúa. Các ông cũng khám phá ra lý tưởng của cuộc đời. Vì thế, các ông đành mất hết và coi mọi sự là rơm rác so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô, Chúa của các ông. Từ đây, các ông được sống cùng và sống với Đấng là đường, là sự thật và là sự sống. Thật là hạnh phúc cho bốn môn đệ đầu tiên này!
Vẫn một điều kiện tiên quyết mang tính quyết định, nên Chúa Giêsu bảo: "Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa".
Qua câu nói này, Chúa Giêsu nói cho người xin theo Ngài biết rằng: thái độ dứt khoát là yếu tố căn bản để trở nên môn đệ của Ngài. Theo Chúa là cần phải bỏ mọi sự, không lưỡng lự, không thể tiến thoái lưỡng nan, không chấp nhận nhập nhằng với những ràng buộc của cải, thế gian và tình cảm. Muốn là người thợ cày tốt thì người cầm cày phải nhìn thẳng về phía trước để đi, nếu không thì đường cày sẽ cong queo, không thẳng hàng được. Như vậy, theo Chúa, phải để lại mọi sự, kể cả những gì là thân thuộc, gắn liền với cuộc sống, ngay cả những quyến luyến tình cảm của gia đình…
Để đạt được Nước Trời, người môn đệ phải ưu tiên số một cho những đòi hỏi của Nước ấy. Phải từ bỏ tất cả quá khứ, quên đi dĩ vãng (x. 1 Pr 5,8-9), và nhắm thẳng vào tương lai để ta tiến bước. Điều này quan trọng hơn cả cha mẹ, anh chị em, vợ con và ngay cả mạng sống của mình nữa.
Theo Chúa là dâng hiến cuộc đời trong sự quan phòng của Chúa. Chúng ta không thể cắt ngắn hay chọn lựa chỉ giữ những giới răn, lề luật hay những huấn giáo thích hợp với sở thích của chúng ta. Thánh Phaolô nhắc nhở về giới luật yêu thương. Giới răn căn bản làm nền tảng là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình (Gal 5, 14).
Yêu thương thì chân thành, cảm thông và chia sẻ. Yêu thương là xây dựng, đoàn kết và hòa bình. Những sự chia rẽ, cắn xé, tranh dành và gây thù hận đều ngược lại với giới luật yêu thương: Nhưng nếu anh em cắn xé nhau, anh em hãy coi chừng, anh em tiêu diệt lẫn nhau (Gal 5, 15). Muốn nên là nhân chứng đích thực của Chúa chúng ta phải ước muốn những điều thuộc về Thần Khí của sự thật, tình yêu và bình an.
Khi gọi các môn đệ, Chúa Giêsu nói: Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những ngư phủ lưới người ta. (Mt 4, 19) Lập tức họ theo Người. Thật là lạ lùng! Nghĩ về các tông đồ cũng gợi ta nhớ về mình. Ta cũng trả lời tiếng gọi theo Chúa, nhưng đã phải đắn đo suy nghĩ rất nhiều rồi mới gật đầu. Có nhiều trường hợp sau khi cuộc đời trầy trụa ba chìm bảy nổi chín cái lênh đênh, rồi mới thấy tu là cõi phúc tình là giây oan, nhưng vẫn chưa trọn vẹn!
Muốn theo Chúa ta phải vượt lên trên những ràng buộc về quyền, tiền và sẵn sàng bước theo Chúa Giêsu trên hành trình loan báo này. Bao lâu chúng ta còn vướng bận quá nhiều trong những chuyện như cơm áo gạo tiền; còn đi tìm những điểm tựa danh vọng, an nhàn thư thái; còn lo lắng quá nhiều đến tình cảm riêng tư, thì bấy lâu con người chúng ta nặng nề và không thanh thoát trong việc làm vinh danh Chúa và mưu cầu hạnh phúc cho con người được.
Có được tinh thần thanh thoát và nhẹ nhàng thì chúng ta mới nhạy bén để làm theo sự hướng dẫn của Thần Khí chứ không theo xác thịt. Khi sống và lựa chọn như thế, ta mới xác định căn tính và mục đích của chúng ta, và Chúa mới là gia nghiệp của ta thực sự.
MỒNG MỘT TẾT QUÝ MÃO_Mt 6,25-34
Phó thác cho Chúa của mùa xuân.
22/01 – CHÚA NHẬT TUẦN 3 THƯỜNG NIÊN NĂM A.
MỒNG MỘT TẾT QUÝ MÃO. CẦU BÌNH AN CHO NĂM MỚI.
"Các con chớ áy náy lo lắng về ngày mai".
Lời Chúa: Mt 6,25-34
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy bảo các con. Chớ áy náy lo lắng cho mạng sống mình: lấy gì ăn; hay cho thân xác các con: lấy gì mà mặc. Nào mạng sống không hơn của ăn, và thân xác không hơn áo mặc sao?
Hãy nhìn xem chim trời, chúng không gieo, không gặt, không thu vào lẫm, thế mà Cha các con trên trời vẫn nuôi chúng. Nào các con không hơn chúng sao? Nào có ai trong các con lo lắng áy náy mà có thể làm cho mình cao thêm một gang được ư?
Còn về áo mặc, các con lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng coi chúng mọc lên thế nào? Chúng không làm lụng, không canh cửi. Nhưng Thầy nói với các con rằng: Ngay cả Salomon trong tất cả vinh quang của ông, cũng không phục sức được bằng một trong những đóa hoa đó. Vậy nếu hoa cỏ đồng nội, nay còn, mai bị ném vào lò lửa, mà còn được Thiên Chúa mặc cho như thế, huống chi là các con, hỡi những kẻ kém lòng tin? Vậy các con chớ áy náy lo lắng mà nói rằng: "Chúng ta sẽ ăn gì, uống gì, hoặc sẽ lấy gì mà mặc?"
Vì chưng, dân ngoại tìm kiếm những điều đó. Nhưng cha các con biết rõ các con cần đến những điều đó.
Tiên vàn các con hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn các điều đó Người sẽ ban thêm cho các con. Vậy các con chớ áy náy lo lắng về ngày mai, vì ngày mai sẽ lo cho ngày mai. Ngày nào có sự khốn khổ của ngày ấy".
LỄ GIAO THỪA
PHÚC ÂM: Mt 5, 1-10
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mátthêu.
"Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ".
Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ đông đảo, Người đi lên núi, và lúc Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần Người. Bấy giờ Người mở miệng dạy họ rằng:
"Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.
Phúc cho những ai đau buồn, vì họ sẽ được ủi an.
Phúc cho những ai hiền lành, vì họ sẽ được Ðất Nước làm cơ nghiệp.
Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no thoả.
Phúc cho những ai hay thương xót người, vì họ sẽ được xót thương.
Phúc cho những ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa.
Phúc cho những ai ăn ở thuận hòa, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ".
2. Đừng lo lắng gì cả--Mt 6, 25-34--Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu
Suy niệm:
Ngày Tết báo hiệu một năm cũ đã qua và một năm mới đang đến.
Chúng ta cần nhìn lại một năm qua với cái nhìn của Chúa
để thấy tất cả là hồng ân,
kể cả những gì người đời coi là xui xẻo, bất hạnh.
Chúa đã cho chúng ta sống thêm một thời gian, thêm một năm trên đời.
Chúng ta nhận ra thời gian một ngày nhờ mặt trời mọc lên rồi lặn xuống.
Nhà nông nhận ra thời gian một tháng nhờ mặt trăng tròn rồi lại khuyết.
Tạ ơn Chúa vì hai nguồn sáng quý báu như vậy trên bầu trời.
Thời gian theo Kitô giáo không đi theo đường xoắn ốc, nhưng theo đường thẳng.
Thời điểm nào cũng là duy nhất, đi rồi không trở lại, nên rất đáng quý.
Con Thiên Chúa làm người đã đằm mình trong dòng thời gian như ta.
Nhờ Ngài, dòng thời gian này sẽ đưa ta vào vĩnh cửu của Thiên Chúa.
Ngày Tết người ta thường hay chúc nhau.
Chúc sức khỏe, chúc làm ăn phát đạt, chúc mọi sự như ý…
Chúng ta có thể học được một cách chúc rất đẹp trong sách Dân Số (6, 22-27).
Đức Chúa chỉ dạy cho ông Môsê
để ông này chỉ lại cho ông tư tế Aaron biết cách chúc lành cho dân.
Có ba lời chúc, mỗi lời đều bắt đầu bằng chủ từ là Đức Chúa:
“Nguyện Đức Chúa chúc lành và gìn giữ anh em.
Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh em và dủ lòng thương anh em.
Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn anh em và ban bình an cho anh em.”
Ơn bình an là ơn bao gồm mọi ơn về sức khỏe, sống lâu, an ninh, thịnh vượng…
Rốt cuộc chính Đức Chúa mới là Đấng chúc lành cho dân Israel (c. 27).
Chính Đức Chúa đóng ấn Danh của Ngài trên họ để bảo trợ họ.
Và hôm nay chính Ngài cũng ban muôn ơn cho ta nhờ Danh Đức Giêsu.
Trước thềm Năm Mới, con người không tránh khỏi nỗi lo về tương lai.
Có nhiều nỗi lo rất hữu lý, vì khó khăn trước mắt là có thật.
Có nhiều nỗi lo âu chỉ vì con người thấy mình quá đỗi mong manh.
Nỗi lo quấn lấy con người và làm tâm con người không yên.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu bốn lần nhắc chúng ta “Đừng lo.”
Nếu Kitô hữu không bị quay quắt vì lo âu
thì không phải vì họ là người vô lo, hay vì họ tự tin, giỏi giang hơn người khác.
Đơn giản chỉ vì họ có một Người Cha quan tâm đến mọi nhu cầu của họ.
Kitô hữu tận tụy hết mình cho công việc, nhưng lại không bất an, lo âu.
Tín thác như một đứa con ngồi trong lòng cha,
họ đặt vinh quang Thiên Chúa lên trên hết,
và tin mọi sự khác sẽ được Ngài lo liệu.
Cầu nguyện:
Lạy Cha,
Cha đã cho chúng con sống thêm một năm,
đi thêm một đoạn đường đời.
Nhìn lại đoạn đường đã qua,
chúng con chỉ biết nói lên lời tạ ơn chân thành,
vì Cha vẫn cho chúng con sống,
và sống trong tình yêu.
Mọi biến cố vui buồn của năm qua
đều là những lời mời gọi kín đáo của Cha
để thức tỉnh, nâng đỡ và đưa chúng con lên cao.
Tạ ơn Cha
vì những gì cuộc đời đã làm cho chúng con,
và những gì chúng con đã làm được cho cuộc đời.
Xin cho chúng con sống những ngày Tết dân tộc
trong tinh thần vui tươi, hòa nhã,
và không quên những ai nghèo khổ, cô đơn.
Ước gì những lời chúng con chúc cho nhau
là những lời chúc lành
xuất phát từ trái tim yêu thương.
Và lạy Cha, năm mới đã đến,
trái đất lại xoay một vòng mới quanh mặt trời,
chúng con cũng muốn
ở lại trong quỹ đạo của Cha,
nhận Cha là trung tâm cuộc sống,
và nhận mọi người là anh em. Amen.
3. Xin dạy con biết tìm kiếm Nước Chúa--Mt 6,25-34--TGM Giuse Nguyễn Năng
Sứ điệp: Người Kitô hữu không được quá lo lắng về cuộc sống vật chất vì tin tưởng nơi Thiên Chúa là Cha Toàn Năng và đầy yêu thương. Với niềm tin ấy, người Kitô hữu chu toàn bổn phận hằng ngày và quy hướng tất cả cuộc sống về Thiên Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, bước vào năm mới, chúng con quây quần bên nhau lúc này để chung tiếng dâng lời tạ ơn Chúa. Một năm đã qua với bao nhiêu hồng ân Chúa tuôn đổ trên con, trên gia đình con, trên cộng đoàn giáo xứ và trên đất nước Việt Nam thân yêu. Và giờ đây, một năm mới lại đến. Ngày qua tháng lại, năm này nối tiếp năm kia, cuộc đời con là một chuỗi hồng ân Chúa. Thời gian Chúa ban là thời gian của tình yêu. Con hết lòng cảm tạ Chúa.
Trước thềm năm mới, con hết lòng vui sướng. Nhưng lạy Chúa, chắc chắn Chúa cũng nhìn thấu suốt cả những lo lắng của con nữa. Một năm mới mở ra cũng là một năm với nhiều vất vả mới, khó khăn mới, gian khổ mới, âu lo mới. Tất cả đang chờ đợi con. Cuộc sống hằng ngày càng khó khăn phức tạp đặt ra cho con bao nỗi ưu tư lo lắng về cuộc sống ngày mai.
Lạy Chúa, con tin Chúa là Cha của con, Chúa là Cha đầy quyền năng và yêu thương. Chúa luôn quan phòng ban cho con những gì cần thiết cho cuộc sống. Con xin phó thác cho Chúa bản thân con, gia đình con, quê hương con. Xin Chúa ban bình an cho chúng con, bình an bên ngoài và nhất là bình an nội tâm. Con xin dâng lên Chúa cuộc sống con. Xin Chúa luôn ở bên con và nâng đỡ con. Con sẽ cố gắng chu toàn bổn phận hằng ngày để cuộc đời mỗi ngày một thêm tốt đẹp hơn. Nhưng trước hết, xin dạy con biết tìm kiếm Nước Chúa, xin Chúa chúc lành cho chúng con. Amen.
Ghi nhớ: “Ngày nào có cái khổ của ngày ấy”.
4. MỒNG MỘT TẾT, cầu bình an cho năm mới-- Lm Giuse Nguyễn Văn Tuyên
“Lạy Chúa, xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống.
Ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan”
Một năm mới đã bắt đầu, nhưng cũng một năm cũ đã qua đi trong dòng đời của chúng ta. Vậy đâu là ý nghĩa của thời gian, của cuộc đời chúng ta đang sống?
Người xưa đã bảo: thời giờ thấm thoát thoi đưa. Một khi đã qua đi thì không bao giờ trở lại. Cũng như chẳng ai tắm hai lần ở cùng một dòng sông. Cuộc đời chúng ta trải dài 60 năm hay 100 năm là cùng. Thế nhưng 60 năm ấy, 100 năm ấy có là gì so với khoảng thời gian bao la của vũ trụ. Bởi đó, người xưa đã phải thốt lên một cách não nề khi nghĩ đến cuộc đời ngắn ngủi: Ôi nhân sinh là thế ấy, như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao. Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy, cảnh phù du trông thấy cũng nực cười. Và Thánh Vịnh cũng đã sánh ví:
“Tính tuổi Thọ trong ngoài bảy chục
mạnh giỏi chăng là được tám mươi
mà phần lớn chỉ là gian lao khốn khổ
cuộc đời thấm thoát, chúng con đã khuất rồi”
Bởi đó, tự ngàn xưa và cho đến ngày hôm nay, con người đã tìm mọi cách để kéo dài cuộc sống và khát vọng được sống vĩnh cửu vẫn là niềm day dứt nhất của con người.
Ngày xưa, có những người đã phải vào tận rừng sâu để tìm cho được trái đào trường thọ. Có những người đã phải khổ công tu luyện để chến biến cho được những viên thuốc bất tử. Có một ông vua, đã phải xây những ngọn tháp cao vút để hứng lấy những giọt sương thuần khiết nhất mà uống vì nghĩ rằng những giọt sương thuần khiết ấy có sức kéo dài sự sống con người. Ngày nay y khoa luôn cố gắng tìm ra những phương thuốc hiệu nghiệm tăng thêm tuổi thọ cho con người. Tuy nhiên cái chết vẫn là một thách thức, một thực tại ngàn đời không thể lẩn trách và ước vọng được sống mãi vẫn còn ở ngoài tầm tay của chúng ta, nếu không muốn nói là một huyền thoại, một ảo vọng như câu chuyện dưới đây đã minh chứng:
Thời Chiến quốc, có người đem dâng vua nước Sở một vị thuốc bất tử. Người đó bưng thuốc vào thì viên canh cửa bèn hỏi: Vị thuốc này có ăn được không? Người ấy đáp: Ăn được. Tức thì viên canh cửa bèn giật lấy vị thuốc ấy mà ăn. Nhà vua biết được câu chuyện thì giận lắm, bèn truyền bắt viên quan ấy mà đem đi chém đầu. Viên quan ấy kêu lên rằng: Thần đã hỏi người đem dâng và được biết đó là một vị thuốc bất tử, nghĩa là ăn vào thì sẽ không chết nữa. Thế mà thần vừa mới ăn, thì đã phải tội chết. Như vậy, đây là thuốc tử thuốc chết, chứ sao lại gọi là bất tử cho được. Nhà vua giết thần là bắt lỗi một con người vô tội, đồng thời tỏ ra rằng thiên hạ dối gạt nhà vua mà nhà vua vẫn tin. Nghe nói có lý, nhà vua bèn tha cho viên canh cửa.
Câu chuyện trên muốn chứng tỏ rằng: Có sinh thì phải có tử. Thuốc bất tử chỉ là chuyện bịa đặt mà thôi. Tuy nhiên, ước vọng được sống mãi, được sống đời đời vẫn còn đó. Mỗi độ xuân về, chúng ta thường cầu chúc cho nhau được trường thọ khang an, bách niên giai lão. Và những bức tranh bình dân của mấy ngày tết là gì, nếu không phải là diễn tả ba niềm vui lớn của con người, là Phúc Lộc Thọ. Cho dù cuộc đời có cay đắng thì sự sống vẫn là một cái gì quý giá cần phải bảo vệ. Còn sự chết vẫn là một cái gì đáng lo sợ.
Chúng ta bất lực trước khát vọng được sống mãi và người khác cũng không thể thực hiện cho chúng ta lời chúc trường thọ. Chỉ mình Chúa mới là Đấng dư quyền năng và tình thương để làm cho chúng ta được sống như lời Ngài đã phán: “Ta là Đường, là sự thật và là sự sống. Ai tin Ta sẽ không phải chết, nhưng sẽ được sống đời đời. Ta đến để họ được sống và được sống dồi dào”.
Thực vậy, Thiên Chúa đã xuống thế làm người để chỉ cho chúng ta con đường dẫn đến sự sống. Đạo của chúng ta là đạo của Tin Mừng, của niềm vui, của sự sống. Vậy muốn được sống, chúng ta phải đi trên con đường Chúa đã chỉ vẽ. Phải tuân giữ những điều Ngài đã truyền dạy, phải thực thi cái đạo mà Ngài đã tỏ lộ. Con đường ấy, cái đạo ấy gồm hai chiều kích: hàng dọc và hàng ngang.
Trước hết, hàng dọc là phải kính mến Chúa vì đó chính là bổn phận của một kẻ nhận ơn đối với Đấng đã ban ơn, của thụ tạo đối với Đấng tạo hoá, của kẻ làm con đối với người cha của mình: Hãy kính mến Thiên Chúa hết tâm hồn, hết trí khôn như Chúa đã dạy. Tiếp đến, hàng ngang đó là phải yêu thương mọi người như chính mình, không trừ một ai, kể cả kẻ thù địch như Chúa đã dạy: Hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét mình. Phải đủ cả hai mới là đạo. Vì nếu chỉ mến Chúa mà không yêu người, thì chúng ta là kẻ nói dối. Còn nếu chỉ yêu người mà không mến Chúa, thì mọi hành động của chúng ta đều trống rỗng và vô nghĩa như tiếng não bạt ầm vang.
Người vô thần không tin thờ Chúa, chúng ta gọi họ là kẻ vô đạo. Còn chúng ta, mặc dù đã tin Chúa, nhưng lại không yêu thương anh em, thì chúng ta cũng chỉ là một thứ vô đạo mà thôi.
Hãy mến Chúa và yêu người, để nhờ đó, lời cầu chúc trường thọ của chúng ta sẽ được Chúa thực hiện cho cá nhân chúng ta cũng như cho những người mà chúng ta cầu chúc.
“Lạy Chúa, xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống
Ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan”
5. Xin ơn bình an--GM. Gioan Baotixita Bùi Tuần
Để mừng Xuân mới, theo thông lệ, tôi xin Chúa ban cho đại gia đình chúng ta một Lộc thánh.
Lộc thánh nói đây là Lời Chúa. Lời Chúa sẽ mang lại cho ta nguồn ánh sáng và hy vọng. Đó là lợi lộc tốt nhất cho hành trình cuộc sống ta trong năm mới.
Vậy, Lộc thánh mà Chúa gởi chung cho chúng ta đầu năm nay là Lời nào của Chúa? Thưa là lời Chúa Giêsu đã chào chúc các môn đệ yêu dấu của Người chiều Phục sinh. Lời đó là: “Bình an cho các con” (Ga 20,20).
Theo tôi, bình an là điều mà chúng ta luôn rất cần. Bình an là món quà tặng quý nhất cho mọi hoàn cảnh đời ta.
Nhưng, để lời chào chúc bình an của Chúa trở thành một mùa Xuân thiêng liêng thực sự cho ta, ta nên đón nhận ý Chúa đi liền với ơn bình an.
Ý Chúa là thế này:
Ngay sau lời chào chúc bình an cho các môn đệ, Chúa Giêsu đã thân mật truyền đạt rõ ràng quyết định của Người: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con” (Ga 20,21).
Như vậy, ơn bình an luôn gắn liền với ơn gọi sai đi. Phải sống đúng ơn gọi sai đi, mới đón nhận được ơn bình an. Xin nói ngay rằng: Mọi người chúng ta, ai cũng được Chúa sai đi. Sai vào đời. Sai vào nơi mình ở và làm việc. Sai vào lịch sử của Đất Nước và của Hội Thánh đang cưu mang mình.
Chúa sai ta đi để làm gì? Chúa phán: “Các con hãy đi loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16,15). Tin Mừng Chúa bảo chúng ta loan báo là “Sám hối, để được ơn tha tội” (Lc 24,53), và đi theo Người “là đường, là sự thực và là sự sống” (Ga 14,6) hầu được về với “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,8).
Chúng ta loan báo Tin Mừng đó ít ra bằng cách chúng ta thực hiện Tin Mừng đó nơi bản thân ta. Nếu ta hiểu ơn gọi là như vậy, thì, ngay ngày đầu năm, ta đã có một cái nhìn đúng về hướng đi đời ta trong năm Ất Dậu này.
Năm Ất Dậu này, cho dù đang được mở đầu với những vẻ đẹp huy hoàng và với những hứa hẹn tốt, nó vẫn không che giấu được nhiều băn khoăn, nhiều lo lắng, nhiều trăn trở của biết bao người, nhất là của những người thiện tâm, thiện chí.
Thực tế cho thấy:
Có những cái mong manh bên cạnh những cái ổn định. Những mối đe doạ sát liền với những thành công. Những cái ta tự chọn có thể bị lung lay và tan vỡ bởi những gì vượt khỏi ý muốn và khả năng của ta.
Trên đây là chút nhìn xa. Không bi quan, nhưng là sự thực. Nhận thức sự thực này, để biết sống ơn gọi của mình, theo thánh ý Chúa, đó là cách ta đón nhận ơn bình an của Chúa. Một sự bình an không đồng nghĩa với nghỉ ngơi, nhưng là phấn đấu, là làm việc, là tin cậy, theo ơn gọi của mình. Chúa Giêsu phán: “Như Cha Thầy luôn làm việc, thì Thầy cũng luôn làm việc” (Ga 5,17). Chúng ta cũng làm việc và phấn đấu, trong thánh ý Chúa như vậy.
Với vài tâm tình trên đây, tôi xin cùng với Đức Cha Cố Micae và Đức Cha Giuse Giám mục giáo phận xin tha thiết cầu chúc anh chị em một năm mới đầy bình an của Chúa.
6. Đầu năm tạ ơn và khám phá--GM. Gioan Baotixita Bùi Tuần
Đầu năm là mốc thời gian trọng đại. Dịp này, con cái Chúa hướng lòng về Cha trên trời. Một việc không thể thiếu là tạ ơn Cha.
Trong tâm tình tạ ơn thường có cảm nhận tình thương của Chúa. Cảm nhận sẽ trở thành khám phá, khi linh hồn được đưa vào một cõi tình yêu mênh mông êm đềm, mà Chúa dành riêng cho họ.
1/ Bài học tạ ơn và khám phá
Khám phá riêng tư ấy không luôn xảy ra trong việc tạ ơn. Khám phá đó là do Chúa ban. Không phải bất cứ ai cũng được ơn riêng ấy. Vậy những người được Chúa ban ơn đặc biệt đó là ai? Chúng ta tìm được câu đáp ở lời sau đây của Chúa Giêsu: “Ngay giờ ấy, được Thánh Thần thúc đẩy, Đức Giêsu hớn hở vui mừng và nói: ‘Lạy Cha là Chúa trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha’” (Lc 10,21).
Như vậy, những người được Chúa ban ơn khám phá thấy tình xót thương Chúa chính là những kẻ bé mọn.
Để hiểu thế nào là kẻ bé mọn, mà Chúa Giêsu đề cao ở đây, trước hết chúng ta nên đọc lại đoạn Phúc Âm sau đây:
“Nhóm Bảy Mươi Hai trở về, hớn hở nói: ‘Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con’, Chúa Giêsu bảo các ông: ‘Thầy đã thấy Satan như một tia chớp từ trời sa xuống. Đây, Thầy đã ban cho anh em quyền năng để đạp trên rắn rết, bọ cạp và mọi thế lực Kẻ Thù, mà chẳng có gì làm hại được anh em. Tuy nhiên, anh em chớ mừng vì quỷ thần phải khuất phục anh em, nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời’” (Lc 10,17-20).
Đoạn Phúc Âm trên đây cho chúng ta thấy: Những kẻ bé mọn Chúa Giêsu muốn đề cao chính là nhóm Bảy Mươi Hai.
Họ đã được Chúa sai đi.
Họ đã đến với những người nghèo hèn, cùng khổ, để tiếp cận, để cứu giúp, để loan báo Tin Mừng, để giúp sám hối, để xua đuổi quỷ dữ.
Họ làm những việc bác ái đó nhân danh Chúa Giêsu với nhận thức tự mình chẳng có gì.
Đang khi họ vui mừng vì những thành công đó, Chúa Giêsu đã cho họ khám phá thấy tình xót thương Chúa dành cho họ còn cao quý hơn nhiều, đó là tên họ được ghi trên trời.
Nói tóm lại, nhóm Bảy Mươi Hai được Chúa Giêsu gọi là những kẻ bé mọn, vì hai lý do:
Họ đã đến với những kẻ nghèo hèn, cùng khổ, để cứu giúp và chia sẻ. Họ khiêm tốn trở thành bé mọn với bất cứ kẻ bé mọn nào.
Họ khiêm tốn nhận mình đã cho đi những gì mình đã nhận từ lòng xót thương Chúa. Họ chỉ làm theo ý Chúa và nhân danh Chúa, Đấng đã sai họ đi. Họ luôn bé mọn, nghèo khó.
Chúa dạy họ không nên vui vì những thành công trước mắt, nhưng hãy vui vì phần thưởng cao quý Chúa dành riêng cho họ, đó là tên họ được ghi trên trời. Nghĩa là họ được Chúa cứu độ, được Chúa thánh hoá, được Chúa tuyển chọn. Khám phá đó sẽ cho họ thấy tình thương Chúa là vô biên, vô bờ, đem lại cho họ sự bình an và hạnh phúc đời đời, không gì sánh kịp.
Chúa Giêsu đã hớn hở vui mừng tạ ơn Đức Chúa Cha, vì những lạ lùng đã xảy ra cho những kẻ bé mọn. “Lạy Cha, con xin ngợi khen Cha, vì… đã mạc khải những điều này cho những kẻ bé mọn”
2/ Thực hiện bài học tạ ơn và khám phá
Những gì Chúa Giêsu đã nói và đã làm trên đây, nên được coi là bài học quý giá cho chúng ta mọi ngày, nhất là những dịp tạ ơn Chúa. Bài học đó có thể thực hiện bằng những việc sau đây:
Chúng ta khiêm tốn nhận mình hèn mọn, yếu đuối, bé nhỏ. Nếu ta có điều gì tốt, làm được việc gì lành, thì đều do Chúa ban ơn.
Chúng ta khiêm tốn cầu xin Chúa giúp chúng ta khám phá ra những ơn lành Chúa đã ban cho chúng ta. Tôi được Chúa ban ơn trở về, tôi được Chúa cứu độ, tôi được Chúa kêu gọi, tôi được Chúa tha thứ, tôi được Chúa sai đi, tôi được Chúa ban ơn chia sẻ tình Chúa cho người khác, tôi được Chúa yêu thương đặc biệt.
Chúng ta khiêm tốn vui mừng trong tình yêu của Chúa, theo gương Chúa và Đức Mẹ. Chúa Giêsu “hớn hở vui mừng, ca ngợi Chúa Cha”. Tình cảm đó cũng được thấy nơi Đức Mẹ Maria, khi Mẹ đi viếng thăm bà chị họ Isave. Mẹ đã khám phá thấy tình Chúa xót thương Mẹ là hết sức lạ lùng, nên lòng Mẹ trào dâng lên những lời cảm tạ đầy hớn hở, vui mừng, ca ngợi Chúa: “Linh hồn tôi tung hô Chúa”. Tình cảm vui mừng cảm tạ Chúa có hương sắc thiêng liêng siêu thoát, có sức nâng tâm hồn lên với Chúa. Không một chút vẩn đục bởi bất cứ tư tưởng thế tục nào.
Chúng ta khiêm tốn để lòng mình nghỉ ngơi trong sự chiêm niệm ngắm nhìn Chúa, với hết lòng tin tưởng phó thác nơi Chúa. Chúa là nguồn mọi sự tốt lành. Chúa là cùng đích cuộc đời của ta.
3/ Tỉnh thức trong tạ ơn và khám phá
Thánh Phaolô khuyên: “Anh em hãy tỉnh thức mà cầu nguyện và tạ ơn” (Cl 4,2). Lời khuyên trên đây của thánh Tông đồ nên được áp dụng thường xuyên trong tạ ơn và khám phá.
Trước hết, cần tỉnh thức về phương diện khiêm tốn. Khiêm tốn thực chất, khiêm tốn luôn luôn, khiêm tốn trong mọi sự. Có thể nói, cái làm cho việc tạ ơn và khám phá đẹp lòng Chúa chính là sự khiêm tốn. Đức Mẹ Maria suốt đời khiêm tốn, nên suốt đời Mẹ là lễ tạ ơn và khám phá tình xót thương của Chúa.
Khiêm tốn, nên luôn giữ tự do tâm hồn. Tỉnh thức không để mình bị áp lực do bất cứ quyền lực nào của ma quỷ, thế gian và xác thịt. Tâm hồn nhờ vậy sẽ rất nhẹ nhàng vâng phục thánh ý Chúa. Thánh ý Chúa là muốn chúng ta sẵn sàng phục vụ.
Vì thế, cũng cần tỉnh thức trong việc phục vụ. Mỗi nơi ta ở, mỗi thời ta sống, đều có những dấu chỉ về thánh ý Chúa. Ta sẽ nghe được tiếng gọi của Chúa trong các dấu chỉ đó, để phục vụ. Không thể tạ ơn, nếu phục vụ sai thánh ý Chúa.
Nhờ tỉnh thức, chúng ta sẽ khám phá thấy tình Chúa thương chúng ta, ngay cả khi chúng ta sống trong muôn vàn đau khổ. Trong những hoàn cảnh khắc nghiệt nhất, chúng ta cũng sẽ khám phá thấy Chúa ban cho chúng ta vẫn có khả năng phục vụ các linh hồn bằng nhiều cách hiệu nghiệm.
Nếu không tỉnh thức, việc gọi là tạ ơn Chúa có thể sẽ trở thành dịp phô trương cái tôi, và việc gọi là khám phá tình yêu Chúa cũng dễ là dịp khoe khoang thành tích. Tệ hại nhất là vô ơn và lạm dụng ơn Chúa cũng như danh nghĩa Chúa.
Cúi xin Mẹ Maria thương giúp chúng ta biết noi gương Mẹ mà tạ ơn Chúa và khám phá tình Chúa xót thương.
7. Những nét đẹp Tin Mừng của ngày tết--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Mùa Xuân đến làm đẹp đất trời. Những cành đào đua nhau khoe sắc. Những chồi non bụ bẫm nhú ra khỏi cành cây khô khẳng. Chợ búa đông vui và đẹp đẽ với những hàng hoá đủ mọi loại. Những tà áo mới tha thướt làm đẹp phố phường. Trong khung cảnh vui tươi tấp nập ấy, khuôn mặt mọi người như rạng rỡ tươi cười. Mùa Xuân đem đến nhiều vẻ đẹp. Cao quý nhất là những nét đẹp văn hoá dân tộc đậm đà mầu sắc Tin Mừng.
Ngày Tết có nét đẹp của lòng biết ơn. Năm hết Tết đến, người Việt nam thường nhớ đến công ơn của những người đã giúp đỡ mình trong năm qua. Biết ơn là một nét đẹp văn hoá đáng trân trọng và cũng là một điều hợp lý. Năm 2000 phải biết ơn 1999 năm qua. Dòng sông lớn phải mang ơn những con suối nhỏ. Hạt lúa phải nhớ ơn những hạt mưa, hạt nắng, hạt phân. Ngày hôm nay phải biết ơn ngày hôm qua. Thế hệ này phải nhớ ơn thế hệ trước. Đời sống ta chịu ơn biết bao người. Cảm nghiệm sâu xa chân lý này, nên mỗi dịp Tết đến, người Việt nam ta thường bày tỏ lòng biết ơn với ông bà, cha mẹ và các ân nhân. Những món quà nho nhỏ nhưng thắm đượm tình nghĩa làm vui cả người nhận lẫn người cho. Riêng với người Công giáo, bày tỏ lòng tri ân đối với Thiên chúa là một bổn phận không thể thiếu. Vì Thiên chúa chính là tổ tiên đã sinh thành nên ta. Vì Thiên chúa là ân nhân lớn nhất đời ta. Chính Người đã ban cho ta món quà cao quý nhất: đó là sự sống. Chính Người tiếp tục chăm sóc gìn giữ ta từng ngày, từng giờ, từng phút, từng giây. Biết ơn là việc làm của lương tri, cổ võ cho một thế giới mới chan chứa tình người. Biết ơn cũng là một giá trị đạo đức được Chúa Giêsu đề cao trong Tin Mừng.
Ngày Tết có nét đẹp của sự cho đi. Ta gửi đi những cánh thiệp như những sứ giả của tình cảm yêu thương. Ta gửi đi những lời cầu chúc như tâm tình mến yêu tha thiết dành cho nhau. Ta sửa sang quét dọn nhà cửa để đón tiếp nhau. Ta dành thời giờ viếng thăm nhau để xiết chặt thêm tình thân ái. Ta ăn mặc tề chỉnh để tỏ lòng kính trọng nhau. Ta nói năng tế nhị để làm vui lòng nhau. Ta rộng rãi tặng tiền mừng tuổi cho con cháu. Tóm lại, tất cả những gì ta làm trong ngày Tết đều vì người khác và cho người khác. Đặc biệt trong lãnh vực ăn uống. Ngày Tết, nhà nào cũng chuẩn bị sẵn đồ ăn thức uống cho gia đình, nhưng nhất là để mời khách. Khách vào nhà bao giờ cũng được mời thưởng thức ấm chè mới, nếm kẹo bánh ngon. Sự chiếu cố của khách làm vui lòng cho chủ. Sự vui vẻ của người nhận là hạnh phúc của người cho. Có niềm vui cho đi và có niềm vui lãnh nhận. Những niềm vui ấy tạo cho ngày Tết một nét đẹp đầy mầu sắc Tin Mừng: nét đẹp của sự quên mình, của sự quảng đại cho đi, của sự khiêm tốn đón nhận, của tình liên đới.
Ngày Tết có nét đẹp của sự đổi mới. Thiên nhiên đổi mới với sự hồi sinh của cây cỏ. Phố phường đổi mới với những căn nhà mới, với những gian hàng mới và với quần áo mới. Hoà vào cái mới của đất trời, của xã hội, lòng người cũng nôn nao trong niềm hy vọng đổi mới bản thân và cuộc đời. Ai cũng mong tống tiễn những điều xấu vào quá khứ. Ai cũng mong đón nhận một tương lai tươi đẹp. Niềm mong ước đổi mới được thể hiện qua những cố gắng giữ vẻ mặt tươi cười, không tức giận, không nói những lời thô tục, những điều rủi ro, nhưng chỉ nói những điều tốt đẹp, đối xử hoà nhã với mọi người trong những ngày Tết. Phút giao thừa thật thiêng liêng. Nó đánh dấu một khởi đầu mới. Người ta tin rằng sống tốt đẹp những giây phút đầu tiên sẽ có ảnh hưởng tốt đến cả năm. Nên mỗi dịp Tết là một lần khuyến khích ta cố gắng đổi mới đời sống, đổi mới bản thân.
Đổi mới đời sống là điều Chúa Giêsu tha thiết mong muốn nơi ta. Người không ngừng mời gọi ta hãy từ bỏ con đường tội lỗi xưa cũ, bước vào con đường mới, con đường tự do, thánh thiện của con cái Thiên chúa. Người không ngừng mời gọi ta trở thành bầu da mới để có thể chứa đựng thứ rượu mới là giáo lý của Người. Ngày Tết chính là một cơ hội cho ta thực hành Lời Chúa dạy, tích cực đổi mới đời sống nên tốt đẹp hơn.
Với tất cả những nét đẹp trên đây, tinh thần ngày Tết cổ truyền dân tộc rất gần gũi với Tin Mừng. Rõ ràng nét đẹp văn hoá Việt nam đã chất chứa những giá trị Tin Mừng. Rõ ràng Tin Mừng đang đi vào cuộc sống của người Việt nam.
Vì thế, người Việt nam Công giáo không những có trách nhiệm gìn giữ những nét đẹp văn hoá của ngày Tết cổ truyền mà còn phải biến những nét đẹp ấy thành những trang Tin Mừng sống động. Khi ta sống tâm tình biết ơn trong ngày Tết, đừng chỉ giữ hình thức bề ngoài hay chỉ chú ý tới khía cạnh vật chất. Hãy có tâm tình biết ơn sâu xa. Hãy nhìn thấy ơn Chúa ban qua mọi ân huệ nhận được. Khi ta cho đi trong ngày Tết, đừng chỉ cho đi như một hình thức xã giao hay như một thói tục bắt buộc. Hãy cho đi với tâm tình yêu mến, kính trọng thực sự. Hãy đón tiếp khách thăm viếng như đón tiếp chính Chúa. Khi ta muốn đổi mới đời sống, đừng chỉ giữ như một hình thức và không chỉ giữ trong những ngày Tết, nhưng duy trì sự cố gắng đổi mới trong suốt cả đời với quyết tâm thực sự đổi mới đời sống.
Khi ta sống tinh thần Tin Mừng trong những phong tục ngày Tết, ta góp phần xây dựng một mùa Xuân mới, một mùa Xuân dân tộc, một mùa Xuân tình thương. Mùa Xuân ấy sẽ vĩnh cửu vì sẽ dẫn đến mùa Xuân Nước Trời.
Lạy Đức Kitô là mùa Xuân đích thực, không bao giờ tàn úa, xin đổi mới tâm hồn con. Amen
8. Phấn đấu tạo mùa xuân--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Mùa Xuân là màu của hoa. Những bông hoa góp phần làm thành nét đẹp của ngày Tết. Ngày Tết mà thiếu hoa sẽ mất đi rất nhiều vẻ đẹp đẽ vui tươi.
Tại Việt nam, hai loại hoa tiêu biểu cho ngày Tết là mai và đào. Trong Nam, mai rộ nở như ganh đua với nắng vàng rực rỡ. Ngoài Bắc, trong cái buốt giá của mùa Đông kéo dài, những cành đào tươi thắm chen giữa đám lộc non xanh biếc là một cánh thiệp báo tin vui mùa Xuân đến.
Nhìn những cánh hoa tươi thắm như đang cười đùa với nắng Xuân, mấy ai nghĩ rằng những cánh hoa kia đã phải trải qua một quá trình phấn đấu gian nan.
Thật vậy, trước khi mùa Xuân đến, những cây đào trơ trụi như những xác chết không hồn. Những cây mai cũng bị tuốt sạch lá để trơ những cành khẳng khiu nom đến tội nghiệp.
Nhưng ai đã trồng hoa đều có kinh nghiệm là càng tuốt sạch lá càng có nhiều hoa. Chính những thân cây khẳng khiu trơ trụi ấy đã góp phần làm nên những bông hoa tươi đẹp trang điểm cho mùa Xuân, đem niềm vui đến cho con người, trở thành dấu hiệu của hạnh phúc, của thành công.
Mùa Xuân, ta thường chúc nhau thành công, hạnh phúc. Đã thấy những cành cây trơ trụi mùa đông, rồi nhìn những bông hoa rực rỡ hôm nay, tôi hiểu rằng thành công và hạnh phúc ta đạt được cũng phải trải qua những phấn đấu như loài hoa. Để đạt được những thành công thiêng liêng và hạnh phục vĩnh cửu, ta càng phải noi gương loài hoa mà phấn đấu rất nhiều.
Phấn đấu loại bỏ những gì xưa cũ. Nếu những cây hoa không chịu tước bỏ lớp lá cũ già nua xấu xí thì làm sao có được những cánh lá non mơn mởn và nhất là làm sao có được những nụ hoa lộng lẫy vào mùa xuân?
Tương tự như thế, muốn đời sống thiêng liêng sinh hoa kết quả, ta cũng phải từ bỏ những gì xưa cũ trong bản thân. Những gì xưa cũ là những gì không phù hợp với Phúc Âm, những gì ngăn cản ta tiến bước như thói lười biếng, thói giận hờn ganh ghét, thói ích kỷ, thói chia rẽ bất hoà, thói tự kiêu tư đại.
Phấn đấu dồn hết năng lực vào mục tiêu chính. Mùa đông, người làm vườn tuốt lá, tỉa cành để khi mùa đến, nhựa cây phong phú không phải tốn phí nuôi dưỡng những chiếc lá già nua, những cành cây thừa thãi vô bổ, nhưng dồn hết sức sống cho hoa, cho lá mới. Nhờ thế hoa càng thêm tươi, lá càng thêm xanh.
Con người cũng thế, muốn thành công và hạnh phúc, phải loại bỏ những gì tiêu phí năng lực, để dồn hết năng lực vào mục tiêu chính. Mục tiêu chính của ta là tập luyện lòng mến Chúa yêu người, là sống theo Tám mối phúc thật. Chuyên tâm vào mục tiêu chính, ta sẽ dễ thành công.
Sau cùng, phải phấn đấu vượt qua mọi gian khổ. Khi tuốt lá những cây mai, tôi thầm nghĩ: Nếu cây mai biết nói, chắc nó sẽ kêu lên đau đớn. Tuốt lá, tỉa cành làm cho cây đau đớn, mất mát, xấu xí khó coi. Nhưng chính nhờ vượt qua được những gian nan thử thách ấy mà cây hoa mới đạt đến mùa xuân tươi đẹp đem hương sắc cho đời.
Để loại bỏ những gì xưa cũ và dồn hết năng lực vào mục tiêu chính, con người cũng phải phấn đấu rất nhiều. Phấn đấu từ bỏ mình. Không hành động theo bản năng, dục vọng. Không hành động theo ý riêng. Chỉ tìm thánh ý Thiên Chúa. Những phấn đấu từ bỏ mình làm cho ta đớn đau. Nhưng chính những đớn đau đó góp phần tạo nên mùa xuân tươi đẹp.
Năm Mới, tôi cầu chúc tất cả anh chị em được nhiều ơn chúa để có sức phấn đấu, tạo nên một mùa xuân tươi đẹp cho gia đình, cho đất nước và cho nước Trời.
9. Bài giảng MỒNG MỘT TẾT Tân Sửu 2021—GM Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản
Trong bầu khí linh thiêng của giây phút đầu năm mới, năm Tân Sửu, chúng ta cùng nhau đến trước Nhan Thánh Chúa, như một gia đình sum họp quây quần bên nhau, để dâng lên Chúa tâm tình yêu mến, biết ơn về những ân huệ đã lãnh nhận trong năm qua, và xin Ngài tiếp tục nâng đỡ, hộ trì trong năm mới.
Trong năm qua, cả thế giới nói chung, và trong đất nước chúng ta, mọi người phải đối diện với cơn đại dịch Covid một cách đáng lo lắng. Anh chị em gặp rất nhiều khó khăn trong việc làm ăn cũng như trong việc học hành. Tuy nhiên, với tinh thần trách nhiệm, cùng nhau bảo vệ sức khỏe, phòng chống dịch, chúng ta đã vượt qua những giai đoạn khó khăn, và hiện nay vẫn đang còn tiếp tục cố gắng.
Xin Chúa thương ban cho những người bị lây nhiễm covid được mau lành bệnh, và sớm có vaccine cho mọi người dân trong các nước nghèo.
Chúng ta cũng xin Chúa ban ơn và sức khỏe cho các bác sĩ, y tá, những anh bộ đội, những người ở tuyến đầu chống dịch, để họ tiếp tục chu toàn sứ mệnh gìn giữ sức khỏe cho toàn xã hội.
Trong dịp này, chúng ta xin Chúa ban cho toàn thể Giáo phận thân yêu của chúng ta, trong năm mới, được mọi ơn lành. Xin cho mọi thành phần trong dân thánh biết sống thánh thiện theo gương Chúa Giê-su, tích cực xây dựng sự hiệp nhất trong Hội Thánh, và sống tinh thần truyền giáo.
Giờ đây chúng ta khiêm tốn nhìn nhận mọi tội lỗi, xin Chúa tha thứ, để xứng đáng cử hành mầu nhiệm thánh.
Trong buổi sáng ngày đầu năm mới, Mùng Một Tết, giây phút linh thiêng của mọi người con dân Việt Nam, Lời Chúa nói với chúng ta rằng: “Thầy bảo các con. Chớ áy náy lo lắng cho mạng sống mình: lấy gì ăn, hay cho thân xác các con: lấy gì mặc”. Chúa Giê-su nhấn mạnh đến 2 nhu cầu căn bản của thân xác con người là ăn và mặc, nghĩa là nhu cầu được sống và sống đúng với phẩm giá con người. Nhưng thử hỏi: đối với mọi người đi tham dự lễ Minh Niên hôm nay, nhu cầu ăn và mặc mà thôi đã đủ chưa? Có lẽ là chưa. Vì bên cạnh nhu cầu ăn mặc, chúng ta cần được bảo đảm cho một cuộc sống lành mạnh, tránh khỏi mọi bệnh hoạn, đau khổ, nhất là cơn dịch Covid này.
Nếu anh chị em để ý, sẽ thấy là trong đoạn Tin Mừng vừa nghe, chỉ có 9 câu thôi mà động từ “lo lắng”, xuất hiện đến 6 lần: “Chớ áy náy lo lắng cho cuộc sống mình” (c. 25), “Hỏi có ai trong anh chị em, nhờ lo lắng, mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang tay” (c. 27), “Còn về áo mặc cũng thế, lo lắng làm gì?” (c. 28), Vì thế, anh chị em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây?” (c. 31), “Vậy anh chị em đừng lo lắng về ngày mai; ngày mai cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày đó” (c. 34). Lo lắng cho cuộc sống của mình và người khác là một thái độ có trách nhiệm với bản thân, gia đình, và xã hội. Vậy, tại sao Chúa lại khuyên chúng ta, những người con cái của Ngài lại đừng lo lắng quá mức cần thiết, đến nỗi chỉ chú ý vào một điểm nào đó, mà quên đi những bổn phận khác trong cuộc sống thường ngày?
Sự lo lắng quá mức không giúp cho chúng ta giải quyết được vấn đề, nó chỉ làm cho chúng ta bối rối thêm thôi. Vì thế, khi gặp một vấn đề làm cho chúng ta lo lắng, chúng ta cần phải bình tĩnh đối diện với nó, phân tích một cách cụ thể và tìm ra hướng giải quyết một cách đúng đắn và hợp lý.
Ví dụ như trong mùa Tết năm nay, tình hình dịch covid bùng phát ở Hải Dương, Quảng Ninh, rồi lan ra một số tỉnh thành cả miền Bắc lẫn miền Nam. Chính quyền vẫn lo lắng đề phòng bệnh dịch, nhưng cách hành xử lần này đã khác với 2 lần dịch bùng phát trước. Lần này, Chính quyền chọn giải pháp khoanh vùng, cách ly những người có tiếp xúc với nguồn bệnh, phong tỏa từng khu vực có người bị lây nhiễm, chứ không bắt cả nước đồng loạt áp dụng chỉ thị 15 hay 16. Bởi vì Chính quyền hiểu là bên cạnh việc phòng chống dịch, người dân còn phải tiếp tục sống, với những nhu cầu căn bản của con người, và phát triển kinh tế để đóng góp cho xã hội nữa.
Tại Đăk Lăk, trong phiên họp của “Ban chỉ đạo phòng chống dịch Covid 19” vào buổi sáng ngày 09/02/2021, ông Chủ Tịch Tỉnh nhấn mạnh: “Đắk Lắk là địa bàn giáp ranh với Gia Lai - địa phương đang có diễn biến dịch Covid-19 hết sức phức tạp, đồng thời người dân từ các tỉnh Bình Dương, TP. Hồ Chí Minh về quê ơn Tết khá đông, nguy cơ xảy ra dịch bệnh là rất lớn. Do đó, ông đề nghị các thành viên Ban Chỉ đạo hết sức bình tĩnh để xử lý vấn đề, không để người dân hoang mang, lo lắng và không để xảy ra tình trạng không kiểm soát được dịch bệnh trên địa bàn”. Chúng ta thấy lời của ông Chủ Tịch Tỉnh rất chí lý khi nhấn mạnh đến 3 điểm: “phải hết sức bình tĩnh để xử lý vấn đề”, “không để người dân hoang mang lo lắng”, và “không để xảy ra tình trạng không kiểm soát được dịch bệnh trên địa bàn”. Bài báo còn nói thêm: “Bên cạnh đó, Ban Chỉ đạo các huyện, thị xã, thành phố chỉ đạo các xã, phường, thị trấn và các tổ dân phố tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục cho người dân về phòng chống dịch bệnh với thông điệp 5K, kể cả vùng dịch và không có dịch, đặc biệt là đeo khẩu trang, không tập trung đông người trong không gian kín”.
Chấp hành hướng dẫn của UBND Tỉnh, chúng ta đã dừng tất cả những hoạt động tập trung đông người không cần thiết như hội chợ, văn nghệ mừng xuân, và chỉ giữ lại Thánh lễ cộng đồng. Và trong khi cử hành Thánh lễ, chúng ta cũng tuân thủ những hướng dẫn phòng dịch như: đeo khẩu trang, sát khuẩn, giữ khoảng cách và mở rộng các cửa lớn nhỏ. Không làm cho ngôi nhà thờ thành không gian khép kín.
Anh chị em thân mến,
Với ý thức về bổn phận tự bảo vệ mình và bảo vệ sức khỏe cộng đồng, theo sự hướng dẫn của những người có trách nhiệm, chúng ta cũng một phần nào vượt qua nỗi lo lắng về cơn dịch để hưởng niềm vui sum họp của gia đình trong dịp Tết. Tuy nhiên, chúng ta cũng biết rằng với sự cố gắng của con người mà thôi thì chưa đủ, nhưng cần phải có sự nâng đỡ, bảo vệ của Chúa nữa. Chúa nói: “Trước hết, hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho”.
Xin Chúa gìn giữ cho tất cả mọi người trong Tỉnh nhà, trong Giáo phận, cũng như trong cả nước được bình an mạnh khỏe, và gặp được nhiều điều may mắn trong năm mới này.
Xin Chúa chúc lành cho tất cả anh chị em.
10. MỒNG MỘT TẾT: Cầu bình an cho năm mới Tân Sửu (Mt 6,25-34)--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
Đọc kỹ bản văn Mátthêu, chúng ta thấy có sáu lần Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng quá lo lắng đến mất tin cậy vào Thiên Chúa. Khi nói thế, Ngài muốn chúng ta đừng tìm bảo đảm vào của cải nay còn mai mất, mà phải tìm cái cốt yếu cho cuộc đời trước đã, rồi mọi sự khác sẽ được thêm cho. Lo lắng quá cũng chẳng giải quyết được gì: “Dù có lo lắng đi nữa, hỏi có ai trong các con kéo dài đời mình thêm được một vài gang tấc không?” Tín nhiệm hoàn toàn vào Thiên Chúa không có nghĩa là sống trong thụ động, mà là cộng tác với công việc của Thiên Chúa tùy ơn gọi của mỗi người: hãy giúp mình rồi trời sẽ giúp cho.
Đừng quá lo lắng về những nhu cầu của cuộc sống thể xác (của ăn, áo mặc, tuổi thọ), vì đã có Chúa lo cho ta những thứ đó. Điều cần lo trước hết là tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài.
Sở dĩ con người lo lắng thái quá mà mất đi cả hạnh phúc trong cuộc sống, là vì con người không tin ở sự hiện diện và quan phòng của Thiên Chúa. Chim trời không gieo vãi mà vẫn có ăn, hoa cỏ đồng nội không canh cửi mà vẫn xinh đẹp rực rỡ. Con người còn hơn chim trời cũng như hoa cỏ đồng nội bội phần. Nếu con người biết tin ở tình yêu quan phòng của Thiên Chúa, biết đón nhận từng giây phút hiện tại Ngài ban cho, thì con người sẽ tìm được niềm vui và hạnh phúc cho cuộc sống của mình. Ngược lại, con người sẽ phải vất vả cực nhọc và cuối cùng, cũng chỉ là người bắt bóng.
Hãy tin vào Chúa quan phòng
Chúa Giêsu không chủ trương cho chúng ta lười biếng hay ỷ lại, mà là muốn chúng ta đừng quá tin cậy vào sức mình, nhưng cần đến sự tin tưởng phó thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Sự tin tưởng vào Chúa quan phòng không có tính cách thụ động, khoanh tay ngồi chờ “trời sinh voi, trời sinh cỏ”, không phải thái độ vô vi, yếm thế, buông trôi. Tín nhiệm hoàn toàn vào Thiên Chúa không có nghĩa là sống trong thụ động, mà là cộng tác với công việc của Thiên Chúa tùy theo ơn gọi của mỗi người: tự giúp mình thì trời sẽ giúp cho.
“Đức tin chân chính phải thể hiện bằng việc làm”, càng tin, càng phải đem “hết sức mình, hết lòng, hết trí khôn, hết linh hồn” cộng tác vào công trình sáng tạo và cứu thế của Thiên Chúa: Biết xây dựng trần thế tốt đẹp như khi Người dựng nên mọi sự tốt đẹp, biết xây dựng Nước trời cho tình thương của Thiên Chúa trải rộng khắp mọi nơi (Hiền Lâm).
“Chỉ có một đường đến hạnh phúc, đó là ngừng lo lắng về những gì vượt khả năng ý muốn của mình” (Triết gia Epictetus). Trong Tin mừng hôm nay, kiểu nói đừng lo được lặp lại đến 6 lần, điều đó cho thấy Chúa Giêsu lưu ý ta đừng để những nỗi lo về nhu cầu của cuộc sống này khiến ta quên đi, - hoặc gạt qua một bên, hoặc coi như chuyện nhỏ, - việc tìm kiếm Nước trời cũng như việc nên thánh trong cuộc đời ta. Ngài không bảo ta vô trách nhiệm với bản thân và gia đình, lười biếng làm việc mưu sinh, vô lo về ngày mai. Trái lại, Ngài dạy ta tin tưởng, cậy trông nơi Thiên Chúa là Cha quan phòng yêu thương. Cha lo liệu cho chim trời, hoa huệ, huống chi con người được Cha yêu thương, đến nỗi ban Con Một cho ta, dẫn ta đến Nước trời (5 phút Lời Chúa).
Truyện: Đừng quá lo cho ngày mai
Một thương gia giàu có nọ đi dạo trên bờ biển, tình cờ ông thấy có những ngư phủ nằm ngủ một cách ngon lành trên thuyền, mặc cho sóng nước chòng chành. Tò mò ông đến hỏi một ngư phủ:
- Sao anh không đi đánh cá?
Chàng ngư phủ trả lời:
- Tôi đã đánh bắt số cá đủ cho ngày hôm nay rồi.
Thấy câu trả lời chưa được thoả mãn, thương gia hỏi tiếp:
- Sao anh không tiếp tục đi đánh, để bắt thêm nhiều cá hơn?
Thay vì trả lời, chàng ngư phủ hỏi lại: - Nhưng thưa ông để làm gì?
Với đầu óc kinh doanh sẵn có, thương gia kia như muốn vạch đường hướng làm ăn cho anh chàng ngư phủ, nên đã trả lời:
- Càng đánh bắt được nhiều cá, anh càng kiếm được nhiều tiền. Có nhiều tiền anh có thể mua được chiếc thuyền lớn hơn, để có thể ra xa hơn, bắt được nhiều cá hơn. Rồi từ một thuyền, anh sẽ có thể có hai, ba, bốn chiếc... và như thế anh sẽ là một người giàu có.
Chàng ngư phủ xem chừng như không thiết tha với kế hoạch làm giàu của thương gia kia nên hỏi tiếp: - Giàu có rồi làm gì nữa?
Thấy như người đối thoại với mình quá chất phác, nên thương gia trả lời:
- Rồi anh sẽ được vui hưởng cuộc sống.
Lúc ấy, chàng ngư phủ mỉm cười nói:
- Thế tôi nằm đây để ngắm nhìn trời biển như thế này không phải là vui sướng cuộc đời hay sao?
11. Một năm mới tốt đẹp Mt 6,25-34—Lm Giuse Đinh Lập Liễm
I. NĂM MỚI VỚI LỜI CHÚA
Bài đọc 1: St 1,14-18.
Thiên Chúa là Alpha và Oméga, nghĩa là Khởi Nguyên và Cùng Tận của vũ trụ muôn loài. Ngài sáng tạo thời gian và không gian, chính Ngài ấn định năm tháng ngày giờ và đặt ra các chu kỳ đại lễ.
Một năm mới bắt đầu là một khoảng thời gian nữa được ban cho chúng ta. Có thời gian là một ơn rất quí. Chúng ta có thời giờ để làm ăn sinh sống, nhưng cũng có thời giờ để chuẩn bị cho đời sống vĩnh cửu.
Bài đọc 2: Pl 4,4-8
Thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Không phải ngẫu nhiên mà thánh Phaolô lại thêm chữ niềm vui của Chúa, vì niềm vui của Chúa thì khác với niềm vui của người ta. Niềm vui của người ta thì tùy ở nhiều yếu tố vật chất bên ngoài; còn niềm vui của Chúa thì nhẹ nhàng thanh thoát và tùy thuộc những điều kiện bên trong nhiều hơn như: tính hiền hòa, lòng quảng đại và tinh thần cầu nguyện. Có được những điều kiện đó là chúng ta có thể vui luôn trong Chúa.
Bài Tin mừng: Mt 6,25-34
Bài Tin mừng mời gọi chúng ta an tâm bước vào năm mới với niềm tin tưởng phó thác cho Chúa. Chúng ta phải biết cái gì đáng lo, đó là sống công chính, lo xây dựng Nước Trời. Xây dựng Nước Trời, có nghĩa là thực thi công bình bác ái, kiến tạo hòa bình và tạo dựng hạnh phúc cho mọi người. Có được Nước Trời như thế, thì còn gì phải lo lắng cho vấn đề cơm ăn áo mặc nữa: tất cả những cái mà chúng ta cho là thiết yếu nhất, chẳng qua chỉ là những cái được “thêm cho” mà thôi.
II. XUÂN ĐẾN XUÂN ĐI, XUÂN BẤT TẬN
Người ta thường nói:
Xuân khứ xuân lai, xuân bất tận,
Nhân hòa nhân thỉnh, nhân trường sinh.
Xuân đến xuân lại đi và sang năm xuân sẽ tới vì quả đất tròn quay mãi không ngừng. Dù có ai yêu hay ghét xuân thì xuân vẫn đến, không phụ thuộc ai dù già trẻ, lớn bé, giầu nghèo, trí thức hay dốt nát, xuân đến một cách nhẹ nhàng, đều đặn.
Chúng ta hãy trở lại với sách Sáng thế. Sách cho biết Thiên Chúa dựng nên trời đất muôn vật và Ngài đã tách ánh sáng ra khỏi bóng tối để làm ra ngày và đêm phân biệt. Ngày và đêm thay đổi nhau để làm nên năm tháng. Ngày đêm thay đổi nhau 365 lần làm nên một năm (x. St 1,14-18)
Sau 365 ngày lại có một năm khác mà ta gọi là “Năm Mới” mà năm nay là năm Tân Mão. Ai trong chúng ta cũng gọi năm nay là năm mới, nhưng có thật là mới không vì có người cho rằng chả có gì là mới cả, năm nào cũng vậy thôi và năm nay có thể cũ hơn năm ngoái.
Trước đây, thi sĩ Trần Tế Xương có cái nhìn khác không giống như mọi người, khi ông nói:
Bắt chước ai ta chúc mấy lời:
Chúc cho khắp hết ai trong đời
Vua quan sĩ thứ người muôn nước
Sao được cho ra cái giống người.
Thực ra, nếu xét theo xuân cảnh vật thì càng ngày càng cũ đi như 70 tuổi thì phải cũ đi hơn là 20 tuổi. Nhưng nếu xét theo xuân trong tâm hồn, tức là xuân của ơn thánh thì có thể gọi là năm mới.
Francis Bacon đã có cái nhìn sâu sắc về vấn đề này khi ông nói: “Con người thời nay đã già cỗi, cần phải trở lại “thời thanh xuân” của con người nguyên thủy”.
Đúng vậy, con người trẻ trung ngày xưa đã bị vật dục làm hư hỏng đã trở nên già khọm. Phải làm sao canh tân con người già cả của chúng ta để trở nên người trẻ trung tươi mát vì nó phải trở nên trẻ thơ mới được vào Nước Trời (x. Mt 19,13-15).
III. NGƯỜI TA CHÚC NHAU NHỮNG GÌ?
Chúng ta cứ coi năm Tân Mão này là Năm Mới đi và cùng mọi người chúc nhau. Vậy người ta thường chúc nhau những gì? Người ta thường chúc nhau một: Năm Mới Tốt Đẹp, Bonne année hay Happy new year. Câu chúc cổ điển nhất của xã hội chúng ta vừa súc tích vừa vắn gọn nhất bằng 3 chữ là: PHÚC, LỘC, THỌ.
Cũng có người chúc nhau nhiều hơn bằng 5 chữ: PHÚ, QUÍ, THỌ, KHANG, NINH. Nhưng có lẽ chữ Phúc luôn đứng hàng đầu vì nếu được tất cả mà thiếu Hạnh phúc thì cuộc đời trở nên vô nghĩa. Chúng ta hãy xem thi sĩ Trần tế Xương nói chuyện với chúng ta về lời chúc Năm Mới như thế nào:
1. Chúc cho sống lâu.
Có người cho rằng năm mới tốt đẹp là ở tại chỗ sống thật lâu thật bền cho đến lúc đầu phủ tuyết, da đồi mồi. Thi sĩ nói:
Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau:
Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu.
Nhưng sống lâu có hạnh phúc không? Tại sao người ta thường nói: “đa thọ, đa nhục” hoặc thành ngữ có câu: “Trẻ khôn qua, già lú lại”. Đã “lú lại” sẽ bị con trẻ chê bai! Đã “lú lại” tất không thể trốn đâu được cái nhục. Không thiếu gì các ông già bà cả bị bỏ rơi, đang sống tủi sống nhục trong tuổi già. Ít có người già nào nói: mình được hạnh phúc trong tuổi già.
Ngắm nhìn ngày tháng dần trôi, người già mới thấm thía câu ca dao:
Còn duyên như tượng tô vàng
Hết duyên như tổ ong tàn ngày mưa.
Còn duyên kẻ đón người đưa
Hết duyên đi sớm về trưa… một mình.
Trước cảnh tượng phũ phàng ấy, người ta tự nhiên cảm thấy ù tai chóng mặt. Để cứu vãn tình thế, tranh thủ thời gian, họ đâm ra ăn chơi phóng đãng:
Ai ơi, chơi lấy kẻo già,
Măng mọc có lứa, người ta có thì.
Chơi xuân kẻo hết xuân đi
Cái già xống xộc nó thì theo sau.
2. Chúc cho giầu có.
Có người cho rằng: năm mới tốt đẹp là ở chỗ làm ăn phát tài phát lộc, tiền chảy vào túi như nước như non. Người ta chúc nhau: “Nhất bản vạn lợi” hay “Một vốn bốn lời”:
Nó lại chúc nhau cái sự giầu
Trăm ngàn vạn mớ để vào đâu?
Người ta chúc nhau giầu có, nhưng thử hỏi giầu có đến đâu là đã thỏa mãn? Chắc chẳng bao giờ ngươi ta thỏa mãn với cái lòng tham vô đáy, nên chẳng bao giờ người ta đạt được sự giầu có như lòng mong ước?. Người ta vẫn khát khao sự giầu có mà không được.
Nhiều người đã tôn vinh tiền của lên hàng thần thánh: thần MAMMON (thần Tiền Của). Vị thần này rất quyền năng, trở thành ông chủ khắc nghiệt tuyệt đối chi phối con người họ, bắt họ làm nô lệ cho mình, và có ai thấy mình được hạnh phúc khi phải sống kiếp nô lệ không?
Ngày 06/06/1976 ông Paul Getty, một người giầu có, đã qua đời. thọ 83 tuổi. Ông để lại khoảng 4 tỉ Mỹ kim. Sau 5 lần ly dị, trong một cuộc phỏng vấn, ông đã tuyên bố: “Tôi đã mong dùng tất cả gia tài của tôi để xây dựng một cuộc hôn nhân hạnh phúc. Tôi sợ mình không thành công. Tôi sợ không thể tạo được hạnh phúc hôn nhân ấy”.
Một lần khác, ông đã phải thú nhận với một phóng viên là ông đã không đạt được hạnh phúc gia đình.
Một lần khác nữa, ông Paul Getty xác nhận: tiền bạc không thể mua được hạnh phúc. Hơn nữa, ông còn tin rằng tiền bạc có bà con với nỗi bất hạnh.
3. Chúc cho vinh sang
Có người cho rằng một năm tốt đẹp là được mọi người ca tụng, tiếng tăm được vang khắp bốn bể, được thiên hạ nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa:
Nó lại chúc nhau cái sự sang
Đứa thì buôn tước, đứa buôn quan.
Danh tiếng vang lừng bốn bể có làm cho người ta được hạnh phúc không? Đây là một chứng từ mà người ta đã biết: ông Anatole France là một người giầu có, được mọi người hoan nghênh, được nếm đủ các thứ khoái lạc trên đời, đã phải thú nhận rằng: “Nếu anh có thể đọc được trong tâm hồn tôi, anh sẽ rùng mình. Trong trời đất không có vật nào vô phúc bằng tôi: người ta tưởng tôi sống hạnh phúc. Thật ra, không bao giờ được sung sướng cả, dầu trong một giờ, dẫu trong một ngày”.
Còn một chứng từ khác của một người còn sang hơn quan nữa, tiếng tăm lừng lẫy khắp muôn phương, được thiên hạ học từ lời ăn tiếng nói, được theo dõi, từ chân tơ kẽ tóc như cô đào minh tinh màn bạc Brigitte Bardot mà cũng không thấy được hạnh phúc.
–?
– Mộng tôi bây giờ không phải là thủ vai tài tử quan trọng. Mộng tôi bây giờ là làm thế nào có đủ can đảm rút lui khỏi màn bạc.
– Thế thì tất cả những công danh của cô xưa rầy là mây, là khói hay sao?
– Phải! Brigitte Bardot đáp lại những câu hỏi bồi hồi của một ký giả báo Văn Đàn. Phải! Tất cả là mây khói, là hư vô.
IV. CHÚNG TA NÊN CHÚC NHAU NHỮNG GÌ?
Nếu chúc cho ông bà anh chị em được sống lâu, giầu có, được vinh sang… thì thấy không ổn vì tất cả những cái đó chưa làm nên hạnh phúc vì nó vẫn là mây khói. Xin được lấy lại câu chúc của thi sĩ Trần Tế Xương một lần nữa:
Bắt chước ai ta chúc mấy lời:
Chúc cho khắp hết ai trong đời
Vua quan sĩ thứ người muôn nước
Sao được cho ra cái giống người.
Câu chúc của thi sĩ “Sao được cho ra cái giống người” xem ra có vẻ hài hước và mang tính cách châm biếm. Nhưng cái nhìn của ông về con người cũng giống như cái nhìn của nhà hiền triết Diogène ngày xưa. Đang giữa trưa ông cầm đèn ra giữa thành phố Athènes để đi tìm cài gì đó. Người ta hỏi tìm gì. Ông trả lời: đi tìm người! Thiếu gì người ở giữa thành phố mà phải đi tìm? Nhưng ông cho rằng những đám người này chưa phải là người đúng nghĩa, ông đi tìm một con người chính danh, con người xứng đáng “linh ư vạn vật” kia!
Năm mới chúng ta chúc nhau hãy trở nên con người đúng nghĩa, phải “linh ư vạn vật ” mới được.
Đối với người Việt nam Công giáo chúng ta, thời gian được ban cho chúng ta trong Năm mới này là để chúng ta “làm người” và “làm con Chúa”. Chúng ta không tự nhiên là người hay là con Chúa được, có là hay không còn tùy thuộc ở chỗ chúng ta có “làm” và có “làm” được hay không. Hạt giống không tự nhiên có thể nở thành cây và sinh hoa kết quả: nó cần phải được gieo cấy trong ruộng trong vườn, và cần phải có thời gian để phát triển. Con người chúng ta cũng vậy, chúng ta là những cái “nhân” được gieo cấy trong ruộng đồng là thế gian này và thời gian được ban cho chúng ta làm nên đời mình bằng cách cộng tác với ân sủng của Thiên Chúa: ân sủng này cũng ví như ánh sáng và sương mưa cần thiết cho sự sinh trưởng của cây.
Chúng ta sẽ trở nên người con có Thiên Chúa là Cha, để chúng ta có thể thưa với Chúa là “Abba, Cha ơi” (Mc 14,36), và chúng ta có mọi người là anh chị em, và đây là một vinh dự lớn lao đối với con người hèn mọn chúng ta, như người ta nói:
Con có cha như nhà có nóc
Con không cha như nòng nọc đứt đuôi.
Cha chúng ta điều khiển muôn loài muôn vật, Ngài nuôi chim trời cá biển, săn sóc từng cây cỏ nơi đồng nội. Ngài lại càng săn sóc chúng ta hơn nhiều vì chúng ta là con của Ngài. Vì thế, chúng ta đừng quá bồn chồn lo lắng về đời sống vật chất cho có cơm ăn áo mặc, hãy tin vào Chúa quan phòng.
Có một điều khác biệt nơi người tin và người không tin là người tin thì một đàng ra sức xây dựng và phát triển những giá trị trần gian (trong đó có sự tích lũy tiền của), một đàng vẫn hướng mắt, hướng lòng, hướng lời cầu về với Thiên Chúa là Cha, là Nguồn Mạch mọi sự giầu có và hạnh phúc.
Nhân dịp Năm Mới, xin chúc ông bà anh chị em một năm mới tốt đẹp và một năm mới tốt đẹp như lời Chúa dạy: “Tiên vàn hãy lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa và ăn ở công chính như Người đòi hỏi; còn tất cả những thứ khác, Người sẽ thêm cho”(Mt (Mt 6,23). Còn ăn ở công chính đây là sống Tám mối Phúc thật như Chúa đã dạy trong bài giảng trên núi (x. Mt 5,3-12).
12. MỒNG MỘT TẾT: Cần lo cái gì và không nên lo cái gì--Mt 6,25-34—Lm Carôlô Hồ Bạc Xái
A. Hạt giống...
Từ chìa khóa là “đừng lo”, từ nghịch nghĩa là “hãy lo”.
Như thế đoạn Tin Mừng này dạy về những gì không nên phải lo và những gì phải lo:
- Đừng lo tìm của ăn cho mạng sống và quần áo cho thân thể (câu 25)
- Tại sao đừng lo những thứ đó? Vì chúng ta có Cha trên trời lo sẵn cho ta rồi (câu 26 và 32).
- Cũng đừng lo cho ngày mai (câu 34)
- Điều quan trọng duy nhất phải lo là: tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài (câu 33). Trong bộ ngữ vựng của Mt, “công chính” có nghĩa là làm theo ý Thiên Chúa.
B.... nẩy mầm.
1. Ngay ngày đầu năm mà đoạn Tin Mừng này bảo đừng lo thì xem ra không hợp. Thực ra đây là đoạn Tin Mừng này định hướng cho cả năm: cần lo cái gì và không nên lo cái gì.
- Chúa Giêsu đã nhắc ta nhớ đến một Đấng rất quan trọng là Cha trên trời. Hãy đặt mình vào vai đứa con nhỏ trong gia đình: Cha nó muốn gì nơi nó? Không phải là muốn nó đi làm ăn kiếm tiền đem về nhà để góp phần mua cơm gạo áo quần thuốc men. Những thứ đó người cha đã lo sẵn hết. Điều người cha muốn là đứa con lo làm theo những diều cha dạy, như học hành, sống ngoan ngoãn, vâng lời v.v. Một đứa trẻ mồ côi phải lo kiếm ăn cho mình thì không ai trách; nhưng một đứa con có cha mà cãi lời cha, không lo học, trái lại trốn học để đi kiếm tiền thì cha sẽ buồn, hàng xóm chê cười cha nó. Bởi thế Chúa Giêsu bảo “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài. Mọi sự khác Ngài sẽ thêm cho”.
2. Điểm lại những thứ chúng ta thường lo, ta sẽ thấy lo làm ăn sinh sống là lớn nhất, còn lo tìm biết đề sống theo ý Chúa là ít nhất, thậm chí ta không hề nghĩ tới. Bài Tin Mừng này dạy ta đảo ngược thứ tự lại.
3. Ba người bạn: Người kia có 3 người bạn. 2 người trước là bạn rất thân, người thứ ba thường thường vậy thôi. Ngày kia ông bị tòa bắt xử liền xin 3 người bạn đi theo để biện hộ. Người bạn thứ nhất từ chối ngay, viện cớ bận việc quá không đi được. Người thứ hai bằng lòng đi đến cửa quan nhưng lại không dám vào. Chỉ có người thứ ba tuy không được ông yêu thích nhưng tỏ ra trung thành vào tận tòa án biện hộ cho ông ta không những trắng án mà còn được thưởng nữa.
Người bạn thứ nhất là Tiền bạc. Khi ta chết, tiền bạc bỏ rơi ta, chỉ để lại cho ta một chiếc chiếu và một cái hòm. Người bạn thứ hai là Bà Con Bạn Hữu. Họ khóc lóc đưa ta tới huyệt rồi về. Người bạn thứ ba là các Việc Lành. Chúng theo ta đến tòa phán xét và đưa ta vào cửa thiên đàng. (Trích "Phúc")
13. Hãy chăm chú vào ngay hôm nay (Mt 6,25-34)--Lm. Giuse Đinh Tất Quý
Chỉ còn không đầy 6 giờ đồng hồ nữa là chúng ta bước vào một năm mới. Hôm nay thay vì suy niệm dựa trên bài Tin Mừng, tôi xin được dành ít phút này để đi tìm một lời chúc gửi đến Anh chị em nhân dịp đầu năm mới. Tôi sẽ chúc Anh chị em cái gì đây?
Hồi tôi còn nhỏ, tôi thấy vào mỗi dịp tết, người ta thường chúc cho nhau: Đa tử, đa tôn, đa phú quí. Hãy tạm gác lời chúc đa phú quí sang một bên. Và nếu bây giờ tôi lặp lại lời chúc như thuở hôm nao “đa tử, đa tôn” thì chắc là Anh chị em sẽ “dội” hết. Xã hội hôm nay người ta đang sợ có những con người mới xuất hiện trên đời. Con cái ngày nay xem ra là một gánh nặng hơn là một hạnh phúc cho một gia đình. Và xem như là khi có một con người mới được sinh ra đời thì cuộc sống của những người đang sống trên đời sẽ bị thiệt thòi về một phương diện nào đó. Tôi không muốn đưa ra một lời nhận định về vấn đề này. Cứ nhìn đang 'hot' ở bên Mỹ hôm nay về vấn đề phá thai và những bảng hiệu được dựng lên ở khắp nơi và những lời khuyến cáo được nhắc đi nhắc lại về vấn đề kế hoạch hóa gia đình mỗi ngày nhiều lần trên các phương tiện truyền thông thì chúng ta đã đủ rõ. Bởi vậy tôi không dám chúc cho Anh chị em như những người xưa vốn chúc cho nhau mỗi độ Xuân về.
Ngày tết tôi thường thấy người ta chúc cho nhau ba chữ Phúc-Lộc-Thọ,
Chúc cho nhau hạnh phúc.
Hạnh phúc thì ai mà chẳng muốn. Thậm chí có người còn định nghĩa cuộc đời là cuộc săn tìm hạnh phúc. Hạnh phúc quả là một khát vọng lớn nhất của loài người. Thế nhưng hạnh phúc có thể có được do lời người ta chúc hay không thì điều đó phải suy nghĩ lại. Nếu hạnh phúc do lời chúc mà có được thì tôi chắc là trên đời này sẽ chẳng còn ai đau khổ. Thế nhưng thực tế của cuộc sống không cho phép chúng ta nghĩ như thế. Trong Tin Mừng Anh chị em thấy Chúa Giêsu có đề cập đến vấn đề hạnh phúc cho con người chúng ta, nhưng rõ ràng là Chúa không muốn nói tới một thứ hạnh phúc từ trời rơi xuống. Có lẽ phải nói ngược lại mới đúng. Chúa vạch ra cho người con đường dẫn tới hạnh phúc và muốn có hạnh phúc thì chính con người phải cất bước đi theo con đường đó với tất cả nỗ lực và cố gắng của mình. Có lẽ trong chính ý nghĩa đó mà Cha Teilhard de Chardin đã gọi “Hạnh phúc là kết quả của nỗ lực”. Bởi vậy nếu chính chúng ta không xây dựng hạnh phúc cho chúng ta thì dù là chúng ta có nhận được bao nhiêu lời cầu chúc hạnh phúc đi nữa cũng chỉ là vô ích. Bởi vậy tôi cũng không dám chúc hạnh phúc cho Anh chị em. Chúc một điều mà thực tế không thể có được đó là một việc làm vô ích. Tôi không muốn làm một điều vô ích.
Chúc Lộc cho Anh chị em chăng?.
Nhiều tiền nhiều bạc ai mà chẳng ham. Tiền bạc giúp ta giải quyết được rất nhiều vấn đề trong cuộc sống nhất là ngày hôm nay khi tiền bạc được nhiều người dùng nó như một chuẩn mực để lượng giá. Không có tiền cuộc đời mất đi nhiều thứ...
Thế nhưng tôi không dám chúc cho Anh chị em có nhiều tiền nhiều bạc. Lý do duy nhất là vì tôi sợ. Tiền bạc là một tên đầy tớ tốt nhưng là một ông chủ xấu, rất xấu.
