Lời chúa mỗi ngày

+ Chúa Nhật 02/07/2023 – CHÚA NHẬT 13 THƯỜNG NIÊN năm A – Theo Chúa.

  • In trang này
  • Lượt xem: 5,810
  • Ngày đăng: 01/07/2023 10:00:00

Theo Chúa.

02/07 – CHÚA NHẬT 13 THƯỜNG NIÊN năm A

"Kẻ nào không mang lấy thập giá, thì không xứng đáng với Thầy; kẻ nào tiếp đón các con, là tiếp đón Thầy".

 

Lời Chúa: Mt 10, 37-42

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các tông đồ rằng: "Kẻ nào yêu mến cha mẹ hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy, và kẻ nào yêu mến con trai, con gái hơn Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. Kẻ nào cố tìm mạng sống mình thì sẽ mất, và kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm lại được nó.

"Kẻ nào đón tiếp các con là đón tiếp Thầy; và kẻ nào đón tiếp Thầy, là đón tiếp Ðấng đã sai Thầy. Kẻ nào đón tiếp một tiên tri với danh nghĩa là tiên tri, thì sẽ lãnh phần thưởng của tiên tri; và kẻ nào đón tiếp người công chính với danh nghĩa người công chính, thì sẽ lãnh phần thưởng của người công chính. Kẻ nào cho một trong những người bé mọn này uống chỉ một bát nước lã mà thôi với danh nghĩa là môn đệ, thì quả thật, Thầy nói với các con, người ấy không mất phần thưởng đâu".

 

* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ  link CGKPV

 

* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ

 

CHÚA NHẬT 13 THƯỜNG NIÊN – A

Lời Chúa: 2V 4, 8-11.14-16a; Rm. 6, 3-4.8-11; Mt. 10, 37-42

 

MỤC LỤC

1.    Xứng với Thầy--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ. 3

2.    Không xứng với Thầy--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ. 5

3.    Yêu Thầy hơn--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu S.J. 7

4.    Người môn đệ Đức Kitô--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 9

5.    Ðòi hỏi và vinh dự của môn ðệ--‘Giải Nghĩa Lời Chúa’--GM Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm.. 11

6.    Cho đi, tức là lãnh nhận--TGM. Giuse Vũ Văn Thiên. 15

7.    Biết đón nhận nhau--TGM Giuse Nguyễn Năng. 17

8.    Thí mạng sống vì Thầy--ViKiNi--‘Xây Nhà Trên Đá’--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm.. 18

9.    Thiên Chúa trên hết--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J. 20

10.  Vác thánh giá theo Đức Giêsu --Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ. 22

11.  Biết đón nhận tha nhân—Lm Giuse Đinh Lập Liễm.. 23

12.  Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái 28

13.  ‘Sợi Chỉ Đỏ’--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái 30

14.  Yêu Chúa--Lm. Thái Nguyên. 35

15.  Chấp nhận vác thập giá theo Chúa để sống vui--Lm. Đan Vinh. 37

16.  Từ bỏ--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng OP. 43

17.  Sống xứng với Chúa--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ. 45

18.  Đón tiếp tha nhân như đón tiếp chính Chúa—Lm JB. Lê Ngọc Dũng. 47

19.  Người môn đệ đích thật--Lm. Xuân Hy Vọng. 49

20.  Chỉ một bát nước lã!--Lm. Xuân Hy Vọng. 52

21.  Chúa nhật 13 thương niên năm A--Lm GB Phạm Hồng Thái 54

22.  Chúa Nhật 13 Thường Niên--Lm. Gioan Phan Tiến Dũng. 56

23.  Chúa Nhật 13 Thường Niên--Lm. Inhaxio Hồ Thông. 57

24.  Đòi hỏi của Tin Mừng--Lm. Giuse Phạm Thanh Minh. 61

25.  Hiếu khách và thương người--Lm. Anthony Đinh Minh Tiên, OP. 63

26.  Liều mạng sống--‘Lương Thực Ngày Chủ Nhật’. 66

27.  Yêu sách của tình yêu --‘Sống Tin Mừng’--Radio Veritas Asia. 67

28.  Làm được gì cho Chúa Giêsu chưa?--‘Niềm Vui Chia Sẻ’. 69

29.  Suy niệm của Lm. Trầm Phúc. 71

30.  Sống vì Chúa hay sống vì mình?--Lm. Inhaxiô Trần Ngà. 72

31.  Điều kiện theo Chúa--Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy. 74

32.  Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên. 76

33.  Bát nước lã--Ts. Trần Quang Huy Khanh. 78

34.  Đón tiếp Tôi--Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến. 80

35.  Con đón Chúa, Chúa đón con--Lm. Minh Anh. 82

36.  Thiên Chúa là khởi nguyên và tận cùng--Lm. Phêrô Trần Minh Đức. 84

37.  Suy niệm của JKN.. 85

38.  Siêu thoát--Lm. Đỗ Vân Lực. 88

39.  Bỏ mình để đi theo Chúa Giêsu--Học viện Giáo hoàng Piô X Đà Lạt 90

40.  Chú giải của Noel Quesson. 94

41.  Ai đón tiếp các con là đón tiếp Thầy--Fiches Dominicales. 97

42.  Sự hiếu khách và Con Thiên Chúa--‘Mở Ra Những Kho Tàng’--Charles E. Miller, C.M. 99

43.  Chấp nhận vác Thánh Giá đời mình  theo Chúa--Lm. Joshepus Quang Nguyễn. 101

44.  Vác Thập Giá theo chân Chúa--Lm. Joshepus Quang Nguyễn. 103

45.  Chúa Nhật 13 Thường Niên--Jaime L. Waters. 105

46.  Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành. 106

47.  Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi 109

48.  Thiên Chúa không thua lòng quảng đại của con người--Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP. 112

49.  Suy niệm của Lm Augustine, SJ. 114

50.  Theo Chúa. 117

51.  Đón tiếp. 118

52.  Yêu Chúa hơn. 119

53.  Ân tình. 121

54.  Theo Chúa. 123

55.  Bước theo Chúa. 124

56.  Phần thưởng. 125

57.  Chọn lựa. 127

58.  Vì người 128

59.  Thập giá. 130

60.  Chúa trong anh em.. 131

61.  Chỗ đứng của Thiên Chúa. 132

62.  Từ bỏ. 133

63.  Đón tiếp. 135

64.  Sự hiếu khách và con Thiên Chúa. 137

65.  Đòi hỏi người môn đệ--Huệ Minh. 139

 

 

1.Xứng với Thầy--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.

Suy Niệm

Hai mươi sáu năm trời, vác một cây thánh giá gỗ,

dài 3,6m, ngang 1,8m, nặng 18 kg,

vượt qua 50.140 km, 227 quốc gia, 7 lục địa:

đó là điều mục sư Arthur Blessit đã làm từ Noel 1969.

Ông là người giữ kỷ lục đi bộ quãng đường dài nhất.

"Tôi đã đi qua các sa mạc, rừng rậm,

đã từng bị tấn công bởi voi, rắn, cá sấu.

Tôi đã bị bắt giam 21 lần và suýt bị hành hình..."

Chỉ còn 50 nước ông chưa đặt chân tới.

Ông hy vọng sẽ hoàn tất chuyến đi này trước năm 2000.

Như vậy ông sẽ là người đầu tiên

đưa thánh giá đi khắp mọi nơi trên thế giới.

Cử chỉ của ông làm chúng ta suy nghĩ.

Vác thánh giá là chấp nhận nặng nề và bấp bênh,

nặng nề vì khúc gỗ trên vai, bấp bênh vì nguy hiểm.

Đức Giêsu mời gọi các môn đệ vác thánh giá của mình mà theo Ngài.

Chẳng có con đường nào tốt hơn con đường Ngài đã đi.

Con đường khó nghèo, khiêm hạ ở Bê-lem và Na-da-rét.

Con đường rao giảng trong nhọc nhằn ở phần đất xứ Galilê.

Con đường đầy đe dọa hiểm nghèo khi lên Giêrusalem.

Con đường hiến mình khi vác thánh giá lên Núi Sọ.

Chúng ta được mời gọi đi theo Ngài trên các con đường ấy,

hay đúng hơn đi theo Ngài trên nẻo đường của đời mình,

không cô đơn thất vọng, vì biết nơi mình sắp đến.

Thánh giá của chúng ta không phải là khúc gỗ,

nhưng là những gì ta phải từ bỏ, dù rất yêu mến,

những người ta phải yêu mến, dù rất muốn từ bỏ.

Chúng ta chỉ vác nổi thánh giá của mình

nếu chúng ta dám yêu thực sự.

Chỉ khi yêu mến Thiên Chúa và tha nhân,

chúng ta mới dám quên mình, bỏ mình, mất mình, hiến mình.

Điểm mới mẻ của Tân Ước là tình yêu đối với Đức Giêsu.

Ngài đòi ta phải yêu Ngài hơn cha mẹ, hơn con cái.

Ngài còn đòi ta chịu mất mạng vì Ngài.

Nếu Đức Giêsu không phải là hiện thân của chính Thiên Chúa,

nếu Ngài đã không chết vì chúng ta trước,

thì Ngài chẳng có quyền đòi hỏi những hy sinh như vậy.

Trải qua 20 thế kỷ, biết bao thế hệ Kitô hữu

đã dám sống đến cùng tình yêu ấy.

Truyền giáo không phải chỉ là thông truyền đức tin

mà còn là thông truyền tình yêu,

là làm cho Đức Giêsu được mọi người yêu mến.

Nhưng trước hết, chúng ta phải cảm nghiệm được Tình Yêu

để cả cuộc đời ta là lời đáp cho Tình Yêu,

là cuộc sống sao cho xứng với Thầy (c.37.38).

Ước gì chúng ta yêu Đức Giêsu trên mọi sự,

yêu mọi sự trong Ngài và dưới Ngài,

chấp nhận mất cái tôi nhỏ mọn, để được cái tôi triển nở.

Gợi Ý Chia Sẻ

Bạn hãy chia sẻ một kinh nghiệm về mất để rồi được lại hay một kinh nghiệm về tưởng được mà lại mất.

Từ bỏ, hy sinh là những điều không hấp dẫn con người hôm nay, nhưng bạn có thấy chúng hết sức cần thiết không? Làm sao để dễ từ bỏ mình khi phải chung sống với người khác?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa, xin nhận lấy trọn cả tự do, trí nhớ, trí hiểu,

và trọn cả ý muốn của con,

cùng hết thảy những gì con có, và những gì thuộc về con.

Mọi sự ấy, Chúa đã ban cho con, lạy Chúa,

nay con xin dâng lại cho Chúa.

Tất cả là của Chúa, xin Chúa sử dụng hoàn toàn theo ý Chúa.

Chỉ xin ban cho con lòng mến Chúa và ân sủng.

Được như thế, con hoàn toàn mãn nguyện. Amen.

(Kinh dâng hiến của thánh I-Nhã)

 

2.Không xứng với Thầy--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.

Suy niệm:

Văn Cao là một nhạc sĩ có tài với bản Tiến Quân Ca bất hủ.

Nhưng ông cũng là một thi sĩ ít được ai biết đến.

Ông có làm một bài thơ ngắn Không Đề như sau:

“Con thuyền đi qua

để lại sóng.

Đoàn tàu đi qua

để lại tiếng.

Đoàn người đi qua

để lại bóng.

Tôi không đi qua tôi

để lại gì?”

Ông muốn để lại chút gì cho đời của kẻ đã mang tiếng ở trong trời đất.

Và ông hiểu rằng mình không thể để lại gì, nếu không vượt qua chính mình.

Cái tôi và tất cả những gì thuộc về nó, đều là đối tượng phải vượt qua.

Vượt qua cái tôi không làm tôi mất nó, nhưng lại được một cái tôi viên mãn.

Phải chăng đó là điều Văn Cao, một Kitô hữu ẩn danh đến lúc chết,

muốn gửi gấm qua những vần thơ này?

Có những giá trị hầu như được mọi người nhìn nhận.

Có những giá trị thiêng liêng máu mủ như cha mẹ, con cái.

Đặc biệt trong xã hội Do thái, hiếu thảo với cha mẹ là điều được đề cao.

Đức Giêsu cũng đã phê phán thái độ bất hiếu đối với cha mẹ (Mt 15, 3-6).

Mạng sống của con người cũng là một giá trị cao quý.

Đụng đến mạng sống con người là xúc phạm đến chính Thiên Chúa,

như ta thấy trong chuyện Cain giết em là Aben (St 4, 9-10).

Trước những giá trị thiêng liêng như thế, ta cần yêu mến, giữ gìn.

Yêu cha, yêu mẹ, yêu con trai, con gái, là những điều hợp đạo lý.

Giữ gìn mạng sống của mình là điều phải làm.

Tuy nhiên, Đức Giêsu đã đưa ra một đòi hỏi mới mẻ và đáng sợ.

Ngài không cấm các môn đệ yêu cha mẹ, con cái, hay mạng sống,

vì đó là những giá trị thiêng liêng cao quý.

Nhưng Ngài không chấp nhận họ yêu những giá trị này hơn Ngài.

Ngài không muốn họ đặt Ngài ở dưới những giá trị đó.

Đơn giản Ngài muốn họ coi Ngài là một Giá Trị hơn hẳn, Giá Trị viết hoa.

Khi cần chọn lựa giữa các giá trị, Ngài đòi họ ưu tiên chọn Ngài.

Cụm từ “không xứng đáng với Thầy” được nhắc đến ba lần (cc. 37-38).

Chỉ ai dám yêu Ngài hơn người thân yêu, dám vác thập giá mình mà theo,

người ấy mới xứng đáng với Thầy.

Chỉ ai dám mất mạng sống của mình vì Thầy,

người ấy mới lấy lại được sự sống tròn đầy ở đời sau (c. 39).

Đức Kitô là ai mà đòi chúng ta phải đặt Ngài lên trên các thụ tạo như vậy,

nếu Ngài không phải là hiện thân của chính Thiên Chúa?

Đừng quên chính Ngài đã mất mạng sống mình vì tôi trước.

Chỉ khi tôi đi qua tôi, nhờ đặt tôi và mọi sự thuộc về tôi dưới Đức Kitô,

tôi mới có gì để lại cho đời, tôi mới giữ lại được mọi giá trị khác.

Xin làm được điều thánh Biển Đức dạy:

“Phải tuyệt đối không coi gì trọng hơn Đức Kitô.”

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

xin cho con thấy Chúa thật lớn lao,

để đối với con, mọi sự khác trở thành bé nhỏ.

Xin cho con thấy Chúa thật bao la,

để cả mặt đất cũng chưa vừa cho con sống.

Xin cho con thấy Chúa thật thẳm sâu,

để con dễ đón nhận nỗi khổ đau sâu thẳm nhất.

Lạy Chúa Giêsu,

xin làm cho con thật mạnh mẽ,

để không nỗi thất vọng nào

còn chạm được tới con.

Xin làm cho con thật đầy ắp,

để ngay cả một ước muốn nhỏ

cũng không còn có chỗ trong con.

Xin làm cho con thật lặng lẽ,

để con chỉ còn loan báo Chúa mà thôi.

Xin Chúa ngự trong con thật sống động,

để không phải là con,

mà là chính Ngài đang sống. Amen.

 

3.Yêu Thầy hơn--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu S.J.

Trong bài Tin Mừng Chúa Nhật tuần trước (Mt 10,32),

Thầy Giêsu đòi các môn đệ tuyên bố nhận Thầy trước mặt người đời.

Trong bài Tin Mừng tuần này, Thầy Giêsu đòi các môn đệ yêu.

Phải yêu Thầy hơn yêu cha mẹ hay con cái, và hơn cả chính mạng sống.

Luật Môsê từ xưa đã coi thảo kính cha mẹ là điều răn quan trọng.

Người Việt cũng đề cao chữ Hiếu: Nhân sinh bách hạnh hiếu vi tiên.

Vậy mà Thầy Giêsu đòi môn đệ của mình phải yêu Thầy hơn yêu cha mẹ.

Thầy còn đòi họ phải liều mất mạng sống mình vì Thầy (Mt 10,39).

Mạng sống con người được coi là điều rất quý giá,

khiến người ta làm mọi cách để duy trì sự sống của mình ở đời này.

Nhưng Đức Giêsu lại đòi môn đệ coi trọng Thầy hơn cả mạng sống.

Ngoài Thầy Giêsu, có vị thầy nào dám đưa ra đòi hỏi như thế không?

Thầy Giêsu nghĩ mình là ai mà dám đòi hỏi như vậy?

Thật ra Thầy không bảo môn đệ đừng yêu cha mẹ hay mạng sống.

Thầy chỉ đòi các môn đệ đừng yêu người ruột thịt hơn Thầy,

đừng yêu mạng sống hay danh dự của mình hơn Thầy.

Như thế là phải đặt Thầy lên trên mọi giá trị cao quý khác,

Phải dám hy sinh những giá trị này cho một Giá trị cao quý hơn.

Yêu Thầy hơn mọi sự, mọi người: đó là điều răn mới của Tân Ước,

ngoài điều răn mới là yêu nhau như Thầy đã yêu (Ga 13,34).

Theo Cựu Ước, yêu cũng là thái độ ta phải có đối với Thiên Chúa.

Yêu Thiên Chúa với với tất cả trái tim, với tất cả con người mình,

đó là điều răn quan trọng nhất trong mọi điều răn (Mt 22, 35-38)

Khi Con Thiên Chúa làm người ở đời,

Ngài cũng đòi chúng ta yêu Ngài như yêu Thiên Chúa.

Mọi sự khác chỉ là thụ tạo, so với Đức Kitô là Đấng Tạo Hóa.

Chỉ ai yêu Ngài trên mọi sự, mới xứng với Thầy (Mt 10,37-38).

Nhưng yêu Đức Giêsu trên mọi sự đòi ta phải trả giá,

vì yêu Ngài như thế đòi ta phải từ bỏ những thụ tạo ta mến yêu.

Đời sống hàng ngày cho ta nhiều cơ hội để lựa chọn,

để qua đó ta thấy ta yêu ai hơn.

Nếu yêu Đức Kitô hơn, hẳn ta sẽ có chọn lựa khác…

Yêu hơn đòi ta vác thập giá mỗi ngày, nghĩa là từ bỏ mình luôn luôn.

Không phải vác thập giá của Chúa hay của người khác,

nhưng vác thập giá của chính mình với những nét gãy rất riêng tư.

Yêu hơn đòi ta liều mất mạng sống mình vì Thầy mỗi ngày,

để rồi lại thấy mình đầy sức sống thần linh ngay trong hiện tại.

Đức Giêsu đã làm điều Ngài dạy,

khi Ngài luôn đặt Thiên Chúa Cha lên trên cha mẹ trần thế của mình.

Ngài đã ở lại Đền thờ là Nhà của Cha trong ba ngày,

mặc cho cha mẹ phải nhọc nhằn, khổ đau tìm kiếm (Lc 2,41-50).

Ngài đã không lập gia đình để hoàn thành sứ mạng Cha trao.

Ngài đã để người mẹ ở nhà, để lên đường rao giảng theo lời Cha gọi.

Và ngài đã vác thập giá của mình, hiến mạng vì vâng phục ý Cha.

Đức Giêsu đã yêu Cha hơn yêu bản thân và mạng sống.

Chính vì thế Ngài đã tìm thấy mình trong vinh quang phục sinh.

Yêu Thầy Giêsu hơn mọi sự: đó là điều răn mới, đòi hỏi từ bỏ.

Điều răn này làm tôi trở nên kitô hữu, xứng danh môn đệ của Đức Kitô.

Nhưng, một lần nữa, Đức Giêsu đã làm trước khi dạy :

Ngài đã từ bỏ mình vì tôi, đã vác thập giá, đã mất mạng sống mình vì tôi.

Đấng cao cả đã muốn sống cho xứng với tôi tầm thường,

nên tôi được mời gọi sống cho xứng với tình yêu cao cả.

LỜI NGUYỆN

Lạy Chúa, con cám ơn Chúa

về tất cả những điều Chúa đòi hỏi nơi con trong suốt cuộc đời.

Chúc tụng Chúa về thời đại con đang sống.

Chúc tụng Chúa về những giờ phút sướng vui

và những ngày tủi thân buồn bã.

Chúc tụng Chúa về cả những gì

Chúa đã không cho con được hưởng.

Lạy Chúa, xin đừng sa thải

người tôi tớ bất xứng và lười biếng của Chúa đây.

Ôi lạy Chúa khôn ngoan, nhân hậu và yêu thương,

xin đừng đuổi con xa Chúa.

Xin giữ con để con luôn phụng sự Chúa trong suốt đời con.

Xin giữ con để con phục vụ bất cứ điều gì Chúa muốn.

Dù khi mỏi mệt, dù khi chán chường,

con xin Chúa vẫn luôn kiên nhẫn,

để không bao giờ mỏi mệt về con,

và giữ con luôn luôn phụng sự Chúa.

Xin Chúa đến giúp con,

ban cho con ơn bắt đầu và lại bắt đầu,

cho con biết cậy trông

cả những khi cùng đường tuyệt vọng,

cho con tin chắc rằng Chúa sẽ thắng,

một chiến thắng huy hoàng nơi con.

Karl Rahner

 

4.Người môn đệ Đức Kitô--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA: Mt. 10, 37-42

II. TẤM BÁNH CHIA SẺ

Chuẩn bị nhân sự tiếp nối công việc truyền giáo ở trần gian, Chúa Giêsu đã tuyển chọn các môn đệ. Tuyển chọn rồi Chúa còn đào tạo để các ngài nên những chứng nhân trung thành của Chúa. Hôm nay, Chúa nêu lên những đức tính cần thiết của người môn đệ.

Người môn đệ của Chúa phải có tâm hồn quảng đại.

Tiên tri Elisêô đã hào phóng đối với gia đình tiếp đón Ngài. Tiên tri là hình ảnh đẹp về các môn đệ của Chúa. Người môn đệ là đại diện cho Đấng sai mình. Người đại diện tốt phải là người trình bày được dung mạo của Đấng sai mình. Chúa Giêsu, Đấng sai ta là người vô cùng rộng lượng. Người đến trần gian không phải để thu tích mà để ban phát. Trọn cuộc đời, Người ban phát không biết mệt mỏi. Người đến không phải để xét xử, luận phạt, nhưng để tha thứ. Người tha thứ một cách dễ dàng cho tất cả những tội nhân đến với Người. Người đến không phải để giết chết, nhưng là để cứu chữa. Người đến cho ta được sống và sống dồi dào. Người môn đệ của Chúa cũng phải có tâm hồn quảng đại, rộng lượng, bao dung như Chúa.

Người môn đệ của Chúa phải sống khiêm nhường.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu gọi các môn đệ là những người bé mọn. Chống lại những thói kiêu căng, phô trương, Chúa Giêsu luôn thao thức sao cho các môn đệ của Người trở nên bé nhỏ, khiêm nhường. Bé nhỏ trong tâm tình đạo đức để phó thác mọi sự trong tay Cha. Bé nhỏ về của cải, đừng mang “hai áo, mang theo túi tiền”. Bé nhỏ trong cách cư xử với nhau, đừng tranh giành chỗ nhất, nhưng hãy chọn chỗ chót. Bé nhỏ để quỳ xuống phục vụ: “như Thầy đã rửa chân cho các con, các con hãy rữa chân cho nhau”. Bé nhỏ để sau khi làm mọi việc rồi, hãy nhận mình là “tôi tớ vô duyên bất tài”.

Người môn đệ của Chúa phải biết tập trung vào Chúa Kitô.

Người môn đệ là người chọn Chúa Kitô làm lý tưởng. Người môn đệ cũng là người đi làm chứng về Chúa Kitô. Vì thế mọi lời ăn tiếng nói, cả đến tâm tư tình cảm phải qui hướng về Chúa Kitô. Chúa Kitô phải chiếm vị trí ưu việt trong tâm hồn người môn đệ. Nói thế không có nghĩa là người môn đệ chối bỏ mọi tình cảm chính đáng, dứt lìa những mối liên hệ gia đình. Nhưng có nghĩa là từ nay người môn đệ có yêu thương ai thì cũng là yêu thương trong tình yêu của Chúa Kitô và bằng tình yêu của Chúa Kitô.

Người môn đệ của Chúa sống cho Chúa và chết cho Chúa.

Chúa Giêsu không sống vì mình và cho mình. Người luôn sống vì và cho người khác. Người sống vì Chúa Cha và cho Chúa Cha. Nên mọi việc Người làm đều vì Chúa Cha và cho Chúa Cha. Người là tình yêu hoàn hảo dâng tặng Chúa Cha. Nên Người đã “vâng lời Chúa Cha cho đến chết và chết trên thập giá”. Người sống vì con người và cho con người. Nên người đã ban tặng chính sự sống của Người cho nhân loại, đã hiến mạng sống làm giá cứu chuộc nhân loại.

Nên thánh Phalô khuyên người môn đệ của Chúa hãy bắt chước Chúa mà chịu phép rửa trong sự chết của Chúa Kitô. Hãy yêu mến, sống cho Chúa và chết cho Chúa. Chắc chắn ta không chết một lần, nhưng sẽ chết dần mòn. Chết cho tội lỗi để không bao giờ phạm tội nữa. Chết trong quên mình âm thầm. Chết trong những hy sinh nhỏ bé. Chết trong nhiệt thành phục vụ nước Chúa. Chính khi chết đi như vậy, ta lại được một sự sống mới tràn ngập tâm hồn, sự sống sung mãn, phong phú của Thiên Chúa. Chỉ có những ai đã trải qua cái chết, mới cảm nghiệm được sự sống ấy, Thánh Phanxicô chắc chắn đã trải qua cuộc lột xác ấy nên mới thốt ra được những lời bất hủ: “Chính lúc chết đi, là khi vui sống muôn đời”. Vì thế thánh nhân đã trở nên môn đệ đích thực của Chúa Kitô.

Lạy Chúa, xin thanh luyện tâm hồn con, để con xứng đáng là môn đệ của Chúa. Amen.

III. TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU

1- Chúa Giêsu muốn cho môn đệ của Chúa có những phẩm chất nào?

2- Những gì Chúa Giêsu đòi hỏi các môn đệ, Người có thực hành không?

3- Đào tạo nhân sự cho Hội Thánh. Bạn nghĩ đến việc này thế nào? Quan tâm? Giúp đỡ? Đóng góp?.

 

5.Ðòi hỏi và vinh dự của môn ðệ--‘Giải Nghĩa Lời Chúa’--GM Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm

Với ba bài Kinh Thánh hôm nay, chúng ta có thể suy nghĩ nhiều điều về đời sống của người môn đệ đi theo Chúa Yêsu. Ðó cũng là đời sống của chính chúng ta, xét về mặt đạo đức thiêng liêng. Chúng ta đã thực thụ trở thành môn đệ Chúa Yêsu khi cùng chịu mai táng và sống lại với Người trong bí tích Rửa tội, như bài Thánh thư hôm nay nói. Từ ngày đó chúng ta không ngừng phải vác Thập giá hàng ngày để đi theo Người, nhưng đồng thời cũng nhận được vinh dự của người môn đệ đi theo Thầy, như Người đã hứa trong bài Tin Mừng. Và trong Hội Thánh luôn có những Ngôn sứ muốn sống triệt để ơn gọi làm Môn đệ của Chúa như Êlisê ngày trước mà bài sách các Vua còn kể lại nhiều mẩu truyện rất ý nghĩa. Chúng ta thử đọc về đời sống của người môn đệ đi theo Chúa, tức cũng là ơn gọi của chính chúng ta.

A. Chúng Ta Ðã Trở Thành Môn Ðệ

Ðoạn thư Rôma hôm nay được chọn để đọc một cách long trọng đặc biệt trong Canh thức Phục sinh. Chúng ta nên dùng để suy nghĩ mỗi khi có nghi thức Rửa tội. Nhưng bất cứ khi nào tự hỏi về ơn gọi Kitô hữu của mình, chúng ta cũng có thể đem đọc để thấy rõ mình đã trở nên môn đệ của Chúa như thế nào.

Vẫn biết ơn Chúa kèm theo lời rao giảng Tin Mừng đã ban nhân đức tin cho chúng ta. Chúng ta đã bắt đầu đi theo Chúa ngay từ khi chúng ta để Lời Chúa và tình yêu của Người lôi cuốn chúng ta. Có thể nói được chúng ta đã là tín hữu của Chúa vì chúng ta đã tin Người có lời ban sự sống cứu độ chúng ta. Một phần nào chúng ta đã là môn đệ của Chúa rồi, vì theo Thánh Kinh người môn đệ luôn để tai nghe Lời Chúa. Tuy nhiên, chưa có hành vi nào xác nhận chúng ta là tín hữu và môn đệ. Phải đợi đến ngày chúng ta chịu phép Rửa nhân Danh Chúa Yêsu Kitô.

Phép Rửa này độc nhất vô nhị. Không thể so sánh với một nghi lễ tôn giáo nào, kể cả phép rửa của Yoan Tẩy giả. Thánh Kinh nói rõ và chính Yoan đã khẳng định: "Tôi rửa trong nước; còn Người rửa trong Thánh Thần". Do đó đây không phải là biểu tượng và lễ nghi, nhưng là hoạt động của Thánh Linh. Sức mạnh của Thiên Chúa làm việc thật sự trong Hội Thánh dội nước trên con người. Nước chảy trên đầu không phải chỉ diễn tả ơn thanh tẩy tội lỗi. Và việc chịu phép Rửa không phải chỉ là một nghi lễ phải làm để được công nhận là tín hữu và môn đệ. Có hoạt động thật sự của Thiên Chúa trong việc dội nước và làm nghi lễ này. Thánh Phaolô trong bài thư hôm nay nói: Chúng ta đã chịu phép Rửa trong Ðức Kitô, tức là đã chịu mai táng với Người. Chúng ta cùng chết với Người trong cái chết xóa sạch tội lỗi mà Người đã chịu trên thập giá. Vì chấp nhận muốn cùng chết với Người cho tội lỗi như vậy mà chúng ta được tha tội và nước dội trên đầu chúng ta có sức mạnh thanh tẩy tâm hồn. Thế nên mọi người lớn, khi chịu phép Rửa tội, đều phải có lòng thống hối ăn năn và từ bỏ tội lỗi. Và tất cả chúng ta, khi muốn ý thức lại ơn trở thành môn đệ và tín hữu của Chúa đều phải tuyên xưng lại ý chí muốn chết cho tội lỗi và các khuynh hướng xấu xa. Không có việc muốn kết hiệp với Ðức Yêsu Kitô trong mầu nhiệm chết cho tội lỗi dù người ấy có lòng thống hối ăn năn và chịu rửa như nhiều người dưới thời ông Yoan Tẩy giả. Mọi hành vi thú nhận tội lỗi và ăn năn thống hối của con người đều không làm cho con người được khỏi tội. Chỉ có lòng từ bỏ tội lỗi trong tinh thần kết hiệp với Ðức Yêsu Kitô trong mầu nhiệm tử nạn cứu thế của Người mới mang lại ơn thanh tẩy tâm hồn.

Vì sao vậy?

Vì mọi lễ đền tội mà loài người dâng lên đều bất xứng và không được chấp nhận nếu không tựa vào lễ hy sinh đền tội mà Người Con Chí Ái của Thiên Chúa đã dâng lên khi Người chịu chết trên Thập giá. Thiên Chúa đã tỏ ra ưng thuận lễ dâng này khi cho Con Người sống lại từ kẻ chết. Người đã chết vì tội lỗi loài người, thì khi phục sinh Người trong sự chết này, Thiên Chúa đã tỏ ra chấp nhận tha thứ hết mọi tội lỗi cho loài người chúng ta. Sự sống lại của Con Thiên Chúa là ơn tha thứ tội lỗi vậy. Người ta được ơn tha thứ tội lỗi không phải khi kết hiệp với Ðức Yêsu Kitô trong sự chết của Người nhưng là khi được cùng Người sống lại trong sự phục sinh của Người. Không thể tách rời việc cùng chịu mai táng với Ðức Kitô và việc cùng Người sống lại, vì sự chết của Người chỉ có giá trị cứu thế khi Thiên Chúa phục sinh Người từ kẻ chết. Thế nên chết đi cho tội lỗi là việc của con người, nhưng ban ơn thanh tẩy đổi mới tâm hồn là ơn của Thiên Chúa ban cho. Thiên Chúa hoạt động và ban Thánh Thần cho con người khi họ chấp nhận chết đi cho tội lỗi trong mầu nhiệm Tử nạn cứu thế của Ðức Yêsu Kitô. Nhờ và trong bí tích Rửa tội, con người tội lỗi cũ kỹ đã chết đi để Thánh Thần tạo dựng con người mới sạch tội và thánh thiện trong Con Thiên Chúa.

Như vậy lễ nghi Rửa tội không phải chỉ là nghi thức phải làm để được công nhận là tín hữu và môn đệ. Và Nước Rửa tội không phải chỉ diễn tả ơn thanh tẩy tâm hồn. Nhưng thật sự Thiên Chúa hành động trong lễ nghi này. Người dùng Thánh Thần để mai táng tội lỗi trong sự chết của Ðức Kitô và để tạo dựng con người mới trong sự phục sinh của Người. Có một biến đổi thật sự nơi người chịu phép Rửa. Từ thân phận một kẻ xa lạ thù địch với Thiên Chúa, con người nhờ ý chí kết hiệp với Ðức Yêsu Kitô trong mầu nhiệm Tử nạn Phục sinh của Người, trở nên tạo vật mới đối với Thiên Chúa, không những sạch tội mà còn thánh thiện vì đã đồng hình, đồng dạng, đồng hóa với Con Thiên Chúa. Chúng ta không còn thuộc về thế giới tội lỗi nữa, nhưng đã được đưa sang Nước sáng láng của Chúa Yêsu Kitô phục sinh. Người đang sống sự sống mới và ban sự sống mới ấy cho hết thảy những ai sống trong Nước của Người.

Như vậy việc trở nên tín hữu và môn đệ của Người thật là vô thường, không thể dùng nghi thức xã hội nào để so sánh được. Trong mọi nghi thức xã hội công nhận một môn sinh hay môn đệ, chỉ có sự công nhận có thể nói là bề ngoài, không thay đổi gì bản chất con người môn đệ. Còn ở đây, trong bí tích Rửa tội, có sự biến đổi, tạo dựng thật sự, khiến một kẻ trước đây là tội nhân nay trở nên công chính; trước đây là xa lạ, thù địch, nay là nghĩa tử và là con cái Thiên Chúa; trước đây ở ngoài Ðức Kitô, nay là Kitô hưũ và kết hiệp với Người như cành với thân cây, như chi thể với thân thể.

Ai hiểu như vậy mà không quý trọng ơn của bí tích Rửa tội? Ai thấy như thế mà không xác tín về nội dung của ơn làm môn đệ của Ðức Kitô? Chúng ta hết thảy đã trở thành môn đệ của Người khi chịu phép Rửa tội. Chúng ta phải sống ơn gọi môn đệ ấy thế nào đây?

B. Ðòi Hỏi Và Vinh Dự Của Môn Ðệ

Bài Tin Mừng hôm nay nói rất rõ. Chúa Yêsu tuyên bố: ai yêu mến cha mẹ, con cái hơn Người thì không xứng đáng là môn đệ của Người. Và Người còn đòi hỏi hơn nữa khi tuyên bố tiếp theo: "Kẻ không vác lấy khổ giá mình mà theo Ta, ắt không xứng với Ta". Nếu được phép làm một phân tích văn chương nho nhỏ, chúng ta có thể nói các đòi hỏi đã được đưa ra càng ngày càng gắt gao hơn. Ðầu tiên Chúa chỉ đòi người môn đệ phải yêu Người hơn cha mẹ; rồi Người bảo họ phải yêu Người hơn cả con cái là những giọt máu của chính bản thân mình; cuối cùng Người lại buộc họ phải vác lấy khổ giá mà đi theo Người tức là phải yêu Người đến nỗi không sợ chết và dám bỏ mạng sống vì Người.

Nói cách khác, Chúa đòi người môn đệ phải từ bỏ tất cả, ngay cả mạng sống mình để đi theo và yêu mến Người. Người không cho phép môn đệ nào được lấy cớ yêu cha yêu mẹ, yêu con cái hay sự sống của mình mà từ chối với Người một điều gì khiến Người thấy tình yêu của môn đệ đối với Người chưa thật hoàn toàn và Người chưa là tất cả đối với họ. Người đòi hỏi tình yêu tuyệt đối, nên Người không nhận làm môn đệ những kẻ muốn đi theo Người nhưng lại còn xin phép về nhà lo an táng cha hay thu xếp những công việc khác. Người có thể đòi hỏi như thế bởi chính Người đã từ bỏ tất cả vì môn đệ và để cho người ta trở thành môn đệ. Chúng ta đã thấy Người đã nộp mình chịu chết cho những kẻ Người thương yêu như thế nào. Tình yêu lớn lao như vậy và tuyệt đối như thế chỉ thấy người môn đệ xứng đáng khi họ cũng yêu tuyệt đối và lớn lao như vậy.

Tuy nhiên luận lý như trên hãy còn quá đơn giản. Chúng ta chưa hiểu bản chất con người đòi hỏi như vậy là ai. Không phải Người đã yêu và làm cho môn đệ như vậy nên Người đòi môn đệ phải yêu và phải làm như thế. Thực ra khi tuyên bố những đòi hỏi kia, Ðức Yêsu Kitô chưa nộp mình chịu chết cho môn đệ và môn đệ chưa thấy Người vác Thập giá đi trước để bảo mình phải vác khổ giá đi sau. Ðức Yêsu đã đưa ra những đòi hỏi tuyệt đối, không phải nhân danh sự chết của mình cho những người mình yêu thương, nhưng nhân danh bản tính Thiên Chúa ở nơi mình và vì mình là Thiên Chúa. Và Thiên Chúa và chỉ có Thiên Chúa mới có thể đòi hỏi một cách tuyệt đối như vậy. Mọi sự, mọi người và nhất là sự sống đều là của Thiên Chúa ban cho chúng ta. Người có quyền đòi chúng ta phải dâng tất cả lại cho Người, nhất là khi hiến dâng đây, chúng ta không những không mất mát mà còn được lãnh nhận gấp trăm, gấp nghìn.

Ðó là ý tưởng của Lời Chúa tiếp theo. Người tuyên bố: Kẻ cố tìm sự sống mình thì sẽ mất, còn kẻ đành mất sự sống mình vì Ta thì sẽ gặp lại. Ðừng vội kết luận rằng sự hy sinh của người Kitô hữu cuối cùng vẫn có tính cánh vụ lợi và tính toán. Vẫn biết có lần Chúa Yêsu đã trả lời cho Phêrô khi ông này lên tiếng: "Này chúng tôi từ bỏ mọi sự mà đi theo Thầy". "Qủa thật, Người nói, không ai bỏ nhà cửa, hay anh chị em, hay cha mẹ, hay con cái, hay ruộng nương vì Ta và vì Tin Mừng, mà lại không lĩnh lấy gấp trăm bây giờ ở đời này... và sự sống đời đời trong thời sẽ đến" (Mc 10,28-31). Nhưng nếu đọc kỹ, đọc hết mọi lời của Chúa, chúng ta sẽ thấy Người đã mau lẹ chuyển từ bình diện tự nhiên sang bình diện siêu nhiên, từ những sự ở đời này sang những thực tại vô hình. Những hy sinh mà người môn đệ phải chịu rất là thực tế, còn phần thưởng dành cho họ vẫn đòi hỏi một niềm tin. Thế nên không thể nói đến sự hy sinh của họ không thoát khỏi vòng danh lợi. Ngược lại chính để thoát khỏi vòng danh lợi giam hãm con người trong vũ trụ vật chất chóng qua mà họ chấp nhận hy sinh để đạt được những giá trị và chân lý mà cùng lắm những giá trị đời này chỉ là hình ảnh.

Ở đây chúng ta không cần suy tư triết học. Chúng ta ý thức rõ ràng Chúa Yêsu Kitô đòi người môn đệ phải dám hy sinh tất cả cho Người để chứng tỏ tình yêu tuyệt đối đối với Người và để minh chứng Người thật là Thiên Chúa. Và khi hy sinh như vậy họ tìm được sự sống.

Trong khi ấy họ đẹp lòng Thiên Chúa đến nỗi Người sẵn sàng thưởng công cho những ai có một cử chỉ tốt lành nào đó đối với họ, dù chỉ cho họ một bát nước lã mà thôi. Với lời hứa này Người khuyến khích mọi người yêu mến các môn đệ của Người, cho dù họ thật bé mọn trước mặt thế gian. Và như thế chúng ta có thể tạm kết luận về bài Tin Mừng hôm nay. Chúa Yêsu tuyên bố rõ ràng là người môn đệ đi theo Người phải có lòng yêu mến Người đến nỗi sẵn sàng hy sinh đến cả mạng sống vì Người. Và điều này phù hợp với lời thư Phaolô hôm nay nói: người môn đệ hãy tự kể mình như đã chết cho tội lỗi và nay sống cho Thiên Chúa trong Ðức Yêsu Kitô. Ðó là nếp sống mới, nếp sống của người môn đệ đối với Thiên Chúa. Còn đối với nhau họ được vinh dự như là "báu vật" của Người đến nỗi ai làm cho họ việc gì tốt đều không mất phần thưởng trên Nước Trời. Từ đó họ phải sống bác ái phục vụ nhau như thế nào!

C. Những Bậc Thang Giá Trị

Bài sách các Vua có thể dùng để nói về việc phục vụ này. Quả vậy, bà lớn ở thành Shunem nọ đúng là "người đã đón tiếp một vị tiên tri với danh nghĩa là tiên tri, nên đã lãnh phần thưởng của nhà tiên tri". Bà là người sang trọng. Bà thấy tiên tri Êlisê đến thăm thành mình. Bà mời ông quá bộ đến ở tại nhà bà vì bà là con người đạo đức, nghĩ rằng Thiên Chúa đã cho mình có của thì mình phải phục vụ những "người của Thiên Chúa", tức là các môn đệ đặc biệt của Người. Và hiểu rằng nhà tiên tri có nhiều dịp qua lại Shunem, bà bàn với chồng phải trang bị cho người một phòng đặc biệt dành riêng và ở trên gác cao để người được tự do giao tiếp với Thiên Chúa. Bà ta thật tế nhị và am hiểu các đòi hỏi của đời sống một tiên tri: không thể để người chung đụng với phàm tục. Thái độ và cử chỉ của bà thật quý hóa. Nhà tiên tri mủi lòng, và muốn thưởng công. Ông hứa cho bà sẽ sinh con trong tuổi già của người chồng.

Chắc chắn đó là phần thưởng quá mức mong đợi đối với hai người. Nhưng câu nói của bài Tin Mừng hôm nay như muốn so sánh và bảo chúng ta rằng: đó chỉ là phần thưởng của một tiên tri cho một việc lành đối với nhà tiên tri. Còn phần thưởng của Thiên Chúa cho người làm phúc cho môn đệ của Người một bát nước lã, còn đáng trông đợi hơn nhiều!

Nhưng chúng ta cũng có thể đọc câu truyện trên về phía nhà tiên tri để thấy Êlisê cũng là hình ảnh người môn đệ đi theo Chúa. Ông như không có gia cư và không bám vào đâu cả. Ông sống cho Thiên Chúa và luôn đi làm theo ý của Người. Người ta thấy rõ ông đã thoát tục, chết cho thế gian này nên bà lớn kia khi rước ông vào nhà đã dọn cho ông một phòng riêng biệt và ở trên gác cao, để ông xa tránh phàm tục và sống cho Thiên Chúa. Chắc chắn ông thông thạo các việc của Người, nhưng khi muốn khen thưởng người đã có công đối với mình, ông phải nhờ đến ý kiến của người tiểu đồng đi theo. Anh này gần các thực tại thế gian này hơn. Anh biết gia đình chủ nhà đây đang cần gì hơn hết. Nhà tiên tri cho gọi bà chủ. Bà này lên đứng ở ngoài cửa để vẫn kính trọng nhà tiên tri là người đã thuộc về Thiên Chúa. Và nhà tiên tri đã thưởng công cho bà.

Như vậy, ngay từ thời Cựu Ước, người ta đã ý thức rằng đời sống của con người sống cho Thiên Chúa phải như đã chết đi cho thế gian và tội lỗi. Ðó là giáo lý của bài Thánh thư và của bài Tin Mừng. Tuy nhiên đây không phải là sự chết mất mát, từ bỏ và tiêu hủy những giá trị chân thật. Nhà tiên tri sống cho Thiên Chúa nhưng vẫn quan tâm đến hạnh phúc của người khác và nhất định muốn chu toàn nghĩa vụ đối với tha nhân. Khi nói chết cho thế gian, chúng ta chỉ có ý nói đến việc chết cho tội lỗi và những sự xấu xa, để tỉnh táo và đầy đủ hơn đối với những việc lành phải làm.

Vậy, nếu trong thánh lễ sắp cử hành đây chúng ta muốn nhắc lại việc Chúa Yêsu chịu chết để hủy diệt tội lỗi nơi chúng ta, thì chịu lấy Mình Thánh Người để nuôi sống mình chúng ta phải quyết tâm sống cho Thiên Chúa. Không những chúng ta phải tỏ ra muốn yêu mến Người trên hết mọi sự và trên hết mọi người; mà chúng ta cũng phải làm đầy đủ mọi nghĩa vụ đối với tha nhân và xã hội. Việc thi hành tốt mọi phận vụ ấy không bị bỏ quên trước mặt Thiên Chúa đâu. Chính những việc làm như vậy chứng tỏ chúng ta là môn đệ tốt của Người. Nhờ các bài Kinh Thánh hôm nay, chúng ta cứ suy nghĩ thêm về ơn gọi, đời sống, đòi hỏi cũng như vinh dự của người môn đệ đi theo Chúa, để đời sống chúng ta mỗi ngày mỗi tốt đẹp hơn.

 

6.Cho đi, tức là lãnh nhận--TGM. Giuse Vũ Văn Thiên

Một số độc giả, nhất là những độc giả ngoài Kitô giáo, có thể cảm thấy “sốc” khi đọc Bài Tin Mừng hôm nay: “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thày, thì không xứng đáng với Thày…”. Có lẽ nào Đức Giêsu lại dạy những điều ngược đời, trái với luân thường đạo lý. Để hiểu nội dung và sứ điệp của Lời Chúa, chúng ta phải xác định vị trí của đoạn Tin Mừng này trong ngữ cảnh những bài giảng của Đức Giêsu về truyền giáo. Người đưa ra những điều kiện, những yêu sách mà những ai muốn làm môn đệ của Người phải chấp thuận. Đối với những ai muốn đi theo Đức Giêsu, họ phải vượt qua mọi thứ rào cản. Những rào cản này có thể là quan niệm về một cuộc sống an phận, có thể đó là của cải tiền bạc, nhưng cũng có thể đó là những mối liên hệ rất thân thiết. Đức Giêsu đã dùng những hình ảnh cụ thể để diễn tả sự hy sinh đối với những ai muốn làm môn đệ của Người. Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta có thể khám phá ra quy luật “Cho đi, tức là lãnh nhận” được thể hiện qua những cặp từ mang ý nghĩa rát sâu sắc như sau:

Ai tìm thì sẽ mất; ai chịu mất thì sẽ tìm lại được: ngược hẳn với quan niệm thông thường. Ở đây Đức Giêsu muốn nói đến sự dấn thân của người môn đệ. Khi sẵn sàng cho đi thì sẽ tìm được chính bản thân mình. Sự ích kỷ (tức là chỉ tìm chính bản thân mình, đặt mình làm chuẩn mực cho người khác) thì sẽ làm cho con người lâm vào tình trạng vong thân, đánh mất chính mình.

Ai đón tiếp thì chính mình sẽ được đón tiếp: khái niệm “đón tiếp “ ở đây được hiểu rộng hơn quan niệm thông thường. Đón tiếp là cộng tác, là sẻ chia, là thông cảm, là đón nhận. Đón tiếp một người nào còn là sự quảng đại đối với người đó. Đức Giêsu đã đồng hóa với những người bé mọn đến nỗi ai đón tiếp họ là đón tiếp chính Người. Người còn hiện diện nơi những môn đệ, nơi những người được sai đi, để rồi mỗi khi chúng ta đón tiếp người môn đệ là đón tiếp Chúa. Hơn thế nữa, họ được vinh hạnh đón tiếp chính Thiên Chúa Cha, Đấng đã sai Con mình đến trần gian.

Ai giúp người khác thì bản thân mình sẽ được giúp đỡ: sự giúp đỡ được nêu trong Tin Mừng chỉ đơn giản là một bát nước lã, là điều ai cũng có thể làm được. Ấy vậy mà món quà tưởng chừng như vô giá trị ấy lại có ý nghĩa trước mặt Chúa và xứng đáng nhận phần thưởng. “Của cho không quan trọng bằng cách cho”, một bát nước lã đã trở thành quà tặng có giá trị, vì nó được trao tặng với cả tâm hồn, với tình mến yêu và lòng chân thành. Người đàn bà tại thành Sunêm đã quảng đại đón tiếp Ngôn sứ Êlisê (Bài đọc I). Chính nhờ sự đón tiếp đó mà Bà và gia đình đã được thưởng công. Bà đã sinh con vào lúc tuổi già xế bóng. Việc sinh con đã đem lại cho bà niềm vui, vì đó là điều bà mong ước. Bà đã đón tiếp Ngôn sứ với cả tấm lòng và sự quảng đại.

Khi cho đi, mình được nhận lãnh, khi tha thứ, mình được thứ tha, khi mến yêu, mình được yêu mến. Đó là triết lý sống của Thánh Phanxicô Khó Khăn đã được thể hiện qua Kinh Hòa Bình quen thuộc. Triết lý ấy, rất đơn sơ mà sâu sắc, rất dễ dàng thực hiện mà đem lại hiệu quả thiết thực. Triết lý sống này đã thấm đượm tinh thần của Tin Mừng. Chính Đức Giêsu đã làm gương cho chúng ta điều đó: Người đã cho đi, đã yêu mến, đã thứ tha để làm gương cho chúng ta.

Chúng ta được mời gọi để sống như Đức Giêsu đã sống, yêu như Đức Giêsu đã yêu. Chân lý này được gói gọn trong lời Chúa đã nói: “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy”. “Vác thập giá”, đó chính là con đường chúng ta đang đi. Đó chính là những biến cố đang xảy đến trong cuộc sống hằng ngày. Đó cũng là niềm vui nỗi buồn hòa quyện trong cuộc sống để làm nên những lời tôn vinh Thiên Chúa, khi chúng ta đón nhận những biến cố ấy với tâm tình của Đức Giêsu, cũng như Đức Giêsu đã cùng thập giá để tôn vinh Chúa Cha. Thánh Phaolô đã gọi những hy sinh của người tín hữu là “chết đi cùng với Đức Kitô” (Bài đọc II). Đây là cốt lõi Đức tin của người công giáo: những ai cùng chết với Chúa Kitô sẽ được sống lại với Người. Mỗi ngày, chúng ta được mời gọi sống ơn gọi của Bí tích Thanh Tẩy, tức là chấp nhận để cho những nết xấu chết dần trong ta và để ơn sủng của Chúa lớn mãi trong tâm hồn.

Chúng ta đang tôn kính Thánh Tâm Chúa Giêsu trong tháng Sáu này. Thánh Tâm Chúa đã mở ra để trở nên nguồn ân sủng cho nhân loại, cách riêng cho các tín hữu. Xin Thánh Tâm Chúa trở nên trường học về lòng hy sinh và tình yêu mến cho mỗi chúng ta.

 

7.Biết đón nhận nhau--TGM Giuse Nguyễn Năng

Ðiều kiện để làm môn đệ Ðức Giêsu là phải sẵn sàng từ bỏ mọi sự, ngay cả những tình cảm thân thiết nhất như cha mẹ, anh em, bạn bè. Thật ra, Ðức Giêsu không bắt chúng ta phải khước từ cha mẹ, anh em, bạn bè đâu. Ðiều Chúa muốn đó là chúng ta phải đặt tình yêu Chúa lên trên hết mọi tương quan, ngay cả trên chính mạng sống mình. Ðiều kiện Ðức Giêsu đưa ra buộc chúng ta phải có thái độ dứt khoát, đòi hỏi ta phải chấp nhận hy sinh, mất mát ở đời này. Ðó chính là con đường khổ giá Ðức Giêsu đi trước và muốn chúng ta đi theo. Chính Ðức Giêsu đã từ bỏ vinh quang của Thiên Chúa, trở thành người và sống như con người.

Ước gì mỗi chúng ta biết noi gương Thầy Chí Thánh trong sự từ bỏ, đón nhận đau khổ trong niềm tin yêu, để xứng đáng lãnh nhận phần thưởng đời đời.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin ban thêm niềm tin, nghị lực và tình mến cho chúng con. Chúng con là những người đã chọn Chúa làm gia nghiệp. Xin cho chúng con sẵn sàng quảng đại đáp lại lời mời gọi của Chúa và đón nhận thánh giá trong cuộc đời như là một niềm vui, một ân huệ cứu độ. Amen.

Ghi nhớ : “Kẻ nào cố tìm mạng sống mình thì sẽ mất, và kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm lại được nó”.

 

8.Thí mạng sống vì Thầy--ViKiNi--‘Xây Nhà Trên Đá’--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm

Ngày 19/06/1988, tại đền thờ Thánh Phêrô ở Rôma, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong Hiển Thánh 117 Đấng anh hùng Tử Đạo Việt Nam, trước sự tham dự của gần một trăm ngàn người Việt Nam đến từ khắp năm châu và hơn năm chục ngàn người Phi Luật Tân, Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha. Đại lễ đã long trọng tuyên dương các Đấng đã thí mạng sống vì Đức Giêsu Kitô.

+ Các Ngài đã thí mạng sống vì Chúa bằng nhiều cách: bằng sống Tin mừng thương yêu, thân ái với mọi người, cả những kẻ thù bắt bớ làm hại mình; Thánh Linh mục Dụ nói: “Tôi kính mến Thiên Chúa như thượng phụ, kính Vua như trung phụ, và song thân như hạ phụ. Không thể nghe cha ruột mà hại Vua, tôi cũng không phải vì Vua mà phạm đến thượng phụ là Thiên Chúa”. Thánh Linh mục Dũng Lạc đã chia sẻ quà tiếp tế cho lính canh. Thánh y sĩ Phan Khắc Hòa đã rộng rãi giúp người nghèo khó, miễn phí cho các bệnh nhân túng thiếu. Martinô Thọ nói: “Công bằng chưa đủ, phải có bác ái nữa”. Ông đã trồng dâu kiếm tiền giúp người nghèo. Thánh trùm Đính thường xuyên thăm viếng trại cùi, và sẵn sàng nuôi người mắc bệnh dịch trong nhà. Thánh Linh mục Triệu đã nhường tiền bữa ăn ân huệ trước giờ xử tử cho người nghèo: “xin cầm tiền và gửi cho người nghèo dùm tôi”.

+ Các Ngài đã thí mạng sống vì Thầy: bằng mặn nồng tình nghĩa gia đình. Thánh Đaminh Úy mạnh dạn tuyên bố giữ vững niềm tin của cha ông: “Nếu tôi cả gan bước lên Thánh giá, thì tôi xúc phạm đến Chúa, bất hiếu với cha mẹ; vì song thân sinh ra tôi đã dạy tôi trung thành với đức tin cho đến chết”

Thánh Martino Thọ căn dặn các con: “Các con thân mến, ý Chúa muốn cha xa lìa các con mãi mãi, nhưng các con còn có mẹ, hãy cố gắng vâng lời mẹ. Các con lớn hãy nhớ quan tâm chăm sóc các em mình. Các con phải nhớ kính trọng vâng lời anh chị. Hãy yêu thương nhau, siêng năng làm việc đỡ đần mẹ. Hãy nhớ đọc kinh tối sáng và lần chuỗi Mân Côi hằng ngày, Chúa trao cho mỗi người một thánh giá riêng, hãy vui vẻ vác theo chân Chúa và kiên tâm giữ đạo”.

Thánh Linh Mục Triệu vì thương mẹ, ở lại Huế ba tháng dựng nhà cho mẹ nên bị bắt.

Thánh Trùm Phụng tại pháp trường gặp lại con gái, cô Anna Nhiên, đã đeo ảnh Thánh giá vào cổ con và nói: “Con hãy nhận lấy kỷ vật của ba. Đây là ảnh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ảnh này quý hơn vàng bạc bội phần. Con hãy luôn mang nơi cổ và trung thành cầu nguyện sớm chiều, con nhé”.

Tình yêu thương của các thánh tử đạo đối với cha mẹ, vợ, con có phải mâu thuẫn với Tin mừng hôm nay chăng?

Tin mừng nói: “Ai yêu cha mẹ, con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng đáng với Thầy”.

Phải quả quyết rằng tình yêu thương gia đình của các Ngài đã thể hiện đúng Tin mừng của Đức Giêsu, vì Người đã dạy ta phải giữ giới răn thảo kính với cha mẹ. Chính Người “hằng vâng phục các ngài” (Lc. 2, 51; Ga. 19, 26-27).

Sở dĩ các Ngài yêu mến Chúa hơn cha mẹ, con cái vì trung thành với đạo của cha mẹ, vì hiếu thảo với cha mẹ, nối chí của cha mẹ. Hơn nữa, các Ngài hiến mạng sống mình cho Chúa là để cho cha mẹ, vợ con được sống dồi dào trong ơn phúc của Thiên Chúa, đem lại sự sống muôn đời cho cha mẹ, vợ con và muôn người.

+ Các Thánh tử đạo đã thí mạng sống vì Thày bằng sẵn sàng hy sinh dâng hiến tình yêu cha mẹ, tình yêu phụ tử, tình yêu gia đình cho Chúa, còn hy sinh tình yêu mạng sống mình cho Chúa để chứng tỏ các ngài mến Chúa trên hết mọi sự, vì “mọi sự Chúa ban cho, bây giờ Chúa cất đi”, như Thánh Gióp đã nói. Chẳng những các ngài không mất gì mà còn được mạng sống đó đến muôn đời: “Ai giữ lấy mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm thấy được, sẽ cứu được mạng sống ấy, cho đến đời đời” (Mt. 11, 39; Lc. 9, 24; Ga. 12, 25)

Như vậy, chúng ta thấy không còn mâu thuẫn giữa tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với gia đình và chính bản thân mình nữa.

Các Thánh tử đạo hy sinh thí mạng sống mình, thí tình yêu gia đình, tình yêu mọi người chính là để cho mình, cho gia đình, cho mọi người được đón nhận tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Nhờ tình yêu Thiên Chúa, chúng ta sẽ thực hiện được tình yêu chân chính, tình yêu cao cả, tình yêu phục vụ mọi người, tiếp đón những bậc ngôn sứ, những bậc công chính vị vọng cũng như những kẻ bé mọn hèn kém và những kẻ thù nữa.

Đó mới thật là người thí mạng sống vì Thầy.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã thúc giục chúng con thí mạng sống vì Chúa để mở rộng tâm hồn ra đón tiếp và phục vụ mọi người như Chúa đã hy sinh cứu độ chúng con. Xin cho chúng con biết noi gương các Thánh Tử Đạo cha ông chúng con, biết hiến thân làm chứng cho Tin mừng của Chúa.

 

9.Thiên Chúa trên hết--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.

Con vật sống theo bản năng. Con người có lý trí, nên con người khác con vật khi sống theo lý trí hướng thiện. Trong cuộc sống, con người được mời gọi lựa chọn để sống tốt mỗi ngày; điều này hàm chứa quyết định chọn Thiên Chúa trên hết, dù rõ ràng hay mặc nhiên.

1. Chọn lựa giữa con người và Thiên Chúa

Đức Yêsu nói: “Ai yêu cha mẹ hay con cái hơn Ta thì không xứng với Ta. Ai không vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta thì không xứng với Ta”. Đức Yêsu đòi người ta phải chọn Ngài trên tất cả, cho dù người đó phải chọn lựa giữa Thiên Chúa và cha mẹ, anh chị em, con cái, hay vợ chồng của họ. Hơn thế nữa, Đức Yêsu còn đòi người ta phải chọn Ngài trên cả chính bản thân và sự sống họ nữa: “Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, còn ai sẵn sàng mất sự sống vì Ngài thì sẽ tìm lại được”.

Giữa con người và Thiên Chúa, con người phải chọn Thiên Chúa. Điều răn thứ nhất dạy: “thờ phượng Thiên Chúa và kính mến Người trên hết mọi sự”. Chọn tạo vật, cho dù tạo vật đó là chính mình, cũng là tôn thờ ngẫu tượng. Khi chọn Thiên Chúa trên tất cả, con người không đánh mất chính mình, nhưng là sống ơn gọi làm người trọn vẹn hơn. Thiên Chúa luôn luôn là Thiên Chúa Tình Yêu, Ngài luôn muốn điều tốt cho con người, Ngài luôn muốn con người được hạnh phúc thật. Chọn Ngài, là chọn sự sống đích thực, là chọn hạnh phúc đích thực.

Có những điều con người chủ quan thấy là tốt cho mình, nhưng khách quan điều đó không tốt thực cho con người. Trí khôn hữu hạn của con người làm sao so sánh với quyết định khôn ngoan tuyệt vời của Thiên Chúa!

2. Thiên Chúa yêu thương con người qua trung gian hữu hình

Ngay từ thuở tạo thiên lập địa, Thiên Chúa đã luôn ở với con người. Ngay khi con người phạm tội và trốn tránh Thiên Chúa, Ngài vẫn đi tìm và nối lại tương quan với con người bằng việc tra vấn họ. Trong dòng lịch sử, Thiên Chúa vẫn chọn một con người cụ thể để nói với con người, chẳng hạn qua các tiên tri. Bài đọc thứ nhất hôm nay cho thấy Thiên Chúa yêu thương bà Shumen và chồng bà qua tiên tri Elisha. Tiên tri báo trước bà sẽ có con vào “ngày này năm sau”. Hành vi của bà Shumen đối với tiên tri diễn tả tâm tình và thái độ của bà đối với Thiên Chúa. Bà đã dành phòng cho tiên tri, nuôi cơm tiên tri. Thiên Chúa qua tiên tri Elisha “đáp trả” tấm lòng chân thành của bà, bằng việc cho bà có con như bà ước nguyện.

Qua những cặp vợ chồng son, người ta nhận ra con cái là hồng ân của Thiên Chúa. Mỗi người được chào đời, hàm chứa người đó được cha mẹ chấp nhận và yêu thương. Những người con “chết trong dạ mẹ” do hành vi từ khước tình yêu của người cha người mẹ đối với người con đó, và cũng là hành vi từ khước tình yêu Thiên Chúa dành cho người người cha người mẹ đó. Đã đành nuôi dưỡng một người con tốn nhiều tiền của công sức, nhưng bù lại Thiên Chúa cũng cho người cha người mẹ được an ủi qua những người con. Ai không yêu thương cụ thể qua hy sinh chấp nhận con cái, người đó không yêu thương và cộng tác với Thiên Chúa trong hành vi tạo dựng.

Bài Tin Mừng hôm nay Đức Yêsu nói: “nếu một người giúp người nghèo chỉ một chén nước lã, họ cũng được thưởng công”. Ở một chỗ khác, tin mừng Matthêu cho thấy: ai làm cho một trong những người nghèo khó nhất, cũng là làm cho Thiên Chúa, và ai không làm cho những người nghèo khó là không làm cho Thiên Chúa. Không chỉ có các tiên tri là hình ảnh của Thiên Chúa, nhưng cả những người nghèo đều là hiện diện của Thiên Chúa. Không yêu thương người nghèo, là không yêu thương Thiên Chúa. Không chấp nhận người con “còn trong bào thai trong dạ mình” là không chấp nhận Thiên Chúa.

3. Đức Yêsu Con Thiên Chúa

Đức Yêsu yêu thương con người. Ngài thương cảm dân chúng bơ vơ không người chăm sóc như chiên cừu không người chăn. Người chăn chiên có nhiệm vụ bảo vệ đàn chiên khỏi thú dữ và dẫn đàn chiên tới suối nước trong lành. Đức Yêsu yêu thương con người và là biểu hiện tình yêu Thiên Chúa cho con người.

Nếu chỉ là người như bao người khác, Đức Yêsu không được phép đòi người ta phải chọn Ngài trên những người thân yêu như cha mẹ, anh chị em, con cái. Thực sự Đức Yêsu đã đòi hỏi điều này, và như vậy, người ta hiểu Ngài là Đấng đặc biệt, hơn chỉ là một con người. Ngài là Con Thiên Chúa theo một nghĩa rất đặc biệt, Ngài là Thiên Chúa theo một nghĩa nào đó, và các nhà thần học diễn tả Ngài là Thiên Chúa Con.

Đức Yêsu đã tới để làm chúng ta thành con người mới. Ngài tới mang niềm hy vọng cho con người trong cuộc đời dương thế nhiều phong ba bão tố. Ngài là nguồn hy vọng của Kitô-hữu.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

1. Trong cuộc sống hằng ngày, tiêu chuẩn lựa chọn của bạn là gì?

(Lợi: tiền bạc, công việc? Danh: tiếng khen, kính phục? Quyền lực? Điều thiện hảo: tốt lành cho người ta và cho mình?)

2. Bạn có đồng ý quan điểm chỉ cần làm việc thiện giúp người chứ không cần tham dự các bí tích không? Xin trình bày và bảo vệ quan điểm của bạn.

3. Phải chăng Thiên Chúa đòi con người chọn Ngài trên tất cả, là Ngài ích kỷ?

4. Chọn Thiên Chúa trên tất cả, có làm suy giảm hạnh phúc của con người không? Tại sao?

 

10.Vác thánh giá theo Đức Giêsu --Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ

Câu chuyện

Vào sáng một ngày mùa đông tuyết lạnh, Sadhu Sundar Singh và một người bạn đi du lịch qua miền núi Bắc Ấn Độ. Thình lình một cơn bão tuyết ào ào đổ tới, gió lạnh gào thét bên tai họ, khiến hai người phải chống trả hết sức khó khăn.

Đang lúc dầu sôi lửa bỏng ấy, họ lại thấy một người đàn ông nằm vất vưởng bên đường chờ chết. Sadhu muốn dừng lại để cứu giúp người bị nạn, nhưng bạn ông cho rằng, nỗ lực ấy chỉ hoài công thôi. Vì để cứu lấy chính mình trong lúc này cũng đã vất vả lắm rồi. Và ông bạn ấy đã bỏ đi.

Chạnh lòng thương, Sadhu ở lại bên cạnh kẻ bất hạnh, xoa nóng tay chân con người sống dở chết dở ấy. Với sức lực còn lại, Sadhu cố gắng cõng anh ta trên lưng và khó nhọc đi qua vùng bão tuyết. Hơi ấm của hai thân thể hoà quyện lấy nhau khiến người kia hồi sinh và cả hai cùng mạnh sức.

Đi khoảng một dặm, họ kinh ngạc khi nhìn thấy một xác chết lạnh cóng bên vệ đường. Họ càng sững sờ hơn nữa khi nhận ra đó chính là anh bạn cùng đi với Sadhu sáng nay (Thiên Phúc, Như Thầy đã yêu, tr 85).

Suy niệm

Đức Giêsu đưa ra một điều kiện rất khắt khe đối với những người muốn bước theo Ngài: Phải sẵn sàng từ bỏ mọi sự, ngay cả những tình cảm thân thiết nhất như cha mẹ, anh em, bạn bè. Ngài không bắt chúng ta phải khước từ gia đình. Qua cách nói mạnh đó, Ngài muốn nhấn mạnh, môn đệ của Ngài phải đặt tình yêu Chúa và sứ mạng tông đồ lên trên hết mọi tương quan, ngay cả trên chính mạng sống mình. Đó là con đường khổ giá mà Ðức Giêsu đi trước và muốn người môn đệ đi theo.

Theo văn mạch của Matthêu, sau này Đức Giêsu quả quyết rằng đối với môn đệ của Ngài không có con đường nào khác ngoài con đường thập giá và đó cũng là đường dành các môn sinh: “Nếu ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. “Từ bỏ chính mình” (Mt 16, 24): Có nghĩa là bỏ đi cả những khát vọng, những đòi hỏi chính đáng của mình mà nhận lấy khát vọng và đòi hỏi của người khác, ở đây chính là đòi hỏi của Thiên Chúa. Đó là “học với; làm môn đệ” (x. Mt 11,29), là bắt chước các phong thái của Thầy, lặp lại những chọn lựa của Thầy, tức là nối tiếp công trình mà Thầy đã bắt đầu với biết bao hy sinh đau khổ vì làm chứng cho Đức Kitô.

Nghiền ngẫm lời mời gọi của Thầy, chúng ta tiến bước trong cuộc sống và đối diện với đau thương mà mỗi người chúng ta luôn đối diện trong những nỗi đau của thể xác, hay nỗi đau về tâm hồn, có khi cả hai.

 Vác thánh giá theo Đức Giêsu, sự chiến thắng huy hoàng cũng dành cho người môn đệ trung kiên vác thập giá Chúa, Thánh Phaolô khẳng định: Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người (Rm 6,8). Đức Kitô đã chiến thắng sự dữ, chiến thắng đau khổ, chiến thắng sự chết và cho phép chúng ta cùng Ngài vượt qua đau khổ, vượt qua sự chết như Ngài: “Ngày thứ ba Người sẽ sống lại”.

Yêu mến Thầy, vác thập giá theo Thầy và cũng biết đón tiếp người khác nhất là những người bé mọn cùng khổ. Điều này đòi hỏi người theo Chúa phải quên mình, quên mình phục vụ anh em với tất cả tình yêu dù chỉ cho người bé mọn một chén nước lã.

Xin cho chúng ta biết noi gương Thầy Chí Thánh trong sự từ bỏ, khi bước vào sứ mạng đón nhận đau khổ trong niềm tin yêu và phục vu...

Ý lực sống

“Nếu ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24).

 

11.Biết đón nhận tha nhân—Lm Giuse Đinh Lập Liễm

A.DẪN NHẬP.

Các bài đọc Chúa nhật hôm nay nhắc ta hãy lưu tâm đến việc tiếp nhận tha nhân, nhất là đón nhận những người nghèo hèn, bé mọn, cô thế cô thân, bị bỏ rơi... Đón tiếp tha nhân chính là đón nhận Chúa Kitô. Muốn đón tiếp phải có lòng yêu thương, thành thật, hy sinh, từ bỏ, tế nhị, cởi mở. Biết đón tiếp là bước khởi đầu của tình yêu. Chúa Giêsu hứa sẽ ban thưởng bội hậu cho những ai có lòng quảng đại biết tiếp rước những người nghèo hèn, làm phúc bố thí cho họ dù chỉ một bát nước lã.

Qua bài đọc sách Các Vua, một bà già son sẻ sang trọng miền Sunêm rất giầu lòng quảng đại đã mời tiên tri Eâlisê dùng bữa khi tiên tri đi ngang qua. Do lòng quảng đại bác ái đó, bà đã khám phá ra  đây là người của Thiên Chúa. Bà lại càng trân trọng tiếp đãi nồng hậu hơn: dọn phòng trên lầu, có giường, có ghế, có đèn…  Qua nghĩa cử “cho khách đỗ nhờ”, bà ta đã được đền đáp xứng đáng: sẽ có được con trai trong lúc hai ông bà đã cao niên.

Sự đón tiếp cần phải với tấm lòng. Đón tiếp vào nhà, với tinh thần chỉ có thể thực hiện  nếu có sự đón tiếp với tấm lòng chúng ta, vì nói cho cùng, đón tiếp là tự hiến dâng: đấy là biết từ bỏ sự thỏai mái riêng tư, sự yên tĩnh của mình để lo cho người khác. Một sự hiến dâng như thế chỉ có thể thực hiện  theo lệnh của con tim chúng ta. Sự hiến dâng này chỉ đầy đủ ý nghĩa nếu nó biểu hiện sự đón tiếp từ trong lòng, làm cho tình thương nên trong sáng và bất vụ lợi. Chúa Giêsu đã nói: “Kẻ nào đón tiếp các ngươi là đón tiếp chính ta”.

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

+ Bài đọc 1: 2V 4,8-11. 14-16

Trên đường sứ mạng, ngày kia tiên tri Êlisê ghé thăm nhà một người đàn bà ở Sunêm. Bà này tỏ ra rất qúi trọng nhà tiên tri vì bà coi ông là vị thánh của Thiên Chúa. Được sự đồng ý của chồng, bà đã dọn cho tiên tri một phòng ở trên lầu với đầy đủ những thứ cần thiết, để bất cứ lúc nào tiên tri cũng có thể đến trú ngụ.