Bình thường thì chẳng có gì mà phải sợ. Bởi tiền bạc có là gì đi nữa thì cũng chỉ là dụng cụ để trao đổi trong cuộc sống. Nó là một tên đầy tớ và chỉ đáng là một tên đầy tớ. Nhưng nó đáng sợ vì người ta dễ phong thần phong thánh cho nó và biến nó thành một Ông chủ, thậm chí một thứ Siêu Thượng đế, siêu quyền lực. Cứ nhìn vào thế giới hôm nay thì chúng ta đủ rõ. Và đó là lý do cho tôi phải sợ. Khi tiền bạc có được một địa vị như thế rồi thì sức tác oai tác quái của nó thật không thể lường được.
Tôi nhớ một sự kiện chính mắt tôi được nhìn thấy và chính tai tôi nghe thấy cách đây khoảng hơn hai mười năm, nhưng không bao giờ tôi quên được. Hôm ấy tôi đi chợ tết. Tôi dừng lại ở một gian hàng nhỏ bán đồ trang trí bằng gỗ bên vỉa hè trước Nhà Sách Khai Trí cũ. Gian hàng ế ẩm không có khách mua. Người bán hàng là một thanh niên trạc độ trên hai mươi tuổi. Có lẽ vì sự ế ẩm mà anh ta không để ý đến sự có mặt của tôi. Tay anh ta vân ve một cái khung ảnh nhỏ, miệng anh ta ca lên những lời ca thật mùi theo giọng cổ nhạc của miền Nam. Tôi không nhớ hết những lời trong bài anh ta ca, nhưng có một câu, anh lên giọng rất cao và rên rỉ rất mùi... làm cho tôi phải nhớ mãi. Câu đó như thế này: “Hết tiền tiêu thì người yêu anh cũng bán”
Mặc dù tôi không biết người yêu của anh ta là ai nhưng lòng tôi tôi cũng cảm thấy đau xót. Sau đó tôi đi vào trong một tiện bán đồ trang sức gần đó, tôi đang quan sát thì bỗng tôi nghe thấy mấy đứa trẻ kháo láo với nhau: “Chúng mày ơi, Chúa Giêsu mà có 3O đồng à”. Tôi chợt nhớ lại câu chuyện của Giuđa. Giuđa bán Thầy Chí Thánh của mình cũng với giá 3O đồng.
Tiền bạc thưa Anh chị em! Thật đáng sợ. Khi nó đã là một chủ nhân ông thì nó có thể tiêu diệt một cánh thật hiệu quả cả những giá trị cao đẹp nhất trong cuộc đời của chúng ta. Có lẽ cũng vì thấy tính cách nguy hiểm của nó cho nên Chúa đã nhiều lần cảnh cáo “Những người cậy dựa vào tiền bạc thật khó vào nước Thiên đàng biết bao. Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào nước Thiên đàng”.
Vì tiền vì bạc mà mất cả tình nghĩa, vì tiền vì bạc mà đánh mất cả nhân phẩm, đánh mất cả những giá trị cao quí của một con người và hơn nữa của một Người con Thiên Chúa thì tôi nghĩ thà đừng có tiền bạc còn hơn. Bởi vậy mà tôi sợ không dám chúc cho Anh chị em nhiều tiền nhiều bạc. Tôi không sợ tiền bạc nhưng sợ sự yếu đuối trong cõi lòng của mỗi người chúng ta.
Chúc thọ cho Anh chị em chăng?
Điều này thì tôi càng không dám nữa. Vì sự sống hay sự chết hoàn toàn nằm trong tay của Thiên Chúa thưa Anh chị em.
Sự sống quí giá vô cùng nhưng nó không nằm trong tay của chúng ta. Nữ hoàng Êlizabeth bên nước Anh sẵn sàng trả 1 triệu Anh Kim cho những ai có thể kéo dài đời của Bà được thêm được 5 phút thôi, để Bà giải quyết cho xong những việc cần còn lại trước khi nhắm mắt, thế mà chẳng ai làm nổi. Tới thời giờ Chúa gọi thì tất cả phải chắp tay lại mà thưa hai tiếng xin vâng... không có cách nào khác. Bởi vậy mà tôi không dám chúc thọ cho Anh chị em. Giả như cứ chúc thì lời chúc cũng chẳng có giá trị gì. Lại làm thêm một việc vô ích nữa.
Ngày hôm nay, người ta thường chúc cho nhau sức khỏe.
Trong một cuộc phỏng vấn gần đây dành cho báo chí, công chúa Masako Owada đã cho biết ý kiến của mình như sau về hạnh phúc và Tình yêu. Bà nói: Đối với người Châu Âu thì hạnh phúc được gói trọn trong ba chữ: Tuổi trẻ, sắc đẹp và quyền lực. Còn đối với người Á châu thì là Tình yêu, sức khỏe và gia đình”.
Sức khỏe là một trong những yếu tố rất quan trọng làm nên hạnh phúc cho chúng ta, nhưng sức khỏe cũng không thể do lời chúc mà có. Nó còn tùy thuộc vào nhiều điều kiện khác như dinh dưỡng, vệ sinh, sự điều độ trong cuộc sống.. vân vân...
Và bây giờ tôi xin chúc: Xin Chúa cho Anh chị em được sống trọn vẹn và đầy đủ những phút giây hiện tại của cuộc sống trên trần gian này.
Quá khứ đã khép lại....quá khứ đã chết rồi thưa Anh chị em. Tương lai thì chưa tới. Bác sĩ Osler nói: “Cách hay nhất và độc nhất để sửa soạn cho ngày mai là đem tất cả thông minh hăng hái của ta tập trung vào công việc hôm nay”
Robert Louis Stevenson cũng nói: “Bất cứ ai cũng có thể sống một cách êm đềm, trong sạch, kiên nhẫn đầy tình thương chan chứa trong lòng từ lúc mặt trời mọc cho tới khi mặt trời lặn. Đó là ý nghĩa của cuộc đời”
Edwards Evan bảo: “Đời sống nằm ở trong hiện tại, trong mỗi ngày chúng ta sống, trong mỗi giờ chúng ta sống, trong mỗi phút chúng ta sống”
Kalidasa một kịch sĩ nổi tiếng của Ấn độ có viết một bài thơ nổi tiếng sau đây: “Hãy chăm chú vào ngày hôm nay, vì nó là đời sống, chính là sự sống của đời sống.
Nó tuy ngắn ngủi, nhưng chứa tất cả chân lý về cuộc đời của ta:
Sự sung sướng khi tiến phát
Sự vẻ vang của hành động
Sự rực rỡ của thành công
Vì hôm qua chỉ là một giấc mộng
Và ngày mai chỉ là một ảo tưởng
Nhưng hôm nay nếu biết sống đầy đủ, ta sẽ thấy hôm qua là một giấc mộng êm đềm và ngày mai là hình ảnh của hy vọng.
Vậy ta hãy chăm chú vào ngay hôm nay
Và những lời này của Chúa Giêsu: “Anh em đừng lo cho ngày mai. Nước Trời đang ở giữa anh em. Thiên đàng ở trong lòng anh em”
Xin chúc Anh chị em được như thế...
Và nếu chúng ta sống được như thế, chúng ta sẽ có sức khỏe, sẽ dễ làm ra tiền bạc, sẽ có đời sống vui tươi, và cuối cùng dù không đi tìm, hạnh phúc cũng sẽ đến với chúng ta. Amen.
14. GIAO THỪA Thời gian nằm trong tay của Thiên Chúa 2021--Lm. Giuse Đinh Tất Quý
Anh chị em thân mến
Năm cũ đang dần dần khép lại và năm mới đang dần dần mở ra cho chúng ta. Năm cũ đang lui dần vào quá khứ và năm mới đang từ từ dẫn chúng ta vào tương lai. Quá khứ - Tương lai - không nằm ở trong tay chúng ta. Một giây qua đi chúng ta không thể nào tìm lại được. Một phút chưa tới chúng ta cũng chẳng có cách nào để có được nó trong tay. Thời gian không nằm trong tay của con người nhưng nằm trong tay của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa mới là chủ của thời gian nhưng Thiên Chúa lại ban thời gian đó cho con người để con người sử dụng. Con người sử dụng thời gian để làm gì thì Sách Giảng Viên đã có những gợi ý rất hay:
Ở dưới bầu trời này,
mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời:
có thời để chào đời, có thời để lìa thế;
có thời để trồng cây, có thời để nhổ cây;
có thời để giết chết, có thời để chữa lành;
có thời để phá đổ, có thời để xây dựng;
có thời để khóc lóc, có thời để vui cười;
có thời để than van, có thời để múa nhảy;
có thời để quăng đá, có thời để lượm đá;
có thời để ôm hôn, có thời để tránh hôn;
có thời để kiếm tìm, có thời để đánh mất;
có thời để giữ lại, có thời để vất đi;
có thời để xé rách, có thời để vá khâu;
có thời để làm Thiên, có thời để lên tiếng;
có thời để yêu thương, có thời để thù ghét;
có thời để gây chiến, có thời để làm hoà.
Vì mọi sự Thiên Chúa làm sẽ tồn tại mãi mãi.
Không có gì để thêm, chẳng có gì để bớt.
Điều gì đang có, xưa kia đã có,
điều gì sẽ có, xưa đã có rồi.
Người công chính cũng như kẻ gian ác đều sẽ bị Thiên Chúa xét xử.
Vì mọi sự, mọi việc, đều có thời, có lúc. (GV 3,1-8;14-15)
Vâng quả đúng như vậy: mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời và thời giờ đi thật mau.
Dù ta muốn hay không muốn,
bằng lòng hay không bằng lòng,
vui hay buồn,
sướng hay khổ,
thời giờ vẫn cứ đi, luôn luôn đi về phía trước.
Trong một bài thơ cổ, người ta đọc thấy những dòng chữ này:
Khi tôi là một đứa trẻ, tôi cười tôi khóc
thì lúc đó thời gian bò tới
Khi tôi là một thanh niên, tôi táo bạo hơn
thì thời gian đi bộ
Khi tôi trưởng thành, tôi là người chững chạc
thì thời gian chạy
Cuối cùng khi tôi bước vào tuổi chín mùi, tuổi già
thì thời gian bay
Chẳng bao lâu nữa là tôi chết
Thì thời gian đi mất
Ôi lạy Chúa, khi cái chết đến
thì ngoài Chúa ra, không còn gì là quan trọng nữa.
Như vậy vấn đề còn lại là tôi phải sử dụng thời giờ Chúa ban cho tôi như thế nào?
Vào một ngày cuối năm khi những giờ phút cuối cùng của năm cũ đang dần dần lui vào quá khứ, và giờ phút giao thừa đang dần dần đi tới với tất cả những huyền bí của thời gian.
Trong một túp lều tranh nhỏ bé, một bác nhà quê đang ngồi lim dim, lẻ loi một mình trong cô quạnh. Trí khôn bác đang dồn dập những ý tưởng mơ hồ viển vông về ngày Tết đang tới.
Tết tới, những gia đình bác quá nghèo thành thử chẳng thấy được hương vị gì của của ngày tết.
Đang khi tâm hồn của bác còn phảng phất trong trong cõi mông lung vô hạn, thì bỗng tự trên ngọn tháp nhà thờ đồng hồ buông xuống 12 tiếng chuông vàng, thanh trong hoan hỉ. Giây phút linh thiêng của đêm giao thừa vừa mới bắt đầu, thì đột nhiên bác ta thấy một chàng thanh niên lạ mặt xô cửa bước vào, đi thẳng tới, nặng nề đặt xuống trước mặt bác một gói gì nằng nặng. Sau đó người thanh niên nhìn chằm chằm vào đôi mắt còn đang ngỡ ngàng của bác và nói:
- Đây là một túi vàng. Túi vàng này ngươi hãy dùng cho khôn ngoan, rồi ngươi sẽ gặp được hạnh phúc.
Nói xong người thanh niên lạ mặt ấy nhún chân một cái rồi bay thẳng lên nóc nhà và biến đi trong đêm tối vào cõi thanh không.
Trước cảnh tượng vừa lạ lùng vừa đột ngột đó bác nhà quê cảm thấy rất sửng sốt và hoang mang. Bác đưa tay lên dụi mạnh vào mắt xem mình còn thức hay đã ngủ,
- Tôi mơ chăng?
Không! Bác không mơ. Hay có thể nói một giấc mơ đã trở thành sự thật.
Tâm hồn bác dần dần chấn tỉnh lại và thấy đây không phải là một giấc mơ mà là một sự thật, một sự thật hoàn toàn hiển nhiên.
Sau một vài phút suy nghĩ, bác liền nghiêm chỉnh tự nói với chính mình:
"Với số vàng này, một phần tôi sẽ dùng để trả nợ.
Còn dư bao nhiêu, tôi phải tiêu xài cho thật khôn ngoan."
Kính thưa anh chị em
Câu chuyện trên đây là câu chuyện của tôi, của anh chị em, của mỗi người chúng ta. Một năm mới nữa lại sắp tới. Đây là thời gian Chúa ban chúng ta. Chúng quí hơn túi bạc túi vàng. Thánh Bernađinô nói: "Thời giờ quí bằng Thiên Chúa"
Thời giờ quí hơn vàng hơn bạc. Vàng bạc mất đi chúng ta có thể có lại. Vàng bạc mất đi chúng ta có thể tìm thấy. Nhưng một giây một phút qua đi là qua đi mãi mãi. Cho dù có là thần là thánh đi nữa chúng ta cũng không thể nào tìm lại được một giây, một phút đã qua đi.
Thời giờ quí giá hơn vàng bạc. Vậy tôi phải bắt chước bác nhà quê kia. Một mặt tôi dùng thời giờ Chúa ban cho tôi trong năm mới này để trả nợ những gì tôi mắc nợ Chúa. Trong suốt một năm qua, Người đã ban cho tôi muôn vàn ơn cao qui: Ơn Bình an, ơn trung thành, ơn được sống trong ơn thánh. Chúa chăn nuôi tôi như mục tử chăn dắt đoàn chiên. Thế nhưng trong suốt năm qua, rất nhiều lần tôi đáp lại bằng những thất tín nặng nề. Trước thềm năm mới, tôi xin dâng lên Chúa Xuân những lời cáo lỗi chân thành.
Mặt khác, tôi sẽ dùng năm mới này cho khôn ngoan, lợi dụng từng giây từng phút mà góp công chuộc tội.
Nếu trong năm mới này hình ảnh Chúa Xuân trong hồn tôi được thêm tốt đẹp, thì năm mới này sẽ là một năm hồng ân và cuộc đời tôi sẽ ngập tràn hạnh phúc.
Lạy Cha
Cha đã cho chúng con được sống thêm một năm
đi thêm được một đoạn đường đời
Nhìn lại đoạn đường đời đã qua
Chúng con chỉ biết nói lên lời tạ ơn chân thành
Vì Cha vẫn cho chúng con sống
Và sống trong tình yêu
Mọi biến cố vui buồn của năm qua
Đều là những mời gọi kín đáo của Cha
Để thức tỉnh, nâng đỡ và đưa chúng con lên Cha
Tạ ơn Cha,
Vì những gì cuộc đời đã làm cho chúng con
Và những gì chúng con đã làm được cho cuộc đời
Xin cho chúng con sống những ngày Tết Dân tộc
Trong tinh thần vui tươi, hòa nhã
Và không quên những ai nghèo khổ cô đơn
Ước gì những lời chúng con chúc cho nhau
Là những lời chúc lành
Xuất phát từ trái tim yêu thương
Và Lạy Cha, năm mới sắp đến
Trái đất lại xoay một vòng mới quanh mặt trời
Chúng con cũng muốn
Ở lại trong quỹ đạo của Cha
Nhận Cha làm trung tâm của cuộc sống
Và nhận mọi người là anh em. Amen.
15. MÙNG MỘT TẾT 2021 Cầu bình an--Lm. Giuse Đinh Tất Quý
Anh chị em thân mến,
Chúng ta vừa nghe một trong những đoạn Tin Mừng hay nhất của sách Tin Mừng. Cá nhân của tôi đã đọc đoạn Tin Mừng này không biết bao nhiêu lần và lần nào khi đọc xong tôi cũng cảm thấy một cảm giác thật phấn khởi.
Chọn bài Tin Mừng này để đọc vào thời điểm chúng ta bắt đầu một năm mới tôi cho là một chọn lựa tuyệt vời. Đây không phải là một đoạn Tin Mừng chỉ đòi đòi hỏi chúng ta phải rà lại cách sống của chúng ta trước mặt Chúa mà nó còn là một đoạn Tin Mừng giúp chúng ta định hướng cho những ngày chúng ta sắp sống trong một tương lai đang đi tới của chúng ta.
Đây là một việc làm rất cần thiết. Nó quyết định cho sự thành – bại, vui tươi hạnh phúc – hay bất hạnh của cuộc đời mỗi người chúng ta.
Đọc cả đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu Chúa của chúng ta là một con người rất thực tế. Ngài biết thật rõ cuộc đời của mỗi con người. Ngài biết thật rõ cuộc đời không chỉ toàn là mầu hồng mà bên cạnh đó còn có cả những khốn khó gian nan và những khốn khó gian nan này thì hầu như ngày nào cũng có. Bởi vậy khi phác họa ra một thái độ sống cho mỗi ngày như trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu chỉ muốn nhắm tới một mục đích là giúp cho mỗi người chúng ta có thể tìm thấy niềm vui và hạnh phúc cho cuộc sống của mình.
Đừng lo:
Dale Carnegie cắt nói thêm: “Đừng lo không có nghĩa là đừng nghĩ. Bạn cứ việc nghĩ tới ngày mai đi, cứ cẩn thận suy nghĩ, cứ dự tính, cứ sửa soạn, nhưng đừng lo lắng gì hết”
Đừng lo lắng gì hết bởi vì con người dù có lo lắng đến đâu đi nữa, như Chúa Giêsu nói, cũng chẳng có thể kéo dài cuộc đời của mình dù là chỉ thêm vài gang tấc.
Đàng khác lo lắng còn là thái độ của một người không có lòng tin. Nếu thực sự con người biết tin nơi Thiên Chúa thì chắc chắn họ sẽ không có gì phải lo lắng.
Chúa Giêsu nói thật rõ: “Cha chúng con biết chúng con cần gì” Nói thế không có nghĩa là Chúa bảo chúng ta chẳng cần phải làm gì cả. “Tình phụ tử của Thiên Chúa không phải là chính sách phụ mẫu, nghĩa là một sự che chở đầy ủy mị, bao bọc khỏi mọi may rủi bất trắc của cuộc đời. Một người cha biết yêu con không phải bao giờ cũng có ý tránh cho con mình khỏi mọi thử thách, đau khổ hay chiến đấu. Nhưng theo sức của ông, ông sẽ biến đau khổ thử thách thành kinh nghiệm có ích lợi cho đứa con” Tình yêu như thế mới là tình yêu thật sự.
Hơn nữa khi tin vào Thiên Chúa con người cũng còn phải biết phó thác tất cả cho Người. Phải tin vào giá trị của mình cũng như phải tin vào quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa. Chim chóc hoa cỏ mà còn được Chúa để ý chăm nom thì huống chi là con người. Bởi thế nói theo kiểu của Thánh Phaolô thì “ngay cả khi ta phục vụ Thiên Chúa mà ta vẫn bị đói rách hay bị chết chóc thì ta vẫn không phải là kẻ bị quyền năng Thiên Chúa tử bỏ (Rom 8,28; Mt 10,28-31) mà đó còn là một cái phúc.(Mt 5,3-12) Chỉ có Thiên Chúa mới hiểu hết được những sự tốt lành mà Ngài làm cho các con cái của Người.
Hoài Nam Tử có thuật lại một câu truyện như sau: có một ông lão ở gần cửa ải có một con ngựa tự nhiên bỏ sang nước Hồ. Láng giềng biết tin đó đến hỏi thăm.
Ông lão nói:
– Mất ngựa thế mà biết đâu lại là cái phúc.
Cách mấy tháng con ngựa của ông tự nhiên quay trở về, lại về với một con ngựa khác. Láng giềng nghe tin đến mừng. Ông lão nói:
– Được ngựa thế biết đâu lại là một mối họa.
Từ khi có con ngựa hay, đứa con ông lão ngày ngày mải mê tập dượt. Một hôm chẳng may bị té ngã và què mất một chân.
Láng giềng nghe tin lại đến chia buồn.
Ông lão nói:
– Con tôi què thế nhưng biết đâu lại là một cái phúc.
Một năm sau bỗng có giặc Hồ xâm lăng, nhà vua hạ lệnh tổng động binh. Con ông lão vì què chân cho nên được miễn nhập ngũ. Trận chiến ác liệt chưa từng thấy. Tướng sĩ lâm trận mười phần tử trận mất chín. Nhờ được ở nhà mà con ông lão thoát được hiểm nguy chết chóc và nhờ đó mà hai cha con vẫn còn được sống bên nhau.
Vậy trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người… Còn tất cả những thứ khác Người sẽ thêm cho”
Đây là câu nói thật quan trọng và cũng là điều kiên tất yếu mà khoa Thần học gọi là điều kiện “sine qua non” có nghĩa là điều kiện không thể không có để cho một điều gì đó được thành sự hay được xẩy ra.
Theo bản văn Thánh Kinh hôm nay thì việc “trước hết phải tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người” là điều kiện để Chúa thực hiện lời hứa “Còn các điều khác sẽ được ban thêm cho”
Việc tìm kiếm nước Thiên Chúa mà Chúa Giêsu nói ở đây không phải là sự tìm kiếm giống như tìm kiếm một đồ vật nhưng là thái độ gồm cả ý chí, nỗ lực và hành động hướng về Thiên Chúa, để cho Thiên Chúa chi phối và điều khiển mọi suy nghĩ và hành động của mình sao cho những hành động đó thể hiện được thánh ý của Người. Làm được như vậy là con người đã làm được điều mà bài Tin Mừng hôm nay gọi là tìm kiếm nước Thiên Chúa.
Và sau đó chắc chắn Thiên Chúa sẽ thực hiện những gì Ngài đã hứa cho chúng ta.
Câu truyện số 33 trong Góp nhặt B kể lại một biến cố rất đặc biệt xẩy ra trong Công đoàn các chị nữ tu Bác ái của Mẹ Têrêxa thành Calcutta. Kể câu truyện này để anh chị em thấy việc Thiên Chúa làm lạ lùng như thế nào. Mỗi ngày tại Calcutta hội dòng phải chăm sóc cho khoảng chừng 7000 người một số người bằng cả giáo xứ Bùi Phát của chúng ta – rồi còn phải lo cung cấp thực phẩm cho họ nữa. Vào một ngày thứ sáu nọ, chị nữ tu coi sóc nhà bếp đến thưa với mẹ:
– Thưa mẹ, trong nhà không còn gì ăn cho hôm nay và ngày mai nữa.Tốt hơn hết là chúng ta nên bo cho họ biết điều đó.
Nghe điều đó, mẹ không biết phải trả lời cho chị phụ trách nhà bếp như thế nào. Cả 7000 ngàn người ăn chứ đâu phải ít.
Thế nhưng vào khoảng 9 giờ sáng hôm đó không hiểu vì lý do gì mà chính quyền Ấn độ tuyên bố đóng cửa tất cả các trường công lập. Thế là số bánh mì làm sẵn cung cấp cho các học sinh không có chỗ sử dụng và chúng được chở thẳng tới cho mẹ Têrêxa. Và tất cả 7000 người từ nhỏ tới lớn có đủ bánh mì ăn trong hai ngày và hơn nữa còn được ăn no nê hơn cả những lần khác.
Chẳng ai hiểu được lý do. Nhưng mẹ Têrêxa thì thấy thật rõ. Mẹ nói: “Đó chính là dấu chỉ của Tình thương Thiên Chúa. Người là người Cha giầu lòng yêu thương đối với con cái mình”
Thánh Phanxicô Assisi khi trình bản nội qui lên Đức Thánh Cha để xin Ngài chuẩn y. Sau khi Đức Thánh Cha đọc xong, ngài hỏi Phanxicô Assisi:
– Các tu sĩ của con sẽ sống bằng cái gì?
– Tâu Đức Thánh Cha, Thiên Chúa là một người Cha đầy uy quyền, nhưng Người cũng là một người Mẹ nhân từ.” (?!)
Một hôm đang trên con đường vào Giêricô Chúa Giêsu nghe thấy có một tiếng than từ xa xa vọng lại: – Lạy Ngài Giêsu, con Vua Đavid, xin thương xót con.
Chúa Giêsu dừng chân lại:
– Con muốn xin gì đây?
– Lạy Thầy, xin cho con được sáng mắt.
Thấy anh ta mạnh tin, Chúa hiền từ đáp:
– Được lắm. Lòng tin của anh đã cứu anh.” (Lc 18,35)
Lòng tin vào Chúa quan phòng là con đường giải thoát rực rỡ huy hoàng cho mọi người nhất là trong thời đại này.
16. Thời gian (Mt 6,25-34)
Một năm mới đã bắt đầu, nhưng cũng một năm cũ đã qua đi trong dòng đời của chúng ta. Vậy đâu là ý nghĩa của thời gian, của cuộc đời chúng ta đang sống?
Người xưa đã bảo: thời giờ thấm thoát thoi đưa. Một khi đã qua đi thì không bao giờ trở lại. Cũng như chẳng ai tắm hai lần ở cùng một dòng sông. Cuộc đời chúng ta trải dài 60 năm hay 100 năm là cùng. Thế nhưng 60 năm ấy, 100 năm ấy có là gì so với khoảng thời gian bao la của vũ trụ. Bởi đó, người xưa đã phải thốt lên một cách não nề khi nghĩ đến cuộc đời ngắn ngủi: Ôi nhân sinh là thế ấy, như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao. Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy, cảnh phù du trông thấy cũng nực cười. Và Thánh Vịnh cũng đã sánh ví: Cuộc đời như cánh hoa đồng nội, sớm nở chiều tàn.
Bởi đó, tự ngàn xưa và cho đến ngày hôm nay, con người đã tìm mọi cách để kéo dài cuộc sống và khát vọng được sống vĩnh cửu vẫn là niềm day dứt nhất của con người. Ngày xưa, có những người đã phải vào tận rừng sâu để tìm cho được trái đào trường thọ. Có những người đã phải khổ công tu luyện để chến biến cho được những viên thuốc bất tử. Có một ông vua, đã phải xây những ngọn tháp cao vút để hứng lấy những giọt sương thuần khiết nhất mà uống vì nghĩ rằng những giọt sương thuần khiết ấy có sức kéo dài sự sống con người. Ngày nay y khoa luôn cố gắng tìm ra những phương thuốc hiệu nghiệm tăng thêm tuổi thọ cho con người. Tuy nhiên cái chết vẫn là một thách thức, một thực tại ngàn đời không thể lẩn trách và ước vọng được sống mãi vẫn còn ở ngoài tầm tay của chúng ta, nếu không muốn nói là một huyền thoại, một ảo vọng như câu chuyện dưới đây đã minh chứng:
Thời Chiến quốc, có người đem dâng vua nước Sở một vị thuốc bất tử. Người đó bưng thuốc vào thì viên canh cửa bèn hỏi: Vị thuốc này có ăn được không? Người ấy đáp: Ăn được. Tức thì viên canh cửa bèn giật lấy vị thuốc ấy mà ăn. Nhà vua biết được câu chuyện thì giận lắm, bèn truyền bắt viên quan ấy mà đem đi chém đầu. Viên quan ấy kêu lên rằng: Thần đã hỏi người đem dâng và được biết đó là một vị thuốc bất tử, nghĩa là ăn vào thì sẽ không chết nữa. Thế mà thần vừa mới ăn, thì đã phải tội chết. Như vậy, đây là thuốc tử thuốc chết, chứ sao lại gọi là bất tử cho được. Nhà vua giết thần là bắt lỗi một con người vô tội, đồng thời tỏ ra rằng thiên hạ dối gạt nhà vua mà nhà vua vẫn tin. Nghe nói có lý, nhà vua bèn tha cho viên canh cửa.
Câu chuyện trên muốn chứng tỏ rằng: Có sinh thì phải có tử. Thuốc bất tử chỉ là chuyện bịa đặt mà thôi. Tuy nhiên, ước vọng được sống mãi, được sống đời đời vẫn còn đó. Mỗi độ xuân về, chúng ta thường cầu chúc cho nhau được trường thọ khang an, bách niên giai lão. Và những bức tranh bình dân của mấy ngày tết là gì, nếu không phải là diễn tả ba niềm vui lớn của con người, là Phúc Lộc Thọ. Cho dù cuộc đời có cay đắng thì sự sống vẫn là một cái gì quý giá cần phải bảo vệ. Còn sự chết vẫn là một cái gì đáng lo sợ.
Chúng ta bất lực trước khát vọng được sống mãi và người khác cũng không thể thực hiện cho chúng ta lời chúc trường thọ. Chỉ mình Chúa mới là Đấng dư quyền năng và tình thương để làm cho chúng ta được sống như lời Ngài đã phán: “Ta là Đường, là sự thật và là sự sống. Ai tin Ta sẽ không phải chết, nhưng sẽ được sống đời đời. Ta đến để họ được sống và được sống dồi dào”. Thực vậy, Thiên Chúa đã xuống thế làm người để chỉ cho chúng ta con đường dẫn đến sự sống. Đạo của chúng ta là đạo của Tin Mừng, của niềm vui, của sự sống. Vậy muốn được sống, chúng ta phải đi trên con đường Chúa đã chỉ vẽ. Phải tuân giữ những điều Ngài đã truyền dạy, phải thực thi cái đạo mà Ngài đã tỏ lộ. Con đường ấy, cái đạo ấy gồm hai chiều kích: hàng dọc và hàng ngang.
Trước hết, hàng dọc là phải kính mến Chúa vì đó chính là bổn phận của một kẻ nhận ơn đối với Đấng đã ban ơn, của thụ tạo đối với Đấng tạo hoá, của kẻ làm con đối với người cha của mình: Hãy kính mến Thiên Chúa hết tâm hồn, hết trí khôn như Chúa đã dạy. Tiếp đến, hàng ngang đó là phải yêu thương mọi người như chính mình, không trừ một ai, kể cả kẻ thù địch như Chúa đã dạy: Hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét mình. Phải đủ cả hai mới là đạo. Vì nếu chỉ mến Chúa mà không yêu người, thì chúng ta là kẻ nói dối. Còn nếu chỉ yêu người mà không mến Chúa, thì mọi hành động của chúng ta đều trống rỗng và vô nghĩa như tiếng não bạt ầm vang. Người vô thần không tin thờ Chúa, chúng ta gọi họ là kẻ vô đạo. Còn chúng ta, mặc dù đã tin Chúa, nhưng lại không yêu thương anh em, thì chúng ta cũng chỉ là một thứ vô đạo mà thôi.
Hãy mến Chúa và yêu người, để nhờ đó, lời cầu chúc trường thọ của chúng ta sẽ được Chúa thực hiện cho cá nhân chúng ta cũng như cho những người mà chúng ta cầu chúc.
17. GIAO THỪA--Nhìn lại và nhìn đi—Mt 5,1-10
Chúng ta đã bước qua ranh của năm cũ và đang đứng ở đầu ranh của năm mới. Năm cũ là một chặng đường dài và năm mới cũng sẽ là một chặng đường dài. Đứng ở giáp ranh hai chặng đường dài ấy, chúng ta thường có hai hướng nhìn. Một là nhìn lại, hai là nhìn đi. Nhưng đâu là ý nghĩa mà hai cái nhìn ấy muốn gửi đến với chúng ta trong giây phút linh thiêng này?
Trước hết khi nhìn lại, chúng ta nghe vọng lên nỗi niềm biết ơn. Đúng thế, hãy biết ơn những gì đã lãnh nhận. Nếu suy nghĩ, chúng ta sẽ thấy trong năm qua chúng ta đã lãnh nhận rất nhiều mà cho đi chẳng bao nhiêu, vì chúng ta là những kẻ thiếu thốn luôn cần đến người khác. Cần để sống, cần để nên người, cần để thắng lợi. Từ đồng bạc cắc đến một sản nghiệp. Từ nụ cười đến tình thương, từ lời chào đến tiếng khuyên. Tất cả những gì chúng ta nhận lãnh đều là những viên gạch xây dựng cuộc đời chúng ta. Đừng chỉ coi những gì sung sướng hay lớn lao mới là ơn. Dù cuộc đời chúng ta có như chiếc xe đò ồn ào, đông đảo, chen lấn, nhưng sau cùng xe lại trống trơn, thì chúng ta cũng đừng cho mình là cô đơn vì thực sự chúng ta đã lãnh nhận rất nhiều.
Dù cuộc đời chúng ta có như một cành mai báo hiệu mùa xuân, nhưng chính mình lại không có mùa xuân vì mau tàn vội héo, thì cũng đừng cho mình là phù hoa chẳng chịu ơn, vì thực sự chúng ta cũng đã lãnh nhận rất nhiều. Dù cuộc đời chúng ta có như một khúc sông, nuôi dưỡng bao nhiêu ruộng đồng, thì cũng đừng kiêu hãnh cho rằng chỉ có mình, vì khúc sông này bao giờ cũng mắc nợ những khúc sông khác, nhất là mắc nợ với nguồn mạch yêu thương. Dù cuộc đời chúng ta có như một ngôi nhà lộng lẫy, thì cũng đừng tự đắc cho rằng tất cả là do ở mình, vì ngôi nhà vẫn mắc nợ với từng hạt cát, từng viên gạch, từng giọt mồ hôi và biết bao những công lao vất vả. Dù cuộc đời chúng ta có như Saolô ngã ngựa thì cũng đừng cho rằng mình vô phước, vì thực sự chúng ta đã lãnh nhận rất nhiều, và biết đâu chính sự ngã ngựa ấy, lại là một ơn huệ.
Tóm lại, cuộc đời của chúng ta là kết tinh của biết bao công ơn. Mà đã chịu ơn thì phải biết ơn. Còn biết ơn những ai, thì mỗi người có thể tự trả lời. Hãy biết ơn, đó là tiếng vọng chúng ta nghe được khi nhìn lại quá khứ. Còn khi nhìn đến tương lai, chúng ta ghi nhận những gì?
Tôi xin thưa, đó là hãy tiến bộ, hãy phát triển, bởi vì sống là tiến bộ, sống là phát triển. Không tiến tức lùi, không cố gắng bơi thì sẽ bị giòng nước cuốn trôi. Phát triển không phải chỉ về phần xác, to bề ngang, cao bề đứng, nhưng còn về tinh thần. Tiến bộ không phải chỉ về sản xuất mà còn về đạo đức. Cặp mắt phải biết nhìn cuộc đời một cách thực tế hơn, không để mình bị ru ngủ bởi những ảo vọng hão huyền. Con tim phải biết khử trừ những nghi kỵ hận thù, để đoàn kết và mở rộng cánh cửa thương yêu. Trí khôn phải biết tin tưởng vào Chúa và rút ra từ lòng cuộc đời những bài học bổ ích cho tâm hồn. Bản thân phải biết bấu víu vào Đấng có thể an ủi mình ở đời này và ban cho mình hạnh phúc ở đời sau, cũng như phải biết thu tích những sự thiêng liêng không bao giờ hư mất.
Dĩ vãng kêu gọi chúng ta hãy biết ơn, tương lai kêu gọi chúng ta hãy tiến bộ, đó là sứ điệp mà chúng ta ghi nhận trong dịp đầu xuân, khi chúng ta đứng giáp ranh giữa năm cũ và năm mới vậy.
18. GIAO THỪA--May mắn—Mt 5,1-10
Trong dịp đầu xuân, người ta thường gửi cho nhau những tấm thiệp với lời nguyện chúc tốt đẹp nhất. Rồi trong những ngày tết, bước chân ra đường, chúng ta sẵn sàng nở một nụ cười thật tươi và không ngần ngại cầu chúc cho nhau một năm mới nhiều may mắn. Đó cũng là lời cầu chúc tôi xin thành thật gửi đến cho anh chị em. Thế nhưng chúng ta cần phải tìm hiểu xem sự may mắn là gì? Bởi vì năm người thì mười ý, mỗi người hiểu sự may mắn theo một quan niệm riêng.
Thực vậy, nếu tôi hỏi bác nông dân:
– Một năm mới nhiều may mắn là gì?
Bác sẽ vuốt chòm râu bạc hay lau khô những giọt mồ hôi trên trán và trả lời:
– Đó là một năm mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi, lúa thóc đầy bồ.
Nếu tôi hỏi một cô gái đi buôn:
– Thế nào là một năm mới nhiều may mắn?
Chắc hẳn cô ta sẽ trả lời:
– Đó là một năm trúng mánh, đi chuyến nào trót lọt chuyến ấy, không bao giờ bị bắt và nếu có bị bắt, thì cũng gãi đầu gãi tai, năn nỉ ỉ ôi mà xin lại được.
Nếu tôi hỏi đôi vợ chồng trẻ:
– Năm mới nhiều may mắn là gì?
Họ sẽ trả lời:
– Đó là một năm không bao giờ xảy ra cái cảnh nồi niêu xoong chảo, chổi cùn rế rách bay ra ngoài sân, hay thượng cẳng chân hạ cẳng tay với nhau. Rồi đầu năm sinh con trai và không chừng cuối năm sinh con gái. Hay là trúng số cặp hai, đẻ sinh đôi, nuôi luôn một thể.
Cái được gọi là may mắn của nhiều người thời nay là gì, nếu không phải là những thành công, những tiến bộ. Và nhất là tiền bạc phải rủng rỉnh. Bởi vì trong mọi sinh hoạt, thì vấn đề đầu tiên bao giờ cũng là vấn đề tiền đâu.
Dĩ nhiên chúng ta phải nghĩ đến sinh kế làm ăn và mong ước có được một cuộc sống tương đối đầy đủ. Thế nhưng thành công trong nghề nghiệp, chiếm được một địa vị khả quan ngoài xã hội, lãnh được một số lương hậu hĩnh, tạo được những thành tích sáng chói mà thôi chưa đủ để nói được rằng: đó là một năm mới nhiều may mắn. Điều quan trọng hơn hết là phải biết kết hiệp với Chúa, phải biết làm việc cho Ngài, để mỗi hành động của chúng ta có được một giá trị vĩnh cửu. Những việc còn lại sẽ không mấy quan trọng, vì tất cả rồi sẽ qua đi.
Thực vậy, Chúa đã phán:
– Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì có ích lợi chi.
Phúc âm đã kể lại câu chuyện về ông phú nông như sau: Năm đó, mưa thuận gió hòa, mùa màng trúng lớn. Ông ta thu tích không biết cơ man nào lúa thóc. Cho nên ông ta đã quyết định phá kho lẫm cũ nhỏ bé, để xây kho lẫm mới to lớn hơn nhiều. Rồi đưa mắt nhìn về tương lai giữa lúc ông cảm thấy được bảo đảm thì lời Chúa vang lên:
– Hỡi kẻ điên khùng và dại dột, nếu như đêm hôm nay người ta đến đòi linh hồn ngươi, thì ngươi sẽ ăn nói làm sao bây giờ, và những của cải ngươi chắt chiu thu tích sẽ để lại cho ai?
Thánh nữ Têrêxa Avilla đã nói:
– Tất cả sẽ qua đi, chỉ mình Chúa mới tồn tại muôn đời.
Với Chúa, chúng ta sẽ có được mọi sự. Một mình Chúa mà thôi, thì cũng đã đủ. Giữa những lao công vất vả, giữa những giọt mồ hôi và nước mắt, giữa những quyến dũ trần gian, thì đôi mắt chúng ta vẫn hướng nhìn về Chúa. Chỉ có một sự cần đó là sống cho Chúa để cứu rỗi linh hồn mình.
Ngày kia quận công Toscane đi tham dự thánh lễ tại nhà thờ chính tòa. Ông ta nhìn thấy những em bé được rước lễ lần đầu đang quỳ cầu nguyện thật sốt sắng, nên sai một tên cận vệ bí mật trèo lên nóc thánh đường, rỡ một viên ngói, rồi từ đó ném xuống những đồng tiền vàng. Những đồng tiền vàng rơi trên nền gạch, tạo thành những tiếng động trong bầu khí thinh lặng, trang nghiêm và thánh thiện này, rồi lăn đi khắp mọi nơi… Tuy nhiên, không một em nhỏ nào đã cúi xuống lượm những đồng tiền vàng ấy. Không một em nhỏ nào đã chia trí và lo ra.
Chút nữa đây trong thánh lễ vị linh mục sẽ mời gọi chúng ta:
– Hãy nâng tâm hồn lên.
Và chúng ta đáp lại:
– Chúng con đang hướng về Chúa.
Đúng thế, mọi tư tưởng, mọi lời nói, mọi việc làm của chúng ta phải qui hướng về Chúa, để rồi chúng ta có thể nói lên như thánh Phaolô:
– Tôi sống, nhưng không còn là tôi sống, mà là chính Đức Kitô sống trong tôi.
Trái đất xoay quanh mặt trời thế nào, thì bản thân và cuộc đời chúng ta cũng phải xoay quanh Đức Kitô như vậy. Nghĩa là chúng ta phải sống cho Chúa, bởi vì Chúa là hạnh phúc, Chúa là tất cả. Một khi mất Chúa thì cũng sẽ mất mọi sự và chẳng còn lại gì nữa.
Và như thế, một lần nữa, tôi xin cầu chúc mỗi người chúng ta một năm mới nhiều may mắn.
19. GIAO THỪA—Khoảng lặng thánh–Trầm Thiên Thu
Giao thừa là khoảnh khắc chuyển giao lại năm cũ để đón nhận năm mới – còn gọi là Đêm Trừ Tịch. Đó là thời khắc linh thiêng, là “khoảng lặng thánh” đối với người có niềm tin Kitô tôn giáo. Trong đêm giao thừa, người ta có các tục lệ khác nhau như cúng tổ tiên, bói Kiều,…
Riêng người Công giáo có thói quen tốt lành là tham dự Thánh lễ Giao thừa để tôn thờ Thiên Chúa Ba Ngôi và tôn kính Đức Mẹ.
Đối với người đời, người ta cũng cầu mong nhiều điều tốt đẹp cho năm mới, thể hiện qua mâm ngũ quả. Mỗi vùng miền có thể dùng những loại trái khác nhau. Nhưng kiêng kỵ đối với các loại trái cây có tên gọi “na ná” với từ có nghĩa xấu như cam (cam chịu), chuối (chúi đầu, chúi mũi – tức là vất vả). Một số trái cây ở Nam bộ được ưa thích như trái thơm (dứa – ý nói thơm tho, danh thơm tiếng tốt), trái sung (sung túc). Đủ cho một câu thể hiện sự mong ước khiêm tốn gồm 4 trái: mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài (cầu vừa đủ xài); hơn mức đầy đủ thì gồm 5 trái: mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài, sung (cầu vừa đủ xài sung).
Đối với các Kitô hữu, cách riêng đối với Công giáo, Thiên Chúa mới chính là Chúa Xuân đích thực, chứ còn bao nhiêu loại trái cũng không thành vấn đề. (Nói vui: Kiểu tin nhắn không dấu ngày nay là Ngu Qua, người ta không đọc là Ngũ Quả mà lại đọc là “ngu quá” thì tai hại quá!). Ngay từ đầu Thánh lễ, Giáo hội dùng lời Kinh thánh để cầu chúc mọi người trong giây phút giao thừa: “Cúi xin Đấng tạo thành trời đất xuống cho bạn muôn vàn phúc cả từ Núi Thánh Sion” (Tv 134:3).
Luật vị nhân sinh. Nghi thức nhằm phục vụ con người. Đừng câu nệ hình thức mà “bắt” con người phải phục vụ nghi thức hoặc luật lệ! Đức Chúa truyền cho ông Môsê phải nói với A-ha-ron và các con về “công thức” chúc lành cho con cái Ít-ra-en: “Nguyện Đức Chúa chúc lành và gìn giữ anh em! Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh em và dủ lòng thương anh em! Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em!” (Ds 6:24-26). Sao lại phải chúc như vậy? Chính Thiên Chúa giải thích: “Chúc như thế là đặt con cái Ít-ra-en dưới quyền bảo trợ của danh Ta, và Ta, Ta sẽ chúc lành cho chúng” (Ds 6:24-27).
Cả cuộc đời chúng ta luôn được Thiên Chúa quan tâm, chăm sóc, nâng đỡ, bảo vệ, chúc lành,… Thật tuyệt vời biết bao! Thánh vịnh gia đã từng thắc mắc: “Tôi ngước mắt nhìn lên rặng núi, ơn phù hộ tôi đến tự nơi nao?” (Tv 121:1), nhưng tác giả lại có thể xác định ngay: “Ơn phù hộ tôi đến từ Đức Chúa, là Đấng dựng nên cả đất trời” (Tv 121:2). Chắc chắn là như thế thôi!
Trong “khoảng lặng thánh” của đêm giao thừa, khi năm cũ giã từ để năm mới sang, chúng ta hãy thành tâm cầu chúc nhau những điều tốt lành nhất: “Xin Đấng gìn giữ bạn đừng để bạn lỡ chân trật bước, xin Người chớ ngủ quên. Đấng gìn giữ Ít-ra-en, lẽ nào chợp mắt ngủ quên cho đành! Chính Chúa là Đấng canh giữ bạn, chính Chúa là Đấng vẫn chở che, Người luôn luôn ở gần kề. Ngày sáu khắc, vầng ô không tác họa, đêm năm canh, vành nguyệt chẳng hại chi. Chúa giữ gìn bạn khỏi mọi điều bất hạnh, giữ gìn cho sinh mệnh an toàn. Chúa giữ gìn bạn lúc ra vào lui tới, từ giờ đây cho đến mãi muôn đời” (Tv 121:3-8). Cầu xin cho cả năm được bình an trong sự quan phòng của Thiên Chúa.
Khoảnh khắc giao thừa nhắc nhở chúng ta xin lỗi Chúa và tha nhân về những lỗi lầm trong năm cũ, đồng thời cũng phải biết tạ ơn về bao ơn lành mà Thiên Chúa đã trao ban suốt năm qua và xin thêm ơn lành cho năm mới. Thánh Phaolô mời gọi: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Kitô Giêsu” (1 Tx 5:16-18).
Và rồi thánh nhân cũng nhắc nhở thêm điều cần thiết: “Anh em ĐỪNG dập tắt Thần Khí. CHỚ khinh thường ơn nói tiên tri. HÃY cân nhắc mọi sự: điều gì tốt thì giữ; còn điều xấu dưới bất cứ hình thức nào thì lánh cho xa” (1 Tx 5:19-22). Một câu có ba mệnh lệnh, mà mệnh lệnh nào cũng quan trọng.
Còn nữa, tiếp theo là lời chúc thánh đức: “Nguyện chính Thiên Chúa là nguồn mạch bình an, thánh hoá toàn diện con người anh em, để thần trí, tâm hồn và thân xác anh em được gìn giữ vẹn toàn, không gì đáng trách, trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, quang lâm. Đấng kêu gọi anh em là Đấng trung thành: Người sẽ thực hiện điều đó. Chúc anh em được đầy ân sủng của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (1 Tx 5:23-24 & 28). Ôi, được như vậy là có niềm tín thác vào Thiên Chúa, và như thế thì thật phúc thay!
Là con người sống trên trần gian, bất cứ ai cũng không ngừng khao khát được tận hưởng niềm hạnh phúc viên mãn. Tất nhiên có nhiều dạng hạnh phúc theo quan niệm của mỗi người, mỗi vùng, mỗi miền, mỗi dân tộc. Tuy nhiên, có một điều phúc đích thực mà đôi khi chúng ta hay quên hoặc chưa thực sự lưu tâm, đó chính là điều mà Chúa Giêsu đã mặc khải cho mọi người: “Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11:28).
Thật tuyệt vời khi Tin Mừng đêm Giao thừa đề cập Bát Phúc (Mt 5:1-10 – cũng gọi là Tám Mối Phúc Thật, Hiến Chương Nước Trời, Bài Giảng Trên Núi), và là “bản tuyên ngôn độc lập” đầu tiên đã được chính Chúa Giêsu công bố:
Phúc thay ai có tâm hồn NGHÈO KHÓ, vì Nước Trời là của họ.
Phúc thay ai HIỀN LÀNH, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp.
Phúc thay ai SẦU KHỔ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.
Phúc thay ai KHÁT KHAO nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng.
Phúc thay ai XÓT THƯƠNG người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.
Phúc thay ai có tâm hồn TRONG SẠCH, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.
Phúc thay ai XÂY DỰNG HOÀ BÌNH, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
Phúc thay ai BỊ BÁCH HẠI vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ.
Chỉ với 8 điều khoản ngắn gọn mà súc tích, Bát Phúc còn được coi là Đệ Nhất Tuyên Ngôn đối với nhân loại. Chắc hẳn người không có niềm tin vào Thiên Chúa thì không thể nào “chịu nổi” với 8 điều mà Chúa Giêsu cho là PHÚC như vậy, bởi vì tất cả đều “nghịch nhĩ”. Sao mà “ngược đời” quá! Để có thể sống theo kiểu “ngược đời” của Chúa Giêsu thì phải cần đến ĐỨC TIN. Và chính ĐỨC TIN chắc chắn sẽ cứu thoát chúng ta nhờ Danh Đức Giêsu Kitô.
Với đức tin vả cảm nghiệm cuộc sống, chúng ta có thể nhận thấy rằng được trở thành Kitô hữu là một ơn gọi, là vào đời làm NHÂN CHỨNG về Tin Mừng của Đức Kitô. Tất nhiên chúng ta có thể bị ghen ghét và bị hại – đa dạng, lắm kiểu, nhiều mức. Thật vậy, Chúa Giêsu đã biết trước nên Ngài căn dặn: “Thầy sai anh em đi như chiên đi vào giữa bầy sói. Hãy KHÔN như rắn và ĐƠN SƠ như bồ câu” (Mt 10:16). Con Rắn là loài vừa khôn ngoan vừa xảo quyệt nhất trong các loài động vật. Chính nó đã lừa được Bà Eva bằng lời đường mật, và rồi Ông Adam lại “chết” vì mỹ nhân kế của một phụ nữ “yếu đuối” là chính vợ mình. Chúa Giêsu muốn chúng ta học cái khôn ngoan của con Rắn chứ đừng nham hiểm như nó!
Xuân về, Tết đến, ai cũng có cái “khác” từ tinh thần đến thể lý, cả trong lẫn ngoài. “Khác” không phải là quần là áo lượt, mà là đổi mới, là canh tân tích cực để tốt hơn chứ không bị “biến chất”, và phải mãi mãi như Chúa Xuân bất diệt: “Đức Giêsu Kitô vẫn là MỘT, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời” (Dt 13:8).
Và trong năm mới này, Thiên Chúa nhắn nhủ điều gì với mỗi chúng ta?
“Mạnh bạo lên, can đảm lên! Đừng sợ, đừng run khiếp trước mặt chúng, vì chính Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đi với anh em; Người sẽ không để mặc, không bỏ rơi anh em” (Đnl 31:6).
“Đừng sợ, vì Ta đã chuộc ngươi về, đã gọi ngươi bằng chính tên ngươi: ngươi là của riêng Ta! Ngươi có băng qua nước, Ta sẽ ở cùng ngươi, ngươi có vượt qua sông, cũng không bị nước cuốn; ngươi có đi trong lửa, cũng chẳng hề hấn gì, ngọn lửa không thiêu rụi ngươi đâu” (Is 43:1-2).
Lạy Thiên Chúa, xin chúc tụng Cha là Chúa Tể càn khôn. Chúng con xin lỗi Chúa về mọi lỗi lầm năm cũ, xin ban Thánh Linh để chúng con biến đổi nên giống Ngài hơn. Xin chúc tụng Thiên Chúa Ba Ngôi, xin hướng chúng con tới Mùa Xuân Vĩnh Hằng trên Thiên quốc. Xin Chúa lì xì nhiều Hồng Ân để chúng con sống trọn vẹn năm mới, và chúng con cũng xin lì xì cả cuộc đời của chúng con cho Chúa, xin Ngài thương thánh hóa và hướng dẫn chúng con đi đúng Đường Ngay Nẻo Chính của Ngài. Nguyện xin Thiên Chúa chúc lành và ban cho mọi người đều có được niềm vui Xuân trọn vẹn.
Nguyện xin Đức Mẹ Maria, Đức Thánh Giuse, chư Thần và chư Thánh nguyện giúp cầu thay cho chúng con không chỉ suốt năm nay mà suốt cuộc đời của chúng con. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
20. Tin tưởng vào Chúa Quan Phòng (Mt 6, 25-34)
Ngày Tết là ngày ai nấy đều no đủ, kể cả những người nghèo nhất trong xã hội, vì theo truyền thống văn hóa của dân tộc, dù quanh năm có đói khát, túng thiếu thì ngày Tết cũng phải là ngày no say, đầy đủ nhất. Thế có nghĩa là đối với nhiều người, vấn đề cơm-áo-gạo-tiền vẫn còn là vấn đề nhức nhối và ưu phiền nhất. Sau hơn hai ngàn năm, dù khoa học tiến bộ đã đưa con người lên không gian và sống trên đó một thời gian dài, thì con người vẫn chưa giải quyết được vấn đề ăn và uống cơ bản của mình. Thế giới vẫn đang phải vật lộn với vấn đề nước sạch, lương thực tối thiếu và thuốc men cần thiết.
Tại sao vậy? Tại vì có tình trạng quá chênh lệch về sở hữu của cải trần gian trong các xã hội: một số người lòng tham không đáy, tìm hết mọi cách – kể cả những cách ô nhục và thấp hèn – để chiếm đoạt tài sản chung của xã hội và nhân loại. Còn một số người khác không làm sao có được các điều kiện tối thiểu để sống cho ra người. Ở Việt Nam chúng ta hãy nghĩ đến những số tiền thất thoát trong các công trình xây dựng hạ tầng cơ sở ở khắp cả nước và con số chạy vào túi riêng cán bộ thuộc các sở, ban, ngành, công ty, tỉnh, huyện, xã v.v… thì chúng ta hiểu tại sao dân Việt Nam vẫn còn bị xếp vào loại các nước nghèo nhất trên thế giới dù chiến tranh đã chấm dứt gần 28 năm rồi!
Vậy thử hỏi việc tin tưởng vào Thiên Chúa Quan Phòng mà Đức Giêsu dạy chúng ta hôm nay có ý nghĩa gì trong một bối cảnh xã hội và thế giới như thế? Chắc đối với những người có “của ăn của để” thì không thành vấn đề vì họ đâu có bao giờ phải lo ngày mai sẽ sống ra sao, ngày mốt sẽ lấy đâu ra tiền để mua gạo cho gia đình, để trả tiền học phí cho con hoặc trả tiền bệnh viện cho cha hay mẹ già! Nhưng đối với những người tối ngày phải vật lộn với cuộc sống (chỉ để sống, chưa nói đến làm giầu) thì quả là vô cùng khó mà tin vào lời của Đức Giêsu! Lời ấy có xa vời và viển vông không? Lời ấy có sức ru ngủ không? Lời ấy chỉ để đánh lừa những kẻ nhẹ dạ dễ tin? Hay Lời ấy là Lời hằng sống và chân thật?
Nếu đi sâu vào đời sống của giáo dân và kể cả lương dân, chúng ta sẽ thấy có không ít người nghèo xác tín rằng họ được Thiên Chúa hay Trời Phật chăm lo cho cuộc sống gia đình của họ. Họ là những người chịu thương chịu khó làm việc chứ không phải là những hạng ươn lười biếng nhác. Nhưng cứ nói theo cách bình thường thì họ không thể có đủ tiền đủ bạc để lo cho vợ chồng con cái vì hoàn cảnh eo hẹp và công ăn việc làm thu nhập chẳng là bao. Thế mà trên thực tế họ vẫn sống. Họ vừa lao động vừa cậy trông vào Chúa, vào Trời Phật. Và gia đình họ vẫn bình yên hạnh phúc, vì họ dám liều mà giao phó mọi sự cho Thiên Chúa, cho Trời Phật (trời sinh voi trời sinh cỏ) nên họ cảm nghiệm được là có một bàn tay vô hình thu xếp, giải quyết mọi khó khăn cho họ.
Ngày đầu năm mà suy nghĩ một chút về vấn đề vật chất trong cuộc sống chắc không phải là vô bổ. Nếu chúng ta không phải chạy ăn chạy uống thì chúng ta đừng quên cảm tạ Thiên Chúa Quan Phòng. Cách thể hiện lòng biết ơn tốt nhất, đẹp lòng Thiên Chúa nhất, là chúng ta biết chia sẻ một phần của cải mà mình đã nhận được cho những người túng thiếu hơn chúng ta. Còn nếu chúng ta đang sống trong cảnh nghèo túng, thì chúng ta hãy mạnh dạn phó dâng và tin tưởng ở Lời của Thiên Chúa. Chỉ cần Đức Tin nhỏ bằng hạt cải là chúng ta sẽ chứng kiến chuyện động trời và bất ngờ thú vị: Thiên Chúa không bỏ ai phải đói, phải khổ! Bình an cho Năm Mới không phải được bảo đảm bằng của cải vật chất mà bằng sự tin tưởng phó thác vào Đấng Thiên Chúa là Cha yêu thương biết chúng ta cần gì và không bao giờ làm ngơ trước các nhu cầu đích thực của chúng ta.
21. Hạnh phúc (Mt 6,25-34)
Trong giờ phút giao thừa, nghĩa là trong lúc năm cũ sắp qua đi, nhường bước cho năm mới, chúng ta hướng về Đức Kitô, Đấng vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời, đồng thời trao phó cho Ngài vận mạng của chúng ta, của loài người và của cả vũ trụ. Chúng ta phó thác cho Ngài cuộc đời và những dự phóng của chúng ta: Tất cả những gì chúng ta đang thực hiện và muốn tiếp tục hoàn thành, tất cả những gì chúng ta muốn làm nhưng chưa muốn hay chưa dám kởi công, cũng như tất cả những gì mới chỉ là những mơ ước, những nguyện vọng. Chúng ta phó thác cho Ngài tất cả mọi người thân yêu, bè bạn.
Chúng ta xin Ngài bảo đảm cho những lời nguyện chúc của chúng ta được trở thành sự thật. Nhưng đồng thời, chúng ta cũng phải biết noi gương Chúa Giêsu, nghĩa là đừng chỉ chúc suông cho nhau hạnh phúc mà phải thực sự chia sẻ hay ít ra nếu chúng ta chưa có hạnh phúc để chia sẻ, thì cũng biết cùng nhau xây dựng hạnh phúc cho nhau.
Chúng ta đừng chỉ chúc hay hứa cho nhau hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đàng, tuy đó là hạnh phúc thật nhưng có lẽ vẫn còn xa. Chúa không chỉ hứa cho chúng ta hạnh phúc thật đời sau, nhưng đàng khác, Ngài cũng không muốn chúng ta phải khổ cực ở đời này, hay là muốn chúng ta mua sắm hạnh phúc tương lai bằng cách trả giá quá đắt là những đau khổ hôm nay.
Thiên Chúa là Cha của chúng ta ngay từ bây giờ, ngay hôm nay, chứ không là người Cha của tương lai mà thôi. Vì thế, Ngài muốn chúng ta ngay từ hôm nay phải được hạnh phúc. Chỉ có điều là hạnh phúc đó, hạnh phúc của hôm nay, hạnh phúc tại đời này cũng chỉ có thể xây dựng bằng mồ hôi nước mắt, bằng sự nhọc nhằn, thậm chí bằng đau khổ. Thế nhưng, tình yêu sẽ làm vơi bớt đau thương và còn có thế biến đổi gánh nặng của chúng ta thành nhẹ nhàng êm ái.
Một cách cụ thể, chúc cho nhau được hạnh phúc trong ngày đầu xuân, không nên chỉ là phát biểu trên đầu môi chót lưỡi, mà là tự thâm tâm, tự đáy lòng, chúng ta cam kết đem lại hạnh phúc đó bằng cách quyết tâm sống đơn sơ, nghèo khó, hiền từ, biết xót thương, biết sẵn sàng chịu đau khổ vì Chúa, vì anh em đồng loại.
Chúng ta không thể cầu chúc cho nhau hạnh phúc, nếu cứ tiếp tục sống ích kỷ, để mạc anh em phải đói khổ. Chúng ta không thể cầu chúc cho nhau được hạnh phúc, nếu cứ tiếp tục sống tàn bạo, độc ác, hay sống bất chính, bất công với một tâm hồn khô cằn sỏi đá, chẳng biết xót thương. Chúng ta không thể chúc cho nhau được hạnh phúc, nếu không sẵn sàng chịu gian khổ để giúp đỡ, giải thoát họ khỏi tình trạng đói nghèo, khỏi cảnh bị bóc lột, hay không tìm cách gỡ họ ra khỏi cảnh chia rẽ và thù oán.
Đừng để những lời giả dối thốt ra từ môi miệng chúng ta trong những giờ phút đầu tiên của năm mới. Trái lại hãy đem trót cả tâm tình mà cầu chúc cho nhau biết đón nhận hạnh phúc mà chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể đem lại cho chúng ta.
Lời cầu chúc đầy ý nghĩa nhất đối với người Kitô hữu đó là cầu chúc cho nhau biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa, và đó chính là chiếc chìa khoá đem lại cho mỗi người hạnh phúc đích thực.
22. Niềm vui và nỗi buồn (Mt 6, 25-34)
Không gì cần thiết cho chúng ta bằng niềm vui. Phải, niềm vui cũng cần thiết như cơm để ăn, áo để mặc và khí trời để thở. Niềm vui được biểu lộ nơi ánh mắt, nơi nụ cười, phản ảnh cho một tâm hồn trong sạch và một trái tim nhiệt thành. Vì thế mà người ta đã bảo:
– Một ông thánh buồn là một ông thánh đáng buồn vậy.
Thế nhưng đâu là chiếc chìa khóa đem lại niềm vui cho chúng ta?
Sau khi Chúa Giêsu sống lại, vấn đề quan trọng đối với các tông đồ chính là niềm vui, bấy giờ tâm hồn các ông ngập tràn hạnh phúc, bởi vì Chúa Giêsu vẫn còn đó, bên cạnh các ông. Nhưng rồi các ông sẽ phải buồn phiền vì Chúa Giêsu sẽ từ giã các ông mà về cùng Chúa Cha. Điều cần thiết cho các tông đồ cũng là điều cần thiết cho chúng ta, những người tín hữu, đó là niềm vui được kết hiệp với Chúa.
Thực vậy, bao lâu xa cách Chúa, tâm hồn chúng ta sẽ phải khắc khoải u sầu. Tại sao lại như thế?
Trước hết vì Chúa Giêsu là Đấng đem lại cho chúng ta niềm vui đích thực. Có một gia đình giàu sang, chuẩn bị cho cô gái út của mình trong ngày rước lễ lần đầu. Bà mẹ đã may cho cô bé những bộ quần áo lộng lẫy. Cô bé yên lặng suy nghĩ, rồi với cặp mắt long lanh, cô bé nói:
– Xin mẹ cứ mặc cho con những bộ quần áo bình thường như những nhỏ bạn nghèo khổ của con. Niềm vui của con chính là được gặp gỡ và kết hiệp với Chúa trong ngày trọng đại ấy.
Phải, một khi ngự vào tâm hồn chúng ta, Chúa sẽ đem đến niềm vui và sự bình an. Vì thế, chỉ có một nỗi buồn day dứt, đó là chúng ta bị xa cách Chúa bởi tội lỗi mà thôi.
Vua thánh Louis hồi còn nhỏ, thường ngồi dưới chân mẹ là hoàng hậu Blanche de Castille, ngước mắt nhìn mẹ và chăm chú lắng nghe những lời mẹ dạy. Ngày kia, người mẹ đặt một tay lên vai con rồi nghẹn ngào nói:
– Hẳn con biết rằng mẹ yêu con nhiều lắm, nhưng thà rằng mẹ thấy con chết dưới chân mẹ còn hơn là thấy con phạm một tội trọng mất lòng Chúa.
Cậu bé yên lặng và suy nghĩ, rồi trên khuôn mặt cậu bé biểu lộ một điều dốc quyết thật can cảm:
– Thà chết chẳng thà phạm tội.
Với các tông đồ ngày xưa, hẳn rằng Chúa Giêsu đã chiếm một địa vị quan trọng. Các ông không thể sống thiếu vắng Ngài. Và Ngài đã là tất cả cho các ông. Thế nhưng ngày nay, không thiếu gì những tín hữu và ngay cả chúng ta nữa, chỉ vì một lợi lộc nhỏ mọn, chỉ vì một vui thú tầm thường, chúng ta đã bỏ Chúa như các môn đệ, đã bán Chúa như Giuđa và đã chối Chúa như Phêrô. Mặc dù trong ngày chịu phép Rửa tội và hằng năm trong đêm thánh vọng Phục sinh chúng ta đã thề hứa: Từ bỏ ma quỉ, từ bỏ những công việc và những quyến dũ của nó, để kết hiệp với Chúa mãi mãi. Nhưng rồi chúng ta lại mau quên đi những lời thề hứa ấy, bỏ mặc Chúa trong sự quên lãng.
Nếu chẳng may tội lỗi làm cho chúng ta xa lìa Chúa, thì hãy mau mắn chạy đến nơi tòa cáo giải với tâm tình sám hối ăn năn, để được tha thứ, để được hòa giải với Ngài hầu lấy lại sự bình an và niềm vui.
Chúng ta không biết mình sẽ sống được bao lâu: Bảy tám chục năm hay chỉ một vài bữa nữa mà thôi. Tuy nhiên, những tháng ngày hiện tại không thể nào sánh với cuộc sống vĩnh cửu, khi chúng ta được trở về nhà Chúa, được nhìn thấy Ngài mặt đối mặt. Lúc đó, niềm vui của chúng ta sẽ tràn đầy, hạnh phúc của chúng ta sẽ trọn hảo, và chẳng một ai có thể lấy mất được.
Đạo của Chúa là đạo của niềm vui. Tin mà Chúa đem đến là Tin mừng. Vì thế, xin cầu chúc cho mỗi người chúng ta luôn gắn bó mật thiết với Chúa, để hiện tại chúng ta được hưởng một năm mới ngập tràn niềm vui và mai ngày chúng ta sẽ được hưởng một mùa xuân vĩnh cửu trong tình thương của Chúa.
23. Năm mới bình an và hạnh phúc (Mt 6,25-34)
Một năm cũ đã qua và một năm mới đã tới,trong giây phút linh thiêng này, chúng ta thường làm gì? Tôi xin thưa: Chúng ta thường gửi đến cho nhau những lời cầu chúc. Thế nhưng, nhiều người đã không ý thức được tập tục tốt đẹp này. Họ không hề nghĩ tới những điều họ nói, để rồi những lời cầu chúc ấy trở thành bôi bác.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta cầu chúc cho nhau những gì? Và chúng ta nghĩ sao về những lời cầu chúc ấy? Tôi xin thưa: Chúng ta cầu chúc cho nhau một năm mới hạnh phúc. Vậy thế nào là một năm mới hạnh phúc?
Khi em bé nhặt được một tờ giấy bạc trên hè phố, tụi bạn sẽ bảo em là một người hạnh phúc và may mắn. Khi chúng ta trúng số độc đắc, bà con lối xóm cũng bảo chúng ta là người hạnh phúc và may mắn. Tại sao lại như thế? Vì đối với nhiều người, hạnh phúc hệ tại giàu sang, tiền nhiều bạc lắm.
Nhưng theo tôi, đó mới chỉ là một thứ hạnh phúc giả hiệu và thời gian của nó kéo dài không quá một kiếp của con thiêu thân, như lời một câu danh ngôn đã bảo:
– Hạnh phúc của người giàu cũng dễ bể như một chiếc ly thủy tinh.
Chẳng hạn vì chiến tranh, vì bệnh tật, vì tai ương hoạn nạn…mà nhiều người đã mất đi tất cả sản nghiệp đã được chắt chiu gầy dựng: Bừng con mắt dậy thấy mình tay không. Điều đó chứng tỏ rằng giàu sang không đủ đảm bảo và đem lại cho chúng ta niềm hạnh phúc.
Đối với nhiều người khác, một năm mới hạnh phúc sẽ là một năm mới khỏe mạnh, gặp nhiều may mắn trong công ăn việc làm. Đúng thế, khỏe mạnh và may mắn cũng là những điều chúng ta thường cầu chúc cho nhau, nhưng vẫn chưa phải là niềm hạnh phúc đích thực.
Nếu sức khỏe là niềm hạnh phúc, thì chắc hẳn những lực sĩ sẽ là những người hạnh phúc nhất. Thế nhưng, không phải vậy. Bởi vì có những người đau yếu, sức khỏe thì èo uột, thế mà nụ cười vẫn tươi nở trên cặp môi khô héo của họ.
Còn về sự may mắn trong công ăn việc làm, nếu quả đúng như vậy, kẻ nào càng kiếm được nhiều tiền, thì càng hạnh phúc. Thế nhưng, trong cuộc sống, những người kiếm được ít tiền chưa chắc đã là những kẻ khổ đau, vì như chúng ta thường bảo:
– Lòng tham thì vô đáy…Đứng núi này trông núi nọ…Được voi đòi tiên…
Và như thế, khát vọng này nảy sinh ra khát vọng khác và sẽ chẳng bao giờ được thỏa mãn. Rất nhiều người đã mong ước có được một việc làm dễ dãi, khả dĩ kiếm được nhiều tiền, nhiều bạc để rồi sống một cuộc sống an nhàn và hạnh phúc, vì họ thầm nghĩ:
– Có tiền mua tiên cũng được.
– Tiền là tiên là phật,
Là sức bật của tuổi già,
Là cái đà của danh vọng,
Là cái lọng để che thân,
Là cán cân của công lý.
Có tiền là sẽ có nhà lầu xe hơi, là sẽ có Tv tủ lạnh và nhất là sẽ được mọi người kính nể. Thế nhưng, họ đã lầm. Tôi xin đưa ra một thí dụ đẻ chứng minh cho sự thật trên.
Paul Getty là ông chủ một hãng dầu lớn nhất tại Anh Quốc. Khu đất ông ở rộng bốn mươi mẫu tây. Tài sản của ông trị giá hàng tỷ mỹ kim. Thế mà mỗi ngày ông đều phải làm việc từ ba giờ sáng. Chung quanh ông có tới mười cảnh sát bảo vệ. Mỗi ngày, ông nhận được hàng trăm bức thư hăm dọa sẽ ám sát và ông đã phải thốt lên:
– Tôi là người chẳng bao giờ biết đến hạnh phúc.
Thí dụ trên cho chúng ta thấy: Hạnh phúc thật không hệ tại nơi tiền bạc vật chất. Vậy chúng ta phải đi tìm hạnh phúc ở đâu bây giờ?
Hẳn chúng ta đã biết: Con người không phải chỉ có thân xác, mà còn có linh hồn. Bởi đó, không phải chỉ cần có của cải vật chất bên ngoài, mà còn cần phải có những nhu cầu thiêng liêng, xuất phát tự bên trong. Và như thế, niềm hạnh phúc đích thật hệ tại sự bình an trong tâm hồn.
Nhìn vào đời sống các thánh, chúng ta sẽ thấy được điều đó. Chẳng hạn thánh Giuse và Mẹ Maria. Chắc hẳn các ngài không có nhiều tiền bạc, không ở trong những tòa nhà tráng lệ và tiện nghi. Trái lại, các ngài sống rất nghèo nàn, đến nỗi không tìm được một chỗ trú chân. Dầu vậy, các ngài vẫn hạnh phúc. Tại sao lại như thế? Tôi xin thưa: Vì Chúa Giêsu luôn ở với các ngài.
Thực vậy, nơi nào có Chúa, nơi ấy có hạnh phúc. Và ai yêu mến Chúa, người ấy sẽ được hạnh phúc thực sự. Bởi vậy, muốn được hạnh phúc, chúng ta cần phải có Chúa ở cùng, nghĩa là tâm hồn chúng ta phải trong sạch, xứng đáng làm nơi cho Chúa ngự trị.
Nếu trót sai lỗi vấp phạm, chúng ta hãy chạy đến với bí tích của lòng khoan dung với tâm tình sám hối, để được tha thứ, bởi vì sự bình an phải là kết quả của việc hòa giải giữa chúng ta với Thiên Chúa và giữa chúng ta với nhau.
Niềm hạnh phúc của một tâm hồn trong sạch và có Chúa ở cùng, cũng chính là niềm hạnh phúc chúng ta cần phải cầu chúc cho nhau trong năm mới này.
Thực vậy, dù năm mới này có nhiều khổ đau và cay đắng, nhưng nếu tâm hồn chúng ta thực sự có Chúa ở cùng, chúng ta vẫn cảm thấy vui mừng và hy vọng. Chính trong ý nghĩ ấy mà trong giây phút linh thiêng này, tôi xin cầu chúc cho anh chị em một năm mới bình an và hạnh phúc.
24. Tôi là người hạnh phúc nhất – Mt 6,25-34
Một ông vua giàu có nọ không bao giờ cảm thấy thỏa mãn, bởi vì tất cả tài sản mà ông có đều do sự miễn cưỡng đóng góp của thần dân. Ông tự so sánh mình với những người hành khất: người hành khất nhận được tiền của do lòng thương của người khác, còn ông, ông nhận được tiền do sự cưỡng bách.
Ngày nọ, ông vua giàu có đã quyết định làm một việc táo bạo: đó là cải trang thành người hành khất để cảm nghiệm được những đồng tiền bố thí… Thế là mỗi ngày Chúa Nhật, ông biến mình thành một người ăn xin lê lết trước cửa giáo đường. Ông cho tất cả những tiền ăn xin được vào một chiếc hộp nhỏ. Tuy không là bao so với cả kho tàng của ông, nhưng có lẽ nó vẫn có giá trị hơn… Ông tự nghĩ: bây giờ ta nới thực sự là người giàu có nhất trên đời, bởi vì tiền của ta nhận được là do lòng thương xót của con người, chứ không do một sự cưỡng bách nào.
Khi đã gom góp được một số tiền khá lớn sau những năm tháng ăn xin trước cửa các giáo đường, ông đã xin từ chức khỏi ngai vàng và đi đến một phương xa, nơi không ai có thể nhận ra ông. Ông mua một mảnh đất, và tự tay cất được một ngôi nhà tranh đơn sơ. Không mấy chốc, do sự hòa nhã, vui tươi của ông, mọi người trong lối xóm đều mến thương ông, nhất là các em bé. Ông kể chuyện cho chúng nghe, ông đem chúng đi câu cá, ông dạy chúng ca hát.
Trong đám trẻ nhỏ, có một cậu bé gia đình còn nghèo hơn cả ông nữa. Cậu bé chỉ có vỏn vẹn một con chim họa mi. Nghe tin ông đau nặng, cậu bé đã vội vàng mang con chim đến tặng ông, với hy vọng rằng con chim sẽ hót cho ông được khuây khỏa.
Đón nhận món quà, con người đã từng là vua của một nước mới thốt lên: “Từ trước đến nay, tất cả những gì tôi có, tôi đều lãnh nhận do lòng thương xót của người khác. Người ta cho tôi, nhưng không phải là cho tôi mà là cho một người hành khất. Giờ đây, với món quà tặng là con chim này, người ta tặng cho tôi với tất cả tấm lòng yêu thương… Chắc chắn, tôi là người hạnh phúc nhất trên trần gian”.
Một thời gian sau đó, trong vùng, có một người táđiền nghèo bị người chủ đe dọa lấy nhà và trục xuất ra khỏi mảnh vườn đang canh tác. Nghĩ đến cảnh hai vợ chồng và 7 đứa con dại bị đuổi ra khỏi nhà, ông vua không thể nào ăn ngủ được… Cuối cùng, ông quyết định tặng chính mảnh vườn và ngôi nhà của mình cho gia đình người tá điền nghèo… Và một lần nữa, không một đồng xu dính túi, ông lên đường trẩy đi một nơi khác.
Bùi ngùi vì phải chia tay với những người quen biết trong vùng, nhưng ông cảm thấy hạnh phúc vô cùng, bởi vì lần đầu tiên ông cảm nghiệm được niềm vui của sự ban tặng. Ông hiểu được rằng cho thì có phúc hơn là nhận lãnh… Lần này, ông thốt lên với tất cả xác tín: “Tôi là người hạnh phúc nhất trên trần gian này”.
Câu chuyện của ông vua đi tìm hạnh phúc trên đây có thể gợi lên cho chúng ta về hình ảnh của chuyến đi cuộc đời của chúng ta… Người Kitô là một người lữ hành đi tìm hạnh phúc. Và hạnh phúc đích thực của chúng ta là gì nếu không phải là trao tặng, trao tặng cho đến lúc trống rỗng, nhưng bù lại, chúng ta được lấp đầy bằng chính Chúa.
25. Thiên Chúa hay thần tài?--Lm Nguyễn Hồng Giáo
Trong bài Phúc Âm Mt 6, 24-34 mà chúng ta nghe đọc trong Chúa Nhật 8 Thường Niên năm A, và trong dịp tết nguyên đán, Đức Giêsu dùng ba ví dụ rất nên thơ gợi cảm để chỉ cho chúng ta thấy một sự lo lắng thái quá về đời sống vật chất là vô lý nếu như chúng ta còn tin có Thiên Chúa là Cha chúng ta. Ví dụ thứ nhất: chim trời không gieo, không gặt nhưng chúng vẫn được Cha trên trời nuôi sống. Ví dụ thứ hai: cuộc đời của mỗi người chúng ta có một quảng thời gian nhất định sống ở trần gian này, – điều đó chúng ta không thay đổi được, dù có lo lắng cũng chẳng kéo dài đời mình thêm một vài gang tấc! Và cuối cùng: hoa huệ ngoài đồng không làm lụng, không kéo sợi, thế mà dù vua Sa-lo-mon vinh hoa tột bậc cũng không mặc đẹp bằng nó. Kết luận của ba ví dụ là: nếu như Thiên Chúa quan tâm nuôi sống chim trời và ban áo mặc cho hoa đồng cỏ nội, thì lẽ nào Chúa lại không lo lắng cho con người hơn gấp bội sao? Kết thúc bài giảng, Chúa Giêsu tuyên bố: “Vậy đừng quá lo lắng về ngày mai. Ngày mai cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày đó”
Chúng ta đồng ý rằng lời Chúa Giêsu dạy chúng ta hôm nay thật là hấp dẫn. Có gì đáng mong ước hơn là có Cha Trên Trời lo lắng cho ta? Tuy nhiên, càng suy nghĩ và đi sâu vào thực tế, chúng ta càng thấy mọi sự chẳng đơn giản chút nào.
Những lo lắng chính đáng
Con người thời đại ta cũng như mọi thời đại, đều có trăm ngàn nỗi lo, và những nỗi lo chính đáng. Đừng nói gì xa xôi, chỉ nguyên những nhu cầu tối thiểu của cuộc sống đã làm điên đầu nhiều bậc cha mẹ gia đình: lo sao cho có cái ăn, cái mặc, cho căn nhà ở khỏi giột nát khi tới mùa mưa, cho con cái được học hành, cho có thuốc thang khi bệnh tật, cho giá cả đừng tăng vọt, mùa màng không thất thoát… Những nỗi lo như thế phát xuất từ trách nhiệm của mỗi người, đều chính đáng và đẹp lòng Chúa.
Chúa Giêsu không muốn cho chúng ta lười biếng hoặc sống vô trách nhiệm. Chim trời cũng phải vất vả tìm mồi. Có những thứ chim phải bay thật xa mới tới chỗ có thức ăn. Hoa huệ ngoài đồng cũng có khi phải đâm rễ len lỏi giữa sỏi đá để tìm chất nuôi sống. Đàng khác chính Chúa cũng nói rằng: “Ngày nào có cái khó, cái khổ của ngày đó”. Vậy khó nhọc, gian khổ là điều có thực, gắn vào thân phận con người.
Không những Chúa không muốn ta sống lười biếng, vô lo, vô trách nhiệm, mà còn muốn ta phải làm việc để cùng với Người hoàn hiện thế giới này và góp phần vào công cuộc cứu độ thế giới. Ngay lúc vừa mới dựng nên loài người, Thiên Chúa đã ra lệnh cho họ phải canh tác trái đất và làm chủ vạn vật. Trong dụ ngôn về những nén bạc (x. Mt 25, 15-25), Chúa Giêsu đã hỏi mỗi người đã dùng tài năng Chúa ban mà làm lợi cho Người được bao nhiêu, chứ không phải đã chôn giấu nó an toàn như thế nào. Thế thì ta có quyền và có bổn phận phải lo lắng, tính toán, phải có kế hoạch, phải phòng xa. Điều Chúa không chấp nhận là chúng ta lo lắng về đời sống vật chất như thể đó đã là cùng đích của đời sống, là tuyệt đối cho đời mình.
Thiên Chúa hay Thần Tài?
Câu then chốt nhất của bài Phúc Âm hôm nay là: “Tiên vàn hãy lo tìm kiếm Nước Chúa và đời sống công chính như Nguời đòi hỏi, còn các thứ kia (nghĩa là của cải vật chất), Người sẽ thêm cho.” Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa: đây mới là vấn đề ưu tiên.
Nỗi lo số một của người môn đệ Chúa Giêsu là nước Thiên Chúa. Mọi sự khác cũng cần thiết. Nhưng không được đặt lên trên Nước Thiên Chúa. Phải dành ưu tiên cho Nước Thiên Chúa, rồi mới đến các thứ khác. Đó là trật tự phải tôn trọng. Nhưng đây không phải là vấn đề thời gian sau trước nhưng là vấn đề giá trị mà khi cần phải chọn lựa, ta phải biết đâu là thiết yếu đâu là thứ yếu.
Lời dạy của Chúa Giêsu là hệ trọng. Và nó cũng phù hợp với kinh nghiệm sống của chúng ta. Người ta thường lấy của cải vật chất làm ưu tiên số một và cho rằng của cải giàu sang sẽ giải quyết được mọi vấn đề của xã hội và của con người. Nhưng thực tế luôn luôn chứng minh rằng suy nghĩ và hành động như thế là sai lầm. Xã hội tư bản lấy sự sản xuất của cải hàng hoá dư dật và sự hưởng thụ tự do làm mục tiêu, và bắt mọi sự khác phải phục vụ cho mục tiêu ấy, nên đã rơi vào khủng hoảng về tinh thần, về lý tưởng sống. Và vì mục tiêu ấy, người ta khai thác các tài nguyên thiên nhiên một cách vô độ và ngày nay thiên nhiên quay lại “trả thù” con người, đe dọa cuộc sống trên trái đất. Ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, theo lý thuyết người ta coi kinh tế là yếu tố quyết định mọi sự khác, và tuy vẫn nói kinh tế phải phục vụ con người, nhưng trên thực tế con người và các giá trị đạo đức bị chà đạp trầm trọng… Sau khi hàng loạt nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, những nước khác đã quay sang kinh tế thị trường và cũng đang phát triển theo hướng phương Tây, liệu có tránh nổi những tiêu cực gắn liền vào tư bản chủ nghĩa không? Của cải vật chất là ông chủ không dễ gì khuất phục nổi. Tinh thần thường tỏ ra yếu đuối và không hấp dẫn bằng của cải giàu sang. Ở Việt Nam xã hội chủ nghĩa “thời mở cửa”, điều đó cũng đang được chứng minh.
Của cải là cần thiết. Nhưng của cải tự nó không mang lại hạnh phúc cho con người. Nó phải là một phương tiện, một người tôi tớ. Nhưng khốn thay, tên đầy tớ này rất có uy quyền, rất dễ trở thành ông chủ của con người, để con người phục dịch nó với bất cứ giá nào.
“Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đời sống công chính như Người đòi hỏi”: Sống theo ưu tiên đó, có nghĩa là chúng ta vẫn phải làm việc, phải vất vả, phải lo lắng và biết tiên liệu, nhưng chúng ta sẽ không nô lệ vật chất, sẽ không bán rẻ lương tâm vì đồng tiền bát gạo, sẽ coi trọng con người hơn của cải và đặt các giá trị luân lý đạo đức lên trên các giá trị vật chất.
Sống theo ưu tiên của Nước Thiên Chúa, người Kitô hữu sẽ giữ được sự tự do thanh thoát và bình an ngay giữa những nhiệm vụ nặng nề nhất, vì họ biết có Chúa là Cha yêu thương cùng lo cho họ và với họ, và chỉ có Người mới đem lại cho họ niềm hạnh phúc đích thực mà họ hằng mong ước.
26. MỒNG MỘT TẾT--Bình an -- Mt 6, 25-34
(Bài đọc 1: St 1, 14-18; Bài đọc 2: Pl 4, 4-8; Tin mừng: Mt 6, 25-34)
Một trong những nét đẹp của nền văn hoá Á Đông nói chung và của Việt Nam chúng ta nói riêng, đó là phong tục đi chúc Tết trong những ngày đầu năm. Trong những ngày đầu năm này, chúng ta luôn cầu chúc cho nhau những lời chúc tốt đẹp nhất. Chúng ta ước mơ và chúc cho nhau trong năm mới này được thịnh vượng, may mắn, làm ăn phát tài…và nhiều điều may mắn khác nữa, nhưng có lẽ điều mà tất cả từng người chúng ta đây ước mơ nhiều nhất và cũng được cầu chúc nhiều nhất là sự bình an trong năm mới. Vâng, hai chữ “bình an” chính là ước vọng sâu xa nhất của từng người chúng ta. Nếu suy xét kỹ, chúng ta sẽ thấy rằng tất cả mọi việc chúng ta làm tựu trung cũng là để có được sự bình an. Thế nhưng, thực tế, chúng ta vẫn chưa có được sự bình an thực sự.
Do đó, trong giờ chia sẻ này, tôi muốn cùng quý ông bà anh chị em dựa vào ánh sáng của Lời Chúa để tìm ra phương thế đạt được sự bình an đích thực trong năm mới này.
1. Thiên Chúa, nguồn bình an:
Trước khi nói đến sự bình an, có lẽ chúng ta cũng cần nhìn qua những lý do làm cho chúng ta mất bình an. Lý do thì nhiều, nào là làm ăn thất bại, bị hiểu lầm, gặp tai ương, bệnh tật…, nhưng xâu xa hơn, có lẽ vì mọi việc không xảy ra đúng với ý muốn, dự định của chúng ta nên chúng ta bất an. Hay nói một cách khác, chúng ta nghĩ rằng mình là chủ cuộc sống của mình và mình có thể kiểm soát được tất cả mọi việc, nên khi có một điều gì đó không đúng với chương trình của mình, chúng ta liền khó chịu bất an.
Do đó, tôi thiết nghĩ để có sự bình an thật sự, từng người chúng ta cần xác tín với nhau một điều: Thiên Chúa là Đấng quan phòng, làm chủ mọi sự. Chính Ngài là Đấng tạo dựng muôn loài, như trình thuật của sách Sáng Thế: “Thiên Chúa phán: Phải có những vầng sáng trên vòm trời…. Liền có như vậy…. Người cũng làm ra các ngôi sao. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp”. Không chỉ là Đấng Sáng Tạo, Thiên Chúa còn là người Cha đầy yêu thương sẵn sàng lo cho chúng ta mọi sự. Chính Đức Giêsu đã khẳng định với chúng ta điều này như chúng ta vừa nghe trong bài Tin mừng: “Anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cũng cần tất cả những thứ đó”. Cha chúng ta thừa biết chúng ta cần gì và Ngài sẵn sàng ban cho chúng ta điều chúng ta cần. Điều quan trọng là chúng ta có dám đặt mình vào bàn tay quan phòng của Thiên Chúa, và để cho Ngài lo hay không mà thôi. Thật vậy, kinh nghiệm hàng ngày cho thấy: trong thân phận làm con thì điều quan trọng nhất là ngoan ngoãn vâng lời cha mẹ, rồi cha mẹ sẽ lo cho con tất cả mọi sự. Và lúc đó, chúng ta sẽ có bình an, vì mọi chuyện đã có cha mẹ lo cho rồi.
Như thế, để có được sự bình an, điều đầu tiên mỗi người chúng ta cần thực hiện đó là hướng tâm hồn và con người chúng ta lên Thiên Chúa, nhận Ngài là chủ mọi sự kể cả cuộc đời của mỗi người chúng ta. Đây là một sự thật căn bản đầu tiên làm nền tảng cho một tâm hồn bình an.
2. Con đường bình an:
Hướng tâm hồn lên với Thiên Chúa, chính là luôn gắn bó với Chúa là nguồn bình an, lúc đó chúng ta sẽ nhận được sự bình an. Tuy nhiên, thánh Phaolô nhắc nhở mỗi người chúng ta: “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: Vui lên anh em”. Điều đó cho thấy, niềm tin tưởng và phó thác của chúng ta nơi Chúa không miễn trừ cho chúng ta các khó khăn, trở ngại trong cuộc sống hiện tại, nhưng sẽ giúp chúng ta có được sức mạnh nội tâm và làm cho tâm hồn chúng ta được thanh thản để vượt qua những khó khăn đó. Như vậy, cho dù ngoại cảnh bên ngoài không làm cho chúng ta vui, nhưng trong Chúa, chúng ta vẫn có thể vui được. Đây chính là kinh nghiệm của Đức Maria: giữa những khó khăn của cuộc sống nghèo khổ, và án tử có thể đến vì mang thai trong lúc chưa về nhà chồng. Mẹ vẫn cất tiếng ca vang: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi”. Mẹ đã vui vì Mẹ luôn tin tưởng vào quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa. Mẹ tin chắc rằng, Chúa sẽ có cách để giải quyết vấn đề của Mẹ. Tác giả Thánh vịnh trong bài đáp ca cũng xác tín như thế khi nói: “Cứ tin tưởng vào Chúa và làm điều thiện, thì sẽ được ở trong đất nước và sống yên hàn. Hãy lấy Chúa làm niềm vui của bạn, Người sẽ cho được phỉ chí toại lòng”. Vịnh gia còn mời gọi chúng ta: “Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay”.
Kế đến, sự bình an thật sự chỉ có nơi những tâm hồn thanh sạch, bởi vì “cây ngay không sợ chết đứng”. Những người công chính luôn cậy trông vào Chúa có thể vẫn còn phải gặp những khó khăn bên ngoài, nhưng chắc chắn họ không cùng đường, tuyệt vọng, tâm hồn họ vẫn luôn bình an, vì họ tin vào lời hứa của Đức Giêsu: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người; còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho”. Thật vậy, với kinh nghiệm của mình chắc hẳn mỗi người trong chúng ta có cùng xác tín của tác giả Thánh vịnh: “Từ nhỏ dại tới nay tôi già cả, chưa thấy người công chính bị bỏ rơi, hoặc dòng giống phải ăn mày thiên hạ”. Do đó, để có bình an thật sự trong tâm hồn, chúng ta cần lánh xa tội lỗi và thực hành những điều công chính như lời dạy của thánh Phaolô: “Những gì là chân thật, cao quý, những gì là chính trực, tinh tuyền, những gì là đáng mến và mang lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh đáng khen thì xin anh em hãy để ý”.
27. Chúng ta là người hành khất
“Chúng ta là người hành khất!” lời tâm sự này Martinô Lutherô, cha đẻ của đạo Tin lành Thệ Phản bên Đức, đã thốt lên năm 1546 vào những ngày cuối cùng cuộc sống trên trần gian của ông. Lời tâm sự này của ông biểu lộ niềm tin mối tương giao giữa Thiên Chúa và con người. Người có tâm hồn niềm tin vào Thiên Chúa trông mong chờ đợi đón nhận từ nơi Ngài, những sự cần thiết cho đời sống. Và đồng thời cũng nói lên tâm tình niềm tin: Thiên Chúa là Đấng ban phát mọi ân đức tặng phẩm cho đời sống, con cám ơn Ngài! “Chúng ta là người hành khất!” tâm tình này cũng có thể là một suy tư gợi ý vào những giờ phút cuối cùng của năm hiện tại đang đi vào qúa khứ. Nhưng tại sao lại đem tâm tình này vào đời sống ngày cuối năm?
Khi nghe đến “hành khất” ta nghĩ ngay tới nghèo khổ, đói khát, túng thiếu, yếu đau, bơ vơ không nhà cửa… Không lẽ cuộc sống chỉ tiêu cực như thế sao? Không, chúng ta không dừng lại ở điểm tiêu cực đó. Ngày nay, nơi nhiều quốc gia tình trạng xóa đói, giảm nghèo, vệ sinh bệnh tật đang dần dà được đẩy mạnh bài trừ cải tiến. Và mức sống no cơm ấm áo dần được nâng cao, cho xứng với phẩm gía con người. Trong cuộc sống, lẽ dĩ nhiên rất nhiều người, nhất là ở trong xã hội văn minh đầy đủ hay đang mở cửa phát triển, đã đạt được những thành công rực rỡ về mặt chính trị, kinh tế, học hành, nghề nghiệp, y tế, của cải tài sản, cuộc sống gia đình hòa hợp êm ấm… Những điều đó đối với người có lòng tin vào Thiên Chúa, khi nhìn lại cũng có tâm tình gần giống như của Martinô Lutherô: Vâng, chúng con là người hành khất!
Tâm tình này muốn nói lên: Con cám ơn Thiên Chúa đã ban cho chúng con cơ hội sống, cơ hội góp phần vào cuộc sống. Những gì con có hay đạt được, là những ân đức qùa tặng Thiên Chúa ban cho. Cuộc sống xã hội và đời sống từng người không chỉ có mặt sáng đẹp đó. Nhưng còn có mặt với nhiều bóng tối tiêu cực nữa: chiến tranh, thiên tai, lo âu, tai nạn, đau khổ bệnh tật, chạy loạn tỵ nạn tha hương … Trước những cảnh tượng đó, không ai muốn, nhưng chúng xảy ra đó và mọi người phải đối diện với! Trong cơn tuyệt vọng như thế, đâu đâu vào thời đại nào, hầu như bất cứ ai cũng đều cúi đầu hướng tâm hồn lên cao, thành tâm khấn vái xin Thiên Chúa, xin Thượng Đế, xin Trời phù hộ cho đời sống, cho thế giới khỏi cơn khốn khó đó.Tâm tình này càng vẽ rõ nét hơn “Chúng ta là người hành khất!” Người tin vào Thiên Chúa, khi nhận lãnh một tin lành bằng an, một tin vui, họ đều thắp sáng cây nến lòng biết ơn cho Đấng đã ban cho mình ân đức cao qúi đó và cho người nào đó đã liên đới trao tặng giúp đỡ mình. Cung cách sống đạo đức tình người này muốn nói lên: “Chúng ta là người hành khất!”
Trước ngưỡng cửa Năm Mới đang tiến dần vào hiện tại, niềm vui mừng đang khơi dậy trong lòng. Nhưng nào ai có thể biết đươc tương lai ngày mai trong năm mới sẽ đến như thế nào. Rồi trong đời sống vào nhiều hoàn cảnh giai đoạn cuộc sống, chúng ta thường lâm vào ngõ bí đường cùng, không biết nên làm sao nữa… Là người có niềm tin, ta đặt niềm tin tưởng nơi Thiên Chúa, Đấng biết sự gì cần thiết cho đời sống của ta. Chúng ta thường cầu nguyện cùng Đức Chúa Thánh Thần: lạy Cha kẻ khó khăn bần hàn, xin đến trợ giúp ban cho chúng con ân đức gìn giữ cuộc sống hôm nay và ngày mai! Đó cũng là tâm tình: “Chúng ta là người hành khất!”
28. Lễ TÂN NIÊN--Cầu Bình An Cho Năm Mới
ĐỊNH HƯỚNG
Năm hết tết đến, ai trong chúng ta mà lại chẳng cảm thấy một chút gì náo nức: trẻ em thì mong đợi những bộ quần áo mới và những đồng tiền lì xì mừng tuổi, người lớn thì tính sổ công việc làm ăn trong năm qua và hoạch định chương trình cho thời gian sắp tới. Mọi người đều tạm gác những âu lo thường ngày để thăm viếng, để gặp gỡ và chúc mừng nhau một năm mới nhiều may mắn và hạnh phúc.
Thế nhưng giờ đây, chúng ta hãy bỏ qua những náo nức ấy để suy nghĩ một chút. Năm cũ đã trôi qua như một giấc chiêm bao và năm mới lại trở về. Chúng ta sống thêm một năm, nhưng cũng mất đi một năm trong dòng đời của chúng ta. Vậy đâu là hướng đi, đâu là ý nghĩa, đâu là trọng tâm của cuộc đời, để nhờ đó chúng ta sẽ đạt tới niềm hạnh phúc vĩnh cửu?
Có lẽ chúng ta đã đánh mất phần nào cái trọng tâm của cuộc đời. Trọng tâm ấy chính là Thiên Chúa. Thực vậy, chúng ta từ bỏ Thiên Chúa để chạy theo những thần tượng giả trá, do những đam mê, những ước vọng riêng tư của mình tạo nên. Bởi đó, chúng ta bôn ba vất vưởng trên dòng thời gian, như thuyền không lái, như ngựa không cương. Khi thì chúng ta tìm cái này, lúc thì chúng ta kiếm cái kia. Vì thế, cuộc đời chúng ta chất đầy như bồn chồn và lo lắng. Chúng ta lo sợ tương lai có nhiều bất trắc, vì thế mới cầu chúc cho nhau được may mắn. Có người còn cẩn thận kiêng cữ để khỏi rước cái xui vào nhà.
Tuy nhiên, những may mắn và niềm hạnh phúc chúng ta cầu chúc cho nhau lại không treo trên đỉnh cây nêu, cũng không nằm trong những tấm thiệp. Ngay cả những lời cầu chúc chân thành và nồng hậu nhất cũng không phải là những vị sứ giả mang lại hạnh phúc.
Thực vậy, hạnh phúc không do những tiện nghi vật chất đem đến, vì những tiện nghi này nay còn mai mất. Hạnh phúc không do bản thân chúng ta gầy dựng nên, vì bản thân chúng ta vốn đã chìm ngập trong khổ đau và nghèo túng. Hạnh phúc ấy cũng không do người khác tạo thành vì người khác không có đủ quyền năng và tình thương để thực hiện những mộng ước của họ và của chúng ta.
Như thế, chúng ta nhận ra rằng chỉ mình Chúa mới là Đấng có thể đem lại hạnh phúc cho chúng ta mà thôi. Chỉ mình Chúa mới là Đấng có thể thực hiện được những lời mừng chúc của chúng ta mà thôi. Thực vậy, thánh Augustinô đã nói:
– Linh hồn tôi chỉ được nghỉ yên khi nó nằm gọn trong lòng bàn tay của Chúa.
Bao lâu chúng ta còn chạy theo những ảo ảnh của đam mê và dục vọng, thì bấy lâu cuộc đời chúng ta vẫn còn vất vưởng và xao xuyến. Khát vọng như một thứ rượu nồng, càng uống lại càng khát. Chúng ta sẽ đi từ khát vọng này đến khát vọng khác và chẳng bao giờ được no thỏa.
Niềm hạnh phúc đích thực chính là sự bình an trong tâm hồn. Và sự bình an này chỉ có được khi chúng ta đã ở trong tình thương của Chúa, khi chúng ta đã hòa giải với Ngài. Vì thế, Thiên Chúa phải là trọng tâm của cuộc đời chúng ta, phải là cùng đích của mọi vệc chúng ta làm. Trái đất xoay quanh mặt trời thế nào, thì mọi tư tưởng, mọi lời nói và mọi việc làm của chúng ta cũng phải xoay quanh Thiên Chúa như vậy. Có nghĩa là suốt dọc cuộc đời, chúng ta phải bước đi trong quĩ đạo của Thiên Chúa.
Ngài là Đấng nhân từ và hay thương xót. Sống trong Ngài, chúng ta sẽ không còn lo âu và sợ hãi, như một câu danh ngôn đã bảo:
– Có Chúa thì màng nhện cũng sẽ trở nên tường thành, còn không có Chúa, thì tường thành cũng chỉ là màng nhện mà thôi.
Dưới mắt Ngài, không có gì là may mắn hay xui xẻo. Những điều chúng ta gọi là hên hay xui, thực ra chỉ là hai tên gọi của cùng một thực tại, đó là tình yêu của Chúa. Hay nói một cách khác: tất cả đều là hồng ân của Ngài.
Hướng đi và ý nghĩa, trọng tâm và hạnh phúc của cuộc đời chúng ta là chính Thiên Chúa. Bởi vì Ngài là ơn cứu độ, là tình yêu, là sức sống của chúng ta. Ý thức được như vậy, nên các thánh bao giờ cũng bắt đầu công việc bằng thái độ cầu nguyện, kêu xin Chúa.
Một ngày sống được khởi đầu như thế, chắc chắn sẽ hạnh phúc hơn nhiều so với khi chúng ta bắt đầu bằng một điếu thuốc lá, bằng một ly rượu mạnh hay bằng cách lo láng đưa mắt nhìn lên tờ lịch và nghĩ ngay đến những món nợ phải trả, những công việc phải làm hay những vui thú phải kiếm.
Giả như trong đêm giao thừa, khi chuông đồng hồ vừa đổ mười hai tiếng cuối cùng của năm cũ, mọi người chúng ta hãy tuyệt đối yên lặng trong giây lát, rồi sau đó mới mở tiệc và mừng chúc nhau. Trong khoảng khắc thinh lặng này, chúng ta sẽ nhận ra đâu là mục đích, đâu là hướng đi chúng ta cần phải thực hiện và theo đuổi cho năm mới, cũng như cho suốt cả cuộc đời chúng ta.
Chính trong ý nghĩa ấy, tôi xin thành thực cầu chúc cho mỗi người một năm mới ngập tràn hạnh phúc trong tình yêu thương của Chúa.
29. Lời hứa năm mới
Đứng trước thềm ngưỡng cửa Năm Mới, niềm vui mừng hân hoan bừng lên từ trong tâm hồn trái tim ta, lộ hiện ra nơi khuôn mặt ánh mắt. Đàng sau niềm vui mừng hân hoan đó ẩn dấu niềm trông mong chờ đợi: lời cầu chúc tốt đẹp, qùa tặng và lời hứa. Niềm tin tôn giáo nói cho ta: Thiên Chúa là Đấng làm chủ, trao tặng thời gian năm mới cho con người vũ trụ.Chúa Giêsu, con Thiên Chúa, từ trời cao hạ sinh làm người là lời cầu chúc bình an tốt đẹp cho nhân loại: Bình an dưới thế cho người Chúa thương.Lời Chúa đã được loan tuyền qua Chúa Giêsu cho con người trong mọi hoàn cảnh cuộc sống. Lời Ngài là lời hứa, là thức ăn cho cuộc sống tâm hồn niềm tin con người.
Với Bạn Trẻ lời hứa của Chúa nói với họ: Các Bạn thân yêu, thời gian Năm Mới là cơ hội tốt đẹp cho cuộc sống của tuổi trẻ đang vươn lên. Các Bạn là niềm hy vọng, là tương lai của xã hội, của Hội Thánh, của gia đình, của nhân loại, của phát triển. Các Bạn hãy cùng Thầy bước đi vào Năm Mới với những mơ ước, đích điểm mong chờ, với lòng khao khát và cả với những lo ngại áy náy hay cả với nỗi niềm lo âu sợ sệt của các Bạn. Cho dù thế nào đi chăng nữa, các Bạn không đi một mình và đó chưa phải là tất cả đâu!Thầy hằng cùng đồng hành bên cạnh trợ giúp Bạn!
Với những người lớn tuổi, lời hứa của Chúa cũng là hành trang cho họ cùng bước vào năm mới: Các Ông, các Bà là những người đã sống trải qua nhiều chặng đường đời sống từ hăng chục năm, có người gần thế kỷ với nhiều thăng trầm buồn vui, thành công thất bại, cay đắng nọt bùi, đau khổ bệnh tật khoẻ mạnh, gánh nặng lo âu và được an ủi… Nhưng các Ông Bà đã sẵn có kinh nghiệm một đời sống thản nhiên, hãy cùng con cháu, cùng mọi người và với niềm tin vào Thiên Chúa bước đi vào thời gian năm mới. Xin các Ông Bà đừng quên những gì đã xảy ra trong đời mình, cho dù là cay đắng thất bại. Vì đó là những ân đức giúp xây dựng cuộc sống qúa khứ để có ngày hôm nay và ngày mai.
Thầy đến mang sự an ủi và ơn cứu rỗi cho con người. Thầy thông cảm và luôn hằng cùng ở bên cạnh trợ giúp niềm tin tinh thần cho con người: Hỡi những ai gánh nặng mệt nhọc, hãy đến cùng Thầy, để sẽ an ủi bồi bổ sức lực cho tâm hồn. Với mọi người lời hứa của Chúa nhắn gửi: Hãy đạt niềm tin tưởng phó thác vào Thầy. Trong đời sống thời gian năm mới cũng như những năm tháng đã qua, chúng ta, mọi người sẽ sống trải qua cảnh hầu như cô đơn, nhìn xung quanh đâu có thấy gì ngoài mình, tâm hồn chán nản. Lúc đó sao chẳng thấy Thiên Chúa đồng hành Cha không để con một mình!
“Có đêm tôi nằm mơ: thấy mình cùng Chúa đi dọc bờ biển. Những hình ảnh đời tôi hiện dần ra trước mắt, hình ảnh nào tôi cũng thấy có những dấu chân in trên cát. Thường thường tôi thấy rõ dấu chân của hai người, nhưng đôi lúc lại chỉ thấy dấu chân một người.Tôi phân vân, vì những lúc chỉ thấy dấu chân của một người như thế là những lúc đời tôi gặp thất bại, lo âu và piền muộn. Vì thế tôi quay sang hỏi Chúa: Lạy Cha, Cha đã hứa với con là nếu con theo Cha, Cha luôn luôn ở bên con. Nhưng sao trong những lúc khó khăn nhất đời con, con chỉ thấy dấu chân một người. Những khi con cần Cha như vậy, sao Cha không ở bên con? húa quay sang bảo tôi: “Con ơi! dấu chân của một người đó là dấu chân Cha. Vì trong những lúc con gặp khó khăn, chịu đau khổ, Cha đâu có bỏ con một mình, nhưng Cha đã cõng con trên vai Cha!”. Niềm tin vào lời hứa của Chúa đồng hành trong Năm mới, tất nhiên không làm ta giàu có thêm tiền bạc của cải, nhà cửa vườn tược. Nhưng lời hứa cùng đồng hành trợ giúp của Chúa trong Năm mới làm tinh thần tâm hồn ta phấn khởi, vui tươi hăng hái vượt qua những khó khăn thử thách trong cuộc sống. Điều này cần thiết cho cuộc sống con người với Chúa và con người với nhau.
30. GIAO THỪA--Hạnh phúc đầu năm—Mt 5,1-10--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Mỗi năm vào ngày đầu năm mới người ta vẫn chúc tụng nhau và cầu chúc cho nhau những điều may mắn, những điều tốt đẹp nhất, những điều hạnh phúc nhất.Hôm nay ngày 01 tết Canh Dần, phụng vụ cho chúng ta đọc lại tám mối phúc thật của Chúa Giêsu để chúng ta hiểu được thế nào là hạnh phúc thật, thế là là những người được Chúa chúc phúc.
Sống nơi cõi trần, con người ai cũng muốn mình được may mắn, được tốt đẹp, đặc biệt được hạnh phúc. Do đó, con người tranh đấu để sinh tồn, con người phấn đấu để vượt khó, vượt lên cả số phận của mình. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã hứa ban Nước Trời là hạnh phúc đích thật cho các môn đệ Chúa. Chúa cũng đảm bảo cho những con người hiền lành, sầu khổ, có tâm hồn trong sạch, bị bách hại sẽ được” đất nước làm cơ nghiệp ” được ” Thiên Chúa xót thương” được ” nhìn thấy Thiên Chúa ” được ” gọi là con Thiên Chúa “. Và để những lời chúc phúc của Chúa trở nên hiện thực cho đời sống, cho con người, Chúa mời gọi các môn đệ Chúa phải trải qua đau khổ, vác thập giá và trải qua cái chết với Ngài trên thập giá. Đối với Chúa phải qua thập giá mới tới được vinh quang. Chính vì thế, người môn đệ Chúa sẽ không thể nhận được lời chúc phúc, sẽ không thể nào được hạnh phúc nếu không trải qua cuộc hành trình thập giá. Không có đau khổ không có vinh quang. Không có cái chết, không có sự phục sinh. Chúa muốn dạy chúng ta rằng muốn có hạnh phúc, muốn được tài lộc phải hy sinh, chịu khó, đổ mồ hôi sôi nước mắt. Bởi vì, không ai nằm chờ sung rụng rồi sẽ được giầu có nếu họ không chịu khó, phấn đấu, cực nhọc. Không ai muốn sống lâu mà cứ luôn phung phí sức khỏe, không biết tập luyện, kiêng khem vv…
Ngày đầu năm mới, chúng ta cảm tạ hồng ân Thiên Chúa vì Người đã dựng nên chúng ta giống hình ảnh của Người và còn hứa ban ” Nước Trời ” cho chúng ta.
Chúng ta cảm tạ tri ân Thiên Chúa vì Ngài đã ban cho chúng ta một năm qua được lãnh nhận nơi Ngài biết bao hồng ân, Ngài yêu thương và thành tín với chúng ta dù rằng nhiều khi chúng ta phản bội Ngài.
Chúng ta hãy tạ ơn Thiên Chúa vì Ngài luôn là người Cha đầy tình thương xót, luôn tha thứ mỗi lần chúng ta xúc phạm đến ngài và chẳng trách cứ chúng ta.
Đầu năm mới chúng ta hãy sống và chúc cho nhau một năm mới đầy yêu thương, đầy ý nghĩa vì Chúa là mùa xuân vĩnh cửu, mùa xuân không bao giờ tàn úa, nhạt phai.
Chúa là mùa xuân, chúng ta hãy mở tung cõi lòng để đón nhận những lời chúc phúc của Thiên Chúa, đồng thời, chúng ta phải sống yêu thương như Ngài yêu thương chúng ta và Ngài đã hy sinh mạng sống vì yêu thương chúng ta.
Tạ ơn Chúa vì lời chúc phúc của Chúa vẫn luôn hiện thực trong đời sống của mọi người.
Tạ ơn Chúa vì hạnh phúc được làm con Chúa trong tin yêu và hy vọng và như thế lời chúc đầu năm mới: an bình, tuổi mới và sống lâu vẫn là những điều quí hóa bởi vì đó là hoa quả của tình yêu của Chúa là mùa xuân vĩnh cửu.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con một năm mới vui tươi và hạnh phúc. Amen.
31. GIAO THỪA--Xuân Tạ Ơn—Mt 5,1-10--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Giây phút linh thiêng của những giờ phút của đêm giao thừa luôn có một ý nghĩa nhiệm mầu. Giây phút mà Hàn Mặc Tử đã viết: “Đây phút linh thiêng đã khởi đầu…”Giây phút giao thoa giữa năm cũ và năm mới. Giây phút mà những cái cũ được đẩy qua một bên để nhường cho những giây phút linh thiêng nhất, quí hoá nhất. Giây phút dành để cho Thiên chúa vì chỉ có mình Người là Đấng tạo dựng vũ trụ, tạo dựng con người. ” Đức Giêsu Kitô vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời ” như thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Do Thái 13, 8 đã viết. Do đó, những giờ phút quan trọng của đêm giao thừa là để tạ ơn Thiên Chúa.
TẠ ƠN LÀ ĐIỀU TỐI CẦN THIẾT: Sống trên gian trần, chúng ta mọi người đều mang ơn nhau, nặng nợ với nhau. Do đó, việc tri ân cảm tạ là điều cần thiết mọi người phải có với nhau. Tuy nhiên, đối với Thiên Chúa chúng ta trả ơn không bao giờ cho cân xứng, Thiên Chúa không cần chúng ta cảm ơn Ngài, nhưng cảm tạ lại cần thiết và sinh ơn cứu độ cho chúng ta vì như lời nguyện nhập lễ chúng ta đọc thấy: “Lạy Thiên Chúa là Đấng vô thủy vô chung, là căn nguyên và cùng đích vạn vật, trong giờ phút giao thừa này, chúng con hướng tâm hồn lên Chúa. Cúi xin Chúa rộng ban cho chúng con một năm dồi dào phúc lộc, và đầy lòng hăng hái làm việc lành để tôn vinh Danh Thánh”. Thiên Chúa là Đấng tạo thành trời đất, chúng ta phải biết ơn Ngài và luôn luôn hướng về Ngài để cảm tạ tri ân Ngài và cầu khẩn Ngài vì ” Ơn phù hộ tôi đến từ Đức Chúa là Đấng dựng nên cả đất trời “.Chính vì thế, giây phút giao thừa là giây phút huyền nhiệm, linh thiêng để chúng ta dừng lại tạ lỗi với Chúa vì những thiếu xót trong năm vừa qua và kính dâng Chúa năm mới với những cố gắng của mỗi người chúng ta với sự bảo trợ của Mẹ Maria và thánh cả Giuse. Một phút quay lại với tâm tình thống hối và những quyết tâm với những ước mơ mới. Tạ ơn Thiên Chúa là điều tối cần thiết vì những hồng ân vô giá Thiên Chúa trao ban cho con người, cho loài người, cho mỗi người: “Lạy Thiên Chúa chí nhân chí thánh, Chúa là Đấng tạo thành vạn vật. Thời gian không gian là của Chúa, Chúa ban cho chúng con được hưởng dùng. Nay, trước thềm một mùa xuân mới, chúng con đến dâng lời tán tụng. Cùng với lời cảm mến tri ân. Năm cũ vừa qua được an bình, năm mới sắp tới muôn phần tốt đẹp. Chúng con xin cúi đầu cảm tạ”.
LỜI CẦU NGUYỆN TRI ÂN: Lạy Chúa, trước thềm năm mới, năm Đinh Hợi, chúng con cầu xin cho ánh sáng của Chúa chiếu toả khắp nơi trên vũ trụ, trần gian. Xin ơn hòa bình ngự trị mọi tâm hồn của những con người thành tâm thiện chí ” Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người Chúa thương “. Xin cho Quê Hương, Đất Nước chúng con luôn được niềm hạnh phúc của mùa xuân vĩnh cửu ngự trị và muôn dân được ấm no hạnh phúc.
Lạy Chúa, xin cho mọi tâm hồn của con người luôn được thanh luyện trong Thánh Thần. Xin cho tất cả mọi người có niềm tin và không có niềm tin đều ước nguyện một mùa xuân vĩnh cửu không bao giờ tàn úa.
Xin cho những Kitô hữu luôn biết sống lời Chúa và yêu thương phục vụ.
Xin cho chúng con luôn biết hiếu đễ để mọi người luôn biết nói lời cảm tạ tri ân. Xin cho chúng con luôn là những dòng suối mát vun tưới cho cành xuân của chúng con được nở rộ trong mùa xuân vĩnh cửu, mùa xuân như ý, mùa xuân cứu độ.
Lạy Chúa, trước thềm năm mới Đinh Hợi, chúng con xin cảm tạ tri ân Chúa vì những ân huệ quí báu Thiên Chúa ban cho chúng con nhưng không. Xin cảm tạ Chúa vì mùa xuân bất diệt Chúa tặng ban cho nhân loại, cho con người, cho gian trần.
Xin cho giây phút giao thừa của xuân Đinh Hợi mang lại cho chúng con ơn bình an và hạnh phúc.
32. GIAO THỪA--Bàn giao năm cũ--Mt 5, 1-10--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Giây phút huyền nhiệm của đêm giao thừa như có một sự gì đó hết sức linh thiêng vì năm cũ chuyển giao cho năm mới. Đây là giây phút trời với đất gặp nhau, trời và đất giao hòa như lời Thánh vịnh 133,3 viết: “ Cúi xin Đấng tạo thành trời đất, xuống cho đoàn con muôn ngàn phúc cả từ núi thánh Sion ". Lời khẩn cầu ấy phải là lời nguyện xin của mỗi người, mỗi gia đình khấn van Chúa tưới đổ muôn hồng ân xuống năm mới để người người, nhà nhà được an bình, thịnh vượng và hạnh phúc.
Với truyền của người Việt Nam, đêm giao thừa là đêm thánh thiêng, đêm con người gặp gỡ thần linh, đêm con người gặp gỡ trời và đất. Thường người lớn trong gia đình đứng trước bàn thờ tổ tiên, ông bà để khấn vái tổ tiên, khấn xin người trên ban cho gia đình được nhiều hồng phúc, ban cho gia đình được dồi dào sức khỏe, may mắn và bình an. Đối với các Kitô hữu, giây phút giao thừa là giây phút con người gặp gỡ Thiên Chúa để nói lời cảm tạ tri ân Ngài vì muôn ân phúc Ngài đã ban cho con người, cho mỗi người, cho gia đình trong suốt một năm qua. Do đó, giây phút giao thừa là giây phút linh thiêng nhất: Thiên Chúa gặp gỡ con người và con người gặp gỡ Thiên Chúa. Giây phút linh thánh trời và đất gặp nhau, Thiên Chúa đang ở với con người và con người đang đối diện với Thiên Chúa. Giây phút huyền diệu này con người không biết diễn tả sao cho hết tình Chúa thương yêu con người. Trong giây phút ấy, con người chỉ biết hợp cùng Giáo Hội ca tụng và cảm tạ Thiên Chúa: “ Lạy Cha chí thánh là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Cha mọi nơi mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và sinh ơn cứu độ cho chúng con. Trong Cha chúng con được hiện hữu, được sống và hoạt động. Ngay trên cõi đời này, chẳng những chúng con hằng nghiệm thấy hiệu quả tình thương của Cha, mà còn nhận bảo chứng sự sống muôn đời. Quả vậy, chúng con được nhận lãnh ân huệ mở đầu là Chúa Thánh Thần, nhờ Người, Cha đã cho Đức Kitô sống lại từ cõi chết; do đó, chúng con hy vọng, muôn đời được sống lại từ cõi chết " (Lời Kinh Tiền Tụng Chúa Nhật IV Thường niên). Chúng ta có thể nói không ngoa vì giây phút này là giây phút tuyệt hảo, giây phút hạnh phúc nhất con người gặp gỡ Đấng vô cùng chí thánh, giống như giây phút trên núi Sinai, Môsê không dám nhìn vào bụi gai đang cháy khi Thiên Chúa đang ở đó. Môsê phải cúi mặt xuống, không dám nhìn vào Chúa.
Vâng, mỗi nước, mỗi dân tộc có một tập tục, một cách thể hiện để đón năm mới, nhưng dù với cách nào, với tập tục nào, truyền thống nào, người môn đệ Chúa luôn coi giây phút giao thừa là giây phút linh thiêng, giây phút năm cũ sẽ nhường chỗ cho một năm mới tới. Người môn đệ Chúa luôn ước mong năm mới sẽ đẹp hơn, tốt hơn năm cũ. Người môn đệ Chúa sẽ xua đi tất cả những gì được coi như xui xẻo, coi như không được may mắn của năm cũ và đón chào những gì tốt hơn, quí hơn của năm mới mà Thiên Chúa sẽ trao ban cho họ.
Lạy Chúa Giêsu, trong giây phút linh thánh của đêm giao thừa, xin cho mọi người môn đệ Chúa luôn biết nói lời cảm tạ tri ân Thiên Chúa vì những ơn huệ đã nhận lãnh và nhận ra những hồng ân mà Ngài sẽ ban cho nhân loại, cho con người, cho mỗi gia đình trong năm mới bắt đầu này. Amen.
33. Xin cho tất cả đều mới—Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Đêm giao thừa khởi đầu một năm mới. Người Việt Nam có tục xông nhà, xông đất các gia chủ mong có người hiền, nhanh nhẹn, tử tế đến xông nhà đầu tiên để gia đình có người tốt đặt chân đầu tiên sẽ gặp những điều mới, điều tốt lành trong năm mới. Người Kitô hữu cũng có tập tục, truyền thống rất quí quá là dâng ngày đầu năm cho Thiên Chúa. Dâng những giây phút đầu của một năm, người Kitô hữu mong Chúa đổi mới và chúc lành cho năm mới.
NHỮNG ƯỚC NGUYỆN MỚI CHO MỘT NĂM MỚI:
Ngay ca nhập lễ thánh lễ minh niên đã viết: “ Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc, xin tỏa ánh tôn nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài"(Tv 66, 2-3). Từ cái giây phút linh thiêng của đêm giao thừa khi trời đất giao hòa, năm cũ bàn giao cho năm mới.
Con người trước bàn thờ nghi ngút hương trầm bay đã cầu xin Thiên Chúa tuôn đổ muôn vàn ơn phúc cho năm mới và qua những chén trà, ly rượu chúc mừng, con người đã muốn cầu chúc cho nhau sức khỏe, điều lành, điều tốt. Và chính ngay lúc khởi đầu của những ngày mới, con người quả đã muốn mọi sự cũ phải được qua đi, cái mới, cái đẹp phải loé rạng, tỏa sáng. Trong thánh lễ tân niên, người Kitô hữu luôn đặt tin tưởng, cậy trông và phó thác. Mọi sự đều do Chúa, đều bởi Ngài vì thế như lời thánh vịnh viết: “ Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Người sẽ ra tay. Chính nghĩa bạn, Chúa sẽ làm rực rỡ tựa bình minh, công lý bạn, Người sẽ cho huy hoàng như chính ngọ" và như Tin Mừng đọc trong thánh lễ này, thánh sử Matthêu đã viết: “ Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho". Ngày mồng một và suốt cả năm mới, người Kitô hữu luôn ước nguyện làm theo ý Chúa và tin tưởng, phó thác cho Chúa vì mọi sự sự đều do Ngài, bởi Ngài. Thánh Phaolô nhấn mạnh: “ Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em!". Nguyện ước cho mọi sự được mới, cho tất cả tỏa sáng trong Chúa, cho mọi người được an lành, vui khỏe. Đó là những ước nguyện chân thực của con người...
TRÊN HẾT MỌI SỰ HÃY VUI LÊN:
"Hãy lấy Chúa làm niềm vui của bạn, Người sẽ cho được phỉ chí toại lòng"(Tv 36).Để có được lòng tin tỏa chiếu, người Kitô hữu ngoài những nguyện ước bình thường cho cuộc đời thường ngày, họ còn phải có lòng tín thác tuyệt đối cho Thiên Chúa, Đấng tác sinh nên họ và họ phải đi đến chỗ tin tưởng phó thác: “...ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy". Năm mới, người Kitô hữu cầu xin cho được sức khỏe, an bình và thịnh vượng, nhưng điều chính yếu họ sống tin, yêu, cậy trông và phó thác: “ Vì Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó "(Mt 6, 32).
Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, trong ngày đầu năm mới chúng con họp nhau đây để dâng lòi chúc tụng ngợi khen Chúa. Cúi xin Chúa mở lượng hải hà, ban cho hết mọi người chúng con trong năm 2004 này được bình an mạnh khỏe, càng thêm tuổi càng thêm nhân đức hầu đáng hưởng phúc lộc dồi dào"(Lời nguyện nhập lễ, thánh lễ minh niên).
34. GIAO THỪA--Mt 5, 1-10--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Thế là 365 ngày đã qua đi. Đêm nay trời và đất như giao hòa, kết duyên. Giây phút mà thi sĩ Hàn Mạc Tử đã nói: “ Giây phút thiêng liêng đã khởi đầu". Giờ này, nhân loại, con người đối diện với Thiên Chúa, Đấng là chủ thời gian, là Chúa của vũ trụ, của nhân loại, của con người. Vào phút giây huyền diệu này, thời gian cũ như ngừng lại, bàn giao cho một thời gian mới, một năm mới. Con người chỉ còn biết dâng lên Thiên chúa, vua mùa xuân lời cảm tạ sâu xa và tha thiết xin Chúa giáng phúc lành cho năm mới được phúc lộc miên trường.
GIÂY PHÚT LINH THIÊNG
Con người trong đêm thiêng liêng của sự giao hòa đất trời, luôn cảm nghiệm có một cái gì đó rất đời thường nhưng cũng vô cùng linh thiêng. Cái giờ phút những ngày cũ của một năm cũ đã qua đi. Thời gian như đi mãi, đi hoài và hầu như không dừng lại. Nhưng giữa cái mốc điểm của đêm giao thừa huyền nhiệm: đêm đẩy lùi quá khứ hướng về tương lai, đêm linh thánh báo hiệu những ngày mới của một năm mới đã ló rạng. Đêm mà con người đối diện với Thiên Chúa, Chúa của mùa xuân, Chúa của lịch sử, Chúa của loài người, đêm giao thừa, con người chỉ có thể khẩn cầu Thiên Chúa như thánh vịnh 133, 3 đã viết: “ Cúi xin Đấng tạo thành trời đất, xuống cho đoàn con muôn ngàn phúc cả từ núi thánh Sion" và như ca nhập lễ đêm giao thừa đã thốt lên: "trong giờ phút giao thừa này, chúng con hướng tâm hồn lên Chúa. Cúi xin Chúa rộng ban cho chúng con một năm dồi dào phúc lộc, và đầy lòng hăng hái làm việc lành để tôn vinh Danh Thánh". Đêm hôm nay, trong cõi u tịch của sự bàn giao thời gian, con người chỉ có thể hiểu được: Vũ Trụ, Xuân, Hạ, Thu, Đông luôn vần xoay, xoay chuyển và con người có là gì đều do Thiên Chúa. Nên, tâm tình đầu tiên trong giây phút linh thánh của đêm giao thừa là sám hối, tạ ơn. Sám hối để luôn đón nhận Chúa và tạ ơn để hiểu mọi sự đều bởi Chúa. Sách dân số 6, 22-27 đã viết: “.khi chúc lành cho con cái Ít-ra-en, anh em hãy nói thế này: nguyện Đức Chúa ban phúc lành và gìn giữ anh em! Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh em và dủ lòng thương anh em! Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em!". Chúc như thế là đặt con cái Ít-ra-en dưới quyền bảo trợ của Danh Ta, và Ta, Ta sẽ chúc lành cho chúng. Đêm giao thừa trong giây phút thiêng liêng nhất: phút giây trời đất giao hòa, con người hãy hướng cả tâm hồn của mình lên Thiên Chúa, Chúa của mùa xuân vĩnh cửu để tạ ơn và xin Chúa chúc lành: “ Nguyện Đức Chúa ban phúc lành và gìn giữ anh em, gìn giữ mọi người"(Dân số 6, 22-27).
HÃY TẠ ƠN VÀ CẦU NGUYỆN KHÔNG NGỪNG
Thánh Phaolô đã viết: “ Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh"(1thes. 5, 16). Con người và nhân loại trong giây phút thiêng liêng của đêm giao thừa hãy tạ ơn Chúa, kết hiệp mật thiết với Chúa bằng lời cầu nguyện liên lỉ. Những ngày tháng năm cũ, chắc chắn có lúc ta gặp những điều thuận lợi, nhưng có nhiều lúc ta gặp những sự bất trắc, thử thách khó khăn. Tất cả những điều đó là những thánh đố của mỗi người. Con người dù có thêm tuổi, dù gánh nặng chồng chất trên vai, dù có sự thay đổi của tuổi tác, của trí tuệ, của khả năng, của sức khỏe. Nhưng, tất cả đều là ân huệ của Chúa. Tất cả đều làm vinh quang cho Ngài. Và rồi, con người chỉ có thể đứng vững khi họ biết bước trên từng nấc thang của tám mối phúc thật. Và như thế, con người sẽ vĩnh viễn ở trước mặt Chúa cho dù thời gian có đi qua. Con người không chỉ sống đơn độc một mình, họ còn có một mái ấm gia đình. Giờ phút linh thiêng của một năm mới đã khởi đầu: xin Chúa thánh hóa các gia đình và để các gia đình có thể gần gũi Chúa, phương thế các gia đình phải thực hiện là lần chuỗi mân côi. Xin cho từng người và mọi người, mọi gia đình biết tạ ơn Chúa không ngừng và cầu nguyện liên lỉ để ý Chúa được thực hiện dưới đất cũng như trên trời. Có như thế, thời gian sẽ trở thành vĩnh cửu và xuân sẽ là cái mốc cho con người càng lúc càng gần Thiên Chúa.
Lạy Chúa là Chúa xuân vĩnh cửu: “ Tôi ngước mắt nhìn lên rặng núi, ơn phù hộ tôi đến tự nơi nao? Ơn phù hộ tôi đến từ Đức Chúa là Đấng dựng nên cả đất trời"(Tv 120,1.).
Xin Chúa ban cho chúng con biết biến giây phút linh thiêng đêm giao thừa này trở nên lời ca ngợi tình thương vô biên của Chúa.
Lạy Chúa, xin nhìn đến lòng tin của chúng con mà luôn luôn che chở giữ gìn, hầu suốt cả năm nay chúng con được sống trong tình thương của Chúa (lời nguyện hiệp lễ, lễ giao thừa).
35. Việc gì phải lo, có Chúa an bài--Mt 6, 25-34--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Trong muôn loài được Thiên Chúa dựng nên, con người là hình ảnh Chúa. Do đó, con người có nhiều đặc ân mà không loài nào trên trần thế có thể so ví với con người.Loài người có suy tư, suy nghĩ và tư duy biết phán đoán, ưu tư, quan tâm đến người khác và quay lại với chính mình. Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người, Ngài luôn yêu thương săn sóc, lo lắng, quan phòng. Hoa huệ ngoài đồng, chim se sẻ Chúa cũng còn quan tâm huống chi con người. Chính vì thế, Chúa nói: “…Cha trên trời thừa biết anh em cần những gì?…”.
CHÚA NÓI ĐỪNG QUÁ LO LẮNG NHỮNG CÁI PHÙ PHIẾM: Nghĩ cũng nực cười khi con người hết thế hệ này qua thế hệ khác, chẳng có gì mới mẻ, vẫn cứ ngựa y đường cũ nghĩa là cứ đầu tắt mặt tối lo lắng cơm, gạo, bạc, tiền vv…Có người suốt đời cơm vẫn thiếu, áo vẫn không đủ mặc ấm. Tại sao lại như vậy? Nghĩ cũng buồn và cười ra nước mắt, thật là thê lương. Tuy nhiên, đọc lại Tin Mừng của thánh Matthêu 6, 25-34, Chúa nói: “Đừng lo “. Con người là loài thụ tạo cao hơn mọi loài Chúa dựng nên. Hoa huệ đẹp ngoài đồng mà vua Salomon tuy vinh sang như thế nhưng cũng không mặc đẹp như đóa hoa đó. Con chịm se sẻ, Chúa cũng nuôi. Hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin (Mt 6, 30). Loài người, con người họa lại hình ảnh vô song, toàn mỹ của Thiên Chúa. Do đó, con người được Chúa quan phòng, lo toan vì họ trọng hơn hoa, quí hơn muông thú. Ngài quan tâm đến từng nhu cầu của mỗi người theo cách thức tế nhị nhiệm mầu cao sâu của Ngài. Thánh Phaolô đã viết rất chí lý rằng: “Sự giầu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào!…Vì muôn vật đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn tại và quy hướng về Người. Xin tôn vinh Thiên Chúa đến muôn đời.Amen. “(Rm 11, 33-36).
CỨ TIN TƯỞNG, KÝ THÁC CHO CHÚA: Thánh vịnh 13 có câu: “Hãy ký thác đường đời cho Chúa.Tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay”. Chúa bảo” đừng lo”, không có nghĩa Chúa nói chúng ta lười biếng, ỷ lại, không chịu làm việc, đừng lo cho nhu cầu thể xác và trần thế này. Chúa không hề nương chiều con người, cũng như ủng hộ cho những con người lười biếng, liều lĩnh. Thánh Phaolô đã từng nói: “Không làm việc thì đừng ăn…”. Đúng sự đời là như thế, con người quả tuyệt vời vì có lý trí để suy luận, có đạo đức để biết phân biệt điều phải, điều ác, điều ngay, điều gian và có hạnh phúc vĩnh cửu với Thiên Chúa. Loài chịm, loài thú, chúng ta cứ tưởng chúng không vất vả, kỳ thực ra chúng vất vả nhiều, chúng phải bay đi hoặc đi xa để kiếm mồi, kiếm thức ăn nuôi sống…Loài hoa, loài cây cũng phải nhờ rễ đâm sâu, nhờ hút nước ở dưới đất, nhờ hấp thụ sương, mặt trời vv…Con người Chúa luôn khuyên nhủ hãy phó thác, nghĩa là hãy để tâm hồn bình an, đừng bôn ba quá đáng, đừng lạc quan đến bất cần, nhưng ” Hãy lấy Chúa làm niềm vui…Người sẽ cho được phỉ chí toại lòng”(Tv 36). Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Philipphê 4, 4-8 cũng đã viết: “Anh em đừng lo lắng gì cả…”.
Tết là dịp để con người dừng lại, chiêm ngắm những kỳ công hết sức tuyệt vời của Thiên Chúa: chim chóc, thú rừng, cây cỏ, hoa lá vv… ngắm lại chính bản thân của mình: “Con người là hình ảnh của Thiên Chúa Giavê”. Và đã là hình ảnh của Thiên Chúa, con người sẽ sống sự sống của Thiên Chúa. Sự sống của Thiên Chúa vĩnh cửu, trường sinh. Do đó, sự phó thác luôn là cần thiết của mọi người…
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn biết phó thác vào bàn tay uy quyền của Chúa. Amen.
36. Xin cho tất cả đều mới--Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Đêm giao thừa khởi đầu một năm mới. Người Việt Nam có tục xông nhà, xông đất các gia chủ mong có người hiền, nhanh nhẹn, tử tế đến xông nhà đầu tiên để gia đình có người tốt đặt chân đầu tiên sẽ gặp những điều mới, điều tốt lành trong năm mới. Người Kitô hữu cũng có tập tục, truyền thống rất quí quá là dâng ngày đầu năm cho Thiên Chúa. Dâng những giây phút đầu của một năm, người Kitô hữu mong Chúa đổi mới và chúc lành cho năm mới.
NHỮNG ƯỚC NGUYỆN MỚI CHO MỘT NĂM MỚI:
Ngay ca nhập lễ thánh lễ minh niên đã viết: “Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc, xin tỏa ánh tôn nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài” (Tv 66, 2-3). Từ cái giây phút linh thiêng của đêm giao thừa khi trời đất giao hòa, năm cũ bàn giao cho năm mới.
Con người trước bàn thờ nghi ngút hương trầm bay đã cầu xin Thiên Chúa tuôn đổ muôn vàn ơn phúc cho năm mới và qua những chén trà, ly rượu chúc mừng, con người đã muốn cầu chúc cho nhau sức khỏe, điều lành, điều tốt. Và chính ngay lúc khởi đầu của những ngày mới, con người quả đã muốn mọi sự cũ phải được qua đi, cái mới, cái đẹp phải loé rạng, tỏa sáng. Trong thánh lễ tân niên, người Kitô hữu luôn đặt tin tưởng, cậy trông và phó thác. Mọi sự đều do Chúa, đều bởi Ngài vì thế như lời thánh vịnh viết: “Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Người sẽ ra tay. Chính nghĩa bạn, Chúa sẽ làm rực rỡ tựa bình minh, công lý bạn, Người sẽ cho huy hoàng như chính ngọ” và như Tin Mừng đọc trong thánh lễ này, thánh sử Matthêu đã viết: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho”.
Ngày mồng một và suốt cả năm mới, người Kitô hữu luôn ước nguyện làm theo ý Chúa và tin tưởng, phó thác cho Chúa vì mọi sự sự đều do Ngài, bởi Ngài. Thánh Phaolô nhấn mạnh: “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em!”. Nguyện ước cho mọi sự được mới, cho tất cả tỏa sáng trong Chúa, cho mọi người được an lành, vui khỏe. Đó là những ước nguyện chân thực của con người…
TRÊN HẾT MỌI SỰ HÃY VUI LÊN:
“Hãy lấy Chúa làm niềm vui của bạn, Người sẽ cho được phỉ chí toại lòng” (Tv 36). Để có được lòng tin tỏa chiếu, người Kitô hữu ngoài những nguyện ước bình thường cho cuộc đời thường ngày, họ còn phải có lòng tín thác tuyệt đối cho Thiên Chúa, Đấng tác sinh nên họ và họ phải đi đến chỗ tin tưởng phó thác: “… ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy”. Năm mới, người Kitô hữu cầu xin cho được sức khỏe, an bình và thịnh vượng, nhưng điều chính yếu họ sống tin, yêu, cậy trông và phó thác: “Vì Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó “ (Mt 6, 32).
Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, trong ngày đầu năm mới chúng con họp nhau đây để dâng lòi chúc tụng ngợi khen Chúa. Cúi xin Chúa mở lượng hải hà, ban cho hết mọi người chúng con trong năm 2004 này được bình an mạnh khỏe, càng thêm tuổi càng thêm nhân đức hầu đáng hưởng phúc lộc dồi dào” (Lời nguyện nhập lễ, thánh lễ minh niên).
37. Thánh Lễ Minh Niên--Mt 6, 25-34--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Thánh vịnh 66, 2-3 có viết: “Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc, xin tỏa ánh Tôn Nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài “. Một năm mới tới: 365 ngày cứ xoay đổi vần xoay, luân chuyển không ngừng. Khắp nơi trên quê hương Việt Nam thân yêu, giờ này người ta đang hân hoan mừng năm mới Quí Mùi. Năm mới, tôi nghiệm ra xuân hay nói nôm na là Ân Huệ, là Phúc, là Lộc, là Thọ.
XUÂN LÀ MỘT ÂN HUỆ CHÚA TRAO BAN
Gọi là Ân Huệ vì con người có cơ hội nghỉ ngơi, giãn xả và sống cái tâm tình cảm tạ, biết ơn Thiên Chúa, Đấng tạo hóa vô cùng diệu vợi, vô cùng thánh thiêng, vô cùng quyền phép. Nói theo một cách nào đó, Thiên Chúa là Đấng cực kỳ quyền năng. Vậy, sống ngày đầu xuân, con người hướng trọn tâm tình và cuộc đời của mình để tạ ơn Thiên Chúa vì một năm qua đi trong tình thương che chở của Chúa. Tạ ơn, biết ơn vì những thất bại, những chua cay, đau khổ tưởng rằng sẽ vùi dập con người, cuộc đời trong bể dâu, thê lương, nhưng tạ ơn vì Chúa cho qua đi những ngày đen tối và cả những ngày hạnh phúc tràn đầy. Biết ơn Chúa để quên đi quá khứ mà lao tới tương lai mà tương lai có thể sẽ vô cùng vô tận, sẽ kéo dài mãi trong những ngày sắp tới và trong cả đời người. Nên, đời là một cuộc tri ân, biết ơn liên lỉ đối với Chúa của mùa xuân vĩnh cửu là Đức Giêsu Kitô.
Gọi là Ân Huệ vì con người có dịp, có giây phút gọi là thảnh thơi để dừng lại dẫu chỉ là một thoáng để nhìn lại quãng đường đã đi trong cuộc hành trình cuộc đời để xem những gì cần nhân lên, cần làm cho tỏa sáng hay những gì cần phải khắc phục sửa đổi và như thế cuộc đời là một cuộc quay trở về không ngừng để hoán cải, ăn năn và làm mới nội tâm để sống tốt hơn, đẹp hơn.
Gọi là Ân Huệ vì con người sẽ có cơ hội sống tình thân, tình máu mủ ruột thịt, sống cái tình đầm ấm gia đình: trở về với cội nguồn, ông bà, cha mẹ, anh em, họ hàng để tỏ tình hiếu thảo, báo đáp nghĩa tình với tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Và như thế rất thích hợp với điều 04 của 10 thập giới: “Hãy thảo kính cha mẹ”. Sống tâm tình ấy là phù hợp mãi mãi với Đạo của Chúa và làm tỏa sáng năm thánh hóa gia đình.
Gọi là Ân Huệ vì con người có dịp sống tâm tình chia sẻ, làm quen, sống tình làng nghĩa xóm hài hòa để nâng cao tình người và sống trọn kiếp người như Chúa đã sống với các tông đồ xưa. Đó là hồng ân cao cả Thiên Chúa trao ban cho con người để con người sống niềm vui, sự hạnh phúc và lòng quảng đại hầu con người mãi mãi sống con đường làm người của Con-Thiên-Chúa là Đức Giêsu Kitô.
Sống Ân Huệ Chúa ban là con người sống cái Phúc, cái Lộc, cái Thọ mà Thiên Chúa dành riêng cho con người.
Nhân dịp năm mới, xin cho mọi người được ấm cái lòng, no cái bụng, đẹp cái mặt, mát cái dạ và như thế là con người sống mùa xuân vĩnh cửu, mùa xuân múc từ ngọn nguồn Tình Yêu là Chúa Giêsu Kitô, Đấng là Mùa Xuân bất diệt.
LỜI CẦU NGUYỆN
Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, trong ngày đầu năm mới, chúng con họp nhau đây để dâng lời chúc tụng ngợi khen Chúa. Cúi xin Chúa mở lượng hải hà, ban cho hết mọi người chúng con trong năm Quí Mùi này được bình an mạnh khỏe, càng thêm tuổi càng thêm nhân đức hầu đáng hưởng phúc lộc dồi dào (Lời nguyện nhập lễ, lễ Minh Niên).
Lạy Chúa, xin cho mọi người chúng con biết ký thác đường đời cho Chúa. Tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay (Tv 36,3-4.5-6.23-24.25-26).
38. Hãy tìm Nước Thiên Chúa--Mt 6, 25-34--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Lại một mùa xuân qua đi nhường chỗ cho những ngày mới khai mở một năm mới với biết bao ước vọng, với biết bao dự kiến, biết bao mơ ước và những kế hoạch, dự phóng cho một năm mới. Ngày xuân với bao lời chúc tụng cho nhau, chúc nhau an bình, thịnh vượng, may mắn. Đối với người Công giáo, ngày xuân ngoài những lời nguyện chúc bình thường mà bất cứ người nào cũng có thể chúc tụng nhau được thì người Kitô hữu còn chúc cho nhau được tràn đầy ơn Chúa, giữ vững đức tin và luôn sống đời sống của Chúa như Thầy đã yêu (Ga 15, 12).
ĐỔI MỚI VÀ MÃI MÃI ĐỔI MỚI: Năm cũ đã qua: năm con chuột đi vào quá khứ với những niềm vui, nỗi buồn. Năm con chuột có nhiều biến cố tốt đẹp nhưng cũng có những điều chưa được đối với từng người, đối với mọi người. Nhưng phải công nhận năm Mậu tý qua đi bình dị và vui tươi, hạnh phúc.Năm mới hy vọng với những ước mơ, với những dự tính xem ra sáng sủa và tốt đẹp hơn. Con người sẽ đẹp nếu họ biết quay trở về với chính mình để sửa đổi, để vươn tiến. Cuộc đời chỉ đẹp khi con người biết vươn lên, biết sửa đổi, biết làm cho cuộc đời sáng tươi, trong sáng. Năm con trâu với sự cần cù của loài vật đã có nhiều thập kỷ trở thành công cụ lao động quí hóa và mang lại nhiều lợi ích cho con người khi con người biết dùng sức lao động của con vật này trở nên bạn với người nông dân. Đã có một thời ” Con trâu đi trước, cái cầy đi sau ” luôn luôn gần gũi với người lao động Việt Nam. Bây giờ với thời đại khoa khoa, văn minh đi lên, con trâu không còn là công cụ duy nhất để cùng với người nông dân làm ra của cải. Ngày nay đã có máy móc, đã có khoa học kỹ thuật, người ta luôn đổi mới và luôn mãi mãi đổi mới để làm cho việc lao động mang lại nhiều của cải cho con người, cho loài người.
HÃY TÌM KIẾM NƯỚC TRỜI: Bài Tin Mừng của thánh Mathêu 6, 25-34 trình bầy cho mọi người một quan niệm. một tư tưởng, một lối đi chúng ta phải chọn lựa: “chọn Chúa hay tiền của “. Đã chọn rồi, chúng ta phải sống theo điều đã chọn lựa. Nếu chúng ta chọn Chúa, chúng ta phải lo phụng sự Chúa, lo lắng làm những điều Chúa dạy, Chúa làm. Tuy nhiên, nếu đã chọn tiền của, con người sẽ làm tôi ma quỉ, làm tôi Mammôn và như thế con người sẽ xa Chúa và mất Chúa. Con người chọn Chúa sẽ được hai phần: được Chúa và Chúa ban cho con người tùy theo nhu cầu của con người. Do đó, suốt bài Tin Mừng, Chúa dạy con người đừng lo lắng thái quá về những điều phụ thuộc, không chính yếu lắm như của ăn, của mặc, nhưng phải tin tưởng và phó thác nơi Chúa. Để làm nổi bật ý tưởng này, Chúa dùng hai hình ảnh rất thực tế như chim trời và hoa huệ ngoài đồng. Chim trời và hoa huệ ngoài đồng không lo lắng gì cả nhưng Thiên Chúa vẫn luôn chăm sóc chúng. Chúa dạy chúng ta hãy nhìn vào chim trời và hoa huệ để bắt chước, để học bài học quan phòng của Thiên Chúa. Chúa minh chứng và xác nhận con người cao quý hơn chim trời hơn hoa huệ nhiều vì con người có trí khôn, lý trí, có lương tâm, có đạo đức để phân biệt lành và dữ, biết phân biệt hạnh phúc và sự xấu số vv…Chim trời, hoa huệ vẫn làm việc vì không bay đi để kiếm ăn, không hút nước, hút tinh hoa trong lòng đất, hoa huệ sẽ chết. Chính vì thế, Chúa không khuyên chúng ta đừng làm việc, nhưng Ngài dạy chúng ta phải cần mẫn làm việc và phó thác tất cả cho Chúa để Chúa hướng dẫn và chỉ bảo.
NĂM MỚI VỚI NHỮNG ƯỚC MƠ MỚI: Năm mới mở ra cho con người, cho mỗi người hãy sống và hãy phục vụ với tình yêu, với đức tin. Chúa luôn yêu thương con người và dạy con người phải yêu thương như Ngài đã yêu. Bởi vậy, năm mới ai cũng có dự phóng, cũng có những ước mơ nhưng tất cả còn tùy thuộc nơi sự quan phòng của Chúa. Điều gì Chúa thấy cần, Ngài sẽ ban cho con người chúng ta. Chúa bảo”đừng lo ” không có nghĩa là Chúa bảo đừng làm việc, đừng lao động, đừng lo cho nhu cầu phần xác và trần gian, nhưng Ngài nói hãy cần cù lao động theo ý Chúa và phó thác thành công và thất bại nơi Chúa.Ước mơ luôn là mơ ước nhưng chính Chúa mới là người định đoạt: “Bạn hãy ký thác đường đời cho Chúa. Chúa, Chúa chính Chúa Ngài sẽ ra tay “.
ÁP DỤNG VÀO THỰC TẾ: Xuân đem lại những gì tốt đẹp cho con người nếu con người biết thánh hóa những ngày xuân và năm mới.Tuy nhiên, còn nhiều người chưa chắc đã được hưởng một ngày xuân ấm áp, đẹp tươi: những mảnh đời tang thương, những mảnh đời rách nát. Chúng ta được diễm phúc hơn những hạng người nghèo khổ.Chúng ta hãy mở lòng để giúp đỡ những mảnh đời đau thương và cố gắng sưởi ấm tâm hồn họ.Năm mới, chúng ta cầu xin Chúa ban bình an để cuộc đời mỗi người, mỗi gia đình luôn đầy ắp tình thương và ân huệ của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu là Mùa Xuân vĩnh cửu, xin ban cho chúng con luôn biết phó thác nơi bàn tay yêu thương của Chúa. Amen.
39. Lễ Minh Niên--Mt 6, 25-34--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Hãy ký thác đường đời cho Chúa. Tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay. Xem ra con người chúng ta thường vất vả, bon chen để sinh sống và để kiếm cho được một chỗ đứng nào đó trong xã hội. Đó là lẽ thường tình của con người. Tuy nhiên, đường của những môn đệ của Chúa lại khác bởi vì Chúa nói: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho “.
Những giây phút đầu năm mới là những giây phút thật đẹp Chúa trao ban cho nhân loại, cho con người, cho mỗi người. Chúa trao cho mỗi người, người năm nén, người ba nén, người một nén và Chúa đòi hỏi con người phải làm lợi ra cho Chúa. Mỗi ngày có 24 tiếng, 365 ngày một năm là món tiền Chúa trao ban cho mỗi người đồng đều để mỗi người làm lợi ra cho Chúa. Vâng, Chúa tạo dựng nên vũ trụ, con người, Chúa giao cho con người làm chủ vũ trụ, làm đẹp công trình sáng tạo của Chúa. Con người có đức tin, nên thánh Phaolô khuyên nhủ mỗi người hãy vui luôn trong Chúa. Như thế, con người chẳng lo lắng gì vì Chúa luôn quan phòng. Một sợi tóc trên đầu rơi xuống cũng nằm trong bàn tay quan phòng của Chúa. Con chim sẻ, hoa huệ là tạo vật, Chúa vẫn an bài huống chi là con người…Do đó, mỗi người hay tín thác vào Chúa và đặt hết sinh mạng, đời sống của mình nơi bàn tay an bài của Chúa: “Cứ tin tưởng vào Chúa và làm điều thiện, thì sẽ được ở trong đất nước và sống yên hàn. Hãy lấy Chúa làm niềm vui của bạn, Người sẽ cho được phỉ chí toại lòng”.
Chúa là Đấng chí công, Ngài là Đấng giầu lòng nhân hậu và giầu tình thương, Ngài sẽ ban ơn phù giúp cho mỗi người chúng ta. Đầu năm mới, chúng ta tiến thêm một bước nữa trong cuộc hành trình đức tin. Chắc chắn, mỗi người cần sự an bình bởi vì sự bình an là điều rất cần thiết để con người lãnh nhận ân huệ của Chúa. Sự bình an mà các thiên thần năm xưa hát vang trên không trung ngày Chúa giáng trần: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người thiện tâm “. Chúng ta phải có sự an bình trong tâm hồn, mới hiểu được những nấc thang giá trị của cuộc sống. Của cải vật chất cần thật để sinh tồn nhưng xin Chúa là sự khôn ngoan, sự bình an ban cho mỗi người chúng ta biết sáng suốt khước từ những gian tà, những bất chính, những thỏa hiệp để chỉ biết làm giầu cho cá nhân, cho bản thân mình. Chúng ta phải luôn tín thác nơi Chúa vì có Chúa mới giúp chúng ta biết quảng đại, chia sẻ với những người khổ đau, đói nghèo.
Tiết Đông nay đã qua rồi, mưa phùn lạnh lẽo ngừng rơi bên thềm. Ngàn hoa rực rỡ vươn lên, tỏa hương ngào ngạt khắp miền đồng quê. Mùa vui hát lại trở về, tiếng chim gáy đã vẳng nghe thôn làng (Dc 2, 11-12). Cuộc đời con người giống như Xuân, Hạ, Thu, Đông cứ xoay chuyển vần xoay và rồi năm này tiếp qua năm nọ. Con người rồi cũng có lúc tàn phai. Nhưng Chúa là mùa xuân vĩnh cửu, Chúa là Chúa của muôn xuân. Ngài hôm qua, hôm nay và mãi mãi muôn đời vẫn tươi xinh, tốt đẹp. Con người chỉ biết cúi đầu trước Đấng tạo hóa tối cao: “Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc, xin tỏa ánh Tôn Nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài ” (Tv 66, 2-3).
Và rồi con người chúng ta luôn hiểu lời này: “Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay. Chính nghĩa bạn, Chúa sẽ làm rực rỡ tựa bình minh. Công lý ban, Người sẽ cho huy hoàng như chính ngọ “.
Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, trong ngày đầu năm mới chúng con họp nhau đây để dâng lời chúc tụng ngợi khen Chúa. Cúi xin Chúa mở lượng hải hà, ban cho hết mọi người chúng con trong năm Nhâm Thìn được bình an mạnh khỏe, càng thêm tuổi càng thêm nhân đức hầu đáng hưởng phúc lộc dồi dào (Lời nguyện nhập lễ, lễ Mồng Một Tết).
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1. Ngày đầu năm có ý nghĩa gì?
2. Thánh Lễ Minh Niên để làm gì?
3. An bình có cần thiết cho con người không?
4. Phúc Lộc Thọ là gì?
5. Tại sao lại gọi Chúa là mùa xuân vĩnh cửu?
40. Bình An Năm Mới 2013--Mt 6, 25-34--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Cả trời bỗng diêu diêu như báu vỡ:
Nên tiếng vang thầm dội đến thâm tâm,
Mà ta ngỡ Đấng Tiên Tri muôn thuở
Giữa đêm nay còn đứng giảng Phúc Âm.
Đó là những câu thơ của thi sĩ Hàn Mạc Tử, đã viết lên để ca ngơi Đấng Tiên Tri muôn thuở, xin Ngài giáng phúc thi ân, ban phước lộc cho muôn người, muôn nhà trong năm mới. Bởi vì năm cũ Nhâm Thìn đã qua đi nhường chỗ cho năm Quý Tỵ.Mọi Kitô hữu hãy ngước mắt lên trời, xin Thiên Chúa chúc lành cho năm mới này, để muôn người, muôn nhà được sống trong sự an bình của Chúa…
Tiết Đông nay đã qua rồi,
Mưa phùn lạnh lẽo ngừng rơi bên thềm.
Ngàn hoa rực rỡ vươn lên,
Tỏa hương ngào ngạt khắp miền đồng quê.
Mùa vui hát lại trở về,
Tiếng chim gáy đã vẳng nghe thôn làng (Tv 66,2-3).
Sự an bình, vui nhộn của đồng quê, làng mạc, thôn xóm trong những ngày xuân nói lên rằng Thiên Chúa yêu thương con người, quan tâm đến con người cả tinh thần đến vật chất. Đoạn Tin Mừng của thánh Matthêu hôm nay nói đến sự quan phòng của Thiên Chúa: chim trời, hoa huệ và mọi sự đều được Chúa an bài, ngay cả sợi tóc trên đầu rơi xuống đất cũng do Thiên Chúa định liệu. Con người quý trọng hơn hoa huệ, chim trời biết bao! Người Kitô hữu hãy ký thác đường đời cho Chúa, tín thác nơi Chúa: “Cứ tin tưởng vào Chúa và làm điều thiện, thì sẽ được ở trong đất nước và sống yên hàn.Hãy lấy Chúa làm niềm vui của bạn, Người sẽ cho được phỉ chí toại lòng “.
Suốt một năm qua, chắc chắn mỗi người đã được Thiên Chúa ban cho những ân huệ đặc biệt tùy theo lòng thương xót của Ngài…Năm mới tới, chúng ta luôn tin như thánh Phaolô viết: “Anh em đừng lo lắng gì cả.Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Và bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Kitô Giêsu “.
Năm mới, chúng ta luôn xác tín rằng Thiên Chúa sẽ luôn ở cùng chúng ta. Nên, Lời Chúa: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế ” (Mt 28, 20) an ủi, nâng đỡ và giúp chúng ta tin tưởng tiến bước vì chúng ta cảm nghiệm sâu xa Chúa ở cùng chúng ta trong mọi hoàn cảnh của đời sống chúng ta.
Ngày lại ngày, chúng con ca ngợi Chúa, mãi ngàn năm, xin chúc tụng danh Ngài, lời Thánh Vịnh là động lực giúp chúng con luôn bám chặt vào Chúa và tôn vinh, ca ngợi Chúa. Kinh tiền tụng lễ Minh Niên nhắc nhở chúng ta: “…Riêng con người, Cha đã tạo nên giống hình ảnh Cha và cho điều khiển mọi công trình kỳ diệu trong hoàn vũ trụ, để họ thay quyền Cha làm chủ mọi loài, và khi chiêm ngưỡng những kỳ công Cha đã thực hiện, họ hát mừng ca tụng Cha luôn mãi, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con “. Chúng ta vững bước, tin tưởng ký thác nơi Chúa, chính Người sẽ hướng dẫn và điều khiển cuộc đời của mỗi người.
Lạy Chúa, Chúa đã trao cho loài người chúng con trách nhiệm trông coi vũ trụ. Nay chúng con hoan hỷ dâng lên Chúa những lễ vật đầu xuân, chọn lựa trong tinh hoa của ruộng vườn.Xin cho chúng con không ngừng cảm tạ tri ân, và chu toàn sứ mệnh làm chủ trái đất (Lời nguyện tiến lễ, lễ Minh Niên).
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1. Tết có ý ngjĩa gì?
2. Tại sao chúng ta lại ký thác đường đời cho Chúa?
3. Bình an của Chúa có khác với hòa bình của con người?
4. Phúc Lộc Thọ là gì?
5. Tại sao lại gọi Chúa là Mùa Xuân vĩnh cửu?
41. Chúa Giê-su là mùa xuân của nhân loại--Lm Ignatio Trần Ngà
Nguyện xin Chúa Giê-su là Mùa Xuân vĩnh cửu biến đổi chúng ta nên những người có phẩm chất cao đẹp.
Tết đến, xuân về, ai ai cũng hân hoan đón mừng năm mới; nhà nhà rộn rã sửa soạn mừng xuân.
Bầu trời ảm đạm của mùa đông đã được Xuân về nhuộm màu thắm tươi rực rỡ.
Xuân xua tan băng giá của mùa đông và đem lại ấm áp cho con người.
Xuân tô điểm cảnh vật, cho hoa trổ hương sắc, cho cây cối đâm chồi nẩy lộc, chim chóc ríu rít vui ca.
Xuân đổi mới vạn vật, xuân làm phấn chấn lòng người nên mọi người đều tưng bừng mừng xuân, chào đón xuân và cầu mong xuân sẽ đem lại nhiều điều tốt đẹp cho bản thân, cho gia đình mình, cho đất nước mình trong năm mới.
Thế nhưng còn có một Mùa Xuân khác tuyệt vời hơn mùa xuân của thời gian. Đó là Mùa Xuân Giê-su.
Chúa Giê-su chính là Mùa Xuân tươi đẹp đã và đang đến với nhân loại. Mùa Xuân Giê-su đi đến đâu thì tô đẹp cuộc đời và thăng hoa con người đến đó.
Mùa Xuân Giê-su hôm xưa đã hồi sinh những người đã chết: cho La-da-rô đã chết bốn ngày rồi được sống lại, cho con trai bà goá thành Na-im và cô con gái ông Giai-rô được hồi sinh.