Đáp lại tấm thịnh tình của bà, tiên tri đã cầu khẩn Thiên Chúa ban tặng cho bà một đứa con  vì bà hiếm muộn và chồng bà đã già. Lời cầu xin của ông đã được chấp nhận. Ông nói với bà: “Vào thời kỳ này, vào độ này sang năm, bà sẽ có cháu trai bồng” (2V 4,16).

+ Bài đọc 2: Rm 6,3-11.

Bài đọc 2 chỉ là chủ đề phụ. Trong thư gửi cho tín hữu Rôma, thánh Phaolô dạy cho các tín hữu biết rằng nhờ Phép Rửa chúng ta đã cùng được mai táng với Đức Kitô, và sẽ được cùng với Ngài sống lại hiển vinh để hiệp thông một cách nhiệm mầu vào chính sự sống của Thiên Chúa: “Anh em cũng vậy, hãy coi mình như đã chết  đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa, trong Đức Giêsu Kitô”(Rm 6,11).

+ Bài Tin mừng: Mt 10,37-42.

Đức Giêsu đưa ra một điều kiện rất khắt khe đối với những người muốn bước theo Ngài. Theo Chúa thì phải yêu mến Ngài trên hết, trên cả cha mẹ vợ con và trên cả thân mình. Như vậy Ngài có ý nói theo Ngài thì không được để bị ràng buộc bởi gia đình.

Ngoài ra, Chúa đòi chúng ta yêu mến Ngài hơn tất cả trong việc vác thập giá theo Ngài và biết đón tiếp người khác nhất là những người bé mọn. Điều này đòi hỏi người theo Chúa phải quên mình. Quên mình là từ bỏ những gì liên quan đến con người và mọi liên hệ của bản thân từ sự sống cho đến tình cảm.

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

Thương người có mười bốn mối

 

Mỗi sáng Chúa nhật chúng ta đều đọc kinh “Thương người có mười bốn mối: 7 mối qui về thể xác và 7 mối qui về tinh thần, nghĩa là thương con người toàn diện. Các bài đọc trong thánh lễ hôm nay nhắc nhở chúng ta  phải lưu tâm tiếp đón mọi người, không những phải tiếp đón các sứ giả của Chúa một cách cẩn trọng mà còn đón tiếp tất cả những kẻ bé mọn vì tất cả đều là môn đệ của Chúa.

I. BÀI HỌC CHÚA DẠY HÔM NAY

Nhà triết học hiện sinh Pháp, ông Jean Paul Sartre, có nói một câu làm cho chúng ta ngạc nhiên: “ L’enfer c’est les autres”: Tha nhân là hỏa ngục đối với ông. Thật là một câu nói quái gở vì nó đi ngược hoàn toàn với Tin mừng.

Tha nhân là ai? Họ ở đâu? Làm thế nào tìm được họ?  Thưa, họ là mọi người ở quanh chúng ta, chúng ta có thể tìm thấy dễ dàng, có thể động chạm đến họ. Nếu chúng ta hỏi Chúa Giêsu: người khác hay tha nhân là ai? Chúa Giêsu sẽ trả lời ngay: “Tha nhân chính là Ta”bởi vì Ngài đã khẳng định: “Sự gì ngươi làm cho một người bé mọn nhất vì danh Ta, là làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40).

Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đòi buộc các môn đệ của Chúa phải yêu mến Chúa trên hết, hơn cả cha mẹ anh em, ngay cả mạng sống của mình. Đây là một đòi hỏi rất khắt khe và dứt khoát. Sau đó, Chúa Giêsu khuyên chúng ta hãy tiếp đón các môn đệ của Chúa.

Trước hết để xác định sự duy nhất giữa Đấng sai đi và người được sai đi: “Ai tiếp đón các con là tiếp đón Thầy, ai tiếp đón Thầy là tiếp đón Đấng đã sai Thầy”.Sau đó, để phân biệt chi tiết sự đón nhận theo ba mức độ giảm dần một cách nghịch lý: các  “tiên tri”, những “người công chính”, những “kẻ bé mọn”, và long trọng xác nhận họ có tư cách xứng đáng là sứ giả của Phúc âm.

Các “tiên tri” hiển nhiên là những Kitô hữu. Họ đã thi hành một tác vụ được chấp nhận trong Giáo hội sơ khai.

Những “người công chính” có lẽ là những thành phần được kính trọng trong cộng đoàn Kitô hữu.

Còn nhữõng “kẻ bé mọn” là các môn đệ, họ chẳng làm gì hơn là “tin” vào Đức Kitô. Họ cũng đáng được trân trọng và yêu mến đặc biệt. (Fiches dominicales, năm A, tr 215)

Tất cả những điều nói trên chung qui lại cũng chỉ nói về “môn đồ Chúa Giêsu”, nghĩa là Kitô hữu thông thường, kẻ được sai đi và liên kết với sứ mạng của Thầy mình. Ngay cả người Kitô hữu khiêm hạ nhất, tức là kẻ “bé mọn”, cũng có thể gán cho mình những điều đã nói trên.

Ta phải lưu tâm đến hết mọi người và phục vụ họ  ngay cả trong những chuyện tầm thường nhất, như một ly nước lã. Vì bất cứ một sự lưu tâm nào đối với kẻ “bé mọn” nhất cũng là một sự lưu tâm đối với Chúa. Khi mở rộng lòng mình cho tha nhân như thế, ta sẽ “được sự sống” là điều duy nhất có thể làm cho ta thỏa mãn.

II. GƯƠNG SÁNG VỀ SỰ ĐÓN TIẾP.

Trong Kinh thánh chúng ta thấy còn ghi lại một vài nét đẹp của sự tiếp đón đáng cho chúng ta bắt chước. Những gương sáng này vẫn luôn giữ được tính cách thời sự của nó.

1. Ông Abraham (St 18).

Ông là một con người hiếu khách và quảng đại. Khi thấy ba khách lạ đang đi trong sa mạc nắng cháy, không những ông mời  mà còn năn nỉ họ vào nhà nghỉ và ân cần săn sóc họ một cách chu đáo. Ba người khách lạ đó là ai? Đó là ba sứ giả của Thiên Chúa.

Đáp lại tấm thịnh tình và lòng quảng đại của ông, ba sứ giả ban cho vợ chồng hiến muộn này một đứa con trai đầu lòng. Đó là cậu Isáac.

2. Một gia đình ở Su-nêm.

Khi tiên tri Elia qua Su-nêm, một bà giầu có rất hiếu khách đã mời Elia vào nhà dùng bữa với sự săn sóc tỉ mỉ. Bà còn dọn cho tiên tri một phòng trên gác đầy tiện nghi để tiên tri có thể lui tới tự do.

Đáp lại tấm lòng quảng đại của bà, Elia cũng hứa ban cho bà một đứa con vì bà son sẻ: “Vào thời kỳ này, vào độ này sang năm, bà sẽ có cháu trai bồng” (Bài đọc 1).

3. Gia đình ba chị em ở Bêtania.

Chúa Giêsu rất thương ba chị em này, mỗi khi đi qua Bêtania, Chúa và các môn đệ thuờng ghé thăm chị em và nghỉ ngơi. Chị cả Matta rất hiếu khách, dọn cho Chúa những bữa ăn ngon. Còn cô em Maria  đón tiếp Chúa bằng cách ngồi dưới chân Chúa mà nghe Ngài dạy dỗ, cách đón tiếp này cũng làm cho Chúa rất hài lòng. Còn Lagiarô là đàn ông thì tiếp theo kiểu đàn ông là nhậu và chuyện trò với Chúa.

Đáp lại sự đón tiếp ân cần và thành thực của ba chị em, Chúa Giêsu đã làm cho Lagiarô sống lại sau khi chết bốn ngày.

Truyện: Một nghĩa cử tuyệt đẹp.

Một hôm, hòang đế Napoléon của Pháp vào một nhà hàng nọ. Đi theo hòang đế chỉ có một vị sĩ quan tùy viên. Vì không muốn cho ai nhận ra mình là hòang đế, nên Napoléon và viên sĩ quan cận vệ cải trang ăn mặc như thường dân.

Sau khi đã ăn uống xong, bà chủ nhà hàng đến tính tiền. Tổng cộng số tiền phải trả là 14 quan. Viên sĩ quan cận vệ mở chiếc cặp xách tay để lấy tiền. Bỗng mặt ông tái mét đi vì trong cặp không có đồng tiền nào cả.

Thấy thế, Napoléon hiểu ý nói nhỏ với viên sĩ quan: “Đừng lo, để tôi trả cho”. Nói rồi ông móc túi lấy tiền. Nhưng sờ túi trên, túi dưới, túi trước, túi sau, ông không thấy có đồng tiền nào cả. Napoléon nhìn viên sĩ quan nhướng mắt, nhún vai.

Trước tình thế đó, viên sĩ quan nói với bà chủ:

- Thật là rủi ro cho chúng tôi, chúng tôi quên không đem tiền theo. Xin bà vui lòng cho tôi thiếu một tiếng đồng hồ nữa, tôi sẽ trở lại thanh tóan với bà được không?

Bà chủ nhất định không chịu và dọa rằng nếu hai người không chịu trả tiền ngay, thì bà sẽ gọi cảnh sát.

Một anh bồi bàn theo dõi công việc từ đầu cảm thông với hai người khách nên nói với bà chủ:

- Quên đem tiền trong túi, đó là điều thường xẩy ra. Vì thế, xin bà đừng gọi cảnh sát làm gì! Theo tôi thì hai ông đây là người rất thật thà, không có ý lường gạt đâu.

Nghe anh bồi bàn nói, bà chủ vẫn không chịu và cứ nằng nặc đòi kêu cảnh sát.

Thấy thế, anh bồi bàn móc túi lấy ra 14 quan trao cho hai người khách và nói: “Đây tôi cho hai ông mượn để thanh tóan với bà chủ”.

Thế là nhờ anh bồi bàn  mà Napoléon và viên sĩ quan mới có thể rời khỏi nhà hàng.

Một lát sau, viên sĩ quan tùy viên trở lại nhà hàng. Ôâng gặp lại bà chủ và nói:

- Bà đã tốn kém mất bao nhiêu để tạo lập nhà hàng này?

Bà chủ trả lời: 30.000 quan..

Viên sĩ quan mở chiếc cặp da xách tay lấy ra 30.000 đặt trên bàn và nói:

- Vâng lệnh của chủ tôi là hòang đế Napoléon, tôi xin bà sang lại nhà hàng này cho anh bồi bàn, người đã giúp chúng tôi đang lúc chúng tôi kẹt không có tiền.

III. CÁCH THỨC ĐÓN TIẾP

Trong việc tiếp đón, người ta phải chú ý đến phương diện vật chất và tinh thần. Phương diện nào cũng quan trọng để làm cho khách được hài lòng, nhưng phương diện tinh thần thì quan trọng hơn.

1. Phương diện vật chất.

Khi đón khách vào nhà, ai cũng muốn khách được hài lòng: dọn dẹp nhà cửa, trang bị đồ dùng cần thiết, cơm nước ngon lành... Phần trang bị vật chất càng đầy đủ càng nói lên lòng hiếu khách, nếu không sợ khách phê bình “khẩu thiệt đãi chi”. Gia đình ở Su-nêm chẳng những đón tiếp tiên tri Êlia mà còn dọn cho ông một căn phòng để những lần sau ông tới đã có chỗ trọ. Dĩ nhiên, mến khách thì càng tốn kém, nhưng đó là điều kiện bắt buộc.

2. Phương diện tinh thần.

Khía cạnh tinh thần trong việc đón tiếp khách mới là quan trọng. Người đời thường nói: “Người ta thèm lòng chớ không thèm thịt” hoặc câu khác: “Cách cho thì qúi hơn của cho”. Cách tiếp đón qúi ở chỗ thành thực, quảng đại và cởi mở, chú trọng đến con người hơn là của cải. Tiếp đón không chỉ là đón người vào trọ trong nhà mình, cho họ ăn, cho họ nghỉ. mà còn là biết quan tâm tới nhu cầu của người khác và đáp ứng theo khả năng của mình.

Đối với hai trường hợp đón tiếp khách ở trên, tại sao những chủ nhà ấy quảng đại đón tiếp khách?  Thưa, vì họ không chỉ nghĩ đến mình mà còn quan tâm tới người khác.

Abraham lo cho ba người khách kia đi trong sa mạc sẽ bị đói khát và không có chỗ nghỉ ngơi để lấy sức.

Gia đình ở Su-nêm lo sợ tiên tri Êlia phải bơ vơ nơi miền đất lạ, không có chỗ nương nhờ trong hoàn cảnh khó khăn đó.

Gia đình ở Bêtania thì muốn dành cho Chúa Giêsu và môn đệ có chỗ nghỉ ngơi sau những ngày giờ làm việc mệt nhọc. Gia đình kiếm cho Chúa có chỗ dừng chân mỗi khi đi qua Bêtania.

IV. PHẦN THƯỞNG DÀNH CHO SỰ ĐÓN TIẾP

Khi tiếp đón, dĩ nhiên chúng ta phải mất mát: mất thì giờ, mất tiền của, mất công... Nhưng tất cả sẽ được Chúa thưởng công cho ở đời này hay đời sau.

Trở lại ba việc đón tiếp trên, phần thưởng của lòng quảng đại ấy là gì? Là sự sống: hai đứa con đầu lòng cho hai vợ chồng son sẻ, và mạng sống được trả lại cho Lagiarô đã chết bốn ngày. Xét cho cùng, ơn ban sự sống ấy không phải do những người khách, mà chính Thiên Chúa, nguồn mạch sự sống, ban cho họ.

Theo bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã khẳng định không có việc gì làm cho người khác mà bị bỏ quên, Chúa ghi nhớ tất cả và sẽ thưởng công cho, mặc dù việc ấy rất nhỏ nhặt: “Kẻ nào cho một trong những kẻ bé mọn này uống chỉ một bát nước lã thôi với danh nghĩa là môn đệ, thì quả thật, Thầy nói với các con, người ấy không mất phần thưởng đâu”.

Đến ngày phán xét, ngày thưởng phạt đích đáng, Chúa Giêsu sẽ nói với mọi người chúng ta: “Mỗi lần các ngươi làm cho một người nhỏ bé nhất của Ta đây, là các ngươi làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40). Ngược lại là chúng ta đã không làm cho Chúa và sẽ phải lãnh hình phạt đời đời

Truyện: một chén ân tình

Willton Rix có kể một câu chuyện đầy kịch tính như sau:

Vào sáng một mùa đông tuyết lạnh, Sadhu Sundar Singh và một người bạn  du lịch qua miền núi Bắc Ấn độ. Thình lình một cơn bão tuyết ào ào đổ tới, gió lạnh gào thét bên tai họ, khiến hai người phải chống trả hết sức khó khăn.

Đang lúc dầu sôi lửa bỏng ấy, họ lại thấy một người đàn ông nằm vất vưởng bên đường chờ chết. Sadhu muốn dừng lại để cứu giúp người bị nạn, nhưng bạn ông cho rằng, nỗ lực ấy chỉ hoài công thôi. Vì để cứu lấy chính mình trong lúc này cũng đã vất vả lắm rồi. Và ông bạn ấy đã bỏ đi.

Chạnh lòng thương, Sadhu ở lại bên cạnh kẻ bất hạnh, xoa nóng tay chân con người sống dở chết dở ấy. Với sức lực còn lại, Sadhu cố gắng cõng anh ta trên lưng và khó nhọc đi qua vùng bão tuyết. Hơi ấm của hai thân thể hoà quyện lấy nhau khiến người kia hồi sinh và cả hai cùng mạnh sức.

Đi khoảng một dặm, họ kinh ngạc khi nhìn thấy một xác chết lạnh cóng bên vệ đường. Họ càng sững sờ hơn nữa khi nhận ra đó chính là anh bạn cùng đi với Sadhu sáng nay.(Thiên Phúc, Như Thầy đã yêu, tr 85)

Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu còn đưa ra một điều kiện nghịch lý cho các môn đệ Người theo: “Ai giữ mạng sống mình, thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được” (Mt 10,39). Cứ thực hành đi rồi sẽ thấy nó không nghịch lý nữa.

Chúng ta thấy nghĩa cử yêu thương của Sadhu đã minh chứng hùng hồn cho lời nói của Chúa Giêsu ở trên. Bạn của Sadhu đã cố giữ lấy mạng sống mình nên đã mất mạng, còn Sadhu liều mạng “vì anh em” nên đã được sống. Một người không có khả năng từ bỏ mình vì anh em thì họ cũng không có khả năng yêu thương. “Phải liều mất đi” để “tìm thấy lại”. Đó là nghịch lý mà Chúa Giêsu đã trải qua để nêu gương cho chúng ta. Người đã sẵn lòng chịu chết ô nhục để rồi sống lại vinh quang cũng để nói lên lời yêu thương con người.

Mỗi ngày Chúa nhật đọc kinh “Thương người có 14 mối”, chúng ta hãy xem lại con người chúng ta còn thiếu sót những mối nào trong kinh ấy, hãy cố gắng thực hiện tất cả. Mỗi lần chúng ta làm cho tha nhân điều gì thì đó là chúng ta đang làm cho Chúa dù cho người bé mọn chỉ một chén nước lãø thôi.

 “Một chén nước lã” đối với Chúa là  “một chén ân tình”. Điều đó cho thấy, Thiên Chúa không hề bỏ sót một nghĩa cử yêu thương nào, cho dù chỉ là nghĩa cử bé nhỏ âm thầm, một khi đã được khoác vào tấm áo tình yêu thì nó trở nên vô cùng cao cả. Tình yêu chính là trọng tâm của đời sống Kitô hữu.

 

 

12.Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái

A. Hạt giống...

Phần cuối của bài giảng về sứ mạng tông đồ. Chúa Giêsu thẳng thắn cho biết những đòi hỏi khó khăn của Tin Mừng: Vì Tin Mừng là giá trị cao quý nhất cho nên nếu cần thì người ta phải dám từ bỏ tất cả những thứ khác để đổi lấy nó.

Sau đó Chúa Giêsu khuyến khích người ta quảng đại tiếp đón những sứ giả của Tin Mừng, vì tiếp đón họ chính là tiếp đón Chúa và sẽ được Chúa trọng thưởng.

B.... nẩy mầm.

1. Thú thật Lời Chúa mấy ngày nay khiến con rất sợ: để đón nhận Tin Mừng của Chúa, con phải hy sinh và từ bỏ rất nhiều; khi làm tông đồ của Chúa, con cũng sẽ đương đầu với biết bao khó khăn và đau khổ. Con hiểu được tại sao nhiều người không kiên trì sống đức tin, và nhiều người ngại làm tông đồ cho Chúa. Con cũng sẽ đào ngũ chăng? Con cũng sẽ nản lòng chăng? Thật tình con không muốn thế bao giờ. Xin cho con được kiên trì và can đảm.

2. “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy thì không xứng đáng với Thầy”: hiện giờ con đang yêu những gì hơn Chúa? Xin cho con sức mạnh dám từ bỏ những thứ đó để con xứng đáng hơn với Chúa.

3. “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy thì không xứng đáng với Thầy”: xin cho con biết thập giá hiện nay của con là gì, và xin thêm sức để con vác nổi thập giá ấy.

4. Một thiếu nữ trẻ đẹp, con nhà quyền quý muốn nhập vào một dòng tu rất khắc khổ. Để thử thách ơn gọi của cô, Mẹ Bề trên vẽ lên một bức tranh đáng sợ về những đòi hỏi khắc khe của tu viện. Nghe xong, cô bé có vẻ lung lay và im lặng. Một lúc sau Mẹ bề trên hỏi:

- Con không nói gì ư?

- Thưa mẹ con chỉ có một câu hỏi: trong nhà dòng này có nhiều cây Thánh giá không?

- Ồ, khắp nơi trong nhà, chỗ nào cũng có cây Thánh giá.

- Vậy thì thưa mẹ, con hy vọng sẽ không gặp gì khó khăn cả, bởi vì ở mọi nơi và trong mọi giây phút, con đều có Thánh giá bên cạnh. Con có thể chịu đựng tất cả. (Góp nhặt)

5. “Ai giữ lấy mạng sống mình thì mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm thấy được” (Mt 10,39)

Kìa một em bé! Đúng rồi, một em bé! Làm thế nào để cứu em bây giờ? Hàng chục cặp mắt đang dõi theo em với đầy vẻ lo lắng và thương xót. Bỗng từ trên thành cầu, một bóng người lao vội xuống cố nắm lấy bàn tay nhỏ xíu của em đang quờ quạng giữa khoảng không tưởng như vô vọng… Em bé đã được cứu sống! khoảnh khắc quá mỏng manh giữa cái chết và sự sống.

Câu chuyện đã xảy ra vào một buổi chiều tháng năm cách đây gần một năm… như một luồng sáng chiếu vào cõi lòng vốn vị kỹ của tôi, và tôi đã hiểu một tình yêu cao cả đòi hỏi một sự dấn thân quên đi chính mạng sống mình để cứu lấy mạng sống người khác. Tình yêu đó chính là tình yêu mang tên Giêsu.

Lạy Chúa, xin giúp con hiểu thế nào là mầu nhiệm “tự huỷ” của Ngài, để luôn biết quảng đại dấn thân cứu sống người anh em mà không sợ đau thương hay nguy hiểm. (Hosanna)

6. Trong cuốn phim “American Anthem” có hai cảnh trái ngược hẳn nhau như sau:

- một thanh niên kia bị tai nạn và phải cưa mất một chân. Anh không thể nào chấp nhận thực tế đó. Anh ở miết trong phòng, kéo rèm che kín các cửa sổ, cấm không cho ai vào phòng, và ở đó mà rầu rỉ.

- Còn Robert Bruce thì một hôm đang đi trên đường phố bỗng nghe ai đó cất tiếng hát vang rất vui vẻ. Khi nhìn kỹ thì ra đó là một người cụt hết cả hai đang ca hát trên chiếc xe lăn.

Trong hai người đó, một người không chấp nhận thập giá đời mình nên phải u sầu thất vọng, còn người kia biết chập nhận nên đã tìm thấy niềm vui.

Thập giá nào trong đời bạn mà bạn thấy không chấp nhận nhất? (Mark Link, Vision 2000)

7. “Con cám ơn Chúa vì sự tàn phế của con, vì nhờ đó con đã tìm gặp chính bản thân con, công việc của con và Đức Chúa của con” (Helen Keller)

 

13.‘Sợi Chỉ Đỏ’--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái

Chủ đề: Chia xẻ thân phận của Đức Kitô - Thái độ tiếp đón

- Bài đọc I (2V 4,8-11.14-18): "Người đến trọ nhà mình là một vị thánh của Thiên Chúa"

- Đáp ca (Tv 88): "Tôi sẽ ca ngợi tình thương Chúa đến muôn đời"

- Tin Mừng (Mt 10,37-42): "Kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm lại được nó" - "Kẻ nào tiếp đón các con là tiếp đón Thầy"

- Bài đọc 2 (Rm 6,3-4.8-11) (Chủ đề phụ): "Nếu chúng ta chết với Đức Kitô, chúng ta sẽ cùng sống với Ngài".

Sợi chỉ đỏ:

Lời Chúa hôm nay có hai chủ đề:

1. Chủ đề tiếp đón: được diễn tả qua chuyện một gia đình miền Sunam cho ngôn sứ Êlisê đến trọ tại nhà (Bài đọc I), và phần thứ hai của bài Tin Mừng: "Kẻ nào tiếp đón các con là tiếp đón Thầy"

2. Chủ đề chia xẻ thân phận của Đức Giêsu: được diễn tả qua phần đầu của bài Tin Mừng: "Kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm lại được nó", và bài đọc II: "Nếu chúng ta chết với Đức Kitô, chúng ta sẽ cùng sống với Ngài".

Minh họa

- "Ai cho một trong những kẻ bé mọn dù chỉ một ly nước lã, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu" (Mt 10,42)

I. Dẫn vào Thánh lễ

- (Nếu chọn chủ đề I): Anh chị em thân mến

Trong xã hội thời nay, người ta thường sống theo kiểu chủ nghĩa cá nhân: mạnh ai nấy lo, sống chết mặc bây, đèn nhà ai nhà nấy sáng. Kết quả của lối sống này là một xã hội thiếu vắng tình thương, ích kỷ, thờ ơ.

Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta biết quan tâm tới người khác, yêu thương người khác và tiếp đón người khác như tiếp đón chính Chúa.

- (Nếu chọn chủ đề II): Anh chị em thân mến

Lời Chúa hôm nay trình bày một nghịch lý: "Kẻ nào cố tìm mạng sống mình thì sẽ mất; Kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm lại được nó".

Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta hiểu được chân lý lạ lùng đó, và nhất là dám liều mạng sống vì Chúa, để được chia sẻ sự sống của chính Chúa.

II. Gợi ý sám hối

- Chúng ta rất thờ ơ với những anh chị em sống chung quanh chúng ta.

- Chúng ta coi thường những người nghèo nàn, thất học và không có địa vị.

- Chúng ta ít khi hy sinh vì Chúa.

III. Lời Chúa

1. Bài đọc I (2V 4,8-11.14-18)

Tường thuật câu chuyện giữa ngôn sứ Êlisê và một phụ nữ xứ Sunam:

- Trên đường sứ mạng, ngày kia Elisê đến vùng Sunam

- Ở đấy, một phụ nữ đã mời Ông vào nhà dùng bữa. Sau đó bà còn nói với chồng mình rằng Elisê là một vị thánh của Thiên Chúa. Được sự đồng ý của chồng, bà còn dọn sẵn cho Elisê một căn phòng có đầy đủ những thứ cần thiết, để bất cứ lúc nào ngôn sứ cũng có thể đến trú ngụ.

- Đáp lại lòng tốt của vợ chồng này, ngôn sứ Elisê đã làm phép lạ giúp họ đang son sẻ mà có được một đứa con trai đầu lòng. (Sau này đứa con ấy chết, Elisê lại làm phép lạ cho nó sống lại).

2. Đáp ca (Tv 88)

Tv này ca ngợi tình thương của Chúa. Tác giả còn nguyện sẽ ca ngợi như thế mãi tới muôn đời.

3. Tin Mừng (Mt 10,37-42)

Có thể chia đoạn Tin Mừng này thành 2 phần:

- Phần đầu (các câu 37-39) Đức Giêsu dạy các môn đệ về sự từ bỏ: Nếu muốn làm môn đệ xứng đáng của Ngài thì phải từ bỏ rất nhiều: tình yêu gia đình, mạng sống; và còn phải sẵn sàng vác thập giá mình mà đi theo Ngài.

- Phần sau (các câu 40-42) dạy về sự tiếp đón: ai tiếp đón các sứ giả Tin Mừng thì được coi như là tiếp đón chính Đức Giêsu, thậm chí là tiếp đón chính Thiên Chúa là Đấng đã sai Đức Giêsu đến; ai tiếp đón một kẻ bé mọn thì cũng được phần thưởng.

4. Bài đọc 2 (Rm 6,3-4.8-11) (Chủ đề phụ)

Văn mạch: Phaolô đang đưa ra những lập luận để chứng minh rằng người ta được công chính hóa không phải nhờ việc làm, mà nhờ tin vào Đức Giêsu Kitô. Đoạn tuần trước là lập luận thứ nhất: con người đã mất ơn nghĩa với Thiên Chúa do tội của Adam, nhưng con người lại được ơn nghĩa nhờ cái chết của Đức Giêsu Kitô. Cho nên muốn được ơn nghĩa thì phải tin vào Đức Giêsu Kitô.

Đoạn tuần này đưa ra lập luận thứ hai: muốn được ơn nghĩa với Thiên Chúa thì phải liên kết với Đức Giêsu bằng phép rửa:

- Chịu phép rửa nghĩa là cùng chết với Đức Giêsu để được cùng sống lại với Ngài.

- Như thế, kẻ đã lãnh nhận phép rửa hãy dứt khoác chết cho tội lỗi để hoàn toàn sống cho Thiên Chúa.

IV. Gợi ý giảng

1. Những nét đẹp của sự Tiếp đón

Thánh Kinh ghi lại những cuộc tiếp đón rất đẹp và rất dễ thương: 1/ Abraham thấy 3 người khách lạ đang đi trong sa mạc. Ông chạy ra năn nỉ họ vào nhà và ân cần chăm sóc họ. Đó là 3 sứ giả của Thiên Chúa. Đáp lại tấm lòng của Abraham, 3 sứ giả này ban ơn cho vợ chồng son sẻ của Abraham có con trai đầu lòng (St 18); 2/ Một gia đình ở Sunam chẳng những tiếp đón ngôn sứ Elisê, mà còn dọn hẳn cho ông một căn phòng để những lần sau ông tới có chỗ trọ. Đáp lại, Elisê cũng giúp họ thoát khỏi tình trạng son sẻ (bài đọc I); 3/ Gia đình Matta, Maria và Lazarô ở Bêtania là nơi thường xuyên tiếp đón Đức Giêsu và các môn đệ. Đáp lại, Đức Giêsu đã làm cho Ladarô sống lại.

Qua những chuyện trên, chúng ta hãy tìm hiểu thêm hai vấn đề:

1/ Tại sao những chủ nhà ấy quảng đại tiếp đón khách? Thưa vì họ không chỉ nghĩ đến mình mà còn quan tâm tới người khác: Abraham lo cho 3 người khách kia đi trong sa mạc sẽ bị đói khát và không có chỗ nghỉ ngơi để lấy lại sức; gia đình ở Sunam lo sợ ngôn sứ Elisê phải bơ vơ tứ cố vô thân ở một miền đất lạ; gia đình Bêthania thì muốn Đức Giêsu và các môn đệ được nghỉ ngơi sau một thời gian mệt mỏi vì công việc rao giảng Tin Mừng. Trong hai chuyện sau, còn một lý do nữa, là những chủ nhà ấy ý thức rằng những người khách mà mình tiếp đón là sứ giả của Thiên Chúa.

2/ Phần thưởng của tấm lòng quảng đại ấy là gì? Là sự sống: hai đứa con trai đầu lòng cho hai vợ chồng son sẻ, và mạng sống được trả lại cho Ladarô đã chết 4 ngày. Xét cho cùng, ơn ban sự sống ấy không phải do những người khách, mà chính Thiên Chúa, nguồn mạch sự sống, ban cho họ.

Những câu chuyện rất đẹp trên đây khuyến khích chúng ta hãy quảng đại tiếp đón:

- Tiếp đón không chỉ là đón người vào trọ trong nhà mình, cho họ ăn, cho họ nghỉ, mà còn là biết quan tâm tới nhu cầu của người khác và đáp ứng theo khả năng của mình.

- Khi tiếp đón, dĩ nhiên chúng ta phải mất mát: mất giờ, mất tiền của, mất công… Nhưng Thiên Chúa sẽ trọng thưởng chúng ta: Ngài sẽ cho sức sống thần linh của Ngài thêm lớn mạnh trong sự sống chúng ta.

2. Chúa Giêsu là số mấy?

Phần đầu của bài Tin Mừng hôm nay đặt vấn đề: người môn đệ của Đức Giêsu đặt Ngài ở số mấy trong đời họ?

Bình thường, người ta coi bản thân là số một, vợ chồng số hai, gia đình số ba, thân nhân số bốn… Chúa thì có lẽ cao lắm cũng chỉ từ số năm trở xuống.

Trong đoạn Tin Mừng này, Đức Giêsu kể ra những người dành cho Chúa vị trí số hai:

- một là cha mẹ, hai là Chúa

- một là con cái, hai là Chúa

- một là mạng sống mình, hai là Chúa

Được xếp ở vị trí số hai như thế cũng là được coi trọng lắm rồi. Nhưng Đức Giêsu vẫn không chịu. Ngài nhất quyết đòi vị trí số một: "Ai yêu mến cha mẹ hơn Thầy thì không xứng đáng với Thầy; ai yêu mến con trai con gái hơn thầy thì không xứng đáng với Thầy"; Ngài còn đòi chúng ta phải dám mất mạng sống vì Ngài nữa!

Mỗi người chúng ta hãy tự hỏi: phần tôi, tôi xếp Chúa vào vị trí số mấy?

3. Nhiều loại từ bỏ

Có nhiều loại từ bỏ:

- Tôi soạn lại tủ áo của tôi. Nhiều áo quá. Có những chiếc đã cũ và lỗi thời, tôi có thể bỏ bớt để đem cho người nghèo.

- Trong sân nhà tôi có hai cây mọc cạnh nhau. Nếu cứ để như thế thì hai cây vẫn sống, nhưng không cây nào lớn mạnh tốt được. Tôi nên bỏ bớt một cây để cây kia mọc tốt hơn.

- Nha sĩ khám thấy có một chiếc răng của tôi đang bị hư nặng. Ông bảo phải bỏ nó đi, nếu không, nó sẽ lây cho những chiếc bên cạnh.

Đức Giêsu kêu gọi người đi theo Ngài hãy từ bỏ. Bỏ những gì và bỏ cách nào?

- Có những thứ ta có thể bỏ. Thí dụ bớt chút thức ăn, bớt chút giờ ngủ khi ta ăn chay hãm mình.

- Có những thứ ta nên bỏ để cuộc sống của ta nên tốt hơn. Thí dụ khi ta nhường nhịn không trả đũa, không đòi lại của cải hoặc danh dự bị người khác làm tổn thương, mất mát.

- Có những thứ ta bó buộc phải bỏ như: tội lỗi, thói xấu, dịp tội.

4. Hai chi tiết quan trọng trong bài Tin Mừng

Trong bài Tin Mừng này, có hai chi tiết mà nếu ta không dừng lại tìm hiểu kỹ thì sẽ để vuột mất những ý nghĩa rất sâu sắc:

- Câu 38 (quyển Bài đọc ấn bản 1970 bỏ sót không in câu này) "Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy thì không xứng với Thầy": Theo cách xử tử của Rôma, người bị kết án tử đóng đinh thập giá phải tự vác lấy thập giá của mình (chỉ vác thanh ngang, còn thanh dọc để sẵn ở pháp trường) đi ra pháp trường. Vì thế, kiểu nói "vác thập giá mình" có nghĩa là bị kết án tử. Do đó, câu nói của Đức Giêsu có nghĩa là ai muốn xứng đáng làm môn đệ đi theo Chúa thì phải chấp nhận thân phận mình như là người đã bị kết án tử.

- Câu 39 "Kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm lại được nó": chữ hy lạp psyche có nghĩa rất rộng, chỉ "lòng", "trí", "tim", tổng quát là cả "cuộc sống", toàn thể "con người". Như thế, "đành mất mạng sống" có nghĩa là dám mất tất cả. Và như vậy thì kiểu nói này cũng đồng nghĩa với ý tưởng coi mình như người đã bị kết án tử mà ta vừa phân tích ở trên.

5. Những bài toán

Thông thường người ta thích làm toán cộng và toán nhân, nghĩa là cứ muốn có thêm và có thêm thật nhiều thật nhanh.

Nếu ta đọc kỹ lại những lời Đức Giêsu dạy dỗ các môn đệ thì thấy Ngài dạy ta làm hai bài toán khác, đó là toán trừ và toán chia: làm toán trừ là từ bỏ, làm toán chia là bố thí, chia xẻ, phân phát cho người khác.

Tuy làm toán trừ và toán chia thì ta sẽ bị mất mát. Nhưng chính Thiên Chúa sẽ đích thân làm toán cộng và toán nhân cho ta: "Chẳng ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất vì Thầy và vì Tin Mừng mà bây giờ ngay ở đời này lại không nhận được… gấp trăm… và sự sống vĩnh cửu ở đời sau" (Mc 10,29-30).

6. Chuyện minh họa

a/ Tiếp đón

Chúa hứa với một bà là Ngài sẽ đến thăm bà vào ngày đó. Bà rất hãnh diện về điều này. Bà cọ rửa, lau chùi, đánh bóng, quét bụi và xếp đặt mọi thứ sẵn sàng. Bà ngồi và đợi Chúa đến.