Mùa Xuân Giê-su đã làm cho những người đau bệnh được chữa lành, người mù tối được sáng mắt, cho người điếc được nghe, cho kẻ què đi được, người phong được sạch.
Mùa Xuân Giê-su đã hồi sinh những tâm hồn héo hắt trong tội và giúp họ trở về nẻo chính đường ngay: hoán cải Gia-kêu bóc lột trở thành người quảng đại dám đem nửa gia tài bố thí cho người nghèo, đền gấp bốn những thiệt hại đã gây ra; biến người đàn bà tội lỗi trở thành người loan tin vui, biến người thu thuế thành tông đồ, biến Sao-lô bách hại trở nên chiến sĩ anh dũng loan Tin Mừng…
Nhưng điều đáng tiếc là mặc dù Mùa Xuân Giê-su đã đến trong cuộc đời chúng ta từ lâu nhưng chúng ta không chịu để cho Mùa Xuân Giê-su đổi mới đời mình. Vì thế, hôm nay, chúng ta hãy tha thiết cầu xin Mùa Xuân Giê-su tô điểm cuộc đời chúng ta nên tươi đẹp hơn.
Quý trọng nét đẹp tâm hồn
Ai ai cũng quý trọng sắc đẹp phần xác. Ngược lại, người ta cảm thấy buồn tủi nếu mình không được xinh đẹp duyên dáng.
Nhưng hãy nhớ rằng vẻ đẹp của tâm hồn đáng quý hơn vẻ đẹp thân xác. Vì thế, người ta thường nói: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn. Xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người” hoặc: “Cái nết đánh chết cái đẹp.”
Đúng vậy, nét đẹp của tâm hồn, nét đẹp phát xuất từ phẩm chất cao quý của con người đáng trân trọng và quý mến hơn vẻ đẹp thân xác.
Bằng chứng là Mẹ Tê-rê-xa Calcutta, một nữ tu già nua, nghèo nàn, thấp bé và không có nhan sắc, vậy mà nhờ Mẹ có một thái độ tôn trọng mọi người như tôn kính Chúa, có một trái tim nhân ái đầy ắp yêu thương, có một tâm hồn quảng đại quên mình vì mọi người, có một tinh thần sẵn sàng phục vụ những người bần cùng khốn khổ khắp nơi trên thế giới… nên Mẹ được thế giới kính trọng và xem như là người phụ nữ cao quý nhất. Đúng là “xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người.”
Trang điểm tâm hồn
Muốn trở nên xinh đẹp, cần phải tẩy xoá đi những gì làm cho đời ta hoá nên xấu xí.
Trong giao tiếp hằng ngày, phải loại trừ những lời nói thô lỗ, những ngôn từ thô bỉ, thiếu văn hoá… vì nó làm mất thanh danh phẩm giá của người thốt ra những lời đó.
Cố gắng loại trừ những hành động vũ phu, những hành vi côn đồ, thiếu văn hoá, thiếu văn minh và đạo đức… vì ai thực hiện những hành vi đó là tự làm hại chính mình, đánh mất phẩm chất cao đẹp của mình.
Đồng thời chúng ta cố gắng trang điểm đời mình bằng cung cách lịch sự, bằng những hành vi cao thượng, bác ái, vị tha… Chính những hành vi cao đẹp nầy làm cho bản thân chúng ta thực sự trở nên cao cả.
Ngôi nhà chúng ta ở đã được nâng cấp (trước đây ở nhà tranh nay lên nhà ngói), phương tiện đi lại của chúng ta đã được nâng cấp (trước đi xe đạp nay lên xe máy), các mặt hàng tiêu dùng trong nhà đều đã được nâng cấp thì lẽ nào bản thân chúng ta lại không được nâng cấp sao?
Nguyện xin Chúa Giê-su là Mùa Xuân vĩnh cửu biến đổi chúng ta nên những người có phẩm chất cao đẹp, càng thêm tuổi, càng thêm khôn ngoan và nhân đức, được Thiên Chúa và mọi người yêu mến (theo Luca 2,39).
42. “Những Dấu lặng của Mùa Xuân”!
Năm cũ đi. Năm mới đến. Người ta lại bắt tay vào những công việc quen thuộc. Người thì lo tính toán sổ sách, hoàn tất công việc. Kẻ thì đi sắm sửa quần áo, giày dép, hoa kiểng, bánh mứt, quà cáp … Người khác lại lo chuẩn bị các mặt hàng để buôn bán ở chợ Tết. Năm nào cũng vậy, Mùa Xuân nào cũng thế. Nhưng thử hỏi nếu không có Mùa Xuân? Thì…?
Chuyện kể rằng:
“Ngày kia, có vài người đến thưa với Thượng Đế rằng: Tết năm nào cũng có bấy nhiêu việc. Chán quá! Chỉ có bọn con nít vô tư ham Tết chứ người lớn như chúng con chẳng ham gì Tết vì còn vất vả, tốn kém hơn ngày thường. Xin Ngài xem xét cho”! Suy đi nghĩ lại, Thượng Đế quyết định gọi Mùa Xuân trở về Thiên Quốc.
Thế là ba trăm sáu mươi lăm ngày này trôi qua, lại đến ba trăm sáu mươi lăm ngày khác tiếp nối nhau liên tục. Trẻ con cứ vùi đầu vào sách vở. Người lớn thì miệt mài chạy theo công việc làm ăn. Nhà cửa chẳng bao giờ được trang hoàng bởi những nhánh mai vàng rực rỡ và những chậu hoa kiểng xinh xắn, dễ thương. Các ông bà cụ mỏi mòn bên song cửa ngày này qua tháng nọ mà bóng dáng con cháu vẫn biền biệt. Bạn bè không có dịp họp mặt nhau bên ly rượu, mâm cơm để gặp gỡ, chia sẻ tâm tình … Và rồi dần dần, hoa cỏ nhợt nhạt vì thiếu làn gió xuân ấm áp và những đôi tay chăm sóc. Con người cũng dần dần xa cách nhau vì thiếu sự quan tâm và tình thương nồng nàn.
Chịu hết nổi, một ngày nọ, con người lại đến van xin Thượng Đế: “Xin Ngài đem Mùa Xuân trở về với chúng tôi. Không có Mùa Xuân, có ngày chúng tôi phát điên lên mất”.
Khi Mùa Xuân trở lại, sức sống và niềm vui lại chan hòa trên cảnh vật và con người …”
Có lẽ Mùa Xuân là một quà tặng tuyệt vời mà Thượng Đế gửi đến cho vũ trụ và con người. Quà tặng đó là thời gian, là những vẻ đẹp được kết tinh từ cả một chiều dài lịch sử văn hóa dân tộc, và sâu xa hơn, đó là một “món ăn” bổ ích cả thể xác lẫn tinh thần cho con người.
Có lẽ tùy vào hoàn cảnh và tâm trạng của mình mà mỗi người có những cảm xúc khác nhau trước Mùa Xuân.
Tôi rất thích Mùa xuân! Bao năm rồi vẫn vậy. Ngày xuân! Chợ và siêu thị nào cũng đầy ắp các loại bánh mứt, trái cây … được trưng bày đủ kiểu, đủ dáng thật đẹp; tấp nập kẻ bán, người mua. Bước ra hội chợ Hoa Xuân dường như … hoa cả mắt bởi các loại hoa kiểng xinh xắn, rực rỡ và mới lạ – đủ các dáng kiểu. Các Hội Xuân tưng bừng các trò chơi vui nhộn. Đường phố “dập dìu tài tử giai nhân” rạng rỡ trong những bộ quần áo thật đẹp và “model”. Trong các nhà thờ thì càng vui hơn nữa: mọi người hăng hái quét dọn, treo lộc xuân và những câu đối. Cảnh đẹp và người đẹp! Nhất là được trở về xum họp với gia đình và những người thương mến sau những tháng ngày xa cách, vì thế mà tôi vẫn cứ thích Mùa Xuân!
Đón mừng Xuân Mới. Ai cũng cũng có nhiều công việc phải làm: những chương trình vui xuân và những dự tính mới cho ba trăm sáu mươi lăm ngày sắp tới. Giữa những ồn ào náo nhiệt ấy, cần lắm một chút lắng đọng lại để lắng nghe “lời thì thầm của Mùa Xuân”!
Sau một năm dài bôn ba, mỏi mệt bởi công việc và tất bật chạy đua với thời gian, tôi cần có những giây phút dừng lại để nghỉ ngơi và “nạp năng lượng”; để đọc lại những bài học may, rủi, thành công và thất bại đã qua; để vun tưới cho những tương quan và tình cảm tốt đẹp với bao người thân yêu mà nhiều khi vì vô tình và vội vã, tôi đã đi lướt qua họ và bỏ mặc họ.
Đón Xuân không chỉ là dọn dẹp, trang hoàng nhà cửa cho đẹp và mặc những bộ quần áo mới, hay có những kế hoạch vui chơi giải trí cho thật hấp dẫn, mới mẻ và thỏa thích. Điều quan trọng hơn, đón xuân là làm mới lại tất cả: tâm hồn, cách sống, công việc và đời sống gia đình, cũng như các mối tương quan xã hội. Khi đã “gạn đục khơi trong” con người mình bằng cách loại bỏ tư tưởng và những điều tiêu cực, đồng thời chắt lọc những giá trị tích cực và bổ ích, tôi sẽ có được sức mạnh và nghị lực mới để bước tiếp chặng đường mới một cách tự tin và vững vàng hơn.
Mùa Xuân mở đầu cho một năm mới. Hoa lá khoe sắc mới và gió xuân thổi vào lòng người niềm vui và hy vọng của những may mắn mới. Người người phơi phới niềm vui, hân hoan trao nhau những lời chúc tốt đẹp nhất: Phúc, Lộc, Thọ … và gửi biếu nhau những món quà thể hiện lòng biết ơn, sự trân trọng, quý mến và chia sẻ. Xin đừng quên nói lời cảm ơn những người bạn thân thiết đã chia sẻ cùng mình những niềm vui, nỗi buồn, thành công và thất bại. Hãy nói lời cảm ơn người cha, người mẹ, người chồng, người vợ và những người bà con thân quyến … đã gắn bó và nâng đỡ mình trong những ngày tháng qua. Hãy cảm ơn chính mình về những nổ lực và nhiệt tâm … Và đừng quên cất lời cảm tạ Thượng Đế về bao ơn lành Ngài đã ban cho ta trong một năm qua nơi mọi biến cố vui, buồn, may, rủi …
Có thể ví cuộc đời mỗi người như một bản nhạc được dệt bởi những cung bậc trầm bổng của thời gian. Giữa những cung bậc tưng bừng và náo nhiệt của Mùa Xuân, có “những dấu lặng” thật tuyệt vời để ta nghe lại âm hưởng của đoạn nhạc phía trước và bắt đầu những giai đoạn mới ở phía sau. Khi ấy, Mùa Xuân mới thật sự là “một phần tất yếu của cuộc sống” chúng ta. Cuộc đời chúng ta sẽ là Khúc Nhạc Mùa Xuân mà Thượng Đế ban tặng để làm phong phú hơn cho vẻ đẹp của con người.
43. Vạn sự như ý… Chúa
Dịp tết tôi có nhận được lá thư của người thân ở nước ngoài, cầu chúc cho tôi “vạn sự như ý” được nhắc đi nhắc lại gần ba lần Tôi hiểu người thân của tôi rất thương mến tôi, quan tâm nhiều tới tôi, mong ước cho tôi được may mắn điều này điều kia, không muốn tôi phải khổ, không muốn tôi gặp những khó khăn… Vạn sự đây chắc không phải chỉ có mười ngàn lần mà là mọi việc xẩy ra đều tốt đẹp như ý muốn, và đó là hạnh phúc nhất của con người, rất là tự nhiên thôi. Thử hỏi trên đời này có ai lại “mát” đến cỡ muốn đau khổ, muốn phiền toái, muốn thất bại, mọi việc xẩy ra đều ngoài ý muốn bao giờ đâu. Các tôn giáo này các giáo phái kia đều muốn giúp con người cách này cách khác thoát khỏi khổ, vì không được như ý muốn là khổ, muốn giầu mà cứ nghèo mãi chẳng khổ là gì? Muốn bình yên mà cứ gặp tai nạn hoài chẳng khổ là gì?
Xưa nay người ta vẫn hiểu công khai hoặc hiểu ngầm là Ý Chúa thì luôn ngược với ý người ta nên người ta phải khổ. Khi phải khổ thì người ta chẳng còn tha thiết gì với Đấng ấy, càng xa càng tốt, càng dửng dưng càng khỏe, càng tránh được bao nhiêu càng đỡ phiền toái bấy nhiêu… Bởi vì đấng ấy có nhiều quyền hành muốn sao nên vậy, mọi vật đều phải tuân thủ. Khi nổi cơn ngông lên thì giáng họa, đánh phạt, răn đe đủ điều, có khi dùng tạo vật làm những trò tiêu khiển; Ngài như con muỗi sốt rét lâu lâu chích cho ta một phát chơi đỡ buồn. Gặp đường cùng con người quay lại chống đối, giơ nắm đấm, vênh mặt lên nghênh hoặc con người không tìm được lối thoát thì đành phải ngậm bồ hòn chịu vậy. Có người gắng công gồng mình tập chịu vậy, rồi cho đó là một nhân đức, lập công; khi chịu vậy đã quen thì cho đó là đỉnh cao của đời sống đức tin, và đi đến đâu cũng khuyên bảo người khác một cách rất sốt sắng là “Ý Chúa đấy, hãy… chịu vậy”. Gặp người chịu vậy thì họ lại chịu vậy, gặp người không chịu vậy thì họ dù không tỏ thái độ ra bên ngoài nhưng bên trong cũng giận điên lên!!!
Có điều con người muốn nhận diện rõ ràng đâu là ý Chúa, đâu là ý người ta, đâu là ý Bề trên? Hay bị lẫn lộn. Ý Chúa thì ráng cúi đầu chịu vậy, chứ còn ý người ta thì….. không thể chịu được, ăn thua đủ, sòng phẳng. Ông muốn gà bà muốn vịt, ông muốn không bà muốn có, muốn có điện lại bị cúp điện, muốn làm hòa mà nó lại chẳng cần… như thế có phải ý Chúa không?
44. Hạnh phúc đích thật
Tai nạn giao thông ở ngoại ô thành phố Paris năm nào đã cướp đi mạng sống của công nương Diana. Cái chết của bà làm hàng triệu người xúc động. Người ta thương bà vì bà xinh đẹp, bà nhân từ và vì bà phải mất đi cuộc sống này khi tuổi đời còn qúa trẻ, chưa được hưởng trọn vẹn niềm vui hạnh phúc. Hạnh phúc là niềm khát khao của mọi người. Con người sinh ra là để được sống hạnh phúc. Cả đời người là cuộc hành trình kiếm tìm hạnh phúc. Vậy hạnh phúc ở đâu? Hạnh phúc là gì?
Bạn thân mến! Thiên Chúa cũng bận tâm đến hạnh phúc của con người. Những gì Ngài làm cho ta như tạo dựng, nhập thể, cứu chuộc, thánh hóa..v..v.. Tất cả đều nhằm đem lại hạnh phúc cho ta trong cuộc đời này và cả cuộc đời mai sau nữa. Hạnh phúc của Thiên Chúa như gắn liền với hạnh phúc của con người. Thiên Chúa vui khi thấy con người hạnh phúc.
Định nghĩa hạnh phúc là điều không dễ làm, vì mỗi người có một quan niệm khác nhau về hạnh phúc, và nơi mỗi người, quan niệm này cũng biến đổi theo thời gian. Thường ta hay chạy theo những cái bóng của hạnh phúc, để rồi vỡ mộng, nhưng nhờ đó ta dần dần hiểu hơn thế nào là “hạnh phúc đích thật”: Hạnh phúc đích thật không nằm nơi của cải; kiến thức hay quyền uy. Hạnh phúc đích thật không do chiếm đoạt những gì mình muốn, nhưng do trao hiến những điều quý nhất của mình. Hạnh phúc đích thật là mãn nguyện với những gì mình được ban tặng; là niềm vui nhẹ nhàng, là bình an sâu lắng. Hạnh phúc đích thật là sự an bình ổn thỏa giữa tôi với Chúa, giữa tôi với anh em, và giữa tôi với chính tôi…
Sống ở đời, con người thấy mình không hạnh phúc trọn vẹn. Hạnh phúc bao giờ cũng được pha trộn với mồ hôi và nước mắt. Nhưng có hạnh phúc thật nào lại không mua bằng khổ đau? Chỉ ai biết yêu thực sự, mới cảm thấy hạnh phúc thực sự.
Chúng ta cần nhiều thời gian để suy đi nghĩ lại, và nhất là cần nhiều ơn ban từ trời cao giúp ta thấu hiểu được các mối phúc. Cũng như trong bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, những điều người đời coi là bất hạnh, Đức Giêsu bảo đó là hạnh phúc đích thật: nghèo, đói, khóc than, bị oán ghét, bị khai trừ, bị sỉ vả..v..v.. những điều đó tự chúng chẳng có giá trị gì. Nhưng nếu ta nghèo vì thanh liêm, đói vì ngay thẳng, khóc vì đại nghĩa, bị ghét bỏ vì nói lên dự thật, bị sỉ vả vì Chúa..v..v..thì ta thật là người có phúc. Hạnh phúc đó xảy ra ngay trong hiện tại, nơi một lương tâm thanh thản. Ta thấy mình giàu lên trong cảnh nghèo khó, no thỏa khi đói khát, vui tươi khi rơi lệ, và nhảy mừng khi bị bách hại.
Trải qua bao nhiêu thế hệ, có biết bao Kitô hữu đã sống các mối phúc thật trong đời mình. Họ cảm nghiệm được cái nghịch lý dễ thương; cái thâm sâu cao cả của Lời Chúa đã khắc ghi trong Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay.
Không phải chỉ có bốn hay tám mối phúc trong Tin Mừng. Phúc cho ai nghe và giữ Lời Chúa, phúc cho ai không thấy mà tin… Đức Giêsu có thể kéo dài các mối phúc đến vô tận, để các mối phúc đi vào mọi ngõ ngách của đời thường. Ước gì mỗi người trong chúng ta biết noi gương bắt chước Đức Giêsu, biết viết lên những mối phúc mới, cậy dựa vào những niềm vui và ơn ban Chúa dành cho ta trong cuộc sống hàng ngày.
Lạy Chúa Giêsu, các sách Tin Mừng chẳng khi nào nói Chúa cười, nhưng con tin Chúa vẫn cười khi thấy các trẻ em quấn quýt bên Chúa. Chúa vẫn cười khi hồn nhiên ăn uống với các tội nhân. Chúa đã cố giấu nụ cười trước hai môn đệ trên đường Emmau khi Chúa giả vờ muốn đi xa hơn nữa. Nụ cười của Chúa luôn ẩn hiện trong Tin Mừng. Nụ cười ấy hòa lẫn với niềm vui trào dâng của người được lành bệnh; của người chết sống lại và của người đàn bà tội lỗi được ơn tha thứ …
Lạy Chúa, có những niềm vui Chúa muốn trao cho con hôm nay, có sự bình an sâu lắng Chúa muốn để lại trong con. Xin dạy con biết tươi cười, cả khi cuộc đời chẳng mỉm cười với con. Xin cho con biết mến yêu cuộc sống, dù không phải tất cả đều là màu hồng. Con hay lo âu và chản nản, nhưng xin đừng để nụ cười tắt trên môi của con. Xin cho con luôn cảm thấy hạnh phúc, vì biết mình được Chúa yêu thương, và được sai đi để thông truyền tình thương ấy cho anh chị em của con. Amen.
45. Ngày đầu năm--R. Veritas
Tâm tình tạ ơn và phó thác trong cuộc sống.
Một nhà tư tưởng người Đức sống vào thế kỷ thứ 14 được tôn làm bậc tôn sư đưa ra khuôn vàng thước ngọc như sau:
– Người quan trọng nhất trong lúc này là người đối diện với ta.
– Giờ phút quan trọng nhất đối với ta lúc này là giờ phút hiện tại.
– Công việc quan trọng nhất là công việc bác ái yêu thương.
Chỉ chú ý vào người đối dịện, vào giờ phút hiện tại vào công việc ta đang làm. Đó là bí quyết sống hạnh phúc.
Người Nga cũng có một châm ngôn tương tự:
– Chỗ quan trọng nhất là chỗ bạn đang đứng này đây.
– Con người quan trọng nhất là con nguời đang đứng trước mặt bạn và đang cần bạn.
Đầu năm mới, có lẽ ai trong chúng ta cũng có một quyết tâm. Có người quyết tâm bỏ thuốc lá. Có người quyết tâm bỏ uống rượu. Có người quyết tâm dành thêm tiền bạc để đi buôn, để xây nhà,v.v… Có người quyết tâm hăng hái học hành để chuẩn bị cho một tương lai sáng lạn. Có quyết tâm và có quyết tâm, nhưng lắm khi sức người có hạn, chúng ta lại bỏ cuộc giữa đàng, đâu lại vào đó, con sâu của chán nản, của thất vọng lúc nào cũng chực sẵn để gậm nhấm tâm hồn chúng ta.
– Hãy sống giây phút hiện tại với tất cả tâm tình lạc quan và phó thác. Đó phải là quyết tâm mà chúng ta có thể làm tức khắc trong giây phút này.
– Hãy hưởng nếm những niềm vui nhỏ trong cuộc sống như ân tình diệu vợi của Chúa.
– Hãy trao vào tay Ngài mọi sầu muộn lắng lo. Chúng ta hãy để cho mọi lo âu lắng đọng xuống.
Chúng ta hãy chấm dứt mọi bài ca than vãn của thất vọng để chỉ còn lại một tâm tình duy nhất xứng hợp với người có lòng tin: Đó là tâm tình phó thác và tri ân.
– Tạ ơn Chúa đã ban cho ta chào đón năm mới.
– Tạ ơn Chúa đã luôn có mặt trong cuộc sống của chúng ta để dẫn dắt chúng ta trong từng phút giây của cuộc sống.
– Tạ ơn Chúa đã giữ vững chúng ta trong niềm tin vào Tình Yêu của Ngài.
– Tạ ơn Chúa cho riêng chúng ta. Tạ ơn Chúa cho tất cả mọi người.
– Tạ ơn Chúa chúng ta cũng không quên tạ ơn người:
– Tạ ơn ông bà tổ tiên đã cho chúng ta được sinh ra làm người Việt Nam. Tạ ơn cha mẹ đã sinh ra và giáo dục chúng ta nên người. Tạ ơn những người thân thương ruột thịt đã đùm bọc chúng ta. Tạ ơn những người bạn tốt đã nâng đỡ chúng ta bằng muôn nghìn cách thể hiện của tình yêu. Tạ ơn những người vô danh mà sự hiện diện và âm thầm đồng hành đã giúp chúng ta được sống như con người. Tạ ơn tất cả những người khốn khổ kém may mắn hơn chúng ta: Nhờ đó tiếng gọi sống yêu thương huynh đệ liên đới còn vang vọng trong tâm hồn chúng ta. Tạ ơn nhiều người mà chúng ta thù ghét. Tạ ơn những người thù ghét chúng ta. Tạ ơn tất cả bởi vì cách này hay cách khác họ vẫn luôn luôn là tiếng gọi để chúng ta sống tinh thần Kitô hữu nhiều hơn.
Với tất cả tâm tình tạ ơn. Chúng ta hãy dâng lên Chúa một năm mới.
Xin đâng lên Ngài tất cả niềm cảm mến tri ân của chúng ta.
46. Năm mới cầu gì?--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Năm mới, mọi người thường trao tặng nhau những lời cầu chúc thật tốt đẹp. Một trong những lời chúc được ưa chuộng nhất đó là lời chúc: Phúc – Lộc – Thọ. Lời chúc này được tạo nên bởi một hình tượng khá rõ nét với bộ Tam Đa: ông Phúc bế đứa trẻ; ông Lộc mặc phẩm phục đeo đai, trên đầu đội mão cánh chuồn; ông Thọ, người lùn thấp, đầu nhẵn bóng trán dô lên, một tay chống gậy, một tay cầm quả đào
Cả ba ông đều có chòm râu dài bạc trắng, nét mặt hồng hào, cười tươi rạng rỡ.
Vậy, Phúc- Lộc- Thọ: Các ông là ai?
Ông Phúc là Quách Tử Nghi – Thừa tướng thời nhà Đường. Ông là một vị quan thanh liêm nên cũng nghèo. Đổi lại nhà ông ngũ đại đồng đường, con cháu đề huề. Lúc ông mất, con cháu năm đời đều có đủ.
Ông Lộc là Đậu Tử Quân, làm Thừa tướng thời nhà Tấn. Trái ngược với Quách, Đậu là quan tham, tiền của như núi nhưng khi trăm tuổi không có người nối dõi.
Ông Thọ là Đông Phương Sóc, làm Thừa tướng thời nhà Hán. Ông này giỏi xu nịnh, được lòng vua nên hưởng nhiều bổng lộc. Ông mang lộc vua ban mua nhiều gái đẹp làm thê thiếp, mục đích dưỡng sinh. Và cũng sống dai, trên trăm tuổi. Khi chết thì chỉ có đứa chút bốn đời lo tang ma, còn cháu chắt chết hết cả.
Ba vị đó được người Trung Quốc dựng lên ba hình tượng, không phải để thờ mà để người đời nhìn gương đó mà lựa chọn cách sống cho phù hợp. Phúc –Lộc – Thọ có lối sống khác nhau. Phúc thì tử tế, còn cầu như Lộc Thọ là cầu cái vô phúc, liệu có ai muốn không?
Xem ra lời cầu chúc “Phúc – Lộc – Thọ” đã được hiểu sang một ý khác không còn mang ý nghĩa ban đầu của hình tượng Tam Đa. Nhưng thực tế, có lộc mà không có an bình, có Thọ mà không có niềm vui cũng là điều bất hạnh cho con người. Thế nên, không cần cầu cho có nhiều tiền, không cần cầu cho sống dai mà là cầu cho có phúc được hưởng niềm vui trong cuộc sống mới là quan yếu.
Có ai đó đã nói rằng: “Ghế cao chẳng bằng tuổi thọ cao. Tuổi thọ cao chẳng bằng niềm vui thanh cao”. Có được niềm vui thanh cao là hạnh phúc. Đây mới là mục đích tìm kiếm của đời người. Con người sinh ra để đi tìm hạnh phúc. Hạnh phúc là điều ai cũng khao khát, tìm kiếm suốt cả cuộc đời.
Tóm lại, Phúc – Lộc – Thọ là ước nguyện lớn nhất của mọi người. Thế nhưng, trong ba điều ước Phúc – Lộc – Thọ thì Phúc mới là điều chính yếu mà chúng ta cần cầu mong. Vì được đông con, có tiền, sống dai mà không có hạnh phúc thì cũng là những tháng ngày bất hạnh cho cuộc đời chúng ta.
Chúa Giê-su ngay trong bài giảng đầu tiên Ngài cũng nhắc đến cái Phúc của con người. Cái phúc của Chúa Giê-su không phải là con cháu đầy nhà. Cũng không phải là nhiều tiền nhiều của. Cũng không phải là sống lâu đến độ “bách niên giai lão”. Cái phúc mà Chúa mời gọi chúng ta ao ước, tìm kiếm là có Chúa ở cùng. Có Chúa làm gia nghiệp. Hay được Chúa xót thương….
Những mối phúc này hoàn toàn lệ thuộc vào sự tự do chọn lựa của chúng ta. Chọn Chúa để sống khó nghèo, thanh sạch, hiền lành, nhẫn nại, hy sinh…; Đổi lại người ấy được nhìn xem Thiên Chúa và có Chúa làm gia nghiệp đời đời.
Nhưng ở đời hôm nay người ta ít chọn Chúa khi mà nhu cầu hưởng thụ mỗi ngày một cao hơn. Người ta cần tiền để thoả mãn nhu cầu vật chất của mình lên không chịu sống khó nghèo. Có tiền người ta rải tiền trong các cuộc truy hoan trụỵ lạc. Thế nên, người ta ít sống thanh sạch. Cuộc sống luôn tất bật, bon chen, xô đẩy con người, khiến có mấy ai hiền lành, nhẫn nại, hy sinh…?
Hôm nay ngày đầu năm, chúng ta cầu chúc cho nhau một năm mới chứa chan ơn Phúc từ Trời. Xin cho chúng ta luôn là người có Phúc khi chọn Chúa làm gia nghiệp, khi chọn Chúa hơn những của cải mau qua trần gian. Xin cho chúng ta luôn tìm được niềm vui có Chúa ở cùng khi biết sống phụng sự Chúa với hết cả tấm lòng. Amen
47. Hạnh phúc trường sinh--Lm Giuse Tạ duy Tuyền
Người đời vẫn coi ba hạnh phúc lớn nhất của con người là Phúc – Lộc – Thọ. Phúc là công danh chức tước – Lộc là con cháu đông đảo – Và thọ là tuổi già.
Có công danh, sinh con cái là những dịp để người ta khao vọng, mừng rỡ, và khi hưởng tuổi già người ta lại càng cần phải mừng rỡ hơn để tạ ơn trời đất tiên tổ đã phù hộ cho được sống lâu. Vì đây là nỗi khao khát của con người vượt qua mọi thời đại. Dân tộc nào cũng ước mơ trường thọ, thời đại nào cũng mong được trường sinh bất tử. Dân tộc Việt Nam cũng biểu lộ sự khao khát trường sinh bất tử qua câu truyện Từ Thức lạc vào chốn bồng lai tiên cảnh. Nỗi khao khát này còn được biểu lộ nơi chúng ta trong những dịp lễ tết đầu năm thường chúc nhau mạnh khỏe sống lâu, và trong đám cưới người ta vẫn thường cầu chúc cô dâu chú rể trăm năm hạnh phúc.
Vâng, sống hạnh phúc và trường thọ là nỗi khao khát nhất của đời người. Người đời không chỉ mong sống lâu mà còn mong được sống hạnh phúc và bình an. Hôm nay ngày đầu năm, mỗi người chúng ta đều chúc nhau hạnh phúc. Chúng ta cầu chúc cho nhau một năm an khang thịnh vượng. Chúng ta mong ước cho nhau luôn mạnh khoẻ sống lâu và làm ăn phát đạt. Đây chính là những ước mơ rất chính đáng của con người. Là người ai cũng mong được sống trường sinh và hạnh phúc.
Chính Chúa Giê-su cũng định hướng cho chúng ta một con đường dẫn tới bến bờ hạnh phúc và trường sinh. Đó chính là con đường của tám mối phúc. Đây là con đường đòi hỏi sự dấn thân quên mình, đòi hỏi phải hy sinh những cái nhỏ để được cái lớn hơn. Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, có tấm lòng hiền hậu, dám chấp nhận khổ đau, yêu thích sự chính trực, thương xót đồng loại, giữ lòng trong sạch, và biết xây dựng hoà bình. Đây cũng là một đòi hỏi kiên quyết của người môn đệ Đức Kytô. Họ phải là những người nghèo trước mặt Thiên Chúa. Người nghèo của Thiên Chúa không phải là người có đời sống vật chất khó khăn túng quẫn, mà là kẻ trước hết hoàn toàn tin tưởng phó thác cậy trông nơi Chúa, biết sống cho Chúa và cho anh em đồng loại của mình, lấy Chúa làm gia nghiệp, và luôn sống trong tình liên đới với anh em đồng loại, thực thi điều răn trọng nhất là mến Chúa yêu người. Cho dù mình có bị thiệt thòi một chút, đau khổ một chút nhưng họ lại có ích cho gia đình, cho xã hội và đồng loại. Cuộc sống của ta chỉ có niềm vui trong những gì chúng ta cho đi. Cho thì có phúc hơn nhận lãnh. Một con người không bao giờ biết cho đi, không bao giờ biết hy sinh vì người khác, hay không bao giờ sống thanh sạch lòng thanh – gìn giữ công lý và xây dựng hoà bình, họ chỉ là một ốc đảo xa xăm, tự nhốt kín đời mình trong ngục tù cô đơn. Họ là những con người vô dụng, vô tâm, sống xa rời tình Chúa – tình người nên họ chỉ là những cây xanh thiếu lá, xem ra trơ trụi, trơ trẽn giữa cuộc đời.
Năm nay được gọi là Năm Con Rồng. Con Rồng là linh vật đứng thứ 5 trong 12 con giáp, rồng được coi là là sản phẩm của truyền thuyết và các huyền thoại, biểu tượng của sự may mắn, thịnh vượng cũng như quyền lực mạnh mẽ. Rồng còn là biểu tượng của lòng bái ái bao dung. Theo truyền thuyết, khi Rồng vừa bay tới vừa nhả lửa trên bầu trời. Thượng Đế thắc mắc tại sao một con vật mạnh mẽ như Rồng lại không đến đích đầu tiên, Rồng trả lời vì nó còn phải dừng lại giữa đường, làm mưa giúp dân dưới trần thế.
Năm Rồng chúng ta cầu chúc nhau nhiều điều may mắn đến với chúng ta trong năm, đồng thời cũng cầu chúc nhau biết xây dựng hạnh phúc đời mình như con Rồng bằng việc thi ân cứu đời. Sống thanh cao như Rồng. Sống vươn lên khỏi những đam mê xác thịt thấp hèn. Sống thanh thoát khỏi những bon chen vật chất tầm thường, những danh lợi thú mau qua, và biết tìm niềm vui trong đời sống hiến dâng phục vụ cho đời.
Nguyện xin Chúa Xuân ban cho chúng ta một năm mạnh mẽ như rồng và nhiều điều may mắn đến với chúng ta. Xin Chúa Xuân chúc lành cho chúng ta một năm vạn sự như ý. Xin Chúa giúp chúng ta biết vươn lên trong nhân đức và mạnh mẽ trong đức tin đức cậy và đức mến. Amen
48. MỒNG MỘT TẾT 2018: Ước mơ ngày xuân--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Mùa Xuân luôn mang lại cho ta một niềm vui, một hạnh phúc. Mùa Xuân cho ta một hy vọng ngày mai sẽ tốt hơn. Đó là lý do mọi chữ ghép vào chữ Xuân đều biểu lộ sự hồi sinh và tràn đầy sự sống như: Xuân thì, Xuân tình, Xuân nồng, Xuân ngời... Dẫu dòng đời luôn vần xoay cứ xuân đến rồi xuân đi nhưng mỗi mùa xuân đến lại cho ta một niềm hy vọng, một ước mơ mới trong cuộc đời.
Ước mơ thì ai cũng có. Ước mơ cho mình đẹp. Ước mơ được đóng góp phần mình tô thắm cho đời đẹp hơn. Ước mơ lớn dần theo từng lứa tuổi. Ước mơ cũng thay đổi theo thời gian. Bài hát “tuổi mộng mơ” dường như đã diễn tả thật gần gũi điều đó.
Em ước mơ mơ gì, tuổi mười hɑi, tuổi mười bɑ?
Em ước mơ ℮m là, ℮m được là tiên nữ
ßɑn ρhéρ tiên cho hoɑ biết nói cả tiếng người
ßɑn ρhéρ tiên cho người chắρ cánh bɑу giữɑ trời.
Ƭhật đẹρ thɑу! Ƭhật đẹρ thɑу! Giấc mơ tiên!
Ƭhật đẹρ thɑу! Ƭhật đẹρ thɑу! Giấc mơ tiên!
Ước mơ của tuổi thần tiên thật đẹp. Đẹp trong tâm hồn và thể xác. Cái đẹp của thiên thần không có giận hờn ghen ghét chỉ có niềm vui và hạnh phúc đón nhận và trao ban.
Qua cái tuổi dậy thì ai cũng mơ mộng xa xăm, sống thiếu thực tế nhưng vẫn mang hoài bão xây dựng cho đời tươi đẹp hơn.
Em ước mơ mơ gì, tuổi mười bɑ, tuổi mười bốn?
Em ước mơ mɑng hồn, ℮m mɑng hồn thi sĩ
Ƭh℮o gió mưɑ ℮m đi, hát xâу mộng cho người
Ƭrên cánh thơ tuуệt νời, hát уên νui cõi đời.
Ƭhật đẹρ thɑу! Ƭhật đẹρ thɑу! Giấc mơ hoɑ!
Ƭhật đẹρ thɑу! Ƭhật đẹρ thɑу! Giấc mơ hoɑ!
Rồi tới tuổi trăng tròn trông ai cũng xinh xắn, luôn nở nụ cười tươi và dáng đi đầy kiêu hãnh làm thổn thức bao trái tim rung nhịp tình yêu.
Em ước mơ mơ gì, tuổi mười tư, tuổi mười lăm?
Em ước mơ ℮m đẹρ như trăng rằm tươi tắn
Ƭhoɑ ρhấn son ℮m mɑng chiếc áo dài ƙhăn hồng
Em sẽ thi đuɑ cùng νới hoɑ ƙhôi ƙhắρ νùng.
Rồi khi cái tuổi mộng mơ không còn thì ước mơ của người ta thực tế hơn, gần gũi hơn với cuộc sống.
Em ước mơ mơ gì, tuổi mười lăm, tuổi mười sáu?
Em ước mơ ƙhông nhiều, xin một điều уêu dấu
ĸhông ước mơ xɑ xôi, ước mơ được nên người
Ϲô gái уêu nước Ѵiệt bước chân th℮o giống nòi.
Ƭhật đẹρ thɑу! Ƭhật đẹρ thɑу! Giấc mơ ngoɑn!
Ƭhật đẹρ thɑу! Ƭhật đẹρ thɑу! Giấc mơ ngoɑn!
Ngày đầu xuân, theo thói quen của nhân gian người ta thừơng rủ nhau đi hái lộc xuân. Gọi là hái lộc nhưng thực ra người hái đã có sẵn những ước mơ, những ước nguyện trước khi đón nhận lộc xuân. Lộc xuân như là dấu chỉ ân lộc trời ban hay như là sự chúc lành của Đấng hoá công tạo dựng đất trời cho ước nguyện ngày xuân.
Ước mơ ngày xuân luôn là những ước mơ chân thực nhất, vì nó chính là nỗi khát khao từ trong sâu thẳm của từng người, là nỗi niềm riêng mà người ta muốn đổi thay cuộc đời hoà nhịp với sự đổi thay của đất trời.
Ước mơ có thể là những dự định mà ta muốn thực hiện trong cuộc đời. Nhưng dầu sao, ước mơ vẫn là những điều vượt ngoài tầm tay, là những hoài bão, mong ước nhưng chưa đạt được hay chưa có cơ hội thực hiện.
Ngày xuân chúng ta trao gởi nỗi niềm ước mơ của mình cho Đấng Tạo hoá – Đấng Càn Khôn. Ngài là Đấng làm cho đất trời thay đổi theo bốn mùa: Xuân – Hạ – Thu – Đông. Và chỉ có Ngài mới làm cho ước mơ ngày xuân trở thành hiện thực. Vì “mưu sự tại nhân – thành sự tại thiên”. Sự toan tính là của con người, nhưng điều đó có thành hiện thực hay không lại tùy thuộc vào ơn ban của Trời. Đây cũng là niềm tin của người kytô hữu, vì mọi sự đều nhờ bởi ơn Chúa, chính Chúa là Đấng ban phát mọi ơn lành, là Đấng phù trợ và bảo vệ cuộc đời chúng ta. Niềm tin này không phải là niềm tin mông lung, nhưng dựa trên chính lời hứa của Chúa Giêsu: “Các con đừng lo chi ngày mai sẽ ra sao. Hãy xem chim trời, hãy nhìn xem hoa huệ ngoài đồng, chúng không hề lo lắng ngày mai sẽ ra sao”.
“Hãy trút mọi nỗi lo âu cho Người và Người sẽ lo cho anh em”. Chúng ta hãy dâng lên Chúa Xuân những ước mơ, những hoài bão của chúng ta trong niềm tín thác vào Chúa. Xin cho ước mơ ngày xuân của chúng ta được Thiên Chúa chúc phúc cho một năm an khang thịnh vượng. với hai câu đối:
Sống tu thân tích đức, mở rộng lòng, Sống sao cho đáng sống
Xuân phúc lộc bình an, tràn muôn lối, Xuân mãi vẫn là xuân
Amen.
49. MỒNG MỘT TẾT Kỷ Hợi 2019: Trời Ban Heo Đất Trong Nhà--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Hôm nay ngày đầu năm Con Lợn tôi xin kể một câu chuyện cười ra nước mắt của tôi về con lợn.
Một buổi chiều trước khi tắm tôi mở tivi, thấy con bé trên ti vi nói: da hồng hào, lông tơ mịn màng là dấu chỉ khỏe mạnh. Tôi liền ngó vào gương thấy mặt cũng hồng, xoa vào tay thấy lông cũng mịn, lòng mừng phấn khởi, tôi mỉm cười một mình thì nghe con bé nói tiếp: “kính thưa, quý bà con cô bác, chương trình chăn nuôi lợn tới đây là hết”! Hoá ra nó nói con lợn các bác ạ! Xâu hổ quá thôi đành đi tắm vậy!
Nói gì thì nói: con lợn vẫn là hình ảnh của sự nhàn hạ, có của ăn của để và là dấu chỉ sự khỏe mạnh:
"Trông mặt mà bắt hình dong
Con lợn có béo thì lòng mới ngon"
Lợn còn làm biểu tượng cho sự giàu có sung túc qua các lễ hội, đám đình vì thế dân gian Việt đã đặt ra bài ca dao sau đây:
Thịt lợn nấu với măng hầm
Chờ ba ngày Tết, bà… quằm với ông.
Đối với người Việt Nam con lợn còn là vốn liếng để dành mà nhà nào cũng cần có để khi hữu sự mang ra dùng. Nhưng nuôi thì nuôi chứ cũng phải nhờ Trời chúc phúc mới có của dư của để, bằng không lại ế dài như câu ca dao đùa cợt cảnh mấy bà gánh heo đi rồi lại gánh về:
"Ba bà đi bán lợn con
Bán đi chẳng được lon ton chạy về
Ba bà đi bán lợn sề
Bán đi chẳng được chạy về lon ton"
Ngày đầu năm chúng ta hay thăm hỏi nhau bạn làm ăn thế nào? Cuộc sống của bạn có bình an không? Dường như ai cũng khiêm tốn trả lời: nhờ ơn Trời mà năm nay làm ăn tốt hơn. Nhờ ơn Chúa mà được bình an mọi sự. Như năm nay nhiều nhà không bị dịch tai xanh thì nói: nhờ ơn Trời mà nhà con không bị một con nào.
Nhà thơ Nguyễn Du năm xưa cũng từng tin vào Trời. Ông Trời định đoạt mọi sự cho nhân gian.
Trời còn để có hôm nay
Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời
Quả thực, “Trời còn để có hôm nay” để sống, để nhìn thấy nhau, là ân ban bởi Trời. Mỗi ngày là một tặng phẩm của đất trời. Dầu không biết ngày mai sẽ ra sao nhưng vẫn phải trân quý giây phút hiện tại để cám tạ ơn Trời đã ban cho chúng ta được đoàn viên hôm nay. Dẫu rằng có những lúc: “Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời”, thế nhưng sau những rủi ro, cùng cực, khổ đau, thao thức, ba đào... Trời vẫn cho chúng ta có ngày hôm nay để có thề sum vầy bên nhau.
Với tâm tình mùa xuân không chỉ hướng lòng con người đến với nhau trong hội hè, đoàn tụ gia đình hay dòng tộc. Mùa Xuân còn hướng chúng ta đến Đấng tạo thành. Chính Ngài đã làm cho con tạo xoay vần có Xuân – Hạ – Thu - Đông. Chính Ngài đã tô điểm cho mùa xuân thêm rạng ngời với ánh nắng lung linh, với gió nhè nhẹ lượn quanh người. Ngài là chủ mùa Xuân. Ngài đã ban mùa xuân đến cho nhân trần. Ngài đã chúc phúc cho mùa xuân với biết bao niềm vui của hội hè đình đám. Chính Ngài đã tạo dựng mùa xuân đầu tiên nơi vườn địa đàng để Adam – Eva ngập tràn hạnh phúc yêu thương. Đó là một mùa xuân bất tận. Một mùa xuân trường sinh. Mùa xuân ấy đã kết thúc khi Adam – Eva quay lưng lại với Đấng tạo thành. Vườn xuân cũng khép lại. Cỏ dại và sự dữ đã đi vào trần gian.
Thế nên, hướng về mùa xuân con người được mời gọi giữ mãi mùa xuân trong lòng mình. Một mùa xuân ngập tràn niềm vui hạnh phúc khi con người sống trong ân nghĩa với Đấng tạo thành. Một mùa xuân ngập tràn yêu thương khi con người sống hòa thuận với nhau, tránh xa những đố kỵ ghen tương và cùng nhau xây dựng hòa bình. Đó chính là cách chúng ta gìn giữ mùa xuân trong cuộc đời chúng ta. Đừng như Adam đã đánh mất mùa xuân khi phạm tội quay lưng lại với Đấng tạo thành.
Hôm nay ngày đầu xuân chúng ta cũng cám ơn Ngài đã ban cho một Mùa Xuân với bao hương tình nồng ấm. Cám ơn Ngài đã dẫn dắt cuộc đời chúng ta đi qua những thăng trầm của dòng đời. Một dòng đời có xen lẫn buồn vui sướng khổ. Có nước mắt và nụ cười nhưng bàn tay quan phòng của Đấng tạo hóa luôn làm chủ mọi biến cố xảy ra trong cuộc đời con người. Đồng thời cũng phó dâng lên Ngài một năm mới vừa mới bắt đầu. Xin Ngài lì xì cho chúng ta một năm mới thuận buồm xuôi gió, vạn sự như ý. Một năm mới ngày nào cũng có “Thịt heo nấu với măng hầm” với của ăn của để như tích được heo đất trong nhà. Xin Ngài làm chủ cuộc sống của chúng ta hôm nay và mãi mãi.
Ước gì mùa xuân mãi ở lại đây trong tâm hồn chúng ta khi có Chúa đồng hành, khi trung thành với giáo huấn của Chúa. Ước gì cuộc đời chúng ta luôn tươi trẻ vì có Chúa Xuân hiện diện chúc phúc cho cuộc đời chúng ta. Amen
50. MỒNG MỘT TẾT Để Có Niềm Vui Xuân--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Ngày đầu năm chúng ta hướng về Đấng tạo thành. Đấng đã làm cho con tạo xoay vần, cho trời đất luân chuyển Xuân – Hạ – Thu – Đông. Hướng về Ngài để phó dâng về một năm mới bắt đầu. Một khởi sự mong được vẹn toàn nhờ ơn trên phù hộ. Hướng về Đấng tạo thành cũng mời gọi con người nhìn nhận sự quan phòng che chở, phù trì của Ngài để dâng lời tạ ơn về những ơn lành Ngài ban.
Đó là lý do mà người Việt Nam đi lễ hội đầu năm rất đông. Họ đi vì lòng tạ ơn. Họ đi vì mong muốn được Trời phù hộ chúc phúc cho một năm an bình. Đây cũng là một truyền thống tốt đẹp của người dân Việt Nam. Cha ông ta luôn tin vào vận Trời. Cha ông ta luôn phó thác cho Trời. Và ngày đầu năm là dịp thuận lợi nhất để tri ân và cầu xin với Đấng tạo hóa đã làm nên muôn loài.
Điều này ta có thể thấy qua sự tích bánh chưng bành dày. Chuyện kể rằng: Đời Hùng Vương thứ Sáu, sau khi đánh dẹp xong giặc Ân bên Tàu, vua có ý định truyền ngôi cho con.
Nhân dịp đầu Xuân, vua họp các hoàng tử lại, bảo rằng: - "Con nào tìm được thức ăn ngon lành, để bày cỗ cho có ý nghĩa nhất, thì ta sẽ truyền ngôi vua cho".
Các hoàng tử đua nhau tìm kiếm của ngon vật lạ dâng lên cho vua cha, với hy vọng mình lấy được ngai vàng.
Trong khi đó, người con trai thứ 18 tên là Tiết Liêu có tính tình hiền hậu, lối sống đạo hạnh, hiếu thảo với cha mẹ, nhưng vì mẹ mất sớm, thiếu người chỉ vẽ, nên ông lo lắng không biết làm thế nào tìm được của ăn ngon và có ý nghĩa.
Một hôm, Tiết Liêu nằm mộng thấy có vị Thần đến bảo:
- "Này con, trong Trời Đất không có gì quý bằng gạo, vì gạo là thức ăn nuôi sống con người. Con hãy lấy gạo nếp làm 2 thứ bánh: bánh dầy và bánh chưng. Thần còn dặn kỹ càng cách làm.
Đến ngày hẹn, các hoàng tử đều đem thức ăn đến bày trên mâm cỗ. Trời ơi! đầy các món ăn vừa thơm ngon vừa lạ mắt. Hoàng tử Tiết Liêu trên mâm chỉ có 2 tấm bánh Chưng và bánh Dầy. Vua cha lấy làm lạ hỏi lý do. Tiết Liêu đem chuyện Thần báo mộng dạy cách làm, giải thích ý nghĩa của 2 thứ bánh. Vua cha nếm thử, thấy bánh ngon, khen có ý nghĩa, bèn truyền ngôi Vua lại cho Tiết Liêu.
Kể từ đó, mỗi khi đến Tết Nguyên Đán, theo lệnh vua, dân chúng làm bánh Dầy và bánh Chưng để dâng cúng Tổ Tiên và Trời Đất.
Bánh chưng bánh dầy tượng trưng cho Trời Đất. Trời Đất ở đây không hiểu theo nghĩa vật chất mà là tượng trưng cho Đấng tạo thành trời đất. Con người phải biết ơn Đấng tạo thành. Con người dâng cho Đấng tạo thành hạt gạo là tinh hoa của đất trời, là ân lộc trời ban. Con người dùng hạt gạo trời cho để kết thành tấm bánh như nói lên tấm bánh là ân lộc trời ban và cũng là công sức con người làm nên.
Đấng tạo hóa càn khôn mà nhân loại hướng về với lòng biết ơn chính là Thiên Chúa toàn năng. Ngài đã làm nên hoàn vũ. Ngài đã cho định luật bốn mùa vần xoay như tình yêu của Ngài vẫn đong đầy cho nhân gian vượt mọi thời gian. Chính Ngài làm chủ vận mạng của lịch sử nhân loại. Chính Ngài mới có thể phù hộ, che chở gìn gìn con người, vì Ngài là Đấng quyền năng.
Thiên Chúa lại không xa lạ với con người. Ngài là Cha muôn loài và cũng là Cha của loài người chúng ta. Ngài là một người Cha rất tốt lành. Ngài luôn cho mưa thuận gió hòa. Không phân biệt lành dữ. Không phân biệt màu da. Ngài luôn cho mưa ơn trên xuống cho kẻ lành người dữ.
Lời Chúa ngày đầu năm hôm nay mời gọi chúng ta hãy tín thác đường đời cho Thiên Chúa. Hãy để Chúa chúc phúc cho một năm bình an. Hãy để Chúa làm chủ vận mệnh của mình theo thánh ý Chúa. Vả lại, cuộc sống đâu mấy khi theo ý chúng ta, vì “Mưu sự tại nhân – Thành sự tại thiên”. Sự khôn ngoan mời gọi chúng ta hãy để Chúa khởi sự và hoàn tất mọi việc theo ý Ngài. Điều này không có nghĩa là ta phó mặc cho Thiên Chúa, còn mình thì “ngồi chờ sung rụng”. Điều này chỉ nhắc nhở chúng ta hãy khiêm tốn nhìn nhận sự bất toàn của mình để trông cậy vào sự phù hộ của Thiên Chúa cho công việc của mình được mọi sự như ý.
Hãy nhìn xem muôn triệu đóa hoa chỉ đẹp xinh khi hướng về mặt trời. Hãy nhìn xem vạn vật vần xoay chung quanh mặt trời để tạo nên muôn điều kỳ diệu đẹp xinh. Đó là quy luật của vạn vật. Đó cũng là quy luật của loài người khi biết quy hướng về Thiên Chúa, và chỉ trong Thiên Chúa con người mới hạnh phúc bình an. Xin cho mỗi người chúng ta biết quy phục Thiên Chuá, biết dành cho Ngài vị trí tôn thờ tuyệt đối trong lòng chúng ta. Và với lòng tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa, chúng ta hãy phó dâng mọi sự cho Chúa. Xin Chúa chúc phúc cho chúng ta một năm bình an và vạn sự cát tường. Amen.
51. Bình an và hạnh phúc—Lm Giuse Nguyễn Hữu Duyên
Anh Chị em rất thân yêu,
Ngày đầu năm đâu đâu cũng rộn rã tiếng cầu chúc bình an và hạnh phúc. Xuyên qua những lời chúc xuân ấy, chúng ta có thể nắm bắt được những ý nghĩ căn bản của nhân thế về hạnh phúc và bình an:
Sức khoẻ và tuổi thọ, tiền tài và thịnh vượng, công danh và thành đạt, tình yêu và đại gia đình, đó là những gì làm nên an bình và hạnh phúc cho con người.
Lời Chúa chúng ta mới nghe cũng là những lời cầu chúc bình an và hạnh phúc. Nhưng Lời Chúa có một cách nhìn hoàn toàn mới mẻ và dường như trái nghịch với ước mơ thường tình của con người:
Trước hết nền tảng của hạnh phúc và bình an chính là sự bảo trợ của Danh Thiên Chúa và Chúc Lành của Người. Dân Chúa khi còn ở Ai Cập cũng thường nghĩ chính công ăn việc làm, chính đất đai nhà cửa, chính những tài sản tích lũy là sự bảo trợ của hạnh phúc và an bình. Cho nên 40 năm trong sa mạc, khi phải vứt bỏ tất cả, thậm chí ngay đến những gì gồng gánh đem theo cũng phải tiêu tán trong cát bụi, không ít lần họ đã nổi loạn chống lại Môsê… nhưng Thiên Chúa không khoan nhượng… Ngài đã chôn vùi và lột trần tất cả trở thành những con người sống từng bữa bởi lòng thương xót của duy mình Thiên Chúa. Những kẻ đã ra khỏi Ai Cập phải phơi xương trên biển cát mênh mang, và còn lại chỉ là một lớp người mới sinh ra trong hoang điạ, chỉ lúc ấy Dân Chúa mới chiếm được Đất hứa và trở nên Dân Ưu Tuyển và hùng cường.
Chúa Giêsu đã rút từ lịch sử Thánh ấy điều cốt lõi khi công bố Hiến Chương Nước Trời cho Dân Mới: Phúc cho ai có tinh thần khó nghèo: Phải xây dựng Hạnh Phúc của mình, của gia đình, của xã hội dựa vào hành động yêu thương của Chúa Dù sao Israel vẫn còn được cưng chiều hơn, giữa sa mạc, họ vẫn còn khí trời, vẫn còn cột mây che mát, vẫn còn cột lửa sáng soi…và vẫn còn tình huyết tộc bao bọc chở che, Hội Thánh của Đức Kitô phải chôn vùi sự sống của mình trên 300 năm trong các hang toại đạo, phải phiêu dạt tứ xứ nơi đất lạ…chịu muôn vàn bách hại và truy sát… Thiên Chúa vẫn là Thiên Chúa không khoan nhượng trong đòi buộc vứt bỏ tất cả để hoàn toàn chỉ sống nhờ sự bảo trợ của Người. Sau này, khi hòa bình bên ngoài được thiết lập, không thiếu thành phần con cái Hội Thánh quên đi cái nôi sự sống của mình chính là Khó Nghèo ấy, Thiên Chúa đã làm nẩy sinh phong trào ẩn tu, và Hội Thánh đã được tái sinh chung quanh những trung tâm ẩn tu ấy. Gần chúng ta hơn, khi Hội Thánh sa lầy trong nhung lụa và quyền bính thời Trung Cổ, là cái cớ của sự phân hóa của những giáo phái Tin Lành, Chúa đã một lần nữa tái sinh Giáo Hội như một Bà Chúa Nghèo của Phanxicô thành Assisie… Lịch sử Dân Chúa chính là lịch sử đầy tính hiện sinh của cái nghèo chân thực. Hạnh Phúc được neo trong sự nghèo khó ấy.
Thánh Phaolô đã không làm giảm thiểu tính quyết liệt ấy khi xác định cách chắc chắn rằng, không phải là sự khó nghèo luân lý đạo đức nào đó là nền tảng của Hạnh Phúc và bình an, nhưng chính là con người nghèo của Đức Giêsu Kitô, và vì vậy trong mọi hoàn cảnh sự nghèo khó của Người Kitô chính là được kết hiệp với Đức Giêsu Kitô. Và qủa thực, những ai thuộc về Đức Kitô thì luôn sẵn sàng đi từ hang BeLem cho tới Núi Sọ và cách riêng là trở thành Tấm Bánh bị bẻ ra cho những con người nghèo.
Anh Chị Em rất thân yêu,
Đứng trước đòi hỏi của Hiến Chương Hạnh Phúc Nước Trời, và sự đòi hỏi phải trở nên Tấm Bánh bị bẻ ra ấy, tôi có thể nào trong lúc này không nhận ra tính nghịch thường ấy giữa một quang cảnh nhộn nhịp của ngày tết. Tuy nhiên, bên dưới lớp vỏ vui xuân, lại chỉ là những con tim khô quạnh và nhức nhối. Còn nơi bàn thờ này sự nghèo khó cô đơn đến lạnh lùng lại là con tim rộn ràng sức sống yêu thương.
Ngày đầu năm, tôi kính chúc Qúy Cha rất đáng yêu mến của tôi, kính chúc Thầy Phó Tế, Quý Tu Sỹ nam nữ, Qúy Chủng Sinh, Quý Cố Ông, Cố Bà, và toàn thể Anh chị em thân yêu được chính Thiên Chúa bằng Thánh Thần trong Đức Giêsu thánh hóa và gìn giữ vẹn toàn trong năm mới, để chúng ta tất cả trở nên nhân chứng của Hạnh Phúc đích thật cho mọi người, mọi gia đình và toàn thể xã hội.
Kính Chúc
52. Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người--Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện
Năm mới đang đến, mở ra một giai đoạn mới của cuộc sống. Và ở thời khắc linh thiêng này, có lời của Thiên Chúa nói với chúng ta qua Tin Mừng mà Hội Thánh công bố.
Vài phút suy niệm về lời được công bố ấy, tưởng cũng là điều rất cần thiết cho chúng ta lúc này. Vậy ta hãy để cho tâm hồn mình lắng đọng lại mà đối diện với lời Chúa.
1. Mt 6,25-32: Đừng lo lắng khi phải đối diện với những vấn đề của cuộc sống
Những của cải trần gian có thể chiếm trọn trái tim, chi phối hành động và biến thành một thứ thước đo giá trị của con người. Con người bị các thực tại phàm trần tác động và điều kiện hoá, vì ai cũng phải đối diện với những nhu cầu rất căn bản của cuộc sống như cái ăn, cái mặc… Các thực tại vật chất là rất cần thiết để con người có thể sống được: chúng ta không thể chỉ sống bằng suy tưởng hay bằng ý chí và không cần bất cứ thứ gì khác. Để sống, người ta buộc phải ăn, phải uống, phải mặc; và chính trong sự tuỳ thuộc vào các thực tại vật chất như thế mà mối tương quan của người ta với của cải trần gian được thực hiện. Không ai có thể tránh né được mối tương quan này. Vấn đề là chúng ta phải sống sự tuỳ thuộc đó như thế nào. Phần thứ nhất của bài tin mừng hôm nay (cc.25-32) trả lời cho chúng ta câu hỏi ấy.
Với một loạt những quan sát và suy tư, Đức Giêsu nhắc chúng ta nhớ rằng Thiên Chúa biết rất rõ chúng ta và Người luôn sẵn sàng bảo đảm cho cuộc sống của chúng ta. Người đã ban cho chúng ta món quà lớn lao hơn tất cả: thân thể và mạng sống, lẽ nào Người lại chẳng sẵn sàng ban cho chúng ta những món quà nhỏ hơn, tức là những phương tiện giúp chúng ta gìn giữ quà tặng lớn lao kia? Chim trời vẫn tìm được của ăn, cho dù không gieo không gặt. Đoá huệ ngoài đồng vẫn được trang điểm diễm lệ, cho dù không làm lụng canh cửi. Thiên Chúa, Đấng Tạo Hoá, luôn lo liệu mọi sự cho chúng. Há Người lại chẳng làm như thế cho con người, vốn là những con cái mà Người quý hơn tất cả và hằng ấu yếm lấy tình phụ tử mà chăm nom gìn giữ? Và cuối cùng là một suy tư đơn giản: Hỏi có ai trong anh em có thể nhờ lo lắng mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang không? (c.27). Chúng ta được mời gọi đón nhận những thực tại căn bản, ví dụ như độ dài của cuộc sống trần gian của mỗi người, như Thiên Chúa đã ấn định.
Đức Giêsu không có ý nói rằng chúng ta đừng làm lụng canh cửi, đừng gieo gặt trồng cấy, đừng để ý lưu tâm hay đừng xây dựng những dự phóng tương lai… Người muốn nói rằng tất cả những điều đó phải được thực hiện nhưng không phải là với một sự lo lắng bận tâm thái quá và mù quáng, mà là với lòng tin tưởng vào Thiên Chúa là Cha chúng ta. Thiên Chúa đã ban cho con người bàn tay và khối óc, tức là Người đã lo liệu trước để chúng ta có thể xây dựng cuộc sống cho phù hợp với phẩm giá cao cả của mình.
Đức Giêsu biết rõ sự vận hành bình thường của cuộc đời. Người không phủ nhận rằng đôi khi chim trời và con người vẫn phải chết vì đói. Nhưng ngay cả trong những trường hợp cực đoan đó, sự lo lắng thái quá cũng không hề giúp chúng ta tiến bước bình an và chắc chắn trong cuộc sống trần gian này. Trái lại, trong những trường hợp cực đoan bi đát đó, chúng ta càng có lý do để trông cậy và hy vọng nơi Thiên Chúa, không chỉ hy vọng về những thực tại trần gian mà thôi, mà nhất là hy vọng về những thực tại Nước Trời, là nơi duy nhất có cuộc sống viên mãn thật sự.
Sự “không lo lắng” của chúng ta, như vậy, theo lời của Đức Giêsu, không đặt cơ sở trên một sự lạc quan ngây thơ hay trên khả năng làm chủ cuộc sống của chúng ta (khả năng ấy quá bé nhỏ). Sự “không lo lắng” đó được đặt cơ sở trên sự thực vững chắc, rằng Thiên Chúa quyền năng và thông biết mọi sự, rằng Thiên Chúa luôn luôn nhân lành yêu thương ta, rằng Thiên Chúa luôn luôn trung thành với lời sáng tạo của Người.
2. Mt 6,33-34: Chọn lựa căn bản của cuộc sống: Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người
Sau khi đã dạy chúng ta đừng lo lắng, Đức Giêsu nói cho chúng ta biết đâu là thực tại phải chi phối ước muốn của chúng ta, lấp đầy con tim của chúng ta, xác định thước đo giá trị của chúng ta và đòi hỏi những hoạt động của chúng ta: Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người. Đó là những giá trị cao cả nhất và sâu xa nhất; và chúng ta được mời gọi hoàn toàn quy hướng tất cả con người của mình về những thực tại đó.
Nước Thiên Chúa là chính Thiên Chúa đang tỏ mình hoàn toàn cho chúng ta trong tư cách là Đức Chúa quyền năng và tràn đầy ân nghĩa, Đấng luôn đón nhận và yêu thương che chở chúng ta trong sự hiệp thông vào sự sống của chính Người. Tất cả lòng tin của chúng ta, tất cả niềm hy vọng của chúng ta và tất cả lòng yêu mến của chúng ta đều phải được quy hướng về Người trong một ý hướng hoàn toàn thuần khiết. Đó là tìm kiếm Nước Thiên Chúa.
Sự công chính của Thiên Chúa là sự công chính đến từ chính Thiên Chúa. Đó là cách hành xử của người công chính, phù hợp với thánh ý của Thiên Chúa và được Đức Giêsu nói rõ trong bài giảng trên núi. Tất cả nỗ lực của chúng ta và tất cả sức mạnh của chúng ta, đều phải được huy động để thực hiện sự công chính ấy.
Nếu chúng ta trước hết chỉ tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người như thế, thì những điều khác sẽ được ban cho chúng ta như những phương tiện để chúng ta thực hiện chọn lựa căn bản đó của cuộc đời. Ý nghĩa của sự hiện hữu của chúng ta không tuỳ thuộc vào những mối bận tâm về cuộc sống hiện tại này, mà là ở sự hoàn toàn quy chiếu của chúng ta, ngay trong cuộc sống thế tạm hôm nay, vào Thiên Chúa, và ở sự chuẩn bị của chúng ta, nhờ những hành động công chính, cho cuộc hiệp thông viên mãn vĩnh cửu với chính Thiên Chúa.
Đó mới là tương lai đích thật mà chúng ta hướng tới, chứ không phải là cái ngày mai trong cuộc đời thế tạm này. Vì thật ra, cái ngày mai thế tạm vẫn sẽ là cái ngày mai vất vả: “Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (c.34). Nhưng sự vất vả trong ngày mai thế tạm sẽ rất khác nhau. Đó sẽ là sự vất vả nhọc nhằn và cay đắng, nếu chúng ta vất vả vì những lo lắng cho cuộc sống thế tạm và vật chất này. Trái lại, đó sẽ là vất vả phúc lạc và bình an, nếu chúng ta tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, tức là nếu chúng ta hoàn toàn quy hướng về Thiên Chúa và sống theo những mối phúc mà Chúa Giêsu đã công bố trong bài giảng trên núi (5,3-12).
Ngày Tết, chúng ta cầu chúc cho nhau một cuộc sống bình an và hạnh phúc, bởi biết rằng tất cả chúng ta đều chịu tác động của các thực tại thế tạm. Nhưng lời Chúa nhắc cho chúng ta rằng: ngay trong mối tương quan của chúng ta với những thực tại cần thiết cho cuộc sống thế tạm, Thiên Chúa vẫn phải chiếm vị trí mang tính quyết định. Ta được mời gọi đừng để cho những lo toan về các nhu cầu (cho dù là khẩn thiết nhất) của cuộc sống, hoàn toàn chi phối tâm trí chúng ta, đến nỗi chúng ta đánh mất sự tin tưởng vào Thiên Chúa là Cha chúng ta. Quan trọng hơn tất cả những bận tâm lớn nhỏ của cuộc sống, là lòng tin và niềm xác tín rằng: “Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó” (c.32). Nếu lòng tin tưởng vững chắc vào Thiên Chúa và xác tín mạnh mẽ về sự nhân lành vô biên của Người, làm người bạn đồng hành với những mối bận tâm về cuộc sống vật chất của chúng ta, thì chắc chắn tâm hồn chúng ta sẽ được bình an, và chúng ta sẽ đối diện với cuộc sống (có khi rất khắc nghiệt) này với một sự tự do nội tâm đích thực. “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người” (Mt 5,33).
53. Tám Mối Phúc--Lm. Trần Bình Trọng
Tư tưởng cũng như văn chương bình dân Việt Nam hàm chứa những quan niệm về thời giờ như: Thời giờ là vàng bạc; thời giờ thấm thoắt tựa thoi đưa, cứ đi đi mãi, không chờ đợi ai. Thường khi người ta nhìn tới thì thấy lâu dài, nhưng khi nhìn lại thì thấy mau lẹ. Người ta nói mới ngày nào đó, chúng mình thế nọ thế kia, mà nay đã hai mươi năm, ba mươi năm rồi. Khi bận rộn với công việc làm hay chương trình hoạt động, người ta cảm thấy thời giờ đi mau lẹ. Những lúc nhàn rỗi hay không bị hoàn cảnh thúc ép, người ta lại cảm thấy thời giờ đi chậm. Cho dù người ta cảm thấy thời giờ đi mau hay chậm, thời giờ vẫn xoay đều không thay đổi. Người ta không thể đi trước thời giờ, cũng không thể kéo dài thời gian.
Cho dù Tết đến sớm hay muộn, mùa Xuân đến mau hay chậm, người ta cũng phải theo chu kì tuần hoàn của vũ trụ mà đón nhận giây phút bàn giao của thời giờ mới cũ ở lúc không giờ của đêm giao thừa, là giây phút tống cựu nghinh tân. Người Việt xưa kia coi đêm giao thừa là giây phút linh thiêng, giao hoà giữa trời và đất. Gần đến giây phút giao thừa, người ta cứ ngồi đợi để hoà nhịp với giây phút giao hoà của trời đất, không được nói hay làm gì. Vừa tới lúc giao thừa thì họ vỗ tay vang động hay cho nổ pháo: đạch, đạch… đạch, đùng. Đạch, đùng … đùng … Đốt pháo để mừng xuân mới sang. Đốt pháo theo quan niệm của nhiều người Việt trước đây còn để xua đuổi ma qủi. Có người còn nghĩ: pháo nổ càng lớn, ma quỉ càng sợ. Vậy phải đốt pháo cối.
Người Công giáo thì coi ông trời là Thượng Đế, là Thiên Chúa và chỉ có Chúa mới làm chủ được thời giờ và thời gian. Chúa là Chúa của tứ thời bát tiết, của Xuân, Hạ, Thu, Đông. Chúa có quyền trên mưa nắng, sóng gió, bão táp… như trong lời nguyện đầu lễ Giao thừa, linh mục chủ tế cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa là Đấng vô thuỷ vô chung, là căn nguyên và cùng đích vạn vật, trong giờ phút giao thừa này, chúng con hướng tâm hồn lên Chúa. Cúi xin Chúa rộng ban cho chúng con một năm dồi dào phúc lộc.
Bài Tin Mừng lễ Giao thừa bàn về Tám mối Phúc thật. Vào dịp Tết, mọi người đều chúc cho nhau những điều tốt đẹp, thì Giáo Hội cũng dùng những lời Thánh Kinh có chứa đựng những lời chúc phúc của Thiên Chúa. Trong khi thiên hạ chúc cho nhau mọi sự giàu sang phú quí và may mắn, thì Thiên Chúa chúc phúc cho những người sống Tám mối Phúc thật trong đó có một lời chúc cho những ai sống tinh thần nghèo khó. Thật là một điều nghịch lý và mâu thuẫn! Có một người dự tòng kia hỏi linh mục chánh xứ nọ: Thưa cha khi cha giảng về Tám mối Phúc thật, con không thể chấp nhận được bởi vì những điều Chúa dạy trong Tám mối Phúc thật đi ngược lại với quan niệm của người đời và ngược lại với những gì con đã sống. Nhưng rồi con vẫn tiếp tục đi lễ, nghe cha giảng Lời Chúa. Bây giờ thì con đã chấp nhận. Mỗi lần sau khi dâng thánh lễ, con cảm thấy được bình an trong tâm hồn.
Chúa chúc phúc cho những người sống Tám mối Phúc thật. Và không phải họ chỉ được hạnh phúc đời sau, nhưng còn được hưởng hạnh phúc ngay tại đời này. Hạnh phúc đó là một tâm hồn bình an, thư thái. Được Chúa chúc phúc là được tất cả: đời này cũng như đời sau. Có những người có thể hiểu lầm cho rằng Chúa muốn người ta sống nghèo khó, khắc khổ. Thực sự thì Chúa đến giải thoát con người khỏi cảnh nghèo đói. Chúa bảo: Nào những kẻ được Cha ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương quốc dọn sẵn cho các ngươi từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa, Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống (Mt 25,34-35).
Người đời còn cho rằng Giáo Hội dùng mối Phúc thật thứ nhất để cổ võ đời sống nghèo khó. Sự thực thì Giáo Hội không chủ trương như vậy. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II có lần đã tố cáo chính sách cấm vận của Hoa kỳ khiến cho dân nghèo Cuba càng nghèo, thiếu những phương tiện tối thiểu cho nhân phẩm con người. Trước đó ngài còn kêu gọi dịp Tết dương lịch 1998 hoàn cầu hoá việc phát triển kinh tế và phát triển kinh tế phải nằm trong vòng liên đới các quốc gia chứ không nhắm đến việc ăn mảnh và đánh lẻ. Đức Thánh Cha còn khuyến khích những quốc gia giàu mạnh xoá nợ cho những quốc gia nghèo đói. Như vậy Giáo Hội không khuyến khích thực tại nghèo khó, nhưng là sống tinh thần nghèo khó, nghĩa là tinh thần siêu thoát, không để lòng dính bén vào của cải trần thế.
Trong thư gửi tín hữu Galát, thánh Phaolô chúc cho họ như sau: Nguyện chính Thiên Chúa là nguồn mạch bình an, thánh hoá toàn diện con người anh em, để thần trí, tâm hồn và thân xác anh em, được gìn giữ vẹn toàn (1Tx 5,23). Trong bài trích sách Dân Số, Chúa dạy Môsê chúc phúc cho dân chúng như sau: Nguyện xin Thiên Chúa chúc lành và gìn giữ anh em! Nguyện xin Thiên Chúa tươi nét mặt gìn giữ anh em, và dủ lòng thương anh em! Nguyện xin Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em (Ds 6,24-26).
Đọc Thánh Kinh Cựu Ước, ta thấy dân được chọn kêu cầu đến Chúa mà chúc lành lẫn cho nhau. Bố cũng chúc lành cho con cái như ông Raguên chúc lành cho con rể là Tôbia và con gái là Xara như sau: Con đi mạnh giỏi và bình an! Xin Chúa trời cho con và Xara vợ con thành đạt, và ước gì cha được nhìn thấy con cái của chúng con trước khi nhắm mắt (Tb 10,11). Bà Étna cũng nại đến Chúa để chúc lành cho con gái và con rể như sau: Trước mặt Chúa, mẹ kí thác Xara cho con, con rể của mẹ! Suốt đời con, đừng bao giờ làm cho nó phải buồn (Tb 10,13).
Chúc Tết và chúc tuổi cho nhau mà nại đến Thiên Chúa và kêu cầu đến ân sủng và quyền năng của Chúa là đặt người mà mình cầu chúc dưới sự che chở và bảo vệ của Chúa. Việc cầu chúc cho nhau mà nói ra tiếng để người được cầu chúc có thể nghe thấy còn có tác dụng tâm lý là khiến cho người được chúc phúc cảm động và tự cố gắng thế nào để lời cầu chúc được thực hiện nơi mình.
Để áp dụng thực hành, ta nguyện xin Chúa chúc lành cho ông bà cha mẹ, anh chị em họ hàng. Và nguyện xin Chúa chúc lành lẫn cho nhau trong năm mới. Ta cũng không quên xin Chúa tha thứ những lỗi lầm, những thiếu sót trong năm cũ, những lúc ta phí phạm thời giờ Chúa ban, cũng như việc tiếc rẻ và lạm dụng thời giờ. Xin Chúa tha thứ những lần ta không dành thời giờ cho Chúa, cho gia đình: cha mẹ, vợ chồng và con cái; những lần ta không dành thời giờ cho chính mình để suy tư về thân phận làm người trong mối tương quan với Đấng tác thành nên mình.
Lời nguyện xin Chúa chúc lành cho Năm mới:
Lạy Chúa, Chúa là Chúa của tứ thời bát tiết, của Xuân Hạ Thu Đông. Chúng con xin tạ ơn Chúa cho thời giờ, năm tháng Chúa ban trong năm cũ. Xin Chúa tha thứ những lần chúng con phí phạm thời giờ hoặc tiếc rẻ và lạm dụng thời giờ. Xin Chúa thánh hoá thời giờ chúng con xử dụng để chúng con biết dùng thời giờ làm vinh quang nước Chúa. Amen.
54. Ơn Bình An (Mt 6,25-34)
Mùa xuân đang đến với quê hương, gia đình và mỗi tâm hồn.
Mùa xuân đến mang thêm tuổi đời, niềm vui và hy vọng.
Mùa xuân đến làm tươi nở cuộc đời với hương trời, gió xuân, hoa thắm.
Mùa xuân đến đem niềm an bình và hạnh phúc cho con người.
Vâng, tất cả chúng ta đang được tận hưởng tràn trào hương xuân trong ngày đầu năm mới với muôn ngàn lời chúc tốt đẹp. Chúng ta chúc nhau năm mới an khang hạnh phúc, an bình phúc lộc, an mạnh trường thọ, an lành thánh đức… Những lời cầu chúc thân thương ấy đã diễn tả phần nào nguyện ước sâu xa của cõi lòng con người. Hơn hẳn những nhu cầu thiết thực khác của cuộc sống, chúng ta mong ước được an bình từ nội tâm đến cuộc sống ngoại tại, từ mối tương giao thân tình giữa người với người đến sự hòa hợp thích ứng với thiên nhiên và các tạo vật.
Thế nhưng, đâu là phương thức chính đáng nhất để chúng ta có được sự bình an đích thực như lòng mình mong muốn? Câu trả lời được tìm thấy trong bài Tin Mừng mà Giáo hội đã chọn đọc trong ngày đầu năm mới hôm nay.
Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu đã mời gọi chúng ta hãy tin tưởng vững mạnh vào Thiên Chúa quan phòng, để đừng quá bận tâm vào những nhu cầu của cuộc sống thực tại, vì chính Chúa Cha sẽ ân ban cho chúng ta tất cả. Điều quan trọng và cần thiết nhất trong lúc này là chúng ta hãy ưu tiên tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người (x.c.33). Đó là thái độ mà chúng ta cần kiên quyết thực hiện ngay trong ngày đầu năm mới này. Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người chính là trạm dừng chân lý tưởng nhất để chúng ta có được sự bình an như lòng mình mong ước. Trong sứ điệp Ngày Hòa Bình Thế Giới năm nay, Đức Thánh Cha Bênêđictô cũng xác nhận: “Một xã hội được hòa giải với Thiên Chúa thì gần gũi với hòa bình hơn… Hòa bình là kết quả của một tiến trình thanh tẩy…” (số 15).
Quả thật, sự bình an đích thực mà chúng ta đang khát khao chính là việc thiết lập được mối tương giao thuận thảo giữa chúng ta với Thiên Chúa.
Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta cho Ngài, nên tâm hồn chúng ta còn mãi băn khoăn khắc khoải cho đến khi nào được an nghỉ trong Chúa (thánh Augustin). Thánh nhân đã nói lên được tâm tư nguyện vọng nơi thẳm sâu tâm hồn của mỗi người chúng ta. Thật vậy, chỉ trong Thiên Chúa chúng ta mới có được sự bình an đích thực. Chính sự an bình tràn ngập tình yêu thương này, khiến chúng ta luôn luôn muốn sống thân tình với Thiên Chúa, kết hiệp thâm sâu với Ngài trong tình yêu, chu toàn thánh ý Ngài trong cuộc sống, tận tâm giới thiệu Chúa cho người khác, mong cho Danh Ngài tỏa lan đến mọi người mọi nơi. Đây cũng chính là phần ưu tiên mà chúng ta phải chọn lựa theo giáo huấn của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng. Bởi lẽ, một khi có Chúa trong cuộc đời, ta sẽ được tận hưởng một sự bình an vô hạn. Với Chúa, chúng ta cùng đi gieo rắc niềm an bình đến mọi nơi. Và vì Chúa, chúng ta cũng sẽ biết trân trọng, gìn giữ và bảo vệ sự bình an mà Ngài đã ân ban.
Hôm nay, ngày đầu năm mới, chúng ta cùng nguyện cầu ơn bình an được tỏa lan đến khắp mọi nhà và mọi tâm hồn. Cầu mong ơn bình an được chan hòa trên khắp miền quê hương đất nước. Chúng ta ước nguyện quê hương được thái bình thịnh vượng, nhà nhà an hòa, người người an lòng, để cùng chung tay xây dựng quê hương ngày một tốt đẹp hơn. Thế nhưng, để có được sự bình an như lòng mong ước, chúng ta phải biết ngước nhìn lên Đấng là chính nguồn cội sự bình an. Xin Ngài thương ban tặng cho chúng ta niềm an bình và hạnh phúc đích thực trong năm mới này.
Tuy nhiên, sự bình an không chỉ dừng lại nơi bản thân của mỗi người, mà cần phải được chia sẻ đến mọi người và mọi nơi. Chúng ta cần trao tặng cho tha nhân sự bình an của Chúa qua thái độ biết quảng đại tha thứ để sống yêu thương hơn, biết trân trọng người khác với những khả năng và khác biệt nơi họ, biết ân cần quan tâm đến nhau nhiều hơn, biết nhiệt tâm phục vụ với tất cả lòng từ tâm và nhân ái, biết cảm thông trước những nỗi khổ đau hay giới hạn của người khác… Vâng, trong mùa xuân này, Thiên Chúa đang ngỏ lời với chúng ta, đang mong chờ một vòng tay yêu thương rộng mở của chúng ta để đón nhận, để sẻ chia cho những tâm hồn bé nhỏ là hình ảnh thân thương của Ngài. Những hiện thân ấy đang ở chung quanh chúng ta, bên lề đường, trong những túp lều ẩm thấp, trong những cơn bệnh thập tử nhất sinh, hay trong những mái nhà xiêu vẹo vắng bóng tiếng cười, vắng luôn cả miếng cơm manh áo… Chúng ta cần đáp trả thế nào trước tiếng kêu than của người anh em chúng ta? Đó chính là tiếng kêu gào của một vị Thiên Chúa đang nhập thể từng ngày trên quê hương này, ngay trong mùa xuân này.
Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con một mùa xuân an bình hạnh phúc. Quê hương con giờ đây không còn chiến tranh, không còn bạo lực, chúng con được thoải mái vui chơi và tận hưởng mùa xuân an bình trên quê hương dấu yêu. Thế nhưng, Chúa thấy đấy, khung cảnh bên ngoài thì bình an thư thái, nhưng bên trong chiều sâu thăm thẳm của lòng người, của xã hội, thì cũng còn đầy dẫy những kiểu “chiến tranh không đổ máu”. Từ những lối sống ích kỷ, thụ hưởng với những đam mê khoái lạc, rồi những thái độ gian dối lừa lọc, cư xử bất công, hành xử đầy tính cách bạo lực… đã tạo nên những hố sâu ngăn cách giữa người với người. Để rồi còn tìm đâu ra sự bình an trong những cảnh tượng như thế? Một điều làm cho Chúa đau lòng hơn cả là từ nội tâm con người đã tự nguyện giết chết sự bình an của một lương tâm trong sáng, khi sẵn sàng ngăn cản sự ra đời của một thai nhi bé bỏng vô tội. Thật xót xa cho Chúa khi từng ngày và mỗi phút giây trên quê hương con, hàng chục thai nhi bị giết chết mà không kịp tận hưởng một chút hương vị mùa xuân cuộc đời.
Lạy Chúa, xin tha thứ cho chúng con, xin canh tân đổi mới tâm hồn chúng con, đặc biệt là tâm hồn các bà mẹ trẻ, để trong năm mới này, mọi người đều biết duy trì được sự bình an đích thực trong tâm hồn mà Chúa đã ban tặng.
Xin cho mùa xuân này đem lại nhiều niềm vui và sự an bình cho mọi tâm hồn, nhất là những tâm hồn đang cô đơn sầu khổ.
Xin cho mùa xuân này là lời động viên, nhắc nhở hay cảnh báo cho tất cả mọi người, để cùng với ơn thánh, chúng con luôn biết nỗ lực sống yêu thương và an bình trong tình Chúa và tình người chân thành. Amen.
55. Quê hương thật (Ga 14,23-27)
Trong những ngày Tết, chúng ta thường cầu chúc cho nhau được khoẻ mạnh, được nhiều may mắn, được gặt hái những thành quả tốt đẹp. Thế rồi khi năm mới bắt đầu, chúng ta thường ra sức làm việc, nhưng phần lớn là để tìm lấy những vinh quang, những lợi ích cho riêng mình. Và nếu có lỡ thất bại, chúng ta cảm thấy buồn chán, và nhất là chúng ta hậm hực tức tối khi người khác trổi vượt hơn chúng ta. Chính vì thế, đây là lúc chúng ta phải đặt lại vấn đề, phải xác định phương hướng cho cuộc đời chúng ta. Chúng ta sống là để làm gì? Và đâu mới là quê hương thật của chúng ta? Trả lời cho những câu hỏi này chúng ta mới có thể đi đúng con đường mà Chúa muốn chúng ta đi cũng như mới có thể tìm thấy được những giá trị trường tồn và vĩnh cửu.
Khi ông Roosevelt còn làm tổng thống nước Mỹ, có lần đã đi nghỉ hè tận Phi Châu để săn những con hươu cao cổ. Trên chuyến bay từ Phi Châu trở về Hoa Kỳ, có một nhà truyền giáo đã hy sinh phục vụ những dân Phi Châu suốt 40 năm trời. Khi phi cơ hạ cánh, nhà truyền giáo ấy chứng kiến đông đảo dân chúng cùng một phái đoàn cao cấp trong chính phủ ra đón mừng tổng thống trở về bằng yên, không ai để ý tới nhà truyền giáo đang lủi thủi một mình. Bấy giờ nhà truyền giáo than thở với Chúa trong cõi lòng của mình: Lạy Chúa, Chúa biết không, một vị tổng thống đi nghỉ hè trở về mà được nhiều người đón rước như vậy. Còn con đây, con đã hy sinh vì Chúa để phục vụ những người anh em cùng khổ tại Phi Châu suốt 40 năm thế mà giờ đây, khi trở về, lại không một ai thèm nhớ đến con. Quả là bất công và tủi hổ cho thân phận của con. Thế nhưng lúc đó, dường như có tiếng Chúa trả lời trong tâm hồn nhà truyền giáo: Này con, đừng vội thất vọng, vì con chưa trở về quê hương thật của con cơ mà.
Có thể đôi lúc chúng ta cũng than phiền với Chúa như thế. Và câu trả lời của Chúa cho nhà truyền giáo cũng là câu trả lời cho mỗi người chúng ta: Con chưa trở về quê hương thật của con. Trần gian chỉ là nơi tạm gởi và vinh quang của nó tựa cánh hoa đồng nội, sớm nở chiều tàn. Vì thế, đừng quá bận tâm tới tiền bạc vật chất, địa vị danh vọng, cũng đừng ganh tỵ với những may mắn của kẻ khác, nhưng hãy cố gắng tạo cho mình một kho tàng thiêng liêng, có giá trị trường cửu, để nhờ đó chúng ta sẽ được Chúa đón nhận vào quê hương Nước Trời.
Với những chia sẻ ngắn ngủi trên, tôi xin cầu chúc anh chị em một năm mới bình an và hạnh phúc trong tình yêu thương của Thiên Chúa.
56. Cầu bình an trong năm mới
Không biết có ai trong chúng ta thắc mắc “tại sao Giáo hội lại chọn đọc bài Tin Mừng này vào ngày đầu năm mới? Ngày cầu bình an?” Thiết tưởng Giáo hội là mẹ cũng muốn dạy con cái mình những điều thật hữu ích. Vì thế, có lẽ chúng ta cũng nên đặt thêm một vài câu hỏi: Tại sao lại phải cầu bình an trước tiên ngay trong ngày đầu năm mới? Điều gì đem lại bình an? Điều gì làm mất bình an? Lời Chúa hôm nay có giúp gì cho việc giải quyết những vấn nạn này không?
Xin thưa câu trả lời chắc chắn là có. Lời Chúa hôm nay sẽ giúp cho mỗi người tìm được bình an. Vì bình an là gốc của mọi điều tốt lành khác. Có bình an con người sẽ có được những thứ khác. “Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao?”.
Lời Chúa thật là chí lý: xét đi xét lại chúng ta thường lo cho mình “của ăn, áo mặc”, mà cái lo này thường làm cho chúng ta quên đi cái chính yếu mình đang có đó là “mạng sống và thân thể”. Chúa nhắc chúng ta nhìn về điều chính yếu Chúa ban cho, Chúa đã trao cho chúng ta mạng sống, cái mà chúng ta không thể làm gì trên nó được, không kéo dài cũng không rút ngắn, không sớm cũng không muộn… mạng sống của chúng ta tùy thuộc vào tay Chúa. Nhưng ngay cả điều quý giá nhất là mạng sống thì Chúa cũng đã ban cho và được đặt vào trong một thân thể rồi. Thân thể cũng vậy, một món quà quý giá không ai có thể làm cho mình cao hơn lên, hoặc đầy đủ hơn. Chúng ta không can thiệp được về thân thể của chúng ta, có chăng chúng ta chỉ có thể giúp mạng sống và thân thể an toàn và tốt đẹp thêm như nó đã được trao tặng. Vậy mà nhiều khi trong cuộc sống chúng ta lại quên, đánh mất, hoặc làm tổn hại cái chính mà mình đang có để lo tìm cái phụ. Những cái phụ thuộc ấy nếu lo lắng quá đáng chúng ta sẽ làm cho mất bình an.
Tuy nhiên, chúng ta cũng phải nhìn nhận rằng cuộc sống ngày hôm nay có quá nhiều khó khăn và thử thách. Công ăn việc làm hết sức bấp bênh. Việc học hành và tương lai của con cái đáng phải lo nghĩ. An sinh xã hội không được bảo đảm. An ninh chính trị thì luôn bất ổn. Xung đột và khủng bố diễn ra khắp nơi. Những điều ấy đã làm cho cuộc sống chúng ta đôi khi mất bình an và luôn phải lo nghĩ để tìm cách ứng phó. Chúng ta vẫn có quyền lo nghĩ và sắp xếp tương lai của mình cho tốt đẹp nhất nhưng đừng để những thứ ấy làm ảnh hưởng đến sự bình an mà Chúa đã ban cho mỗi một người.
Chúng ta là những người đã dám tin vào vào quyền năng và ân sủng của Chúa, chúng ta phải có một lối sống và cách hành xử khác, dám để cho Lời Chúa hướng dẫn vì “Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó”. Không phải ỉ nại vào sự quan phòng của Chúa, nhưng là cộng tác với Chúa, và khi đã nỗ lực hết sức để cộng tác với Chúa, thì tin tưởng Chúa sẽ chúc lành.
Như vậy điều đem lại bình an là vui với những hồng ân mà mỗi chúng ta được nhận lãnh hằng ngày cách nhưng không: mưa thuận gió hòa, mặt trời mọc và lặn đúng thời đúng buổi, không khí trong lành và những dòng nước mát, những người thân yêu và tình bằng hữu… Và điều làm mất bình an là chúng ta lo lắng tìm kiếm những cái phụ quá đáng, đôi khi lo lắng tìm cái phụ mà chúng ta tranh giành làm tương tổn nhau, đôi khi lo tìm những cái phụ mà đánh mất cả những giây phút hạnh phúc hiện tại mà mỗi chúng ta đang có.
Cầu xin bình an trong năm mới, là cầu xin cho chúng ta cảm nghiệm những hồng ân Thiên Chúa ban cách nhưng không. Cầu xin bình an trong năm mới là cầu xin cho có lòng tin vào bàn tay Chúa quan phòng. Cầu xin bình an trong năm mới là cầu xin cho biết lượng giá và tìm kiếm những điều chính yếu, tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài.
Lạy Chúa Giêsu, giữa cuộc sống có quá nhiều bề bộn và lo toan hôm nay, xin cho con được giữ mãi trong lòng hơi ấm bình an của Chúa. Nhiều khi cơm, áo, gạo, tiền đã làm chúng con quá mỏi mệt mà quên đi sự hiện diện nhiệm mầu của Tình Yêu Chúa.
Chúa biết đó, chúng con đang còn phải vật lộn mỗi ngày với cuộc sống nhiều cam go và thử thách hôm nay. Những khó khăn và thử thách từ ngoài tác động vào lòng chúng con và có những thử thách tự chúng con gây ra cho chính mình. Trong tất cả những vấn đề ấy, xin cho chúng con tìm ra được hướng giải quyết và tháo gỡ. Nhưng trên hết, xin cho chúng con luôn biết đặt trọn niềm tin tưởng nơi Chúa và trao đời mình trong vòng tay yêu thương quan phòng của Chúa luôn.
Amen
57. Bình An – Quà Tặng Năm Mới--J.B. Nguyễn Quốc Tuấn
Bình an là ân ban của Thiên Chúa dành cho chúng ta qua Đức Kitô.
Bình an, đó là điều mà chúng ta mong ước và cầu chúc cho nhau mỗi dịp Tết đến xuân về. Bình an là nhu cầu thiết yếu của đời sống con người kể cả trên bình diện xã hội và tâm linh. Bình an như là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa đang đồng hành giữa nhân loại và thái độ đáp trả của con người bằng đời sống yêu thương. Vì khi sống yêu thương, chúng ta cũng đồng thời được tận hưởng một thế giới an bình.
1. Thiên Chúa là nguồn mạch bình an
Nguồn bình an đích thực đến từ Thiên Chúa. Từ tạo thiên lập địa, chính Thiên Chúa đã khai thông nguồn bình an ấy đến tận muôn loài. Riêng đối với con người, Ngài đã ưu ái đặc biệt khi cho chúng ta được cộng tác với Ngài trong việc tạo lập bình an cho thế giới. Nhưng chúng ta đã khước từ tình yêu của Thiên Chúa, lạm dụng quyền tự do Ngài ban theo chiều hướng xấu dẫn đến bất an, đau khổ.
Thiên Chúa không bỏ rơi con người. Khi nhân loại bị tước mất nguồn bình an vì phải xa lìa Thiên Chúa, thì chính Ngài lại tiếp tục nâng đỡ và kêu mời chúng ta trở về nhận lại ơn bình an nơi Con Một Người là Đức Giêsu Kitô.
“Nguyện chính Thiên Chúa là nguồn mạch bình an, thánh hoá toàn diện con người anh em, để thần trí, tâm hồn và thân xác anh em, được gìn giữ vẹn toàn, không gì đáng trách, trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, quang lâm. Đấng kêu gọi anh em là Đấng trung thành: Người sẽ thực hiện điều đó” (1Tx 5, 23-24).
Một khi ý định của Thiên Chúa đã được thành toàn nơi Đức Kitô, nhân loại thực sự được mời gọi bước vào sống trong thế giới của nguồn bình an vô tận. Khi đã được tháp nhập vào thân thể huyền nhiệm của Đức Kitô, chúng ta không còn phải bất an vì lo sợ quyền lực sự dữ thống trị.
“Ước gì ơn bình an của Đức Kitô điều khiển tâm hồn anh em, vì trong một thân thể duy nhất, anh em đã được kêu gọi đến hưởng ơn bình an đó” (Cl 3, 15).
Cuộc lữ hành trong Đức tin của người môn đệ dù phải đối diện với muôn vàn mối hiểm nguy luôn rình rập đe doạ, nhưng đó sẽ là cơ hội quý giá cho chúng ta tận hưởng bình an chân thật do chính Thập giá mang lại.
“Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng. Lòng anh em đừng xao xuyến, cũng đừng sợ hãi” (Ga 14, 27).
2. Không có bình an nếu thiếu tình yêu
Như vậy, bình an là quà tặng vô giá do bởi tình yêu mà Thiên Chúa ban cho nhân loại. Điều này cho thấy bản chất của bình an được khởi đi từ tình yêu. Tình yêu vừa là động lực, vừa là cốt tuỷ của sự bình an. Bình an mà Đức Kitô đã dành trọn cho nhân loại trong công cuộc cứu độ của Ngài, chính là nguồn bình an mà nhờ đó con người được sống trong tình yêu Thiên Chúa và anh em.
Kitô giáo đã mở ra cho chúng ta một hướng nhìn toàn diện khi nghiệm xét điều mà nhân loại hôm nay không ngừng vươn tới: Bình An. Đích điểm mà con người bao đời vẫn kỳ vọng là được sống trong một thế giới hoà bình sẽ trở thành ảo tưởng, nếu thế giới ấy thiếu đi tình thương.
Vẫn còn đó những bất an khi con người chưa đáp ứng lời mời gọi của Đức Kitô: hoà giải, thứ tha.
Vẫn còn đó những bất an khi những nhóm, hay cá nhân bất chấp các nguyên tắc luân lý nền tảng của sự sống và nhân phẩm con người.
Vẫn còn đó những những bất an khi người ta nhân danh quyền lực để xâm hại quyền lợi đồng bào vô tội.
Vẫn còn đó những bất an khi đồng tiền được đặt trên tình thương…
Vẫn còn đó những bất an khi chúng ta chưa chịu xả thân hết mình để chia sẻ những mất mát, đau thương của bao người…
3. Bình an – quà tặng năm mới
BÌNH AN - Món quà thiêng liêng nhất mà chúng ta trao đến nhau trong ngày đầu năm mới. Nó không là một lời chúc suông hoa mỹ, mà hàm chứa một thái độ sống, một nỗ lực sống của chúng ta trên chặng đường những tháng ngày mới đang mở ra.
Món quà BÌNH AN chỉ thực sự sinh động và và có ý nghĩa khi chúng ta gói gém vào trong đó những nguyện ước chân thành và thiện chí xây dựng một cuộc sống êm ấm tốt đẹp cho nhau.
Món quà BÌNH AN chỉ có thể đem lại bầu khí an bình đích thực khi nó được khắc vào đó dấu ấn Thân Ái – Thứ Tha.
Một năm mới bình an khi mỗi người dành cho nhau nhiều thời giờ trao đổi, chia sẻ, nâng đỡ và cùng nhau thăng tiến trong hiệp nhất.
Bình an là ân ban của Thiên Chúa dành cho chúng ta qua Đức Kitô. Do vậy, thực chất của ơn bình an chính là một cuộc sống luôn kết hiệp với Đức Kitô trên tinh thần tôn trọng sự thật và xây dựng một xã hội công bình, yêu thương.
“Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo” (Cl 3, 14).
58. Mùa Xuân là Mùa của Hy Vọng--Lm Giuse Nguyễn Văn Thành
Mùa xuân lại về trên quê hương đất nước chúng ta. Người người náo nức. Chúng ta thường chúc nhau những lời tốt đẹp nhất.
Theo qui luật của Tạo hóa, thời tiết thay đổi nối tiếp nhau theo một chu kỳ: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Mùa nào mang tính độc đáo của mùa ấy, nhưng Xuân vẫn được gọi là mùa của sự đâm chồi nảy lộc, mùa hoa đua nở, cảnh khoe sắc, bởi thời tiết ấm áp hơn. Phong cảnh xinh tươi báo hiệu sức sống dồi dào. Xuân cũng báo hiệu nhiều niềm vui, nhất là các bạn trẻ.
Xuân nào xuân tuổi nhỏ
Trong trắng ấy xuân ơi.
Hầu như tất cả các nước trên thế giới đón mừng năm mới, vào ngày mồng một của tháng đầu năm. Riêng Việt Nam và những nước Châu Á đón Tết theo giờ, ngày của lịch Can Chi năm đó. Lịch Can Chi là Nhân lịch. Sự vận động của thời gian tương ứng với các vị trí không gian trong vũ trụ được thể hiện qua năm, tháng, ngày, giờ. Tết Nguyên Đán là quan trọng nhất đối với chúng ta.
Tết Nguyên Đán được tổ chức rất long trọng cả về tinh thần lẫn vật chất. Nó đã đi vào thói quen của người Việt Nam và đã trở thành nét đẹp văn hoá.
Ngay cả khi nền kinh tế của chúng ta vẫn còn eo hẹp thì ngày Tết vẫn được coi là “no ba ngày Tết, đói ba tháng hè”. Cho dù thiếu thốn đến đâu, người ta cũng sẵn sàng làm Tết trong ba ngày cho thịnh soạn. Vì thế, gia đình nào cũng phải mua sắm ngũ quả, gói mứt, chai rượu, trước hết để thắp hương kính tổ tiên, sau để tết ông bà, cha mẹ…. Ngày xưa, nhiều người còn quan niệm những thứ làm nên ngày Tết:
“Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ,
Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh”.
Người ta vẫn coi ngày Tết là ngày rất thiêng liêng, nên trong gia đình có điều gì khúc mắc thì cha mẹ, con cái hay vợ chồng sẽ xin lỗi nhau để hi vọng một năm mới sẽ có nhiều sự may mắn.
Đối với người Công Giáo, chúng ta hãy vui và đón Tết với tất cả tâm tình của người con Đất Việt, cùng đồng hành với dân tộc. Những hành vi thảo hiếu, tình bằng hữu cũng như tình làng nghĩa xóm cần phải được giữ cho trọn. Bởi Chúa chính là chủ của mùa xuân. Ngài đến ban sức sống dồi dào cho muôn loài thụ tạo. Mọi hoạt động của vũ trụ vạn vật đều nằm trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Cho nên, Ngài là hi vọng của thế giới.
“Bốn mùa Chúa đổ hồng ân,
Ngài cho mầu mỡ ngập tràn lối đi”.(Tv 64,12)
Vì thế, nó rất hợp với ý Chúa và Giáo Hội kêu mời. Đây là thời gian thuận tiện để chúng ta thi hành những công việc của người con cái Chúa. Chúng ta làm chứng cho Chúa trước mặt người khác bằng đời sống vui Tết nhưng không quên bổn phận thiêng liêng và chơi Tết mà không sa vào những tệ nạn xã hội.
Hơn nữa, với người Kitô hữu, Tết cổ truyền còn được gọi là dịp biết ơn và báo hiếu, mùa của đổi mới và hi vọng nữa.
Chúng ta cầu nguyện cho hoà bình trên quê hương đất nước.
Chúng ta quan tâm đến những người kém may mắn để họ cũng được hưởng một cái Tết vui vẻ, khoẻ mạnh và tràn đầy hồng ân Chúa.
59. Suy niệm MỒNG MỘT TẾT--Mt 6,25-34--Lm Thaddaeus. M. Lê Văn Ý
Một mùa xuân nữa lại về trên quê hương Việt Nam. Nói đến mùa xuân, Tết cổ truyền ai nấy cũng đều háo hức vì đó là ngày lễ hội truyền thống của dân tộc. Vào những ngày cuối năm cũ, người ta lo trang hoàng nhà cửa, sắm sửa mọi thứ đều mới để vui chơi trong những ngày đầu xuân.
Những ngày Tết là những ngày vui. Người ta vui mừng vì gia đình được đoàn tụ, được sum họp sau những ngày tháng làm lụng vất vả: con trẻ vui vì được lì xì, người già vui vì được mừng tuổi và chúc thọ. Bao người đi xa, dù Bắc hay Nam, dù tận phương trời Tây cũng tìm về với gia đình, dòng họ để chung vui.
Ngày đầu năm còn là dịp để người ta xích lại gần nhau hơn, quên đi những điều không may trong năm cũ, đến với nhau và chúc mừng năm mới cho nhau: chúc cho nhau sống lâu trăm tuổi, an khang thịnh vượng và hy vọng mọi việc sẽ được an lành mỹ mãn.
Theo truyền thống của người công giáo Việt Nam, ngày đầu năm mới ngày cầu xin Chúa ban bình an. Ai ai cũng mong được bình yên trong tình yêu quan phòng của Chúa. Khởi đầu năm mới, mọi người đều cảm thấy cần khẩn cầu cho những ngày sắp tới được bình yên thịnh vượng. Đang khi đó ai ai cũng tự hiểu tương lai không ai nắm chắc được điều gì. Người Việt Nam cho rằng “Vạn sự khởi đầu nan”. Khởi đầu năm mới, bên cạnh những niềm vui sum họp, nhưng cũng cảm thấy nỗi lo lắng dâng tràn cho một năm mới đang đến. Vì thế, những người sống niềm tin, chạy đến với Ông Trời, người công giáo tìm đến Chúa để cầu xin được bình an, mong sao được Chúa phù hộ chở che, như trong thánh vịnh 121 đã nói:
“Tôi ngước mắt nhìn lên rặng núi,
Ơn phù hộ tôi đến tự nơi nao?
Ơn phù hộ tôi đến từ Đức Chúa
Là Đấng dựng nên cả đất trời,
Xin Đấng gìn giữ bạn đừng để bạn lỡ chân trật bước,
Xin Người chớ ngủ quên.
Đấng gìn giữ Israel, lẽ chợp mắt ngủ quên cho đành!
Chính Chúa là Đấng gìn giữ bạn,
Chính Chúa là Đấng vẫn chở che,
Người luôn luôn ở gần kề.
Ngày sáu khắc, vầng ô không tác họa,
Đêm năm canh, vành nguyệt chẳng hại.
Chúa giữ gìn bạn khỏi mọi điều bất hạnh,
Gìn giữ cho sinh mệnh an toàn.
Chúa gìn giữ bạn lúc ra vào lui tới,
Từ giờ đây cho mãi muôn đời”.
Đông qua, xuân lại đến. Dù muốn hay không, qui luật vận hành của đất trời cứ thế mà xoay chuyển, và đó là điều người ta nhận ra Thiên Chúa là Đấng làm ra và nắm giữ mọi điều, thời gian là của Chúa ban cho con người trên mặt đất này.
Thiên Chúa là Chúa của mùa xuân, là Chúa của trời đất vạn vật. Chính Người là Đấng tạo dựng nên muôn loài muôn vật ngay từ thuở ban đầu, “từ những vật sáng trên vòm trời, đến những vầng sáng lớn và các tinh tú” (St 1,14-18). Mùa xuân đầu tiên ngập tràn hạnh phúc được Thiên Chúa tạo lập trong vườn Địa Đàng năm xưa chính là mùa xuân tình yêu dành cho Ađam - Evà. Tuy nhiên, hai ông bà đã để mùa xuân yêu thương ấy kết thúc trong sự sa ngã nuối tiếc.
Ngày Tân Niên, chúng ta đến với Thiên Chúa để mừng tuổi Chúa, đến với Đấng làm chủ thời gian để xin Người chúc phúc cho chúng ta:
“Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc,
xin tỏa ánh Tôn Nhan rạng ngời trên chúng con,
cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa,
và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài”. (Tv 66,2-3).
Điều mà ai cũng ao ước trong những ngày đầu xuân đó là sự bình an. Một khi có sự bình an thực sự, con người sẽ có được những thứ khác. Một khi có sự bình an thực sự, chúng ta sẽ luôn vui mừng trong Chúa: “Bình an của Thiên Chúa vượt mọi trí hiểu, sẽ giữ gìn lòng trí anh em trong Chúa Giêsu Kitô” (Pl 4,7).
Trang Tin Mừng theo Thánh Matthêu trong ngày Tân Niên, Đức Giêsu chỉ cho chúng ta một phương thế để có được sự bình an, đó là tin tưởng và phó thác vào Thiên Chúa, qua hai cách nói “đừng lo” và “hãy lo”:
"Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao?... Tiên vàn, anh em hãy lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,25.33).
Không lo sao được vì với những người có dư thừa vật chất thì không có vấn đề. Nhưng đối với những người mà mỗi ngày phải lo tìm kế sinh nhai cho đủ ăn đủ mặc, sống lây lất qua ngày, chứ chưa nói đến làm giàu thì rõ ràng đây lại là một vấn đề to lớn. Giữa thế giới tục hóa của thời đại cơm áo gạo tiền này, vấn đề vật chất tiền của đã chiếm chỗ rộng lớn trong tâm trí. Vì thế, nhiều người mãi mê tự mình đi tìm kiếm kinh tế, tiền tài để tiêu dùng và hưởng thụ.
Tuy nhiên, điều Chúa muốn nơi mỗi người là: chúng ta không được phép ỷ lại vào sự quan phòng của Chúa một cách quá đáng, nhưng cũng đừng lo lắng thái quá về tiền của, cái ăn cái mặc cho ngày mai, như kiểu của người không có niềm tin: Chúng ta sẽ ra sao, sẽ ăn gì, uống gì, mặc gì? Kinh thánh khuyên bảo chúng ta sống tín thác vào tình yêu của Chúa:
“Cứ tin tưởng vào Chúa và làm điều thiện
Thì sẽ được ở trong đất nước và sống yên hàn.
Hãy lấy Chúa làm niềm vui của bạn,
Người sẽ cho được phỉ chí toại lòng.
Hãy ký thác đường đời cho Chúa,
Chính người sẽ ra tay” (Tv 37; 4 – 5)
Hạnh phúc đích thực chỉ có cho những ai biết tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước tiên. Chúa không muốn con cái của Chúa lo lắng quá nhiều, Chúa chỉ muốn chúng ta tin cậy vào tình yêu của Người, bởi lẽ “ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6,34b). Còn sự công chính của Thiên Chúa được tỏ lộ qua lời giảng dạy của Người (x.Mt 5,6.10.20).
Cùng đích của đời người không hệ tại ở vật chất, tiền bạc của cải, quyền lực,... mà là cuộc sống mai hậu. Chúa biết chúng ta cần gì muốn gì và chính Người sẽ bảo đảm cuộc sống cho chúng ta. Vì thế, chúng ta “hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay” (Tv 37,5).
Trong giờ phút linh thiêng của ngày đầu năm, thiết nghĩ tâm tình của người Kitô hữu trong Thánh Lễ Tân Niên phải là tâm tình phó thác, trông cậy cầu xin những ơn lành từ lòng thương xót của Chúa cùng với tâm tình tạ ơn. Đặc biệt chúng ta mừng đón tết trong khung cảnh của Năm thánh giáo phận Qui Nhơn mừng kỷ niệm bốn trăm năm loan báo Tin Mừng, càng làm cho mỗi người suy gẫm về sự quan phòng, yêu thương của Chúa đã ban xuống cho chúng ta biết bao hồng ân. Một năm đã qua với biết bao biến cố vui buồn trong cuộc sống, chúng ta đều cảm tạ Chúa vì muôn phúc lành mà Chúa đã thương ban. Tình yêu thương mà chúng ta có thể cảm nghiệm là ngay trong giây phút này đây mình vẫn đang sống, vẫn đang hiện diện, để được cùng sum họp với gia đình, với cộng đoàn giáo xứ. Đồng tiền mà chúng ta dâng lên Chúa trong ngày đầu xuân tượng trưng cho lòng thành tri ân cảm tạ của chúng ta.
Đồng thời mỗi người chúng ta cũng xin lỗi Chúa vì những do dự, yếu đuối, thiếu sót, vì những phận sự mà mình chưa chu toàn với trách nhiệm làm cha mẹ, vợ chồng, con cái,... trong gia đình và bổn phận truyền giáo của người Kitô hữu.
Và sau cùng, bước sang Năm Mới, ai trong chúng ta cũng mơ ước cho mình và cho người khác mọi điều may mắn tốt đẹp. Chúng ta hy vọng một năm Mậu Tuất sẽ đầy thuận lợi hơn năm Đinh Dậu đã qua với nhiều ân sủng Chúa. Việc hái lộc lời Chúa trong ngày đầu năm sẽ giúp chúng ta suy niệm và thực hành trong một năm mới dưới sự soi sáng và nâng đỡ của Chúa quan phòng, giúp ta luôn trông cậy vào Chúa, vượt qua lo lắng thái quá cho ngày mai. “Hãy vui lên anh em!” (Pl 4,4), chính cái vui này giúp chúng ta sống đời phó thác “ngày mai, cứ để ngày mai lo” (Mt 6,34) để sống tròn đầy giây phút ân huệ hiện tại.
Chúng ta cùng cầu chúc cho nhau một mùa xuân nhiều PHÚC LỘC THỌ, một mùa xuân đầy AN BÌNH VUI TƯƠI HY VỌNG, một mùa xuân thêm lòng TIN CẬY MẾN. “Càng thêm tuổi càng thêm khôn ngoan và thêm ân nghĩa với Thiên Chúa và người ta” (Lc 2,52).
60. Tin vào tình yêu quan phòng của Chúa--Mt 6,25-34--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Một trong những thực hành mê tín của dân ngoại đang ảnh hưởng đến đời sống của người tín hữu, đó là sự tin kiêng mù quáng và phong thủy sai lầm. Những người này, mặc dù vẫn tin Chúa, nhưng đồng thời họ lại tin kiêng vào những lời lẽ của ông thày và những thói quen của người ngoại. Ví dụ như chọn người xông nhà, chọn ngày khởi công, khai trương, xây nhà phải đếm bậc, đếm đòn tay. Người dân ngoại, vì không biết Chúa, họ cho rằng sự may mắn trong năm là do ông thầy hướng dẫn; sự thành công của công việc là do chọn đúng ngày, gia đình hạnh phúc là do phong thủy.
Người Công giáo khi tin và thực hành như thế, có nghĩa là chối bỏ quyền năng và sự quan phòng của Thiên Chúa, và cho rằng sự thành công hay thất bại, khỏe manh hay đau ốm, may mắn hay bắt hạnh, là do tài khéo của bản thân hoặc do một sức mạnh nào đó không phải là Thiên Chúa. Khi cố tình tin và thực hành như vậy, chúng ta xúc phạm trầm trọng đến Thiên Chúa và đức tin của mình.
Trong giây phút đầu năm hôm nay, chúng ta đến đây để dâng lên Thiên Chúa những giây phút đầu xuân, cầu xin Chúa ban cho một năm mới thuận lợi trong công việc, gia đình bằng an, mạnh khỏe, hạnh phúc, con cháu ngoan hiền. Trong ngày đầu năm này, Lời Chúa mời gọi chúng ta tái khăng định niềm tin của mình vào quyền năng, tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa.
Bài đọc một cho chúng ta thấy: Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và làm chủ mọi vật mọi loài, không có một thần linh nào khác ngoại trừ Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa dựng nên vũ trụ trời đất, Ngài dùng lời quyền năng, chỉ phán: hãy có, mọi vật, mọi loài liền có. Ngài là Đấng quan phòng, sắp xếp thời gian, cho mặt trời soi sáng ban ngày và mặt trăng soi đường ban đêm; Ngài chi phối hướng dẫn vũ trụ và điều khiển cuộc đời của từng con người. Vì thế, tất cả những việc cúng bái tin kiêng vào các thần linh theo kiểu của dân ngoại đều là phản bội lại niềm tin vào Thiên Chúa tạo dựng.
Thánh Kinh không chỉ khẳng định cho chúng ta về một Thiên Chúa tạo dựng quyền năng, nhưng trước hết, và trên hết, Thiên Chúa thực sự là một người Cha giàu lòng thương xót. Thiên Chúa yêu thương các tạo vật Ngài đã dựng nên, nhưng Ngài vẫn dành cho con người một tình yêu thương đặc biệt. Vì yêu thương cách đặc biệt, nên đã tạo dựng con người theo hình ảnh của Thiên Chúa giống như Thiên Chúa. Con người được nâng cao và trao ban một phẩm giá đặc biệt trên tất cả mọi loài. Thiên Chúa đã yêu thương con người đến độ, Ngài trở nên bạn hữu với con người; mỗi buổi chiều, Thiên Chúa ngự xuống đi dạo với con người, trò chuyện với con người.
Tình thương của Thiên Chúa dành cho con người thật cao cả lớn lao, Ngài đã chấp nhận cho Con của Ngài là Chúa Giêsu xuống thế làm người, để ở với con người. Chúa Giêsu là hiện thân lòng thương xót của Thiên Chúa, Ngài đến thế gian để nói cho mọi người biết rằng: Con người được Chúa yêu thương. Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã quả quyết về tình yêu quan phòng của Thiên Chúa. Ngài nói cho mọi người biết rằng, Thiên Chúa là Cha, Ngài luôn muốn và làm điều tốt đẹp cho con người. Vì thế, con người đừng cậy dựa vào sức lực khả năng của mình, nhưng hãy tin tưởng, cậy dựa và phó thác cuộc sống mình cho Thiên Chúa.
Đừng lo cho mạng sống lấy gì mà ăn, cũng đừng lo cho thân xác lầy gì mà mặc…hãy xem chim trời, chúng không gieo không gặt, vậy mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Căn dặn chúng ta như thế, Chúa Giêsu không khuyến khích chúng ta lười biếng, thụ động, cũng không ù lỳ, lười suy nghĩ tính toán. Nhưng nói như thế, để nhắc chúng ta nhớ rằng: Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Chúng ta tính toán làm ăn, nhưng vẫn phải biết trông cậy và cầu xin cùng Thiên Chúa và phó thác công việc cùng toan tính của ta cho Chúa. Vì cho dù chúng ta lên kế hoạc, đầu tư làm ăn, nếu Chúa không trợ giúp, không ban, chúng ta cũng không thể thành công được.
Cũng vậy, cơm ăn áo mặc hằng ngày, chúng ta vẫn phải vất vả lào động để tìm kiếm, nhưng đừng vì quá lo chuyện ngày mai ăn gì mặc gì, mà quên Thiên Chúa là Cha yêu thương, Ngài không ngừng chăm sóc cho chúng ta. Vì thế, đừng bao giờ mất niềm tin vào Thiên Chúa, cho dù cuốc sống có muôn vàn khó khăn, Thiên Chúa vẫn tìm cho ta một giải pháp tốt nhất. Do đó, hãy lao động làm việc trong tư cách là con của Thiên Chúa, làm với lòng tin tưởng và yêu mến. Đừng biến mình trở nên như một kẻ nô lệ, lệ thuộc vào công việc và lệ thuộc vào miếng cơm manh áo, đến độ, làm giảm phẩm giá làm người làm con Chúa. Vì là con của Thiên Chúa, nên dù có gian lao vất và, chúng ta vẫn phải ưu tiên tìm kiếm Thiên Chúa và hạnh phúc đời đời cho linh hồn của ta và của người thân trong gia đình. Vì thế, Chúa căn dặn chúng ta: Trước hết, hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ khác Người sẽ ban cho.
Một khi đã cảm nhận được tình Chúa yêu thương, quan phòng, chăm sóc cho từng người chúng ta, thánh Phaolô mời gọi: Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: Vui lên anh em! Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hòa rộng rãi. Điều đó có nghĩa là, mỗi chúng ta đón nhận được Tin Mừng yêu thương của Thiên Chúa, chúng ta không thể để mình sống trong u bồn sầu não, cũng không bi quan chán nản, nhưng trong mọi hoàn cảnh chúng ta luôn vui. Vui, vì dù trong đau khổ, khó khăn nhất, chúng ta vẫn thấy Chúa hiện diện bên cạnh nâng đỡ; vui vì biết mình luôn được Chúa yêu thương, Chúa chia sẻ và nâng đỡ.
Thánh Phaolô căn dặn: Trong mọi hoàn cảnh, anh em hãy tạ ơn Thiên Chúa và giãi bày trước Thiên Chúa mọi điều anh em khẩn nguyện. Vì vậy, trong giờ phút đầu năm quy tụ trong nhà Chúa đây, nhìn lại một năm qua, không phải tất cả mọi người đều thành công thành đạt, nhưng tất cả cùng chung một lời để tạ ơn Thiên Chúa. Tạ ơn Chúa vì món quà thời gian, năm mới, Chúa ban tặng; tạ ơn vì bao thăng trầm cũng đã trôi qua, bao khó khăn phía trước, xin Chúa giải gỡ; tạ ơn vì Chúa luôn quan phòng chở che bênh đỡ.
Ngày nay, nhiều người không hề biết phong thủy là gì nhưng vẫn tin kiêng một cách mù quáng vào phong thủy và nhiều thứ khác nữa. Họ tin như thể rằng, mọi sự họ đang có, đang hưởng là do phong thủy, do tin kiêng, do hên, hơn là do Thiên Chúa. Điều này đang là một cám dỗ và là nguy cơ phá vỡ đức tin của chúng ta.
Phong thủy theo nghĩa của người Hoa, có nghĩa là gió và nước. Hợp phong thủy, là sự hòa hợp của đất trời, của nắng của gió, sự hòa hợp của thiên nhiên. Khi con người biết tôn trọng thiên nhiên, sống hòa hợp với thiên nhiên, con người sẽ mạnh khỏe. Phong thủy có nghĩa như thế.
Theo cái nhìn của Kitô giáo, khi con người sống hòa hợp với Thiên Chúa, với tha nhân và với thiên nhiên vũ trụ, con người sẽ đạt được hạnh phúc. Tỗi lỗi và ma quỷ, chính là kẻ gây sự bất hòa giữa con người và Thiên Chúa, cũng như với tha nhân và vũ trụ. Vì thế, chỉ khi loại trừ tội lỗi, ma quỷ trong tâm hồn, chúng loại trừ được nguyên nhân gây xáo trộn bất hòa.
Ngày tết, mọi người đều muốn có một bầu khí hòa hợp vui tươi, quảng đại, dễ dàng bỏ qua cho nhau những xích mích. Vì vậy, hãy tận dụng những ngày tết này, để giao hòa với Thiên Chúa, đem lại cho gia đình nhiều niềm vui tiếng cười. Hãy chủ động bước đến thăm nhau và thật lòng mong muốn, cầu chúc cho nhau những điều tốt đẹp. Quan trọng hơn, là hãy làm những điều tốt đẹp cho gia đình, cho nhau, không chỉ trong ngày tết, mà kéo dài tâm tình hòa thuận vui tươi của ngày tết trong suốt cả năm mới này.
Cầu chúc cho mọi người năm mới Đinh Dậu sống hòa hợp vui tươi, luôn tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Trong mọi hoàn cảnh vui buồn, xin Chúa giúp ta nhận ra sự hiện diện đồng hành của Chúa. Amen.
61. Lễ minh niên--Tin vào tình yêu quan phòng của Chúa--Mt 6,25-34--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Kính thưa quý OBACE, có lẽ trong chúng ta ai cũng cảm nhận được sự thay đổi của đất trời khi bước vào năm mới. Vẫn là ánh nắng ấy, ngọn gió ấy, nhưng hôm nay dường như nó mang một hương vị khác hơn của ngày hôm qua. Ngày hôm nay đất trời chuyển mình từ mùa đông qua mùa xuân, vũ trụ dường như khoác trên mình một bộ áo mới, cây cối đâm chồi nảy lộc, ngàn hoa khoe sắc. Sự chuyển vận của đất trời cũng làm cho tâm hồn con người thêm vui tươi, phấn khởi và hy vọng. Mọi người đều mong chờ năm mới đến sẽ đem theo sự đổi mới không chỉ của vũ trụ, mà còn là sự đổi mới của con người, của gia đình và của xã hội. Chính vì sự khát khao đổi mới, mà chúng ta dành những giây phút đầu tiên của năm mới để đến với Thiên Chúa, bày tỏ lòng biết ơn và cầu xin cho một năm mới an lành.
Các bài đọc của ngày đầu năm hôm nay gợi lên nhiều điểm giáo lý quan trọng: Bài đọc một nhắc nhớ rằng, tất cả vũ trụ và trật tự lạ lùng trong đó, cùng muôn vật muôn loài là do Thiên Chúa dựng nên. Chính Chúa làm chủ thời gian không gian, và cả mọi vật mọi loài. Sách Sáng Thế chúng ta vừa nghe giới thiệu cho chúng ta một Thiên Chúa quyền năng, tạo dưng nên trời đất và tinh tú chí bằng một mệnh lệnh: Hãy có … thì mọi sư liền có. Điều này diễn tả rằng Thiên Chúa là Đấng quyền năng, làm chủ vũ trụ, các thần linh của dân ngoại không thể sánh ví được với Thiên Chúa. Chính Ngài làm chủ thời gian, phân chia ngày đêm và bốn mùa thay đổi nối tiếp nhau. Thánh kinh khẳng định: Thiên Chúa thấy mọi sự là tốt đẹp. Khẳng định như thế để cho chúng ta xác tín một cách chắc chắn rằng Thiên Chúa luôn muốn điều tốt đẹp cho con người và làm mọi điều tốt đẹp cho chúng ta. Vì thế con người phải đặt trọn niềm tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Khẳng định như vậy, để loại trừ những tập tục của dân ngoại, tin kiêng những điều vớ vẩn, coi ngày coi giờ, hoặc là gán cho vũ trụ thiên nhiên những sức mạnh như thần thánh.
Ngày nay, nhiều người mang danh là Kitô hữu, nhưng họ không tin vào sự quan phòng xếp đặt của Thiên Chúa. Họ không tin Thiên Chúa luôn làm điều tốt cho con người, nên khi gặp khó khăn thử thách họ muốn tìm giải pháp của người đời, tìm đến sức mạnh của ma quỷ qua việc bói toán bùa ngải. Nhiều người không tin Thiên Chúa là Đấng làm chủ thời gian và không gian, nên mỗi khi làm việc gì họ tìm thầy coi ngày coi giờ, coi hướng coi tuổi, coi ngày khai trương… thay vì tin tưởng và phó thác nơi Chúa. Những việc làm ấy ảnh hưởng trầm trọng đến đời sống đạo, thể hiện sự yếu kém trong đức tin của người tín hữu.
Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy mỗi người chúng ta tin tưởng hoàn toàn vào tình yêu quan phòng của Thiên Chúa: Các con chớ lo lắng sẽ ăn gì uống gì, lấy gì mà mặc? Vì chưng dân ngoại cũng tìm kiếm những điều đó. Nhưng Cha các con biết rõ các con cần những điều đó. Tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa, không có nghĩa là lười biếng ỷ nại và không làm việc gì, nhưng biết tính toán sắp đặt công việc và làm việc với hết khả năng của mình trong sự tin tưởng và biết phó thác kết quả công việc cho Chúa.
Lời Chúa còn dạy ta phải biết xếp đặt thứ tự ưu tiên trong chọn lựa mục tiêu đời mình, biết phân biệt đâu là điều chính yếu, đâu là điều tùy phụ. Dù có bận rộn với cuộc sống thì cũng biết đặt ưu tiên tuyệt đối cho việc tìm kiếm nước Trời và hạnh phúc đời đời. Vì hạnh phúc nước trời mới là mục đích cuối cùng của cuộc đời mỗi người chúng ta. Không đạt được công danh, con người vẫn có thể sống, nhưng không có Thiên Chúa, và không đạt được Nước Trời đó điều thất bại và bất hạnh lớn nhất. Chúa Giêsu nhấn mạnh: Tiên vàn hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn các sự khác Thiên Chúa sẽ ban cho. Đừng để sự lo âu sợ hãi gặm nhấm cuộc đời và làm lung lạc đức tin của chúng ta; cũng đừng để đau khổ đè bẹp và làm cho chúng ta mất lòng cậy trông nơi quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa. Vì trong mọi đau khổ, ơn Chúa vẫ đủ để chúng ta có thể vượt qua những đau khổ ấy.
Thánh Phaolô là người đã trải qua biết bao gian lao thử thách song Ngài vẫn kiên trì trong đức tin, chính từ kinh nghiệm sống đức tin ấy thánh nhân đã khuyên các tin hữu Philipphê: Anh em hãy vui luôn trong Chúa, tôi nhắc lai một lần nữa: anh em hãy vui lên. Niềm vui là một trong những nét đặc trưng của người Kitô hữu, vì chúng ta là những người đang sống tin mừng của Đức Giêsu và đang rao truyền tin mừng ấy, thì cuộc sống của mỗi người phải la cuộc sống ngập tràn niềm vui. Tuy nhiên niềm vui của chúng ta phải là niềm vui khác với những thú vui của trần gian. Thế gian vui những cái vui hời hợt bên ngoài, vui với thỏa mãn dục vọng xác thịt ăn uống say sưa, còn chúng ta vui với một niềm vui sâu xa phát xuất từ trong tâm hồn. Đó là niềm vui được hưởng ơn cứu độ, được làm con cái Chúa, được hưởng hạnh phúc đời đời, được gọi Thiên Chúa là Cha.
Khác với dân ngoại, đời sống của người tín hữu còn phải được thể hiện ra bên ngoài bằng sự ôn hòa nhẫn nại, bằng sự tin tưởng cầu nguyện và không ngừng tạ ơn Thiên Chúa. Điều này có nghĩa rằng dù khi vui cũng như khi buồn, dù thành công hay thất bại chúng ta vẫn được mời gọi nhận ra bàn tay của Thiên Chúa đang điều khiển cuộc đời chúng ta.
Ngày nay vật chất và các lối sống hưởng thụ đang tấn công người tín hữu, đang bào mòn và có nguy cơ làm lung lạc đời sống đức tin của chúng ta. Nhiều người lấy lý do: có thực mới vực được đạo, họ đã đặt của cải vật chất ở trên Thiên Chúa, biến của cải vật chất trở thành thần linh và là mục đích cuộc đời của mình. Nhiều người chỉ còn biết tìm tiền bạc của cải và gạt Thiên Chúa qua một bên. Trong bối cảnh ấy chúng ta được mời gọi tin vào tình yêu và lòng thương xót của Chúa, Đấng quyền năng quan phòng và an bài mọi điều tốt lành cho con người. Việc làm chứng cho lòng thương xót Chúa, không chỉ là những lời kinh đọc trên môi, mà phải được thể hiện qua việc cử hành mỗi ngày, tức là cùng nhau cử hành thánh lễ và các bí tích. Vì thánh lễ và các bí tích là nơi chúng ta đón nhận lòng thương xót Chúa. Khi ý thức và tích cực siêng năng tham dự thánh lễ và rước lễ mỗi ngày là chúng ta đang đón nhận lòng xót thương và cùng với mọi người chúng ta làm chứng cho tình yêu của Chúa. Người đời sẽ không thể đụng chạm được lòng thương của chúng ta, họ chỉ có thể cảm nhận qua thái độ yêu thương của chúng ta mỗi ngày.
Trong giờ phút đầu năm xum họp nơi đây để tạ ơn Thiên Chúa và để cầu xin ơn phúc lành và sư bình an cho năm mới. Trong Năm Thánh Lòng Thương xót Chúa, xin Chúa đổ tràn lòng thương xót xuống trên chúng ta và biến chúng ta trở thành hiện thân lòng thương xót của Chúa cho anh em. Amen.
62. Chúc nhau mọi điều tốt lành--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Ngày tết của người Việt hoàn toàn với ngày tết dương lịch, và cách đón tết của người Việt cũng khác với các dân tộc khác. Ngày tết của người Việt là ngày của tình thân, ngày của gia đình và là dịp ước nguyện, vì mọi người tin rằng ngày đầu năm khi có nguyện ước tốt đẹp thì cả năm sẽ tốt đẹp. Chính vì thế, ngày tết người ta tránh nói là làm những gì mích lòng nhau, và dù rất quen tai với lời chúc xuân, nhưng khi gặp nhau ngày tết dù quen hay lạ, mọi người luôn cầu chúc cho nhau và cho gia đình những điều chúc tốt đẹp, nào là gia đình hạnh phúc, sức khỏe dồi dào, an khang thịnh vượng…đó là nét văn hóa rất tốt đẹp của người Việt chúng ta.
Tuy nhiên dầu có nhiều lời cầu chúc và những ước mơ tốt đẹp, nhưng chúng ta cũng không thể phủ nhận tình hình cuộc sống kinh tế xã hội được dự báo cho năm mới còn rất nhiều khó khăn đòi mỗi người mỗi gia đình phải nỗ lực hết mình. Cũng vì thế ai cũng tin rằng những điều tốt đẹp chúng ta cầu chúc cho nhau, chỉ là bày tỏ ước nguyện điều tốt lành cho nhau, còn điều quan trọng là tất cả ơn lành là do Trời ban, mà người Công Giáo gọi là ơn do Thiên Chúa ban.
Chúng ta tin rằng chính Thiên Chúa là Đấng tạo dựng và làm chủ vũ trụ và con người, Ngài còn tiếp tục quan phòng và điều khiển vũ trụ này cho nó xoay vần thời tiết thay đổi nối tiếp nhau hết mùa hạ, đến mùa thu, mùa đông rồi sang xuân để phục vụ cho con người, và tất cả mọi sự tốt lành mà chúng ta cầu chúc cho nhau đều đến từ Thiên Chúa.
Lời Chúa của ngày Mồng Một tết nhắc lại cho chúng ta giáo lý quan trọng: Thiên Chúa là Đấng tao dựng nên vũ trụ, Ngài lại là người Cha yêu thương chúng ta và luôn muốn và làm điều tốt đẹp cho chúng ta là con cái Ngài. Sách Sáng Thế đã nhắc lại “Bài ca Tạo dựng” của Thiên Chúa để khẳng định về một Thiên Chúa quyền năng vượt trội trên tất cả, không có một thần linh nào sánh kịp Ngài, Ngài đã chỉ cần phán một lời: Hãy có, thì mọi vật liền từ không nên có. Thánh Kinh còn cho thấy Thiên Chúa tạo nên vũ trụ này không phải như một vật vô hồn, mà là một tuyệt tác kỳ công của Ngài, và Ngài thấy thế là tốt đẹp. Nó tốt đẹp không chỉ vì nó thỏa mãn cái nhìn của con người, mà Ngài còn thấy tất cả công trình Ngài tạo dựng nó tốt đẹp và mang lại lợi ích cho con người là tạo vật được Chúa yêu thương và nâng niu nhất. Điều quan trọng hơn nữa, Thiên Chúa giống như một nghệ nhân đã trao tặng tác phẩm của mình cho con người để con người làm chủ.
Con người được Thiên Chúa yêu thương, Ngài trao tất cả mọi loài mọi vật và cả vũ trụ này cho con người, và Thiên Chúa vẫn còn tiếp tục chăm sóc và mời gọi con người tin tưởng vào tình yêu thương quan phòng của Ngài. Hôm nay trước những lo lắng của cuộc sống của con người Chúa Giêsu đã khuyên chúng ta: Đừng lo lắng cho mạng sống: lấy gì mà ăn, cũng đừng lo cho thân thể lấy gì mà mặc, hãy xem chim trời nó không gieo không gặt mà Cha anh em vẫn nuôi nó… Có ai nhờ lo lắng mà kéo dài đời mình thêm được một gang nữa không? Khuyên chúng ta như thế trong ngày đầu năm, không có nghĩa là Chúa muốn chúng ta lười biếng thụ động không suy nghĩ, không tính toán, ngồi chờ sung rụng, nhưng Chúa muốn chúng ta vẫn phải làm việc hết mình hết khả năng, và còn phải làm trong sự tin tưởng và phó thác cho quyền năng và tình thương của Chúa, vì mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên, việc tính toán là của con người còn thành quả là do Chúa ban. Khi làm việc với tinh thần như thế, chúng ta sẽ không trở thành nô lệ cho công việc, nhưng trong tư cách là cộng tác viên của Thiên Chúa, cùng với Thiên Chúa làm cho cuộc sống thêm tốt đẹp hơn.
Cái ăn và cái mặc là những nhu cầu căn bản của cuộc sống, nó khiến cho con người phải vất vả tất bật sớm hôm, mỗi ngày mở mắt ra con người đều phải nghĩ đến việc ngày hôm nay mình sẽ ăn gì mặc gì? Tuy nhiên Chúa Giêsu đã cho chúng ta những hình ảnh làm ví dụ về bông hoa ngoài đồng được Chúa tô điểm cho thật rực rỡ dù nó không phải may vá gì, cũng vậy lũ chim sẻ không gieo không cấy mà Thiên Chúa vẫn nuôi nó, để cho chúng ta thấy một ý nghĩa cao hơn nữa, đó là khi chúng ta sống và làm việc trong sự phó thác hoàn toàn cho Chúa thì Chúa sẽ lo liệu cho ta còn tốt hơn rất nhiều lần chúng ta tự lo cho mình. Thiên Chúa làm tất cả điều tốt đẹp cho con người chỉ vì Ngài là Cha yêu thương chúng ta.
Điều này làm cho chúng ta khác với những người không có đức tin, người không có đức tin làm việc trong sự lẻ loi một mình, còn người có đức tin làm việc trong sự hiện diện và trợ giúp của Thiên Chúa, và khác với người không có đức tin, vì chúng ta biết Thiên Chúa yêu thương ta và trợ giúp ta. Vì thế Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta: Đừng để cho công việc và những lo toan cuộc sống chiếm hết chỗ trong cuộc sống, nhưng hãy biết dành lại chỗ cho Thiên Chúa, hay nói đúng hơn, là dù có bận rộn với cuộc sống và công việc thì đừng quên tim kiếm Nước Trời và hạnh phúc đời đời. Vì chúng ta sẽ không mãi ở trên mặt đất này, mà chúng ta sẽ phải trở về với Thiên Chúa, thì ngay hôm nay chúng ta phải làm việc trong tư thế của một người sẽ phải trở về, đừng để mình lệ thuộc vào trần gian này.
Trong niềm xác tin như thế, thánh Phaolô đã khuyên chúng ta: Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa,… sao cho mọi người thấy anh em ăn ở hiền hòa rộng rãi. Trong mọi hoàn cảnh cứ cầu khẩn, vàn xin và tạ ơn mà giải bày trước mặt Thiên Chúa điều anh em thỉnh nguyện. Như thế niềm vui phải là nét đặc trưng và luôn được thể hiện trên cuộc đời và gương mặt người tín hữu. Chúng ta luôn vui vì chúng ta sống trong sự chở che của Thiên Chúa, vui vì có Chúa là bạn và là Đấng cùng chia sẻ gánh nặng cuộc đời với chúng ta và luôn tạo mọi điều tốt đẹp cho ta. Đồng thời thể hiện niềm vui qua cuộc sống tin tưởng, vui tươi, hiền hòa nhân ái, đó phải là những nét đặc trưng của người tín hữu chúng ta.
Thưa quý OBACE, trong ngày đầu năm này, chúng ta mang trong mình bao nguyện ước cho mình cho gia đình và người thân, đừng ngại ngần bày tỏ những ước nguyện ấy với Chúa, hãy nói với Chúa về toan tính của mình để xin Chúa chỉ bảo cho chúng ta biết phải làm gì và làm thế nào. Mong điều tốt lành cho nhau đã là điều tốt, song mỗi người còn phải đem đến cho nhau, cho gia đình những điều tốt lành.
Ngày tết không chỉ tránh cho nhau những điều không hay không đẹp, mà hãy tránh cho nhau tất cả những điều không hay không đẹp trong suốt cả năm. Các bậc cha mẹ chính là người tạo nên sự may lành tốt đẹp cho gia đình. Hãy mang về cho gia đình nhiều niềm vui, nhiều nụ cười thân thương, nhiều bữa cơm ấm cúng tình gia đình. Hãy làm việc và nuôi sống gia đình trong sự tin tưởng và cậy trông phó thác nơi Chúa. Hãy nuôi gia đình không chỉ bằng cơm gạo mà còn cần phải được nuôi bằng tình yêu thương, sự hy sinh và sư ân cần dành cho nhau. Các bậc làm cha mẹ đừng xả xui cho mình bằng cờ bạc rượu chè, đề đóm, tất cả những điều đó không những không xả xui, mà còn đem đến đổ vỡ cho gia đình. Trái lại hãy hiện diện nhiều hơn bên vợ chồng bên con cái, hãy dành những ngày tết này để chuyện trò để hiểu nhau và thông cảm cho nhau hơn.
Cũng vậy những người làm con không chỉ bày tỏ lòng thảo hiếu bằng tấm bánh hay một vài lời cầu chúc, mà hãy đem đến cho cha cha mẹ niềm vui bằng sự ngoan ngoãn, thảo hiếu, biết ơn và vâng lời. Con cái là mùa xuân của gia đình, hãy làm cho gia đình mình rộn rã tiếng cười vui, hãy làm cho cha mẹ vơi đi sự nhọc nhằn bằng việc chăm chỉ học hành, đem về cho cha mẹ những kết qua học tập thật tốt và những thành công nho nhỏ, đó là những món qua mà các bậc cha mẹ nào cũng cảm thấy hạnh phúc và tự hào để đón nhận.
Xin Đức Maria ở mãi với các gia đình, đem đến cho các gia đình và mọi người người một mùa xuân mới đầy tràn ơn Thánh Chúa và cho các gia đình được tràn đầy niềm vui và hạnh phúc. Amen
63. Cầu bình an cho năm mới--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Bước vào năm mới, mỗi khi gặp nhau dù quen hay lạ, mọi người đều chúc cho nhau sự bình an. Điều đó cho thấy, bình an là khao khát sâu thẳm trong tâm hồn con người. Con người sống trong xã hội dù có được xem là an toàn đến mấy, vẫn cảm thấy cần sự bình an, vì chỉ khi có bình an cuộc sống mới an vui, hạnh phúc. Thực tế từ xã hội và thế giới cho thấy, nhân loại dường như luôn phải sống trong chiến tranh bạo lực, thiên tai, nhân tai có thể ập xuống bất cứ lúc nào trên con người. Con người cảm thấy cuộc sống của mình thật mong manh, giới hạn trước sự xoay vần của vũ trụ, trước những tai họa từ thiên nhiên hoặc từ con người gây ra cho nhau. Vì vậy con người luôn cầu xin và cầu chúc cho nhau được bình an.
Tại sao con người cầu mong bình an mà không được, chờ đợi hòa bình mà không thấy? phải chăng Thiên Chúa đã giữ độc quyền sự bình an trong tay Ngài? - Thiên Chúa không giữ độc quyền sự bình an. Sách Sáng Thế cho thấy, ngay từ đầu khi tạo dựng nên vũ trụ và con người, Thiên Chúa đã an bài cho chúng có một trật tự hài hòa rất đẹp, mặt trời chiếu sáng ban ngày để sưới ấm cho vũ trụ, cung cấp năng lượng cho muôn loài và soi đường dẫn lối cho con người, mặt trăng nhẹ nhàng trong mát để soi sáng ban đêm và ru giấc ngủ ngon cho vũ trụ cùng muôn loài, các tinh tú khác tô điểm cho vũ trụ thêm xinh đẹp hơn. Tất cả muôn loài, mặt trăng, mặt trời và các tinh tú đều chuyển động hài hòa theo một quỹ đạo đã được bàn tay Thiên chúa chỉ vẽ. Từ những chuyển động này đã làm nên thời tiết, mùa màng cho trái đất: xuân, hạ, thu, đông, nắng, mưa cân bằng. Tuy nhiên sự hài hòa tốt đẹp ban đầu Thiên Chúa ban tặng đã bị phá vỡ bởi sự tham lam, ích kỷ và kiêu ngạo của con người. Con người đã muốn tôn mình làm Chúa, muốn thống trị người khác, giành về cho mình thật nhiều của cải, tài nguyên thiên nhiên, đã phá vỡ sự cân bằng hài hòa, gây bất ổn, bất thuận và dẫn đến những thảm họa cho con người.
Như thế, thủ phạm gây ra bất hòa bất ổn, lo âu cho con người lại chính là tội lỗi của con người cùng với sự hợp tác của Satan. Ngay từ đầu, Satan đã đánh lừa con người để gieo tội và sự chết vào thế gian. Tội lỗi là nguyên nhân đem đến sự bất an trong tâm hồn và làm đảo lộn trật tự của cuộc sống. Chúng ta có thể thấy, chỉ vì tham vọng quyền lực cá nhân mà con người không ngần ngại chém giết loại trừ lẫn nhau: Hitler đã gây ra cái chết cho hàng triệu người Do Thái; Polpot đã gây ra cuộc diệt chủng cho người Campuchia...
Mọi người cầu chúc cho nhau sự bình an trong ngày đầu năm mới là điều rất tốt, nhưng tốt hơn và quan trọng hơn là phải cùng nhau xây dựng sự bình an và đem bình an đến cho gia đình và mọi người. Thư Philiphê dạy chúng ta phải tái lập lại sự trật tự trong tâm hồn, sống niềm vui thánh thiện xuất phát từ trong tâm hồn. Đây là bước căn bản để ta đem bình an đến cho mình và người khác. Tác giả kêu gọi chúng ta: “anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: Vui lên anh em” sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hòa rộng rãi. Trong mọi hoàn cãnh hãy cầu nguyện và trải lòng ra trước mặt Thiên Chúa. Như thế có nghĩa là khi mỗi người cố gắng sống ngay thẳng trước mặt Thiên Chúa, xây dựng một tương quan tốt đẹp thuận thảo với Thiên Chúa, thì chính Chúa sẽ là bình an và nguồn vui trong tâm hồn. Nói cách khác đó là mỗi người cần tẩy rửa khỏi mình tình trạng tội lỗi, giữa một lương tâm ngay thẳng trong sáng trước mặt Chúa, chúng ta sẽ cảm nhận được bình an và niềm vui. Thánh Phaolô còn nói thêm: Khi mỗi người sống trong bình an Thiên Chúa như thế, chúng ta sẽ phải sống tích cực hơn để đem bình an đến cho người khác bằng cách: Những gì là chân thật là cao quý, những gì là đáng mến đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh đáng khen thì hãy có mà gìn giữ và thực hành.
Hiểu được tâm trạng bất an của con người trước sự bấp bênh của cuộc sống, sự khắc nghiệt của thiên nhiên, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta vượt lên trên những lo âu thường ngày để dám sống phó thác cho sự quan phòng của Thiên Chúa. Sống phó thác cho sự quan phòng, không có nghĩa là ỷ nại, lười biếng, lười suy nghĩ, lười làm việc. Trái lại, làm việc, suy nghĩ tình toán trong sự quan phòng trợ giúp của Thiên Chúa.
Đừng lo lắng cho mạng sống lấy gì mà ăn, lấy gì mà mặc, vì mạng sống chẳng trọng hơn của ăn và thân thể chẳng quý hơn áo mặc sao? Nhắc điều này vì có nhiều người dồn cả cuộc đời công sức của mình để tìm kiếm những điều hết sức tùy phụ và bỏ qua điều chính yếu. Nhiều người tìm kiếm của ăn, tiền bạc vật chất mà không quan tâm đến mạng sống sức khỏe của mình; lo tìm kiếm thật nhiều vật chất của cải mà không lo đến mạng sống thiêng liêng, tức là sự sống của linh hồn mình. Cũng vậy, con người ngày nay tiêu tốn rất nhiều tiền của cho sắc đẹp và mỹ phẩm, quần áo và các đồ trang sức bên ngoài, nhưng lại không quan tâm tô điểm nhân cách tác phong, phẩm giá của mình. Tương tự như thế, nhiều người cung cấp cho cơ thể đủ mọi chất dinh dưỡng và phụ kiện đắt tiền, nhưng lại để tâm hồn mình bẩn thỉu, hôi thối bởi một đời sống tội lỗi bê tha.
Chúa muốn mỗi người biết đâu là mối lo chính yếu, đâu là điều cần quan tâm nhất trong cuộc đời. Điều quan trọng nhất trong cuộc đời là có một tâm hồn khỏe mạnh trong sáng, vì loại trừ được tội và những thói xấu, không để mình bị lạm dụng và lợi dụng của ma quỷ. Khi có một đời sống tinh thần thoải mái thanh thản như thế, chúng ta sẽ cảm nhận được sự bình an hạnh phúc vì chính Chúa ở trong những tâm hồn như thế.
Chúa Giêsu cũng cho một ví dụ minh họa về sự quan phòng của Thiên Chúa dành cho vũ trụ và con người. Về vũ trụ, Chúa so sánh một bông hoa ngoài đồng, không may không dệt, nhưng Thiên Chúa vẫn tô điểm cho nó màu sắc hương thơm theo từng loại. Có loài có sắc thì không có hương, có loài có hương thì không có sắc để chúng bổ xung cho nhau, cũng có những loại được ưu ái hơn, Thiên Chúa ban cho nó cả hương lẫn sắc. Tất cả là do tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa, Thiên Chúa muốn cho nó tốt đẹp để tô điểm cho vũ trụ. Chúa Giêsu nhấn mạnh, đến hoa cỏ ngoài đồng còn được Chúa quan phòng cho mọi sự tốt đẹp như vậy, huống hồ là con người là con của Thiên Chúa, chẳng lẽ Chúa không quan phòng cho nó tốt đẹp hơn bội phần những loài khác sao?
Trong những giờ phút đầu tiên của năm mới, chúng ta đến với Chúa nơi đây, được Lời Chúa soi sáng, mỗi chúng ta biết đặt mối lo của chúng ta vào đúng nơi, đúng việc. Chúng ta mong ước sự bình an và cầu chúc cho nhau được bình an, thì trước hết hãy cầu xin Thiên Chúa là Chúa của sự bình an ban bình an xuống trên những người chúng ta cầu chúc. Kế đến chúng ta phải trở thành người xây dựng và đem bình an đến cho người chung quanh.
Hãy bắt đầu từ nơi bản thân: Tìm kiếm sự bình an đích thực trong tâm hồn qua bí tích Giải tội, tẩy rửa khỏi mình tội lỗi và những sự dày vò do tội gây ra; gạt bỏ khỏi mình sự kiêu căng ích kỷ cũng như tham lam thu vén tích góp cho cá nhân mình. Kế đến, chúng ta đem bình an và niềm vui đến cho người khác bằng sự chân thành, cảm thông. Cần gạt bỏ khỏi mỗi người sự say sưa rượu chè, nóng nảy, bài bạc gây bất an, bất ổn cho gia đình vợ chồng, con cái. Hãy bước đến với những gia đình hành xóm láng giềng, gạt bỏ những giận dỗi khó chịu với nhau để chân thành cầu chúc và cầu nguyện cho nhau, đem đến cho nhau niềm vui và bình an.
Bước vào năm mới với lòng tin tưởng phó thác cho sự quan phòng của Thiên Chúa “mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”. Chúng ta cố gắng vận dụng hết khả năng, trí tuệ, sức khỏe và những điều kiện hiện tại để đem đến cho gia đình và cộng đoàn một cuộc sống an vui hạnh phúc, còn kết quả như thế nào, chúng ta phó dâng cho Chúa. Chắc chắn, dù một năm mới sắp tời sẽ thành công hoặc không được như ý muốn, chúng ta vẫn tin rằng đó cũng là ý Chúa muốn để chúng ta thêm lòng tin tưởng vào chúa hơn.
Cầu chúc cho mọi người, mọi gia đình năm mới Mậu Tuất này được luôn trung thành với Chúa trong mọi hoàn cảnh. Amen.
64. Tạ ơn và cầu bình an cho năm mới--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Người Việt Nam chúng ta có một tập tục rất đẹp, đó là sáng sớm mồng một tết, chuẩn bị ít thức ăn hoặc trái cây và một ít hoa tươi, đứng trước Bàn Thiên ở cửa nhà hoặc Bàn thờ Tổ tiên trong gia đinh để thắp lên một nén nhang với lòng thành biết ơn trời đất và tổ tiên ông bà.
Kính thưa quý OBACE, đối với người Việt Nam Công Giáo, tập tục tốt đẹp ấy được thể hiện trong giờ phút đầu tiên của năm mới này. Chúng ta họp nhau nơi đây không phải trước Bàn Thiên mà là trước tôn nhan Thiên Chúa, để dâng lên Chúa tâm tình Tạ Ơn và cầu xin Chúa ban cho một Năm Mới bình an; đồng thời, nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng điều khiển cả vụ trụ này và tất cả mọi việc xảy ra đều nằm trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Cũng vì thế, con người luôn luôn cảm thấy mình nhỏ bé và hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa. Sự lệ thuộc vào Thiên Chúa không làm hạ thấp giá trị con người, nhưng lại làm gia tăng phẩm giá của con người. Vì mỗi chúng ta đã được Thiên Chúa yêu thương tạo dựng, cứu chuộc, được nhận làm con và Thiên Chúa còn quan phòng ban cho muôn điều kỳ diệu, tốt đẹp cho mỗi người.
Các bài đọc được chọn cho ngày Mồng Một Tết nhắm đến các ý tưởng ấy. Trước hết, bài đọc sách Sáng Thế nhắc lại cho chúng ta về công trình tạo dựng của Thiên Chúa: Chính Ngài dựng nên trời đất, tinh tú muôn loài và cũng chính Ngài là Đấng điều khiển bốn mùa luân chuyển, thay đổi nối tiếp nhau, làm nên nhịp sống cho con người và phân định thời gian cho vũ trụ. Cũng mặt trời ấy, cũng ánh nắng ấy, nhưng những ngày đầu năm này, mọi sự dường như khác, từ vạn vật đến con người như đang khoác lên mình một bộ áo mới, một sức sống mới của mùa xuân sau những ngày mùa đông lạnh giá. Cũng chính vì thế, mọi người đều muốn bắt đầu một năm mới với một sự đổi mới, một kế hoạch mới và một quyết tâm mới. Song vì con người ý thức được rằng “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”, kế hoạch là của mỗi người đưa ra, song sự thành hay bại còn do trời ban hay nói theo ngôn ngữ nhà đạo của chúng ta đó là: Con người cố gắng với hết khả năng của mình, còn kết qủa thì phó dâng cho Chúa. Ý thức như thế để chúng ta không quá cậy dựa vào sức mình, nhưng biết khiêm nhường tạ ơn Thiên Chúa về những thành quả chúng ta đã đạt được và bằng lòng với những gì Chúa ban, đồng thời cầu xin Thiên Chúa chúc lành cho những dự tính của chúng ta trong năm mới.
Trong bài đọc hai, Thánh Phaolô đã khuyên cộng đoàn Philipphê hãy luôn vui mừng và tín thác vào Thiên Chúa. Niềm vui cũng là ước nguyện của ngày đầu năm: Anh em hãy vui luôn trong Chúa! Tôi nhắc lại một lần nữa: Anh em hãy vui lên… Anh em đừng lo lắng gì hết, nhưng trong khi cầu nguyện, hãy trình bày ước vọng lên cùng Chúa. Như thế có nghĩa là chúng ta sẽ vẫn phải sống và làm việc, vẫn gặp những thành công và thất bại, vui và buồn, nhưng khác ở chỗ là dù trong những hoàn cảnh nào, chúng ta vẫn giữ được niềm vui và sự bình an trong tâm hồn. Niềm vui và sự bình an này là bình an vì có Chúa ở trong chúng ta, và tin rằng Chúa đang điều khiển cuộc đời mình. Chúng ta cũng vẫn phải lo toan cho cuộc sống, song chúng ta không lo lắng theo kiểu của những người không có niềm tin, nhưng lo liệu công việc trong sự trợ giúp của Thiên Chúa và làm mọi công việc thường ngày trong tinh thần cầu nguyện, tin tưởng, phó thác. Khi sống và làm việc như thế, chúng ta sẽ cảm nhận được niềm vui trong chính công việc của mình và sẽ thấy tâm hồn mình thực sự bình an.
Ước nguyện Bình an cho gia đình là một trong những ước nguyện đầu tiên của năm mới. Thế nhưng, để có bình an, mỗi người phải nỗ lực thật nhiều. Trước hết là phải tìm được sự bình an trong tâm hồn. Sự bình an này đến từ Thiên Chúa và chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban tặng. Đó là sự bình an của một tâm hồn thanh thản trước mặt Thiên Chúa, một tâm hồn được thứ tha và chữa lành nhờ Bí tích Giải tội, luôn sống thuận thảo với Chúa. Chúng ta chỉ thực sự bình an khi không để mình sống trong tình trạng thù nghịch tội lỗi trước mặt Thiên Chúa, siêng năng gặp gỡ Thiên Chúa trong công việc, trong cầu nguyện và trong các việc phụng thờ Thiên Chúa.
Kế đến là sự bình an đối với nhưng người chung quanh, tức là phải dám gỡ khỏi tâm hồn mình những bất hòa, những bất đồng và xung khắc đối với vợ chồng, cha mẹ, con cái, anh em, láng giềng. Bước đến với nhau trong sự tha thứ, làm hòa và thông cảm, đây cũng là nét đẹp của người Việt Nam. Năm mới, cũng cần phải đổi mới lại tương quan tình nghĩa giữa những người thân và anh em, gạt bỏ đi những tranh chấp để đến với nhau và nhìn nhau một cách chân tình hơn, hãy can đảm nói với nhau một lời xin lỗi và tha thứ.
Ước nguyện bình an trong công việc là một ước nguyện thật tốt, vì ai làm nghề gì thì cũng mong muốn được thuận lợi, bình an. Bình an ở đây không chỉ là tránh khỏi rủi ro tai nạn, mà còn ước mong bình an trong mọi việc. Sự bình an này chỉ có ở những con người có những cách làm việc tôn trọng sự công bằng và bác ái, tôn trọng sự thật, không gian dối, không lừa đảo và biết tôn trọng quyền lợi của người khác. Kinh doanh buôn bán với một lương tâm ngay thẳng như thế thì mới có được sự bình an trong công việc và bình an trong tâm hồn.
Thịnh vượng là một trong những ước nguyện đầu năm, giàu có sung túc là một ước muốn tốt đẹp. Theo truyền thống của Kinh Thánh thì sự giàu sang còn là dấu chỉ chúc lành của Thiên Chúa. Thế nhưng làm giàu bằng cách nào và sử dụng sự giàu sang Chúa ban như thế nào mới là điều quan trọng.
Bài Tin Mừng hôm nay chỉ cho chúng ta cách thế sống và vui hưởng những của cải Chúa ban, đó là tin tưởng và phó thác tất cả cho Chúa: Đừng lo lắng cho ngày mai vì ngày mai sẽ lo cho ngày mai. Nói như thế không có nghĩa là chúng không lo lắng và không suy nghĩ đầu tư. Chúng ta không được phép ỷ nại vào sự quan phòng của Chúa để lười biếng, nhưng cũng đừng lo lắng quá mức về cái ăn cái mặc cho ngày mai, như kiểu của người không có niềm tin: Chúng ta sẽ ăn uống gì mặc gì? Trái lại, chúng ta biết lo liệu và tin rằng Thiên Chúa là cha, Ngài biết những nhu cầu, những ước muốn của chúng ta ngay trước khi chúng ta mở miệng cầu xin và Ngài sẽ trợ giúp chúng ta. Vì thế, hãy sống thật tốt giây phút hiện tại của ngày hôm nay và vui hưởng những gì Chúa ban cho ngày hôm nay.
Chúa vẫn lưy ý chúng ta rằng dù ăn gì, uống gì và làm gì thì cũng vẫn cần có một ưu tiên tuyệt đối đó là: Tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn các điều khác Chúa sẽ ban cho. Tìm Nước Thiên Chúa và sự công chính có nghĩa là lo tìm kiếm và làm giàu trước mặt Thiên Chúa; đừng chỉ làm giàu của cải vật chất, nhà cửa xe cộ mà để mình nghèo nàn công phúc trước mặt Chúa. Nhiều người cầu nguyện đầu năm cho gia đình mình thịnh vượng vật chất, mà quên cầu xin cho mình và gia đình được giàu có thịnh vượng trước mặt Thiên Chúa. Làm giàu trước mặt Thiên Chúa là làm nhiều việc lành và công phúc, việc lành ở đây chính là những việc tông đồ, bác ái, là công việc phục Chúa và phục vụ anh em. Làm giàu trước mặt Chúa còn là những việc hy sinh thầm lặng, hy sinh tiền của, thời giờ, sức khỏe cho Chúa. Những công việc cụ thể như thế sẽ làm cho chúng ta trở nên giàu có, thịnh vượng trước mặt Thiên Chúa.