Đột nhiên có tiếng gõ cửa. Bà vội chạy ra. Vừa đẩy cửa, bà thấy một người ăn xin đứng đó. Bà liền nói: "Không, hôm nay tôi không giúp anh, vì Chúa luôn ở với anh rồi. Tôi đang nóng lòng đợi Chúa đến, không thể giúp anh điều gì". Bà đuổi anh và đóng cửa lại.

Mấy phút sau lại có tiếng gõ cửa. Bà mở cửa nhanh hơn trước. Thấy gì? Vài người già nghèo nàn. "Rất tiếc, tôi đang đợi Chúa đến. Hôm nay tôi không thể giúp đỡ các ông". Rồi bà đóng sầm cửa lại.

Một lát sau lại có tiếng gõ cửa. Bà mở và lại thấy một người ăn xin rách rưới. Anh xin ăn và nghỉ qua đêm. "Ồ, hãy để tôi yên. Tôi đang đợi Chúa đến. Tôi không thể tiếp anh". Người ăn xin ra đi và bà tiếp tục ngồi chờ.

Hàng giờ trôi qua và màn đêm buông xuống, nhưng cũng chẳng thấy dấu hiệu gì của Chúa. Bà băn khoăn không biết Ngài ở đâu.

Cuối cùng, bà đành lên giường nằm chờ. Bà ngủ quên và mơ thấy Chúa đến với bà và nói: "Hôm nay Ta đã đến với con 3 lần và cả 3 lần con đều đuổi Ta".

b/ Mất và được

Tái ông thất mã: Ngày xưa có một ông lão ở gần cửa ải mất một con ngựa. Có người đến thăm phàn nàn cho sự rủi ro. Ông đáp: "Biết đâu chuyện mất ngựa chẳng là điều may." Vài ngày sau, con ngựa cũ trở về lại rủ được một con ngựa Hồ rất hay. Có người cho đó là điều may mắn. Ông nói: "Chưa hẳn được ngựa là may đâu." Ông có đứa con trai, thấy ngựa Hồ hay, liền bắt cởi thử, chẳng may bị ngã ngựa té gãy chân. Nhiều người cho rằng xui xẻo. Ông lại nói chưa biết chừng đây là điềm báo trước điều phúc cho gia đình ông. Qua năm sau, giặc Hồ tràn sang nước ông. Theo lệnh vua, các trai tráng trong làng đều phải sung vào cơ ngũ đi dẹp loạn, 10 người chỉ sống sót được một. Con trai ông vì tàn tật nên được miễn dịch, nhờ đó mà thoát chết, gia đình ông được an toàn. Nên việc họa phúc không biết đâu mà ngờ được. (Trích "Phúc")

V. Lời nguyện cho mọi người

CT: Anh chị em thân mến

Muốn dấn thân theo Chúa Giêsu, người kitô hữu phải từ bỏ mình, vác thập giá hằng ngày mà theo Người. Với quyết tâm bước theo Chúa đến cùng, chúng ta cùng tha thiết nguyện xin.

1. Hội Thánh dùng Lời Chúa để giáo dục đức tin của người kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu biết lắng nghe lời giáo huấn của Hội Thánh / để nhờ đó mà đức tin ngày càng trưởng thành hơn.

2. Đời sống thường ngày cho chúng ta thấy có một số người chỉ thích sống an nhàn / chỉ lo hưởng thụ mà không thích nghe đề cập đến hy sinh gian khổ / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho lúc nào cũng có nhiều người quảng đại / sẵn sàng phục vụ những người bất hạnh nhất của xã hội.

3. Tận tình giúp đỡ những người đang gặp hoạn nạn / những nạn nhân của thiên tai / những người mắc bệnh nan y / những người mất hết niềm hy vọng để vui sống / là nghĩa vụ của những người tin Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các kitô hữu biết cố gắng thực hiện lời dạy của Thánh Phaolô / "vui với người vui, khóc cùng người khóc".

4. Hết lòng nâng đỡ / và chân thành cộng tác với các mục tử trong sinh hoạt của giáo xứ / là trách nhiệm của mỗi kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / luôn biết rộng rãi giúp đỡ / và tích cực cộng tác với các Linh mục trong việc mục vụ thường ngày.

CT: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã trải qua con đường đau khổ rồi mới bước vào vinh quang. Xin cho chúng con hiểu rằng: nếu muốn được chia xẻ vinh quang thiên quốc với Chúa, chúng con cũng phải đi qua con đường thập giá, con đường đòi hỏi nhiều hy sinh gian khổ, nhưng chính là con đường dẫn đưa đến sự sống bất diệt. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen

VI. Trong Thánh Lễ

- Trước kinh Lạy Cha: Khi đọc kinh Lạy Cha, chúng ta hãy nhớ rằng những người sống chung quanh chúng ta cũng là anh chị em cùng một Thiên Chúa là Cha như chúng ta. Vậy chúng ta hãy xin Cha giúp chúng ta yêu thương và tiếp đón những anh chị em ấy.

VII. Giải tán

Lời Chúa hôm nay nhắc chúng ta sống với người khác bằng thái độ tiếp đón, và sống với Chúa bằng cách coi Chúa trọng hơn tất cả mọi người và mọi sự. Chúng ta hãy ra về và cố gắng sống như thế.

 

14.Yêu Chúa--Lm. Thái Nguyên

Suy niệm

Đoạn Phúc Âm này nằm trong bối cảnh lúc Đức Giêsu vừa chọn nhóm Mười Hai, và trình bày những gì Ngài chờ đợi nơi họ. Đó là yêu Ngài trên tất cả; vác thập giá mình theo Ngài; liều mạng sống vì Ngài.

1. “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy…”.

Đây là lời mời gọi theo Chúa với lòng yêu mến Ngài trên hết, trên mọi sự, trên cả tình thâm ruột thịt. Có những khi ta không hẳn là từ chối Chúa, nhưng theo Ngài nửa vời, vì để cho tình cảm riêng tư xen vào, khiến ta không thực hiện được điều Chúa muốn. Có lẽ ta thấy sự hiện diện của mình quá quan trọng đối với những ai đó, đến nỗi quên đi sự hiện diện và quyền năng của Chúa trong đời họ. Nếu như ta dám dấn thân theo tiếng gọi, thì hãy phó thác tất cả cho lòng nhân từ của Chúa, vì tin rằng Ngài yêu những người thân yêu của chúng ta còn hơn chính chúng ta; rằng Ngài có kế hoạch tốt nhất cho họ. Đang khi đó vẫn có những trường hợp mà chúng ta đành bó tay, có yêu thương họ cỡ nào chăng nữa cũng chẳng làm gì hơn cho họ. Hãy để cho mọi sự diễn ra theo ý muốn của Chúa, dù tình cảnh trước mắt xem ra thật éo le, nhưng Chúa có cách của Chúa. Thật ra, mọi cái còn đang ở phía trước, và tất cả đều nằm trong sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa.

2.“Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy”.

Thập giá được đón nhận làm rơi xuống cái ảo tưởng, và cho thấy sự thật về chính mình; cho thấy mình là ai giữa những tạm bợ của cuộc đời này, và giúp mình nhận ra lẽ sống chân thật. Thập giá không chỉ là chấp nhận những gian nan thống khổ, mà còn gắn liền với hy sinh và giũ bỏ ý riêng để ý Chúa được hình thành. Mọi tránh né cũng như tìm cách che chắn cho mình khỏi những thập giá hằng ngày đều là cách thức muốn phủ nhận Đức Kitô. Tất cả những gì gọi là con đường tắt, cuối cùng chỉ là ngụy biện, trống rỗng và tự lừa dối mình. Bởi vì đích điểm của cuộc đời theo Chúa là đỉnh núi Canvê, nơi Chúa Cha đang chờ đợi ta như đã chờ đợi chính Con yêu dấu của Ngài. Sau thập giá mới là vinh quang mà Chúa muốn trao ban.

3. “Ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được”.

Tin Mừng của Chúa Giêsu là một “Tin Mừng khổ lụy”, nghĩa là không chỉ có rao giảng, mà chủ yếu là thực thi, là làm chứng cho điều mình rao giảng, nghĩa là chết đi chính mình để Chân lý và Tình yêu được tỏ hiện. Nếu không như thế, thì Tin Mừng trở nên mơ hồ, thập giá trở thành đồ trang sức, và đạo lý cứu độ biến thành mớ lý thuyết suông.

Nhạc sĩ Văn Cao có những vần thơ nói về vấn đề sống-chết nghe như âm hưởng của Lời Chúa: “Giữa sự sống và sự chết, tôi chọn sự sống. Để bảo vệ sự sống, tôi chọn sự chết”. Sự sống là cái gì quý giá nhất trong đời mà ta phải nâng niu, bảo toàn. Thế nhưng cố tìm mọi cách để bám níu lấy sự sống tạm bợ này, thì chẳng khác nào ôm vào khoảng không để rồi rơi vào tuyệt vọng. Cái chết trong cuộc sống này chỉ là mất đi hình hài thể lý, nhưng sự sống linh thiêng vẫn còn nguyên. Chính thái độ tham sống sợ chết mới làm ta chết thật.

Trên đời này không có gì cao đẹp và ý nghĩa cho bằng người dám chết vì người mình yêu. Cái chết đáng ca tụng biết bao, khi nó là sự dâng hiến cuối cùng cho Đấng mà chúng ta suốt đời phụng sự với cả lòng yêu mến. Chúa Giêsu đã gọi giờ chết của Ngài là giờ được tôn vinh (x. Ga 12,23), vì đó là cái chết của sự tự nguyện, tự hiến, vì yêu mến Cha và yêu thương nhân loại. Sự tôn vinh của Chúa Giêsu cũng là sự tôn vinh con người trong ơn cứu chuộc, tôn vinh tất những ai đã bước theo Chúa trên con đường thập giá với tất cả tình yêu. 

Lời nguyện

Lạy Chúa Giêsu!

Tuổi trẻ chúng con háo hức với tình yêu,

rất muốn yêu và tha thiết muốn được yêu,

vì tình yêu trong cuộc đời là tất cả,

chẳng có gì cho con no thỏa bằng tình yêu.

Thế nhưng Chúa lại cho con biết rằng,

Chúa muốn con yêu Chúa trên mọi sự,

hơn cha mẹ, hơn bạn bè, hơn đôi lứa,

và còn hơn nữa là cả mạng sống mình.

Tình cảm gia đình là điều thiêng liêng nhất,

không có gì có thể so sánh bằng,

vì là nôi sự sống và tình thâm nghĩa nặng,

ai đã nên người mà không quí trọng chăng?

Mạng sống của mỗi người càng cao quí,

không thể nào đánh đổi với bất cứ điều gì,

dù có được lời lãi cả thế gian,

nhưng mất mạng sống mình có ích chi?

Tuy nhiên, con nhận ra sự thật này,

rằng tất cả cuộc đời con là của Chúa,

tất cả đều được Chúa tặng ban,

dâng lại cho Chúa quả thật là chính đáng,

để cuộc đời con mãi sống bình an.

Cuộc sống con sẽ đầy những hoang mang,

nếu con không sẵn sàng buông bỏ,

mà chỉ lo tính toán để được sống an toàn,

không xét tới những gì Chúa mong đợi.

Ai cũng muốn sống dễ dãi và thoải mái,

nhưng đường con đi lại thật là nghịch trái,

là con đường thập giá bước theo Ngài,

nên đau thương cũng là chuyện bình thường,

để con biết sống khiêm nhường như Chúa,

là tình yêu, là lý tưởng mà lòng con đã chọn.

Con biết mình là kẻ hèn mọn được Chúa thương,

chẳng có gì nơi con là xứng đáng,

có được gì chăng cũng là ơn Chúa ban,

chỉ mong sao đời mình không hổ thẹn,

vì đã yêu Chúa trọn vẹn cả trái tim. Amen.

(Trích sách: Lời nguyện của người trẻ, số 48)

 

15.Chấp nhận vác thập giá theo Chúa để sống vui--Lm. Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

CHÚ THÍCH:

- C 37: + Ai yêu cha hay yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy…: Ở đây Đức Giê-su tỏ ý “ghen tương” giống như sự ghen yêu của Đức Chúa đối với dân Ít-ra-en trong thời Cựu Ước (x. Đnl 29,17-19; 32,16-21). Đức Giê-su không chấp nhận bất cứ tình yêu nào cạnh tranh với tình yêu phải được dành riêng cho Người. Kẻ nào muốn theo làm môn đệ Đức Giê-su mà còn quá quyến luyến với gia đình, thì chẳng xứng đáng với tình yêu của Người. Kẻ nào không nhìn nhận sự tối thượng của Người cũng không thể làm môn đệ của Người được. Sở dĩ Người đòi hỏi trung thành tuyệt đối như vậy, vì Người chính là Thiên Chúa làm người, đến để chịu chết đền tội thay cho loài người.

HỎI: Với đòi hỏi như thế, phải chăng đi theo Chúa là phải hoàn toàn từ bỏ mọi liên hệ gia đình ruột thịt, có thể bị người đời kết tội là bất hiếu?

ĐÁP: Thực ra không phải như vậy. Vì chính Đức Giê-su là một người con hiếu thảo: Người vâng lời cha mẹ trong suốt thời gian ẩn dật tại Na-da-rét (x. Lc 2,51). Dù “giờ” chưa tới, nhưng Người sẵn sàng nghe lời cầu bầu của Đức Mẹ, để làm phép lạ đầu tiên giúp đỡ đôi tân hôn là hóa nước thành rượu ngon (x. Ga 2,4.5-8). Trước khi tắt thở trên cây thập giá, Người trối Đức Mẹ làm Mẹ của môn đệ Gio-an, để ông đem ngài về nhà mình mà phụng dưỡng thay cho Người (x. Ga 19,25-27). Người dạy người ta về sự thực hành cách cụ thể giới răn “Phải thảo kính cha mẹ”, trái với lời dạy lỗi bổn phận hiếu thảo của các luật sĩ (x. Mc 7,10-13). Nhưng đối với Đức Giê-su, sự vâng lời cha mẹ phải được đặt sau Thánh Ý Chúa Cha (x. Lc 2,49). Mẹ và anh em của Người chính là những ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa (x. Mc 3,33-35). Trong câu này, Đức Giê-su chỉ muốn nói rằng: khi cần phải chọn một trong hai tình yêu dành cho cha mẹ và dành cho Đức Giê-su, thì môn đệ phải biết đặt tình yêu trung thành với Người trên tình yêu dành cho cha mẹ.

- C 38: + Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy: Lúc đầu có lẽ các môn đệ đi theo Đức Giê-su do muốn được lợi lộc vật chất (x. Mt 19,27-30), được địa vị cao khi Người lên làm vua (x. Mt 18,1-4). Nhưng Người lại không chiều theo ý họ, mà đòi họ phải đi con đường hẹp, leo dốc và đầy gai chông, ít người chịu theo (x. Mt 7,13-14). Đó là đường “từ bỏ mình, vác thập gia mình hàng ngày mà theo chân Người” (x. Mt 16,24).

- C 39: + Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất…: Giữa hai sự sống tự nhiên và siêu nhiên, thì môn đồ phải biết chọn sự sống siêu nhiên. Nếu họ chỉ lo tìm sự sống thân xác, đến nỗi từ chối Chúa để khỏi bị giết chết, thì họ sẽ bị mất sự sống siêu nhiên ở đời sau. Ngược lại, nếu họ bằng lòng chịu chết vì đức tin, thì sẽ được Chúa ban lại sự sống siêu nhiên sau này.

- C 40: + Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy…: Ở đây Đức Giê-su áp dụng một nguyên tắc thông thường về ngoại giao là: “Kẻ được sai đi đồng hóa với người đã sai mình”. Đón tiếp môn đệ là đón tiếp Đức Giê-su, cũng là đón tiếp chính Thiên Chúa là Đấng đã sai Người. Sự đón tiếp ở đây là phải sẵn sàng đón nhận Tin Mừng do các tông đồ thừa sai rao giảng.

- C 41: + Ai đón tiếp một ngôn sứ… một người công chính: Có người nghĩ rằng: Ngôn sứ và công chính đồng nghĩa với tông đồ, nên ai tiếp đón các tông đồ với danh nghĩa là ngôn sứ và người công chính, thì sẽ được phần thưởng của các ngài. Nhưng một số các nhà chú giải hiện nay lại cho rằng: Thời Giáo hội sơ khai, chức vụ ngôn sứ khác với chức vụ tông đồ, còn người công chính thì không phải chức vụ, nhưng là người có lối sống công bình và ngay chính, được cộng đoàn kính trọng, như ông Giu-se, chồng của bà Ma-ri-a người công chính (x. Mt 1,19), ông Giu-se hay Ba-sáp-ba, biệt danh Rô-ma là Gút-tô, nghĩa là công chính (x. Cv 1,23). + Thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ… cho bậc công chính: Đức Giêsu áp dụng nguyên tắc: “Người được sai đi đồng hóa với Đấng sai mình”, để nói rằng: kẻ đón tiếp các ngôn sứ và người công chính cũng sẽ được phần thưởng giống như phần thưởng mà các bậc ngôn sứ và người công chính sẽ được, là sự sống và được sự sống đời đời.

- C 42: + Ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này…: Kẻ bé nhỏ đây ám chỉ các môn đệ của Đức Giê-su là tông đồ thừa sai. + Người đó sẽ không mất phần thưởng đâu: Đức Giê-su hứa sẽ ban thưởng Nước Trời cho những ai thành tâm cộng tác vào sứ mệnh truyền giáo của các môn đệ, thì cũng sẽ được thưởng giống như các ngài sẽ được ở đời sau.

SỐNG LỜI CHÚA:

1. LỜI CHÚA: Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy (Mt 10,38).

2. CÂU CHUYỆN:

1) Chấp nhận thập giá để sống vui.

Có một thiếu nữ kia trẻ đẹp và là con một gia đình quý tộc ở Ái Nhĩ Lan. Tuy sống trong cảnh giàu sang, nhưng cô lại muốn sống đời thánh hiến cho Chúa. Khi tới tuổi trưởng thành, cô từ chối khi các chàng trai quý tộc đến dạm hỏi, và được cha mẹ cho phép, cô tìm đến một đan viện có lối sống nhiệm nhặt khắc khổ để xin được dâng mình cho Chúa. Mẹ bề trên thấy cô vừa trẻ đẹp, lại vừa là con nhà quyền quý giàu có, nên chưa dám nhận ngay. Bà muốn thử thách ơn gọi của cô nên đã cố ý trình bày những luật lệ khắt khe của đan viện về nhiệm vụ cầu nguyện và lao động nhiều giờ mỗi ngày. Nghe xong, cô gái giữ im lặng như suy nghĩ. Một lát sau, bà bề trên hỏi tiếp: “Bây giờ con còn muốn dâng mình cho Chúa nữa thôi?”. Cô đáp: “Thưa mẹ, con chỉ còn một thắc mắc này là: Không biết trong tu viện có nhiều cây thánh giá không?”. Mẹ bề trên trả lời: “Con đừng lo. Khắp nơi trong nhà, không chỗ nào là không có thánh giá cả”. Bấy giờ cô gái tươi nét mặt và nói: “Thế thì thưa mẹ, con sẵn sàng xin vào tu viện, vì con chắc sẽ không gặp gì khó khăn cả. Bởi vì theo con nghĩ: Nếu mọi nơi mọi lúc con đều nhìn thấy thánh giá Chúa, đều thấy Người đang cùng chịu đau khổ với con, thì con hy vọng có thể chịu đựng được mọi đau khổ”.

2) Chu toàn bổn phận đối với gia đình trước khi đi theo Chúa:

Vào năm 1994 Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong chân phước cho chị Mác-đa-la Mô-ra-nô, là một nữ tu thuộc dòng Đức Mẹ Phù Hộ. Ngay từ thuở niên thiếu, Mác-đa-la đã phải nếm mùi đau khổ: Chỉ trong một tháng, người cha và chị cả trụ cột nuôi gia đình lần lượt bị chết, khiến cho bà mẹ và bốn đứa con thơ dại hết sức lo lắng cho tương lai gia đình.

Lúc đó em Mác-đa-la mới được 8 tuổi, nhưng đã tỏ ra khôn ngoan và chín chắn. Thấy mẹ lo buồn, em thường an ủi mẹ: “Mẹ đừng khóc nữa, chẳng bao lâu con sẽ khôn lớn và con hứa sẽ giúp mẹ thật nhiều như bố và chị Phanxica đã giúp mẹ vậy”. Nhưng không phải đợi tới lúc khôn lớn mà ngay từ lúc đó, vì nhu cầu và hoàn cảnh khó khăn của gia đình, Mác-đa-la đã bỏ học để ngồi vào guồng tơ dệt chỉ mà chị Phanxica đã làm để kiếm tiền hằng ngày nuôi gia đình.

Một hôm, tình cờ người bác họ là cha Bandenla đến chơi và khi biết hoàn cảnh của Mác-đa-la, cha đã hứa phụ giúp nhu cầu vật chất của gia đình và giúp học phí sách vở cho Mác-đa-la đến trường học. Sau hơn mười năm chăm chỉ đèn sách, chị đã tốt nghiệp và trở thành một giáo viên giỏi dạy ở trường làng để phụ giúp gia đình. Suốt 16 năm trời, chị đã giữ lời hứa với mẹ, chuyên cần làm việc và âm thầm dành dụm. Đến ngày sinh nhật thứ 30, Mác-đa-la đã dẫn mẹ đến xem mảnh đất với căn nhà và khu vườn mà mẹ hằng mong ước. Chị âu yếm thưa với mẹ: “Thưa mẹ, đây là món quà con tặng mẹ, con chỉ xin mẹ cho phép con được tận hiến cuộc đời còn lại để theo ơn Chúa kêu gọi phụng sự Người”.

Quyết định của Mác-đa-la đã gây đau khổ nhiều cho mẹ chị, cho cha xứ, bạn bè và các phụ huynh học sinh của chị, vì họ mất đi một người con hiếu thảo, một người bạn tốt, một giáo viên gương mẫu, một người giáo dân nhiệt thành việc tông đồ. Ngày chia ly không khỏi ngậm ngùi đau xót, nhưng chị đã tìm được sức mạnh nơi tình yêu và lời Chúa phán: “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy thì không xứng đáng với thầy”. Đồng thời chị cũng được sự an ủi vì tin vào lời Chúa đã hứa: “Quả thật, Thầy bảo cho anh em, không ai bỏ nhà cửa, cha mẹ, vợ con, anh chị em vì nước Thiên Chúa mà lại chẳng lãnh nhận gấp trăm ở đời này và sẽ được sống đời sau”. Thật vậy, lời hứa ấy đã thể hiện qua suốt 30 năm sống đời tận hiến mà trong đó, hơn 25 năm hăng say với sứ mệnh tông đồ giữa giới trẻ nghèo khổ và bị bỏ rơi tại đảo Xi-xi-li-a. Cuối cùng chị đã được Hội Thánh tôn phong lên bậc chân phước để mọi người tôn kính và học tập noi gương.

3) Ai không đón tiếp tha nhân là đã từ chối đón chính chúa Giêsu:

Tiểu bang Minnesota ở phía trung bắc nước Mỹ, giáp với Canada, vào mùa đông thường có những trận bão tuyết và nhiệt độ tụt xuống -30 hay -40 độ âm Farenheit. Vào một đêm bão tuyết, chiếc xe hơi của người phụ nữ bị chết máy trên đường tới Rochester. Chị biết rằng sẽ bị chết cóng nếu cứ ngồi lại ở trong xe. Tuy là vùng miền quê, nhưng trên trục lộ chính, cũng có một số nhà dọc theo đường lộ. Chị đã đến gõ cửa lần lượt hơn một chục căn nhà, nhưng chẳng có ai chịu ra mở cửa. Sau cùng, có một người lái xe ngang qua thấy chị nằm gục bên vệ đường bèn xuống xe đưa chị vào nhà thương cấp cứu. Chị đã được cứu sống, nhưng tất cả các ngón tay, ngón chân và một bàn chân đã bị hoại tử vì chịu giá lạnh trong một thời gian quá lâu.

Có điều đáng nói là các căn nhà chị đến gõ cửa đêm hôm ấy, mọi người đều ở trong nhà và đều nghe có tiếng gõ cửa. Mọi người đều là các tín hữu sống tại vùng quê hiền hòa, nhưng không một ai chịu ra mở cửa, vì sợ có thể sẽ bị kẻ cướp vào nhà trấn lột!

4) Ai liều mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm thấy được:

Vào một sáng mùa đông tuyết lạnh, SADHU và một người bạn cùng nhau đi du lịch qua một miền núi phía Bắc Ấn Độ. Thình lình một cơn bão tuyết ào ào đổ tới, gió lạnh gào thét bên tai họ, khiến họ phải rất vất vả để chống trả với cơn bão tuyết.

Bấy giờ họ thấy một người đàn ông bị lạnh cóng đang nằm thoi thóp bên đường chờ chết. Sadhu muốn dừng lại cứu giúp người gặp nạn, nhưng anh bạn kia lại không đồng ý vì cho rằng nguyên việc làm sao để cứu mạng mình lúc này cũng đã khó khăn vất vả lắm rồi, và anh ta cương quyết bỏ đi. Chạnh lòng xót thương, Sadhu ở lại bên kẻ bất hạnh, xoa nóng tay chân cho người sống dở chết dở ấy. Sau đó với sức lực còn lại, Sadhu cố gắng cõng anh ta trên lưng và tiếp tục đi qua vùng bị bão tuyết. Hơi ấm của hai thân thể hòa quyện lấy nhau khiến người kia dần hồi sinh và cả hai dìu nhau đi tiếp. Đi khoảng mươi dặm, cả hai kinh ngạc khi nhìn thấy một xác chết vì bị lạnh cóng đang nằm bên vệ đường. Họ càng ngạc nhiên hơn khi nhận ra đó không ai khác hơn là anh bạn đã cùng đi với Sadhu trước đó.

Hành động yêu thương xả thân cứu người của Sadhu đã minh chứng cho lời Đức Giêsu trong Tin mừng hôm nay: ”Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được”. Anh bạn của Sadhu do đã cố giữ mạng sống của mình nên cuối cùng đã bị mất mạng, còn Sadhu do liều mất mạng vì tha nhân nên đã được cứu. Đó là điều nghịch lý mà Đức Giêsu đã trải qua và dạy các tín hữu noi theo. Người đã sẵn lòng chịu chết thập giá rồi sống lại vinh quang, để dạy chúng ta hãy đi con đường yêu thương: hy sinh mạng sống mình vì lòng mến Chúa yêu người, và chắc ta sẽ nhận được ơn cứu độ của Chúa.

5) Chia sẻ giúp đỡ người nghèo là làm cho chính Chúa:

Mác-tanh thành Tua (Martin de Tour) là một mẫu gương về đức bác ái cụ thể. Bấy giờ Mác-tanh là người đầu tiên được Hội Thánh tôn kính như một vị thánh mà không do chịu tử vì đạo. Ngài sinh ra tại Pháp vào lúc cuộc bách hại đạo sắp chấm dứt. Trước đó chưa có người nào được các tín hữu tôn kính như một vị thánh giống như ngài.

Mác-tanh đã nêu cao chân lý: yêu thương tha nhân là yêu chính Chúa Giê-su. Trong lúc Mác-tanh đang học giáo lý dự tòng thì ngài đã ở trong quân đội. Vào một đêm đông giá rét, khi Mác-tanh đang ngồi trên lưng ngựa đi tuần tra thì gặp một người ăn xin nghèo khổ đang đi trên đường. Ông ta bị rét run vì quần áo ông đang mặc chỉ là một mớ giẻ rách. Mác-tanh liền thương cảm cởi chiếc áo choàng bằng dạ đang mặc, rút gươm cắt thành hai mảnh và đưa một mảnh cho người ăn xin nghèo khổ kia. Sau đó, trong giấc ngủ, Mác-tanh đã nằm mơ thấy Chúa Giê-su trên cây thập giá đang khoác mảnh áo mà ông mới cắt cho người ăn xin. Mác-tanh nghe Người phán: “Hỡi Mác-tanh, tuy đang học giáo lý, mà con đã cho Ta chiếc áo này”.

3. SUY NIỆM:

1) Đón tiếp tha nhân là đón tiếp chính Đức Giêsu.

“Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy.”

- Người khác là ai?: Giăng Pôn Sát (Jean Paul Sartres) một triết gia hiện sinh vô thần đã nói: “Hỏa ngục chính là người khác!”. Đây là một câu nói hận đời, trái ngược với tinh thần yêu thương của Đức Giê-su. Vì đối với các tín hữu chúng ta thì người khác chính là hiện thân của Đức Giê-su như Người đã nói: “Ta bảo thật các ngươi: Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các người đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40). Nhưng người khác là ai? Họ không phải là một người trừu tượng, nhưng là những người sống bên chúng ta. Họ là La-da-rô nghèo đói đang ở cửa nhà chúng ta. Họ là những người yếu đuối, già cả neo đơn, là những người vô gia cư, vô nghề nghiệp. Có thể họ cũng là một người trong gia đình ta, một người hàng xóm hay ở cùng một đường phố với chúng ta. Họ có thể là hỏa ngục hay là thiên đàng của ta tùy theo cái nhìn của ta đối với họ.

- Lòng hiếu khách: Trong một xóm đạo nọ, vào buổi sáng khi ánh mặt trời vừa ló rạng, cánh cửa mọi nhà trong xóm đều được mở ra đón ánh nắng ban mai. Rồi từ đầu xóm, một gã hành khất đeo bị và tay chống gậy xuất hiện. Qua các cánh cửa, người ta phát hiện ra gã. Thế là từng nhà dọc theo xóm, vội vã đóng và chốt cửa lại, kéo rèm che cửa sổ. Bấy giờ gã hành khất đến từng nhà gõ cửa, nhưng không ai ra mở cửa. Cảm thấy nhục nhã buồn tủi, gã lặng lẽ đi ra khỏi xóm. Khi gã vừa khuất dạng, các rèm cửa lại được kéo lên, mọi cửa nhà lại được mở toang đón nhận nắng ấm tràn vào trong nhà. Mọi người trong xóm đều vui vẻ ra mặt vì như vừa thoát khỏi sự quấy rầy của một kẻ không mời mà đến.

Hoạt cảnh trên đây vẫn thuờng xảy ra đó đây là do lòng ích kỷ của con người. Người ta thường chỉ mở cửa nhà và cửa lòng để đón mời một số người nào đó trong gia đình ruột thịt, các người bạn thân quen, đồng nghiệp, hay những kẻ mà họ hy vọng sẽ đem lại cho mình lợi lộc… và họ sẵn sàng khép cửa lại khi gặp một người lạ, nhất là những kẻ dáng vẻ nghèo nàn.

- Chúng ta phải làm gì đối với họ?: Đức Giê-su dạy chúng ta hãy ân cần tiếp đón tha nhân. Tùy theo thái độ của chúng ta mà họ sẽ thành niềm vui mang lại hạnh phúc hay trở nên nỗi bất hạnh của chúng ta: các chủ quán ở Bê-lem xưa đã từ chối đôi vợ chồng nhà quê nghèo khó là Giu-se và Ma-ri-a, nhưng họ lại không ngờ mình đã từ chối đón nhận Đấng Cứu Thế trong đêm Người giáng sinh (x. Lc 2,7); Hai người thu thuế trong Tin Mừng là Mát-thêu và Da-kêu đã mở rộng cửa nhà đón tiếp Đức Giê-su và đã được ơn cứu độ (x. Mt 9,10; Lc 19,5-10); Gia đình Bê-ta-ni-a đón tiếp Đức Giê-su và đã được Người dạy cho biết điều cần thiết nhất (x. Lc 10,39-42). Hai môn đệ làng Em-mau nhờ mời vị khách bộ hành vào tạm trú trong nhà, mà các ông đã nhận ra Đức Giê-su phục sinh (x. Lc 24,29-31). Ngày nay Đức Giê-su vẫn đang hiện thân trong những người đau khổ nghèo đói, những kẻ đứng ngoài cửa nhà chúng ta và gõ. Ai mở cửa đón rước Người, thì Người sẽ vào trong nhà linh hồn của họ và ngồi vào bàn dùng bữa tối thân tình với họ.

XÉT MÌNH: Tôi thường có thái độ thế nào đối với những kẻ mình không ưa hay những khách lạ không mời mà đến? Tại sao người ta đóng cửa nhà hay cửa lòng với những người nghèo đói ăn xin? Khi các người làm tông đồ đến nhà, tôi có niềm nở đón tiếp và cộng tác vào việc rao giảng Tin Mừng của họ hay không?

2) Tình yêu đối với Đức Giêsu.

- Gương vác Thánh Giá:

Từ lễ Giáng Sinh năm 1969, mục sư ÁC-THƠ BƠ-LÉT-SÍT (Arthur Blessit) đã khởi đầu một cuộc hành trình đi bộ vòng quanh thế giới. Trên vai vác một cây thập giá dài 3,6m, ngang 1,8m nặng 18 ki-lô. Sau 26 năm vất vả, ông đã lập được một kỷ lục thế giới về đi bộ, khi vượt qua một quãng đường dài tới hơn 50 ngàn cây số, ngang qua nhiều quốc gia. Sau này ông đã thuật lại chuyến đi ấy như sau: “Tôi đã đi qua nhiều sa mạc và rừng già, đã từng bị dã thú như voi, rắn, cá sấu tấn công. Tôi bị bắt giam 21 lần vì bị nghi là làm gián điệp và có lần suýt bị dân da đỏ hành hình…” Động lực thúc đẩy ông làm được việc phi thường ấy là tình yêu mến Chúa Giê-su. Ông muốn mang thánh giá đến mọi nơi trên thế giới, như lệnh Người truyền: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,20). “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8b).

- Phải vác thập giá nào?

Đức Giê-su mời mọi người hãy vác thập giá mình hằng ngày mà theo chân Người (x. Mt 16,24). Đường thập giá là con đường chính Đức Giê-su đã đi chịu chết. Đây là con đường khó nghèo khiêm hạ ở Bê-lem, lao động vất vả ở Na-da-rét, là đường rao giảng Tin Mừng và làm phép lạ cứu nhân độ thế từ Ga-li-lê đến Giê-ru-sa-lem, là đường lo buồn trong vườn Cây Dầu, bị xét xử bất công, chịu đánh đòn, đội mão gai, vác thập giá lên đồi Can-vê; là đường chịu đóng đinh và chết nhục nhã như một tên đại gian ác. Nhưng con đường đó lại là điều kiện để vào vinh quang phục sinh, như ba lần Người đã báo trước (x. Mt 16,21; 17,22-23; 20,18-19).

Các tín hữu chúng ta cũng được Đức Giê-su mời gọi đi con đường thập giá của Người. Thập giá mà chúng ta vác không phải là cây gỗ thập giá của Đức Giê-su, nhưng là những gánh nặng việc bổn phận đối với gia đình xã hội và Giáo hội, là đòi hỏi phải từ bỏ của cải vật chất, quyền hành, là những người mà chúng ta tuy không ưa, nhưng vẫn phải sống chung một nhà. Đức Giê-su đã làm gương cho chúng ta khi với tính tự nhiên, Người bị lo buồn sợ hãi trước Giờ Tử Nạn, nhưng Người đã can đảm chấp nhận vâng theo ý Chúa Cha (Mt 26,39). Chỉ vì yêu mến Cha mà Người sẵn sàng từ bỏ ý riêng để chấp nhận khổ hình thập giá. Cũng vậy, chỉ khi nào ta thực sự yêu mến Chúa Giê-su thì ta mới dám hy sinh quên mình, dấn thân theo Chúa trên con đường thánh giá, và mới dám hiến mạng sống mình vì mến Chúa và yêu tha nhân.

- Phải yêu Chúa thế nào?

Đức Giê-su đòi những ai muốn theo làm môn đệ Người phải dành trọn tình yêu cho Người: “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. Ai yêu con trai hay con gái mình hơn Thầy, thì không xứng đáng với Thầy” (Mt 10,37). Nếu Đức Giê-su không phải là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa và nếu Người đã không chịu chết vì yêu loài người trước, thì chắc Người không dám đòi môn đệ phải hy sinh như vậy. Từ ngày Đức Giê-su về trời đến nay, có biết bao vị thừa sai tông đồ đã dám sống đến cùng tình yêu mà Đức Giê-su đòi hỏi ấy. Truyền giáo không phải chỉ là rao giảng Lời Chúa, nhưng còn là thông truyền đức tin và tình yêu Chúa cho người khác; Là giới thiệu Đức Giê-su cho tha nhân nhận biết, tôn thờ, yêu mến cậy trông vào Người. Muốn làm được điều này thì chính chúng ta phải cảm nghiệm được tình yêu của Chúa nơi bản thân và sẵn sàng dâng cả cuộc đời để đáp lại tình yêu ấy. Ước gì chúng ta yêu mến Đức Giê-su trên hết mọi người, mọi vật, chấp nhận bỏ đi cái tôi ích kỷ hẹp hòi, để tình yêu Chúa ngày một lớn lên khi ta biết khiêm tốn phục vụ tha nhân.