Cầu chúc cho mọi người, mọi gia đình một Năm Mới đầy tràn Bình an của Chúa và sự Thịnh vượng, không chỉ của cải vật chất mà là thịnh vượng, giàu có của cải thiêng liêng trước mặt Thiên Chúa. Cầu chúc cho mọi gia đình luôn hạnh phúc vì có Chúa ở cùng. Amen.
65. Lễ minh niên 2019: Cầu xin một năm mới an vui--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Cuộc sống xã hôi ngày nay dường như tạo ra quá nhiều sự bất an lo lắng cho con người: Lo có công ăn việc làm ổn định, lo cho gia đình bằng an, êm ấm, hạnh phúc, mọi người khỏe mạnh. Bước ra ngoài lo lắng về an toàn giao thông, an toàn xã hội, lo những chuyện bất ưng, tai bay vạ gió xảy ra cho mình vv. Chúng ta hình dung, một gia đình bỗng dưng nghe tin con cái bị quẹt xe, bị tai nạn, vợ chồng phải cấp cứu… tâm trạng mọi người trong nhà sẽ bất an và cả gia đình lo lắng. Chúng ta đặt mình trong hoàn cảnh của các gia đình tại Lộc Hưng, Sài Gòn: trong không khí tưng bừng mọi người đang chuẩn bị đón tết, xum họp gia đình, thì bỗng dưng một ngày đi làm về, thấy cả ngôi nhà và đồ đạc bị chính quyền ủi tan hoang, tâm trạng của chúng ta sẽ thế nào?
Thưa quý OBACE, xã hội tiềm ẩn nhiểu rủi ro bất trắc, khiến cho con người lắng bất an, lo sợ; đời sống nhiều cá nhân và gia đình thiếu vắng niềm vui, khiến cho cuộc sống trở nên nặng nề mỏi mệt. Vì thế, ngày đầu năm mới ai trong chúng ta cũng mong ước, cầu chúc cho nhau, cầu xin cho mình và gia đình được bình an, vui tươi. Lời Chúa trong ngày đầu năm mới mời gọi chúng ta luôn sống trong niềm vui, như lời kêu gọi của thánh Phaolô: Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em! Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hòa rộng rãi, Chúa đã gần đến.
Kêu gọi như thế không phải là thánh Phaolô không hiểu gì về tình hình thực tế của cuộc sống. Ngày xưa dân Philipphê cũng sống trong tình trạng lo âu khắc khoải như chúng ta hôm nay, khi chứng kiến sự nhiễu nhương của cái xấu và bất công trong xã hội; đời sống của cộng đoàn có nhiều vấn đề, cuộc sống gia đình gặp nhiều khó khăn. Thánh Phaolô thấu hiểu, nhưng vẫn mời gọi cộng đoàn Philipphê hãy vượt qua những lo âu sợ hãi bất an đó, để sống vui, để chờ đợi Chúa trở lại. Chúa sẽ trả lại sự công bằng và đem đến niềm vui đích thực. Niềm vui mà thánh Phaolô mời gọi không phải bất cứ niềm vui nào, mà phải là niềm vui của Chúa, niềm vui vì có Chúa và hy vọng nơi Chúa.
Thánh Phaolô còn chỉ cho chúng ta sống niềm vui của Chúa bằng cách, trong mọi hoàn cảnh, cho dù gặp phải sự bất công, bất trắc, chúng ta vẫn phải cư xử hiền hòa rộng rãi. Không dùng ác báo ác, không gây thù gây oán, không đồng lõa với điều xấu, nhưng phải chống lại bất công và cái ác bằng sự hiền hòa quảng đại. Đó là cách cư xử của người con Chúa. Trên hết, thánh nhân mời gọi chúng ta, trong mọi hoàn cảnh cứ tin tưởng và giãi bầy với Chúa về nỗi lòng của mình, vì Thiên Chúa là Cha Ngài sẽ lắng nghe lời con cái nài van; Thiên Chúa là nguồn Bình an sẽ ban lại bình an cho chúng ta. Vì là con của Chúa, chúng ta luôn phải thể hiện mình là những người công minh chính trực, chân thật ngay thẳng. Khi dám sống và cư xử như thế, Thiên Chúa sẽ ban niềm vui và bình an xuống trong tâm hồn chúng ta.
Bài đọc sách Sáng Thế cho chúng ta một lý do quan trọng để chúng ta gạt bớt những lo âu, sống trong niềm vui, đó là: hết lòng tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng sáng tạo và quan phòng. Thiên Chúa dùng quyền năng để sáng tạo nên mọi vật, mọi loài trong sự tốt đẹp. Ngài cho vũ trụ thiên nhiên và vạn vật xoay vần để hỗ trợ cho nhau, loài này giúp cho loài khác phát triển. Thiên Chúa là Cha, Ngài tiếp túc quan phòng chăm lo và xếp đặt mọi sự tốt đẹp cho con người, vì muốn cho con người được hạnh phúc. Mỗi người có mặt trên trần gian này không phải là sự ngẫu nhiên, nhưng là do tình yêu thương quan phòng của Chúa. Từng ngày qua đi là từng ngày Thiên chúa chăm sóc và yêu thương ta, như cha mẹ lo liệu, xếp đặt cho con cái. Vì thế, chúng ta được mời gọi sống trong sự tin tưởng phó thác cho tình yêu và sự quan phòng của Chúa.
Cuộc sống dường như ai cũng có mối lo riêng, nhưng nhiều khi chúng ta biến cái lo, thành lo lắng, lo âu, lo sợ, đến độ quên sự hiện diện quan phòng của Chúa. Qua bài Tin Mừng, Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta biết phải lo những gì là quan trọng và chính đáng. Chúa dạy chúng ta đừng quá lo lắng đến cái ăn, cái mặc, nhưng biết lo điều chính yếu là phát triển con người và sự sống của mình: Vì mạng sống chẳng trọng hơn của ăn và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao? Thực tế có nhiều người chỉ chăm sóc cho áo quần, tóc tai và chuyện ăn uống bên ngoài, nhưng lại thiếu quan tâm làm cho con người, sức khỏe và phẩm giá của mình được nâng cao và phát triển. Con người chúng ta được dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa và được trao ban phẩm giá là con Thiên Chúa. Vì thế, khi chăm lo cho mình có một cuộc sống lành mạnh và khỏe mạnh, trí tuệ, nhân cách và phẩm giá được nâng cao, được tôn trọng, đó là là sự lo liệu chính đáng. Nếu chỉ lo cái ăn cái mặc và dáng vẻ bên ngoài mà quên chăm lo đời sống thiêng liêng, đạo đức của mình và sự lớn mạnh của linh hồn, thì chúng ta vẫn chưa hơn được những động vật khác. Do đó, lo liệu cho sự sống thiêng liêng và phần rỗi đời đời của linh phải là mối lo chính yếu của chúng ta.
Chúa Giêsu cũng cảnh báo chúng ta đừng để mình rơi vào lối sống của dân ngoại hoặc người vô thần. Cùng đích cuộc đời của họ là thế gian này, chúa của họ là của cải vật chất, danh vọng. Vì thế, nhiều người trong họ đã bất chấp tất cả, chỉ để giành giật cướp bóc, thâu tích thật nhiều tiền bạc, của cải, đất đai, địa vị. Mục tiêu và lo lắng của họ chỉ là vật chất và hưởng thụ mà thôi. Chúng ta là con Thiên Chúa, ưu tiên tìm kiếm và cùng đích cuộc đời của chúng ta phải là Thiên Chúa và sự công chính thánh thiện, còn những thứ khác, Thiên Chúa là Cha sẽ lo liệu cho chúng ta: Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, người sẽ thêm cho. Vậy anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai cứ để ngày mai lo, ngày nào có cái khổ của ngày ấy.
Khi dạy như thế, Chúa Giêsu không bảo chúng ta sống ỷ nại, lười biếng, lười suy nghĩ, không làm việc. Trái lại, Thiên Chúa ban cho con người có trí óc và đôi bàn tay, chúng ta phải phát huy khả năng của trí óc, suy nghĩ và làm việc hết khả năng hết sức mình. Chúng ta cũng tin rằng, mỗi người Chúa ban cho có sức khỏe, khả năng khác nhau, vì thế tất cả mỗi người đều phải suy nghĩ, tính toán và làm việc theo khả năng Chúa ban và biết nâng đỡ trợ giúp người kém khả năng hơn. Nhưng trong tất cả mọi công việc, chúng ta làm trong sự trợ giúp và hướng dẫn của Thiên Chúa, làm việc hết mình và phó dâng kết quả công việc cho Thiên Chúa vì: Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Biết như vậy để dù thành công như ý muốn, chúng ta không kiêu ngạo và không được như ý, ta không thất vọng oán trách Chúa.
Thưa quý OBACE, sự lo âu và buồn chán đang gặm nhấm nhiều tâm hồn và nhiều gia đình. Nhiều người đang lo buồn đến héo hắt vì chồng, vì vợ, vì con; nhiều gia đình từ lâu đã trở nên u ám tăm tối không còn ánh sáng, không còn niềm vui tiếng cười. Nhiều gia đình trong những ngày tết này, bầu khí gia đình vẫn rất nặng nề, căng thẳng, thiếu sự xum họp, thiếu bữa cơm chung. Vì thế, trong lúc này chúng ta đang khẩn xin Chúa ban lại cho tâm hồn và gia đình tìm lại được bình an và vui tươi. Thiên Chúa là Cha, Ngài luôn lắng nghe và thấu hiểu, Ngài trợ giúp ta bằng ơn soi sáng trong tâm hồn, và hướng dẫn ta bằng Tin Mừng. Nhiều người đã không dám làm theo sự hướng dẫn của Chúa, để ngòai tai những giáo huấn của Tin Mừng. Vì thế, chúng ta không thoát ra được những lo lắng thế gian và ưu tư cuộc sống, để phó thác cho Chúa và sống trong niềm vui của Chúa. Sở dĩ sự lo âu buồn bã cứ mãi đeo bám trong cuộc đời ta, vì ta không chấp nhận sự thay đổi bản thân, thay đổi tình trạng hiện tại của gia đình.
Thiên Chúa còn ban cho chúng ta Chúa Thánh Thần, là Thầy dạy sự khôn ngoan, là thần sức mạnh ở với chúng ta, để trợ giúp và hướng dẫn chúng ta trong mọi việc. Xin Chúa Thánh Thần gạt bỏ khỏi chúng ta sự lo âu, lo lắng, lo buồn và ban cho chúng ta ơn Biết Lo Liệu của Ngài, để nhờ ơn soi sáng của Thánh Thần chúng ta bắt đầu một năm mới trong niềm vui tươi phấn khởi. Amen.
66. MỒNG MỘT TẾT 2012: Tạ ơn và cầu bình an cho năm mới--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Người Việt Nam chúng ta có một tập tục rất đẹp trong ngày đầu năm mà những người thờ Trời hay thờ Ông Bà họ thường làm đó là sáng sớm ngày mồng một, người ta làm một ít đồ ăn hoặc là trái cây và một ít hoa tươi đứng trước Bàn Thiên ở cửa nhà hoặc Bàn thờ Tổ tiên trong gia đinh để thắp lên một nén nhang với lòng thành biết ơn trời đất và tổ tiên ông bà.
Kính thưa quý OBACE, đối với người Việt Nam Công Giáo, tập tục tốt đẹp ấy được thể hiện trong giờ phút đầu tiên của năm mới Nhâm Thìn này, chúng ta họp nhau không phải trước bàn thiên mà là trước tôn nhan Thiên Chúa, để dâng lên Chúa tâm tình Tạ Ơn và cầu xin Chúa ban cho một Năm Mới bình an, đồng thời cũng là nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng điều khiển cả vụ trụ này và tất cả mọi việc xảy ra đều nằm trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Cũng vì thế con người luôn luôn cảm thấy mình nhỏ bé và hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa. Sự lệ thuộc vào Thiên Chúa không làm hạ thấp giá trị con người, nhưng lại làm gia tăng phẩm giá của con người vì con người chúng ta đã dược Thiên Chúa yêu thương tạo dựng, cứu chuộc, được nhận làm con và Thiên Chúa còn quan phòng ban cho muôn điều kỳ diệu tốt đẹp cho con người.
Các bài đọc được chọn cho ngày Mồng Một Tết nhắm đến các ý tưởng ấy- Trước hết bài sách Sáng Thế nhắc lại cho chúng ta về công trình tạo dựng của Thiên Chúa, chính Ngài dựng nên trời đất tinh tú muôn loài và cũng chính Ngài là Đấng điều khiển để cho bốn mùa luân chuyển thay đổi nối tiếp nhau, để làm nên nhịp sống cho con người và phân định thời gian cho vũ trụ. Cũng mặt trời ấy, cũng ánh nắng ấy, nhưng những ngày đầu năm này, chúng ta nhìn thấy mọi sự đều khác, từ vạn vật đến con người như đang khoác lên mình một bộ áo mới một sức sống mới của mùa xuân sau những ngày mùa đông lạnh giá. Cũng chính vì thế, mà mọi người đều muốn bắt đầu một năm mới với một sư đổi mới, một kế hoạch mới và một quyết tâm mới. Song vì con người ý thức được rằng: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên” kế hoạch là của mỗi người đưa ra, song sự thành hay bại còn do trời ban hay nói theo ngôn ngữ nhà đạo của chúng ta đó là: Con người cố gắng với hết khả năng của mình còn kết qua thì phó dâng cho Chúa. Ý thức như thế để chúng ta không quá cậy dựa vào sức mình, nhưng biết khiêm nhường tạ ơn Thiên Chúa về những thành quả chúng ta đã đạt được và bằng lòng với những gì Chúa ban đồng thời cầu xin Thiên Chúa chúc lành cho những toan tính của chúng ta trong năm mới.
Trong bài đọc hai Thánh Phaolô đã khuyên cộng đoàn Philipphê hãy luôn vui mừng và tín thác vào Thiên Chúa, niềm vui cũng là ước nguyện của ngày đầu năm: Anh em hãy vui luôn trong Chúa! Tôi nhắc lại một lần nữa: anh em hãy vui lên… Anh em đừng lo lắng gì hết nhưng trong khi cầu nguyện hãy trình bày ước vọng lên cùng Chúa. Như thế có nghĩa là chúng ta sẽ vẫn phải sống và làm việc, vẫn gặp những thành công và thất bại, vui và buồn, nhưng khác ở chỗ là dù trong những hoàn cảnh nào, chúng ta vẫn giữ được niềm vui và sự bình an trong tâm hồn, niềm vui và sự bình an này là bình an vì có Chúa ở trong chúng ta, và tin rằng Chúa đang điều khiển cuộc đời chúng ta. Chúng ta cũng vẫn phải lo toan cho cuộc sống, song chúng ta không lo lắng theo kiểu của những người không có niềm tin, nhưng lo liệu công việc trong sự trợ giúp của Thiên Chúa và nhất là làm mọi công việc thường ngày trong tinh thần cầu nguyện tin tửơng phó thác. Khi sống và làm việc như thế, chúng ta sẽ càm nhận được niềm vui trong chính công việc của mình và sẽ thấy tâm hồn mình thực sự bình an.
Ước nguyện Bình an cho gia đình là một trong những ước nguyện đầu tiên của năm mới, thế nhưng để có bình an đòi mỗi người phải nỗ lực thật nhiều. Trước hết là phải tìm được sự bình an trong tâm hồn, sự bình an này đến từ nơi Thiên Chúa, và chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban tặng, đó là sự bình an của một tâm hồn thanh thản trước mặt Thiên Chúa, một tâm hồn được thứ tha và chữa lành nhờ Bí tích Giải tội, một tâm hồn luôn sống thuận thảo với Chúa, tức là không để mình sống trong tình trạng thù nghịch tội lỗi trước mặt Thiên Chúa, siêng năng gặp gỡ Thiên Chúa trong công việc, trong cầu nguyện trong các việc phụng thờ Thiên Chúa.
Kế đến là sự bình an đối với nhưng người chung quanh, tức là phải dám gỡ khỏi tâm hồn mình những bất hòa những bất đồng và xung khắc đối với vợ chồng, cha mẹ, con cái, anh em, láng giềng, hãy bước đến với nhau trong sự tha thứ, làm hòa và thông cảm, đây cũng là nét đẹp của người Việt Nam, mỗi dịp tết gặp nhau, người ta thường xin lỗi nhau về những gì làm mất lòng nhau trong năm cũ, cũng vậy, năm mới, chúng ta cũng cần đổi mới lại tương quan tình nghĩa giữa những người thân và anh em, gạt bỏ đi những tranh chấp để đến với nhau và nhìn nhau một cách chân tình hơn hãy can đảm nói với nhau một lời xin lỗi và tha thứ.
Ước nguyện bình an trong công việc là một ước nguyện thật tốt, vì ai làm nghề gì thì cũng mong muốn được thuận lợi bình an. Bình an ở đây không chỉ là tránh khỏi rủi ro tai nạn, nhưng sự bình an thật sự chỉ có ở những con người có những cách làm việc trong tôn trọng sự công bằng và bác ái, tôn trọng sự thật, không gian dối không lừa đảo, và biết tôn trọng quyền lợi của người khác. Kinh doanh buôn bán với một lương tâm ngay thẳng như thế thì mới có được sự bình an trong công việc và bình an trong tâm hồn.
Thịnh vượng là một trong những ước nguyện đầu năm, giàu có sung túc là một ước muốn tốt đẹp và theo truyền thống của Kinh Thánh thì sự giàu sang còn là dấu chỉ sự chúc lành của Thiên Chúa, thế nhưng làm giàu bằng cách nào và sử dụng sự giàu sang Chúa ban như thế nào mới là điều quan trọng.
Bài Tin Mừng hôm nay chỉ cho chúng ta cách thế sống và vui hưởng những của cải Chúa ban đó là tin tưởng và phó thác tất cả cho Chúa: Đừng lo lắng cho ngày mai vì ngày mai sẽ lo cho ngày mai. Nói như thế không có nghĩa là chúng không lo lắng và không suy nghĩ đầu tư. Chúng ta không được phép ỷ nại vào sự quan phòng của Chúa để lười biếng, nhưng cũng đừng lo lắng đến quá mức về cái ăn cái mặc cho ngày mai, lo như kiểu của người không có niềm tin: Chúng ta sẽ ăn uống gì mặc gì? Trái lại chúng ta biết lo liệu và tin rằng Thiên Chúa là cha chúng ta Ngài biết những nhu cầu những ước muốn của chúng ta ngay trước khi chúng ta mở miệng cầu xin, và Ngài sẽ trợ giúp chúng ta, vì thế hãy sống thật tốt giây phút hiện tại của ngày hôm nay và vui hưởng những gì Chúa ban cho ngày hôm nay.
Thế nhưng Chúa vẫn lưy ý chúng ta rằng dù ăn gì, uống gì và làm gì thì cũng vẫn cần có một ưu tiên tuyệt đối đó là: Tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn các điều khác Chúa sẽ ban cho. Tìm Nước Thiên Chúa và sự công chính có nghĩa là lo tìm kiếm và làm giàu trước mặt Thiên Chúa, đừng chỉ làm giàu của cải vật chất nhà cửa xe cộ mà để mình nghèo nàn công phúc trước mặt Chúa. Nhiều người cầu nguyện đầu năm cho gia đình mình thịnh vượng vật chất, mà quên cầu xin cho mình và gia đình được giàu có thịnh vượng trước mặt Thiên Chúa, và không làm giàu trước mặt Thiên Chúa. Làm giàu trước mặt Thiên Chúa là làm nhiều việc lành và công phúc, việc lành ở đây chính là những việc tông đồ, bác ái, là công việc phục Chúa và phục vụ anh em, và còn là những việc hy sinh thầm lặng, là hy sinh tiền của thời giờ, sức khỏe cho Chúa; Công phúc trước mặt Chúa chính là sự bác ái, tình yêu thương giúp đỡ, sự chia sẻ cụ thể với những người bất hạnh, những người đang cần đến chúng ta. Vì chỉ những công việc cụ thể như thế mới làm cho chúng ta trở nên giàu có thịnh vượng trước mặt Thiên Chúa mà thôi.
Cầu chúc cho mọi người mọi gia đình một Năm Mới đầy tràn Bình an của Chúa và sự Thịnh vượng không chỉ của cải vật chất và là thịnh vượng, giàu có của cải thiêng liêng trước mặt Thiên Chúa, cầu chúc cho mọi gia đình luôn hạnh phúc vì có Chúa ở cùng. Amen.
67. Thánh lễ minh niên MỒNG MỘT TẾT Canh Tý--Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên
1. “Hãy có những vật sáng trên vòm trời và hãy phân chia ngày và đêm, và trở thành dấu chỉ thời gian, ngày và năm tháng, để soi sáng trên vòm trời và giãi sáng mặt đất” “Thiên Chúa thấy nó tốt đẹp.”
Bước vào đầu năm mới một câu hỏi tự nhiên đến với mỗi người chúng ta cùng sống trong một thời gian mà tại sao nó lại mang những ý nghĩa vô cùng khác biệt nơi người này và nơi người khác? Thời gian có thực sự là tốt đẹp như “Thiên Chúa thấy nó tốt đẹp” mà bài sách Sáng Thế vừa công bố? Trải qua giòng đời, người thì thấy nó quý báu đến nỗi phải tranh thủ từng giây phút, người thì lại thấy nó như là một gánh nặng đến nỗi mong nó mau chấm dứt.
Câu trả lời đến từ những suy nghĩ của chúng ta về SỰ SỐNG, và tùy theo ý nghĩa về sự sống mà thời gian có ý nghĩa thế nào.
Để cho sự sống, và đặc biệt là sự sống của con người xuất hiện trong vũ trụ, Thiên Chúa đã phải tạo dựng không gian, thời gian với sự hoàn mỹ thế nào để có thể làm cho SỰ SỐNG nên giống Hình Ảnh Ngài. Nói khác đi khi SỰ SỐNG không còn là Hình Ảnh Thiên Chúa ở những mức độ khác nhau thì nó cũng hủy hoại luôn sự tốt đẹp của không gian và thời gian ở những mức độ khác nhau. Và đó chính là điều chúng ta cảm nghiệm được ngày hôm nay, khi con người không chấp nhận Thiên Chúa trong lòng mình, thì họ cũng đang ra sức tàn phá môi trường sống của mình.
2. Để trả lại cho thời gian vẻ tốt đẹp ban đầu, Thiên Chúa đã phải sai CON MỘT Ngài sinh ra trong thời gian để như thánh Phaolô nói “giữ gìn lòng trí anh em trong Chúa Giêsu Kitô”, cũng là gìn giữ lòng trí chúng ta về SỰ SỐNG trong Chúa Giêsu. Bởi vì với Chúa Giêsu thì thời gian đã đi đến sự viên mãn như chính Người công bố "Thời giờ đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần đến; anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng" (Mc 1,15). Chính SỰ SỐNG của Chúa Giêsu là ý nghĩa, là ánh sáng cho thời gian một ý nghĩa tốt đẹp nhất, như Người đã tuyên bố: “Tôi là ánh sáng đến thế gian, để bất cứ ai tin vào tôi, thì không ở lại trong bóng tối”. Vì thế Thánh Phaolô mới nói “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi.” Nhưng điều này không thật dẽ dàng, vì vậy thánh Tông đồ mời gọi “Anh em đừng lo lắng gì hết, nhưng trong khi cầu nguyện, anh em hãy trình bày những ước vọng lên cùng Chúa, bằng kinh nguyện và lời cầu xin đi đôi với lời cảm tạ.”
3. Cầu nguyện để chúng ta không dùng thời gian để tìm kiếm những gì “dân ngoại tìm kiếm” nhưng “tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người”. Và đó là ý nghĩa đích thật của thời gian. Đức Ki-tô là hiện thân của nước Thiên Chúa. Đức Kitô đã đến. Người không những ở trong chúng ta mà còn ở giữa chúng ta nơi những người anh chị em sống chung quanh ta. Và hơn nữa, Người còn đồng hóa mình với những người nghèo nàn, bất hạnh. Vì vậy, chúng ta không thể chỉ tìm Chúa trong nhà thờ hay khi đọc kinh cầu nguyện mà còn phải tìm và phục vụ Người trong cuộc sống, nơi tha nhân, nhất là những người chúng ta có bổn phận và trách nhiệm. Chúng ta khát khao ước ao nước Cha hiển trị bởi vì đó là lẽ sống đích thực của chúng ta – sống trong nước tình yêu. Vì thế ý nghĩa thời gian của chúng ta còn phải là thời gian để xây dựng Giáo Xứ thành cộng đoàn của Đức Kitô vậy.
4. Xin cầu chúc quý Cha, Quý Thầy, Quý Soeurs và mọi gia đình anh chị em NĂM MỚI LUÔN TRÀN ĐẦY SỰ SỐNG CỦA ĐỨC KITÔ.
68. MỒNG MỘT TẾT Mt 6,25-34—Phó thác vào tình thương quan phòng của Thiên Chúa—Lm Đan Vinh
1. LỜI CHÚA: Chúa phán: “Vậy anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6,34).
2. CÂU CHUYỆN:
1) HỌA PHÚC KHÓ LƯỜNG:
Có một người đi biển, gặp cơn bão lớn, chìm tàu, anh may mắn sống còn và trôi dạt vào một hoang đảo. Muốn tồn tại, anh phải tự lo tất cả từ hai bàn tay trắng. Một cái nhà nhỏ trú mưa trú nắng, hàng rào chống thú dữ, tự làm quần áo che thân, tìm kiếm thức ăn. Khó nhất là lửa. Khó khăn lắm anh mới dùng đá đập vào nhau để có được lửa. Anh nuôi lửa cẩn thận, không để lửa tắt. Một đêm nọ, khi anh đi tìm săn tìm thức ăn về, thì anh thấy ngôi nhà của mình đã cháy rụi! Một cơn gió lốc làm ngọn lửa bùng lên và cháy rụi căn nhà anh. Bao nhiêu công khó gầy dựng cái “gia sản” tối thiểu để được sống còn bây giờ ra tro bụi! Anh ngửa mặt lên trời than trách sao Chúa lại có thể đối xử với anh tệ bạc đến thế!
Mệt mỏi và chán nản, anh ngủ thiếp đi trong đêm thảm họa ấy!
Bừng con mắt dậy, trong ánh nắng bình minh rực rỡ của ngày mới trên hoang đảo, anh chợt thấy một vết chấm to xa xa trên bờ biển. Nhìn kỹ, anh nhận ra đó là một con tàu.
“Chúng tôi đã thấy ngọn lửa làm hiệu của anh. Chúng tôi đến cứu giúp anh đây!”. Những người trên tàu đã tìm gặp anh và nói với anh như thế.
Anh chắp tay ngửa mặt lên trời, nghẹn ngào nói: “Tạ ơn Chúa! Xin tha thứ cho con!”
2) TÁI ÔNG THẤT MÃ, AN TRI HỌA PHÚC
Sách Hoài Nam Tử có ghi lại một câu chuyện dạy đời như sau:
Một ông lão ở gần biên giới giáp với nước Hồ phía Bắc nước Tàu, gần bên Trường thành có nuôi một con ngựa. Một hôm con của ông lão dẫn ngựa ra gần biên giới cho nó ăn cỏ, vì lơ đễnh nên con ngựa vọt chạy qua bên nước Hồ mất dạng. Những người trong xóm nghe tin đến chia buồn với ông lão. Ông lão bình tỉnh nói: “Các ông bà đừng lo cho tôi. Biết đâu con ngựa chạy mất kia sau này sẽ đem lại những điều tốt cho tôi”. Vài tháng sau, con ngựa chạy mất tự nhiên quay về nhà, dẫn theo một con ngựa của nước Hồ, cao lớn và mạnh mẽ. Người trong xóm hay tin liền đến chúc mừng ông lão và nhắc lại lời ông đã nói trước đó. Ông lão không tỏ vẻ vui mừng mà nói: “Ông bà đừng vội chia vui với tôi. Biết đâu việc được ngựa Hồ nầy về sau sẽ dẫn đến tai họa cho tôi”.
Quả nhiên con trai của ông lão rất thích cưỡi ngựa, thấy con ngựa Hồ cao lớn mạnh mẽ thì thích lắm, liền nhảy lên lưng cỡi nó chạy đi. Con ngựa Hồ chưa thuần nết, chưa quen người nên nhảy loạn lên, khiến đứa con trai ông lão bị ngựa Hồ hất xuống đất, bị gãy một xương đùi thành ra bị què chân mang cảnh tật nguyền. Người trong xóm vội đến chia buồn với ông lão vì không ngờ con ngựa không tốn tiền mua nầy lại gây ra tai họa cho con trai của ông như thế. Ông lão thản nhiên nói: “Xin các vị cũng đừng lo cho tôi, con tôi bị ngã gãy chân, tuy bất hạnh đó, nhưng biết đâu nhờ cái họa nầy mà về sau sẽ biến thành phúc đó”.
Một năm sau, nước Hồ kéo quân sang xâm lấn Trung nguyên. Các trai tráng trong vùng biên giới đều phải sung vào quân ngũ để ngăn chặn giặc Hồ. Quân Hồ thiện chiến, đánh tan đạo quân mới nhập ngũ và nhiều trai tráng đều bị tử trận, riêng con trai ông lão vì bị què chân được miền đi lính, nên còn sống sót.
3. THẢO LUẬN: 1) Qua câu chuyện “Tái ông thất mã, an tri họa phúc” nghĩa là: Lão ông mất ngựa, họa hay là phúc?, bạn suy nghĩ thế nào về các điều phúc họa trong cuộc sống của bạn? 2) Tin Mừng trong thánh lễ Mùng Một Tết hôm nay dạy thế nào về sự quan phòng của Thiên Chúa trước những điều may rủi gặp phải giữa đời thường?
4. SUY NIỆM:
1) Nội dung Tin Mừng ngày đầu Năm Mới:
Tin Mừng thánh lễ ngày đầu Năm Mới hôm nay, Đức Giê-su đã dạy môn đệ đừng quá lo lắng về đời sống cho bản thân nhưng phải tin cậy vào tình thương quan phòng của Thiên Chúa qua ba ví dụ cụ thể như sau:
Một là loài chim trời không gieo không gặt nhưng Cha trên trời vẫn nuôi sống chúng.
Về việc sống lâu thì dù lo lắng cũng không thể kéo dài đời mình thêm một vài gang tấc!
Về cơm ăn áo mặc: Như loài hoa huệ ngoài đồng không kéo sợi may mặc, thế mà Cha trên trời vẫn cho chúng mặc áo đẹp hơn long bào của vua Sa-lo-mon vinh hoa tột bậc.
Từ đó Đức Giê-su dạy các môn đệ phải biết phó thác cậy trông vào tình thương quan phòng của Thiên Chúa: Nếu loài chim trời chẳng đáng giá là bao, và loài hoa đồng nội chỉ sớm nở tối tàn mà Cha trên trời còn chăm sóc cho như thế, phương chi con cái loài người chúng ta còn đáng giá hơn muôn phần lại không được Thiên Chúa quan phòng gìn giữ sao? Và Đức Giê-su kết luận: "Vậy đừng quá lo lắng về ngày mai. Ngày mai cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày đó".
2) Phân biệt lo liệu với lo lắng:
“Đừng quá lo lắng” không có nghĩa là “không cần lo liệu”. Người biết lo liệu là người khôn ngoan. Tùy sự tính toán lo liệu mà người ta có thể thấy mức độ khôn ngoan của một người. Chúa phán: “Quả thế, ai trong anh em muốn xây một cái tháp, mà trước tiên lại không ngồi xuống tính toán phí tổn, xem mình có đủ để hoàn thành không? Kẻo lỡ ra, đặt móng rồi mà không có khả năng làm xong, thì mọi người thấy vậy sẽ lên tiếng chê cười mà bảo: ‘Anh ta đã khởi công xây, mà chẳng có sức làm cho xong việc’. Hoặc có vua nào đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên lại không ngồi xuống bàn tính xem mình có thể đem một vạn quân ra, đương đầu với đối phương dẫn hai vạn quân tiến đánh mình chăng? Nếu không đủ sức, thì khi đối phương còn ở xa, ắt nhà vua đã phải sai sứ đi cầu hòa”. (Lc.14,28).
Biết lo liệu không chỉ để làm tốt công việc thường nhật, mà còn thăng tiến trong Đức Tin, trong đàng Nhân Đức. Đó không chỉ là nỗ lực bình thường của con người mà còn là ơn Chúa Thánh Thần. như lời cầu xin ơn Thánh Thần trong lễ ban phwps Thêm Sức:
“Lạy Chúa, xin ban Chúa Thánh Thần, Đấng an ủi đến trong những người này. Xin ban cho nhứng người này thần trí khôn ngoan và thông hiểu; thần trí lo liệu và sức mạnh; thần trí suy biết và đạo đức; xin ban cho người này đầy ơn kính sợ Chúa. Nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con”
3) Phải tránh thói ỷ lại lười biếng và vô trách nhiệm:
Chim trời tuy không phải vất vả gieo gặt như loài người, nhưng chúng cũng phải bay đi đó đây để tìm mồi. Hoa huệ ngoài đồng tuy không phải dệt may nhưng cũng phải đâm rễ tìm chất bổ dưỡng. Đàng khác chính Đức Giê-su đã nói: "Ngày nào có cái khổ của ngày ấy" (Mt 6,34).
Không những Đức Giê-su không muốn chúng ta rơi vào thói hư lười biếng vô trách nhiệm, mà còn muốn ta phải chịu khó làm việc để góp phần làm cho môi trường mình đang sống ngày một an toàn sạch đẹp hơn, cho thế giới này ngày một hoàn thiện hơn. Ngay từ khi dựng nên loài người, Thiên Chúa đã ra lệnh cho họ phải canh tác trái đất và làm chủ vạn vật. Trong dụ ngôn về những nén bạc (x. Mt 25,15-25), Đức Giê-su đã đòi mỗi đầy tớ phải làm lợi cho chủ gấp đôi các nén bạc được trao, chứ không được mang đi chôn giấu. Như vậy, chúng ta có bổn phận phải lo lắng, tiên liệu cho tương lai. Điều Chúa không chấp nhận là quá lo lắng về vật chất, coi nó là cùng đích đời mình.
4) Tiên vàn phải lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa:
Người môn đệ Đức Giê-su phải coi trọng Nước Thiên Chúa. Những điều khác cũng cần phải quan tâm, nhưng không được coi chúng hơn Nước Thiên Chúa. Người ta thường coi tiền bạc vật chất là số một và có khả năng giải quyết được mọi vấn đề của con người. Nhưng thực tế chứng minh suy nghĩ ấy thật sai lầm. Thực ra tiền bạc của cải là phương tiện cần để giúp con người có đời sống tốt hơn như người ta thường nói: “Phú quý sinh lễ nghĩa, bần cùng sinh đạo tặc”. Nhưng của cải tự nó không mang lại hạnh phúc. Nó chỉ tốt khi chúng ta biết dùng nó như phương tiện, như đầy tớ của chúng ta. Nhưng tên đầy tớ tiền bạc này lại rất có uy, rất dễ tự coi mình là ông chủ lúc nào không hay. Khi nó đã nắm quyền làm chủ, nó sẽ bắt chúng ta là đầy tớ phải phụng sự nó với bất cứ giá nào.
Ưu tiên tìm nước Thiên Chúa là phải chịu khó làm việc với hết khả năng, tìm kiếm đối sách và nhìn xa trông rộng để giải quyết các vấn đề mới phát sinh theo khả năng của mình. Cần tránh thái độ ỷ lại vào tình thương và quyền năng của Thiên Chúa. Khi gặp sự khó, chúng ta tránh thụ động, nhưng phải biết chủ động xin ơn Thánh thần soi sáng để tìm ra cách giải quyết theo gương mẫu và lời dạy của Đức Giê-su trong Tin Mừng. Cần thực hành lời người xưa dạy: “Hãy làm hết sức mình, rồi trời sẽ giúp”, hoặc: “Hãy thắp sáng lên ngọn đèn, chứ đừng ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối”.
5. LỜI CẦU:
Lạy Chúa Giê-su. Hôm nay Chúa đã dạy chúng con phải biết ưu tiên tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính, còn những thứ khác như ăn gì mặc gì, thì phó thác vào tình thương quan phòng của Chúa Cha trên trời. Xin cho chúng con ý thức rằng: “Đồng tiền chính là đầy tớ tốt nhưng lại là ông chủ xấu”. Nhờ biết sử dụng đồng tiền phụng sự cho Nước Chúa và phục vụ tha nhân, mà chúng con sẽ có bình an nội tâm và sẽ nên chứng nhân của Chúa trước mặt người đời, góp phần xây dựng một thế giới mới là Nước Trời đời sau.- AMEN.
69. GIAO THỪA Lời Chúc Hạnh Phúc Đầu Xuân: Tám mối phúc thật—Lm Đan Vinh
1. LỜI CHÚA: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,3)
2. CÂU CHUYỆN:
1) HẠNH PHÚC ĐÒI TA LUÔN PHẤN ĐẤU:
Vào một buổi sáng đẹp trời, chú cún con chạy đến bên mẹ và hỏi:
– Mẹ ơi, hạnh phúc ở đâu?
Mẹ cún con mỉm cười đáp:
– Hạnh phúc nằm ở chiếc đuôi xinh xắn của con đó!
Cún con thích lắm, ngày nào chú cũng ngắm nghía chiếc đuôi của mình, vừa nhảy vừa vẫy vẫy chiếc đuôi! Nhưng rồi bỗng một hôm, chú cún con buồn bã chạy đến bên mẹ:
– Mẹ ơi, tại sao con chẳng bao giờ nắm giữ được hạnh phúc vậy?
Mẹ khẽ vuốt ve cún con và đáp:
– Chỉ cần con tự tin bước về phía trước, hạnh phúc sẽ tự đi theo con thôi!!!
2) HẠNH PHÚC Ở TRONG LÒNG CHÚNG TA:
Ngày xưa, có một bầy yêu tinh tập hợp lại với nhau để lên kế hoạch làm hại con người. Một con yêu tinh lên tiếng: “Chúng ta nên giấu cái gì quý giá của con người. Nhưng mà cái đó là cái gì?”
Một con yêu tinh khác lên tiếng: “Chúng ta nên giấu hạnh phúc của con người. Không có nó, ngày đêm con người sẽ phải khổ sở. Nhưng vấn đề là chúng ta sẽ giấu hạnh phúc nơi nào mà con người không thể tìm thấy được.”
Một con yêu tinh cho ý kiến: “Chúng ta sẽ quẳng hạnh phúc lên đỉnh núi cao nhất thế giới.”
Con yêu tinh khác phản đối: “Con người rất khỏe mạnh, chuyện trèo lên đỉnh núi đối với họ không có gì khó khăn.”
“Vậy thì chúng ta sẽ đem hạnh phúc ném xuống đáy biển sâu.”
“Không được, con người rất tò mò. Họ sẽ chế tạo ra những con tàu hiện đại để đi xuống tận đáy biển. Rồi tất cả mọi người sẽ biết.”
Một con yêu tinh trẻ có ý kiến: “Hay là chúng ta đem giấu hạnh phúc ở một hành tinh khác.”
Con yêu tinh già phản đối: “Không được, con người rất thông minh. Càng ngày họ càng thám hiểm nhiều hành tinh khác đấy thôi.”
Suy nghĩ hồi lâu, có một con yêu tinh già lụ khụ lên tiếng: “Tôi biết phải giấu hạnh phúc ở đâu rồi. Hãy giấu nó ở chính bên trong con người. Đa số con người đi tìm hạnh phúc ở khắp chốn, khắp nơi và bao giờ họ cũng thấy người khác hạnh phúc hơn mình. Bản thân họ thì chẳng bao giờ quan tâm. Giấu nó ở đó thì con người không bao giờ tìm thấy!!!”
Tất cả các con yêu tinh đều đồng ý. Và kể từ đó, rất nhiều người mãi miết kiếm tìm hạnh phúc ở những nơi nào khác mà không biết rằng nó đang nằm ngay trong lòng mình.
3) NGƯỜI GIÀU CŨNG KHÓC:
PAUL GETTY là ông chủ một hãng dầu lớn nhất tại Anh Quốc. Khu đất ông ở rộng bốn mươi mẫu tây. Tài sản của ông trị giá hàng tỷ mỹ kim. Thế mà mỗi ngày ông đều phải thức dậy làm việc từ lúc ba giờ sáng. Chung quanh ông lúc nào cũng có tới mười người cảnh sát bảo vệ. Mỗi ngày, ông nhận được hàng trăm cú điện thoại và những lời đe dọa ám sát… Ông đã phải thốt lên rằng: “Tôi là người đau khổ nhất và chẳng bao giờ cảm nghiệm được thế nào là hạnh phúc!”.
3. THẢO LUẬN: 1) Hạnh phúc thực sự là gì? 2) Làm thế nào để đạt được hạnh phúc thực sự trong cuộc sống hiện tại và mai sau?
4. SUY NIỆM:
Năm cũ sắp qua nhường chỗ cho năm mới đang tới. Trong dịp này, chúng ta thường chúc cho nhau những điều tốt đẹp. Chẳng hạn: Chúc cho đông con nhiều cháu, phát tài phát lộc, khỏe mạnh sống lâu… Những lời cầu chúc thường qui về ba chữ: Phúc, Lộc, Thọ. Tóm lại là chúc nhau được hạnh phúc trong Năm Mới. Nhưng thế nào là hạnh phúc thực sự?
1) Hạnh phúc là gì?
Hạnh phúc là tình trạng thỏa mãn khi đạt được những điều mong ước mà người đời thường mong ước như Phúc, Lộc và Thọ. Tuy nhiên không nhất thiết cứ có đông con nhiều cháu, cứ sở hữu nhiều nhà cửa tiền bạc, chức cao quyền trọng hoặc được sống lâu trăm tuổi là đương nhiên có hạnh phúc… Vì lòng tham con người vô đáy như người đời thường nói: “Được voi đòi tiên”, “Đứng núi này trông núi nọ”…
Người ta cũng thường chúc nhau khỏe mạnh. Nhưng khỏe mạnh vẫn chưa phải là thứ hạnh phúc thực sự. Vì nếu sức khỏe là hạnh phúc, thì chắc hẳn những nhà lực sĩ sẽ là người hạnh phúc nhất. Thế nhưng, không phải vậy. Bởi vì có những người dù đau yếu, sức khỏe èo uột, thế mà nụ cười vẫn tươi nở trên môi, đang khi những nhà vô địch Ô-lim-pic sức khỏe vô địch lại thường âu lo có ngày sẽ bị soán ngôi vô địch như người ta thường nói: “Cao nhân tất hữu cao nhân trị”.
Rất nhiều người đã mong ước kiếm nhiều tiền để được sống an nhàn như người ta thường nói: “Có tiền mua tiên cũng được: Đồng tiền là Tiên là Phật; Là sức bật của tuổi trẻ; Là sức khỏe của tuổi già; Là cái đà của danh vọng; Là cái lọng để che thân; Là cán cân của công lý; Là triết lý của cuộc đời”… Nhưng thực ra “Người giàu cũng khóc!” Biết bao gia đình nông dân việt Nam đang sống vất vả trên mảnh đất ruộng nhưng gia đình hạnh phúc. Rồi đột nhiên có dự án làm đường đi qua khu đất nhà của họ, biến đất ruộng trở nên quý giá “Tấc đất tấc vàng”, tiền bạc rủng rỉnh. Nhưng từ khi bán đất lấy tiền lấy vàng, gia đình được ở nhà cao cửa rộng, có đủ xe máy xịn, tivi màu, máy lạnh máy giặt… nhưng gia đình con cái bỏ học ăn chơi sa đà vào nghiện hút xì-ke ma túy, vợ ngày ngày chơi đề, chồng thì nhậu nhẹt vợ nọ con kia… gia đình xào xáo dẫn đến chỗ ly hôn và bất hạnh.
2) Hạnh phúc thực sự do đâu?
Hạnh phúc thật sự không nhất thiết do tiền bạc, chức quyền, sắc đẹp, sức khỏe… dù rằng những điều đó đều là ưu điểm có thể mang lại cho chúng ta niềm vui trong một lúc nào đó. Vậy hạnh phúc đích thật ở đâu?
Thực ra: Con người chúng ta không những gồm thân xác mà còn có linh hồn nữa. Cơm áo gạo tiền hay tiền bạc vật chất, địa vị chức quyền, sắc đẹp, tài năng, sức khỏe, sống lâu… chỉ đáp ứng được những nhu cầu về thể xác bên ngoài và không bền lâu, nên đã không thực sự mang lại hạnh phúc. Điều quan trọng để có hạnh phúc là một tâm hồn bình an và nhiều niềm vui như Đức Ma-ri-a, sau khi được bà chị Ê-li-sa-bét khen là người có phúc, đã dâng lời ca tụng Thiên Chúa như sau: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa. Thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi” (Lc 1,46-47).
Dù thân xác chúng ta có gặp những tai nạn rủi ro và những điều trái ý, nhưng người có đức tin vẫn luôn phó thác vào Thiên Chúa và gặp được niềm vui hạnh phúc trong sự nhẫn nhịn chịu đựng tha nhân, quảng đại tha thứ cho những kẻ thù ghét bách hại mình, như Phó tế Tê-pha-nô khi bị kết án ném đá sắp chết, vẫn mở miệng cầu xin Chúa: “Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này” (Cv 7,60), hoặc như Đức Giê-su khi bị treo trên thập giá sắp chết cầu xin với Chúa Cha: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34).
Như thế, hạnh phúc phải bắt nguồn từ Thiên Chúa là nguồn mạch mang lại hạnh phúc đích thực. Nơi nào có Chúa hiện diện thì nơi ấy sẽ có bình an hạnh phúc như Người đã hứa: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi. Tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28-29).
3) Cho thì có phúc hơn là nhận (Cv 20,35):
Trong một buổi hội thảo về hạnh phúc gồm 50 người tham dự. Diễn giả khởi đầu bằng một hoạt động tập thể. Ông đưa cho mỗi người một quả bóng và yêu cầu họ viết tên của mình lên trái bóng bằng chiếc bút lông. Sau đó, số bóng được thu hết lại trong giỏ rồi được đưa sang một phòng khác.
Rồi 50 người này lại được tập trung sang phòng chứa bóng và được yêu cầu hãy tìm quả bóng có ghi tên mình trong thời hạn 5 phút. Mọi người đều lao vào giỏ xô đẩy nhau để tìm kiếm quả bóng tên mình và căn phòng trở nên hỗn loạn, khi hết 5 phút mà ít có người tìm được quả bóng tên mình.
Sau đó, vị diễn giả lại yêu cầu mỗi người tự nhặt lên một quả bóng bất kỳ rồi tìm chuyển cho người có tên ghi trên bóng. Chỉ trong vòng 5 phút, ai nấy đều đã có được quả bóng tên mình.
Lúc này, vị diễn giả mới dẫn vào đề tài về hạnh phúc: Trong cuộc sống, mỗi người đều hối hả đi tìm hạnh phúc của mình, nhưng thực ra lại không biết chúng nằm ở đâu.
Hạnh phúc của chúng ta nằm xen lẫn với hạnh phúc của người khác. Hãy tìm cách làm cho người xung quanh có được hạnh phúc của họ, rồi chúng ta cũng sẽ được người khác mang lại hạnh phúc cho ta. Cũng như câu chuyện trên cho thấy: khi náo loạn đi tìm bóng thì sẽ không tìm thấy. Còn khi mỗi người cầm bóng trao cho kẻ khác thì chính họ cũng sẽ được người khác trao quả bóng hạnh phúc cho mình. Hãy cứ cho đi rồi sẽ được nhận lại: “Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy” (Lc 6,38).
4) Phương thế để được hạnh phúc thực sự là sống Tám Mối Phúc:
Hạnh phúc không ở đâu xa, nó luôn ở bên cạnh mình hoặc ở trong lòng mình. Có điều chúng ta quên điều này nên cứ đi tìm hạnh phúc ở nơi đâu khác và cuối cùng đành chịu mất nó.
Để luôn có hạnh phúc nghĩa là có Chúa ở cùng, là luôn có tình yêu của Chúa trong lòng, thì chúng ta phải thực hành Tám Mối Phúc bằng cách quên mình vị tha, ứng xử công bình nhân ái, như lời Chúa dạy trong Tin Mừng hôm nay: Sống khiêm hạ nghèo khó, luôn ăn ở hiền lành, chấp nhận đi con đường hẹp: “qua đau khổ vào trong vinh quang”, luôn khát khao nên người công chính, biết chạnh thương những kẻ bất hạnh, có tâm hồn trong sạch, luôn ăn ở thuận hòa, sẵn sàng chịu bách hại vì sống công chính, chấp nhận bị sỉ nhục vì danh Chúa…
Niềm hạnh phúc luôn có Chúa ở cùng, cũng chính là hạnh phúc mà chúng ta cần phải cầu chúc cho nhau trong giờ phút đón Giao Thừa và trong Năm Mới này. Dù chúng ta ít nhiều vẫn còn chịu đau khổ và gặp những điều trái ý, nhưng nếu thực sự có Chúa ở cùng, chắc chắn chúng ta vẫn cảm thấy vui mừng và hy vọng, bình an và hạnh phúc như thánh Phao-lô đã chia sẻ: “Tâm hồn tôi chứa chan niềm an ủi và tràn ngập nỗi vui mừng trong mọi cơn gian nan khốn khó” (2 Cr 7,4b).
5. LỜI CẦU:
Lạy Chúa Giê-su. Xin cho chúng con quyết tâm thực thi tinh thần Tám Mối Phúc của Chúa trong Tin Mừng hôm nay, thể hiện qua cách suy nghĩ, nói năng và cách ứng xử khiêm tốn, vị tha, luôn nhẫn nhịn chịu đựng, từ bi nhân hậu, sẵn sàng tha thứ cho tha nhân noi gương Chúa khi xưa, để tâm hồn chúng con luôn được bình an, lạc quan vui vẻ từ giờ phút đón Giao Thừa này, như dấu chỉ chúng con sẽ được an bình hạnh phúc trong suốt năm nay và hạnh phúc ấy sẽ kéo dài mãi ở đời sau.- AMEN.
70. Năm mới đường hướng mới--Lm. Phêrô Trần Thanh Sơn
Vạn vật đều có cội nguồn, xuất xứ của nó, có bắt đầu phải có kết thúc. Thời gian cũng vậy, nó là thước đo của sự hao mòn, hủy diệt. Với quan niệm Á đông “Đầu xuôi đuôi lọt”, nên những ngày đầu năm là những ngày hệ trọng, được lưu ý nhiều nhất. Vì nó tiêu biễu cho 365 ngày sau đó, nếu những ngày đầu năm -nhất là ngày Tết- gặp may mắn, xuông sẻ thì cả năm sẽ tốt đẹp. Chuẩn bị cho năm mới Giáp Thân này, chúng ta cùng chia sẻ với nhau cảm nghiệm về tương quan giữa tạo vật và tạo hóa cùng tìm kiếm phương hướng thích hợp cho năm mới này.
Mùa xuân về báo hiệu năm cũ sắp qua đi. Năm mới đến thế nào cũng kéo theo những thay đổi, những thách đố mới cho từng cá nhân, gia đình… Với người Kitô hữu, mỗi mùa xuân đến không phải là biến cố nhắc nhớ mình già thêm một tuổi, nhưng là mỗi cột mốc đánh dấu một bước tiến chúng ta đến gần ‘quê hương thật’ hơn. Những ngày đầu năm là thời điểm để chúng ta hoạch định, lên chương trình cho cả một năm. Nhiều khi chúng ta tự hỏi, tại sao với kế hoạch rất bài bản, tinh vi, thế mà chúng ta vẫn thất bại, nhiều phen chán nản, tuyệt vọng. Phải chăng Thiên Chúa đã bỏ rơi con cái Ngài!
Chúng ta nghi oan cho Thiên Chúa rồi đó, sở dĩ chúng ta thất bại vì chúng ta “dốt”, chúng ta tự mãn với kiến thức sẵn có để lên kế hoạch thật hay, và tin tưởng nó sẽ thành công. Chúng ta quên rằng Thiên Chúa vừa là nhà kế hoạch tài ba, lỗi lạc nhất, vừa là kẻ duy nhất quyết định mọi kế hoạch của nhân loại thành công hay thất bại, Thí dụ đơn giản: chúng ta cần nhất là sự sống, Ngài là kẻ ban sự sống, đồng thời là sự sống cho mỗi người, tại vì chúng ta kiêu ngạo, vô ơn nên không tìm đến Ngài, mặc dù Ngài luôn có sẵn kế hoạch cho bạn, tôi, và mọi người, chỉ cần chúng ta biết triển khai chi tiết, hợp tác cùng Ngài, rồi mọi sự sẽ tốt đẹp.
Thiên Chúa biết chúng ta loay hoay kiếm tìm những nhu cầu ở thế gian mà chúng ta gọi là hạnh phúc. Ngài đã trả lời một cách giản dị, dứt khoát trong bài Tin Mừng hôm nay, thế nhưng chúng ta nhận không ra: “Tiên vàn hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn tất cả những thứ kia Người sẽ thêm cho…”. Rõ ràng Ngài dạy rằng hạnh phúc không phải là đối tượng chính để chúng tìm kiếm; hạnh phúc sẽ đến vì nó là kết quả tất yếu, phát xuất từ yếu tố thứ nhất, tự nó sẽ đến, đừng tìm nó. Nói cách khác sẽ không bao giờ có hạnh phúc nếu điều kiện thứ nhất -tìm kiếm nước Thiên Chúa- chưa bắt đầu thực hiện. Như thế, biết bao nhiêu lần trong đời, chúng ta thất bại -dù kế hoạch thật ưng ý-, chúng ta đừng hỏi tại sao.
Một điểm nữa đó là chúng ta được dựng nên không phải cho bất cứ tạo vật nào, nhưng tất cả mọi tạo vật được dựng nên cho con người sử dụng, phục vụ con người, nó là phương tiện để chúng ta có thể đạt đến đích điểm của cuộc đời, chứ nó không phải là đích điểm. Cái mê muội của con người là chỉ tìm kiếm phương tiện, lầm tưởng phương tiện với cứu cánh. Trong năm mới này, xin nêu lên ba điểm như là yếu tố, phương hướng mới để hoạt động.
Thứ nhất: Nhiều lần trong Phúc Âm, Chúa nhắc nhở chúng ta chớ áy náy, lo lắng về những nhu cầu cho sự sống ở đời này, vì nó có thể cướp mất sự vui sống, làm mất ngủ triền miên, hủy hoại lần hồi thể xác và tinh thần của chúng ta. Vậy muốn thoát khỏi sự ngu dốt nêu trên -do tội nguyên tổ-, cũng như đáp trả tình yêu vô biên Thiên Chúa dành cho nhân loại: chúng ta hãy đặt hết tin tưởng vào Thiên Chúa Ba Ngôi, một cách tuyệt đối, không điều kiện; biết phó thác triệt để vào Đức Trinh nữ Maria -Đấng trung gian quyền thế-, là một bảo đảm chắc chắn cho hạnh phúc mỗi người bây giờ và mãi mãi.
Thứ hai: Không ai biết được điều gì sẽ xảy ra trong năm mới này, có người được nhiều may mắn, thành đạt, có kẻ đau ốm buồn phiền, người khác ra đi vĩnh viễn…, là con cái Chúa chúng ta xin chấp nhận tất cả, vì tin rằng mọi sự đều nằm trong kế hoạch từ ngàn đời của Thiên Chúa. Chúa đã dạy: “Ngày nào có sự khốn khó của ngày ấy”, vì chính Chúa Kitô không bao giờ tách rời khỏi thập giá, điều này minh chứng vinh quang luôn gắn liền với đau khổ. Là con cái, môn đệ Ngài làm sao chúng ta thoát khỏi! Nhiều khi chúng ta cầu xin mà không được Chúa nhậm lời, cảm thấy bị hụt hẫng! Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi tạo vật của Ngài, Ngài không muốn một ai hư mất -đó là điều chắc chắn-, khi Ngài nhìn một tạo vật, Ngài thấy hết một trật: quá khứ, hiện tại và tương lai của tạo vật đó. Bởi vậy khi Ngài giải quyết là Ngài nhắm đến cái chung cuộc, cái lợi ích sau cùng, chứ không phải chỉ riêng cho hiện tại, bởi vậy nhiều khi chúng ta không nhận ra, không hiểu, nên oán trách Ngài!
Thứ ba: Thời gian là món quà vô cùng quí giá của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Ngài không chỉ là Đấng tạo nên thời gian, nhưng còn là Đấng làm chủ, quản lý, điều khiển thời gian. Cũng như Ngài đã đi vào thế gian để điều khiển, chi phối lịch sữ nhân loại, thời gian thật sự có ý nghĩa kể từ khi Ngôi Lời Nhập Thể. Bởi vậy thời gian hết sức quý báu, chúng ta đừng lãng phí nó, hãy quan niệm rằng thời gian quá ngắn ngủi, nên dành thời gian còn lại cho Thiên Chúa.
Tóm lại, năm mới bắt đầu cho một chu kỳ mới, ước gì trong năm Giáp Thân này, chúng ta cùng bước đi bằng những bước chân mới mẻ, bằng cái nhìn đổi khác, đầy lạc quan, hoan hỷ, hy vọng tiến về “Đất Hứa”, nơi có Đấng Cứu Độ đang chờ. Bao lâu ta chưa đến được bến bờ Thiên quốc, Chúa Kitô vẫn còn vẫy gọi ta. Cứ tín thác tuyệt đối, triệt để vào Thiên Chúa, để Ngài điều khiển cuộc đời và kế hoạch của ta, bám chặt vào Mẹ Ngài là Đấng bầu cử thần thế, ban phát ân sủng; cứ chấp nhận những nhọc nhằn, khốn khổ ở đời, vì sự đau khổ đã được Chúa Kitô thánh hóa trên thập giá; đừng lãng phí thời gian một cách vô ích, vì thời gian là của Chúa. Chắc chắn chúng ta sẽ đi đúng hướng mà Thiên Chúa muốn. Chỉ có Thiên Chúa mới ban bình an và hạnh phúc cho nhân loại. Để kết thúc, tôi xin mượn Thánh vịnh 127, 1-2 sau đây:
“Ví như Chúa chẳng xây nhà,
thợ nề vất vả cũng là uổng công.
Thành kia mà Chúa không phòng giữ,
uổng công người trấn thủ canh đêm.
Bạn có thức khua hay dậy sớm,
khó nhọc làm ăn cũng hoài công.
Còn kẻ Chúa thương dầu có ngủ,
Người vẫn ban cho đủ tiêu dùng”.
71. Chúa quan phòng--Lm. Giuse Nguyễn Văn Khánh
Người ta hay kể câu chuyện sau đây để nói về sự quan phòng của Thiên Chúa:
Có hai người bộ hành đi lên đường đi đến một phương xa. Họ dùng một con lừa để chuyên chở hành lý, và mang theo một chú gà cồ làm bạn. Ban đêm đến họ đốt đuốc để soi đường.
Một trong hai người là một tín hữu rất đạo đức, luôn miệng nói: “Chúa là Ðấng tốt lành quan phòng mọi sự”. Người kia thì rất cứng lòng tin. Ông rất bực mình mỗi khi nghe người bạn đồng hành hơi một tí là cầu nguyện “phó thác cho Chúa lòng lành”.Trước khi mặt trời lặn, họ đến một ngôi làng nhỏ. Họ tìm một nơi để qua đêm. Họ gõ cửa khắp nơi, nhưng không có ai đón tiếp họ. Cuối cùng họ đành phải ra khỏi làng và tìm đến bìa rừng để qua đêm. Trong cảnh màn trời chiếu đất, người bạn không có lòng tin mới thốt lên: “Nào, Chúa tốt lành của anh ở đâu rồi?”. Người kia bình tĩnh đáp lại: “Ðây là chỗ tốt nhất Chúa dành cho chúng ta ngủ qua đêm này”.
Ðêm đó, họ nằm ngủ dưới một gốc cây lớn nằm sát bìa rừng. Họ cột chú lừa vào một gốc cây gần đó. Họ chưa kịp đốt lên ngọn đuốc thì một tiếng động mạnh từ xa vang lại. Thì ra, chỉ trong chớp nhoáng, một chú sư tử đã đến cắn xé con lừa và mang đi. Vừa thương tiếc cho chú lừa, vừa lo sợ cho thân phận của mình, hai người bộ hành chỉ còn biết leo lên cây để tránh tai họa.Vừa tức giận, vừa mỉa mai, người bạn cứng lòng mới thốt lên: “Nào, Chúa quan phòng của anh còn tốt nữa không?”. Người tín hữu ngoan đạo dõng dạc tuyên bố: “Nếu con sư tử không bắt gặp con lừa trước, thì chắc chắn nó đã bổ nhào trên chúng ta rồi. Tạ ơn Chúa là Ðấng tốt lành”.
Một vài phút sau, con gà cồ bỗng kêu la thất thanh. Hai người bộ hành mới trèo cao hơn. Họ nhận ra con gà cồ đang nằm trong nanh vuốt của một chú mèo rừng. Họa vô đơn chí! Chỉ vài phút sau đó, một cơn gió mạnh ùa đến, ngọn đuốc bỗng tắt ngụm đưa hai người vào trong cảnh tối tăm ghê rợn. Lần này, người tín hữu ngoan đạo chỉ biết giữ thinh lặng trước lời xiên xỏ của người bạn không tin Chúa của mình.
Sáng hôm sau, hai người mon men trở lại làng để mua thức ăn. Họ mới hay biết rằng đêm hôm đó một băng cướp đã đột nhập vào làng cướp của giết người. Nhìn cảnh tượng hoang tàn của ngôi làng, người có lòng tin mới giải thích cho người bạn như sau: “Anh đã chứng kiến từ đầu đến cuối. Giá như đêm hôm qua, chúng ta thuê được một chỗ trọ trong làng, thì có lẽ chúng ta cũng không thoát khỏi tay của bọn cướp. Nếu cơn gió lớn không làm tắt ngọn đuốc của chúng ta, thì hẳn bọn chúng đã nhìn thấy chúng ta. Bạn thấy chưa, trong tất cả mọi sự, Thiên Chúa luôn là Ðấng quan phòng tuyệt hảo”.
Thiên Chúa không muốn cho chúng ta gặp phải sự dữ. Trong Cựu ước sự kiện thiên thần Raphael phù hộ cho ông Tobia trên đường đi cưới vợ, hay là Thiên Chúa có thể biến sự dữ thành điều lành cho chúng ta như trường hợp ông Giuse bị bán sang Ai Cập,tất cả nói lên sự quan phòng của Thiên Chúa. Chúa Giêsu dùng hình ảnh con chim sẻ chẳng đáng mấy đồng hay bông huệ ngoài đồng nay còn mai mất mà vẫn được Thiên Chúa chăm sóc, huống hồ là con người chúng ta…
– Ngày đầu năm mới,người ta thường cầu chúc cho nhau mạnh khỏe,bằng an, hạnh phúc… Những gì người ta đã có thì không cần chúc nữa. Vậy thì khi cầu chúc cho người khác điều gì là cũng hàm chứa một chút lo lắng trong đó. Chúng ta lo ngại người thân có thể gặp rắc rối vì bệnh tật nên mới chúc “mạnh khỏe”. Vì chưa giàu đủ nên mới chúc “Phát tài”, sợ tai nạn hay chuyện này chuyện nọ xảy ra nên mới chúc “bình an”. Mỗi lời chúc đều hàm chứa một phần sự thiện mà chúng ta ao ước và đồng thời cũng hàm chứa một “nỗi lo”. Tuy nhiên lời Chúa hôm nay lại là tin vui cho chúng ta. Bởi vì Chúa Giêsu cho chúng ta biết chúng ta có một người Cha là Thiên Chúa rất quyền năng mà lại nhân lành luôn quan tâm đến mỗi người đến độ một sợi tóc trên đầu rụng xuống Chúa cũng tính cả rồi. Như vậy thì chăng việc gì phải lo những chuyện không đâu,như là lo động đất,lo thiên thạch lao vào trái đất, lo tận thế…
– Chớ lo lắng về ngày mai không có nghĩa là cứ nằm chờ sung rụng. Các nhà tu đức dạy rằng: Cầu nguyện mà không hành động là sự xúc phạm đến Thiên Chúa.Cũng như một người bị bệnh cầu xin Chúa chữa cho mình mà không thèm sử dụng những phương thế y học mà Thiên Chúa đã ban cho con người khám phá ra…
– Tin vào Chúa quan phòng, chúng ta yên tâm mạnh dạn sắp xếp chương trình sống cho gia đình của mình trong đó ưu tiên cho việc kiếm tìm Nước Thiên Chúa. Ưu tiên cho việc cầu nguyện và các việc đạo đức thay vì dành hết tất cả thời gian cho công việc làm ăn mà thôi. Ưu tiên cho việc kiếm tìm Nước Thiên Chúa cũng có nghĩa là chúng ta phải dám hy sinh chấp nhận một phần thiệt thòi nào đó về vật chất, dành một phần kinh phí cho việc đạo thay vì sợ tốn tiền xăng rồi không dám đi lễ…
Để kết thúc, chúng ta tin tưởng nhắc lại lời Đức Giáo Hoàng Benedicto XVI trong phần mở đầu sứ điệp Hòa Bình: “Năm mới luôn mang lại cho chúng ta niềm hy vọng về một thế giới tốt đẹp hơn. Trong ánh sáng này, tôi nguyện xin Thiên Chúa, là Cha của nhân loại, ban cho tất cả chúng ta sự hoà thuận và bình an để những khao khát của chúng ta về một đời sống hạnh phúc và thịnh vượng có thể được thành tựu.”
72. MÙNG MỘT TẾT 2021—Mùa xuân là mùa của hy vọng--Lm. Giuse Nguyễn Văn Thành
Mùa xuân lại về trên quê hương đất nước chúng ta. Người người náo nức. Chúng ta thường chúc nhau những lời tốt đẹp nhất.
Theo qui luật của Tạo hóa, thời tiết thay đổi nối tiếp nhau theo một chu kỳ: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Mùa nào mang tính độc đáo của mùa ấy, nhưng Xuân vẫn được gọi là mùa của sự đâm chồi nảy lộc, mùa hoa đua nở, cảnh khoe sắc, bởi thời tiết ấm áp hơn. Phong cảnh xinh tươi báo hiệu sức sống dồi dào. Xuân cũng báo hiệu nhiều niềm vui, nhất là các bạn trẻ.
Xuân nào xuân tuổi nhỏ
Trong trắng ấy xuân ơi.
Hầu như tất cả các nước trên thế giới đón mừng năm mới, vào ngày mồng một của tháng đầu năm. Riêng Việt Nam và những nước Châu Á đón Tết theo giờ, ngày của lịch Can Chi năm đó. Lịch Can Chi là Nhân lịch. Sự vận động của thời gian tương ứng với các vị trí không gian trong vũ trụ được thể hiện qua năm, tháng, ngày, giờ. Tết Nguyên Đán là quan trọng nhất đối với chúng ta.
Tết Nguyên Đán được tổ chức rất long trọng cả về tinh thần lẫn vật chất. Nó đã đi vào thói quen của người Việt Nam và đã trở thành nét đẹp văn hoá.
Ngay cả khi nền kinh tế của chúng ta vẫn còn eo hẹp thì ngày Tết vẫn được coi là “no ba ngày Tết, đói ba tháng hè”. Cho dù thiếu thốn đến đâu, người ta cũng sẵn sàng làm Tết trong ba ngày cho thịnh soạn. Vì thế, gia đình nào cũng phải mua sắm ngũ quả, gói mứt, chai rượu, trước hết để thắp hương kính tổ tiên, sau để tết ông bà, cha mẹ…. Ngày xưa, nhiều người còn quan niệm những thứ làm nên ngày Tết:
“Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ,
Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh”.
Người ta vẫn coi ngày Tết là ngày rất thiêng liêng, nên trong gia đình có điều gì khúc mắc thì cha mẹ, con cái hay vợ chồng sẽ xin lỗi nhau để hi vọng một năm mới sẽ có nhiều sự may mắn.
Đối với người Công Giáo, chúng ta hãy vui và đón Tết với tất cả tâm tình của người con Đất Việt, cùng đồng hành với dân tộc. Những hành vi thảo hiếu, tình bằng hữu cũng như tình làng nghĩa xóm cần phải được giữ cho trọn. Bởi Chúa chính là chủ của mùa xuân. Ngài đến ban sức sống dồi dào cho muôn loài thụ tạo. Mọi hoạt động của vũ trụ vạn vật đều nằm trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Cho nên, Ngài là hi vọng của thế giới.
“Bốn mùa Chúa đổ hồng ân,
Ngài cho mầu mỡ ngập tràn lối đi”. (Tv 64,12)
Vì thế, nó rất hợp với ý Chúa và Giáo Hội kêu mời. Đây là thời gian thuận tiện để chúng ta thi hành những công việc của người con cái Chúa. Chúng ta làm chứng cho Chúa trước mặt người khác bằng đời sống vui Tết nhưng không quên bổn phận thiêng liêng và chơi Tết mà không sa vào những tệ nạn xã hội.
Hơn nữa, với người Kitô hữu, Tết cổ truyền còn được gọi là dịp biết ơn và báo hiếu, mùa của đổi mới và hi vọng nữa.
Chúng ta cầu nguyện cho hoà bình trên quê hương đất nước.
Chúng ta quan tâm đến những người kém may mắn để họ cũng được hưởng một cái Tết vui vẻ, khoẻ mạnh và tràn đầy hồng ân Chúa.
73. Bình an, quà tặng năm mới--Lm. Gioan Baotixita Nguyễn Quốc Hoan
Bình an là ân ban của Thiên Chúa dành cho chúng ta qua Đức Kitô.
Bình an, đó là điều mà chúng ta mong ước và cầu chúc cho nhau mỗi dịp Tết đến xuân về. Bình an là nhu cầu thiết yếu của đời sống con người kể cả trên bình diện xã hội và tâm linh. Bình an như là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa đang đồng hành giữa nhân loại và thái độ đáp trả của con người bằng đời sống yêu thương. Vì khi sống yêu thương, chúng ta cũng đồng thời được tận hưởng một thế giới an bình.
Thiên Chúa là nguồn mạch bình an
Nguồn bình an đích thực đến từ Thiên Chúa. Từ tạo thiên lập địa, chính Thiên Chúa đã khai thông nguồn bình an ấy đến tận muôn loài. Riêng đối với con người, Ngài đã ưu ái đặc biệt khi cho chúng ta được cộng tác với Ngài trong việc tạo lập bình an cho thế giới. Nhưng chúng ta đã khước từ tình yêu của Thiên Chúa, lạm dụng quyền tự do Ngài ban theo chiều hướng xấu dẫn đến bất an, đau khổ.
Thiên Chúa không bỏ rơi con người. Khi nhân loại bị tước mất nguồn bình an vì phải xa lìa Thiên Chúa, thì chính Ngài lại tiếp tục nâng đỡ và kêu mời chúng ta trở về nhận lại ơn bình an nơi Con Một Người là Đức Giêsu Kitô.
“Nguyện chính Thiên Chúa là nguồn mạch bình an, thánh hoá toàn diện con người anh em, để thần trí, tâm hồn và thân xác anh em, được gìn giữ vẹn toàn, không gì đáng trách, trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, quang lâm. Đấng kêu gọi anh em là Đấng trung thành: Người sẽ thực hiện điều đó” (1Tx 5, 23-24).
Một khi ý định của Thiên Chúa đã được thành toàn nơi Đức Kitô, nhân loại thực sự được mời gọi bước vào sống trong thế giới của nguồn bình an vô tận. Khi đã được tháp nhập vào thân thể huyền nhiệm của Đức Kitô, chúng ta không còn phải bất an vì lo sợ quyền lực sự dữ thống trị.
“Ước gì ơn bình an của Đức Kitô điều khiển tâm hồn anh em, vì trong một thân thể duy nhất, anh em đã được kêu gọi đến hưởng ơn bình an đó” (Cl 3, 15).
Cuộc lữ hành trong Đức tin của người môn đệ dù phải đối diện với muôn vàn mối hiểm nguy luôn rình rập đe doạ, nhưng đó sẽ là cơ hội quý giá cho chúng ta tận hưởng bình an chân thật do chính Thập giá mang lại.
“Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng. Lòng anh em đừng xao xuyến, cũng đừng sợ hãi” (Ga 14, 27).
Không có bình an nếu thiếu tình yêu
Như vậy, bình an là quà tặng vô giá do bởi tình yêu mà Thiên Chúa ban cho nhân loại. Điều này cho thấy bản chất của bình an được khởi đi từ tình yêu. Tình yêu vừa là động lực, vừa là cốt tuỷ của sự bình an. Bình an mà Đức Kitô đã dành trọn cho nhân loại trong công cuộc cứu độ của Ngài, chính là nguồn bình an mà nhờ đó con người được sống trong tình yêu Thiên Chúa và anh em.
Kitô giáo đã mở ra cho chúng ta một hướng nhìn toàn diện khi nghiệm xét điều mà nhân loại hôm nay không ngừng vươn tới: Bình An. Đích điểm mà con người bao đời vẫn kỳ vọng là được sống trong một thế giới hoà bình sẽ trở thành ảo tưởng, nếu thế giới ấy thiếu đi tình thương.
Vẫn còn đó những bất an khi con người chưa đáp ứng lời mời gọi của Đức Kitô: hoà giải, thứ tha.
Vẫn còn đó những bất an khi những nhóm, hay cá nhân bất chấp các nguyên tắc luân lý nền tảng của sự sống và nhân phẩm con người.
Vẫn còn đó những những bất an khi người ta nhân danh quyền lực để xâm hại quyền lợi đồng bào vô tội.
Vẫn còn đó những bất an khi đồng tiền được đặt trên tình thương…
Vẫn còn đó những bất an khi chúng ta chưa chịu xả thân hết mình để chia sẻ những mất mát, đau thương của bao người…
Bình an – quà tặng năm mới
BÌNH AN- Món quà thiêng liêng nhất mà chúng ta trao đến nhau trong ngày đầu năm mới. Nó không là một lời chúc suông hoa mỹ, mà hàm chứa một thái độ sống, một nỗ lực sống của chúng ta trên chặng đường những tháng ngày mới đang mở ra.
Món quà BÌNH AN chỉ thực sự sinh động và và có ý nghĩa khi chúng ta gói gém vào trong đó những nguyện ước chân thành và thiện chí xây dựng một cuộc sống êm ấm tốt đẹp cho nhau.
Món quà BÌNH AN chỉ có thể đem lại bầu khí an bình đích thực khi nó được khắc vào đó dấu ấn Thân Ái – Thứ Tha.
Một năm mới bình an khi mỗi người dành cho nhau nhiều thời giờ trao đổi, chia sẻ, nâng đỡ và cùng nhau thăng tiến trong hiệp nhất.
Bình an là ân ban của Thiên Chúa dành cho chúng ta qua Đức Kitô. Do vậy, thực chất của ơn bình an chính là một cuộc sống luôn kết hiệp với Đức Kitô trên tinh thần tôn trọng sự thật và xây dựng một xã hội công bình, yêu thương.
“Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo” (Cl 3, 14).
74. Lời chúc đầu năm--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Tết đến, lời chúc đầu năm mang nhiều ý nghĩa, và là biểu trưng thiêng liêng cho tình cảm giữa con người với nhau. Tết mang đến những gì mới mẻ, trẻ trung, sức sống, cho nên ai cũng muốn chúc Tết và được chúc Tết.
Ngày thường gặp nhau “tiếng chào cao hơn mâm cỗ”. Người Việt lấy ứng xử nhân nghĩa ở đời làm thước đo văn hóa nên chào hỏi trở thành nghi lễ trong xã giao, và nó trở thành nét đẹp văn hóa đời thường. Lời chúc đầu năm thiêng liêng là lời hay ý đẹp dành tặng cho nhau.
Thi sĩ Bùi Nghiệp có bài thơ “Chúc Tết” ngũ phúc lâm môn.
Chẳng có món gì mừng tuổi nhau
Gọi là năm mới tết thêm màu
Thôi thì mượn chữ người xưa cũ
Mến chúc xuân này ngũ phúc sâu
Phước ngập gia đình lẫn tổ gia
Niềm vui trên dưới sống chan hòa
Ân tình nghĩa thiết luôn đằm thắm
Vắng mặt gần lòng chẳng có xa
Lộc nảy mầm tươi kết tựu thành
Xum xuê cành lá trổ vươn xanh
Đơm hoa kết trái mau thông đạt
Phấn khởi tiền tài lợi tức nhanh
Thọ với đất trời tựa núi sông
Tuổi già dù đến cứ ung dung
Bên đàn con cháu đông vui đủ
Ríu rít xum xuê cội bách tùng
Khang an tráng kiện tháng ngày vui
Gân cốt bền dai dạo chợ đời
Thời tiết bốn mùa xem nhẹ hẫng
Nắng mưa nóng lạnh chuyện thường thôi
Ninh tĩnh bình yên dưới mái nhà
Khó khăn trắc trở đẩy lùi xa
An cư lạc nghiệp thuyền xuôi mái
Gia tộc luôn vui sống thuận hòa
Ngũ phúc lâm môn đón quý thần
Cận kề gia tộc suốt hằng năm
Đầu xuân mến chúc chư bằng hữu
Vạn sự hanh thông phúc đức tràn…
Những ngày đầu năm, lời chúc trước tiên là dành cho người thân ruột thịt trong gia đình dòng tộc. Đêm 30 Tết, tham dự thánh lễ tất niên, gia đình đoàn viên, cả nhà quây quần nói chuyện tâm tình, ôn lại buồn vui được mất của năm qua đón chờ giao thừa. Thắp nến sáng lung linh trên bàn thờ, đốt nén nhang thơm tỏa ngát. Chuông nhà thờ ngân vang đúng lúc giao thừa. Mọi người dâng lời kinh hạt đầu năm mới, sau đó vui vẻ chúc mừng nhau. Con cháu chúc ông bà cha mẹ, anh chị chúc mừng em, ba mẹ chúc con cái, ông bà chúc con cháu. Lòng ai cũng nao nao thời khắc giao thừa vui vầy trang trọng, gần gũi thiêng liêng ấm áp tình thân.
Sáng Mồng Một, thánh lễ Minh niên, đến nhà thờ gặp nhau ai cũng rôm rã lời chúc mừng năm mới. Cha xứ chúc cộng đoàn, mọi người chúc mừng nhau những lời tốt đẹp. Những ngày tết đến thăm nhau, gia chủ mời ly trà ly rượu thân tình và cầu chúc những lời hay nhất: ơn thánh dồi dào, sức khỏe bình an, hạnh phúc thành đạt, làm ăn tấn tới. Hàng xóm thân quen, người này đến thăm người kia, rộn ràng vui vẻ, nén nhang thắp trên bàn thờ gia tiên, ly rượu đầu xuân mời nhau thân thiết, nói chuyện đầu năm nụ cười tươi nở. Đơn sơ mà ấm áp, thăm nhau chúc nhau mấy ngày xuân được xem như nghiã cử ở đời thật đáng quý đáng trân trọng. Tiếng Việt vốn phong phú nên lời chúc Tết cũng muôn hình vạn trạng, không cứng nhắc và không sáo ngữ. Ai cũng chọn lọc câu chữ tinh tế để người nghe cảm thấy vui lòng tin tưởng. Lời chúc làm cho tâm hồn cảm thấy thăng hoa hạnh phúc, niềm vui dâng tràn. Gặp nhau đầu năm mới, lời chúc Tết bao hàm nhiều ý nghĩa tốt đẹp. Ngày thường giận nhau ghét nhau thế nào đi nữa, nhưng Tết đến Xuân về mọi lời chúc đều trở nên chan hòa trân trọng tràn ngập yêu thương gắn bó mọi người, mọi gia đình trong giáo xứ. Lời chúc đầu năm trở thành văn hóa thẩm mỹ mang nhiều ý nghĩa thiêng liêng của dân tộc Việt Nam.
Đối với người Kitô hữu, lời chúc Tết hay nhất, mang đến hạnh phúc và niềm vui trọn vẹn chính là Lời Chúa trong sách Dân Số:
“Đức Chúa phán với ông Môsê: Hãy nói với Aharon và các con nó rằng:
Khi chúc lành cho con cái Ítraen, anh em hãy nói thế này:
“Nguyện Đức Chúa chúc lành và gìn giữ anh em!
Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh em và dủ lòng thương anh em!
Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em!
Chúc như thế là đặt con cái Ítraen dưới quyền bảo trợ của danh Ta, và Ta, Ta sẽ chúc lành cho chúng” (Ds 6, 22-27).
Chúa Giêsu không chúc theo kiểu thế gian. Khi Chúa Giáng Sinh, các thiên thần đã chúc bình an cho người thiện tâm. Khi Phục Sinh, Chúa cũng chúc bình an cho các môn đệ trung thành. Bài giảng trên núi “Tám mối phúc thật” là Hiến Chương Nước Trời, Chúa Giêsu chúc phúc cho những thân phận nhỏ bé, bị thua thiệt hay bị áp bức đáng thương, cùng những tâm hồn biết hướng về Chúa, về tha nhân.
Chúa Giêsu không chúc “phú quý thọ khang ninh” mà chúc phúc Nước Trời cho những ai có tâm hồn nghèo khó, không nô lệ tiền bạc vật chất hay tiện nghi, những người bé mọn, yếu đuối, oan ức, đau buồn, khóc lóc. Khi có tấm lòng thanh thoát, sẵn sàng đón nhận Lời Chúa gieo vào, bén rễ và sinh hoa kết trái, là phúc trường sinh sau này.
Mừng Xuân và vui Tết nhưng phải luôn nhớ “mình là bụi đất và sẽ trở về với bụi đất” (St 3,19). Vì thế người tín hữu luôn tâm niệm lời Chúa dặn dò: “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia (nghĩa là của cải vật chất), Người sẽ thêm cho” (Mt 6, 33). Sống theo ưu tiên của Nước Thiên Chúa, người Kitô hữu sẽ giữ được sự tự do thanh thoát và bình an ngay giữa những nhiệm vụ nặng nề nhất, vì họ biết có Chúa là Cha yêu thương cùng lo cho họ và với họ, và chỉ có Người mới đem lại cho họ niềm hạnh phúc đích thực mà họ hằng mong ước.
Sẽ không mong là an khang thịnh vượng, là công thành danh toại, là buôn may bán đắt, là vạn sự như ý, là… là… Nhưng chỉ cần tâm nguyện là một năm mới trong tình thương của Chúa, một năm mới bình an, một năm mới theo thánh ý Chúa, một năm mới thuộc về Chúa. Niềm hạnh phúc của một tâm hồn trong sạch và có Chúa ở cùng, cũng chính là niềm hạnh phúc mà chúng ta cầu chúc cho nhau trong năm mới Mậu Tuất này.
Lạy Chúa, mỗi lần Tết đến, chúng con dành cho nhau những lời chúc tốt đẹp nhất và ước ao cho tất cả cầu chúc ấy trở nên hiện thực trong năm mới. Giờ đây, dưới ánh sáng của Lời Chúa, chúng con biết rằng Chúa là khởi nguyên và cùng đích của mọi phúc lành. Chúng con xin đặt đất nước chúng con, gia đình, bạn bè thân hữu, và tất cả anh chị em chúng con dưới sự bảo trợ của danh Chúa trong năm mới này. Xin Chúa chúc lành cho chúng con.
Lạy Chúa, khi chúng con chúc lành cho nhau, xin hướng lòng chúng con về Chúa và thưa lên: Nguyện Đức Chúa chúc lành và gìn giữ anh chị em!
Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh chị em và dủ lòng thương anh chị em! Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh chị em!
75. Tết cho mọi người--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa với nền văn minh lúa nước vốn có những ngày Tết truyền thống, những ngày lễ hội dân gian đầy ý vị và vui tươi. Từ Tết cơm mới cuối vụ mùa cho đến lễ mở rừng đi săn. Đến như lễ tết ra giêng để vào hè thì có Tết Thượng Nguyên, Tết Hàn Thực, Tết Đoan Ngọ. Đặc biệt để tiễn mùa đông người Việt đã ăn Tết Nguyên Đán. Bên cạnh đó còn có nhiều tết khác như Tết Trung Nguyên (rằm tháng bảy) của Phật Giáo, Tết Trung Thu (dành cho thiếu nhi), Tết Trùng Dương, Tết Ông Táo… Tất cả đều có sự tính toán dựa theo sự chuyển đổi của thời tiết trong năm và căn cứ vào nông lịch phương Đông.
Chữ “Tết” ngày nay đã được một số quốc gia sử dụng như là một “Lễ” hết sức độc đáo của dân tộc Việt Nam. Nhiều nhà nghiên cứu đều cho rằng chữ “Tết” bắt nguồn từ “Lễ Tiết” bên Trung Quốc. Tết do Tiết đọc chệch đi. Từ chữ Tết người ta còn ghép theo từ Nhứt nữa nghe thật thú vị, như ‘Tết Nhứt’ là do đọc chệch đi từ hai âm Hán Việt “Tiết Nhựt”, có nghĩa là ngày Tết. Còn Nguyên Đán, theo chữ Nôm: Nguyên là bắt đầu, Đán là buổi sớm mai, Nguyên Đán là sớm mai đầu năm. Nguyên Đán còn gọi là “Chính Đán” tức là “Chính Nguyệt Chi Đán” (buổi sớm mai tháng giêng), ngoài ra còn sử dụng từ tam chiêu, là ba cái sớm mai (sớm mai đầu năm, sớm mai đầu mùa, sớm mai đầu tháng).
Tự xưa nay, là người Việt Nam, dẫu ở bất cứ nơi đâu vẫn xem trọng ngày Tết Nguyên Đán. Một năm làm lụng vất vả mưu toan cho cuộc sống; một năm xa gia đình bôn ba mọi nơi, ba ngày Tết Nhứt vui vẻ, đoàn tụ, mọi chuyện buồn phiền lo toan đời thường tạm gác sang một bên để mọi người cùng hưởng niềm vui đón xuân về, tết đến.
Người Việt Nam vui hưởng Tết và luôn nhớ về Tổ tiên ông bà cha mẹ, nhưng không quên nghĩ đến người nghèo, thương đến những người đã khuất núi.
Tết cho người trần
“Đói ngày giỗ cha, no ba ngày Tết”, câu nói ấy đủ cho thấy người Việt chú trọng đến ngày Tết như thế nào. Dù khốn dù khó thì ngày Tết cũng phải có cặp bánh chưng, khoanh giò lụa, nải chuối, hộp mứt. Nhà có điều kiện thì mua sắm đủ thứ, nào là mâm ngũ quả thật đẹp, các loại bánh mứt thật hảo hạng, cây giò thật to, gà, thịt thật nhiều, bánh chưng và nhiều loại bánh khác. Cùng với những thứ ăn, là những chậu hoa, cây cảnh, chậu quất sai qủa, gốc mai cành đào đầy đủ lộc, nụ, hoa…
“Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ” là cái Tết truyền thống của người Việt Nam. Ý nói cái Tết có cả phần vật chất lẫn tinh thần. “Câu đối đỏ” ngày nay được cải tiến rất nhiều. Bên cạnh những đôi câu đối viết bằng mực đen trên nền giấy điều, giấy lụa là những câu đối in trên loại giấy bóng tốt, nhiều nhà còn sắm về những hoành phi câu đối bằng gỗ, khảm trai hay những đôi câu đối thêu… Quan niệm của người Việt, ngày Tết tiễn cái cũ đi, đón cái mới về. Chính vì vậy, cùng với việc mua sắm, nhiều nhà có điều kiện, những tháng cuối năm thay đổi những cái cũ trong nhà như thay đổi tivi mới to hơn, đổi cái tủ lạnh, cái máy giặt hay thay xe… nhà không có điều kiện thì cũng cố gắng làm cho căn nhà mới hơn bằng việc quét vôi lại hoặc kê dọn đồ đạc trong nhà, lau chùi đánh bóng lư hương bát đèn, dọn dẹp sân vườn sạch sẽ…
Ngày Tết, còn là dịp để người người vui chơi. Bên cạnh việc “Ăn Tết”, người ta nghĩ đến việc “Chơi Tết”. Chơi Tết có thể kéo dài từ những ngày áp Tết 27, 28, 29 Tết với những cuộc đi ngắm chợ hoa, đi chợ Tết và ngày nay còn cả việc đi vào các siêu thị. Có thể mua hoặc có thể chẳng mua gì, song việc đi chợ như là niềm vui của ngày Tết, đặc biệt đối với giới nữ. Vì vậy, chợ là nơi thu hút đông người. Chợ vốn dĩ đã ồn ào, náo nhiệt thì những ngày áp Tết chợ càng thêm tưng bừng, rộn rã hơn. Nói đến “Chơi Tết” thì không thể không nói đến chuyện đi thăm hỏi, chúc Tết nhau, con cái đi chúc Tết cha mẹ, anh em, họ hàng, thân bằng cố hữu đến chúc Tết nhau. Trong nhà, ngoài đường vui như trẩy hội. Việc “Chơi Tết” không chỉ dừng lại ở ngày Mùng Một, Mùng Hai. Nó có thể kéo dài hết tháng giêng, tháng hai và cả tháng ba với những lễ hội, đình đám. Vì thế mà người ta có câu: Tháng giêng là tháng ăn chơi, tháng hai đình đám, tháng ba hội hè. Có lẽ người người chờ đón Tết, thích Tết cũng vì lẽ đó.
Tết cho người âm
Người Việt rất trọng chữ “Lễ nghĩa – trước sau”. Ngày Tết nhà ai cũng phải có mâm ngũ quả, mâm cơm thắp hương tổ tiên. Quan niệm “Trần sao, âm vậy” nên dễ thấy những ngày trước Tết, trong các chợ, quầy bán hàng mã cũng rất đông người. Người ta mua tiền, vàng, mua quần áo, có nhà chu đáo còn mua cả tivi, tủ lạnh, xe đạp, xe honda hay cả xe hơi, điện thoại di động, toà nhà nhiều tầng về đốt cho người thân ở cõi âm.
Ở nhiều làng quê, người ta còn nghĩ về người âm, lo Tết cho những người âm không có nhà cửa bằng việc nấu cháo hay cơm nát đơm từng thìa cho vào lá sung hoặc lá ổi đã được cuộn tròn như cái phễu đem để bụi tre, dọc đường vào đêm ba mươi. Và cũng trong đêm ba mươi, ngày mùng một chủ nhà nào cẩn thận còn bảo con cháu ra mở cửa, mở cả cửa trước, cửa sau, ngoài ý niệm trần thế đón Xuân vào nhà còn hàm ý mở cửa mời ông bà, tổ tiên về cùng vui đón Tết.
Tết cho người âm còn thể hiện ở việc người trần đi tảo mộ. Thường người ta đi tảo mộ vào sáng sớm mùng hai hoặc mùng ba Tết với mâm cơm nhỏ để ông bà, cụ kị chứng cho con, cho cháu, hoặc với những người trẻ xấu số thì mâm cơm tảo mộ còn để cho hương hồn họ không cảm thấy cô quạnh.
Tết cho hai phần thế giới… giao thoa
Ngày Tết, đất trời giao hòa, người người gần gũi nhau hơn. Trong cái không khí ấm áp lạ thường của ngày Tết, người đi xa lại thêm nhớ về nhà, về quê hương, nơi đó có những người thân yêu, ruột thịt. Bên mâm cơm gia đình, gợi nhớ những người ở xa, ngậm ngùi nghĩ về những người thân đã khuất. Trong cái khối đất trời hoà quyện, người người muốn tìm và gặp nhau có lẽ cũng xuất phát từ những ước nguyện ấy.
Những ngày Tết, người ta đến với cửa chùa, cửa đền nhiều hơn. Tuỳ từng điều kiện của mỗi gia đình, tuỳ vào lòng thành của mỗi người song hầu hết đến chùa ai cũng có được lễ vật để dâng. Ở nơi này, trong bảng lảng của khói hương, người người cầu ước và hy vọng những ông quan với bộ mặt hiền từ ngồi kia cùng những linh hồn quanh đó nghe được và giúp họ thực hiện những điều ước tốt đẹp trong năm mới. Trong dân gian, người ta cũng truyền miệng nhau rằng, ngày Tết, các quan trông coi các chùa cũng rất bận rộn. Họ phải cắt cử nhau ở chùa để ghi lại những điều mong ước của người trần. Sau đó báo cáo lên thiên đình, rồi căn cứ vào những việc làm thiện, ác của từng người, của từng gia đình mà thiên triều cho người đó được hưởng hạnh phúc hay khổ đau trong năm đó. Những vong hồn cũng quanh quẩn cửa chùa thường là những vong hồn phiêu dạt không cửa nhà, họ tìm đến đây để xin được ăn. Và cửa chùa chính là nơi giúp người âm và người dương gần nhau hơn. (Tổng hợp từ các báo xuân: tuổi trẻ, phụ nữ, nhân đạo, kinh tế, công giáo dân tộc).
Tết nơi xứ đạo
Những ngày giáp Tết mọi nhà tất bật bận rộn công việc bán mua, sắm sửa cho ngày Tết. Chợ búa đông vui nhộn nhịp.
Xứ đạo tôi thuộc miền quê, rộn ràng bao lo toan đón Tết. Chuẩn bị quà Tết cho người nghèo. Năm nay mất mùa, người nghèo nhiều hơn. Quà Tết cho người nghèo là lương thực cứu đói. Huy động hết mọi đoàn thể, mọi giới trong xứ đi lạc quyên giúp người nghèo được “Ăn Tết” cùng với mọi nhà, bởi lẽ “giàu thì ngày ăn ba bữa, nghèo thì cũng đỏ lửa ba lần”. Quà cho các cụ già trên 70 tuổi như tấm lòng biết ơn cùng với lời chúc thọ của con cháu trong thánh lễ Mồng Hai Tết.
Năm nào giáo xứ cũng tổ chức hội thao cho giới trẻ, thiếu nhi, bóng đá bóng chuyền. Thêm ba đêm hội chợ, văn nghệ vui xuân. Vì thế khuôn viên Nhà thờ tấp nập mọi đoàn thể ngày đêm tập luyện, chuẩn bị cho ba ngày Tết. Vui Tết lành mạnh, ở làng quê giảm đi bao tệ nạn cờ bạc rượu chè say sưa.
Đất Thánh cũng đông người đến tảo mộ, sửa soạn cho Thánh Lễ sáng Mồng Hai Tết. Những ngày cận Tết, nghĩa trang lung linh ánh sáng đèn nến, nhập nhoà hương khói.
Chuyện Tết cho người trần, Tết cho người âm, Tết cho người nghèo chính là cuộc sống mà người người đang hối hả khi cái Tết bắt đầu gõ cửa.
76. Mùa xuân phó thác--Trích Logos A
Ngày xưa, tại ngôi làng thuộc một vùng núi, người dân có tục lệ rất hay. Hằng năm, cứ mỗi độ xuân về, mọi người già trẻ lớn bé đều tham dự cuộc thi đua tìm bông hoa đầu tiên của mùa xuân. Ai tìm thấy và hái được bông hoa ấy, sẽ được xem là người may mắn nhất trong năm.
Một năm nọ, tuyết đông vừa tan, mặt trời vừa ló dạng, mọi người trong làng kéo nhau lên núi tham gia cuộc thi. Buổi sáng trôi qua mà không có ai tìm được bông hoa nào. Giữa lúc mọi người đang chán nản định bỏ cuộc, thì trên triền núi cao, có tiếng reo hò mừng rỡ:
– Tôi đã tìm thấy rồi!
Đó là tiếng reo hò của một cậu bé trong làng. Mọi người chạy đến chia sẻ niềm vui với cậu bé. Nhưng không may cho cậu, bông hoa nằm kẹt trong một khe đá dưới vực sâu. Muốn được xem là người may mắn nhất trong năm, chính cậu phải là người đích thân hái bông hoa ấy.
Năm người đàn ông lực lưỡng nhất trong làng đem một sợi dây thừng đến giúp cậu bé leo xuống vực. Nhưng cậu bé không dám leo xuống. Người ta đem đến một sợi dây thừng khác, chắc chắn hơn và huy động tất cả trai tráng trong làng giữ dây thừng cho cậu. Nhưng cậu cũng không chịu leo xuống. Mọi người hết lời khích lệ, cổ vũ nhưng vô vọng. Cuối cùng, cậu bé nói một cách quả quyết:
Tôi sẽ leo xuống vực, với điều kiện để cho bố tôi nắm dây thừng.
Có lẽ mọi người chúng ta đều mong ước hái được những bông hoa đầu xuân và trở thành những người may mắn như vậy. Tuy nhiên, cũng giống như bàn tay hái hoa hồng, phải chấp nhận bị gai nhọn đâm, thì để có được những bông hoa rực rỡ trong cuộc sống, người ta cũng phải trả một giá đắt. Cậu bé trong câu chuyện chỉ dám leo xuống vực sâu vì có bàn tay người cha bảo vệ.
Hôm nay, chúng ta bước vào ngưỡng cửa của năm mới với tâm hồn đầy âu lo khi nhìn vào năm mới với nhiều bất trắc và thử thách. Nhưng chúng ta cũng vững tâm vì luôn có bàn tay Chúa bảo vệ và dẫn đưa. Lời Chúa trong bài Tin Mừng theo thánh Matthêu khiến chúng ta an lòng: “Các con đừng lo lắng về ngày mai. Ngày mai cứ để ngày mai lo”.
Thêm tuổi, thêm phúc lộc.
Khi cuốn sách cuộc đời mở thêm một trang mới, tâm hồn chúng ta nặng trĩu lo âu vì có biết bao gian khổ đang chờ đón trước mặt. Gánh nặng cuộc sống luôn đè nặng trên vai chúng ta: làm sao để đủ ăn, đủ mặc? Làm sao chu toàn bổn phận đối với bản thân, gia đình và xã hội? Điều gì sẽ xảy ra trong tương lai? Bất hạnh hay may lành? Những nỗi xao xuyến và lo lắng ấy theo chúng ta bước vào năm mới này.
Chúng ta hãy nhớ rằng: dù đau khổ, đói nghèo, dù chết chóc ly biệt, cuộc sống này tiếp tục có ý nghĩa và đáng sống. Chúa mời gọi chúng ta hãy có thái độ hân hoan và lạc quan, vui tươi và an bình. Chúng ta hãy đặt trọn tương lai vào bàn tay quan phòng của Chúa. chính Chúa đã mở thêm một trang sách cuộc đời chúng ta, Ngài sẽ viết lên đó những nét mực yêu thương, sẽ giữ gìn cuốn sách đời ta luôn nguyên vẹn. Ngài sẽ che chở và dưỡng nuôi chúng ta bằng tấm lòng của Người Cha Nhân Lành, miễn là chúng ta luôn phó thác và cậy trông vào Ngài.
Vì thế, thêm tuổi là thêm những phúc lộc mới. Chúa trao cho ta tuổi mới, Ngài cũng trao ban những ân huệ mới. Ngài luôn canh giữ và bảo vệ chúng ta trong vòng tay nhân từ của Ngài.
Trước hết, hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa.
Năm 1923, một nhóm người giàu có nổi tiếng của nước Mỹ đã gặp gỡ nhau trong một khách sạn miền Viễn Tây. Họ trao đổi với nhau những kinh nghiệm làm giàu. Nhưng 25 năm sau, những gì đã xảy đến cho họ?
Charles Schwab, giám đốc công ty thép lớn nhất ở Mỹ, đã chết vì bị phá sản.
Samuel Insull, giám đốc công ty sản xuất đồ gia dụng, đã bỏ nước ra đi và chết không một đồng xu dính túi.
Howard Hopson, giám đốc hãng Gas, đã trở thành điên loạn. Arthur Cutten, nhà xuất nhập cảng lúa mì, cũng chết ở nước ngoài trong cảnh nghèo túng.
Richard Whitney, giám đốc hối đoái New York, đã lên cơn điên phải vào bệnh viện.
Albert Fall, nhân vật cao cấp trong chính phủ, phải vào tù vì tham nhũng.
Bức tranh trên đây khiến chúng ta phải suy nghĩ và tự hỏi: sự giàu sang thật sự có phải là niềm hạnh phúc không? Tiền bạc của cải tự nó không phải là điều xấu. Ai trong chúng ta cũng cần có tiền bạc của cải để sống xứng với phẩm giá của mình.
Tuy nhiên, tiền bạc của cải luôn là con dao hai lưỡi: nếu được xử dụng như phương tiện, sẽ giúp chúng ta nên thánh, nếu được coi như thần tượng, sẽ sai khiến và đè bẹp chúng ta.
Hôm nay, ngày đầu năm mới, Chúa mời gọi chúng ta hướng tầm nhìn lên cao, vượt lên những lo lắng thế tục, những dục vọng trần gian, để thấy Chúa chính là cùng đích mà chúng ta kiếm tìm: “Trước hết, hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho”.
Chúng ta hãy đặt vào bàn tay Thiên Chúa tất cả những chương trình và dự định của mình trong năm mới. Thiên Chúa là Đấng Sáng Tạo, là Chủ thời gian và toàn thể vũ trụ (bài đọc 1, trích sách Sáng Thế). Thiên Chúa sẽ dìu dắt chúng ta bằng đôi tay của Đấng Quan Phòng và bằng trái tim của Người Cha Nhân Lành.
Điều quan trọng là chúng ta phải luôn hướng về Chúa với lòng cậy trông và lời nguyện cầu hằng ngày, kèm theo tâm tình tạ ơn như lời thánh Phaolô dạy: “Trong khi cầu nguyện, anh em hãy trình bày những ước vọng lên cùng Chúa, bằng kinh nguyện và lời cầu xin đi đôi với lời cảm tạ…” (bài đọc 2, trích thư Philipphê).
Người ta kể lại câu chuyện sau:
Có một người sống trên tầng 80 của một chung cư cao ngất. Ngày kia, về nhà sau giờ làm việc, người đó choáng váng nhận ra thang máy của chung cư bị hư. Anh ta buộc phải leo bộ lên căn hộ của mình.
Anh ta leo đến tầng 20 rất nhanh nhẹn. Thậm chí còn xách hộ đồ cho người khác. Khi đến tầng 40, anh ta bắt đầu mệt mỏi, trả lại túi đồ cho người bạn và quyết định để lại cả túi xách của mình, dự định sẽ quay lại lấy vào ngày hôm sau. Khi lên đến tầng 60, anh ta dừng lại nghỉ chân nhiều hơn, kéo lê từng bước lên thang lầu.
Cuối cùng, người đó cũng lên đến căn hộ của mình. Nhưng lên đến nơi, anh ta mới phát hiện ra mình để quên chìa khóa phòng trong túi xách để lại ở tầng 40. Thế là anh ta đành phải ngủ ngoài hành lang cho đến khi thang máy được sửa xong.
Câu chuyện này cũng là câu chuyện của chúng ta. Tòa nhà 80 tầng là cuộc đời của mỗi người. Mỗi tầng lầu là một tuổi mà chúng ta đã trải qua.
Khi bước vào tuổi 20, chúng ta hăng hái và đầy quảng đại bước đi trên cuộc hành trình đức tin. Đến tuổi 40, chúng ta bắt đầu tính toán hơn thiệt, chỉ nghĩ đến mình và thu quén cho mình. Đến tuổi 60, chúng ta bắt đầu mệt mỏi, lê bước trên đường sống đạo. Điều quan trọng nhất, khi bước lên tầng 80 của đời người, đứng trước cánh cửa cuối cùng, có thể chúng ta đã đánh mất chiếc chìa khóa mở ra phần rỗi cho đời mình.
Hôm nay, bắt đầu năm mới, chúng ta bước lên một tầng lầu mới của tòa nhà cuộc đời. Chúng ta hãy đặt bàn tay mình vào bàn tay Chúa. Chúa sẽ nâng đỡ dìu dắt chúng ta bước lên một cách vững vàng.
Đừng mang theo hành trang cồng kềnh của tiền bạc danh vọng chóng qua, nhưng hãy mang theo trái tim đầy tình yêu chia sẻ.
Đừng đánh mất chiếc chìa khóa của niềm tin, chiếc chìa khóa mở ra cho chúng ta cánh cửa hạnh phúc đời đời.
77. Hãy phó thác cho Chúa tương lai đời ta 2017--Mt 6, 25-34--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Chúng ta vừa bước sang năm mới, năm Đinh Dậu, năm con gà. Con gà, đặc biệt là gà trống hiện diện nhiều trong nhiều nền văn hóa Phương Đông và Phương Tây. Là vật nuôi từ được thuần hóa từ lâu trong lịch sử, gà gắn bó với cuộc sống con người, nhất là trong tôn giáo và thần thoại. Từ thời cổ đại, gà đã là một loài vật linh thiêng trong một số nền văn hóa và gắn chặt với nhiều hệ thống tín ngưỡng và thờ cúng tôn giáo với tư cách là lễ vật (vật hiến tế hay vật tế thần). Gà có vai trò quan trọng trong đời sống người dân, ở vùng nông thôn, tiếng gà trống gáy là tiếng đồng hồ báo thức cho con người ở những vùng quê êm ả. Trong văn hóa phương Đông, gà là một trong 12 con giáp với biểu tượng Dậu và cũng nằm trong lục súc.
Trong nhà đạo, có lắm chuyện về con gà, từ chuyện vui đến chuyện thật. Chúng ta cùng mở Kinh Thánh để tìm chuyện con gà, hầu có thể đem ra suy gẫm nhân ngày đầu năm mới. Nếu có gà trống nghênh ngang như sách Gióp mô tả:
“Ai làm cho cò lửa khôn ngoan,
Ai ban trí tuệ cho gà trống? ” (Gióp 38,36),
Thì cũng có gà mái hiền lành luôn chăm sóc cho đàn con thơ bé. Mở Tin Mừng Nhất Lãm, chúng ta tìm thấy hình ảnh đàn gà mẹ con ấy được Chúa Giêsu sánh ví như là tình thương của Chúa đối với loài người: “Đã bao lần ta muốn tập họp các ngươi lại, như gà mẹ tập họp gà con dưới cánh” (Mt 23,37; Lc 13,3).
Nếu tiếng gà gáy biểu hiện một sự kêu gọi tỉnh thức trong cuộc sống thường ngày, cụ thể tại các nước Á Đông như Việt Nam, tiếng gáy của gà trống như báo hiệu nhiều may mắn và tốt đẹp cho ngày mới, thì tiếng gà làm ông Phêrô giật mình bừng tỉnh, nhớ lại lời Đức Giêsu nói tối hôm qua: “Gà chưa kịp gáy thì anh đã chối Thầy ba lần” (x. Mt 26, 75; Mc 14, 30; Lc 22,61). Ông ra ngoài khóc lóc thảm thiết. Kể từ đó, ông Phêrô đã thống hối liên lỉ như Ngắm Đứng đã mô tả: “Lọn đời đến sớm mai gà gáy, nhớ đến tội xưa liền khóc lóc”.
Vào thế kỷ VI, Đức Giáo hoàng Grêgôriô I tuyên bố gà trống là biểu tượng của Kitô giáo. Vì thế, nhiều nhà thờ bên Âu Châu có đặt hình một con gà trống ở trên nóc. Tại Việt Nam, nhà thờ chính toà Đà Lạt cũng được gọi là “nhà thờ con gà”.
Ở các nước châu Á, con gà gắn liền với nhiều hệ thống tín ngưỡng và thờ cúng tôn giáo với tư cách là lễ vật. Ở Việt Nam, gà là một dấu tích của văn minh nông nghiệp, thường được nhắc đến trong sách báo, hình ảnh con gà cục tác lá chanh là những nét chấm phá về một làng quê an bình với những triết lý sống nhân bản, thiên nhiên. Những nhà nho xưa cho rằng gà trống có đủ ngũ đức, gồm cả văn, vũ, nhân, trí và dũng:
Mào gà là mũ quan văn,
Cựa gà: võ khí của quan vũ tài.
Gà trống có cái dũng oai,
Xông vào địch thù đá hoài không ngơi.
Chữ nhân: khi kiếm được mồi,
Nhắc lên gà trống kêu mời mái ăn.
Chữ trí: gà biết đêm tàn,
Gáy vang báo thức cả làng tỉnh mơ.
Vì đủ ngũ đức như vậy nên gà trống có được cái oai phong lẫm liệt, uy dũng của một tổng tư lệnh điều binh khiển tướng. Sách Cách Ngôn đã tả cái dáng đường bệ của gà trống như một ông vua xuất chinh dẹp loạn.
Thôi thì cho dù năm Khỉ, Heo, Mèo, Gà thì cả tháng nay, mọi người đã sắm Tết, ăn Tết rồi. Hôm nay ngày đầu năm mới, ai cũng có cảm tưởng là có cái gì đó mơi mới, nên dùng chữ năm mới. Năm mới mọi cái đều phải mới.
Từ mấy hôm nay, chúng ta đã đi chúc tết nhau, và sẽ còn chúc tết nhau nữa. Thường người dướt tết người trên: con cháu tết ông bà cha mẹ, em tết anh chị, công nhân viên tết thủ trưởng, kèm theo món quà, tượng trưng cho tấm lòng thơm thảo. Ngoài bánh chưng bánh tét, hoa đào, hoa mai... có lẽ không gì nhiều bằng “lời chúc”. Ai cũng muốn dành những lời chúc tốt đẹp nhất cho gia đình, người thân, bạn bè trong những ngày này và ngược lại, ai cũng muốn mình được nhận nhiều những lời chúc. Muốn lời chúc của chúng ta trở thành hiện thực, hãy đặt tin tưởng, cậy trông và phó thác vào Chúa, bởi tất cả mọi sự đều do Chúa như lời thánh vịnh viết: “Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay” (Tv 36, 5).
Các Kitô hữu cũng có tập tục, truyền thống rất quí là dâng những giây phút đầu năm cho Thiên Chúa. Kitô hữu mong Chúa đổi mới và chúc lành cho năm mới. Lời nguyện nhập lễ chúng ta xin: “Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc, xin tỏa ánh tôn nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài" (Tv 66, 2-3). Chúa mới chính là gia nghiệp, là cùng đích mà con người cần phải kiếm tìm và đó cũng chính là sự tồn tại của con người.
“Các con chớ áy náy về ngày mai” (Mt 6,34). Chúa luôn muốn mọi người nghĩ đến hạnh phúc mai hậu của cuộc sống mình. Tương lai mỗi người đều nằm trong tay Thiên Chúa. Với tình thương và lòng nhân hậu của Ngài, chúng ta luôn tin tưởng và phó thác, bởi Ngài là người Cha luôn muốn những điều tốt nhất cho con cái. Lo lắng, bận rộn, tất bật làm việc để tích luỹ và để bảo đảm cho tương lai... tất cả đều tốt và cần thiết, nhưng cũng nên nhớ một điều “nếu như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công”. Hãy làm tốt bao nhiêu có thể, những bổn phận và trách nhiệm của mình, phần còn lại hãy phó thác trong tay quan phòng của Thiên Chúa. Ngài sẽ hoàn tất những gì còn lại.
Kinh Thánh còn có những câu khác nói đến con gà trong năm mới Đinh Dậu. Nhưng thiết nghĩ trưng ra mấy câu trên cũng đủ chứng tỏ con vật cầm tinh trong năm Dậu cũng đã được Thánh Kinh nhắc đến.
Kính chúc mọi người một năm mới con gà đầy tràn ngũ đức: văn, vũ, nhân, trí, dũng, những đức tính mà các cụ xưa đã ca tụng con gà trống. Amen.
78. Hãy thực hành bát phúc để trở nên phúc nhân–Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Lẽ đất trời có khởi thuỷ phải có tận cùng, một năm có bắt đầu ắt phải có kết thúc, bắt đầu vào lúc giao thừa, cũng lại kết thúc vào lúc giao thừa. Và đây là giây phút thiêng liêng và tuyệt đẹp, trời đất giao hòa, âm dương đan dệt vào nhau, mỗi người đều cảm thấy như có một cái gì đó thôi thúc, nhưng cũng có một cái gì đó níu kéo lòng ta, chúng ta đang ở vào thời khắc: cũ giao lại, mới đón lấy, năm cũ sang năm mới.
Trong giờ phút huyền nhiệm này, mở ra những ngày mới, giúp con người hy vọng, cậy trông và tín thác vào Đấng tác tạo cả đất trời, Đấng ấy là Cứu Chúa của chúng ta. Không gì thích hợp bằng việc chúng ta phải làm trước tiên là hướng tâm hồn lên Chúa là nguồn mạch mọi ơn phúc, để xin Ngài giáng phúc thi ân cho mọi người, mọi nhà, hầu tất cả được sống bình an và yêu thương trong sự quan phòng của Chúa là Đấng Giầu Lòng Thương Xót và thứ tha.
Lời Thánh vịnh 133,3 mới đẹp làm sao: “Cúi xin Đấng tạo thành trời đất, xuống cho đoàn con muôn ngàn phúc cả từ núi thánh Sion” (Tv 133, 3). Lời nguyện dưới đây lôi kéo chúng ta về với Chúa, Đấng là Alpha và ÔMêga, là Nguyên thủy và là Cùng đích: “Lạy Thiên Chúa là Đấng vô thủy vô chung, là căn nguyên và cùng đích vạn vật, trong giờ phút giao thừa này, chúng con hướng tâm hồn lên Chúa. Cúi xin Chúa rộng ban cho chúng con một năm dồi dào phúc lộc, và đầy lòng hăng hái làm việc lành để tôn vinh danh thánh” (Lời Ca nhập lễ).
Lời Môsê ngỏ với Aaron và các con ông Aaron như sợi dây lôi kéo phúc lành và bình an của Chúa xuống cho dân: “Nguyện Đức Chúa ban phúc lành và gìn giữ anh em! Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh em! Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em” (Ds 6 22-26). Chúc như thế là đặt con cái Israel dưới quyền bảo trợ của danh Chúa và Chúa sẽ chúc lành cho chúng. Tác giả Thánh Vịnh nói cho chúng ta biết lý do tại sao phải hướng lòng lên Chúa và van xin Ngài: “Ơn phù hộ tôi đến từ Đức Chúa là Đấng dựng nên cả đất trời” (Tv 120, 1-2). Nếu như khi xưa thánh Phaolô đã khuyên tín hữu Thêxalônica, nay ngài cũng khuyên chúng ta: “Hãy cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh” (1Tx 5,16).
Trước thềm năm mới, mỗi người chúng ta đều mang trong mình những tâm tư và ước muốn. Ưu tư nhìn lại quá khứ, hy vọng hướng tới tương lai. Vậy giờ đây, chúng ta có những tâm tình nào, ước muốn gì, chờ đợi gì và nhất là nói gì với Chúa? Chắc chắn một điều là ai cũng xin Chúa là Đấng vô thủy vô chung, là căn nguyên và cùng đích vạn vật, rộng ban cho một năm mới phúc lộc dồi dào, và lòng hăng hái làm việc lành để tôn vinh Danh Chúa.
Về phương diện con người, điều đầu tiên trong năm mới chúng ta cầu chúc cho nhau, đó là chúc được bình an, hạnh phúc, vui vẻ, may mắn, mà người có đạo còn chúc nhau được đầy niềm vui và phúc lành của Thiên Chúa.
Về phía Thiên Chúa, vì Ngài là Thiên Chúa Tình Yêu, Ngài yêu thương con người và hằng mong muốn con người được hạnh phúc, nên Ngài sẵn sàng chúc phúc cho chúng ta, chúng ta hãy tin tưởng vào Ngài. Ngài vui khi nhìn thấy chúng ta mạnh khoẻ, cả về thể xác lẫn tâm hồn. Cha mẹ nào mà không vui khi thấy con cái mình lớn lên, khôn ngoan, khoẻ mạnh? Huống chi là Thiên Chúa, Đấng đã dựng nên chúng ta, không để chúng ta hư không đời đời, mà lại sinh ra ta cho ta được làm người…lại cho Ngôi Hai Xuống thế làm người để cứu độ, giải thoát ta khỏi mọi tội lỗi và sự dữ, cứu chúng ta khỏi án phạt đời đời. Lời Chúa trong Thánh lễ Giao thừa minh chứng rõ ràng rằng: Thiên Chúa muốn chúng ta là những người hạnh phúc (x. Mt 5, 1-10).
Cứ vào giây phút linh thiêng Giao thừa năm cũ chuyển giao sang năm mới, chúng ta lại có dịp nghe đoạn Tin Mừng nổi tiếng của thánh Matthêu, đầy ấn tượng và hết sức ngạc nhiên, là Bài Giảng Trên Núi hay còn gọi là Bát Phúc mà Chúa Giêsu đã công bố trên núi (x. 5, 1-12).
Bước sang năm mới, ai cũng mong ước những điều tốt đẹp từ con người đến cả tâm tư, để sống vui và hạnh phúc. Thì đây, với đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu cung cấp cho chúng ta một mô hình sống, nếu làm theo thì sẽ trở thành những người thực sự hạnh phúc.
Phải nói thật rằng, hạnh phúc chắc chắn là mục tiêu tất cả chúng ta tìm kiếm trong cuộc sống. Nu hỏi người khác xem họ kiếm tìm hạnh phúc cho mình như thế nào, chắc sẽ có những câu trả lời rất khác nhau. Có người cho rằng, hạnh phúc ở trong gia đình, người khác cho rằng ở sức khỏe, nghề nghiệp, nhưng người khác lại tìm kiếm hạnh phúc nơi bạn bè, vui chơi và giải trí… người tiêu sài lại tìm kiếm hạnh phúc trong việc mua bán.
Tám Mối Phúc mà Chúa Giêsu trình bày, xem ra không giống với quan niệm về hạnh phúc của con người hôm nay. Cụ thể như: Phúc cho những ai nghèo khó trong tinh thần, phúc cho những ai đau khổ, phúc cho những kẻ hiền lành, phúc cho những ai đói khát sự công chính, phúc cho những kẻ có lòng nhân từ, phúc cho những ai có lòng trong sạch, phúc cho những ai hoạt động cho hoà bình, phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính (x. Mt 5, 3-10).
Sứ điệp của Chúa Giêsu dành cho những ai muốn sống khiêm nhường, khao khát công chính, quan tâm đến tha nhân. Chúa Giêsu nói rõ cho chúng ta về mối phúc cuối cùng: “Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5, 10). Thánh Basil nói rằng: “hạnh phúc không phải do ước muốn, giầu có, quyền lực mang lại cho con người. Những thứ đó không làm cho chúng ta hạnh phúc”. Thiên Chúa là nguồn mọi ơn phúc, và chỉ một mình Chúa Giêsu là Ðấng có phúc tuyệt hảo, Ngài cũng muốn chúng ta có được hạnh phúc đích thật nên đã vạch ra cho chúng ta con đường Tám Mối Phúc Thật để tất cả chúng ta đi theo mà trở thành phúc nhân.
Trước thềm năm mới, chúng ta hãy khẩn cầu các thánh là những người đã được xem là phúc nhân, đặc biệt xin Mẹ Maria, là ‘Đấng đầy ơn phúc’, giúp con cái Mẹ trở thành những phúc nhân trong năm mới, nhất là trước tòa Chúa Giêsu Kitô, Con Mẹ đến muôn thủa muôn đời! Amen.
79. Chúa là mùa xuân vĩnh cửu--Giuse Vinh Sơn Ngọc Biển, S.S.P.
Trong bầu không khí hân hoan của cả dân tộc đón mừng năm mới, chúng ta quy tụ nhau nơi ngôi nhà thờ thân thương này, để cùng nhau ca tụng Thiên Chúa là Mùa Xuân Vĩnh Cửu thì thật là ý nghĩa và hợp lý biết chừng nào!
Khi niềm vui của chúng ta được quyện vào tình thương của Chúa, thì niềm vui của mỗi người được trở nên trọn vẹn. Điều này đã được thánh Phaolô nhắc các tín hữu của Ngài: “Anh em hãy vui lên trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em” (Pl 4,4).
Không vui sao được, vì đối với người Công Giáo, niềm vui không chỉ dừng lại ở mùa xuân tự nhiên, mùa xuân của đất trời, hay mùa xuân của lòng người, mà niềm vui ấy còn được dâng cao để hòa quyện vào niềm vui Ơn Thánh, niềm vui của Mùa Xuân Vĩnh Cửu.
1. Niềm vui khi mùa xuân tự nhiên đến
Một quy luật tuần hoàn, sau 365 ngày, đất trời lại có mùa xuân mới. Cứ thế, nó đã đi vào quy luật tự nhiên. Quả thật: “Xuân khứ, xuân lai, xuân bất tận. Xuân đến, xuân đi, xuân lại về”. Có mùa xuân, bởi vì trái đất vần xoay, nên hết xuân sang hạ, hết hạ sang thu, hết thu sang đông và hết đông lại sang xuân.
Đây là quy luật của Tạo Hóa, Đấng đã cho tứ thời bát tiết chuyển xoay... khi mùa xuân đến, mọi người, mọi nhà, đều được hưởng niềm vui!
Vì thế, trên khuôn mặt mỗi người đều nở những nụ cười tươi vui, hạnh phúc, vì ai ai cũng được tận hưởng mùa xuân. Niềm vui ấy không thể giữ lại cho riêng mình, vì thế, chúng ta thường trao tặng cho nhau những lời cầu chúc tốt đẹp. Mong cho mọi người phúc ấm bền lâu, khang an thịnh đạt, phúc, lộc, thọ...
Thật là ý nghĩa khi mỗi người đều mong cho mình và cho tha nhân được:
“Tân niên thánh đức bao ân phúc,
Xuân nhật an hòa mãi phú vinh”
Tại sao có được niềm vui dạt dào nơi mọi người như vậy, thưa, bởi vì tự đáy lòng, con người cũng nở rộ mùa xuân.
2. Mùa Xuân của lòng người
Nếu xuân tự nhiên nơi đất trời là do quy luật tuần hoàn, thì xuân của lòng người hoàn toàn khác, bởi nó không tự đến rồi lại tự đi, mà phải do dày công vun đắp màu xuân mới có.
Vì thế, mùa xuân nơi lòng người, mỗi người cảm nghiệm mỗi khác, không ai giống ai. Có người thì vui, có kẻ lại buồn. Có người hạnh phúc, có người bất an. Có người được quây quần, có người chia ly. Có người được đoàn tụ, có kẻ bị cô đơn. Có người ấm lòng, có người lạnh tanh...
Như vậy, mùa xuân năm nay, có lẽ phải đặt ra cho mỗi người chúng ta một câu hỏi mà có nhiều người xem ra thật vớ vẩn, ngẩn ngơ, đó là: tết năm nay, xuân năm nay, bạn buồn hay vui???
Nhưng nghĩ suy một chút thì phải chăng câu hỏi đó không đến nỗi hẩm hiu, nhưng nó gợi lại cho chúng ta về niềm vui, hạnh phúc có hay không trong năm mới, trong mùa xuân này!
Thật ra thì năm hết, tết đến, có người vui vì thu được nhiều tiền, buôn may bán đắt, gia đình xum họp, thêm con dâu, có con dể, đầy đủ ấm êm...
Nhưng cũng có biết bao nhiêu cảnh đời éo le! Năm mới mà nhà nghèo hơn ngày thường! Không có tiền, không có tình yêu! Cha mẹ ly tán, con cái bơ vơ...!
Hay nhìn rộng ra, mùa xuân là mùa của niềm vui, của hy vọng, nhưng niềm vui đâu chẳng thấy, hy vọng có lẽ là thứ xa xỉ phẩm khi thấy quá nhiều bất công, áp bức, bóc lột, đâm chém, xì ke ma túy; đạo đức giáo dục xuống cấp, học sinh như người vô học, con cái lếu láo với cha mẹ, cha mẹ vô trách nhiệm với con cái, bạn bè phản bội nhau...
Khi suy nghĩ như thế, chúng ta thấy, niềm vui của lòng người bị giới hạn vào tâm trạng nội tâm, vì thế cảm xúc hoàn toàn khác nhau!
Tuy nhiên, với người Công Giáo, chúng ta gặp nhau ở một điểm, đó là mùa xuân tự nhiên, kết hợp với lòng người và vươn tới Mùa Xuân Ơn Thánh.
3. Mùa Xuân Ơn Thánh
Nếu mùa xuân tự nhiên cứ đều đặn tuần hoàn nối tiếp: “Xuân khứ, xuân lai, xuân bất tận”, hay mùa xuân của lòng người phụ thuộc vào thành quả hay tâm trạng chủ quan, thì Mùa Xuân Ơn Thánh là một mùa xuân bất diệt, toàn diện và được trao tặng cho hết mọi người...
Tuy nhiên, Mùa Xuân Ơn Thánh này lại phụ thuộc vào mỗi người, nếu đón nhận thì được dồi dào, phong phú, nhưng không đón nhận thì trơ trụi, cằn khô.
Một trong những nguyên nhân khiến con người không có Mùa Xuân Ơn Thánh, đó là: tâm hồn tràn ngập tội lỗi, ích kỷ, kiêu ngạo, bất công... Những người như thế, họ luôn mang trong tâm hồn mình một trạng thái bất an, tù túng, và không chừng, linh hồn sẽ bị chết chóc, sầu thương ảm đạm!
Chỉ khi nào con người biết khôn ngoan quay trở về với Chúa, rộng tay làm phúc cho kẻ túng nghèo và lo sống một cuộc đời thánh thiện, thì sẽ được Thiên Chúa ân chúc phúc. Lúc đó, con người mới hưởng được Mùa Xuân Ơn Thánh, nói cách khác, lúc đó Mùa Xuân Vĩnh Cửu mới hiện về trong tâm hồn của con người.
Nói cách cụ thể hơn, nếu muốn cho mùa xuân trở về trong trái tim chúng ta, thì chúng ta phải thực sự trở nên giống trẻ thơ để đón nhận tình thương của Thiên Chúa, vì Mùa Xuân Ơn Thánh chỉ đến với tâm hồn đơn sơ trong trắng mà thôi.
Khi có tâm hồn đơn sơ trong trắng, chúng ta phó thác đường đời cho Chúa, và phần còn lại, đó là chúng ta đi trong đường lối của Ngài để được dồi dào ân lộc: “Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay”. Vì “Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao?”.
Hôm nay, ngày đầu năm mới, mỗi người chúng ta hãy cầu chúc cho nhau một năm mới không chỉ dừng lại ở niềm vui của mùa xuân đất trời, cũng không hệ tại lòng người, nhưng chúng ta luôn hướng lòng về Mùa Xuân Ơn Thánh – Vĩnh Cửu.
Ước mong Mùa Xuân Ơn Thánh – Mùa Xuân Vĩnh Cửu luôn ngự trị trong tâm hồn của chúng ta, để mỗi người chan chứa ân sủng và bình an trong năm mới này.
Kính chúc cộng đoàn một năm mới luôn luôn dạt dào Ơn Thánh, để:
“Xuân sang cội phúc sinh nhành lộc
Tết về cây đức trổ thêm hoa”
80. GIAO THỪA—Xin Chúa tươi mét mặt và nhìn đến chúng ta–Jos.Vinc. Ngọc Biển
Trong một năm, giờ phút này có lẽ là giờ phút thiêng liêng nhất! Bởi vì đây là thời khắc chuyển giao giữa năm cũ và năm mới, thời mà cha ông ta vẫn gọi với cụm từ rất thân thương: “Tống cựu – nghinh tân”.
Trong giờ phút này, nhiều nơi có những phong tục, truyền thống, lễ hội diễn ra nhằm tạm biệt năm cũ và chào đón năm mới. Họ cũng thường cầu chúc cho nhau những điều tốt đẹp trong khoảnh khắc này. Nào là: cầu chúc cho ông bà khỏe mạnh; cho anh chị hạnh phúc; cho con cháu ngoan hiền, cho công việc thuận lợi, cho hoa màu tốt tươi… Sự mong ước đó được nhiều người thể hiện qua mâm ngũ quả như: mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài, sung hay qua những cành lộc tươi tốt, xum xuê hái được trong giờ khắc linh thiêng của đêm giao thừa.
Tuy nhiên, với người Công Giáo, niềm tin dạy cho chúng ta rằng: trong khi vui mừng đón mùa xuân đất trời, xuân tự nhiên, thì chúng ta còn có một niềm vui khác, đó là niềm vui tinh thần, niềm vui Tin Mừng, bởi vì qua mùa xuân hữu hạn, chúng ta được mời gọi hướng về Chúa là Mùa Xuân Vĩnh Cửu. Vì thế, trong giờ phút này, cộng đoàn chúng ta quy tụ quây quần bên nhau trong Thánh Đường, để nguyện xin Chúa chúc phúc, đồng thời cũng để bày tỏ niềm tin yêu và phó thác nơi Thiên Chúa Ba Ngôi, vì chính người là Niềm Vui và là Mùa Xuân Vĩnh Cửu.
1. Con người là trọng tâm của lời chúc phúc
Tác giả Thánh Vịnh đã diễn tả sự chúc phúc và niềm phó thác ấy qua lời cầu nguyện: “Cúi xin Đấng tạo thành trời đất xuống cho bạn muôn vàn phúc cả từ Núi Thánh Sion” (Tv 134, 3). Trong sách Dân Số, tác giả cũng dẫn đưa con người về lời cầu nguyện hướng Thiên như vậy: “Nguyện Đức Chúa chúc lành và gìn giữ anh em! Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh em và dủ lòng thương anh em! Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em!” (Ds 6, 24-26).
Khi cất lên lời cầu nguyện với Thiên Chúa như thế, tác giả muốn đặt Thiên Chúa vào trọng tâm của đời sống con người, bởi vì chính Người cũng đã coi con người là trọng tâm của công trình tạo dựng. Điều này đã được sách Dân Số chứng minh: “Chúc như thế là đặt con cái Itraen dưới quyền bảo trợ của danh Ta, và Ta, Ta sẽ chúc lành cho chúng” (Ds 6, 24-27).
Còn niềm vui, hạnh phúc nào hơn cho bằng khi con người được Thiên Chúa rủ thương chúc phúc. Người chăm sóc chúng ta như gà mẹ ấp ủ đàn con, như người cha yêu thương con cái, như người bạn đỡ nâng đồng hành, như người chồng ấp ủ thương yêu! (x. TSNTLTX, số 6 ).
Đứng trước hồng ân lớn lao đó, tác giả Thánh Vịnh một lần nữa không khỏi ngỡ ngàng thốt lên: “Tôi ngước mắt nhìn lên rặng núi, ơn phù hộ tôi đến tự nơi nao?” (Tv 121, 1). Nhưng ngay lập tức, tác giả đã xác định không chút do dự: “Ơn phù hộ tôi đến từ Đức Chúa, là Đấng dựng nên cả đất trời” (Tv 121, 2).
Gợi lại một vài điểm như thế để thấy được rằng: Thiên Chúa là Đấng một dạ xót thương, Ngài luôn nhẫn nại và tha thứ tội lỗi, chữa lành bệnh tật, bao bọc chúng ta bằng ân sủng và tình thương (x. Tv 103, 3-4; 146, 7-9 ). Vì thế, thánh Phaolô mời gọi: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Kitô Giêsu” (1 Tx 5, 16-18). Và rồi thánh nhân cũng nhắc nhở: “Anh em đừng dập tắt Thần Khí […] Hãy cân nhắc mọi sự: điều gì tốt thì giữ; còn điều xấu dưới bất cứ hình thức nào thì lánh cho xa” (1 Tx 5, 19-22).
Mùa xuân đích thực là chính Chúa
Năm cũ đã qua, năm mới đang đến, có lẽ mọi người trong nhà thờ này đều mong muốn năm mới được mọi sự tốt đẹp…! Tuy nhiên, với những người có niềm tin nơi Chúa, chúng ta phải hướng lời cầu nguyện nơi mình vào trọng tâm ơn cứu chuộc, đó là: mong sao cho mình được đi trong đường lối của Thiên Chúa, được lòng thương xót của Người ấp ủ, bảo vệ, xin Người thương cứu giúp ta khỏi lỡ chân trật bước, giữ gìn ta khỏi mọi điều bất hạnh, ban cho sinh mệnh được an toàn (x. Tv 121, 3-8). Xin cho mình luôn được sự bình an của Chúa.
Như thế, hạnh phúc là điều con người luôn mong mỏi đợi trông. Nhưng như những gì đã chia sẻ, thì niềm vui, bình an và hạnh phúc đích thực của chúng ta khác hẳn với những người không có niềm tin. Vì thế, thật ý nghĩa trong đêm giao thừa này, chúng ta được nghe bài Tin Mừng nói về Tám Mối Phúc Thật. Tuy nhiên, Tám Mối Phúc này chỉ có những ai tin tưởng và khao khát đi tìm Mùa Xuân Vĩnh Cửu thì mới cảm thấy thuận tai và vui mừng, còn những ai không có niềm tin thì đây chính là tám mối họa, vì nó ngược đời, nghịch nhĩ!
Thật vậy, muốn được hạnh phúc đích thực, chúng ta phải sống khó nghèo theo tinh thần Tin Mừng, hiền lành, nhân hậu như Thiên Chúa, sầu khổ vì những tội lỗi đã phạm, khát khao những điều công chính, thương xót mọi người, sống trong sạch, xây dựng hòa bình và sẵn sàng làm chứng cho Chúa dù có phải đầu rơi máu đổ.
Tất cả những mối phúc đó, chúng ta cần phải có đức tin để không thấy cái ngược đời mà là thuận đời, không nghịch nhĩ mà thuận tai…
Mong sao, tết đến, xuân về, mỗi người chúng ta hãy đổi mới tinh thần và thể xác, hãy mặc lấy Mùa Xuân Vĩnh Cửu là chính Đức Kitô, để Ngài là niềm vui đích thực của chúng ta. “Nguyện Đức Chúa ban phúc lành và gìn giữ anh chị em! Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh chị em và dủ lòng thương anh chị em! Và chúc anh em được đầy ân sủng của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng trong suốt Năm Mới này”.
Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con, chúng con xin cảm tạ Chúa đã yêu thương gìn giữ chúng con trong suốt năm qua. Giờ đây, chúng con xin dâng năm mới này lên cho Chúa, để xin Người ban bình an, niềm vui và hạnh phúc cho chúng con. Xin cho mỗi người chúng con dù ăn, dù nói, làm việc hay nghỉ ngơi, luôn hướng về Mùa Xuân Vĩnh Cửu trên Thiên Quốc. Amen.
81. Lựa chọn đầu năm: Ưu tiên cho Thiên Chúa--Lm Giuse Nguyễn Văn Hữu
Năm hết, Tết đến, Xuân về, có nhiều điều khiến ta phải ưu tư lo lắng: Tết này ta ăn gì, mặc gì? Ta đi đâu để chơi xuân? Công việc làm ăn của ta sẽ như thế nào?
Chúa Giêsu dạy ta, đừng lo lắng cho mạng sống lấy gì mà ăn và cũng đừng lo lắng cho thân thể lấy gì mà mặc. Nhưng hãy phó thác mạng sống cho tình yêu quan phòng của Thiên Chúa. Điều ta cần phải làm và cần phải tìm kiếm trong suốt cả năm là “Tiên vàn các ngươi hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn các sự khác Người sẽ ban thêm cho sau.” Nghĩa là Chúa Giêsu bảo ta phải ưu tiên cho Thiên Chúa, lo tìm kiếm Nước Trời và sống công chính thánh thiện đẹp lòng Chúa. Nếu trọn đời ta sống theo lời Chúa dạy, chắc chắn trong cuộc sống ta sẽ được Chúa quan phòng chăn nuôi, gìn giữ như Người đã từng làm cho chim trời và hoa cỏ đồng nội.
Điều Chúa dạy sao mà giống điều cha ông chúng ta dạy thế! Cha ông chúng ta đã từng dạy con cháu rằng: “Đầu xuôi thì đuôi lọt”.
Người không tin Chúa, thì đầu năm người ta nô nức rủ nhau đi lên đình lên chùa xin lộc thánh lộc thần, cuối năm người ta rộn ràng đến với thần thánh để tạ ơn.
Có một bài báo viết rằng những ngày đầu năm cũng như cuối năm lượng người đến với Bà Chúa Kho ở Bắc Ninh rất đông. Có những người bận trăm công, nghìn việc cuối năm nhưng cũng không quên đến trả nợ Bà. Đầu năm đã đi vay của Bà thì cuối năm dù giàu hay nghèo, làm ăn phát tài hay thất bát vẫn phải trả đủ Bà và trả thêm phần lãi. Người vay nhiều thì trả nhiều, vay ít thì trả ít. Có người vay vài chục tỷ, cuối năm thuê cả xe tải chở lễ vật đến trả.
Có mặt tại đền, một tiểu thương ở Bắc Ninh cho biết: từ ngày lấy vợ, mở cửa hàng buôn bán năm nào anh cũng đến vay ít vốn. Đầu năm, anh vay của Bà 100 triệu đồng nên hôm nay anh và vợ anh mang đến cả gốc lẫn lãi lên đến 300 triệu.
Anh vui vẻ: “Mặc dù năm nay làm ăn cũng được, tiền làm ra lắm nhưng tiêu nhiều hơn. Mình tự nhủ có lẽ đầu năm có người cầm nhầm lễ của mình nên hơi xáo trộn trong buôn bán”. Anh nhớ lại hôm mùng 6 Tết năm ngoái, hai vợ chồng anh đi vay vốn trong cảnh người chen lấn. Khi đặt được lễ xuống đất, khấn lạy bà rồi lại chen ra để... thở, một lát sau anh vào không nhận ra nổi mâm cúng của mình đâu. Anh đành ngậm ngùi bê tạm một mâm của người khác ra hoá vàng.
Đầu năm anh chị em đến nhà thờ rất đông. Đến nhà thờ để xin ơn xin lộc Chúa. Chúa không cho mượn cũng không cho vay, nhưng Chúa ban tặng, biếu không cho ta tất cả. Nhưng lễ tạ ơn cuối năm được mấy chục người, được mấy gia đình. Cuối năm người đi chợ đông hơn đi nhà thờ, tất bật làm ăn, rộn ràng lo sắm tết hơn là tất bật và rộn ràng lo tạ ơn Chúa.
Ta xử sự như thế phải chăng ta vô ơn và coi thường ơn Chúa? Phải chăng ta không nhận ra, không nhình thấy ơn lành của Chúa trong đời sống cũng như trong những thành quả lao động?
Một dấu chỉ sự chúc lành của Chúa, một điều lạ lùng xảy ra nhãn tiền trong năm qua là mỗi người và mỗi gia đình chúng ta dù yếu đuối, tội lỗi, bất trung, nhưng chúng ta vẫn lãnh nhận biết bao tình thương, sự tha thứ và ơn lành của Chúa về phần hồn cũng như phần xác. Thế mà cuối năm, nhà thờ, thánh lễ vẫn vắng bóng người đến tạ ơn Chúa. Ta xử sự với Chúa như thế chẳng phải là ta chỉ lo tìm kiếm cái ăn cái mặc, ta chỉ lo lắng xây dựng trần thế này mà thôi, còn việc tìm kiếm Nước Thiên Chúa và làm đẹp lòng Chúa, thì ta chẳng cần quan tâm. Nói khác đi ta chỉ cần lo cho “đầu xuôi”, chẳng cần phải lo cho “đuôi lọt.”
Lạy Chúa, xin cho con trọn đời biết ưu tiên cho Chúa và tìm kiếm Nước Trời cũng như đức công chính của Người, để con luôn được Chúa quan phòng, gìn giữ chở che ở đời này và đời sau. Amen.
82. Thánh Lễ GIAO THỪA
Trong những ngày này và cách riêng trong những giờ phút linh thiêng của năm cũ sắp qua đi, nhường chỗ cho thời gian năm mới đến, tự nhiên mỗi người, mỗi gia đình và toàn xã hội đều muốn có cái nhìn tổng kết mọi mặt về một năm đã qua. Tất nhiên anh chị em cũng muốn chúng tôi trình bày một bản báo cáo tổng kết về Giáo Xứ để định hướng cho tương lai. Nhưng những báo cáo tổng kết chúng ta thường thấy dường như không phản ảnh những gì mà Lời Chúa đòi hỏi.
Trước hết Bài Sách Dân Số, chúng ta vừa nghe công bố, muốn khẳng định cuộc sống mỗi người, mỗi gia đình và của cả Dân Tộc, tất cả đều tùy thuộc vào CHÚC LÀNH của Thiên Chúa. Nói cách khác thời gian là HỒNG ÂN Thiên Chúa trao ban cho con người. Và vì thế cũng là Thời Gian mà con người phải công bố Phúc Lành của Thiên Chúa cho mọi người. Hơn thế nữa, Lời Chúa còn xác định thật rõ ràng: Chúc Lành của Thiên Chúa chính là việc "Chúa tỏ Nhan Thánh Chúa", là việc "Chúa ghé mặt lại". Nhan Thánh Chúa là Nhan Thánh của lòng thương xót, khuôn mặt Chúa là khuôn mặt của bình an. Tất nhiên, những công trình vật chất như nhà cửa, ruộng vườn, công ăn việc làm, những ngày lễ, ngày hội... tất cả đều có thể là những dấu chỉ của hồng ân, nhưng không phải là chính Hồng Ân nếu chúng không vén mở cho chúng ta thấy NHAN THÁNH CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT VÀ KHUÔN MẶT CỦA BÌNH AN của Chúa. Với quan điểm ấy, chúng ta thấy trong năm đã qua, Chúa đã tỏ Nhan Thánh Lòng Thương Xót Chúa qua rất nhiều cơ hội cách đặc biệt dành cho Giáo Xứ chúng ta. Nhưng khi đón nhận Hồng Ân Nhan Thánh, chúng ta cách nào đó lại đã che lấp Nhan Thánh mà phô trương khuôn mặt trần tục vinh vang của xác thịt. Chúng ta đã xúc phạm Nhan Thánh.
Để thấy rõ sự sai lạc của mình, chúng ta hãy nghe Thánh Phaolô minh giải về các Hồng Ân Chúa ban. Theo thánh Tông Đồ, mọi Hồng Ân đều đã được ban tặng cho chúng ta trong Chúa Giêsu Kitô. Và Hồng Ân trong Đức Giêsu chính là Thánh Thần và Lời Thiên Chúa. Hồng ân Thánh Thần và Lời Thiên Chúa nhằm thanh tẩy chúng ta, biến đổi chúng ta nên một thân thể trong Đức Kitô. Lẽ ra khi đón nhận những dấu chỉ của Hồng Ân, thánh Phaolô nói chúng ta phải tránh xa sự dữ dưới mọi hình thức, và giữ lại những điều gì tốt, nhưng thực tế xem ra không được như thế: khi sự dữ càng ngày càng xâm chiếm cuộc sống chúng ta.
Hồng ân Chúa nhằm đưa cuộc sống của Chúa Giêsu Kitô vào trong cuộc sống chúng ta để chúng ta được nên đồng hình đồng dạng với Người. Con người mà chính Người đã diễn tả trong bài Tin Mừng: đó là một người nghèo, một người hiền lành, một người than khóc, một người đói khát công chính, một người biết thương xót, một người trong sạch, một người kiến tạo hòa bình, một người chấp nhận bị bách hại vì lẽ công chính. Thế nhưng, mặc dù có thể được qúa nhiều dấu chỉ của hồng ân, nhưng chúng ta lại biến những dấu chỉ trở thành quyền lực của bản thân, để tự cao tự đại, để áp bức và khinh khi tha nhân! Và nhất là làm suy giảm sự hiệp nhất trong Giáo Xứ.
Vậy làm sao tôi có thể làm bản tổng kết của Giáo Xứ này trong năm qua. Thánh Phaolô cũng từng nói với giáo dân của mình "Anh chị em chính là triều thiên của tôi, anh chị em chính là chứng thư của tôi trước Nhan Thánh Chúa". Nhưng triều thiên tôi có, chứng thư tôi cầm trong tay là gì đây?
Nhìn lại năm cũ thực tế là như vậy, nhưng tôi không bi quan, tôi vẫn hướng về năm sắp tới với tâm tình tri ân và đền tạ, đồng thời vẫn kiên vững trong niềm hy vọng Chúa là Đấng Trung Tín, chính Người sẽ thực hiện điều Người muốn cho Giáo Xứ.
Dẫu sao trong tư cách là chủ chăn riêng của Giáo Xứ, tôi nhận mình có phần trách nhiệm chính yếu về những yếu kém của Giáo Xứ, do những thiếu sót và tội lỗi của chính mình. Vì vậy lẽ ra như thư Do Thái đã viết, hằng ngày tôi phải dâng của lễ đền tội bản thân đã lỗi phạm và cũng đền tội cho dân chúng nữa. Nhưng có lẽ chính những lễ dâng đền tội này chưa đủ đẹp lòng Chúa, vậy tôi xin anh chị em tha thiết cầu nguyện cách riêng cho tôi ngay từ giây phút này và trong năm mới biết dâng lên những lễ tế xuất phát từ "tấm lòng tan nát giày vò" để Chúa chẳng khinh chê mà ban cho Giáo xứ rực rỡ ánh Tôn Nhan Thương Xót và Bình An của Người, để Giáo Xứ trở nên dấu chỉ và thực tại của sự hiệp nhất yêu thương của Chúa giữa lòng xã hội hôm nay. Amen.
83. GIAO THỪA 2021 Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa--Lm Giuse Nguyễn Văn Tuyên
(http://giaophanthaibinh.org/bai-giang-le-giao-thua.html)
Có thể nói Phụng vụ Lời Chúa trong Thánh Lễ Giao thừa hôm nay là tổng hợp của những lời chúc phúc.
Theo truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, vào những dịp lễ tết, người ta thường cầu chúc cho nhau những điều may lành, đặc biệt là trong dịp Tết Nguyên Đán là Tết lớn nhất trong năm. Bởi vì người ta quan niệm rằng, vào những thời khắc thiêng liêng của một năm, nếu nhận được những lời chúc lành, thì cả năm đó, gia đình sẽ được bình an thịnh vượng, người người sẽ được hạnh phúc, ấm no.
Không chỉ người Việt Nam chúng ta, mà từ xa xưa, trong Cựu Ước, dân Do Thái cũng đã có thói quen người trên chúc phúc lành cho người dưới, như Giacop và Exau phải tranh nhau để hưởng lời phúc lành từ cha là Tổ phụ Ixaac.
Trong bài đọc thứ nhất trích sách Dân Số hôm nay, Đức Chúa qua môi miệng của Môsê đã chúc phúc cho toàn thể dân tộc Israel với những lời cầu chúc thật ý nghĩa: “Nguyện ĐỨC CHÚA chúc lành và gìn giữ anh em! Nguyện ĐỨC CHÚA tươi nét mặt nhìn đến anh em và dủ lòng thương anh em! Nguyện ĐỨC CHÚA ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em!' Chúc như thế là đặt con cái Ítraen dưới quyền bảo trợ của danh Ta, và Ta, Ta sẽ chúc lành cho chúng." (Ds 6, 24-27).
Bài Tin Mừng hôm nay cũng là những lời chúc phúc đầy yêu thương mà Chúa dành cho những người nghèo khó, hiền lành, sầu khổ, sống công chính, biết xót thương người, có lòng trong sạch, có công xây dựng hòa bình và bị bách hại vì chính đạo. (x.Mt 5,1-10).
Thử hỏi còn gì vui mừng và hạnh phúc hơn khi được chính Chúa là Thiên Chúa chúc phúc cho, bởi lời chúc phúc từ Thiên Chúa, không chỉ mang tính xã giao, nhưng là lời hiệu nghiệm. Vì Ngài là Đấng toàn năng và rất mực yêu thương con người, nên lời cầu chúc của Ngài cũng chính là phúc lành mà Ngài ban cho dân.
Đối với người Việt Nam, Giao thừa là thời khắc hết sức thiêng liêng và cao quý. Theo nguyên ngữ: "giao" là trao, còn "thừa" là nhận lãnh để tiếp tục. Năm cũ trao thời gian lại cho năm mới đón nhận và tiếp nối. Bởi vậy, khoảnh khắc giao thừa này là lúc rất thích hợp để chúng ta suy nghĩ về thời gian.
Chắc chắn lúc này, mỗi người trong chúng ta đều mang một suy nghĩ khác nhau với những cảm xúc không giống nhau, nhưng tất cả đều có một điểm chung, đó là tâm tình Tạ ơn và phó thác.
Tạ ơn, vì Chúa đã cho chúng ta sống đến giờ phút này. Gia đình chúng ta vẫn còn được sum vầy bên nhau quanh mâm cơm ngày Tết, trong khi có rất nhiều gia đình trong năm qua đã phải chia lìa, li tán, mất đi những người thân yêu. Biết bao cuộc hỏa hoạn, những tai nạn giao thông, những thiên tai địch họa xảy đến cướp đi sinh mạng của bao người dân vô tội, trong khi đó, chúng ta vẫn sống bình an.
Trong năm qua, công ăn việc làm có thể không như chúng ta mong đợi, nhưng ngày ba bữa cơm, Chúa vẫn ban cho đầy đủ, trong khi nhiều người còn lâm vào cảnh thất nghiệp và nghèo đói. Mùa Đông với cái rét cắt da cắt thịt, ta vẫn có cái để mặc, trong khi ngoài kia còn có biết bao người chẳng có lấy một mảnh áo để che thân.
Một năm qua, ta gặp gỡ thêm biết bao nhiêu con người mới, thiết lập thêm bao mối tương quan, nhờ những sự trợ giúp cách nào đó của họ, mà chúng ta có thêm tin tưởng để bước tiếp hành trình dương thế này.
Suốt một năm qua, đã biết bao lần Chúa đã che chở cho ta cách âm thầm mà ta không hề biết. Đó là những khi Ngài giải thoát ta khỏi căn bệnh hiểm nghèo mà đáng lý ra chúng ta đã không qua khỏi; đó là những khi gia đình ta gặp những bất hòa, lục đục, cãi vã, tương quan vợ chồng đang trên bờ vực thẳm, nhưng rồi dưới sự chở che của Ngài, mọi sự đều đã qua đi.
Một năm qua, biết bao lần vì vô tình hay hữu ý, ta đã làm tổn thương đến người khác, lỗi nghĩa cùng Chúa, khiến cho cuộc sống của ta chẳng mấy khi bình an. Dường như ta thiếu sốt sắng trong việc đạo nghĩa, dường như ta có phần chểnh mảng trong việc tham dự Thánh lễ hay các giờ kinh nguyện… Nhiều khi, vì ích kỷ mà đã có những lúc ta chỉ chăm lo cho bản thân mình hơn là lo cho người bạn đời hay cho những đứa con yêu dấu; Biết đâu đã có vài lần ta đã nói những lời khiến cha mẹ phải phiền lòng; lắm khi vì mải chơi, mà chúng ta chưa cố gắng học tập cho nghiêm túc, còn sa đà vào những trò chơi vô bổ làm ảnh hưởng đến bản thân cũng như gia đình… Có lúc ta không kim nén được cảm xúc của mình mà gây gổ, to tiếng với người hàng xóm, khiến mối tương quan giữa hai gia đình trở nên căng thẳng, nặng nề…; đã bao lần ta bỏ lỡ cơ hội làm một việc tốt, đã không dám đưa tay ra để giúp đỡ cho những anh chị em đau khổ, những người cần đến sự trợ giúp của chúng ta… Ta vẫn còn co cụm trong thế giới của riêng mình mà chưa dám mở lòng mình để nói một lời an ủi, một lời yêu thương với những người khổ đau, bất hạnh…
Nhìn lại một năm đã qua, đó không phải là khoảnh khắc ta lôi tất cả những gì chưa tốt đẹp trong quá khứ để dày vò bản thân hay để than trách một ai đó, nhưng là cơ hội để thêm một lần nữa, ta nhận ra hình ảnh của Chúa vẫn song hành bên ta trong từng bước đi của cuộc sống.
Trong thời khắc thiêng liêng này, còn gì thích hợp và ý nghĩa hơn khi chúng ta mặc lấy tâm tình của thánh Phaolô trong lời ngài nhắn nhủ với tín hữu Thêxalônica rằng: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Kitô Giêsu.” (1 Tx 5, 16-18).
Tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh cũng là điều mà chúng ta không chỉ làm trong giờ phút Giao thừa này, mà là làm trong suốt cuộc đời. Bởi lẽ, tạ ơn là thái độ căn bản của người Kitô hữu đối với Thiên Chúa, vì tất cả những gì con người có đều là hồng ân Thiên Chúa ban cho.
Vậy giờ đây, chúng ta hãy mặc lấy tâm tình của Mẹ Maria để hát lên bài ca Chúc tụng Chúa (Magnificat) rằng: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa... vì Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả. Ngài quyền năng và Danh Ngài là Thánh” (Lc 1, 29-55).
84. GIAO THỪA--M. Bảo Tịnh Viện phụ Phước Lý
(Ds 6, 22-27; 1Tx 5, 16-26.28; Mt 5, 1-19)
(http://hoidongxitothanhgia.com/suy-niem-chua-nhat/bai-giang-le-giao-thua-m-bao-tinh-vien-phu-phuoc-ly-696.html)
Ông bà anh chị em thân mến,
Lời Chúa trong các bài đọc của Thánh Lễ Giao Thừa làm nổi bật lên những lời chúc lành, chúc phúc, vui mừng và tạ ơn. Những điều ấy như là điều kiện sống niềm tin và nói lên căn tín của người kitô hữu.
Ở bài đọc 1: Sách Dân Số thuật lại lời Đức Chúa truyền cho Ông Môsê phải nói lại cho ông Aharon và con cái ông công thức thực hiện sự chúc lành cho dân. Công thức này gồm ba lời:
-Nguyện Đức Chúa chúc lành và gìn giữ anh em.
-Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến và dủ lòng thương anh em.
-Nguyện Đức Chúa ghé mắt và ban bình an cho anh em.
Người Do Thái tin rằng: lời chúc lành này mang đến một hiệu năng thật sự từ quyền năng của Lời và của Danh Thiên Chúa. Ba lần nhân Danh Thiên Chúa của Giao Ước để chúc lành, điều ấy sẽ làm mới lại tính hiện tại của giao ước, lời hứa và những yêu cầu của Thiên Chúa
*Công thức chúc lành này làm nổi bật lên hình ảnh:
-một Thiên Chúa quyền năng: ‘gìn giữ’.
-một Thiên Chúa nhân từ: ‘dủ lòng thương’
-một Thiên Chúa đầy nguồn ân phúc (ân sủng và hạnh phúc): ‘bình an’.
-một Thiên Chúa luôn hiện diện: ‘nhìn’ đến chúng ta.
*Người Do Thái dùng công thức chúc này để sống phó thác và đặt mình dưới quyền ‘bảo trợ, bảo kê’ của Thiên Chúa.
Anh em nhà Bernard và Louis Hurault cho biết, Thánh Phanxicô Assisi rất thích sử dụng công thức chúc lành này (x. Lời Chúa Cho mọi người, Kinh Thánh CƯ và TƯ, bản dịch của nhóm các giờ kinh phụng vụ, phần chú thích của bản văn)
Bài đọc 2, trong thư thứ nhất gửi giáo đoàn Thessalonica, chúng ta nhận thấy Thánh Phaolô nói với các tín hữu này về những lời khuyên và những lời nguyện chúc:
*Những lời khuyên: Thánh Phaolô khuyên các tín hữu thể hiện niềm tin qua các việc làm như:
-vui mừng và cầu nguyện không ngừng.
-tạ ơn Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh.
-khôn ngoan và biết phân định trong những sự kiện xẩy đến trong đời sống hằng ngày.
*Những lời nguyện: chúng ta thấy có hai lời nguyện:
-lời nguyện thứ nhất: nguyện xin Thiên Chúa Cha là nguồn mạch bình an, thánh hóa các tín hữu để thần trí, tâm hồn và thân xác của họ được vẹn toàn, không hoen ố đang khi đợi chờ ngày quang lâm Con của Người, là Chúa Giêsu Kitô. Lời nguyện xin này, đưa các tín hữu đi vào hai tương quan. Tương quan với Thiên Chúa Cha ở cuộc sống hiện tại và tương quan với Chúa Kitô ở cuộc sống mai hậu. Như vậy, cuộc sống hiện tại của tín hữu có liên quan chặt chẽ với ngày cánh chung. Bởi thế, ở hiện tại, họ phải sống làm sao để ngày cánh chung không phải hối tiếc.
-lời nguyện thứ hai: lời nguyện chúc cho các tín hữu được đầy ân sủng của Đức Giêsu Kitô. Lời nguyện chúc này, đưa các tín hữu vào tương quan với Chúa Kitô, để nhờ, với và trong Chúa Kitô, các tín hữu nhận được ân phúc sống đời sống mới, đời sống trong Thần Khí và làm con Thiên Chúa.
Bài Tin Mừng, thánh Matthêu thuật lại, Chúa Giêsu nêu lên tám mối phúc như là luật mới cho dân mới của Thiên Chúa. Dân này, không là 12 chi tộc Israel nữa mà thuộc mọi nước mọi dân, mọi ngôn ngữ, sắc tộc và màu da.
Tám mối phúc này, đòi buộc các kitô hữu không những phải sống, mà còn phải làm chứng bằng chính cuộc sống của mình. Dù cuộc sống của họ có thế nào, thì niềm vui trong lòng họ vẫn phải tỏa rạng ra trong cuộc sống; bởi niềm vui này là niềm vui của Tin Mừng, niềm vui mà Chúa Giêsu đem đến cho họ (x. Tông Huấn Evangelii Gaudium 3)
Người kitô hữu là người sống niềm vui và là chứng nhân của niềm vui. Trong bài giảng thánh lễ sáng thứ Năm 26-03-2015 tại nguyện Santa Marta, Đức Giáo Hoàng Phanxicô khẳng định: ‘ thật là buồn khi là một tín đồ không có niềm vui. Niềm vui của đức tin, niềm vui của Tin Mừng là tảng đá góc tường cho đức tin của một người. Không có niềm vui, người đó không phải là một tín đồ thực sự.’
Kết thúc bài chia sẻ, xin mượn lời của ai đó: Kính chúc mọi người một năm mới tràn đầy niềm vui và hạnh phúc! Vui trong sức khoẻ, trẻ trong tâm hồn, khôn trong lý tưởng, trưởng thành trong…. tất cả mọi lĩnh vực….Vui trong phục vụ, phụng sự trong tin yêu, tiêu tan mọi lo âu, thâu lượm nhiều thánh đức. Amen.