4. THẢO LUẬN: 1) Ta cần từ bỏ những gì và phải vác thập giá nào để nên môn đệ của Chúa? 2) Theo kinh Cải Tội Bảy Mối, muốn bỏ một tật xấu như tự kiêu, bủn xỉn, mê đắm xác thịt, hay giận hờn, say xỉn, ghen ghét, lười biếng… Ta phải tập những nhân đức đối nghịch nào?

5. LỜI CẦU

- Lạy Chúa Giêsu. Xin dạy con biết yêu mến Chúa cho xứng đáng: biết cho đi mà không cần tính toán, biết chiến đấu mà không sợ thương tích, biết làm việc mà không cần an nghỉ, biết xả thân mà không cần một phần thưởng nào khác, ngoài việc biết mình đã làm theo thánh ý Chúa (Thánh I-NHA-XI-Ô).

- Lạy Chúa. Xin nhận lấy tất cả tâm tư tình cảm và ước muốn của con, tất cả những gì con có và những gì thuộc về con. Mọi sự ấy đều do Chúa đã ban cho con, thì hôm nay con lại xin dâng chúng cho Chúa. Tất cả là của Chúa. Xin hãy sử dụng theo ý Chúa muốn. Con chỉ xin Chúa ban cho con lòng yêu mến Chúa nồng nàn và sau này được Chúa ban ơn cứu độ. Được như vậy là con đã thỏa mãn lắm rồi.

X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.

 

16.Từ bỏ--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng OP

Năm 1994, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong chân phước cho chị Mác-đa-la Mô-ra-nô, là một nữ tu thuộc dòng Đức Mẹ Phù Hộ. Ngay từ thuở niên thiếu, Mác-đa-la đã phải nếm mùi tang tóc, chỉ trong vòng một tháng, thần chết đã hai lần đến gõ cửa nhà chị và cướp mất hai cột trụ của gia đình: người cha và người chị cả, những ngày đen tối bắt đầu đè nặng trên vai bà quả phụ Ca-ta-ri-na với bốn đứa con thơ dại.

Hồi đó Mác-đa-la mới 8 tuổi, nhưng đã tỏ ra khôn ngoan và chín chắn, thấy mẹ đau buồn và khóc hoài, chị thường nói với mẹ: “Mẹ ơi, thôi đừng khóc nữa, chẳng bao lâu con sẽ khôn lớn và con hứa sẽ giúp mẹ thật nhiều như bố và chị Phan-xi-ca đã giúp mẹ vậy”. Nhưng không phải tới lúc khôn lớn mà ngay từ bây giờ, vì nhu cầu và hoàn cảnh khó khăn của gia đình, Mác-đa-la đã ngồi xuống trước guồng tơ dệt chỉ mà chị Phan-xi-ca đã để lại.

Một hôm, tình cờ cha Ban-den-la, người anh họ của mẹ đến chơi và biết Mác-đa-la không được đi học, cha hứa sẵn sàng phụ giúp thêm vào nhu cầu vật chất của gia đình và trả tiền học phí cũng như tiền sách vở cho Mác-đa-la đi học. Sau hơn 10 năm chăm chỉ học tập, chị đã tốt nghiệp và trở thành một cô giáo trường làng, thế là Mác-đa-la đã bắt đầu làm việc để phụ giúp gia đình. Suốt 16 năm trời, chị đã giữ lời hứa với mẹ, hơn nữa, chị biết mẹ luôn ấp ủ một ước muốn thầm kín là có được một căn nhà với mảnh vườn nho nhỏ, những luống rau và mấy giàn nho ngon ngọt. Vì thế, chị đã chuyên cần làm việc và âm thầm dành dụm, giảm bớt chi tiêu không cần thiết. Đến ngày sinh nhật thứ 30 của mình, Mác-đa-la dẫn mẹ đến xem mảnh đất với căn nhà và khu vườn như mẹ mong ước, chị âu yếm nói với mẹ: “Thưa mẹ, đây là món quà con xin biếu tặng mẹ, con chỉ xin mẹ một điều là cho phép con tận hiến cuộc sống còn lại của con cho Chúa để đáp lại tiếng gọi của Ngài vẫn thúc giục con từ lâu rồi”.

Quyết định của Mác-đa-la đã gây đau khổ nhiều cho mẹ chị, cho cha xứ, bạn bè và các phụ huynh học sinh của chi, vì họ mất đi một người con hiếu thảo, một người bạn tốt, một giáo viên gương mẫu, một người giáo dân nhiệt thành việc tông đồ. Trái lại, trong tâm hồn chị trào dâng một niềm vui mừng, vì chị có thể thực hiện được ước mơ chị đã ấp ủ từ lâu.

Ngày chia ly không khỏi ngậm ngùi đau xót, nhưng chị đã tìm được sức mạnh nơi tình yêu và lời nói của Chúa: “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy thì không xứng đáng với Thầy”. Đồng thời chị cũng được sự an ủi vì tin vào lời Chúa đã hứa: “Quả thật, Thầy bảo cho anh em rõ, không ai bỏ nhà cửa, cha mẹ, vợ con, anh chị em vì nước Thiên Chúa mà lại chẳng lãnh nhận gấp trăm ở đời này và sẽ được sống đời sau”. Thật vậy, lời hứa ấy đã thể hiện qua suốt 30 năm sống đời tận hiến, trong đó, hơn 25 năm hăng say với sứ mệnh tông đồ giữa giới trẻ nghèo khổ, bị bỏ rơi tại đảo Xi-xi-li-a. Và Chúa đã thưởng cho chị qua việc Đức Giáo Hoàng tôn phong chị lên bậc chân phước để mọi người ngưỡng mộ và tôn kính.

Kể lại câu chuyện trên để minh họa cho bài Tin Mừng hôm nay. Bài Tin Mừng này là đoạn cuối trong bài giảng dạy về truyền giáo của Chúa Giêsu. Ngài nói với các tông đồ, và qua các ông, nói với mọi Kitô hữu về sự từ bỏ tất cả mọi sự để đi theo làm môn đệ Ngài và Ngài hứa ban thưởng bội hậu cho họ. Tại sao Chúa đòi hỏi như vậy và đòi hỏi như vậy có nghịch lý không? Quả thực, con đường theo Chúa vốn đầy những nghịch lý, một trong những cái nghịch lý ấy là điều kiện để theo Chúa. Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu cho biết điều kiện đó là phải từ bỏ tất cả: gia đình, của cải, nghề nghiệp và chính bản thân mình. Cái nghịch lý là ở chỗ đó. Muốn theo Chúa, phải từ bỏ hết, phải từ bỏ tất cả, nghĩa là coi Chúa hơn hết tất cả mọi người, hơn hết tất cả mọi sự và tin vào một mình Chúa thôi.

Có người cho rằng: những điều trên đây Chúa chỉ dạy riêng cho những người đi tu mà thôi, nói thế cũng đúng, nhưng những lời Chúa dạy đây không phải là không áp dụng được cho tất cả chúng ta, bởi vì với mỗi người, Chúa cũng đòi hỏi phải từ bỏ, không phải từ bỏ để đi tu hay để làm tông đồ cho Chúa, nhưng trong cuộc sống, chúng ta cũng có nhiều cái, nhiều điều và nhiều lần phải từ bỏ.

Tóm lại, trong đời sống thường ngày, người Kitô hữu bị giằng co giữa một bên là tình cảm gia đình, bên kia là đòi hỏi của Chúa; hoặc một bên là quyến rũ của tiền tài, danh vọng, sống buông thả, một bên là sự trung thành với lý tưởng Kitô giáo. Trong những trường hợp giằng co như vậy, chúng ta sẽ chọn thế nào và phải làm gì? Bài Tin Mừng hôm nay soi sáng và hướng dẫn chúng ta hãy chọn đúng và thực hành đúng.

 

17.Sống xứng với Chúa--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Chúa Giêsu hôm nay cất tiếng mời gọi con người, cách riêng là người môn đệ, chẳng những lắng nghe, đi theo, mà còn phải hy sinh và từ bỏ nữa. “Kẻ nào yêu mến cha mẹ hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy, và kẻ nào yêu mến con trai, con gái hơn Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. Kẻ nào không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy” (Mt 10, 37).

Nghe lời tuyên bố của Chúa Giêsu ở trên, mỗi người chúng ta nói gì và trả lời ra làm sao? Tiêu chuẩn để làm môn đệ Chúa Giêsu, với đòi hỏi thật gắt gao. Ai muốn theo Chúa, phải yêu Chúa hơn cha mẹ, con cái.. Có người đặt câu hỏi: Phải chăng, Điều răn thảo cha kính mẹ, yêu thương người thân cận bị đảo lộn rồi hay sao? Nghĩa là để đi theo Chúa Giêsu, người ta phải dành hết tình yêu đối với Chúa, người theo phải phân định và lựa chọn giữa Thiên Chúa và loài người, Thiên Chúa phải là nhất. Yêu cha mẹ và đồng loại, nhưng yêu Thiên Chúa hơn, vì Ngài là Đấng dựng nên cả cha mẹ chúng ta, nên Chúa Giêsu yêu cầu con người dành cho Ngài một vị trí đặc biệt và cao nhất.

Tuy nhiên, dường như trở ngại lớn nhất không phải là người thân cận hoặc cha mẹ anh chị em, của cải … mà là cái tôi. Cái tôi cũng phải nhường bước cho dây liên kết với Chúa Giêsu, nên Ngài thêm: “Kẻ nào không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. Kẻ nào cố tìm mạng sống mình thì sẽ mất, và kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm lại được nó” (Mt 10, 38-39).

Thì ra con đường của các môn đệ là theo Chúa Giêsu, Ðấng bị đóng đinh. Con đường “chịu mất chính mình”, để tìm lại được chính mình, như Đức nguyên Giáo hoàng Benedictô XVI viết: con đường “chịu mất chính mình”, là điều cần thiết đối với con người, và nếu không có điều này, thì nó không thể tìm lại được chính mình” (Ðức Giêsu thành Nagiarét 2007, 333).

Ngày nay Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta: “Vác thập giá mà theo” (Mt 10, 38). Theo Chúa khi chấp nhận thập giá của mình với lòng yêu mến. Dưới con mắt thế gian, đây là một thất bại. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết như sau: “Một cách nhiệm mầu chính Chúa Kitô chấp nhận... chết trên một thập giá để nhổ tận gốc rễ tội kiêu căng khỏi trái tim con người, và biểu lộ một sự vâng phục toàn vẹn con thảo”t (Es. ap. Gaudete in Domino 9 maggio 1975, AAS 67 (1975) 300-301). Khi tự nguyện chấp nhận cái chết, Chúa Giêsu mang lấy thập giá của tất cả mọi người và trở thành suối nguồn ơn thánh cứu độ cho toàn dân. Thánh Cirillo thành Giêrusalem giải thích rằng: "Thập giá chiến thắng đã soi sáng những ai bị mù lòa vì ngu muội, đã giải thoát người bị tội lỗi giam cầm, đã đem lại ơn cứu độ cho toàn nhận loại" (Catechisis Illuminandorum XIII,1; de Christo crucifixo et sepulto: PG 33, 772 B).

Người ta hỏi: Chúa Giêsu có thích khổ đau và thập giá không? Không, Chúa Giêsu đã không đi tìm thập giá và đau khổ, y như thể Ngài thích. Nhưng Ngài vác trên mình thập giá và sự đau khổ, đến mất mạng, khi phải đáp ứng điều này hầu giữ được lòng trung thành với Thiên Chúa. Ai muốn đi theo Chúa Giêsu, phải đặt sự trung thành với thánh ý Thiên Chúa trên tất cả mọi sự. Vác thập giá mình là từ bỏ ý mình, vâng theo ý Chúa. Ý Chúa muốn là hy sinh và từ bỏ để sống trọn vẹn cho Chúa và cho tha nhân. Cơ bản, vác thập giá mình mà theo Đức Giêsu là liều thuốc chữa chúng ta khỏi căn bệnh ghê sợ là “sự trì trệ”, ù lì, tê liệt và khép kín lòng mình.

Không phải ngẫu nhiên Chúa Giêsu nói đến “Thập Giá”. Vác thập giá bước theo Chúa Giêsu không phải là vác đi với những bước nhẹ nhàng. Vác lấy thập giá mà theo Chúa Giêsu có nghĩa là sẵn sàng chấp nhận bất cứ hy sinh nào vì tình yêu đối với Chúa. Nhưng chúng ta không vác thập giá một mình, vì có Chúa cùng đi, Ngài đi trước để chúng ta tiếp bước theo sau, Ngài đi mau để chúng ta được lúi kéo dắt dùi, Ngài nâng đỡ chúng ta bằng sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa.

Quyết định theo Chúa Giêsu, là gạt bỏ tất cả, hướng về Chúa là sự giầu có đích thực của chúng ta, không gì hơn Ngài, không đặt cái gì trước Ngài, toàn bộ phải qui hướng về Ngài. Ngài cũng khẩn khoản mời gọi chúng ta dùng mọi cách để đi đến tận cùng là trở nên những môn đệ Đức Giêsu. Theo Chúa Kitô, chúng ta không mất gì hết, chúng ta được tất cả. Như Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI nhấn mạnh trong bài giảng khai mào sứ vụ Giám mục Rôma: “Ai chấp nhận cho Chúa Kitô bước vào trong cuộc đời họ, thì người đó không mất đi điều gì cả, tuyệt đối không mất điều gì làm cho cuộc đời được tự do, tươi đẹp và cao cả. Không! Chỉ trong tình bạn với Chúa Kitô này mà các cửa sự sống được mở rộng ra. Chỉ trong tình bạn với Chúa này mà những khả năng to lớn của cuộc sống con người được thể hiện đích thực. Chỉ trong tình bạn với Chúa này mà chúng ta cảm nghiệm được điều gì là tươi đẹp và điều gì là tự do”. Với sức mạnh cao cả và với niềm xác tín lớn lao, dựa trên những năm dài kinh nghiệm cá nhân về cuộc sống, Đức Giáo hoàng nói với chúng con rằng: “Anh em đừng sợ Chúa Kitô. Chúa không đến lấy mất đi điều gì cả, nhưng ban cho đủ mọi sự. Ai hiến thân cho Chúa, thì được nhận gấp trăm. Phải, hãy mở ra, hãy mở rộng mọi Cửa cho Chúa Kitô, và chúng con sẽ gặp được sự sống thật” (Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI, 24/4/ 2005).

Lạy Chúa, trong niềm tin, chúng con yêu mến Chúa trên hết mọi sự, xin đến giúp chúng con để chúng con thấy rằng trên đường đi, có chúa là sức mạnh để chúng con tiến bước theo Chúa cho đến trọn đời. Amen.

 

18.Đón tiếp tha nhân như đón tiếp chính Chúa—Lm JB. Lê Ngọc Dũng

Trong Tin Mừng chúng ta vừa nghe, Chúa Giêsu dạy “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy thì không xứng đáng với Thầy” (Mt 10,37); “Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy” (Mt 10,40)...

Nếu nhìn Thầy Giêsu như bao vị thầy, giáo sư hay tôn sư khác thì lời dạy của Ngài quả là khó nghe, quá đáng. Một lương dân mà nghe như vậy thì lắc đầu ngao ngán bỏ đi vì không thể chấp nhận một người đòi mình yêu người đó hơn cả cha mẹ. Một cách tương tự, một người vẫn khăng khăng không cho con cái theo đạo vì sợ con cái bỏ ông bỏ bà.

Nhưng nếu nhìn thấy Đức Giêsu là Con Thiên Chúa làm người thì Lời Chúa hôm nay vang vọng lại lệnh truyền của Chúa cho dân Israel và được Chúa Giêsu nhắc lại. Khi ấy, có người trong nhóm luật sĩ hỏi Chúa Giêsu: “Trong các giới răn điều nào trọng nhất?” Chúa Giêsu đáp: “Giới răn trọng nhất chính là: Hỡi Israel, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi. Còn đây là giới răn thứ hai: Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi. Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó” (Mc 12,29-31).

“Hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi”, dĩ nhiên có nghĩa là yêu hơn cả cha mẹ. Vậy, Đức Giêsu là Thiên Chúa thì Ngài đương nhiên đòi hỏi chúng ta yêu mến Ngài hết lòng hết sức, yêu mến hơn cả cha mẹ.

Tuy nhiên, cái hay cái tuyệt vời, trong giáo huấn của bài Tin Mừng hôm nay đó là một Thiên Chúa làm người, có thân xác linh hồn như chúng ta, lại muốn đồng hóa với những môn đệ Ngài, và cũng muốn đồng hóa mình với những người bé mọn. Đón tiếp các môn đệ của Ngài cũng là đón tiếp chính Ngài; đón tiếp những kẻ bé mọn cũng là đón tiếp Ngài. Và khi đón tiếp Ngài như vậy cũng có nghĩa là đón tiếp chính Đấng đã sai Ngài, tức là đón tiếp Thiên Chúa Cha. Cái hay, cái tuyệt vời ở chỗ Yêu Chúa lại được thực hiện qua yêu tha nhân.

Trong thực tế, thực hiện được giáo huấn này của Chúa Giêsu, tuy vậy, cũng không dễ. Có thể dễ khi ta đón tiếp một Giám mục, một linh mục, một tu sĩ, nhưng không dễ gì đón tiếp những kẻ bé mọn, không dễ gì đón tiếp những kẻ khác màu da sắc tộc, không dễ gì đón tiếp kẻ bất đồng ý kiến, kẻ tội lỗi...

Một ngày Chúa Nhật ở Pari bên Pháp, một cộng đoàn các sơ thường xuyên có một linh mục già đến dâng lễ vào lúc 4 giờ chiều. Vào ngày đó vị linh mục vì đau yếu nên không thể đến dâng lễ được, vì thế ngài nhờ một linh mục người Nigeria da đen, là một người bạn tình cờ đến thăm ngài, đến cộng đoàn dâng lễ thay ngài. Lúc 4 giờ kém 5 vị linh mục người Nigeria đến cổng tu viện và bấm chuông.

Theo thói quen ở Pari vào thời ấy, ngài mặc thường phục chứ không mặc áo giáo sĩ. Chị nữ tu giữ cổng nhanh nhẹn mở cổng vì nghĩ rằng cha đến làm lễ. Nhưng khi thấy một người Phi Châu, da đen, sơ không kịp để cho người này nói được câu nào, mà sơ vội nói như xua đuổi  ngay: “Xin lỗi tôi không có gì để giúp ông. Chúng tôi sắp dâng lễ ngay bây giờ. Khi khác ông hãy tới.” “Cám ơn sơ”, vị linh mục Nigeria nói và quay lưng đi.

Vài phút sau đó chuông điện thoại reng ở nhà vị linh mục già. Đó là điện thoại các sơ gọi. Các sơ nói rằng họ đang đợi cha đến để làm lễ nhưng chưa thấy tới, xin cho biết lúc nào cha đến. Và họ được vị linh mục già trả lời rằng: “Ngài đã đến, nhưng các sơ đã nói với ngài rằng hãy đi và ngày khác hãy đến”.

Giống như vị nữ tu, tuy vẫn ý thức  rằng cần phải sống yêu thương, cần phải đón nhận tha nhân, không được kỳ thị… nhưng chúng ta cứ vẫn chưa làm được.

Chúng ta vẫn chưa làm được vì sao?

Đó là bởi vì con người chúng ta vẫn thường thấy mình là đúng là tốt và thấy người khác là sai, là dở, là vô lý, là vô đạo đức... Và vì thế mới cảm thấy bực mình, mới giận, mới phê bình chỉ trích. Ngoài ra, chúng ta còn thấy người khác làm ta bị hại, bị mất mát…

Ví dụ một người mẹ chồng chỉ thấy nàng dâu lười biếng chỉ lo son phấn; một người vợ chỉ thấy chồng là người vô trách nhiệm; một người chỉ thấy chị hàng xóm tham lam hà tiện… Nếu chỉ thấy như vậy, thì làm sao tâm hồn mình thư thái bình an được, mà ngược lại thấy mình đang chịu đựng một gánh nặng, chịu một bức xúc cho đến một ngày nó bùng ra, rồi cải vả, rồi phê bình chỉ trích, cải vả, oán ghét lẫn nhau.

Chúng ta cần nhớ lại Lời Chúa dạy: “Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy”, “và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ là một chén nước lã mà thôi..., thì người đó không mất phần thưởng đâu.”

Đúng hơn, Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta một cái nhìn đổi mới về tha nhân. Với cái nhìn này, thì người khác, không chỉ là một người cho tôi những điều lợi này hay mang đến cho tôi điều hại kia; người khác không chỉ là dễ yêu hay dễ ghét theo xét đoán bình thường nữa; người khác không chỉ là đúng đắn hay vô lý nữa; là đạo đức hay tội lỗi nữa…, mà người khác chính là Đức Giêsu đang hiện diện. Khi đón tiếp tha nhân thì cũng là đón tiếp chính Chúa. Và do đó cái nhìn về tha nhân là cái nhìn kính trọng và yêu mến. Họ như là một hồng ân Chúa ban cho ta. Ta yêu mến họ cũng có nghĩa là ta yêu mến Thiên Chúa.

 

19.Người môn đệ đích thật--Lm. Xuân Hy Vọng

Thoạt tiên đọc Lời Chúa hôm nay, có lẽ ai trong chúng ta đều cảm thấy dường như mâu thuẫn và đối nghịch với văn hoá hướng về gia đình của người Á đông! Tuy nhiên, đọc kỹ rồi suy ngẫm thì chúng ta sẽ hiểu rõ hơn thông điệp Chúa muốn nói với mỗi người là gì.

“Ai yêu cha hay yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy” (Mt 10, 37). Phải chăng, Chúa muốn chúng ta bỏ bê, không yêu thương các bậc sinh thành? Nếu đúng như trên thì điều răn thứ tư trong Thập điều (Mười điều răn): ‘Hãy thảo kính cha mẹ’ là sai ư? Câu trả lời chắc chắn là không. Chúa dạy chúng ta qua sách Huấn Ca: “Ai yêu mến cha mình, thì đền bù tội lỗi; ai thảo kính mẹ mình, thì như người thu được một kho tàng” (Hc 3, 3-4), và qua lời Thánh Phao-lô Tông đồ: “Hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: Để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này” (Ep 6, 1-3). Vả lại, Đức Giê-su là người Do Thái, nên hiểu rõ văn hoá Á Đông xoay quanh gia đình, tôn kính và yêu thương cha mẹ.

Tuy nhiên, việc yêu mến cha mẹ không quyết định sứ mạng của người môn đệ Đức Giê-su. Thật vậy, người môn đệ đích thật phải đặt Chúa hàng đầu, chứ chẳng phải thứ hạng; và hơn hết “vác thập giá mình theo Thầy,…đón tiếp mọi người,…cho một trong những kẻ bé nhỏ uống, dù chỉ là một chén nước lã,…thì người đó sẽ không mất phần thưởng” (x. Mt 10, 38. 40. 42). Điều này đã được minh chứng hùng hồn qua đời sống đức tin, gương làm chứng cho Chúa của các Thánh Tử đạo Việt Nam. Các ngài đã thí mạng sống vì Chúa bằng cả cuộc sống Tin Mừng yêu thương, thân ái với hết mọi người, kể cả những kẻ bắt bớ, bách hại mình. Đơn cử gương Thánh Linh mục Tô-ma Đinh Viết Dụ (1783 - 1839), ngài nói: ‘Tôi kính mến Thiên Chúa như thượng phụ, kính Vua như trung phụ, và song thân như hạ phụ. Không thể nghe cha ruột mà hại Vua, tôi cũng không phải vì Vua mà phạm đến thượng phụ là Thiên Chúa”. Còn Thánh Linh mục An-rê Dũng Lạc (1795 - 1839) đã chia sẻ không chỉ là một bát nước mát/nước lã, mà dành phần quà tiếp tế cho mấy anh lính canh. Thánh y sĩ Si-mon Phan Khắc Hoà (1787 - 1840) không ngần ngại quảng đại giúp đỡ người nghèo khó, hỗ trợ miễn phí cho các bệnh nhân túng thiếu. Thánh Ma-ti-nô Trần Ngọc Thọ (1787 - 1840) khẳng khái quả quyết: ‘Sống công bằng chưa đủ, phải có bác ái nữa’. Ngài ra công trồng dâu kiếm tiền giúp đỡ người nghèo; còn Thánh trùm An-tôn Nguyễn Tiến Đích (1769 - 1838) thường xuyên thăm viếng trại cùi, và sẵn sàng nuôi người mắc bệnh dịch trong nhà. Thánh Linh mục Em-ma-nu-el Nguyễn Văn Triệu (1769 - 1838) đã nhường tiền bữa ăn ân huệ trước giờ xử tử cho người nghèo, ngài nói: ‘xin cầm tiền này về, gửi cho người nghèo dùm tôi’.

Quả thật, gương sống chứng tá, yêu thương Chúa trên hết mọi sự và yêu mến gia đình, chia sẻ với mọi người của các Thánh Tử đạo Việt Nam cũng chính là lời xác quyết của Thánh Phao-lô Tông đồ trong thư gửi cho giáo đoàn Rô-ma: “Nếu chúng ta cùng chết với Đức Ki-tô, chúng ta sẽ cùng sống với Người: đó là niềm tin của chúng ta” (Rm 6, 8). Tuy nhiên, khi nhìn vào cuộc sống thực tế, chúng ta thấy còn rất nhiều người lên tiếng thán phục Chúa, nhưng lại không dám trở nên người môn đệ đích thật của Ngài, chẳng dám bước theo Ngài. Ở một phương diện nào đó, chúng ta đôi lúc cũng giống như trẻ em ngồi xem xiếc vậy. Chuyện kể rằng: Em há hốc miệng ngạc nhiên sửng sốt và trầm trồ khâm phục người biểu diễn đi thăng bằng trên sợi dây mỏng. Khi người ấy nhìn xuống hỏi:

Cháu tin rằng tôi có thể vác em mà đi trên sơị dây này không?

Em nhanh miệng đáp:

Chắc chắn chú làm được ạ!

Thế nhưng khi người biểu diễn mời em:

Vậy cháu lên đây và chú sẽ vác cháu đi trên sợi dây mong manh này.

Nghe thế, em liền sợ hãi, từ chối vì theo em đây thật nguy hiểm!

Tóm lại, để trở nên người môn đệ, người Ki-tô hữu đích thật, thì trong danh sách ưu tiêng của chúng ta, Chúa là số một; cụ thể điều này phải được diễn tả qua đời sống đạo, đời sống chứng tá, đời sống bác ái, không chỉ qua lời nói, mà còn qua cách ăn nết ở, qua cách sống theo Lời Chúa răn dạy.

Theo Chúa trọn đời, không quay gót

Yêu Ngài hết lòng, bước vững tin.

Nguyện xin tâm trí trung trinh

Dang tay đón nhận đệ huynh một nhà. Amen!

 

CHỈ MỘT BÁT NƯỚC LÃ!

Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta một lần nữa “kẻ nào cho một trong những người bé mọn này uống chỉ một bát nước lã mà thôi với danh nghĩa là môn đệ, thì quả thật, người ấy không mất phần thưởng đâu” (Mt 10, 42). Vậy đối với bản tôi, ai là ‘người bé mọn’ và hành động cho ‘một bát nước lã’  với danh nghĩa là môn đệ có nghĩa gì?

Trong một lớp giáo lý nọ, một em độ tuổi lớp 3 giơ tay phản ứng, muốn trình bày cho chị giáo lý viên đứng lớp vừa cắt nghĩa xong đoạn Tin mừng trên, em đơn sơ hỏi: dạ thưa cô, nhà em không có nước lã, thế thay vì cho người khác một bát nước lã, em cho họ uống coca-cola được không ạ? Chị giáo lý viên nhoẽn miệng cười và nói: nếu được vậy thì tốt quá!!!

Thiết nghĩ, đôi lúc chúng ta cũng có suy nghĩ như em nhỏ trong câu chuyện này mỗi lúc làm việc tốt lành, thánh thiện; tuy vậy chúng ta nên tìm ra ý Chúa muốn nói với mỗi chúng ta trong đoạn Tin Mừng hôm nay một cách thấu đáo có thể nhất.

Trước hết, ‘người bé mọn’ chẳng phải chỉ ám chỉ đến những người có thân hình, dáng vóc bé nhỏ như các trẻ em, những ai suy dinh dưỡng, thiếu ăn thiếu mặc; mà ‘người bé mọn’ này có thể là chúng ta đang cần sự chia sẻ, đang cần tình thương, lòng quan tâm, ‘người bé mọn’ này cũng có thể là những người trong gia đình của chúng ta, không hẳn chỉ nhắm tới ai đó ngoài kia đang cần sự giúp đỡ của chúng ta mà thôi. Hơn nữa, ‘người bé mọn’ này là những người thấp cổ bé miệng, chẳng có địa vị, bị xã hội vứt bỏ, bị bỏ mặc trong gia đình, bị bạn bè cô lập…tất cả những ai đang gặp khó khăn, trắc trở, cần đến bàn tay đỡ nâng, đón nhận của chúng ta, cần đến ánh mắt yêu thương đầy lòng cảm mến, cần đến cử chỉ bỏ mình chia san của chúng ta. Và mỗi khi chúng ta làm gì tốt lành cho ‘người bé mọn’ này cũng chính làm cho chính Chúa, như Chúa đã từng nói trong dụ ngôn ngày cánh chung “kẻ nào làm cho một người bé mọn nhất của Ta đây, cũng đã làm cho chính Ta vậy” (x. Mt 25, 40) và ngược lại, “kẻ nào không làm cho một người bé mọn nhất của Ta đây, cũng đã không làm cho chính Ta” (x. Mt 25, 45). Tương tự điều mà người phụ nữ giàu sang vùng Su-nêm đã nhận ra và đón tiếp nồng hậu tiên tri Ê-li-sha khi ông ghé đến trọ, “bà ấy nói với chồng: này ông! tôi biết người thường ghé vào nhà chúng ta là một vị thánh nhân của Thiên Chúa…” (x. 2V 4, 9). Thật sự, bà đã nhận ra sự hiện diện của Chúa nơi tiên tri Ê-li-sha, và tất cả mọi việc bà cất công chuẩn bị, bà chia sẻ với tiên tri (người của Thiên Chúa) cũng chính là làm cho Thiên Chúa, “ai đón tiếp các con là đón tiếp Thầy; và ai đón tiếp Thầy, là đón tiếp Đấng đã sai Thầy” (Mt 10, 40).

Và đây là điều khiến chúng ta phải suy nghĩ đến động lực mỗi khi làm việc bác ái (hay nói theo ngôn từ xã hội: làm việc từ thiện) đó là: tôi đang làm vì lòng mến hay chỉ muốn phô trương? tôi đang làm với danh nghĩa môn đệ của Chúa, hay chỉ muốn phô diễn, giới thiệu danh tánh của nhóm-công ty-tập đoàn của tôi? tôi đang làm đơn giản vì sống giới răn yêu thương, hay muốn cho người khác biết tôi thánh thiện nhường bao và mọi người nên học đòi nơi tôi? Những tư tưởng này ít nhiều diễn ra trong chúng ta. Lắm lúc nó lẫn lộn, khiến chúng ta rối bời không biết đâu là động lực đúng đắn, đâu là điều Chúa muốn mỗi lúc chúng ta sống bác ái.

Thật sự, Chúa không đòi hỏi chúng ta phải cho đi những gì sang trọng, quý giá cho bằng việc chia san mọi sự nhỏ nhoi và thông thường, nhưng với cả tấm lòng của một người môn đệ đúng nghĩa! Mẹ Thánh Tê-rê-sa miền Cal-cút-ta đã từng cảm nghiệm sâu sắc qua lời này: ‘chúng ta không thể làm nên những việc vĩ đại trong đời, nhưng chúng ta có thể thực hiện những điều nhỏ bé với lòng mến lớn lao’ ("In this life we cannot do great things. We can only do small things with great love.”). Nếu chúng ta đối chiếu giữa ‘bát nước lã’ (nội dung chia sẻ/chia san) với hành vi ‘làm với danh nghĩa là môn đệ’ (động lực chia sẻ/chia san), thì chúng ta có thể nhận ra: Chúa không quá chú trọng đến nội dung chia san, cho bằng động lực sẻ chia! Giả như Chúa đòi hỏi chúng ta phải cho ‘người bé mọn’ một lon coca-cola, một chai nước khoáng, một bình nước trái cây…hay thứ gì đắt giá, thì chúng ta có thể kêu trời than đất vì không có khả năng; nhưng đây Chúa chỉ mong mỗi chúng ta cho đi một bát nước lã (một thứ có thể quá bình thường, ai trong chúng ta cũng có thể có hằng ngày, dẫu không có nhiều thì ít!) nhưng với tâm tình của một người môn đệ đích thật của Ngài, cụ thể: là người yêu mến Chúa trên hết mọi sự, hơn cả tình cảm ruột rà, máu mủ, và trung thành vác thập giá mình mà bước theo Chúa mỗi giây phút trong đời (x. Mt 10, 37-38).

Giờ đây, chúng ta cùng nhau dành ít thời giờ ngắn ngủi này trở về với lòng mình, nhìn sâu vào con người chúng ta hầu xét mình: mỗi lúc tôi làm bác ái với tâm thế như thế nào? làm với tâm tình như Chúa đã mong muốn tôi làm hay chưa? v.v…

Lạy Chúa, tuy Chúa chẳng cần

Lời con ca tụng ân cần ngày đêm!

Nhưng được tụng ca êm đềm

Con được gần Chúa, ấm êm cõi lòng.

Chân thành con thơ ước mong

Sống đời bác ái chẳng trông đáp đền

Dẫu rằng cuộc sống lênh đênh

Ngài luôn tha thiết cạnh bên con hiền. Amen!

 

20.Chỉ một bát nước lã!--Lm. Xuân Hy Vọng

Kính thưa quý ông bà và anh chị em rất thân mến!

Một số nơi đã trở lại với các sinh hoạt như Thánh lễ chung, các trường học Công giáo được mở cửa trở lại bắt đầu năm học tiếp theo hoặc năm học mới. Tuy nhiên, mọi thứ không thể như trước kia! Và khi bài suy niệm này đến với anh chị em, có thể tình hình dịch bệnh được kiểm soát!

Nhưng dù gì chăng nữa, việc sống đạo, tuân giữ giới răn yêu thương, làm việc bác ái vẫn tiếp diễn như chính hơi thở của chúng ta. Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta một lần nữa “kẻ nào cho một trong những người bé mọn này uống chỉ một bát nước lã mà thôi với danh nghĩa là môn đệ, thì quả thật, người ấy không mất phần thưởng đâu” (Mt 10, 42). Vậy đối với bản tôi, ai là ‘người bé mọn’ và hành động cho ‘một bát nước lã’  với danh nghĩa là môn đệ có nghĩa gì?

Trong một lớp giáo lý nọ, một em chạc tuổi lớp 3 liền giơ tay phản ứng, muốn trình bày cho chị giáo lý viên đứng lớp vừa cắt nghĩa xong đoạn Tin mừng trên, em đơn sơ hỏi: dạ thưa cô, nhà em không có nước lã, thế thay vì cho người khác một bát nước lã, em cho họ uống coca-cola được không ạ? Chị giáo lý viên nhoẽn miệng cười và nói: nếu được vậy thì tốt quá!!!

Thiết nghĩ, đôi lúc chúng ta cũng có suy nghĩ như em nhỏ trong câu chuyện này mỗi lúc làm việc tốt lành, thánh thiện; tuy vậy chúng ta nên tìm ra ý Chúa muốn nói với mỗi chúng ta trong đoạn Tin Mừng hôm nay một cách thấu đáo có thể nhất.