85. GIAO THỪA Đoàn Tụ--Mt 5, 1-10–Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Tết là khởi đầu của một năm, là dịp lễ quan trọng và linh thiêng nhất trong một năm. Ngày Tết ai cũng ao ước khởi đầu lại. Ai cũng muốn rũ bỏ những gì không tốt đẹp của năm qua để đón nhận một luồng sinh khí mới. Thế nên, mọi người đều cố gắng vui vẻ độ lượng với nhau, bỏ qua hiềm khích cũ. Sống tình thân ái trong những ngày Tết. Lòng người ai cũng tràn đầy hoài bão về hạnh phúc và thịnh vượng cho năm mới.
Ngày tết với những giờ phút rất linh thiêng gọi là giao thừa. Một thời khắc giao thoa giữa cũ và mới. Giữa quá khứ và hiện tại. Một thời khắc con người như muốn chuyển mình cùng vạn vật, hoà mình vào chốn tâm linh, bỏ lại phía sau bao nỗi ưu tư, vất vả truân chuyên trong cuộc sống. Một thời khắc tràn đầy niềm lạc quan hy vọng cho một năm mới an bình, hạnh phúc và thịnh vượng.
Ngày Tết còn là dịp để gia đình dòng tộc sum họp. Dù ai đi ngược về xuôi cũng muốn trở về đoàn tụ với gia đình trong giây phút linh thiêng ấy. Quây quần bên bàn thờ, thắp lên nén hương trầm trên bàn thờ tổ tiên để tưởng nhớ tới ông bà, cha mẹ những người đã nuôi nấng sinh thành ra mình nay đã khuất. Vì cây có cội, nước có nguồn. Con người cũng phải nhớ về tổ tiên để tỏ lòng tri ân và cầu mong các ngài chúc phúc cho một năm mới bình an.
Trong giây phút giao thừa, mỗi thành viên trong gia đình thường lần lượt chúc tuổi nhau. Con cháu chúc mừng ông bà mạnh khoẻ sống lâu. Ông bà cha mẹ mừng tuổi lại con cháu chăm ngoan, học giỏi, thảo hiếu, vâng lời.... Ngày tết người lớn thường không quên lì xì cho con cháu với một ý nghĩa tượng trưng, mong sang một năm mới con cháu sẽ gặt hái được nhiều điều tốt đẹp.
Một việc làm trong Ba ngày tết có lẽ không thể thiếu chính là lễ hội tâm linh. Ngày tết người Phật Giáo rủ nhau đi Chùa. Người Công Giáo đến Nhà Thờ như muốn hoà vào dòng người đi lễ để cảm nhận được sự giao hoà của trời đất. Để gởi gắm vào chốn linh thiêng những ưu từ hoài bão lên Đấng Tạo Thành. Chính nơi đây, con người cũng tìm thấy sự thanh thoát, nhẹ nhàng cho tâm hồn như những làn khói nhẹ bay vào chốn không trung.
Người Công Giáo chúng ta luôn nhìn nhận Thiên Chúa là chủ thời gian. Thiên Chúa sắp đặt mọi vận hành của trời đất và con người. Thế nên, gửi gắm tâm tình lên Đấng Tạo Thành trời đất là lẽ thường tình. Chỉ có Ngài mới làm cho "con tạo xoay vần" theo chu kỳ của nó. Chỉ có Ngài mới giúp con người đạt được ước nguyện của mình.
Thế nên, hôm nay trong giây phút giao thừa, mỗi người hãy để lòng mình thanh thản nương theo thánh ý Chúa. Hãy trao vào tay Chúa những ưu phiền lắng lo. Hãy đặt niềm tin trọn vẹn vào Thiên Chúa có thể xoay vần cuộc đời theo như ý Ngài. Xin phó thác mọi sự trong tay Ngài. Và trước thềm một năm mới, chúng ta cùng kính chúc nhau:
- Vừa đủ HẠNH PHÚC để giữ tâm hồn luôn ngọt ngào
- Vừa đủ THỬ THÁCH để luôn kiên nhẫn trung kiên
- Vừa đủ HY VỌNG để luôn hạnh phúc
- Vừa đủ THẤT BẠI để luôn khiêm nhường
- Vừa đủ THÀNH CÔNG để luôn nhiệt tâm
- Vừa đủ BẠN BÈ để được an ủi
- Vừa đủ VẬT CHẤT để đáp ứng mọi nhu cầu
- Vừa đủ NHIỆT TÌNH để đời thêm hân hoan
- Vừa đủ NIỀM TIN để xua tan thất bại
Xin cầu chúc cho nhau một đêm giao thừa ấm áp Tình Chúa – Tình Người. Amen
86. GIAO THỪA--Giây phút thiêng liêng—Mt 5, 1-10
Cứ mỗi giao thừa, tôi lại có những cảm nghiệm về giây phút linh thiêng, giây phút bàn giao giữa năm cũ và năm mới. Mà sao không lạ lùng và hồi hộp khi năm cũ nhường bước cho những giây phút linh thiêng nhất, giây phút đẹp nhất cho một năm mới khởi đầu. Và Hàn Mạc Tử đã không ngần ngại viết những câu thơ thật truyền cảm, nhẹ nhàng như đưa hồn cao người vào chốn linh thiêng, tuyệt diệu: “ Đây phút thiêng liêng đã khởi đầu. Trời mơ trong cảnh thực huyền mơ! Trăng sao đắm đuối trong sương nhạt. Như đón từ xa một ý thơ ".
GIÂY PHÚT LINH THIÊNG CỦA MỘT ĐÊM KHAI MÀO NĂM MỚI: Sự linh thánh của đêm giao thưa như gợi trong trí của mỗi người về giây phút hết sức huyền diệu, giây phút hết sức linh thánh, giây phút đong đưa giữa cái cũ và cái mới. Lời thánh vịnh: “ Cúi xin Đấng tạo thành trời đất, xuống cho đoàn con muôn ngàn phúc cả từ núi thánh Sion " (Tv 133, 3).
Lời thánh vịnh này là lời khẩn cầu Thiên Chúa tưới xuống muôn hồng ân để con người, mỗi người được sống trong niềm vui, hạnh phúc và sự an bình.Giây phút giao thừa vẫn là giây phút đẹp, giây phút thiêng liêng, giây phút mà mỗi người đều cảm thấy như có một cái gì đó thôi thúc, như có một cái gì đó níu kéo con người và làm cho con hướng tâm hồn lên cao, hướng tâm hồn lên Thiên Chúa để xin Thiên Chúa gia ân giáng phúc cho cho mọi người, mọi nhà hầu con người được sống trong hòa bình và sống trong yêu thương. Đêm giao thừa, người ta vẫn có tục lệ khấn vái cầu xin ơn trên đổ muôn ơn hồng phúc xuống cho con người. Đối với với người công giáo, đêm giao thừa sẽ là đêm người Kitô hữu ngước mặt lên Chúa và cầu khẩn nguyện xin: “ Trong giờ phút giao thừa này, chúng con hướng tâm hồn lên Chúa. Cúi xin Chúa rộng ban cho chúng con một năm dồi dào phúc lộc, và đầy lòng hăng hái làm việc lành để tôn vinh Danh Thánh ". Giây phút giao thừa là giây phút trời đất giao hòa: Năm cũ nhường cho năm mới. Một năm mới đã mở ra và mọi người sống giây phút này trong niềm tin, trong hy vọng và sống trong sự yêu thương bởi chính Thiên Chúa là tình yêu.
GIÂY PHÚT GIAO HÒA GIỮA THIÊN CHÚA VÀ CON NGƯỜI: Trong đêm giao thừa, trong giây phút linh thiêng, con người đứng trước bàn thờ, dâng lên Thiên Chúa lời cảm tạ tri ân vì muôn vàn hồng ân Thiên Chúa đã ban cho con người, đã ban cho từng người trong suốt một năm qua. Giây phút giao hòa trời đất là giây phút con người gặp gỡ Thiên Chúa, con người gặp gỡ Đấng vô cùng thánh thiện. Thiên Chúa đang ở với con người, sống với con người và sống vì con người.Trong giây phút Thiên Chúa gặp con người và con người đối diện với Thiên Chúa. Con người hiệp với Hội Thánh ca tụng tình thương vô biên của Thiên Chúa: “ Lạy Cha Chí thánh là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Cha mọi nơi mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và sinh ơn cứu độ cho chúng con. Trong Cha chúng con được hiện hữu, được sống và hoạt động. Ngay trên cõi đời này, chẳng những chúng con hằng nghiệm thấy hiệu quả tình thương của Cha, mà còn nhận bảo chứng sự sống muôn đời. Quả vậy, chúng con được nhận lãnh ân huệ mở đầu là Chúa Thánh Thần, nhờ Người, Cha đã cho Đức Kitô sống lại từ cõi chết; do đó, chúng con hy vọng, muôn đời được sống lại từ cõi chết"
(Lời Tiền Tụng Chúa Nhật IV thường niên). Giây phút Thiên Chúa và con người là giây phút thánh thiêng, giây phút hạnh phúc nhất vì Thiên Chúa là Tình Yêu, là Mùa Xuân vĩnh cửu.
MUÔN ĐỜI VẪN LÀ LỜI CẢM TẠ: Cảm tạ là một hồng ân. Chính vì thế, con người, mỗi người luôn phải nói lời tri ân cảm tạ. Bởi vì, Thiên Chúa không cần lời cảm tạ của chúng ta, nhưng nói lên lời cảm tạ lại là một hồng ân Chúa ban.
Chúng ta cảm tạ Chúa vì Chúa ban sự sống cho chúng ta.
Chúng ta cảm tạ Chúa vì phép lạ lớn nhất Thiên Chúa đang làm cho chúng ta là cho chúng ta còn sống tới giờ phút này.
Chúng ta cảm tạ Chúa vì Chúa còn cho chúng ta thấy ngày khởi đầu của một năm mới.
Chúng ta cảm tạ Chúa vì Chúa còn cho chúng ta gặp gỡ mọi người.
Tình thương của Chúa đời con ca tụng (Tv 88). Lời Thánh vịnh này luôn thúc bách chúng ta hãy tạ ơn tình thương vô biên, tình thương tuyệt vời của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, trong giây phút giao thừa linh thiêng đêm nay, xin củng cố đức tin cho chúng con, để chúng con luôn nhìn ra tình thương tuyệt vời của Chúa và để chúng con nhận ra những giây phút mở đầu của ngày mới là giây phút quý hóa nhất cho một năm mới tốt đẹp và trong lành. Amen.
87. GIAO THỪA: Tha Thứ Để Có Niềm Vui Xuân-- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Ngày 03/10/2019, một thanh niên da đen 18 tuổi đã làm rúng động nước Mỹ, và có thể còn xa hơn nữa, với thông điệp tha thứ của anh.
Trong phiên tòa xét xử cô Amber Guyger, 31 tuổi, cảnh sát viên người da trắng.
Vì mải nói chuyện điện thoại cho nên cô đã đi nhầm vào phòng của anh Botham Jean, và ngạc nhiên khi thấy anh Botham đang ngồi ăn kem trong phòng khách, cô liền rút súng ra. Cô tưởng anh tấn công mình nên cô đã bắn hai phát súng trúng vào tim anh. Botham Jean, 26 tuổi, người da đen, đã chết trong căn phòng của mình một cách bất ngờ, ngỡ ngàng không hiểu tại sao mình phải chết!
Trong bối cảnh căng thẳng vì vấn đề màu da và vì tình trạng bạo hành của cảnh sát, phiên tòa xử cô Amber Guyger đã diễn ra hết sức căng thẳng.
Kết thúc 4 ngày xét xử, bồi thẩm đoàn đã nhất trí kết tội cô là ‘sát nhân’. Và kết án 10 năm tù.
Người em trai của Botham tên là Brandt Jean, 18 tuổi, khi được cho phép nói lên lời cuối với tội nhân, đã sử dụng thời gian đó tại tòa án để đưa ra một thông điệp tha thứ:
“Tôi không muốn nói hai lần hoặc hàng trăm lần cô đã lấy đi những gì, và bao nhiêu từ chúng tôi.
Tôi nghĩ rằng cô biết điều đó.
Nhưng tôi chỉ hy vọng rằng cô đến với Chúa với tất cả mọi tội lỗi và tất cả những gì tôi nghĩ là xấu xa mà cô đã từng làm trong quá khứ.
Ai trong chúng ta cũng có thể đã làm một cái gì đó chúng ta không nên làm.
Nếu cô thực sự hối hận. Tôi biết tôi có thể nói về phần tôi là tôi tha thứ cho cô.
Và tôi biết nếu cô đến với Chúa và xin Ngài tha thứ thì Ngài sẽ tha thứ cho cô. Thực tâm tôi không muốn cô phải ngồi tù. Tôi không muốn bất cứ điều gì xấu cho cô.
Ngập ngừng một lúc, anh quay sang phía chánh án hỏi:
Tôi không biết tôi có thể dành cho cô ấy một cái ôm không.
Xin vui lòng cho phép tôi.
Bà chánh án Tammy Kemp rất bối rối trước đề nghị này. Sau một lúc suy nghĩ bà nói “Được”.
Chứng kiến cảnh này bà chánh án Tammy Kemp đã rơi lệ.
Đây “Thật là một tấm gương đáng kinh ngạc về tình yêu và sự tha thứ Kitô giáo, chàng trai 18 tuổi đã thay anh tha thứ cho người sát hại anh và khuyến khích cô ấy hiến dâng cuộc sống của mình cho Chúa Kitô để bù đắp tội lỗi mình.
Hôm nay đêm giao thừa, nhắc lại sự kiện này như muốn mời gọi tất cả chúng ta “điều gì tha thứ được thì hãy tha thừ”, “điều gì có thể quên đi được thì hãy quên đi”, nhất là hãy quên đi oán giận, hận thù ganh ghét để cho tâm hồn thanh thản bước vào một mùa xuân mới của đất trời. Và nếu chúng ta là người đã nhận được sự tha thứ của anh em thì hãy hiến dâng cuộc sống mình phụng sự cho Chúa để bù đắp lại tỗi lỗi của mình.
Và giây phút giao thừa đã gần tới. Giây phút “tống cưu nghinh tân” là tống bỏ đi những điều không tốt để đón điều tốt đẹp đến với chúng ta. Giây phút này chúng ta hãy can đảm bỏ đi những đố kỵ, giận hờn, ghen ghét. Hãy làm mới tình người qua tinh thần hòa giải yêu thương. Giây phút này không ai muốn ưu phiền, càng không muốn những điều bực dọc đến với mình. Hãy gác lại những bất đồng ý kiến, những thành kiến cố chấp để cùng nhau đón một mùa xuân yêu thương và hạnh phúc.
Nhưng điều mà Chúa muốn chúng ta là phải dấn than để “hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện”. Vạn vật vào xuân để thay đổi thì con người muốn thăng tiến cũng phải vươn lên để hoàn thiện hơn.
Xin Chúa giúp chúng ta tống bỏ đi những điều xấu để mặc lấy con người mới. Con người đầy ân sủng của Chúa sẽ mang về cho nhân gian niềm vui và hạnh phúc. Xin Chúa chúc lành cho đêm giao thừa chúng ta tràn ngập tiếng cười vui và muôn lời cầu chúc tốt đẹp dành cho nhau. Amen
88. GIAO THỪA: Chìa Khóa Hạnh Phúc--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Lẽ đất trời có khởi thuỷ phải có tận cùng, một năm có bắt đầu ắt phải có kết thúc, bắt đầu vào lúc giao thừa, cũng lại kết thúc vào lúc giao thừa. Và đây là giây phút thiêng liêng và tuyệt đẹp, trời đất giao hòa, âm dương đan dệt vào nhau, mỗi người đều cảm thấy như có một cái gì đó thôi thúc, nhưng cũng có một cái gì đó níu kéo lòng ta, chúng ta đang ở vào thời khắc cũ giao lại, mới đón lấy, năm cũ sang năm mới.
Trong giờ phút huyền nhiệm này, mở ra những ngày mới, giúp con người hy vọng, cậy trông và tín thác vào Đấng tác tạo cả đất trời, Đấng ấy là Cứu Chúa của chúng ta. Không gì thích hợp bằng việc chúng ta phải làm trước tiên là hướng tâm hồn lên Chúa là nguồn mạch mọi ơn phúc, để xin Ngài giáng phúc thi ân cho mọi người, mọi nhà, hầu tất cả được sống bình an và yêu thương trong sự quan phòng của Chúa là Đấng Giầu Lòng Thương Xót và thứ tha.
Lời Thánh vịnh 133,3 mới đẹp làm sao: “Cúi xin Đấng tạo thành trời đất, xuống cho đoàn con muôn ngàn phúc cả từ núi thánh Sion” ( Tv 133, 3 ). Lời nguyện dưới đây lôi kéo chúng ta về với Chúa, Đấng là Alpha và Ô Mêga, là Nguyên thủy và là Cùng đích: “Lạy Thiên Chúa là Đấng vô thủy vô chung, là căn nguyên và cùng đích vạn vật, trong giờ phút giao thừa này, chúng con hướng tâm hồn lên Chúa. Cúi xin Chúa rộng ban cho chúng con một năm dồi dào phúc lộc, và đầy lòng hăng hái làm việc lành để tôn vinh danh thánh” (Lời Ca nhập lễ).
Lời Môsê ngỏ với Aaron và các con ông Aaron như sợi dây lôi kéo phúc lành và bình an của Chúa xuống cho dân: “Nguyện Đức Chúa ban phúc lành và gìn giữ anh em! Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh em! Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em” Chúc như thế là đặt con cái Israel dưới quyền bảo trợ của danh Chúa và Chúa sẽ chúc lành cho chúng (Ds 6n 22,27). Tác giả Thánh Vịnh nói cho chúng ta biết lý do tại sao phải hướng lòng lên Chúa và van xin Ngài: “Ơn phù hộ tôi đến từ Đức Chúa là Đấng dựng nên cả đất trời” (Tv 120, 1-2). Nếu như khi xưa thánh Phaolô đã khuyên tín hữu Thêxalônica, nay ngài cũng khuyên chúng ta: “Hãy cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh” (1Tx 5,16).
Trước thềm năm mới, mỗi người chúng ta đều mang trong mình những những tâm tư và ước muốn. Ưu tư nhìn lại quá khứ, hy vọng hướng tới tương lại. Vậy giờ đây chúng ta có những tâm tình nào, ước muốn gì, chờ đời gì và nhất là nói gì với Chúa? Chắc chắn một điều là ai cũng xin Chúa là Đấng vô thủy vô chung, là căn nguyên và cùng đích vạn vật, rộng ban cho một năm mới phúc lộc dồi dào, và lòng hăng hái làm việc lành để tôn vinh Danh Chúa.
Về phương diện con người, điều đầu tiên trong năm mới chúng ta cầu chúc cho nhau đó là chúc được bình an, hạnh phúc, vui vẻ, may mắn, mà người có đạo còn chúc nhau được đầy niềm vui và phúc lành của Thiên Chúa.
Về phía Thiên Chúa, vì Ngài là Thiên Chúa Tình Yêu, Ngài yêu thương con người và hằng mong muốn con người được hạnh phúc, nên Ngài sẵn sàng chúc phúc cho chúng ta, chúng ta hãy tin tưởng vào Ngài. Ngài vui khi nhìn thấy chúng ta mạnh khoẻ, cả về thể xác lẫn tâm hồn. Cha mẹ nào mà không vui khi thấy con cái mình lớn lên, khôn ngoan, khoẻ mạnh? Huống chi là Thiên Chúa, Đấng đã dựng nên chúng ta, không để chúng ta hư không đời, mà lại sinh ra ta cho ta được làm người…lại cho Ngôi Hai Xuống thế làm người để cứu độ, giải thoát ta khỏi mọi tội lỗi và sự dữ, cứu chúng ta khỏi án phạt đời đời. Lời Chúa trong Thánh lễ Giao thừa minh chứng rõ ràng rằng, Thiên Chúa muốn, chúng ta là những người hạnh phúc (x. Mt 5, 1-10).
Năm hết, Tết đến, người ta đều chúc nhau thật nhiều sức khoẻ, bình an, khang an và hạnh phúc trong năm mới. Chúc nhau đong đầy hạnh phúc, xuân sang đắc lộc, gia đình hạnh phúc, vạn sự cát tường… tựu chung lại là cầu mong cho nhau được hạnh phúc. Câu hỏi được đặt ra: Đâu là căn nguyên hạnh phúc của đời người chúng ta? Chúng ta phải quả quyết rằng: chỉ có Chúa mới là nguồn hạnh phúc của đời chúng ta, là hoan lạc của mọi tâm can, là bình an cho đời tươi thắp sáng.
Ở đầu mỗi câu Tin Mừng (Mt 5, 1-12) hôm nay là một loạt các từ “phúc”, chúng ta có thể suy diễn rằng, Thiên Chúa là Hạnh Phúc, nên Chúa cũng muốn chúng ta là những người hạnh phúc, những phúc nhân.
Thánh lễ Giao thừa này, Tin Mừng trình bày bài giảng dài đầu tiên của Chúa Giêsu nói với dân chúng trên ngọn đồi thoai thoải quanh hồ Galilêa. Thánh Mathêu viết: “Khi thấy đám đông, Chúa Giêsu lên núi: Người ngồi xuống và các môn đệ đến gần. Người bắt đầu giảng dạy họ” (Mt 5,1-2). Chúa Giêsu tuyên bố “phúc” cho người có tinh thần nghèo khó, người sầu khổ, người có lòng thương xót, những người đói khát công lý, có lòng trong sạch, những người bị bách hại (x. Mt 5,3-10). Ðây không phải là một ý thức hệ mới, nhưng là một giáo huấn đến từ trên cao và liên hệ tới thân phận con người chúng ta, thân phận mà Chúa đã muốn nhận lấy khi nhập thể, để cứu vớt. Vì thế, “Bài giảng trên núi được gửi đến tất cả mọi người, trong hiện tại và tương lai… và người ta chỉ có thể hiểu và sống bài giảng này trong hành trình theo Chúa Giêsu, đồng hành với Người” (Ðức Giêsu thành Nazareth, tr. 92). Năm Mới khỏi đầu, chắc chắn các Mối Phúc là một chương trình sống mới cho chúng ta, để được giải thoát khỏi những giá trị giả dối của trần gian và cởi mở đối với những thiện ích chân thực, hiện tại cũng như tương lai. Thực vậy, khi Thiên Chúa an ủi, thỏa mãn sự đói khát công lý, lau sạch nước mắt của những người sầu khổ, có nghĩa là Thiên Chúa mở Nước Trời, nơi hạnh phúc cho họ.
Trước thềm năm mới, chúng ta hãy khẩn cầu các thánh là những người đã được xem là phúc nhân, đặc biệt xin Mẹ Maria, là ‘Đấng đầy ơn phúc’, giúp con cái Mẹ trở thành những phúc nhân trong năm mới, nhất là trước tòa Chúa Giêsu Kitô, Con Mẹ đến muôn thủa muôn đời! Amen.
89. GIAO THỪA: Đêm Tạ Ơn--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Anh chị em thân mến
Một năm cũ sắp trôi qua và một năm mới sắp đến. Trong khoảnh khắc giao thừa giữa cũ và mới này, chúng ta đến với Chúa, Đấng Tạo dựng muôn loài, Đấng làm chủ thời gian, để tạ ơn Ngài về 365 ngày sắp qua, và xin Ngài giúp chúng ta biết sử dụng 365 ngày sắp đến theo đúng thánh ý Ngài.
Đêm nay người ta vẫn gọi là đêm giao thừa, là nhịp cầu chuyển tiếp giữa cũ và mới. Ai ai cũng mong muốn trút khỏi lòng mình mọi lo âu phiền muộn, không ai dám nhắc tới những rủi ro bất hạnh của ngày hôm qua, dường như ai cũng thầm mong ước cho đêm nay như là một khởi đầu tốt đẹp cho hành trình mới của tương lai. Ai cũng gác lại quá khứ để bước vào năm mới trong niềm vui và hy vọng như câu ca dao xưa:
“Đêm ba mươi co cẳng đạp thằng bần ra cửa.
Sáng mồng một giang tay bồng ông phước vào nhà”.
Thực vậy, mùa xuân, ngày tết, ai cũng mong nhận được nhiều phước lộc, nên ai cũng chúc cho nhau nhiều tài lộc, nhiều tiền, nhiều của. Những người có tín ngưỡng thì tin rằng may mắn, tiền của là ân lộc trời ban. Nhưng phước hạnh đời người mà chúng ta cầu chúc cho nhau không chỉ là nhắm đến tài lộc mà là hạnh phúc miên trường, hạnh phúc của người có tâm hồn bình an.
Nhìn lại một năm qua, có những người được hạnh phúc vì làm ăn thuận buồm xuôi gió, công thành danh toại, có những người hạnh phúc vì tìm được chân lý, tìm được lẽ sống, tìm được bình an trong tâm hồn. Nhưng vượt lên trên tất cả cái may mắn đó, chính là sự sống, là sự bình an của đời người. Sự sống luôn ở bên ngoài khả năng của chúng ta, sự sống của chúng ta hoàn toàn lệ thuộc vào Chúa.
Hạnh phúc là ân ban của Thiên Chúa. Con người không thể kiến tạo hạnh phúc cho mình bằng thủ đoạn, bằng gian dối hay sự ác. Con người phải sống ngay lành nhờ đó mà Thiên Chúa mới ban phúc lộc là bình an. Một năm qua với những vụ trọng án cho ta thấy con người không thể tạo dựng hạnh phúc cho mình bằng quyền lực để tham nhũng hại dân mà phải bằng tấm lòng luôn đi theo chân thiện mỹ. Đâu ai ngờ một ông Đinh La Thăng dám nói dám làm đầy quyền thế lại phải hầu tòa? Đâu ai ngờ một Trịnh Xuân Thanh luôn sống trong nhung lụa giầu có quyền thế lại phải thân tàn ma dại? Đâu ai ngờ một đại gia Vũ Nhôm khuynh đảo Tp đáng yêu Đà Nẵng lại có kết cục trong tù tội...?
Hạnh phúc đến từ lộc Trời ban xuống thì con người phải sống theo lẽ Trời. Phải sống ăn ở ngay lành và làm việc thiện phúc đức. Quy luật của trời đất là “Xởi lởi trời gửi của cho -Co ro trời co của lại”. Càng gieo nhân nghĩa con người lại càng tìm được niềm vui hạnh phúc tự trong tâm hồn. Đây gọi là tích đức để Trời sẽ ban hạnh phúc cho bản thân, cho gia đình và cho mọi người thân nhờ công đức của ta.
Nếu hiểu rằng hạnh phúc – bình an là lộc ban từ Trời thì giây phút này là giây phút tạ ơn về quá khứ đã qua. Tạ ơn Chúa đã ban cho chúng ta 365 ngày bình an. Tạ ơn Chúa vì những biến cố xảy ra trong cuộc đời giúp ta nhận ra tình yêu của Chúa luôn bao bọc gìn giữ chúng ta. Có thể đó là những đau khổ, là những mất mát nhưng chúng ta lại được bàn tay Chúa dìu dắt và bồng ẵm chúng ta qua những thăng trầm cuộc đời. Tạ ơn Chúa đã cho chúng ta niềm tin tưởng vào Chúa, nếu không, biết đâu giờ này chúng ta đang rơi vào tâm trạng tuyệt vọng vì không đủ can đảm đối diện trước gian nan.
Nguyện xin Chúa Xuân đang về trên quê hương ban cho chúng ta những giây phút đầu xuân tràn đầy bình an và hoan lạc. Xin Chúa Xuân chúc lành cho giây phút giao thừa này được vơi đi những ưu phiền để người người hưởng một mùa Xuân thánh ân hạnh phúc dư tràn. Amen
90. GIAO THỪA: Hướng về một mùa xuân mới
Trong ngày đầu năm, người ta thường tặng cho nhau những lời thật tốt đẹp như: “Vạn sự như ý”, “An khang thịnh vượng”, “tràn đầy hạnh phúc”, “phúc lộc dồi dào”… Đôi khi những lời chúc mang tính cách hài hước như: “Vạn sự như ý, tỷ sự như mơ”; hoặc giới trẻ chúc nhau: “Tiền vô như nước Sông Đà, tiền ra nhỏ giọt như… cà phê phin!”. Tất cả những lời chúc đó đều hướng đến sự hạnh phúc mà ai cũng mong chờ.
Tuy nhiên, trong thánh lễ Giao Thừa, qua phụng vụ Lời Chúa, chúng ta nhận được những lời chúc phúc tốt đẹp nhất từ chính Chúa. Những lời chúc phúc được thể hiện qua “Tám Mối Phúc Thật”.
Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó.
Phúc cho những ai hiền lành.
Phúc cho những ai đau buồn.
Phúc cho những ai đói khát điều công chính.
Phúc cho những ai thương xót người.
Phúc cho những ai có lòng trong sạch.
Phúc cho những ai ăn ở thuận hòa.
Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính…
Tám mối phúc thật chính là những cánh cửa của tâm hồn, được mở ra để đón nhận làn gió xuân, làn gió đem đến hạnh phúc và bình an cho tâm hồn trong năm mới này.
Tâm hồn chúng ta đã được quét dọn sạch sẽ, nhưng nếu những cánh cửa hạnh phúc ấy không được mở ra để đón nhận ánh sáng của Chúa, tâm hồn ta vẫn mãi chìm ngập trong bóng tối của đau khổ và thất vọng.
Cánh cửa hạnh phúc của “Tám Mối Phúc” còn mở ra cho chúng ta một tương lai tràn đầy niềm vui và hy vọng, giúp cho ta nhìn ra một thế giới rộng rãi hơn, bao la hơn của tình yêu thương. Cánh cửa ấy mở ra để chúng ta gặp được Thiên Chúa và anh em mình.
Tuy nhiên, để mở ra được những cánh cửa hạnh phúc ấy, chúng ta phải có chìa khóa của sự hy sinh, chìa khóa mang hình cây thập giá của đời phục vụ quên mình. Chiếc chìa khóa ấy đang nằm trong bàn tay chúng ta.
Ngày xưa, tại thành phố kia có một nhà hiền triết xuất hiện và tuyên bố có thể trả lời được tất cả mọi thắc mắc của những ai đến vấn kế.
Một hôm, có một người chăn cừu từ trên núi cao đi xuống xin gặp nhà hiền triết. Anh ta nắm chặt trong tay một con chim sẻ và hỏi nhà hiền triết: “Xin ngài cho tôi biết: con chim sẻ tôi đang cầm trong tay sống hay chết?”
Nhà hiền triết biết đây là một cái bẫy của người chăn cừu. Nếu ông bảo con chim còn sống, tức khắc người chăn cừu sẽ bóp con chim chết trước khi mở bàn tay ra. Còn nếu ông bảo con chim đã chết, lập tức anh ta sẽ mở bàn tay ra và con chim sẽ bay đi.
Sau khi suy nghĩ, nhà hiền triết trả lời: “Con chim sẻ ngươi đang cầm trong tay sống hay chết là tùy ở ngươi. Nếu ngươi muốn cho nó sống thì nó sống, nếu ngươi muốn nó chết thì nó chết”.
Hạnh phúc cũng giống con chim sẻ kia: đang nằm trong bàn tay ta, đang ở rất gần ta, đang ở bên cạnh ta. Hạnh phúc đích thực của đời ta là chính Thiên Chúa. Tuy nhiên, chúng ta có hạnh phúc hay không là tùy ở chính chúng ta: chúng ta có để cho Chúa sống trong chúng ta và chúng ta sống trong Ngài không.
Trong năm mới, chúng ta hãy dâng vào tay Chúa tất cả dự định tương lai và mọi chương trình sắp thực hiện. Chúng ta tin rằng: trong bàn tay Chúa, chúng ta luôn sống trong an bình và hạnh phúc.
Anh chị em thân mến
Năm cũ đang dần dần khép lại và năm mới đang dần dần mở ra cho chúng ta. Năm cũ đang lui dần vào quá khứ và năm mới đang từ từ dẫn chúng ta vào tương lai. Quá khứ – Tương lai – không nằm ở trong tay chúng ta. Một giây qua đi chúng ta không thể nào tìm lại được. Một phút chưa tới chúng ta cũng chẳng có cách nào để có được nó trong tay. Thời gian không nằm trong tay của con người nhưng nằm trong tay của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa mới là chủ của thời gian nhưng Thiên Chúa lại ban thời gian đó cho con người để con người sử dụng. Con người sử dụng thời gian để làm gì thì Sách Giảng Viên đã có những gợi ý rất hay:
Ở dưới bầu trời này,
mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời:
có thời để chào đời, có thời để lìa thế;
có thời để trồng cây, có thời để nhổ cây;
có thời để giết chết, có thời để chữa lành;
có thời để phá đổ, có thời để xây dựng;
có thời để khóc lóc, có thời để vui cười;
có thời để than van, có thời để múa nhảy;
có thời để quăng đá, có thời để lượm đá;
có thời để ôm hôn, có thời để tránh hôn;
có thời để kiếm tìm, có thời để đánh mất;
có thời để giữ lại, có thời để vất đi;
có thời để xé rách, có thời để vá khâu;
có thời để làm thinh, có thời để lên tiếng;
có thời để yêu thương, có thời để thù ghét;
có thời để gây chiến, có thời để làm hòa
Vì mọi sự Thiên Chúa làm sẽ tồn tại mãi mãi.
Không có gì để thêm, chẳng có gì để bớt.
Điều gì đang có, xưa kia đã có,
điều gì sẽ có, xưa đã có rồi.
Người công chính cũng như kẻ gian ác đều sẽ bị Thiên Chúa xét xử.
Vì mọi sự, mọi việc, đều có thời, có lúc. (GV 3,1-8;14-15)
Vâng quả đúng như vậy: mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời và thời giờ đi thật mau.
Dù ta muốn hay không muốn,
bằng lòng hay không bằng lòng,
vui hay buồn, sướng hay khổ,
thời giờ vẫn cứ đi, luôn luôn đi về phía trước.
Trong một bài thơ cổ, người ta đọc thấy những dòng chữ này:
Khi tôi là một đứa trẻ, tôi cười tôi khóc
thì lúc đó thời gian bò tới
Khi tôi là một thanh niên, tôi táo bạo hơn
thì thời gian đi bộ
Khi tôi trưởng thành, tôi là người chững chạc
thì thời gian chạy
Cuối cùng khi tôi bước vào tuổi chín mùi, tuổi già
thì thời gian bay
Chẳng bao lâu nữa là tôi chết
Thì thời gian đi mất
Ôi lạy Chúa, khi cái chết đến
thì ngoài Chúa ra, không còn gì là quan trọng nữa.
Trong đêm Thứ Bảy Tuần Thánh, Giáo hội nhắc cho mọi người biết: Thời gian là của Chúa. Đó là một sự thật vô cùng quan trọng, rất quan trọng đối với mọi sinh vật được sinh ra trên hành tinh này. Thế nhưng đã có rất nhiều người vô tình hay cố tình quên đi điều hết sức quan trọng đó. Thời gian là của Chúa.
Nữ hoàng Êlizabeth bên Anh sẵn sàng trả giá cả hàng triệu mỹ kim cho bất cứ một ai có thể kéo dài cuộc đời của bà thêm 5 phút để bà giải quyết nốt những việc còn lại, nhưng chẳng ai làm được việc đó.
Vậy tôi phải sử dụng thời giờ Chúa ban cho tôi như thế nào?
Vào một ngày cuối năm khi những giờ phút cuối cùng của năm cũ đang dần dần lui vào quá khứ, và giờ phút giao thừa đang dần dần đi tới với tất cả những huyền bí của thời gian.
Trong một túp lều tranh nhỏ bé, một bác nhà quê đang ngồi lim dim, lẻ loi một mình trong cô quạnh. Trí khôn bác đang dồn dập những ý tưởng mơ hồ viển vông về ngày Tết đang tới.
Tết tới những gia đình bác quá nghèo thành thử chẳng thấy được hương vị gì của của ngày tết.
Đang khi tâm hồn của bác còn phảng phất trong trong cõi mông lung vô hạn, thì bỗng tự trên ngọn tháp nhà thờ đồng hồ buông xuống 12 tiếng chuông vàng, thanh trong hoan hỉ. Giây phút linh thiêng của đêm giao thừa vừa mới bắt đầu, thì đột nhiên bác ta thấy một chàng thanh niên lạ mặt xô cửa bước vào, đi thẳng tới, nặng nề đặt xuống trước mặt bác một gói gì nằng nặng. Sau đó người thanh niên nhìn chằm chằm vào đôi mắt còn đang ngỡ ngàng của bác và nói:
– Đây một túi vàng. Túi vàng này ngươi hãy dùng cho khôn ngoan, rồi ngươi sẽ gặp được hạnh phúc.
Nói xong người thanh niên lạ mặt ấy nhún chân một cái rồi bay thẳng lên nóc nhà và biến đi trong đêm tối vào cõi thanh không.
Trước cảnh tượng vừa lạ lùng vừa đột ngột đó bác nhà quê cảm thấy rất sửng sốt và hoang mang. Bác đưa tay lên dụi mạnh vào mắt xem mình còn thức hay đã ngủ,
– Tôi mơ chăng?
Không! Bác không mơ. Hay có thể nói một giấc mơ đã trở thành sự thật.
Tâm hồn bác dần dần chấn tỉnh lại và thấy đây không phải là một giấc mơ mà là một sự thật, một sự thật hoàn toàn hiển nhiên.
Sau một vài phút suy nghĩ, bác liền nghiêm chỉnh tự nói với chính mình:
“Vàng này, một phần tôi sẽ dùng để trả nợ.
Còn dư bao nhiêu, tôi phải tiêu xài cho thật khôn ngoan.”
Kính thưa anh chị em
Câu chuyện trên đây là câu chuyện của tôi, của anh chị em, của mỗi người chúng ta. Một năm mới nữa lại sắp tới. Đây là thời gian Chúa ban chúng ta. Chúng quí hơn túi bạc túi vàng. Thánh Bernađinô nói: “Thời giờ quí bằng Thiên Chúa”
Thời giờ quí hơn vàng hơn bạc. Vàng bạc mất đi chúng ta có thể có lại. Vàng bạc mất đi chúng ta có thể tìm thấy. Nhưng một giây một phút qua đi là qua đi mãi mãi. Cho dù có là thần là thánh đi nữa chúng ta cũng không thể nào tìm lại được một giây một phút đã qua đi.
Thời giờ quí giá hơn vàng bạc. Vậy tôi phải bắt chước bác nhà quê kia. Một mặt tôi dùng thời giờ Chúa ban cho tôi trong năm mới này để trả nợ những gì tôi mắc nợ Chúa. Trong suốt một năm qua, Người đã ban cho tôi muôn vàn ơn cao qui: Ơn Bình an, ơn trung thành, ơn được sống trong ơn thánh. Chúa chăn nuôi tôi như mục tử chăn dắt đoàn chiên. Thế nhưng trong suốt năm qua, rất nhiều lần tôi đáp lại bằng những thất tín nặng nề. Trước thềm năm mới, tôi xin dâng lên Chúa Xuân những lời cáo lỗi chân thành.
Mặt khác, tôi sẽ dùng năm mới này cho khôn ngoan, lợi dụng từng giây từng phút mà góp công chuộc tội.
Nếu trong năm mới này hình ảnh Chúa Xuân trong hồn tôi được thêm tốt đẹp, thì năm mới này sẽ là một năm hồng ân và cuộc đời tôi sẽ ngập tràn hạnh phúc.
91. MỒNG MỘT TẾT--GKGĐ Giáo Phận Phú Cường
Qua trang Tin Mừng hôm nay, Chúa mời gọi chúng ta hãy xác tín: “Tiên vàn các con hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài, còn các điều khác Ngài sẽ ban thêm cho các con”. Đây là cốt lỗi của đời sống người Công giáo chúng ta.
Quả thế, ngày đầu năm mới, chúng ta vẫn có thói quen chúc nhau những điều thật tốt đẹp; mong muốn cho nhau được sức khoẻ, hạnh phúc và giàu có. Đó là ước muốn rất chân thành của mỗi chúng ta dành cho nhau. Ước muốn thoả đáp những lo lắng mà ai ai cũng quan tâm: “ăn gì, uống gì, lấy gì mà mặc” trong năm mới đáng đến. Đó là điều mong ước và tìm kiếm của tất cả mọi người dù có đạo hay không có đạo.
Thế nhưng, trước thềm năm mới, chúng ta lại được Chúa yêu thương mời gọi tín thác vào sự quan phòng của Chúa: “Cha các con biết rõ các con cần đến những điều đó”. Nói khác đi Chúa mời gọi chúng ta xem của cải vất chất chỉ là phương tiện giúp chúng ta đến với Chúa, giúp chúng ta đạt đến hạnh phúc là chính Chúa. Đừng bao giờ xem chúng như cứu cánh và cùng đích của cuộc sống. Vì thế, Chúa mời gọi: “tiên vàn các con hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài, còn các điều khác Ngài sẽ ban thêm cho các con”. Thiên Chúa sẵn lòng “ban thêm” cho chúng ta những của cải trần gian, sau khi Ngài ban cho chúng ta điều quan trọng hơn, quí giá hơn, đó là cuộc sống công chính và hạnh phúc trong Chúa.
Lạy Chúa, trong ngày đầu xuân mới này, xin cho chúng con biết tín thác vào sự quan phòng của Chúa. Xin cho chúng con luôn nhận ra muôn phước lành Chúa rộng tay thi ân trên cuộc sống chúng con. Chúng con luôn tín thác vào Chúa. Amen.
92. MỒNG MỘT TẾT Bình an trong năm mới --GKGĐ Giáo Phận Phú Cường
Ai trong chúng ta, ít nhiều cũng cảm nghiệm được rằng, điều quý giá nhất của con người không phải là giàu sang, phú quý hay địa vị, nhưng trước hết phải là sự bình an. Bình an cho đất nước, bình an cho gia đình và bình an cho mọi người.
Phụng vụ ngày mồng Một tết bao giờ cũng dành để cầu nguyện cho sự bình an. Bởi con người đứng trước thềm năm mới với biết bao niềm vui, nổi buồn đã trải qua trong năm qua, ngày hôm nay mọi người, mọi gia đình quy tụ lại trong bầu khí của hạnh phúc. Tuy nhiên, bên cạnh cảm xúc vui buồn, lại chất chứa cả cảm xúc băn khoăn và lo âu vì không biết năm mới sẽ như thế nào? Vì thế, đầu năm mới, chúng ta đến nhà thờ để cầu xin Chúa ban cho gia đình, cho xã hội và cho cá nhân của mỗi chúng ta được bình an trong năm mới.
Là Ki-tô hữu với đức tin mạnh mẽ, bình an mà chúng ta tìm kiếm, không phải là bình an không có khó khăn, mà bình an giữa những khó khăn, những trăn trở trong cuộc sống có Chúa đồng hành, nghĩa là chúng ta phó thác vào trong tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa bằng sự nổ lực cá nhân để sống đức tin mạnh mẽ này. Do vậy, Tin Mừng của thánh Mar-cô gợi lên cho chúng ta thấy rõ: “Anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho”.
Ở đây, Chúa Giê-su không đề nghị chúng ta lười biếng ngồi chờ thời, nhưng Người mời gọi chúng ta xây dựng bình an trong gia đình, trong xã hội và nơi cá nhân của chúng ta bằng con đường của Thiên Chúa và bằng sự chính trực công minh, nghĩa là mỗi Ki-tô hữu phải trung thành và có trách nhiệm trong ơn gọi của chính mình. Người chồng có trách nhiệm với vợ con, người vợ hãy cộng tác với chồng để chăm sóc hạnh phúc gia đình và nuôi nấng con cái, người con hãy tỏ lòng thảo hiếu và vâng lời cha mẹ để xây dựng tương lai của chính mình trong con đường hạnh phúc của Thiên Chúa.
Để có được bình an trong năm mới, trước hết chúng ta hãy để cho Thiên Chúa hiện diện trong gia đình, trong tâm hồn của mỗi người để Ngài hướng dẫn chúng ta đi theo đường lối của Ngài.
93. MỒNG MỘT TẾT Tín thác vào tình thương và quyền năng của Chúa--GKGĐ Giáo Phận Phú Cường
Hôm nay là ngày mồng Một tết, ngày đầu tiên của năm mới. Trong truyền thống dân tộc, mồng Một tết là ngày thiêng liêng nhất của cả năm, là khởi đầu của mọi sự khởi đầu, sự nghiệp của con người thành hay bại, tốt hay xấu một phần là do thời điểm thiêng liêng này quyết định. Đầu có xuôi thì đuôi mới lọt, với tâm thức đó, người ta đưa ra rất nhiều điều cấm kỵ như: Ngày tết không được quét nhà, hay có lỡ quét nhà thì không đổ bỏ rác đi vì sợ tiền và lộc sẽ đi khỏi nhà trong năm mới; ngày tết không được ăn mặc rách rưới, không được ở trần, kẻo bị nghèo và rách rưới cả năm; ngày tết không được chửi bới kẻo xui cả năm; hay trái cây chưng trên bàn thờ phải có: mảng cầu, đu đủ, xoài, v.v. với mục đích là “cầu đủ xài” cả năm.
Người ta tưởng tất cả những kiêng kỵ đó sẽ đem lại phúc lộc cho họ trong năm mới, nhưng thực ra tất cả hầu như không phải thế, đôi lúc còn ngược lại. Ai bảo đảm cho tôi rằng vì ngày tết tôi không quét nhà, nên cả năm tôi sẽ giữ được của cải! Chẳng lẽ tôi dâng kính cho ông bà tổ tiên những loại trái cây khác thì tôi sẽ bị đói rách nghèo khổ sao! Không ai chắn chắn cả!
Chính bài Tin Mừng hôm nay giải thích cho chúng ta cặn kẻ về nguồn hạnh phúc thật sự từ đâu mà có và muốn giữ được hạnh phúc đó, ta phải làm gì! Nguồn hạnh phúc đích thực của mỗi người chúng ta là đến từ Thiên Chúa - Đấng tạo thành trời đất muôn vật và là Cha quan phòng hằng chăm sóc mỗi người chúng ta. Thiên Chúa biết rõ chúng ta cần gì, Chúa Giêsu bảo: “Anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cũng cần tất cả những thứ đó” (Mt 6,31-32). Điều duy nhất mà Thiên Chúa muốn chúng ta phải làm là lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài, nhờ đó chúng ta được hạnh phúc không những ở đời này và cả đời sau nữa.
Cho nên, trong ngày đầu năm mới này, thay vì đặt niềm tin vào những điều cấm kỵ, kiên cử không chính đáng, chúng ta hãy đến với Chúa, đặt hết niềm tin tưởng và cậy trông vào Chúa là Đấng toàn năng, hằng yêu thương chăm sóc mỗi người chúng ta. Thánh Phaolô đã khuyên chúng ta rằng: “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em! Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh vui buồn sướng khổ, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện” (Pl 4,4-6). Lời Thánh vịnh cũng nhắc nhở chúng ta rằng: “hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay” (Tv 37,5).
Lạy Chúa, như trẻ thơ nép vào lòng mẹ, trong năm mới này chúng con xin tín thác vào tình thương và quyền năng của Chúa, xin Chúa luôn đồng hành với chúng con trong mọi cảnh huống cuộc đời. Amen.
94. Suy niệm ngày tết--Hiền Lâm
http://danvienphuocly.com/bai-giang/suy-niem-cac-ngay-tet-nguyen-dan-hien-lam-827.html
THÁNH LỄ GIAO THỪA--Mt 5, 1-10
Trong thánh lễ Giao Thừa, giờ phút linh thiêng nhất trong năm, thời khắc bàn giao lại mọi thứ của năm cũ để chào đón năm mới với bao hy vọng. Mọi Kitô hữu tìm đến gặp Chúa để được Người ban phước lành năm mới và xin Người xông đất nhà tâm hồn mình.
Bài Tin Mừng mà Phụng Vụ Giáo Hội dọn cho chúng ta nghe hôm nay là tám lời chúc phúc của Chúa Giêsu, quen gọi là Hiến Chương Nước Trời.
Những lời chúc phúc xem ra có vẻ ngược đời, nhưng thực ra, lại là một thực tế trong cuộc sống này mà ai cũng phải đối diện, chỉ khác nhau ở chỗ người ta sẽ làm gì để biến hoạ thành phúc và đem những thực tại đó đạt đến một thực tại tối hậu cho đời mình.
Qua Bát Phúc, cho thấy con đường sống đạo rất đa dạng và phong phú. Mỗi mối phúc là mỗi phương pháp ta có thể chọn để nên giống Chúa Giêsu và là một phương thế nên thánh. Những mối phúc này như là một nghịch lý mà không vô lý. Nghĩa là trong khi thế gian chạy theo mọi thứ có giá trị tạm thời, thì người theo Chúa dám đi ngược dòng, là tìm những giá trị vĩnh cửu ngay trong những thứ trần thế ấy.
- Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó. Là không lo tìm vật chất hưởng thụ và bị vật chất che khuất, để rồi lo chạy theo vì lòng tham và thủ đoạn mà lãng quên Nước Trời.
- Phúc thay ai hiền lành. Ngày nay sự ác đang tràn lan, đạo đức xuống cấp, dễ dàng giết người không nương tay, thì người theo Chúa biết khiêm nhu hiền hậu.
- Phúc thay ai sầu khổ. Biết kết hợp với đau khổ của Chúa Kitô và dâng hết cho Người.
- Phúc thay ai khát khao nên người công chính. Nên thánh là một cuộc chiến đấu trường kỳ, một ước muốn mãnh liệt, một ý chí cao; phải ước muốn mãnh liệt chứ không phải chì là mơ ước. Muốn nghĩa là phải tiến tới hành động, phải thành công mới thôi.
- Phúc thay ai xót thương người. Là biết vui với người vui, khóc với người khóc, cảm thông với nỗi đau của tha nhân. Thay vì lo thu vén gom góp cho mình, người theo Chúa biết sống trao ban và chia cơm sẻ áo cho nhau.
- Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch. Giữa một thế giới xuống cấp về đạo đức luân lý, buông mình theo dục tính khoái lạc, thì người theo Chúa phải biết sống tiết chế, chừng mực và trong sạch.
- Phúc thay ai xây dựng hoà bình. Tránh sự gây gỗ hận thù và đem bình an đến cho nhau.
- Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính. Vì đức tin và lòng mến Chúa, dám làm chứng nhân trong mọi hoàn cảnh, dù đôi khi phải chịu thiệt thòi vì danh người có đạo.
Như thế, dù xem ra phải sống ngược đời và lội ngược dòng, nhưng nếu chúng ta thực thi với cái nhìn đức tin thì chúng ta sẽ tìm thấy hiệu quả đích thực trong cuộc sống. Nội dung của các mối phúc hướng chúng ta đến với Thiên Chúa và tha nhân, chứ không phải chỉ sống ích kỷ cho riêng mình. Nhờ sống vì Chúa và sống cho người khác mà chúng ta cảm nhận hạnh phúc thiêng liêng và đích thực. Lời kêu gọi của Chúa Giêsu đã trở nên lý tưởng phấn đấu cho biết bao tín hữu. Họ đã chiến thắng gian khổ, vượt lên những khó khăn để sống một cuộc đời thanh tao giữa vũng lầy tội lỗi.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho mọi người chúng con bắt đầu một năm mới tràn đầy niềm tin, lòng mến và hy vọng,biết phấn đấu sống từng mối phúc trong sự yêu thương quan phòng của Chúa.Để năm mới này, chúng con thêm đổi mới, từ tâm hồn đến thể xác, nên con người mới là chỉ biết sống cho Chúa và tha nhân. Amen.
THÁNH LỄ TÂN NIÊN--MỒNG MỘT TẾT - CẦU BÌNH AN CHO NĂM MỚI
Mẫu A--Mt 6,25-34
Phụng vụ Giáo Hội cho đọc bài Tin Mừng ngày minh niên nói lên ý nghĩa về sự quan phòng của Thiên Chúa, Đấng làm chủ thời gian và không gian, làm chủ vận mệnh của vũ trụ và thế giới, làm chủ cuộc đời của mọi người chúng ta. Vì thế, cầu bình an cho năm mới là tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người. Cầu xin bình an trong năm mới là cầu xin cho có lòng tin vào bàn tay Chúa quan phòng.
Con người không được bình an là quá lo lắng về của cải vật chất, để rồi trằn trọc nghĩ suy tính toán, lấn chiếm hết cả thời giờ nghỉ ngơi và cầu nguyện, dẫn đến mất cả niềm tin vào sự an bài của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu không chủ trương cho chúng ta lười biếng hay ỷ lại, mà là muốn chúng ta đừng quá tin cậy vào sức mình, nhưng cần đến sự tin tưởng phó thác với sự quan phòng của Thiên Chúa. Sự tin tưởng vào Chúa Quan Phòng, không có tính cách thụ động, khoanh tay ngồi chờ “trời sinh voi, trời sinh cỏ”, không phải thái độ vô vi, yếm thế, buông trôi.Tín nhiệm hoàn toàn vào Thiên Chúa không có nghĩa là sống trong thụ động, mà là cộng tác với công việc của Thiên Chúa tùy ơn gọi của mỗi người: tự giúp mình thì trời sẽ giúp cho. “Đức tin chân chính phải thể hiện bằng việc làm”, càng tin, càng phải đem “hết sức mình, hết lòng, hết trí khôn, hết linh hồn” cộng tác vào công trình sáng tạo và cứu thế của Thiên Chúa; biết xây dựng trần thế tốt đẹp như khi Ngài dựng nên mọi sự tốt đẹp; biết xây dựng nước Trời cho tình thương của Thiên Chúa trải rộng khắp mọi người.
Chúa Giêsu đưa ra một bằng chứng cụ thể để nâng đỡ đức tin của chúng ta vào sự quan phòng của Thiên Chúa đối với thụ tạo thượng đẳng của Người: “Chim trên trời, bông huệ ngoài đồng, chúng có đáng gì đâu, thế mà Thiên Chúa vẫn hằng nuôi nấng, để ý đến”, huống chi con người, vì con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa và được Chúa Giêsu Kitô cứu chuộc bằng chính giá máu của Người.
"Trước hết hãy lo tìm Nước Chúa và sự công chính của Ngài", nghĩa là: Thiên Chúa phải chiếm chỗ ưu tiên trong con người và công việc của chúng ta, rồi đến việc cứu rỗi bản thân và đưa người khác về với Chúa. Nếu đảo lộn trật tự này tức là đi ngược thánh ý Thiên Chúa và chương trình của Người.
Lạy Chúa, xin cho chúng con nhân ngày đầu năm mới này, biết phân định giữa việc chọn Chúa hay chọn tiền bạc, quá lo lắng đến vật chât hay luôn tín nhiệm vào sự quan phòng của Chúa. Xin cho chúng con biết ưu tiên tìm kiếm Nước Chúa và sự thánh thiện, để mọi thứ khác Chúa sẽ ban cho chúng con. Amen.
Mẫu B--Mt 5,43-48
Ngày đầu năm mới, Giáo Hội cho đọc Bài Tin Mừng kể về phần cuối của bài giảng “kiện toàn lề luật” của Chúa Giê-su, xoay quanh chủ đề: “Hãy yêu thương kẻ thù và hãy cầu nguyện cho họ”. Đó là chủ ý mà Giáo Hội muốn mời gọi con cái mình hãy quên đi tất cả những gì thù hận trong năm cũ, để bắt đầu một tình yêu mới dành cho mọi người trong năm mới này.
Luật xưa dạy: “Hãy yêu thương đồng loại và ghét kẻ thù”.
Đây là điểm tương khắc cuối cùng giữa luật cũ và luật Tin Mừng. Cựu Ước nói về lòng nhân ái, nhưng là sự liên đới đồng đạo (trong Do-thái với nhau) mà thôi.
Về vấn đề “ghét kẻ thù”, thật ra trong Cựu Ước không nói rõ vấn đề này, nhưng có những chỗ có tư tưởng tương đương (x. Đnl 7,2). Đúng hơn, luật Cựu Ước nói về kẻ thù dân tộc hơn là kẻ thù cá nhân. Tư tưởng này khuyên người ta dè dặt với kẻ thù xâm lược, không nên giúp đỡ chúng và thậm chí thà giết sạch còn hơn thông đồng với chúng trong lầm lỗi.
Tắt một lời, dù cách nào đó luật Cựu Ước về đức ái đã ở một mức cao hơn các tôn giáo và các dân tộc sơ khai, nhưng bao lâu còn có tư tưởng trả thù thì bấy lâu hận thù còn truyền kiếp. Vì thế, cần đến luật Tin Mừng như Chúa Giê-su dạy hôm nay.
Thầy Giê-su dạy: “Hãy yêu thương kẻ thù và hãy cầu nguyện cho họ”.
Đây quả là một lời dạy khó thực hiện nhất, nhưng là những môn đệ Chúa lại phải cố gắng thực hiện vì những lý do sau:
Nếu chúng ta chỉ yêu những người yêu mình thì cũng có hơn gì dân ngoại và những người tội lỗi, họ cũng làm được và làm tốt hơn nữa là khác. Chúa Giêsu trên thập giá đã KÊU XIN CHÚA CHA tha thứ cho người đóng đinh mình, thánh Têphanô khi bị ném đá cũng CẦU XIN CHÚA tha thứ cho những kẻ bách hại… Đến lượt chúng ta là những Kitô hữu, chúng ta giống Chúa và khác với người ngoại chính là việc yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho họ.
Cá tính của con người thật khó để yêu kẻ thù, ngay việc tha thứ và không trả thù đã là cao thượng lắm rồi, đàng này Chúa còn đòi hỏi chúng ta bước thêm một bước cao hơn nữa lên đỉnh hoàn thiện là YÊU KẺ THÙ và CẦU NGUYỆN CHO HỌ. Thật ra, dù khó, nhưng lại là một phương thế tuyệt hảo nhất có thể hoá giải được những mâu thuẫn giữa người với người. Vì khi, cứ tìm cách trả thù nhau thì thù hận càng ngày càng chồng chất từ đời cha sang con đời cháu và cả những dòng tộc trả thù đến trường kỳ. Nếu tôi trả thù được anh thì con anh tìm cách trả thù tôi và cứ như thế mãi mãi. Còn khi lấy ân để trả thù thì không những thù được hoá giải mà còn dễ nên bạn hữu của nhau và làm gương cho hậu thế.
Bởi khi tha thứ là lúc được thứ tha. Mang trong mình sự hận thù, thì chính ta khổ trước, ăn không ngon ngủ không yên vì tức giận ấm ức, trằn trọc nghĩ kế trả đũa… Nhưng khi ta tha thứ thì không phải lo nghĩ gì và tâm hồn thanh thản, nhất là khi ta tha thứ thì ta không còn kẻ thù mà lại được bạn hữu. Tha thứ lại là một cách trả thù ngọt ngào nhất mà đối phương không ngờ, và làm cho chính đối phương dằn vặt vì nhận ra chính họ sai khi xúc phạm đến một người tốt, cuối cùng làm cho đối phương cảm kích và thay đổi thái độ.
Lại nữa, khi sự tha thứ trong tương quan giữa người với người được thực hiện, lại chính là tiêu chuẩn Chúa xét công trạng cho chúng ta đáng được ân thưởng Nước Trời. Vì: “Anh em đừng xét đoán để khỏi bị đoán xét, đừng kết án để khỏi bị Thiên Chúa tuyên án…” Lỗi lầm giữa chúng ta với nhau chẳng là gì so với lỗi phạm giữa chúng ta với Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa đã ngàn lần tha thứ cho chúng ta thì đến lượt chúng ta cũng phải tha thứ cho nhau. Chúa cho mưa xuống trên người lành cũng như kẻ dữ, thì tại sao chúng ta phải phân biệt thương ai ghét ai?
Vì thế, hãy nên hoàn thiện như Cha chúng ta trên trời là Đấng Hoàn Thiện.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con một trái tim quảng đại như Chúa, vươn lên cao vượt mọi tình cảm tầm thường để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ; Thay vì toan tính phục thù, chúng con biết cầu nguyện cho những người làm hại chúng con; xin cũng cho vòng tay chúng con luôn rộng mở để có thể ôm cả những người thù ghét chúng con. Amen.
Mẫu C--Ga 14,23-27
Ngày đầu năm mới, Giáo Hội Việt Nam chọn ý lễ là cầu xin Chúa Xuân ban Bình An của Người cho quê hương, đồng thời cũng mong muốn mọi người biết kiến tạo bình an cho nhau. Cùng trong ý nghĩa đó, thật thích hợp biết bao khi đọc Bài Tin Mừng về sự bình an mà chúng ta vừa nghe.
Bình an. Đó là khao khát của con người mọi nơi và mọi thời. Người có được sự bình an thì đáng quý hơn tất cả. Bình an vượt lên trên tất cả sự giàu sang, danh vọng, quyền lực…
Người có nhiều của cải ư? Lo lắng sợ bị mất… mất bình an
Người có quyền lực ư? Lo ngại kẻ thù… mất bình an
Không phải làm vua mà được bình an thư thái, vì sợ bị ám sát hay sợ bị lật đổ
Cũng không phải nghèo khó mà được tự tại an vui, vì lo lắng cho cái ăn cái mặc
Nhưng có một điểm chung của bất kỳ ai là đều mất bình an vì lo sợ tương lai. Tương lai sẽ ra sao và sẽ đi về đâu…
Oiralih nói rằng: “Khi đến với cung vua hay nơi sang trọng nhất là khi bạn mất bình an nhất, nhưng nếu muốn bình an thì bạn hãy bước vào tu viện”. Thật vậy, nơi
các tu viện không phải vì đầy đủ cơm no áo ấm, mà vì nơi đó các tu sĩ sống an nhiên tự tại khi họ từ bỏ tất cả những lo toan vật chất để chỉ lo phụng sự Chúa.
Chúa Giêsu thấu hiểu nỗi lo lắng của các môn đệ về tương lai bất định, nhất là việc Thầy sắp ra đi, nên Người đã trấn an các ngài: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi” (Ga 14,27).
Thứ bình an mà Chúa Giêsu ban cho các môn đệ là bình an đích thực, nghĩa là đặt niềm tin vào Chúa quan phòng, không lo sợ bất cứ điều gì từ bên ngoài tác động vì luôn có Chúa trong mình. Cũng như Chúa Giêsu luôn bình an, dù đứng trước mọi khó khăn chống đối, trước cuồng phong bão táp hay trước sự bách hại của vua chúa quan quyền; thì đây Chúa Giêsu cũng ban cho những ai buớc theo Người được sự bình an đích thực trong tâm hồn, khi luôn đặt niềm tin vào Thiên Chúa.
Trong Thánh Kinh, từ thời Cựu Ước, người ta dùng từ “bình an” để chào hỏi nhau lúc gặp gỡ. Còn ngôn sứ Isaia thì tiên báo Đấng Messia sẽ là “Hoàng Tử Bình An”. Khi Chúa Giêsu sinh hạ nơi hang đá Bêlem, các thiên thần cũng đã ca hát: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, BÌNH AN dưới thế cho người Chúa thương”. Như thế, Chúa Giêsu chính là sự BÌNH AN đích thực của Thiên Chúa, và sứ điệp đầu tiên mà Chúa Giêsu đem xuống từ trời chính là ban bình an cho nhân loại.
Tóm lại, sứ điệp đầu tiên mà Chúa Giêsu đem xuống trần gian qua lời thiên sứ hát mừng là “Bình an dưới thế cho người Chúa thương”, thì nay khi sắp lìa bỏ những người Chúa thương mà trở về với Chúa Cha, Chúa Giêsu cũng để lại ơn bình an ấy. Ơn bình an mà từ đây, những người theo Chúa thì không còn sợ hãi tội lỗi, ma quỷ và sự chết nữa. Thật vậy, khi có Chúa, Kitô hữu không chỉ được hưởng bình an ngay tự bây giờ, mà còn hi vọng được về “quê BÌNH AN” vĩnh cửu trên trời.
Lạy Chúa Giêsu, như trong thánh lễ mỗi ngày, chúng con nhắc lại lời Ngài phán với các môn đệ: “Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con”. Xin đoái thương ban cho gia đình chúng con, giáo xứ chúng con, hội thánh của Chúa, và quê hương đất nước chúng con được bình an. Đặc biệt trong năm mới này, chúng con biết tạo bình an cho nhau. Amen.
MỒNG HAI TẾT - CẦU CHO TỔ TIÊN--Mt 15,1-6
Hôm nay mồng hai tết - kính nhớ tổ tiên, Giáo Hội cho chúng ta nghe bài Tin Mừng kể về lời sự tranh luận của Chúa Giêsu với các biệt phái Pharisiêu, xoay quanh việc giữ luật thảo kính cha mẹ và tập tục tiền nhân.
Trọng tâm chính của lần tranh luận này giữa Chúa Giêsu và Biệt Phái là sự đối kháng giữa hai quan niệm, hai hình thức giữ luật. Các luật sĩ thắc mắc: "Sao môn đệ ông vi phạm truyền thống của tiền nhân?..." Chúa Giêsu trả lời họ cũng bằng một câu hỏi: "Còn các ông, tại sao các ông dựa vào truyền thống của các ông mà vi phạm điều răn của Thiên Chúa?"
Việc rửa tay trước khi ăn là một thói quen tốt giúp an toàn vệ sinh, nó như là một nét văn hoá được các giáo viên mầm non tập cho trẻ từ thuở bé. Và ở nhiều nơi trên thế giới, việc rửa tay trước khi ăn đã trở thành một tập tục, thậm chí như là một điều buộc phải làm để giữ gìn vệ sinh. Tuy nhiên, đối với các Pharisiêu thì nó được giải thích như là một điều luật và là một nghi thức tôn giáo để đánh giá con người trong sạch hay dơ bẩn.
Vì quá câu nệ luật nên biệt phái Pharisiêu lẫn lộn cái chính yếu với cái phụ tùy, quá chú trọng đến cái phụ tuỳ bên ngoài mà đánh mất cái chính yếu bên trong là đức công bằng. Họ quan niệm giữ luật Chúa là tuân thủ những luật lệ, những nguyên tắc và những lễ nghi bề ngoài, nghiêm ngặt phần hình thức như "rửa tay trước khi ăn", "dâng lễ phẩm cho Chúa thay thế sự hiếu kính cha mẹ". Họ dùng nghi lễ bề ngoài, để thoái thác một bổn phận căn bản là hiếu kính cha mẹ, lấy quy ước của các tập tục phàm nhân do họ đặt ra để xóa bỏ đi điều răn của Thiên Chúa.
Đối với Chúa Giêsu, quan niệm về những đòi hỏi của Thiên Chúa được thể hiện lớn nhất bằng luật yêu thương. Ngài xem giữ luật là một cảm nghiệm sống ở trong lòng, một biểu hiện liên đới, nhân từ, vượt trên hình thức, là tấm lòng trong sạch và đời sống yêu thương.
Chúa Giêsu lấy một ví dụ về việc thực hành tập tục phàm nhân bịa ra để cho họ thấy, chẳng những đây không phải là luật Chúa mà còn có thể đi ngược lại Luật Chúa. Luật Thiên Chúa trong điều răn thứ tư là phải "hiếu thảo với cha mẹ của mình”.
Người Pharisêu giới hạn bổn phận con cái dựa trên hoàn toàn vật chất, một nghĩa vụ vật chất được họ gán cho nghĩa vụ đạo đức. Đối với Đức Giêsu, Ngài nhắc nhở cho các Pharisêu,và mọi thế hệ rằng: “ Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, và kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử" (Mt 15,4). Thảo hiếu với mẹ cha không chỉ dừng ở của cải vật chất nhưng phải hiếu thảo bằng cả tấm lòng yêu thương và tôn kính.
Ngày nay, thật đáng lo ngại là cho sự khủng hoảng đạo lý nơi nhiều gia đình. Có những người con chỉ dừng trên nghĩa vụ, bổn phận lo lắng cho cha mẹ của cải vật chất, mà quên đi cha mẹ còn phải được kính trọng và yêu mến. Vật chất chỉ là giá trị bề ngoài nhưng chính giá trị tinh thần, giá trị đạo đức mới quan trọng cho đời sống cha mẹ. Giá trị đạo đức bị đảo lộn bởi có những đứa con coi vật chất là trên hết, đặt tiền tài trên nghĩa vụ làm con, sẵn sàng gửi cha mẹ vào các nhà dưỡng lão mà quên rằng bổn phận của con cái là nuôi dưỡng, thăm hỏi khi cha mẹ còn sống, và cầu nguyện xin lễ cho các ngài khi đã qua đời.
Như vậy, Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta, không thể có một sự thỏa hiệp nào giữa hai quan niệm luật hình thức và luật yêu thương; không thể san bằng nghi thức bên ngoài với lệnh truyền của Chúa; không dùng tập tục con người để trốn tránh giới răn Thiên Chúa dạy phải sống trọn đạo hiếu.
Lạy Chúa Giêsu, khi còn sống ở trần gian nơi gia đình Thánh Gia Nazareth, Chúa đã nêu gương về lòng đạo đức và vâng phục cha thánh Giuse và mẹ Maria. Xin cho chúng con cũng luôn biết tôn kính vâng lời và phụng dưỡng các bậc cha mẹ, xứng với công ơn sinh thành và dưỡng dục của các ngài đã dành cho chúng con. Amen
MỒNG BA TẾT – THÁNH HOÁ CÔNG ĂN VIỆC LÀM.--Mt 25,14-30
Hôm nay mồng ba tết, ngày truyền thống Giáo Hội Công Giáo Việt Nam cầu xin Thiên Chúa chúc lành và thánh hoá công ăn việc làm trong năm mới. Phụng vụ Lời Chúa qua bài Tin Mừng hôm nay nhắc chúng ta ý thức hơn về việc làm sinh lợi cho Thiên Chúa qua ân huệ và khả năng mà Chúa đã ban cho mỗi người chúng ta.
Thiên Chúa là Đấng Sáng Tạo, Người muốn con người cộng tác vào công trình tạo dựng của Người qua đời sống lao công, đồng thời Người ban mọi ân huệ: thời gian, sức khoẻ và tài năng cho con người, để con người hoàn thành những gì Người đã giao phó.
- Một ông chủ đi xa trao lại cho các đầy tớ gìn giữ những nén bạc của ông. Nghĩa là khi dựng nên chúng ta, Thiên Chúa trao cho chúng ta một ân huệ tuỳ khả năng từng người, rồi Ngài ban cho chúng ta sức khoẻ, thời giờ, tài năng, để chúng ta làm sinh lợi cho Ngài.
- Người nhận năm chục ký nén hay hai mươi cân hoặc một trăm lạng là tuỳ khả năng mà ông chủ tín nhiệm giao cho. Điều ông chủ muốn là sinh lời chứ không phải chôn giấu tiền bạc của ông chủ để chờ khi ông về trả lại. Cũng vậy, Thiên Chúa ban cho ta ơn đức tin qua Hội Thánh, chúng ta cần làm cho đức tin lớn mạnh qua việc thực thi đức ái Kitô Giáo, chứ không phải cứ lấy lý do “đạo tại tâm” rồi không làm gì cả.
- Người nhận hai nén và năm nén đã sinh lợi gấp đôi, nghĩa là những ai biết dùng ơn Chúa để hoàn thiện bản thân và mưu ích cho tha nhân, cho cộng đoàn, giáo xứ và Giáo Hội.
- Người nhận một nén đã chôn giấu đi, nghĩa là dù mang trên mình ấn tích rửa tội nhưng đã không sống đạo, đã để cho hạt giống đức tin bị chôn vùi và không sinh hoa trái gì cho đời sống thiêng liêng.
- Cái khác nhau ở chỗ là: người làm sinh lợi là người tin tưởng và yêu mến ông chủ nên đã tự nguyện làm việc nên đáng được ông chủ thưởng công; còn người sợ ông chủ và nghĩ xấu về ông chủ là người hà khắc nên đã sợ sệt đem chôn giấu nén bạc. Chúng ta cũng vậy, khi chúng ta tin tưởng và yêu mến Thiên Chúa mà sống đạo, thì tự sự yêu mến sẽ sinh hoa kết quả; còn khi chúng ta làm vì sợ Chúa phạt thì không đem lại công phúc gì.
- Cuối cùng kẻ có được cho thêm, còn kẻ không có thì ngay cả cái đang có cũng sẽ bị lấy đi, nghĩa là Chúa ban cho chúng ta sức khoẻ, tài năng, cơ hội…, nếu chúng ta không chuyên cần cố gắng trau dồi, thì tự nó sẽ thui chột đi.
Lạy Chúa, Chúa đã ban cho chúng con những ân huệ cần thiết để cộng tác với Ngài trong công trình tạo dựng. Xin Chúa ban cho chúng con được mưa thuận gió hoà và chúc lành cho mọi công việc của chúng con, để chúng con vừa có lương thực hằng ngày nuôi dưỡng thể xác, vừa để đóng góp vào sự phát triển xã hội nhân loại như lòng Chúa ước mong, lại vừa làm cho Chúa được vinh danh khi chúng con biết sử dụng sao cho ích lợi qua những ân huệ Chúa ban. Amen.
Bài cùng chuyên mục:
Thứ Hai 25/11/2024 – Thứ Hai tuần 34 thường niên – CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM. Bổn mạng Giáo Hội Việt Nam. – Làm chứng cho Chúa. (24/11/2024 10:00:00 - Xem: 358)
CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM. Bổn mạng Giáo Hội Việt Nam.
+ Chúa Nhật 24/11/2024 – CHÚA NHẬT 34 THƯỜNG NIÊN năm B. – ĐỨC GIÊSU KITÔ VUA VŨ TRỤ. – Vua Giêsu. (23/11/2024 10:00:00 - Xem: 5,686)
CHÚA NHẬT 34 THƯỜNG NIÊN năm B. – ĐỨC GIÊSU KITÔ VUA VŨ TRỤ.
Thứ Bảy 23/11/2024 – Thứ Bảy tuần 33 thường niên. – Chúa Giêsu xác định rõ ràng về sự sống lại. (22/11/2024 10:00:00 - Xem: 3,187)
Thứ Bảy tuần 33 thường niên.
Thứ Sáu 22/11/2024 – Thứ Sáu tuần 33 thường niên. – Thánh Cêcilia, trinh nữ, tử đạo. Lễ nhớ. – Ðền thờ, nơi gặp gỡ Chúa. (21/11/2024 10:00:00 - Xem: 5,736)
Thánh Cêcilia, trinh nữ, tử đạo. Lễ nhớ.
Thứ Năm 21/11/2024 – Thứ Năm tuần 33 thường niên – Đức Mẹ dâng mình trong đền thờ. Lễ nhớ. – Ðức Mẹ Dâng Mình Vào Ðền Thờ. (20/11/2024 10:00:00 - Xem: 6,420)
Đức Mẹ dâng mình trong đền thờ. Lễ nhớ.
Thứ Tư 20/11/2024 – Thứ Tư tuần 33 thường niên. – Nén bạc sinh lời. (19/11/2024 10:00:00 - Xem: 3,810)
Thứ Tư tuần 33 thường niên.
Thứ Ba 19/11/2024 – Thứ Ba tuần 33 thường niên. – Thể hiện hoán cải cách cụ thể. (18/11/2024 10:00:00 - Xem: 3,804)
Thứ Ba tuần 33 thường niên.
Thứ Hai 18/11/2024 – Thứ Hai tuần 33 thường niên. – Người mù thành Giêricô. (17/11/2024 10:00:00 - Xem: 3,909)
Thứ Hai tuần 33 thường niên.
+ Chúa Nhật 17/11/2024 – CHÚA NHẬT 33 THƯỜNG NIÊN năm B. – CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM. Bổn mạng Giáo Hội Việt Nam. – Làm chứng cho Chúa. (16/11/2024 10:00:00 - Xem: 15,193)
CHÚA NHẬT 33 THƯỜNG NIÊN năm B. – CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM.
Thứ Bảy 16/11/2024 – Thứ Bảy tuần 32 thường niên. – Cầu nguyện là sức mạnh. (15/11/2024 10:00:00 - Xem: 3,577)
Thứ Bảy tuần 32 thường niên.
-
Thứ Hai 25/11/2024 – Thứ Hai tuần 34 thường niên – CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM. Bổn mạng Giáo Hội Việt Nam. – Làm chứng cho Chúa.
CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM. Bổn mạng Giáo Hội Việt Nam.
- CHÚA NHẬT 34 THƯỜNG NIÊN năm B....
- Thứ Bảy tuần 33 thường niên.
-
Khao Khát Chúa: Cầu nguyện bằng Thánh vịnh(phần 1)
Đây là cuốn sách khai tâm cho những người muốn cầu nguyện bằng Thánh Vịnh. Khi đọc phụng vụ giờ kinh thường thường chúng ta cảm thấy khô...
-
Đức Giesu Kito, một vị Vua khác
Hôm nay, “nếu bạn tin vào Chúa Kitô, hãy để Ngài là Vua trong cuộc đời bạn. Hãy để Ngài hướng dẫn bạn sống theo sự thật, bởi vì Ngài là...
-
Gia vị cho bài giảng CN lễ Chúa Kito là Vua - 2024
Khi Người đến trong vinh quang, Chúa Kitô Vua sẽ xét xử chúng ta về những việc bác ái chúng ta làm cho tha nhân. (Cha Tony)
-
Kinh Tin Kính phổ quát
Mầu nhiệm của Chúa Kitô hoạt động thông qua các Giáo hội kitô lịch sử nhưng cũng hoạt động, và hoạt động rộng rãi, bên ngoài các Giáo hội...
-
Suy nghĩ và cầu nguyện CN 34 TN B - 2024
Chúng ta đang sống trong một xã hội đầy dẫy sự dối trá, vì người ta sợ sự thật, sợ nói thật, sợ sống thật. Sự thật không còn là sự thật,...
-
Hãy tìm hiểu nhau như một vị thánh
Ngoài việc cầu nguyện, các vị thánh sẽ đưa ra ba lời khuyên nào cho những người đang tìm kiếm người phối ngẫu tương lai?
-
Linh hướng là gì?
Trong xã hội và thời đại hỗn loạn của chúng ta, hơn bao giờ hết, hướng dẫn đời sống tâm linh là một nguồn lực tinh thần cần thiết. Người...
-
Tôi có thể làm gì cho những đứa con không sống đạo của mình?
Tôi là phụ huynh của ba đứa trẻ, tất cả chúng tôi đều cố gắng sống theo đức tin Công giáo. Một trong số chúng có vẻ không mấy hứng thú,...
-
Giải đáp thắc mắc cho người trẻ: Bài 145 - Thử tìm hướng đi
Người trẻ làm gì để không bị cuốn đi với những "tư tưởng" rất đời kia? Nếu có nhu cầu thì sao kiểm soát khi chưa lập gia đình? Tụi con...
-
Bác ái là nhân đức cần thiết cho sự phát triển tâm linh
Chúng ta phải xin Chúa ban cho chúng ta đức ái mỗi ngày cho đến khi chúng ta gặp được Ngài trên Thiên Đàng!
-
Nghĩ đến những điều tốt đẹp
Hãy thôi nghĩ đến chuyện buồn ấy và hãy nghĩ đến những điều tốt đẹp và đáng yêu khác trong cuộc sống để lòng bà được thanh thản
- Sự cần thiết của việc lắng nghe
- Lớn lên từ những thử thách
- Nhận nhưng không, cho nhưng không
- Niềm tin lớn nhất