Trước hết, ‘người bé mọn’ chẳng phải chỉ ám chỉ đến những người có thân hình, dáng vóc bé nhỏ như các trẻ em, những ai suy dinh dưỡng, thiếu ăn thiếu mặc; mà ‘người bé mọn’ này có thể là chúng ta đang cần sự chia sẻ, đang cần tình thương, lòng quan tâm, ‘người bé mọn’ này cũng có thể là những người trong gia đình của chúng ta, không hẳn chỉ nhắm tới ai đó ngoài kia đang cần sự giúp đỡ của chúng ta mà thôi. Hơn nữa, ‘người bé mọn’ này là những người thấp cổ bé miệng, chẳng có địa vị, bị xã hội vứt bỏ, bị bỏ mặc trong gia đình, bị bạn bè cô lập…tất cả những ai đang gặp khó khăn, trắc trở, cần đến bàn tay đỡ nâng, đón nhận của chúng ta, cần đến ánh mắt yêu thương đầy lòng cảm mến, cần đến cử chỉ bỏ mình chia san của chúng ta. Và mỗi khi chúng ta làm gì tốt lành cho ‘người bé mọn’ này cũng chính làm cho chính Chúa, như Chúa đã từng nói trong dụ ngôn ngày cánh chung “kẻ nào làm cho một người bé mọn nhất của Ta đây, cũng đã làm cho chính Ta vậy” (x. Mt 25, 40) và ngược lại, “kẻ nào không làm cho một người bé mọn nhất của Ta đây, cũng đã không làm cho chính Ta” (x. Mt 25, 45). Tương tự điều mà người phụ nữ giàu sang vùng Su-nêm đã nhận ra và đón tiếp nồng hậu tiên tri Ê-li-sha khi ông ghé đến trọ, “bà ấy nói với chồng: này ông! tôi biết người thường ghé vào nhà chúng ta là một vị thánh nhân của Thiên Chúa…” (x. 2V 4, 9). Thật sự, bà đã nhận ra sự hiện diện của Chúa nơi tiên tri Ê-li-sha, và tất cả mọi việc bà cất công chuẩn bị, bà chia sẻ với tiên tri (người của Thiên Chúa) cũng chính là làm cho Thiên Chúa, “ai đón tiếp các con là đón tiếp Thầy; và ai đón tiếp Thầy, là đón tiếp Đấng đã sai Thầy” (Mt 10, 40).

Và đây là điều khiến chúng ta phải suy nghĩ đến động lực mỗi khi làm việc bác ái (hay nói theo ngôn từ xã hội: làm việc từ thiện) đó là: tôi đang làm vì lòng mến hay chỉ muốn phô trương? tôi đang làm với danh nghĩa môn đệ của Chúa, hay chỉ muốn phô diễn, giới thiệu danh tánh của nhóm-công ty-tập đoàn của tôi? tôi đang làm đơn giản vì sống giới răn yêu thương, hay muốn cho người khác biết tôi thánh thiện nhường bao và mọi người nên học đòi nơi tôi? Những tư tưởng này ít nhiều diễn ra trong chúng ta. Lắm lúc nó lẫn lộn, khiến chúng ta rối bời không biết đâu là động lực đúng đắn, đâu là điều Chúa muốn mỗi lúc chúng ta sống bác ái.

Thật sự, Chúa không đòi hỏi chúng ta phải cho đi những gì sang trọng, quý giá cho bằng việc chia san mọi sự nhỏ nhoi và thông thường, nhưng với cả tấm lòng của một người môn đệ đúng nghĩa! Mẹ Thánh Tê-rê-sa miền Cal-cút-ta đã từng cảm nghiệm sâu sắc qua lời này: ‘chúng ta không thể làm nên những việc vĩ đại trong đời, nhưng chúng ta có thể thực hiện những điều nhỏ nhoi với lòng mến lớn lao’ ("In this life we cannot do great things. We can only do small things with great love.”). Nếu chúng ta đối chiếu giữa ‘bát nước lã’ (nội dung chia sẻ/chia san) với hành vi ‘làm với danh nghĩa là môn đệ’ (động lực chia sẻ/chia san), thì chúng ta có thể nhận ra: Chúa không quá chú trọng đến nội dung chia san, cho bằng động lực sẻ chia! Giả như Chúa đòi hỏi chúng ta phải cho ‘người bé mọn’ một lon coca-cola, một chai nước khoáng, một bình nước trái cây…hay thứ gì đắt giá, thì chúng ta có thể kêu trời than đất vì không có khả năng; nhưng đây Chúa chỉ mong mỗi chúng ta cho đi một bát nước lã (một thứ có thể quá bình thường, ai trong chúng ta cũng có thể có hằng ngày, dẫu không có nhiều thì ít!) nhưng với tâm tình của một người môn đệ đích thật của Ngài, cụ thể: là người yêu mến Chúa trên hết mọi sự, hơn cả tình cảm ruột rà, máu mủ, và trung thành vác thập giá mình mà bước theo Chúa mỗi giây phút trong đời (x. Mt 10, 37-38).

Giờ đây, chúng ta cùng nhau dành ít thời giờ ngắn ngủi này trở về với lòng mình, nhìn sâu vào con người chúng ta hầu xét mình: mỗi lúc tôi làm bác ái với tâm thế như thế nào? làm với tâm tình như Chúa đã mong muốn tôi làm hay chưa? v.v…

Lạy Chúa, tuy Chúa chẳng cần

Lời con ca tụng ân cần ngày đêm!

Nhưng được tụng ca êm đềm

Con được gần Chúa, ấm êm cõi lòng.

Chân thành con thơ ước mong

Sống đời bác ái chẳng trông đáp đền

Dẫu rằng cuộc sống lênh đênh

Ngài luôn tha thiết cạnh bên con hiền. Amen!

 

21.Chúa nhật 13 thương niên năm A--Lm GB Phạm Hồng Thái

Đạo công giáo chúng ta đề cao lòng hiếu khách: kinh “thương người có 14 mối”có một mối liên can tới sự hiếu khách đó là “Thứ năm cho khách đỗ nhà”. Trong Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu dạy: “Kẻ nào đón tiếp các con là đón tiếp Thầy và kẻ nào đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy”.

Chúng ta thấy hai môn đệ đi làng Emmaus có lòng hiếu khách khi mời Chúa Giêsu bằng lời như sau: “Mời Ông ở lại với chúng tôi vì trời đã về chiều và ngày sắp tàn”. Chúa Giêsu  thưởng công cho lòng hiếu khách của hai môn đệ nên đã vào nhà với hai ông nhất là còn bẻ bánh trao cho hai ông, nhờ vậy hai ông mới nhận ra Chúa và lòng hai ông đang buồn sầu thất vọng được sốt sắng lên và tràn đầy niềm vui (Cf Lc 24, 13-35)

Chúa Giêsu cho biết đón tiếp môn đệ cũng là đón tiếp chính Chúa và Chúa còn đẩy cao hơn tới mức tối đa là được đón tiếp Đấng sai Chúa Giêsu tức là  tiếp chính Chúa Cha.

Tuy nhiên việc đón tiếp cũng đòi chúng ta phải hi sinh, có thể là hi sinh về thời giờ, công sức và có khi tiền của nữa, nhưng thế nào cũng được Chúa thưởng: Chúa không để kẻ đón tiếp phải chịu thiệt thòi nhưng sẽ đền bù cho họ nhiều hơn điều họ mong đợi như trong bài đọc thứ nhất chúng ta nghe chuyện một bà sang trọng ở Sunam đón tiếp tiên tri Êlisê cách chân tình và trọng thị nên đã được tiên tri cầu xin Chúa cho điều bà mong mỏi nhất là có được đứa con trai. Chúa quả quyết: cho môn đệ Chúa một bát nước lã cũng được Chúa trả công xứng đáng. Chúa Giêsu đi qua nơi nào thì Chúa thi ân giáng phúc tới nơi đó; các môn đệ thay mặt Chúa cũng đem ơn phúc đến cho những người đón tiếp họ, đặc biệt là ơn bình an khi Chúa dạy tới nhà nào thì hãy chúc Bình an cho nhà đó!

Nếu ta tài hèn sức mọn không thể rao giảng, không thể lãnh đạo được nhưng ta có thể giúp các môn đệ Chúa được, có khi Chúa đồng hóa họ với những kẻ bé mọn thậm chí là các trẻ em nữa cho nên Chúa nói trong Tin Mừng hôm nay: “Kẻ nào đón tiếp một tiên tri với danh nghĩa là tiên tri, thì sẽ lãnh phần thưởng của tiên tri và kẻ nào đón tiếp người công chính với danh nghĩa người công chính, thì sẽ lãnh phần thưởng của người công chính”. Cha Hồ Thông giải thích đón tiếp tiên tri tức là nay khi chúng ta đón tiếp các linh mục, tu sĩ đi truyền giáo và đón tiếp người công chính là đón tiếp những giáo dân tham gia việc truyền giáo. Đón tiếp họ được Chúa ban phần thưởng ngang bằng với họ.

Đón tiếp các môn đệ Chúa trong thời buổi bình an có lẽ không khó lắm nhưng nếu đón tiếp trong thời kì Đạo Chúa bị bách hại cấm cách thì quả là hi sinh rất lớn! Thánh Anrê Kim Thông và bà thánh Inê Đê vì đón tiếp cho cha cố trú tại nhà mình nên đã bị vua quan bắt và cả hai đã được phúc tử đạo. Nhưng cũng nhờ đó mà Giáo hội Việt nam có thánh Anrê Kim Thông được chọn làm Bổn mạng Hội đồng Mục vụ và thánh Inê Đê hiện là vị thánh nữ duy nhất được phong thánh và nhiều nơi cũng nhận làm bổn mạng hội Bà Mẹ Công giáo.

Câu chuyện: Thánh Madalena Moranô: ngày 05/11/1994 Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II phong chân phước cho Madalena Moranô, một nữ tu dòng Đức Mẹ Phù hộ. Hồi còn nhỏ gia đình em gặp nạn lớn là chỉ trong một tháng cả cha và chị cả đều qua đời để lại mẹ và 4 đứa con. Khi đó Madalena mới có 8 tuổi, em an ủi mẹ: “Mẹ đừng khóc nữa, con sẽ giúp mẹ”. Rồi em đã ngồi vào bàn dệt tơ thay cho chị. Nhưng may mắn sau có một linh mục là anh họ của mẹ thấy hoàn cảnh như vậy đã giúp đỡ gia đình và trả học phí cho Madalena đi học, 10 năm sau Madalena tốt nghiệp và trở thành cô giáo đi dạy học có lương giúp mẹ và các em, hơn nữa trong suốt những năm dạy học, cô còn dành dụm được số tiền mua một mảnh vườn có đất trồng nho và trồng rau mà mẹ chị rất mong ước. Nhưng thật bất ngờ sau khi tặng vườn nho cho mẹ thì cô xin đi tu khi đó 30 tuổi. Mẹ cô rất tiếc nuối nhưng vẫn phải gạt nước mắt để con đi theo Ơn gọi của mình. Năm 1881, Sr được Nhà Dòng gởi tới đảo Sicilia lo việc giáo dục và đã đem lại nhiều kết quả cho các thanh thiếu nữ, các phụ nữ nghèo thuộc tầng lớp lao động. Sr mở trường học, nguyện xá, lưu xá và trường dạy nghề trên đảo này. Sr qua đời năm 61 tuổi sau 30 năm tu trì kết thúc cuộc đời làm sáng danh Chúa và giúp ích cho những người nghèo khổ.

Thánh Phanxicô Assidi đã nói lên cảm nghiệm của ngài: “chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh”. Mỗi người kitô hữu chúng ta đón nhận lời Chúa dạy có lòng hiếu khách không chỉ vì xã giao mà tin rằng đón tiếp các môn đệ của Chúa và cũng là đón tiếp chính Chúa nơi các người truyền giáo và nơi những anh em nghèo khổ, những người bị bỏ rơi như lời Chúa dạy: “Mỗi lần các con làm cho một trong những anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các con đã làm cho chính Ta (Mt 25,40)”. Amen

 

22.Chúa Nhật 13 Thường Niên--Lm. Gioan Phan Tiến Dũng

Hạnh phúc cho những ai khi sống tri ân và cảm tạ. Đây là sứ điệp của các bài đọc Lời Chúa. Bởi vì suy cho cùng, dù bất cứ ai, giàu-nghèo, địa vị cao sang-thấp hèn; tất cả những gì mà họ có và lãnh nhận được đều là ơn ban; do đó thật là hợp lý khi chúng ta sống đáp trả với tâm tình tri ân cảm tạ, biết quảng đại và chia sẻ những ơn ban này.

Bài đọc 1 từ sách các Vua cho thấy một người phụ nữ giàu có đã sống quảng đại với người của Thiên Chúa-Tiên tri Êlisê. Khi tiếp đón một người khách lạ, bà đã đi bàn bạc với chồng mình, để có những điều kiện đặc biệt nhất cho khách, sau đó bà đã không ngần ngại để dành cho Êlisê những điều kiện tốt nhất như phòng, giường, bàn, ghế…, điều mà đáng ra bà phải dùng cho chính mình hay cho thuê để lấy lợi tức. Điều tốt lành ở đây là bà đã ý thức và nhận ra rằng, vị khách này không làm việc cho lợi ích của bản thân, mà ông làm vì thánh ý Chúa, làm cho lợi ích của anh chị em. Đây là hành động của lòng biết ơn và tri ân đối với người của Thiên Chúa. Chính khi đón nhận được sự quảng đại của người phụ nữ này, Tiên tri cũng đã cầu xin ơn Chúa và đã hứa ban ơn Thánh cho bà, một người son sẻ chưa có con.

Bài đọc 2, Thánh Phaolo mời gọi chúng ta, hãy nhìn lại những hồng ân mà chúng ta đã lãnh nhận được để sống cảm tạ Chúa và sống trọn vẹn với ơn gọi của mình. Hồng ân mà chúng ta đã lãnh nhận là gì? Đó là Bí tích Thánh Tẩy-Bí tích sự sống. Đây là hồng ân được làm con cái của Thiên Chúa, hồng ân này là cửa ngõ-con đường mở ra để dẫn tới tất cả các ơn lành khác mà Chúa sẽ ban cho. Qua Bí tích Thánh tẩy, chúng ta được chia sẻ với Đức Kitô Giêsu sự sống, cái chết và Phục sinh của Ngài. Đức Kitô đã đón nhận tình yêu thương từ Chúa Cha, do đó, nên Ngài đã vâng phục hoàn toàn với Thánh ý Chúa Cha trong cuộc khổ nạn; đây là hành động tự hiến, hành động yêu thương. Cực hình và tử nạn không phải là hình phạt, nhưng là tâm tình cảm tạ tri ân, đáp đền với hành động của yêu thương. Đồng thời Chúa muốn trao ban những gì tốt nhất cho con người. Điều tốt nhất đó chính là ơn cứu độ, sự sống đích thực, tình yêu thương, sự tha thứ …và trên hết là ban ơn Chúa Thánh Thần cho chúng ta. Thật vậy, nhắc nhớ về hồng ân của Bí tích cao trọng này, để giúp chúng ta sống tri ân và cảm tạ.

Tin mừng hôm nay chính Chúa Giêsu mời gọi chúng ta nhìn lại về ơn gọi của chúng ta là gì? Chúng ta đang làm gì, làm cho ai và vì ai? Vì thông thường, ai trong chúng ta cũng sẽ làm mọi chuyện vì lo cho ích lợi của bản thân, của gia đình và những người thân yêu. Thế nhưng, Tin mừng hôm nay chính Chúa Giêsu mời gọi: những ai yêu cha mẹ, con cái và ngay cả yêu chính mạng sống của mình hơn Chúa thì không xứng đáng với Ngài. Như vậy, Chúa Giêsu muốn chúng ta trong tất cả mọi sự và trên hết; kính mến Chúa phải là vị trí ưu tiên số một và là hàng đầu. Tại sao lại như vậy, ai có thể làm được điều mà Chúa Giêsu muốn chăng? Xem ra điều Chúa mời gọi và dạy quá nghịch lý? Nhưng suy xét cho thấu đáo, chúng ta sẽ thấy đây là lời dạy đầy khôn ngoan và tình yêu thương mà Chúa dành cho chúng ta. Vì căn tính của tình yêu dành cho Chúa là ở chỗ này. Ai đón tiếp và làm cho một trong những kẻ bé mọn này vì danh Chúa, tức là chúng ta đã làm cho Chúa và dành tình yêu cho Chúa. Thật là đúng khi chúng ta làm mọi việc vì lòng mến Chúa thì chính Chúa sẽ ban ơn giúp sức; chính những lúc đó không phải chúng ta làm với sức của mình, nhưng Chúa ban ơn nâng đỡ và hành động qua chúng ta. Thánh Terexa HĐ. Giêsu là mẫu gương rất tuyệt vời cho chúng ta trong cách sống này. Vì trong bất cứ mọi công việc, hành động, hay suy nghĩ, Terexa luôn bắt đầu: “Lạy Chúa, con làm việc này vì yêu mến Chúa, và vì muốn cứu rỗi các linh hồn”.

Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu, nguồn mạch của tình yêu, xin ban cho chúng con sức mạnh của tình yêu Chúa, để trong mọi sự chúng con luôn biết chọn Chúa, sống tín thác cho Chúa qua tha nhân với tâm tình cảm mến-tri ân. Nhờ đó mà chúng con trở nên những người được Chúa chúc phúc. Amen.

 

23.Chúa Nhật 13 Thường Niên--Lm. Inhaxio Hồ Thông

Chủ đề Chúa Nhật XIII Thường Niên năm A này có thể được gọi là “sự đón tiếp” hay “lòng hiếu khách”. Đây là chủ đề được bàn đến trong bản văn Cựu Ước, cũng như trong bản văn Tin Mừng.

2V 4: 8-11, 14-16

Bài Đọc I, được trích từ sách Các Vua quyển hai, thuật lại một người phụ nữ ngoại giáo xứ Su-nêm đã đón tiếp ngôn sứ Ê-li-sa, người của Thiên Chúa, một cách vô vị lợi vào thế kỷ IX tCn.

Rm 6: 3-4, 8-11

Từ Chúa Nhật XIII này cho đến Chúa Nhật XXIV Thường Niên năm A, chúng ta đọc thư của thánh Phao-lô gửi tín hữu Rô-ma. Bản văn hôm nay mời gọi chúng ta suy gẫm về bí tích Thánh Tẩy.

Mt 10: 37-42

Tin Mừng Mát-thêu hôm nay được trích từ diễn từ của Đức Giê-su về “sứ mạng truyền giáo”, trong đó Đức Giê-su khuyên các môn đệ từ bỏ chính mình và mời gọi các cộng đồng Ki-tô hữu tiếp đón họ như chính Ngài: “Ai đón tiếp anh em, là đón tiếp Thầy”.

BÀI ĐỌC I (2V 4: 8-11, 14-16)

Hai sách “Các Vua” tường thuật lịch sử mười chín vua Ít-ra-en và hai mươi vua Giu-đa. Trong toàn bộ Cựu Ước, hai tác phẩm này được minh họa bằng một số lượng lớn những chuyện truyền kỳ ý nhị, ly kỳ, về những ngôn sứ có đời sống tôn giáo rất tinh tế.

1. Những chuyện truyền kỳ về các ngôn sứ trong hai sách Các Vua

Các ngôn sứ chiếm một vị thế đáng kể ở trong hai tác phẩm này. Về lãnh vực “chính trị”, họ là những người gây dựng và phá đổ các vua; về lãnh vực “tôn giáo”, họ là những người bảo vệ lòng trung tín đối với Đức Chúa, Thiên Chúa của dân Ít-ra-en; về lãnh vực “thần thông”, họ có quyền phép thực hiện những điềm thiêng dấu lạ. Ba ngôn sứ vĩ đại trổi vượt trên tất cả các ngôn sứ khác: Ê-li-a, Ê-li-sa vào thế kỷ IX, và I-sai-a vào thế kỷ VIII tCn.

Ngôn sứ Ê-li-sa vốn là một điền chủ giàu có, được ngôn sứ Ê-li-a kêu gọi trở thành môn đệ truyền chân của mình. Không một chút ngần ngại, ông đã từ bỏ tất cả mà theo thầy. Từ đó, ông trở thành người bạn đồng hành trung thành và kế nghiệp thầy sau khi thầy biến mất một cách mầu nhiệm. Như ngôn sứ Ê-li-a, ngôn sứ Ê-li-sa thi hành sứ vụ của mình trong vương quốc miền Bắc, chủ yếu dưới triều đại vua Giô-ram (852-841 tCn).

Tập truyện về ngôn sứ Ê-li-sa thì đầy dẫy những kỳ tích chẳng kém gì tập truyện của ngôn sứ Ê-li-a. Chắc hẳn các môn đệ của vị ngôn sứ này, vì muốn độc giả thấy rằng thầy mình chẳng thua kém vị tiền nhiệm của thầy nên đã gán cho ông những kỳ tích tương tự, thậm chí giống y như những kỳ tích của ngôn sứ Ê-li-a. Chẳng hạn như ngôn sứ Ê-li-sa thực hiện phép lạ khi làm cho bình dầu của một bà góa không hề vơi (2V 4: 1-7) có thể sánh ví với phép lạ mà ngôn sứ Ê-li-a đã làm cho bà góa xứ Xa-rếp-ta. Phép lạ này mở đầu cho câu chuyện về lòng hiếu khách của một người phụ nữ xứ Su-nêm được trích dẫn hôm nay.

2. Lòng hiếu khách của người phụ nữ xứ Su-nêm

Su-nêm là một thành phố nhỏ bé miền Ga-li-lê, gần thành Na-im, dưới chân núi Hê-môn. Vào thời Cựu Ước có nhiều người Su-nêm sinh sống ở đây. Người phụ nữ Su-nêm nổi tiếng nhất là vị hôn thê của sách Diễm Tình Ca. Đó cũng là người phụ nữ xứ Su-nêm của sách Các Vua quyển hai này. Bản văn nói với chúng ta rằng bà “thuộc giới thượng lưu”, nghĩa là “một mệnh phụ”.

Lòng hiếu khách vốn là tập quán của các dân tộc thời xưa. Việc tiếp đãi khách vừa tự phát vừa quảng đại. Cựu Ước cung cấp cho chúng ta nhiều mẫu gương về lòng hiếu khách này. Tuy nhiên, lòng hiếu khách của người phụ nữ xứ Su-nêm này không là chuyện thường tình. Người khách mà bà tiếp đón tận tình trong nhà mình, không chỉ là một khách qua đường nhưng còn là “một người của Thiên Chúa”, nghĩa là một ngôn sứ. Bà bảo xây cho vị ngôn sứ một phòng nhỏ trên sân thượng, là nơi hảo hạng ở đó vị ngôn sứ có thể ẩn mình hay nghỉ qua đêm vào những lúc khí trời nóng nực.

3. Lòng hiếu khách được đền đáp

Ngôn sứ Ê-li-sa muốn đền đáp sự tiếp đón thịnh tình của bà bằng một cử chỉ biết ơn. Ông cho mời bà Su-nêm đến. Bà đến đứng ngoài cửa. Lúc đó vị sứ giả của Thiên Chúa cho bà một lời hứa mà chỉ có sứ giả của Thiên Chúa mới có thể thực hiện được bởi vì vào lúc đó bà không thể sinh con, còn chồng bà đã cao niên: “Sang năm, cũng vào thời kỳ này, bà sẽ có cháu trai bồng”. Chuyện tích này được điểm tô với những hồi ức của sách Sáng Thế, trong đó sứ thần Đức Chúa đã ban cho bà Sa-ra cùng một lời hứa như vậy (x. St 18: 10).

Phần cuối câu chuyện không trích dẫn cho chúng ta trong bản văn hôm nay. Con trẻ chết bất đắc kỳ tử. Ngôn sứ Ê-li-sa phục sinh cậu như ngôn sứ Ê-li-a đã phục sinh con trai bà góa xứ Xa-rếp-ta. Hai chuyện tích này xem ra như bộ đôi, nằm giữa truyền thuyết và lịch sử. Người kể chuyện đã muốn nhấn mạnh rằng việc tiếp đón vô vị lợi và nhân ái có một tầm quan trọng dưới thánh nhan Thiên Chúa. Tin Mừng hôm nay trở lại chủ đề này về tấm lòng quảng đại của Thiên Chúa đối với những ai thực hành lòng hiếu khách này.

BÀI ĐỌC II (Rm 6: 3-4, 8-11)

Thư gửi tín hữu Rô-ma này được viết từ Cô-rin-tô vào mùa đông năm 57-58 trong đó thánh Phao-lô trình bày một tổng thể đạo lý rộng lớn mà thánh nhân nhắc lại trong các thư của mình. Trong đoạn trích thư hôm nay, thánh Phao-lô trình bày thần học về bí tích Thánh Tẩy cách hùng hồn sống động. Thần học này phù hợp với thần học mà chính Đức Giê-su ngỏ lời với ông Ni-cô-đê-mô: “Thật tôi bảo thật ông: không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không được sinh ra bởi nước và Thần Khí” (Ga 3: 5).

Những gì thánh Phao-lô khai triển ở đây dựa vào nghi thức Thánh Tẩy được cử hành trong Giáo Hội tiên khởi: nhận chìm mình trong nước. Dự tòng bước xuống nhận chìm vào bể nước Thánh Tẩy và khi người ấy bước lên khỏi nước, người ta mặc cho người ấy một chiếc áo trắng tinh tuyền, dấu chỉ của sự biến đổi thành một con người mới. Đây là chiều kích biểu tượng đầu tiên về bể nước thánh tẩy và ơn thánh hóa. Chính thánh Phao-lô đã gợi lên điều này nhiều lần như khi thánh nhân viết cho tín hữu Cô-rin-tô: “Anh em đã được tẩy rửa, được thánh hóa, được nên công chính nhờ danh Chúa Giê-su Ki-tô và nhờ Thần Khí của Thiên Chúa chúng ta!” (1Cr 6: 11), và như khi thánh nhân viết cho tín hữu Ê-phê-xô: “Đức Ki-tô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh; như vậy, Người thánh hóa và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước và lời hằng sống” (Ep 5: 25-26).

Nhưng trong thư gửi tín hữu Rô-ma, thánh nhân diễn tả nghi thức Thánh Tẩy thành biểu tượng của sự chết và cuộc tái sinh, thậm chí cả cuộc phục sinh, biểu tượng này liên kết cách biểu cảm hơn giá trị thánh hóa của bí tích Thánh Tẩy với cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Ki-tô.

1. Biểu tượng của cái chết

Bể nước Thánh Tẩy được sánh ví với ngôi mộ trong đó người chịu phép Thánh Tẩy như được mai táng: “Khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để nên một với Đức Ki-tô, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người. Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người”.

Cái chết của Đức Ki-tô là “chết đối với tội”. Khi chấp nhận cái chết thể lý, Đức Ki-tô làm cho mình trở nên liên đới với nhân loại tội lỗi. Người chịu phép Thánh Tẩy, bằng cách tái hiện cái chết này một cách mầu nhiệm, cũng chết vì tội lỗi, vì thế nên một với Đức Ki-tô người ấy có thể chiến thắng sự dữ.

2. Biểu tượng của sự sống

Vì thế, việc trồi lên khỏi nước có thể được sánh ví với cuộc tái sinh, khai mở một cuộc sống mới, theo sát nghĩa: một cuộc hành trình vào một đời sống mới. Sức mạnh đầy năng động của Chúa Thánh Thần mà dự tòng lãnh nhận ở bí tích Thánh Tẩy được gợi ý cách mặc nhiên.

Ngoài ra, người ấy được nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô, đó là bảo chứng cho cuộc phục sinh: “Cũng như Đức Ki-tô đã chỗi dậy từ cõi chết do quyền năng vinh hiển của Chúa Cha… Chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người”. Thánh Phao-lô cũng sẽ viết cho tín hữu Cô-lô-xê theo cùng những từ ngữ như vậy, khi thánh nhân bị giam cầm ở Rô-ma: “Anh em đã cùng được mai táng với Đức Ki-tô khi chịu phép rửa, lại cùng được chỗi dậy với Người, vì tin vào quyền năng của Thiên Chúa, Đấng làm cho Người chỗi dậy từ cõi chết” (Cl 2: 12). Như vậy, ngay từ bây giờ chứ không phải đợi đến cuộc sống mai hậu, nếu chúng ta chết đối với tội, Đức Ki-tô cho chúng ta được sống bằng sự sống của Ngài.

TIN MỪNG (Mt 10: 37-42)

Thánh Mát-thêu đã tập hợp những lời dạy của Đức Giê-su thành năm bài diễn từ: diễn từ trên núi, cũng được gọi “Hiến Chương Nước Trời” (bắt đầu với các mối phúc thật); diễn từ về sứ vụ truyền giáo; diễn từ về các dụ ngôn; diễn từ về Giáo Hội; và diễn từ về thời cánh chung. Diễn từ về “sứ vụ truyền giáo” hình thành nên một đơn vị rất rõ nét: Đức Giê-su vừa mới chọn nhóm Mười Hai và trình bày cho họ những gì Ngài chờ đợi từ họ. Vào Chúa Nhật XIII năm A này, Tin Mừng chỉ trích dẫn những huấn thị sau cùng.

1. Người Tông Đồ và sự từ bỏ

Đức Giê-su đòi hỏi các Tông Đồ phải từ bỏ cách triệt để. Đây là lời mời gọi theo Đức Giê-su không một chút do dự, không lưu luyến quá khứ, yêu mến Ngài vô giới hạn, trên cả những mối tình thâm ruột thịt. Rồi, dưới Giao Ước Cũ, chi tộc Lê-vi, được thánh hiến để phụng sự Đức Chúa, bị đòi hỏi phải từ bỏ tương tự. Lê-vi là “người đã nói về cha mẹ nó: ‘Tôi không nhìn thấy họ’, anh em nó, nó không nhìn nhận, con cái nó, nó không biết” (Đnl 33: 9).

Chính Đức Giê-su đã cho một mẫu gương, Ngài đã rời bỏ gia đình mình, bà con thân thuộc mình, nghề nghiệp mình mà ra đi thi hành sứ vụ mình bằng việc tận hiến cho tha nhân. Khi những thân nhân của Ngài tìm cách ngăn trở sứ vụ của Ngài, Đức Giê-su trả lời: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?”. Rồi Người giơ tay chỉ các môn đệ và nói: “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Vì phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi” (Mt 12: 49-50; Mc 3: 31-35; Lc 8: 19-21).

Các Tông Đồ đã hiểu những đòi hỏi này khi Ngài cất tiếng gọi họ: “Hãy theo tôi”. Hai anh em ông Phê-rô và An-rê đã để lại thuyền và lưới mà đi theo Ngài. Hai anh em ông Gioan và Gia-cô-bê cũng đã làm như vậy, thậm chí cả cha già của mình nữa. Ông Mát-thêu, viên chức thu thuế, đã không một chút do dự từ bỏ nghề nghiệp béo bở hái ra tiền cũng như gia đình cùng bạn bè mà theo Ngài.

2. Người môn đệ và sự đau khổ

Huấn lệnh khắc nghiệt này: “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không đáng làm môn đệ Thầy”, được ngỏ lời không chỉ với những người ưu tuyển mà còn với hết mọi người. Quả thật, thánh Mác-cô viết: “Rồi Đức Giê-su gọi đám đông cùng với các môn đệ lại. Người nói với họ rằng: ‘Ai muốn theo tôi phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo’” (Mc 8: 34), còn thánh Lu-ca thì lại viết: “Rồi Đức Giê-su nói với mọi người….” (Lc 9: 23-24 và 14: 26-27).

Qua hình ảnh “thập giá”, Đức Giê-su báo trước nỗi đau khổ đang chờ đợi những ai muốn là môn đệ của Ngài. Đức Giê-su không tìm cách làm nhẹ đi lời nói của Ngài. Ngài đã loan báo rồi những bách hại sẽ giáng xuống trên họ (Mt 10: 17-25). Tình yêu mà Ngài đòi hỏi ở nơi họ là phải đi cho đến mức liều mất mạng sống mình vì Ngài. Sau lời loan báo đầu tiên về cuộc Khổ Nạn của Ngài, Đức Giê-su sẽ lập lại những đòi hỏi căn bản này: vác lấy thập giá mình mà theo Ngài, đừng cố cứu mạng sống mình, nhưng liều mất mạng sống mình vì Ngài để gặp thấy sự sống đích thật (Mt 16: 24-26 và Mc 8: 34-35; Lc 17: 33 và Ga 12: 25). Trong Tin Mừng Gioan, Đức Giê-su còn nói rõ hơn: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12: 25).

3. Cộng đoàn và sự đón tiếp

Bù lại, những ai dám từ bỏ cách anh dũng như vậy, cộng đoàn Ki-tô hữu phải niềm nở đón tiếp họ và thấy ở nơi họ chính Đức Ki-tô và “Đấng đã sai Ngài”. Như vậy, sau khi đã phác họa một bức tranh nhiều gam màu khổ đau, Đức Giê-su lại đặt niềm tin tưởng vào các môn đệ Ngài: Ngài đồng hóa các ông với Ngài, Ngài cho các ông được liên đới với sự hiện diện của Thiên Chúa mà các ông sẽ là dấu chỉ. Đối với những ai đã từ bỏ gia đình xác thịt, Ngài hứa một gia đình thiêng liêng.

“Ai đón tiếp một ngôn sứ, vì người ấy là ngôn sứ, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ; ai đón tiếp một người công chính, vì người ấy là người công chính, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc công chính”. Hai thuật ngữ: “ngôn sứ” và “người công chính”, được mượn ở Cựu Ước, ở trong bản văn Tin Mừng này xem ra thuật ngữ ngôn sứ chỉ ra các nhà truyền giáo và thuật ngữ người công chính chỉ ra các tín hữu.

“Ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ là một chén nước lã mà thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu”. “Những kẻ bé nhỏ” mà Chúa Giê-su muốn nói trước hết chính là các Tông Đồ, họ thuộc về những kẻ bé mọn mà những mặc khải về Nước Trời đã được hứa ban cho họ: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã dấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn” (Mt 11: 25). Tuy nhiên, thuật ngữ này có một ngữ nghĩa rộng lớn hơn. Thánh Mác-cô và thánh Lu-ca tường thuật rằng vào lúc đó Đức Giê-su đem một em nhỏ đặt bên cạnh mình và nói với các ông: “Ai tiếp đón em nhỏ này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy là tiếp đón chính Đấng đã sai Thầy. Thật vậy, ai là người nhỏ nhất trong tất cả anh em, thì kẻ ấy là người lớn nhất” (Lc 9: 48; Mc 9: 36-37).

 

24.Đòi hỏi của Tin Mừng--Lm. Giuse Phạm Thanh Minh

“Ai không vác thập giá, thì không xứng với Thầy. Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy”

I. Ngữ cảnh Phụng vụ Lời Chúa

Cộng đoàn chúng ta đang suy niệm bài diễn từ về Truyền giáo của Tin Mừng Matthêu nói đến vấn đề “Ra đi loan báo Tin Mừng” (Mt 10, 5-42). Sau khi tuyển chọn 12 Tông đồ, Đức Giêsu đào tạo rồi sai các ngài đi. Nhưng trước khi đi, Người dạy một số điều: các ngài ra đi phải nói những gì, và nhất là phải sống làm sao. Những cuộc bách hại sẽ đến, nhưng đừng sợ, và hơn nữa, phải chấp nhận những khó khăn đến từ nhiều phía, ngay cả trong gia đình.

Bài Tin Mừng trong thánh lễ hôm nay (Mt 10, 37-42) là phần cuối của bài giảng về sứ mạng Tông đồ. Chúa Giêsu thẳng thắn cho biết những đòi hỏi khó khăn của Tin Mừng. Do đó, người môn đệ phải từ bỏ mình vác thập giá đi theo Chúa và ai tiếp đón người môn đệ là tiếp đón Chúa.

1. Người môn đệ phải ưu tiên chọn lựa Đức Giêsu (10, 37-39)

Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy hệ quả của bước đường đi theo Chúa. Theo Chúa người môn đệ phải chấp nhận thua thiệt: họ có thể bị chống đối từ ngoài xã hội đến trong gia đình, và một cách nào đó, Chúa Giêsu cũng bị xem là nguyên cớ của các tranh chấp chống đối. Người nhận xét rằng người ta sẽ không đồng ý với nhau về Ngài: Kẻ theo, người chống, sẽ có những bất hòa, đoạn tuyệt, những đấu tranh khắp nơi trên thế giới và ngay cả bên trong các gia đình, vì Ngài và giáo huấn của Ngài.

Thật thế, làm sao không có đối nghịch giữa ánh sáng và bóng tối, giữa Chúa Giêsu và thế gian, giữa quyền lực Thiên Chúa và quyền lực thế gian. Bước theo Chúa người môn đệ phải đích thân chọn lựa, và phải đặt tình yêu Chúa Kitô trên ngay cả những liên hệ, những tình cảm thân thiết nhất, trên mọi liên quan gia đình, trên chính mạng sống mình nữa: “Ai yêu cha hay yêu mẹ hơn Thầy thì không xứng với Thầy... Ai giữ lấy mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm thấy được”.

Ở đây, Chúa Giêsu không có ý dạy sự bất hiếu, bất kính với cha mẹ trong gia đình. Người chỉ muốn nói rằng đứng trước ý muốn của Thiên Chúa, công việc của Thiên Chúa, bản thân Ngài, mọi giá trị khác và mọi người khác đều phải xuống hàng thứ yếu.

Khi chọn lựa như vậy, người môn đệ không tránh khỏi những mất mát, thua thiệt: “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy thì không xứng đáng với Thầy”.

Đây phải hiểu là sự xứng đáng hiện sinh. Ai không đoạn tuyệt với những liên hệ thân thương nhất để đi theo Chúa Giêsu thì đã tự làm cho mình nên bất xứng với Người.

2. Tiếp đón các Tông đồ là đón tiếp Đức Giêsu

Tuy nhiên, Thiên Chúa sẽ không để những môn đệ phải thất vọng. Chính Chúa Giêsu, kết thúc bài giảng thừa sai bằng một lời hứa khác thường cho những kẻ được sai đi cũng như những kẻ đón tiếp họ: “Ai đón tiếp một tiên tri sẽ nhận được phần thưởng dành cho một tiên tri; ai đón tiếp người công chính sẽ nhận được phần thưởng dành cho người công chính; ai đón tiếp kẻ rao giảng sẽ nhận được phần thưởng cho kẻ rao giảng”.

Ở đây, Chúa Giêsu đã dùng từ “ngôn sứ” và “người công chính” để ám chỉ các Tông đồ. Như vậy, các Tông đồ được coi là ngang hàng với các ngôn sứ và các người công chính thời Cựu ước.

Vì thế, tiếp đón các Tông đồ được coi như là tiếp đón Đức Giêsu, và đón tiếp Đức Giêsu thì cũng như tiếp đón chính Thiên Chúa, Đấng đã sai phái Đức Giêsu. Mười hai Tông đồ là những sứ giả của Đức Giêsu, còn Đức Giêsu thì được Thiên Chúa cử đi. Nguồn mạch tối hậu của mọi sứ vụ là chính Thiên Chúa, Đấng đồng thời là chủ mùa gặt, và là Đấng sai phái các thợ gặt.

Mặc dù, ra đi loan báo Tin Mừng, các môn đệ phải chấp nhận đời sống truyền giáo trong nếp sống nghèo khó và khiêm tốn, nhưng Đức Giêsu đã đồng hóa mình với họ, vì qua họ, Người đến với loài người và nói với loài người. Từ nay họ thực sự là người của Thiên Chúa. Ai đón nhận họ tức là đón nhận chính Đức Kitô. Cả phần thưởng cho việc đón tiếp cũng dựa trên sự liên kết ấy giữa các cuộc sai phái.

Người môn đệ đã vì Người mà chấp nhận những rạn nứt và thập giá thì cũng được đồng hóa với người trong ân thưởng.

II. Người Kitô hữu sống gắn bó với Đức Kitô

Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta được lắng nghe tiếng Chúa hôm nay, nhớ lại hồng ân Chúa đã ban cho và đồng thời, vừa ý thức được trách nhiệm Chúa đòi hỏi mỗi người chúng ta, để mỗi ngày chúng ta được trở nên giống như Chúa nhiều hơn.

Xin Chúa ban cho chúng ta tình thương, cho chúng ta được biết đặt Chúa trên hết mọi sự, trên hết mọi người và cho chúng ta được càng ngày càng yêu mến Chúa nhiều hơn, để chúng ta được đồng hóa với Chúa: “Ai đón tiếp chúng con là đón tiếp Thầy và kẻ nào đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy”. Tất cả mỗi người chúng ta là con đường để giúp anh chị em đến với Chúa Giêsu Kitô và đến với Thiên Chúa.

Lạy Chúa, xin giúp chúng con hiểu thế nào là tình yêu tận hiến của Ngài, để luôn biết sống quảng đại dấn thân cứu sống anh em mình mà không sợ hy sinh hay hiểm nguy. Xin Chúa Thánh Thể bổ sức cho chúng con.

 

25.Hiếu khách và thương người--Lm. Anthony Đinh Minh Tiên, OP

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hiếu khách và thương người

Trong các quốc gia vùng Cận Đông, khi một khách lỡ đường hay từ xa đến viếng thăm, chủ nhà phải tiếp đón họ cách niềm nở, chu đáo, và chân thành. Ngày nay, nhiều người bị chủ nghĩa cá nhân và tính ích kỷ thống trị, nên họ rất miễn cưỡng tiếp khách, và không kiên nhẫn đủ để chờ khách ra đi. Nhiều người đá chó, mắng mèo, chửi con để đuổi khách về sớm. Có người đặt câu hỏi: Hiếu khách như nào là đủ? Việt-nam có câu tục ngữ có thể làm chỉ nam trong việc tiếp khách: “Thương người như thể thương thân.” Nếu ta muốn được đối xử như nào khi đến nhà người khác, hãy đi bước trước và đối xử với người khác như vậy. Hơn nữa, khi một người rộng lượng cho đi, họ sẽ được Thiên Chúa bù đắp gấp trăm. Nhiều tác giả trong Tân Ước vẫn căn dặn các tín hữu phải tập luyện và thi hành đức tính này (Rom 12:13; 1 Tim 5:10; Heb 13:2; 1 Pet 4:9).

Các bài đọc hôm nay cho chúng ta thấy những ví dụ của việc hiếu khách và những đền đáp cụ thể. Trong bài đọc I, người phụ nữ thành Shunamite rộng lượng tiếp đón ngôn sứ Elisha, dù chẳng biết ông là ai. Bà không chỉ dọn bữa, nhưng còn sửa dọn một phòng với đầy đủ vật dụng cần thiết cho ngôn sứ khi ông đi ngang qua. Cảm kích vì lòng hiếu khách của Bà, ngôn sứ đã dùng uy quyền của Thiên Chúa để cho Bà có một người con trai trong lúc tuổi già. Trong bài đọc II, vì Đức Kitô đã đối xử với chúng ta như một thượng khách, chúng ta cũng phải đáp lại bằng cách giũ sạch các thói hư tật xấu trong cái chết của Ngài, để rồi cùng được sống lại với Ngài trong vinh quang. Trong Phúc Âm, Đức Kitô đòi người môn đệ của Ngài phải hy sinh, từ bỏ, và vác Thập Giá theo Ngài; đồng thời phải luôn biết mở rộng tâm hồn để tiếp đón và giúp đỡ tất cả những ai cần đến, vì tất cả những gì một người làm cho tha nhân là anh làm cho chính Ngài (Mt 25).

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: “Vào thời kỳ này, vào độ này sang năm, bà sẽ được bế con trai.”

1.1/ Tinh thần hiếu khách của người phụ nữ Shunamite: Như đã nói trong phần nhập đề, tinh thần hiếu khách là một điểm son của các quốc gia vùng Cận Đông. Điều này được ghi nhận nhiều lần trong Cựu Ước: Abraham tiếp đón 3 người khách tại Mamre (Gen 18:1-13); ông Lot tiếp đón hai sứ thần của Thiên Chúa tại Sodom (Gen 19:1-11); người phụ nữ tiếp ngôn sứ Elijah (1 Kgs 17:1-15). Trong Tân Ước, chính Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh người bạn phải kiên nhẫn phiền hà hàng xóm ban đêm để xin bánh dù bị từ chối ban đầu, để dẫn chứng việc phải kiên nhẫn cầu nguyện (Lk 11:5-8). Một trong những lý do con người phải hiếu khách là có thể họ đang tiếp đón những sứ giả của Thiên Chúa gởi đến mà họ không biết (Heb 13:2). Hơn nữa, nếu một tín hữu đọc những lời của Chúa Giêsu trong Matthew 25, họ phải hiếu khách vì đây là tiêu chuẩn Thiên Chúa dùng để phán xét con người.

Người phụ nữ thành Shunamite là một người giàu có. Bà không chỉ dọn bữa cho ngôn sứ cho Elisha mỗi khi ông đi qua Shunamite; nhưng còn dọn riêng cho ông một căn phòng để ở. Bà nói với chồng: “Này ông! Tôi biết người thường ghé vào nhà chúng ta là một thánh nhân của Thiên Chúa. Mình phải làm cho ông một căn phòng nhỏ trên lầu có tường có vách, rồi kê ở đó một cái giường, đặt bàn ghế và để một cái đèn cho ông dùng. Như thế, khi nào đến nhà mình, ông sẽ lui vào đó.”

1.2/ Tinh thần hiếu khách của Bà được đền bù xứng đáng: Cảm kích về sự hiếu khách của Bà, ngôn sứ Elisha đã dùng quyền Thiên Chúa để ban cho Bà một người con trai trong khi cả hai vợ chồng Bà đều đã cao niên. Ông Elisha loan tin vui cho Bà: “Vào thời kỳ này, vào độ này sang năm, bà sẽ được bế con trai.” Điều này không lạ lắm nếu một người tin Thiên Chúa vẫn đang quan phòng mọi sự trong trời đất, và Ngài có uy quyền làm được mọi sự.

2/ Bài đọc II: Anh em hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa, trong Đức Giêsu Kitô.

2.1/ Ý nghĩa của bí-tích Rửa Tội: Theo thánh Phaolô, bí tích Rửa Tội có tác động chính: Khi một người được dìm mình trong nước là họ được cùng mai táng với Đức Kitô; và khi họ trồi lên khỏi mặt nước là họ được cùng sống lại với Ngài. Ngài cũng cắt nghĩa thêm về hai tác động này: Khi dìm mình xuống nước là các tín hữu lột bỏ con người cũ với đầy những tội lỗi và đam mê xấu xa; khi trồi lên là các tín hữu mặc lấy Đức Kitô với sự thánh thiện và tràn đầy ơn thánh của Người.

Vì Đức Kitô đã hy sinh chịu chết để thánh hóa chúng ta, chúng ta cũng phải chết với Người. Chết đây không phải là cái chết thể lý; nhưng là chết cho tội lỗi và mọi tính hư nết xấu trong người. Hơn nữa, không phải chỉ chừa tội, người tín hữu còn phải tập sống nhân đức; nếu không, các tội xưa lại tái phát, và người tín hữu lại dần dần trở lại nếp sống khi chưa được Rửa Tội.

2.2/ Người tín hữu phải biết đáp trả tình yêu hy hiến của Đức Kitô: Đã nhận ơn là phải biết đền ơn. Người tín hữu không chỉ nhận ơn nhưng là ơn cứu tử để được sống muôn đời; vì thế, người tín hữu không thể để sự hy sinh xương máu của Đức Kitô dành cho họ ra vô hiệu. Trái lại, họ phải cố gắng luyện tập nhân đức để càng ngày họ càng trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài.

Trong tiến trình trở nên thánh thiện, người tín hữu không làm việc một mình vì họ đã được Đức Kitô ban tặng Chúa Thánh Thần và 7 quà tặng của Ngài. Chúa Thánh Thần sẽ hướng dẫn họ để nhận ra sự thật, ban sức mạnh để vượt qua những yếu đuối xác thịt, và bảo vệ họ khỏi muôn điều nguy hại. Điều cần là họ phải cộng tác với Chúa Thánh Thần để mưu cầu ích lợi cho riêng họ và cho mọi người.

Vì thế, thánh Phaolô khuyên các tín hữu: “Anh em cũng vậy, hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa, trong Đức Giêsu Kitô.”

3/ Phúc Âm: Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy.

3.1/ Người môn đệ phải yêu mến Thiên Chúa hơn hết mọi người: Tại sao Thiên Chúa đòi con người phải yêu Ngài trên hết tất cả: cha mẹ, vợ chồng, con cái? Lý do đơn giản vì Ngài yêu thương chúng ta hơn hết tất cả những người đó. Thiên Chúa không những tạo dựng hồn xác và thế giới cho con người sinh sống, Ngài còn cho Con Một nhập thể để đền tội cho con người, để con người có thể sống hạnh phúc muôn đời bên Ngài. Thiên Chúa đã từng so sánh tình yêu trổi vượt của Ngài dành cho con người: Cho dù cha mẹ của ngươi có quên ngươi đi nữa, Ta cũng sẽ không quên ngươi (Isa 49:15). Rất nhiều người sau khi đã cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa đã phải thốt lên: Quả thật! Không ai yêu tôi bằng Thiên Chúa. Lịch sử Cựu Ước đầy dẫy những tấm gương con người dám hy sinh cha mẹ như ngôn sứ Elisha (1 Kgs 19:19-21); hy sinh con trai duy nhất như tổ phụ Abraham, bà mẹ của Samuel (Gen 22:1-9; 1 Sam 1:27-28); hy sinh con gái như thủ lãnh Jephthah (Judg 11:30-35).

Tình yêu chân thành đòi phải biểu tỏ ra bằng hành động, chứ không phải chỉ bằng lời nói yêu thương. Thánh Anrê Phú Yên, tuy còn trẻ, nhưng đã thấu hiểu tình yêu của Đức Kitô dành cho ngài; nên đã can đảm thốt lên những lời sau đây trước khi tử đạo: “Phải lấy tình yêu đáp trả lại tình yêu, và phải lấy mạng sống đáp trả lại mạng sống.” Có một sự nghịch lý trong cách sống theo tiêu chuẩn của Thiên Chúa và theo tiêu chuẩn của con người. Con người tìm bảo vệ mạng sống bằng bất cứ giá nào; trong khi Đức Kitô dạy: “Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được.” Và Ngài mặc khải cho chúng ta một ví dụ: “Amen! Amen! Thầy nói với anh em, nếu hạt giống rơi xuống đất không chết đi, nó chỉ trơ trọi một mình; nhưng nếu nó chết đi, nó sẽ trổ sinh nhiều hạt giống khác.” Vì thế, nếu một người chịu hy sinh chết cho mình để sống cho người khác, người đó mới thực sự sống và làm cho tha nhân được sống; ngược lại, nếu một người chỉ biết ích kỷ sống cho mình, họ sẽ bị cô đơn và cũng chẳng giúp cho ai được sống.

3.2/ Các Kitô hữu phải có tinh thần hiếu khách và thương người: Chúa Giêsu liệt kê 3 loại người mà các Kitô hữu phải đón nhận với tinh thần hiếu khách.

(1) Chúa Giêsu đồng hóa mình với người môn đệ: Động từ “dékomai” mang nhiều ý nghĩa khác nhau. Ý nghĩa căn bản là tiếp nhận hay đón nhận nếu là một đồ vật hay một sứ điệp. Nếu là một người, động từ có nghĩa đón tiếp một người với lòng hiếu khách. Đón tiếp một con người khác với tiếp nhận một món hàng, vì con người có nhân phẩm và phải được đối xử tương xứng với phẩm giá con người.

Chúa Giêsu mặc khải cho chúng ta một chân lý quan trọng: “Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy.” Người môn đệ là người được Đức Kitô sai đi cách chính thức. Theo cách thức ngoại giao, ai tiếp nhận người môn đệ hay sứ điệp của người môn đệ là tiếp nhận chính Đức Kitô; ngược lại, ai từ chối không tiếp nhận người môn đệ hay sứ điệp của người môn đệ là từ chối chính Đức Kitô. Chúa Giêsu đi xa hơn nữa: “và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy.” Đức Kitô được Thiên Chúa sai đi, và là người ngang hàng với Thiên Chúa; vì thế, ai tiếp nhận người môn đệ là tiếp nhận chính Thiên Chúa.

(2) Chúa Giêsu đồng hóa với ngôn sứ và người công chính: Nhiều người hỏi chúng tôi: Nếu con ủng hộ vào công việc cha đang làm, chúng con sẽ được hưởng những gì? Đây là câu trả lời từ Chúa Giêsu: “Ai đón tiếp một ngôn sứ, vì người ấy là ngôn sứ, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ; ai đón tiếp một người công chính, vì người ấy là người công chính, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc công chính.” Nói một cách cụ thể hơn, nếu người ngôn sứ cứu vớt được một linh hồn, người giúp cho ngôn sứ có phương tiện hoạt động cũng được hưởng phần thưởng của một linh hồn được cứu vớt.

(3) Chúa Giêsu đồng hóa với người nghèo: Sau cùng, Chúa Giêsu tóm gọn trong đức bác ái căn bản của Kitô Giáo: “Và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu.” Chúng ta không thể làm được gì cho Thiên Chúa vì Ngài đã có tất cả; nhưng Ngài kể tất cả những gì chúng ta làm cho anh/chị/em cần đến, là chúng ta làm cho chính Ngài. Trong chương 25 của Tin Mừng Matthew, Chúa Giêsu giải thích điều này cách rõ ràng nhất.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

 – Chúng ta hãy học tinh thần hiếu khách của người xưa để chào đón và lo mọi sự chu đáo cho tất cả những ai dừng chân ghé lại thăm nhà của chúng ta. Đừng để bất cứ một ai ghé thăm chúng ta một lần rồi không bao giờ trở lại nữa.

 – Đức Kitô đã chết cho chúng ta và Ngài đi trước để dọn chỗ cho chúng ta trong Nhà của Cha Ngài, rồi sẽ trở lại đón chúng ta để Ngài ở đâu chúng ta cũng ở đấy. Chúng ta hãy báo đáp công ơn của Ngài cách xứng đáng bằng cách sống thánh thiện và thương yêu mọi người.

 – Tất cả những gì chúng ta làm cho tha nhân, Thiên Chúa kể là làm cho chính Ngài. Chúng ta hãy mở rộng tâm hồn để giúp đỡ và hy sinh mọi sự cho tha nhân. Hãy làm tất cả với một tình yêu chân thành.

 

26.Liều mạng sống--‘Lương Thực Ngày Chủ Nhật’

Trong đoạn Phúc Âm này, chúng ta dừng lại câu: “Ai cố giữ sự sống mình sẽ bị mất, ai mất sự sống mình vì Ta, sẽ tìm thấy”. Các sách dậy khôn ngoan của Do Thái giáo vào thời Đức Kitô có chứa nhiều câu tương tự, nhưng Chúa thêm vào đó hai chữ mà đối với người Do Thái thật quá lẽ: “vì Ta”. Nói cách khác, Đức Kitô tự đặt mình làm giá trị tuyệt đối, xứng đáng cho người ta hy sinh mạng sống. Một cách điềm tĩnh, bằng những lời đơn giản và sáng sủa, Chúa Giêsu tự đặt làm mục đích đáng giá của đời sống. Người nào về Ngài, tức là quy hướng về Thiên Chúa. Theo ngôn ngữ thần học có thể nói, Chúa Giêsu ấn định sự đồng nhất giữa “quy hướng về Thiên Chúa” và “quy hướng về Chúa Kitô”. Có thể nói hơn nữa rằng: người Kitô hữu chỉ có thể chọn Thiên Chúa làm trung tâm cuộc sống của mình, nếu quyết định đặt Đức Kitô làm tâm điểm. Mất và tìm thấy ở đây có nghĩa gì?

1) Ai cố giữ sự sống mình sẽ bị mất. Tại sao? Sự sống ở đây là gì? Đó là sự sống của con người trong tình trạng tội lỗi đã phó mặc cho những khuynh hướng tự nhiên tách lìa khỏi Thiên Chúa, con người xa lìa suối nguồn tạo ra mình, làm cho mình nên có, ban sự sống cho mình. Con người mang trong mình một khuynh hướng ngược lại với sáng tạo và sự sống, nghĩa là quay về hư không và sự chết. Con người hướng dẫn đến đến chỗ đánh mất cả bản thể lẫn sự sống của mình. Nhưng con người không thể tự do sáng tạo nên bản thân. Vậy khi có theo những khuynh hướng của cuộc sống tách lìa khỏi Thiên Chúa có được hậu quả gì? Hậu quả là sự tàn phá các nối kết nội tâm đến độ sự đau khổ chính lại là ước ao vô vọng đạt đến một hư vô không thể đạt. Con người mất sự sống đáng lẽ mình được sống và không thể tiêu huỷ sự sống đang dày vò mình. Có lẽ ở đây phải nói đến chữ đáng sợ là hoả ngục. Dĩ nhiên những gì xảy ra trước đó nằm trong phạm vi một tự do hoàn toàn sáng suốt và những quyết định hoàn toàn hữu trách, nhưng hai điều kiện ấy mãi mãi là điều kiện của Thiên Chúa.

2) May thay Chúa cống hiến cho chúng ta một viễn ảnh tích cực. Ai mất sự sống mình vì Ta sẽ tìm thấy. Mất sự sống mình bắt đầu ở chỗ nào? Ở tác động tin vào Đức Kitô. Khi tự hiến lòng tin cho Đức Kitô, ta từ bỏ tiện nghi của những giới hạn thông thường của trí khôn, ta chấp nhận vượt quá, chịu lao mình và một khoảng trống trí thức. Nhưng trong khoảng trống ấy có ánh sáng hiểu biết chờ đợi chúng ta, tuy không phải là sự tỏ tường đối với trí khôn, nhưng vẫn là một gặp gỡ đối với “tấm lòng”, nghĩa là đối với khả năng cảm biết trong thâm sâu của bản thể chúng ta, nó giúp chúng ta có thể đón nhận Chân Lý vô biên. Đặt lòng tin vào Đức Kitô giả thiết là tự ý bỏ đi một số điều mà thánh Phaolô kể ra trong thơ gởi tín hữu Côlôsê: tính ích kỷ, tà dâm, tự phụ, kiêu ngạo, cuộc sống duy vật (Col 3,5-8). Mất sự sống mình vì Đức Kitô cũng có thể có nghĩa là các Kitô hữu thà từ bỏ của cải trần gian, còn hơn là chối bỏ Thiên Chúa, khi mà xã hội đối nghịch với Thiên Chúa ra tay bắt bớ họ. Việc ngày không phải chỉ xảy ra trong quá khứ, đó là một việc thời sự, một biến cố đương thời. Ngày nay có nhiều Kitô hữu chịu mất mát nhiều sự, có khi cả mạng sống mình, chứ không bỏ đức tin. Chúng ta chấp nhận “mất sự sống chúng ta” vì Đức Kitô ở điểm nào để tìm thấy sự sống ưu đẳng?

 

27.Yêu sách của tình yêu --‘Sống Tin Mừng’--Radio Veritas Asia

Tại đảo Sycilia, dân chúng còn truyền miệng nhau câu chuyện về một họa sĩ tài danh trong vùng sống cách đây vài trăm năm trước và là tác giả của bức họa nổi tiếng về cuộc đời Chúa Giêsu hiện được trưng tại nhà thờ chánh tòa trong vùng.

Sau thời gian làm việc, họa sĩ này đã vẽ xong dung mạo các tông đồ, nhưng còn hai dung mạo không vẽ được, đó là dung mạo của Chúa Giêsu và dung mạo của Giuđa người môn đệ phản Thầy.

Ông phải đình lại công việc để đi tìm người mẫu cho dung mạo của Chúa Giêsu. Sau nhiều tháng đi tìm, ông chọn được một thanh niên làm mẫu cho dung mạo của Chúa Giêsu. Vấn đề khó khăn cuối cùng là đi tìm người làm mẫu cho dung mạo Giuđa. Ông đã phải đi tìm rất nhiều năm mà không gặp, đến lúc gần cuối đời tưởng mình sẽ không thể nào hoàn thành bức tranh được nữa, ông buồn bã đi dạo trên đường phố quanh đó, thì bỗng gặp một người hành khất rách rưới với dung mạo đầy khổ đau mà cũng vừa gian ác. Cho đây là mẫu người lý tưởng cho dung mạo của Giuđa, ông mời người hành khất về nhà làm mẫu cho bức tranh còn dang dở.

Nhìn thấy bức tranh Chúa Giêsu và các môn đệ được trình bày trong phòng, người hành khất bỗng biến sắc và càng lúc càng trở nên bối rối hơn.

Người họa sĩ hỏi lý do tại sao?

Người hành khất trả lời:

- Thưa ông, chính tôi đây là người đã ngồi làm mẫu cho ông vẽ chân dung Chúa Giêsu trong bức tranh này cách đây vài chục năm về trước, và bây giờ cũng chính tôi là người làm mẫu cho ông vẽ chân dung của Giuđa, người phản bội Chúa. Thật tôi không ngờ là tôi đã trở nên tồi tệ như vậy.

Câu chuyện trên giúp chúng ta đi sâu hơn một chút vào ý nghĩa câu nói của Chúa Giêsu ghi lại nơi đoạn Phúc âm của Chúa nhật hôm nay: “Người nào đón tiếp chúng con là đón tiếp Thày, và người nào đón tiếp Thày là đón tiếp Đấng đã sai Thầy”.

Trên con đường trở về nhà Cha, đón tiếp Thiên Chúa và được Thiên Chúa đón tiếp, chúng ta cần đi qua một con đường duy nhất, đó là anh em, đó là mỗi người chúng ta cần trở nên giống Chúa Giêsu Kitô, trở nên một Chúa Giêsu Kitô khác, đến độ anh em có thể nhìn vào dung mạo tinh thần của chúng ta mà nhận ra sự hiện diện của Chúa Giêsu Kitô, để rồi từ đó mà lên gặp gỡ Thiên Chúa Cha, Đấng vô hình: “Người nào đón tiếp chúng con là đón tiếp Thầy”.

Kể từ giây phút Con Thiên Chúa Nhập Thể làm người để con người có thể nhìn được Thiên Chúa vô hình nơi dung mạo hữu hình của Chúa Giêsu Kitô: “Ai thấy Thầy là thấy Cha Thầy”. Kể từ giây phút đó con người chúng ta, mỗi người chúng ta cũng được ban cho quyền năng để trở nên giống như Chúa Giêsu Kitô, để trở nên dấu chỉ hướng dẫn anh em đến cùng Thiên Chúa Cha: “Ai đón tiếp chúng con là đón tiếp Thầy”. Và để chúng ta được trở nên một Chúa Giêsu khác, được giống như Chúa Giêsu thì dường như chỉ có một bí quyết duy nhất và bí quyết đó được Chúa Giêsu nhắc lại trong đoạn Phúc âm hôm nay, đó là tình yêu vô điều kiện. Đối với Chúa Giêsu, yêu mến Chúa trên hết mọi sự, trên hết mọi người, tình yêu sẽ làm cho hai người trở nên giống nhau.

Chúng ta hãy nhìn lại cuộc sống của mình, chúng ta đã được Chúa ban cho hồng ân để trở nên giống như Chúa từ ngày chúng ta lãnh nhận bí tích Rửa tội, như được thánh Phaolô đã nhắc lại trong bài đọc thứ hai hôm nay qua cách nói: “Chúng ta đã chịu phép rửa trong Đức Kitô, là chịu phép rửa trong sự chết với Người và cùng chịu mai táng với Người, để được thanh tẩy trong sự chết của Người và nhờ sức mạnh của Người, như Chúa Giêsu sống lại thế nào thì chúng ta cũng sẽ được sống lại như vậy”. Mỗi người chúng ta đã được đón nhận hồng ân trở nên giống như Chúa và hồng ân này cũng là trách nhiệm mỗi người chúng ta, mỗi người chúng ta cần phải thực hiện điều mà Chúa ban cho, là trở nên giống như Chúa. Hồng ân và trách nhiệm luôn đi đôi với nhau.

Thử hỏi tình yêu được Chúa đổ vào trong tâm hồn chúng ta hiện tại đã được phát triển như thế nào? Chúng ta có trở nên giống như Chúa hơn hay chúng ta đã phung phí tình yêu đó? Phung phí ân sủng Chúa ban cho để rồi chúng ta không còn thể hiện dung mạo của Chúa nữa mà thể hiện dung mạo của một người phản bội của Chúa, như dung mạo của Giuđa.

Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta được lắng nghe tiếng Chúa hôm nay, nhớ lại hồng ân Chúa đã ban cho và đồng thời vừa ý thức được trách nhiệm Chúa đòi hỏi mỗi người chúng ta, để mỗi ngày chúng ta được trở nên giống như Chúa nhiều hơn. Xin Chúa ban cho chúng ta tình thương, cho chúng ta được biết đặt Chúa trên hết mọi sự, trên hết mọi người và cho chúng ta được càng ngày càng yêu mến Chúa nhiều hơn, để chúng ta được đồng hóa với Chúa: "Ai đón tiếp chúng con là đón tiếp Thầy và kẻ nào đón tiếp Thầy là đón tiếp Ðấng đã sai Thầy". Tất cả chúng ta, mỗi người chúng ta là con đường để giúp anh chị em đến với Chúa Giêsu Kitô và đến với Thiên Chúa.

 

28.Làm được gì cho Chúa Giêsu chưa?--‘Niềm Vui Chia Sẻ’

Một buổi tối, vừa khi từ Marốc trở về, Charles de Foucauld say mê kể cho gia đình nghe những cuộc thám hiểm kỳ thú của anh qua những khu rừng Phi Châu.Người chăm chú theo dõi câu chuyện hơn cả là một cô cháu gái chưa đầy mười tuổi.

Khi anh vừa chấm dứt thì cô bé đã bất thần hỏi:

- Thưa cậu, cháu thấy cậu làm được nhiều việc lạ quá. Vậy cậu đã làm được gì cho Chúa Giêsu chưa?

Câu hỏi ấy như một luồng điện giựt, khiến anh bất động. Từ bao lâu nay, chưa ai đã khiến anh phải suy nghĩ nhiều như thế: “Anh đã làm được gì cho Chúa Giêsu chưa?”. Charles de Foucauld lục soát tâm hồn mình để chỉ thấy một lỗ hổng không đáy. Anh đã phí phạm tất cả thời giờ và tuổi thanh xuân cho những cuộc ăn chơi truỵ lạc và những danh vọng phù phiếm. Mắt anh bỗng mở ra để thấy được nỗi khốn khổ nghèo nàn của mình. Ngày hôm sau, anh tìm đến xưng tội với một vị linh mục. Sau đó anh từ bỏ tất cả, xin vào dòng khổ tu. Rồi ít lâu sau, anh lại xin đến Nagiarét để sống trọn vẹn cho Chúa Giêsu.

Một ngày nọ, giữa lúc đang đắm mình trong cầu nguyện, anh bỗng nghe từ căn nhà bên cạnh có tiếng rên của một người Hồi giáo. Nhớ đến gương bác ái của Chúa Giêsu, anh tự hỏi, anh có thể giam mình cầu nguyện giữa lúc có những người anh em đang rên rỉ trong đau thương, thất vọng được chăng? Thế là anh quyết định đến sống giữa họ, trở thành người anh em của họ, nhất là của nhưng người cô đơn, lạc lõng, nghèo hèn hơn cả.

Những năm cuối đời, Charles de Foucauld sống giữa sa mạc Sahara, chia sẻ hoàn toàn cuộc sống với những người cùng khổ. Và anh đã chia sẻ tới giọt máu cuối cùng của anh khi phát súng oan nghiệt của kẻ sát nhân bắn gục anh giữa lúc anh đang cầu nguyện vào đầu tháng 12 năm 1916. Ngày nay, các Tiểu đệ và Tiểu muội của Chúa Giêsu tiếp tục lý tưởng sống của anh. Các anh chị ấy sống giữa người ngheo nhất trong xã hội. Tất cả cuộc sống và sự hiện diện âm thầm của họ là một cố gắng làm một cái gì cho Chúa Giêsu.

Anh chị em thân mến,

Một Kitô hữu chân chính cũng đều phải tự hỏi: “Tôi đã làm được gì cho Chúa Giêsu chưa?”. Không phải là cho Chúa Giêsu mãi đâu trên trời, nhưng cho Chúa Giêsu đang tiếp tục đến, đang tiếp tục hiện diện trong cuộc đời tôi, trong tâm hồn tôi, nơi những người anh em tôi, cũng là anh em của Ngài, nhất là những ai thấp hèn, cùng khổ. Tôi tự hỏi, mà chính Chúa Giêsu cũng hỏi tôi mỗi ngày: “Con đã làm được gì cho những người anh em bé mọn nhất của Cha chưa?”. Bởi vì trong Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu đã nói: “Ai đón tiếp Đấng đã sai Thầy”… “Ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ là một chén nước lã mà thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu”.

Người Kitô hữu chúng ta thường đề cao việc đọc kinh, cầu nguyện, những việc làm cho Chúa mà coi những việc làm cho tha nhân, nhất là những việc nhỏ nhặt tầm thường, như cho anh em một ly nước lã, là những việc làm chẳng có ý nghĩa và giá trị nào. Nhưng đối với Chúa Giêsu thì không như vậy, đón tiếp một em nhỏ, cho người thấp kém trong xã hội dù chỉ một ly nước lã, cũng là một việc làm đáng được ân thưởng trên trời. Lý do giản dị là Chúa đã tự đồng hoá mình với những kẻ mọn hèn (x. Mt 25,40-45).

Thưa anh chị em,

Chúa Giêsu mời gọi chúng ta ân cần tiếp đón anh em. Tin Mừng nói đến Chúa Giêsu như một người khách mà người ta niềm nở đón tiếp hay là thờ ơ xua đuổi. Ngài đến cách riêng với những người bị loại trừ, những người tội lỗi, để có dịp kêu gọi họ trở lại, như tại nhà ông Matthêu (Mt 9,10-18) và ông Giakêu (Lc 19,5-10). Ngài đến với gia đình quen thân của hai chị em Matta và Maria (Lc 10,38-42), cung chỉ để nói lên một điều cần thiết là lắng nghe và thực thi Lời Chúa. ngài đến như một người khách lạ đến khuấy động lòng người, đặt lại mọi vấn đề. Vì thế, Thánh Gioan nói: “Ngài đến trong nhà Ngài mà các gia nhân Ngài đã không tiếp đón Ngài” (Ga 1,11). Vì thế chúng ta phải ân cần tiếp đón người anh em trong niềm tin, người hành khất đến gõ cửa, người hèn mọn không ai nghĩ tới, người lạc loài, không cửa không nhà, những người ấy chính là Ngài. Những người anh em ấy có thể là những người ở ngay đường phố, cùng chung cư, hàng xóm. Cũng có thể là những người trong gia đình, nhưng chúng ta đã cố tình quên họ trong cảnh sống cô đơn, goá bụa, già cả cua họ… Tiếp đón họ là tiếp đón Chúa.

Câu chuyện người thiếu phụ ở Sunêm được kể lại trong bài đọc thứ nhất là một mẫu gương tiếp đón niềm nở, vô vụ lợi. Bà đã tiếp đón Ngôn sứ Êlisê, người của Thiên Chúa, và đã tạo điều kiện cho ông thi hành sứ mạng. Vì thế, bà được Thiên Chúa thưởng công. “Ai tiếp đón một ngôn sứ, vì người ấy là ngôn sứ, thì sẽ được lành phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ; ai đón tiếp một người công chính, vì người ấy là người công chính, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc công chính”.

Anh chị em thân mến,

Được mời gọi đi theo Chúa Giêsu, chúng ta phải quyết định chọn lựa. Chỉ có sự chọn lựa tình yêu Chúa Giêsu mới cho phép chúng ta xứng đáng được gọi là môn đệ của Ngài. Một khi đã chọn lựa Ngài thì phải đặt tất cả tình cảm gia đình, tình yêu tự nhiên tuỳ thuộc vào Ngài, đi sau tình yêu đối với Ngài. Khi chọn lựa như thế chúng ta sẽ khong tránh được các mất mát, từ bỏ, hy sinh. Tuy nhiên, Thiên Chúa không để cho những kẻ theo Chúa phải thiệt thòi. Ngài sẽ đền bù, một sự đền bù vượt quá sự mong đợi. Trước mặt Thiên Chúa không có gì bị bỏ quên, dù mot bát nước lã cũng được đền bù xứng đáng. Vì thế, chúng ta đừng sợ mất phần thưởng, nhưng hãy sợ mình không trung thành bước theo Chúa Giêsu.

Anh Charles de Foucauld đã từ bỏ tất cả để đi theo Chúa Giêsu và để làm một cai gì cho Chúa Giêsu, anh đã từ bỏ mình để sống cho anh em, nhất là cho những người nghèo hèn, nhỏ bé. Chúng ta hãy quan tâm làm một cái gì cho Chúa Giêsu bằng cách tiếp đón Ngài đang đến với chúng ta trong bí tích Thánh The để tình yêu của Ngài thúc đẩy chúng ta tiếp đón những người anh em nghèo hèn, nhỏ bé, cũng là những anh em của Chúa Giêsu và là hiện thân của Chúa Giêsu vậy.

 

29.Suy niệm của Lm. Trầm Phúc

Đây là những lời căn dặn của Chúa Giêsu trước khi sai các môn đệ đi rao giảng. Và đây là đoạn cuối cùng. Nhưng đoạn này là một tổng hợp nhiều lời Chúa nói trong những hoàn cảnh khác nhau, được gom lại, vì thế không ăn khớp với nhau cho lắm, nhưng mỗi lời Chúa nói đều là những bài học cho chúng ta.

“Ai yêu mến cha mẹ… con cái hơn Thầy, người ấy không xứng đáng với Thầy”. Chúa muốn cho thấy rằng người môn đệ của Ngài phải dành trọn tình yêu của mình cho Ngài. Ngài phải là trung tâm của cuộc sống. Không thể so sánh với một ai ở trần gian. Ngài là Thiên Chúa, là Đấng tuyệt đối, là hạnh phúc duy nhất của chúng ta. Phải yêu mến Chúa hết lòng, hết sức, trên hết mọi sự. Chúng ta đọc đi đọc lại câu nói đó rất nhiều lần, nhưng chúng ta có để ý đến đó không? Yêu mến Chúa hết lòng là thế nào? Khi yêu nhau, chúng ta luôn nhớ nhau, nhớ không phút nào ngơi, lòng trí chúng ta luôn hướng tới người yêu. Yêu mến Chúa hết lòng thì lòng trí chúng ta chỉ nghĩ đến một mình Chúa. Chúa trở thành niềm thương nhớ không nguôi của chúng ta. Đi đâu cũng nhớ, làm gì cũng nhớ. Tình yêu của chúng ta được đo bằng thương nhớ. Chúng ta có nhớ Chúa không?

Yêu mến Chúa hết sức là gì? Nhìn vào thánh Phaolô, chúng ta sẽ thấy ngài yêu mến như thế nào. Ngài đã không ngơi nghỉ, loan báo Chúa Giêsu cho mọi người không mỏi mệt. Ngài chỉ sống cho một mình Chúa. Chúng ta không rao giảng như ngài, nhưng nếu chúng ta yêu mến Chúa thật, chúng ta sẽ làm gì cũng làm cho Chúa, làm vì yêu mến Chúa chứ không chỉ làm việc vì tiền, vì lợi lộc. Dùng tất cả sức lực để làm cho Chúa được yêu thương hơn.

Chúa không cấm chúng ta yêu thương con cái, bạn bè, trái lại Ngài dạy chúng ta phải yêu thương nhau nhưng không thể yêu hơn Chúa. Ngài phải là ưu tiên tuyệt đối. Tình yêu loài người chỉ là tạm thời, ngắn ngủi, tình yêu Chúa luôn bền vững muôn năm. Không thể nào so sánh Thiên Chúa với con người. Thế nhưng, chúng ta có yêu mến Chúa không? Chúa đòi buộc chúng ta yêu mến Chúa trên hết mọi sự, không phải vì Ngài cần tình yêu của chúng ta. Tình yêu của chúng ta có lợi gì cho Chúa đâu! Chỉ vì Ngài quá yêu chúng ta, Ngài muốn chúng ta hạnh phúc, và chỉ có Ngài mới giúp chúng ta hạnh phúc và hạnh phúc thật, hạnh phúc muôn đời.

Muốn đạt đến hạnh phúc tuyệt vời đó, Chúa đòi hỏi chúng ta vác thập giá của mình. Chúa Giêsu đã vác thập giá của Ngài trước. Ngài chấp nhận vác thập giá và chết trên thập giá đó vì yêu thương chúng ta. Có ai đã dám yêu thương chúng ta như Ngài không? Đối với Ngài, thập giá là dấu hiệu của tình yêu tuyệt đối của Ngài. Ngài vác thập giá chính là gánh lấy tội lỗi của chúng ta, gánh lấy án phạt thay cho chúng ta. Chúng ta vác thập giá là để yêu mến Ngài, đáp trả lại tình yêu của Ngài. Thập giá của chúng ta là những lao nhọc hằng ngày, là gia đình, là bệnh hoạn, là tất cả cuộc sống vất vả nhọc mệt của chúng ta. Chúng ta chưa đến nỗi phải đổ máu. Hãy can đảm gánh lấy mọi cực phiền lao nhọc vì yêu mến Ngài chứ không chỉ là chịu đựng, rên siết. Vả lại, chúng ta không vác thập giá một mình đâu. Chúa Giêsu biết chúng ta yếu đuối, mỏng giòn, Ngài đã hứa ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế, Ngài không để chúng ta mồ côi, Ngài đến với chúng ta. Ngài đến bằng một phương tiện rất nhỏ bé, là một tấm bánh. Ngài bảo chúng ta ăn lấy Ngài để Ngài có thể đồng hóa với chúng ta, trở thành một với chúng ta, lao nhọc với chúng ta, vui buồn với chúng ta. Ngài đến để biến tất cả cuộc sống chúng ta thành yêu thương như Ngài. Với Ngài, chúng ta dấn thân vào cuộc sống, không phải với sự chán buồn bi quan, nhưng với can đảm và niềm vui. Chúa đến đồng hành với chúng ta, chia sẻ mọi lao nhọc buồn lo cho chúng ta, chúng ta có chấp nhận đồng hành với Ngài không?

 

30.Sống vì Chúa hay sống vì mình?--Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Người đời cho rằng ai khéo “giữ mạng sống mình” thì sẽ được an ninh trường thọ; còn ai “liều mất mạng sống mình” thì sẽ phải hư vong. Thế mà Chúa Giê-su nói ngược lại: “Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được.”

Tại sao Chúa dạy như thế?

Qua những lời trên đây, Chúa Giê-su đề cập đến hai lối sống: Một là sống vì mình, hai là sống vì Chúa.

1. Sống vì mình

Hậu quả của lối sống vì mình là hư vong, là mất mát… như lời Chúa nói: “Ai giữ lấy mạng sống mình thì sẽ mất.”

Cuộc đời của hai nhân vật sau đây giúp ta hiểu rõ giáo huấn này của Chúa Giê-su hơn.

- Nhân vật thứ nhất

Chúa Giê-su nói: "Một nhà phú hộ kia, ruộng nương sinh nhiều hoa lợi, mới nghĩ bụng rằng: "Mình phải làm gì đây? Vì còn chỗ đâu mà tích trữ hoa mầu! Rồi ông ta tự bảo: "Mình sẽ làm thế này: phá những cái kho kia đi, xây những cái lớn hơn, rồi tích trữ tất cả thóc lúa và của cải mình vào đó. Bấy giờ, ta sẽ nhủ lòng: hồn ta hỡi, mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã! Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta: "Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?”

Rồi Chúa Giê-su kết luận: “ Kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó" (Lc 12, 16-21).

Như thế, kẻ nào sống vì mình, chỉ biết chăm lo cho mạng sống mình ở đời này mà không biết thu tích cho đời sau, thì đó là người dại dột, vì rốt cuộc sẽ mất hết, chẳng còn gì. Đúng như lời Chúa nói: “Ai giữ lấy mạng sống mình thì sẽ mất.”

- Nhân vật thứ hai

Chúa Giê-su tiếp: "Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người nghèo khó tên là La-da-rô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no (nhưng chẳng ai cho). Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta. Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Áp-ra-ham. Ông nhà giàu cũng chết, và rồi phải chịu cực hình trong âm phủ.”

Từ chốn đau thương khốn khổ này, người giàu khẩn thiết van xin tổ phụ Áp-ra-ham sai La-da-rô bố thí cho ông ta chỉ một giọt nước thôi… mà cũng không thể được.

Qua nhân vật này, Chúa Giê-su một lần nữa cho ta biết: Nếu chỉ biết sống vì mình, cứ chăm lo “giữ lấy mạng sống mình” mà không biết chia sẻ cho người túng thiếu, thì không những sẽ đánh mất tất cả những gì mình có, mà còn phải chịu đọa đày trong hỏa ngục mai sau (Lc 16, 19-26).

Như vậy, dù “được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì nào được ích gì?” (Lc 9,25).

2. Sống vì Chúa

Thành quả của việc sống vì Chúa là đạt tới hạnh phúc vĩnh viễn đời sau như lời Chúa nói: “Ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được.”

Nếu những anh thuyền chài trên biển hồ Ga-li-lê cách đây 2.000 năm không đáp lại lời mời gọi của Chúa Giê-su và dấn bước theo Ngài, liều mất mạng sống vì Ngài, thì họ chỉ là những con người vô danh tiểu tốt, chẳng làm nên danh phận gì, chẳng được ai biết đến… Tuy nhiên, vì họ đã dấn thân theo Chúa Giê-su, sẵn sàng sống chết vì Ngài nên đã lập nên kỳ công vĩ đại và được muôn người kính mến.

Ngoài ra, rất nhiều thanh niên nam nữ thiện chí khác trên khắp thế giới từ xưa tới nay như Phan-xi-cô Xa-vi-e, Phan-xi-cô Át-xi-di, mẹ thánh Tê-rê-xa Calcutta… đã sẵn sàng “liều mất mạng sống” vì Chúa Giê-su nên các ngài được tôn vinh mãi đến muôn đời.

Lạy Chúa Giê-su,

Hôm nay, Chúa đưa ra cho chúng con hai chọn lựa, một là sống vì mình, tức là sống ích kỷ, hưởng thụ, chỉ biết lo cho bản thân mình mà không quan tâm phục vụ người khác để rồi phải hư mất đời đời; hai là sống vì Chúa, tức là sống quảng đại, sẵn sàng cống hiến thời giờ, công sức, khả năng… của mình nhằm phục vụ người khác để rồi được sống đời đời trên thiên quốc… Đây là một chọn lựa khó khăn.

Xin cho chúng con dứt khoát chọn sống vì Chúa, quyết tâm sống quảng đại, hy sinh, phục vụ… không quyến luyến danh vọng, không tiếc nuối của cải đời này, vì “được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì được ích gì?”.

 

31.Điều kiện theo Chúa--Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy

Tin mừng Mt 10: 37-42: Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu cho biết điều kiện đó là phải từ bỏ tất cả: gia đình, của cải, nghề nghiệp và chính bản thân mình.

Willton Rix có kể một câu chuyện đầy kịch tính như sau “vào một sáng mùa đông tuyết lạnh, Sadhu Sundar Singh và một người bạn du lịch qua miền núi Bắc Ấn Độ. Thình lình một cơn bão tuyết ào ào đổ tới, gió lạnh gào thét bên tai họ, khiến hai người phải chống trả hết sức khó khăn.

Đang lúc “dầu sôi lửa bỏng” ấy, họ lại thấy một người đàn ông nằm vất vưởng bên đường chờ chết. Sadhu muốn dừng lại để cứu giúp người bị nạn, nhưng bạn ông cho rằng, nỗ lực ấy chỉ hoài công thôi. Vì để cứu lấy chính mình trong lúc này cũng đã vất vả lắm rồi. Và ông bạn ấy đã bỏ đi.

Chạnh lòng xót thương, Sadhu ở lại bên kẻ bất hạnh, xoa nóng tay chân con người sống dở chết dở ấy. Với sức lực còn lại, Sadhu cố gắng cõng anh trên lưng và khó nhọc đi qua vùng bão tuyết. Hơi ấm của hai thân thể hòa quyện lấy nhau khiến người kia hồi sinh và cả hai cùng mạnh sức.

Đi khoảng một dặm, họ kinh ngạc khi nhìn thấy một xác chết lạnh cóng bên vệ đường. Họ càng sững sờ hơn nữa khi nhận ra đó chính là anh bạn cùng đi với Sadhu sáng nay.

Nghĩa cử yêu thương của Sadhu đã minh chứng hùng hồn cho lời nói của Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay: ”ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được”. Ông bạn của Sadhu đã cố giữ lấy mạng sống mình nên đã mất mạng, còn Sadhu liều mất mạng “vì anh em” nên đã được sống.

Trường hợp của Sadhu cũng chỉ nói lên một chút thoáng qua chốc lát, nhưng còn có những trường hợp Chúa đòi ta phải hy sinh liên lỷ và kéo dài cả hàng mấy chục năm như trường hợp của thánh nữ Macđala Môranô.

Năm 1994, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong chân phước cho chị Mácđala Môranô, là một nữ tu thuộc dòng Đức Mẹ Phù Hộ. Ngay từ thuở niên thiếu, Mácđala đã phải nếm mùi tang tóc, chỉ trong vòng một tháng, thần chết đã hai lần đến gõ cửa nhà chị và cướp mất hai cột trụ của gia đình: người cha và người chị cả, những ngày đen tối bắt đầu đè nặng trên vai bà quả phụ Catarina với bốn đứa con thơ dại.

Hồi đó Mácđala mới 8 tuổi, nhưng đã tỏ ra khôn ngoan và chín chắn, thấy mẹ đau buồn và khóc hoài, chị thường nói với mẹ: “mẹ ơi, thôi đừng khóc nữa, chẳng bao lâu con sẽ khôn lớn và con hứa sẽ giúp mẹ thật nhiều như bố và chị Phanxica đã giúp mẹ vậy”. Nhưng không phải tới lúc khôn lớn mà ngay từ bây giờ, vì nhu cầu và hoàn cảnh khó khăn của gia đình, Mácđala đã ngồi xuống trước guồng tơ dệt chỉ mà chị Phanxica đã để lại.

Một hôm, tình cờ cha Bandenla, người anh họ của mẹ đến chơi và biết Mácđala không được đi học, cha hứa sẵn sàng phụ giúp thêm vào nhu cầu vật chất của gia đình và trả tiền học phí cũng như tiền sách vở cho Mácđala đi học. Sau hơn 10 năm chăm chỉ học tập, chị đã tốt nghiệp và trở thành một cô giáo trường làng, thế là Mácđala đã bắt đầu làm việc để phụ giúp gia đình. Suốt 16 năm trời, chị đã giữ lời hứa với mẹ, hơn nữa, chị biết mẹ luôn ấp ủ một ước muốn thầm kín là có được một căn nhà với mảnh vườn nho nhỏ, những luống rau và mấy giàn nho ngon ngọt. Vì thế, chị đã chuyên cần làm việc và âm thầm dành dụm, giảm bớt chi tiêu không cần thiết. Đến ngày sinh nhật thứ 30 của mình, Mácđala dẫn mẹ đến xem mảnh đất với căn nhà và khu vườn như mẹ mong ước, chị âu yếm nói với mẹ: “thưa mẹ, đây là món quà con xin biếu tặng mẹ, con chỉ xin mẹ một điều là cho phép con tận hiến cuộc sống còn lại của con cho Chúa để đáp lại tiếng gọi của Ngài vẫn thúc giục con từ lâu rồi”.

Quyết định của Mácđala đã gây đau khổ nhiều cho mẹ chị, cho cha xứ, bạn bè và các phụ huynh học sinh của chị, vì họ mất đi một người con hiếu thảo, một người bạn tốt, một giáo viên gương mẫu, một người giáo dân nhiệt thành việc tông đồ. Trái lại, trong tâm hồn chị trào dâng một niềm vui mừng, vì chị có thể thực hiện được ước mơ chị đã ấp ủ từ lâu.

Ngày chia ly không khỏi ngậm ngùi đau xót, nhưng chị đã tìm được sức mạnh nơi tình yêu và lời nói của Chúa: “ai yêu cha mẹ hơn Thầy thì không xứng đáng với Thầy”. Đồng thời chị cũng được sự an ủi vì tin vào lời Chúa đã hứa: “quả thật, Thầy bảo cho anh em rõ, không ai bỏ nhà cửa, cha mẹ, vợ con, anh chị em vì nước Thiên Chúa mà lại chẳng lãnh nhận gấp trăm ở đời này và sẽ được sống đời sau”.

Thật vậy, lời hứa ấy đã thể hiện qua suốt 30 năm sống đời tận hiến, trong đó, hơn 25 năm hăng say với sứ mệnh tông đồ giữa giới trẻ nghèo khổ, bị bỏ rơi tại đảo Xixilia. Và Chúa đã thưởng công cho chị qua việc Đức Giáo Hoàng tôn phong chị lên bậc chân phước để mọi người ngưỡng mộ và tôn kính.

Kể lại câu chuyện trên để minh họa cho bài Tin Mừng hôm nay. Bài Tin Mừng này là đoạn cuối trong bài giảng dạy về truyền giáo của Chúa Giêsu. Ngài nói với các tông đồ, và qua các ông, nói với mọi Kitô hữu về sự từ bỏ tất cả mọi sự để đi theo làm môn đệ Ngài và Ngài hứa ban thưởng bội hậu cho họ.

Tại sao Chúa đòi hỏi như vậy và đòi hỏi như vậy có nghịch lý không?

Quả thực, con đường theo Chúa vốn đầy những nghịch lý, một trong những cái nghịch lý ấy là điều kiện để theo Chúa. Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu cho biết điều kiện đó là phải từ bỏ tất cả: gia đình, của cải, nghề nghiệp và chính bản thân mình. Cái nghịch lý là ở chỗ đó. Muốn theo Chúa, phải từ bỏ hết, phải từ bỏ tất cả, nghĩa là coi Chúa hơn hết tất cả mọi người, hơn hết tất cả mọi sự và tin vào một mình Chúa thôi.

Có người cho rằng: những điều trên đây Chúa chỉ dạy riêng cho những người đi tu mà thôi, nói thế cũng đúng, nhưng những lời Chúa dạy đây không phải là không áp dụng được cho tất cả chúng ta, bởi vì với mỗi người, Chúa cũng đòi hỏi phải từ bỏ, không phải từ bỏ để đi tu hay để làm tông đồ cho Chúa, nhưng trong cuộc sống, chúng ta cũng có nhiều cái, nhiều điều và nhiều lần phải từ bỏ.

Tóm lại, trong đời sống thường ngày, người Kitô hữu bị giằng co giữa một bên là tình cảm gia đình, bên kia là đòi hỏi của Chúa; hoặc một bên là quyến rũ của tiền tài, danh vọng, sống buông thả, một bên là sự trung thành với lý tưởng Kitô giáo. Trong những trường hợp giằng co như vậy, chúng ta sẽ chọn thế nào và phải làm gì? Bài Tin Mừng hôm nay soi sáng và hướng dẫn chúng ta hãy chọn đúng và thực hành đúng. Amen.

 

32.Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên

Lời Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay nếu chỉ nghe thoáng qua, chúng ta dễ có cảm tưởng là Chúa phế bỏ mọi giá trị đã làm nên con người tại thế. Thực vậy, ai trong chúng ta cũng chỉ có thể xác định được chính mình khi quy chiếu với những tương quan thiết thân nhất: tương quan với cha mẹ, tương quan với con cái, tương quan với chính bản thân. Một khi tước bỏ hết những tương quan ấy, chúng ta còn là gì? Thực ra Lời Chúa không nhằm phế bỏ, nhưng là đặt mỗi tương quan vào đúng trật tự của nó.

Trong thực tế cuộc sống nhân sinh, tùy theo mỗi thời đại, mỗi nền văn hóa, mỗi thể chế, những tương quan này đã chịu biết bao thay đỗi. Trong bối cảnh văn hóa Á Đông xưa, người cha vẫn được nhìn nhận như là thay Trời, nắm toàn quyền trong gia đình, thậm chí có toàn quyền trên sự sống, sự chết của người con. Chúng ta cũng từng nghe câu chuyện Abraham sát tế con mình là Isaac. Một cái quyền mà ngày hôm nay hầu như mọi pháp luật đã đều bác bỏ. Đạo Hiếu là đạo khẳng định nhân tính con người. Kẻ bất hiếu vô đạo không được một nền văn hóa nào chấp nhận, và nó bị loại trừ khỏi cõi nhân sinh. Thế nhưng đạo hiếu cũng không thể miễn trừ cho con người phải coi xã tắc là trọng, phải coi đạo Trời là lớn, từ đó con người nhiều khi phải vị nghĩa diệt thân. Trong chừng mực nào đó, những quan niệm như vậy, tuy từng khống trị suy nghĩ và lối sống bao thời đại, nhưng vẫn chỉ là những nỗ lực nhằm thiết lập trật tự xã hội, gia đình và an sinh của mỗi con người. Và cũng chịu nhiều biến động, khủng hoảng, kéo theo biến động và khủng hoảng toàn xã hội. Ngày nay, với tuyên ngôn nhân quyền, với những thể chế dân chủ, một lần nữa những tương quan thiết thân ấy đã có những thay đổi tận căn: trong đăng ký kết hôn, ngày nay không thấy nói tới cha mẹ đôi bạn; trong giáo dục gia đình, cha mẹ không có quyền đánh con... quyền cá nhân trở thành trung tâm của mọi quyền lợi và nghĩa vụ.

Thực tế ấy, cho thấy những tương quan căn bản làm nên cuộc sống con người luôn luôn phải tự điều chỉnh. Và Lời Đức Giêsu phải được hiểu trong nỗ lực đem lại điểm quy chiếu chân thật nhất cho cuộc sống.

Trước khi nói tới chữ "Từ Bỏ", chúng ta cần phải nhắm thẳng tới đích điểm mà Chúa nêu lên như là đối tượng của hành vi "Từ Bỏ" này: "mà theo Thầy". "Theo Thầy" là đi trên con đường đồng hành với Thiên Chúa để "Yêu Thương", "Hiến dâng mạng sống vì anh em","Rửa chân cho nhau", "đón tiếp anh em", để "cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy"... "Từ Bỏ" là để có "Tình yêu" lớn hơn, "Tình Yêu" của chính Thiên Chúa "Đấng Sáng Tạo", và đấy là trở về với Tình Yêu mà con người đã được tạo dựng, đước trao ban, để là "Hình Ảnh" của Thiên Chúa. Tình Yêu "mà bởi đó người nam đã bỏ cha mẹ mình, để kết hợp với người nữ...". Thánh Phaolô đã nói về tình yêu ấy nơi người Kitô hữu như thế này "chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Ki-tô Giê-su, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người sao? Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người." Đi theo Đức Giêsu, tuy là phải bỏ nhưng là để nhận lãnh gấp trăm "Và phàm ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất, vì danh Thầy, thì sẽ được gấp bội và còn được sự sống vĩnh cửu làm gia nghiệp." Đó là quy luật của Tình Yêu "Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối rữa đi, nó chẳng sinh bông trái..." Người môn đệ sẽ đón nhận mọi tương quan thân thiết nhất của mình trong Đức Giêsu. Bài học này đã trở nên hiện thực dưới chân Thánh Giá: vào lúc đó cả người mẹ, lẫn người môn đệ đã nghe lời gọi "Người ấy là con bà" và "Người ấy là Mẹ con". Và chúng ta đã thấy ở đó Đức Giêsu đã đổi mới mọi tương quan, làm cho nó mang chiều kích siêu việt của Tình Yêu Thiên Chúa, trở nên nguồn sự sống và hạnh phúc thật cho nhân loại.

Quả thật, có thể con người vẫn cố chấp trong nỗi hoài nghi đối với Tình Yêu sáng tạo của Thiên Chúa. Câu chuyện người đàn bà giàu có Sunêm chỉ là trong muôn một. Nhưng Lời Chúa đã nên hiện thực nhờ niềm tin của Êlisa, và Lời Chúa cũng đã nên hiện thực nhờ niềm tin của Đức Maria, của mọi thế hệ môn đệ trong lòng Hội Thánh, mà gần đây nhất trong lòng tin của Cha Thánh Pio, con người tuy giam hãm mình trong 4 bức tường khổ tu, lại làm nên chung quanh mình một đại gia đình thân yêu, mà hằng triệu triệu con tim đã say mến đến với Ngài.

 

33.Bát nước lã--Ts. Trần Quang Huy Khanh

Nếu hôm nay có một linh mục, giám mục, hồng y, hay giáo hoàng đến thăm gia đình bạn trong tư cách một người thân, hoặc người bạn, thì tôi sẽ định cho những vị ấy uống gì? Rượu mạnh, rượu chát, trà quí, cà phê hảo hạng, nước ngọt, hoặc nước lọc. Tôi nghĩ là tất cả. Tất cả những gì là quí giá, đắt tiền, ngon, lành, và bổ. Lý do đơn giản, vì không những họ là một người bạn, người thân, mà còn là người bạn, người thân có địa vị cao cả trong giáo hội. Một cách tương tự, nếu một người bạn thân của gia đình tôi là bộ trưởng, tổng trưởng, thủ tướng, tổng thống, thì cách thức đón tiếp cũng mang một hình thức trang trọng như vậy.

Ngược lại, nếu cũng là một người bạn, mà là người tầm thường. nghèo khổ, và thường ngày vẫn quen nhau thì sao? Thì thế nào cũng xong, nước lã đun sôi, hoặc nước trà bình thường thôi. Ở đây, thì lý do đơn giản là, chỗ quen biết, và bạn bè bình dân lâu năm.

Cũng là một người bạn, cũng là một hình thức thăm viếng, nhưng có hai lối cư xử, đón tiếp, mà sự cách biệt ấy không gì khác, chỉ là vì cái địa vị của một người. Chính vì nhìn nhau bằng cặp mất “địa vị” như vậy, cho nên đức tin của tôi không trưởng thành, và không phát triển. Và cũng vì lối nhìn ấy, mà Chúa Giêsu cũng bị tôi đối xử một cách bất công, nếu không muốn nói là coi thường, và rẻ rúng. Vì có bao giờ “chúng tôi có bao giờ thấy Chúa khát mà cho uống đâu” (Mt 25:37). Nhưng rồi Chúa Giêsu đã trả lời cho những kẻ hỏi ngài, người lành cũng như kẻ dữ: “Khi các ngươi làm việc ấy cho một kẻ bé nhỏ trong anh em ta đây, là các ngươi đã làm cho chính ta” (Mt 25:40).

Những anh em bé nhỏ của Chúa. Thật khó mà tưởng tượng được, một người nghèo đói, tàng tật, vất vưởng đầu đường xó chợ kia lại là chính Chúa. Và cũng chính vì Chúa như thế, nên ít người đã nhận ra ngài. Vì chỉ có ngài mới có thể nói với tôi: “Kẻ nào cho một trong những kẻ bé mọn này uống chỉ một bát nước lã mà thôi với danh nghĩa là môn đệ, thì qủa thật, thầy nói với các con, người ấy không mất phần thưởng đâu” (Mt 10:42).

Thì ra thế, bát nước cho một người bé mọn vì Chúa sẽ chẳng mất phần thưởng. Và kẻ bé mọn thì chung quanh tôi có đầy: Những người tàng tật tinh thần và thể xác. Những người nghèo đói tình thương và cơm bánh. Những người bị bõ rơi và quên lãng. Những người bị hà hiếp và chèn ép. Những trẻ thơ không cha mẹ, không người thân thuộc. Những cô nhi và quả phụ. Những nạn nhân chiến tranh và lòng thù ghét của đồng loại. Tóm lại, những người mà Chúa Giêsu bảo là bạn hữu của Chúa thì không hiếm. Nhưng cái khó là làm sao nhận ra họ, nhận ra họ là chứng nhân, là kẻ được Chúa sai đến với mình. Vì bao lâu không nhìn ra cái ấn tín chứng nhân nơi họ, không nhìn ra ý nghĩa của lần gặp gỡ với họ, tôi sẽ không nhận ra họ, và cũng không bao giờ chấp nhận cái sứ vụ của người sai họ đến với mình.

Không nhận ra họ, và không nhận ra sứ vụ của họ, là chối bỏ người sai họ. Như việc người ta chối bỏ môn đệ của Chúa. Trường hợp ấy, làm gì có nước mà cho uống, vì đã không coi họ như những người thân thiện, những đại diện của đấng đã sai họ, làm gì tôi có thể vui lòng và tiếp đón họ.

Thật vậy, ai cũng biết rằng tự nó, bát nước lã không đem lại công trạng để được tưởng thưởng. Nó cũng chẳng có lý do được phần thưởng đời đời như thánh Mátthêu đã ghi trong bối cảnh của ngày chung thẩm, trong đó một trong những lý do người lành được thưởng vì đã cho một người bé mọn một bát nước lã. Cũng như một trong những lý do kẻ dữ phải đọa đầy, vì đã từ chối không cho anh chị em nhỏ bé mình một ly nước khi họ khát (xem Mt 25:46).

Nhưng lý do để người lãnh thưởng và kẻ bị chúc dữ vì những bát nước là vì đã cho “những kẻ bé nhỏ nhất trong anh em ta” và “vì họ là môn đệ ta”. Thái độ đón tiếp ấy, cái nhìn tâm linh ấy là những gì Chúa Giêsu muốn được nhìn thấy trong sinh hoạt của tôi, và trong cách cư xử, đối đãi hằng ngày với nhau của tôi. Đây là một cái nhìn xuyên thấu tâm hồn, phát xuất từ đức tin và đức mến hành động. Điều mà có thể làm cho chúng ta khám phá ra Chúa Giêsu trong những anh chị em chung quanh mình. Không phải vì cái vỏ bên ngoài, hay địa vị xã hội, hoặc giáo hội, mà là người đó là hình ảnh, là hiện thân, là sứ giả của Chúa Giêsu. Cũng với lối nhìn ấy, chúng mới có thể tiếp đón mọi người đến với tôi thường ngày, và nhìn ra họ là “sứ giả”, là môn đệ được sai tới từ Thiên Chúa đến với tôi trong bối cảnh này, trong tình huống ấy, và trong thời điểm ấy. Nhận ra họ, và qua họ nhìn thấy Chúa, lúc ấy, tôi sẽ đón tiếp họ và qua họ, đón tiếp Chúa.

Như vậy, khi Chúa Giêsu lấy đơn vị một bát nước, và một người anh em hèn mọn nhất, để đo lường và cân nhắc thái độ đón tiếp của tôi dành cho nhau, cũng như tình cảm mà tôi dành cho anh chị em mình là như nhắn gửi tôi rằng, trong hoàn cảnh nào, và trong bất cứ ai, thì Chúa Giêsu vẫn có mặt, và đến với tôi. Ngài đến không chỉ để ban thưởng, mà còn để xin tôi, mong đón nhận nơi tôi một lời an ủi, một nụ cười thông cảm, và một ánh mắt yêu thương. Như một người đang đi đường nhận được bát nước giải khát vậy.

Chúa Giêsu cần an ủi không? Và Chúa Giêsu cần được khuyến khích không? Có chứ. Chúa Giêsu đã chẳng nói với các Tông Đồ trong vườn Cây Dầu: “Các con hãy ở đây và thức với thầy”. Và người nói với người thiếu phụ Samaritanô: “Cho tôi uống với” (Gioan 4:7). Đây là một mời mời gọi, lời mở ra từ cõi lòng Thiên Chúa, Ngài muốn trao ban cho nhân loại cái cơ hội để tiếp cận và gần gữi Ngài. Nước thì làm gì mà Ngài không có. Ngài muốn ăn gì, uống gì mà không có. Và điều này đã phản ảnh lời mà Ngài đã nói với thiếu phụ Samaritanô bên giếng nước Giacob: “Nếu chị biết ơn Thiên Chúa và người đang nói với chị là ai, hẳn chị sẽ xin người ban nước hằng sống cho” (Gioan 4:10).

Chúa xin mà là Chúa cho. Ngài chỉ muốn tạo cơ hội cho con người nhận ra Ngài, tiếp nhận Ngài, và đón Ngài vào nhà mình. Bằng mọi cách, Ngài muốn cho con người hiểu Ngài yêu thương con người, và chỉ cần một đáp trả rất nhỏ mọn thôi, như cho người bạn mình một bát nước vì Ngài, Ngài cũng mủi lòng, cũng cảm động, và cũng ghi ơn. Tiền bạc thì tôi không có. Hạt xoàn thì tôi không có. Vàng bạc thì tôi không có. Nhưng chẳng lẽ tôi không có lấy một bát nước cho người nghèo quang mình. Và chỉ cần bằng một lòng yêu mến, kính trọng, và thái độ khiêm nhường là tôi thấy Chúa ở ngay bên mình: “Kẻ nào cho một trong những kẻ bé mọn này uống chỉ một bát nước lã mà thôi với danh nghĩa là môn đệ, thì qủa thật, thầy nói với các con, người ấy không mất phần thưởng đâu” (Mt 25:42).

 

34.Đón tiếp Tôi--Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến

Đoạn 10,37-42 nằm trong văn mạch của diễn từ Chúa Giêsu dành cho các môn đệ (10,5-42). Trong diễn từ lớn nầy Ngài chỉ dẫn cho họ phải làm gì khi đi thi hành sứ vụ (10,5-15), chuẩn bị cho họ về sự bắt bớ (10,16-25), đòi hỏi họ không sợ hãi mà loan báo tin mừng (10,26-36) và đặt Ngài trên mọi tương quan thân thiết nhất (10,37-39), và sau cùng loan báo cho họ phần thưởng dành cho họ (10,40-42).

Yêu Mến Chúa Giêsu Trên Hết (10,37-39)

Đoạn nầy gồm ba câu bàn về ba tương quan khác nhau của môn đệ: với gia đình (c. 37), với thập giá (c. 38) và với mạng sống mình (c. 39). Cả ba câu đều qui chiếu về Chúa Giêsu và Ngài đòi hỏi người môn đệ phải chọn Ngài trên tất cả: “yêu mến hơn Tôi”, “không xứng đáng với Tôi” (c. 37), “… đi theo sau Tôi”, “không xứng đáng với Tôi” (c. 38), “vì Tôi” (c. 39). Đoạn nầy đóng khung bởi “Tôi” trong “hơn Tôi” (c. 37) và “vì Tôi” (c. 39), chỉ Chúa Giêsu.

Yêu mến Chúa Giêsu hơn người thân trong gia đình

Câu 37 gồm hai phần song song. Một bên là cha mẹ và bên kia là con cái. Đây là các tương quan gia đình căn bản và thân thiết nhất. Cụm từ “hơn Tôi”, “không xứng đáng với Tôi” và động từ phileō, “yêu thương” được lập lại ở mỗi bên. Chúa Giêsu, “Tôi”, đặt mình so sánh với cha mẹ, và con cái của người môn đệ. Ngài đòi hỏi Ngài được yêu thương hơn những người nầy. Giới từ huper, “trên”, chỉ sự cao trọng hơn một ai đó. Chúa Giêsu là “Thầy” của các môn đệ, nên Ngài phải được yêu thương hơn (x. 10,24). Trong các câu trước, Chúa Giêsu đã đòi hỏi các môn đệ không xấu hổ mà làm chứng cho Ngài trước mặt người đời (10,32tt), thì đây Ngài cũng đòi hỏi các môn đệ yêu mến Ngài hơn tất cả, ngay cả đối với những người thân thiết nhất trong gia đình. Khi có sự “chống đối” trong gia đình vì Chúa Giêsu, phải chọn Ngài trên hết và trước hết (x. 10,35). Azios, “xứng đáng”, chỉ tính cách phù hợp, tương xứng. Chỉ khi nào người môn đệ yêu mến Chúa Giêsu hơn những người khác, họ mới xứng đáng làm môn đệ của Ngài, và tình yêu ấy mới xứng với Ngài (x. 22:8).

Vác thập giá theo Chúa

Câu 38 cũng dùng cụm từ “không xứng đáng với Tôi” như câu trên khi Chúa Giêsu nói về việc vác thập giá và đi theo sau Ngài. Động từ lambanō, “nhận” ở đây có đối tượng là một điều gì đó hay một người nào đó đến từ Thiên Chúa: lãnh nhận nhưng không (10,8), thập giá (10,38), tiên tri, người công chính (10,41). Điều đầu tiên Chúa Giêsu đòi hỏi là biết lãnh nhận thập giá từ Thiên Chúa (x. 16,24). Động từ akoloutheō “đi theo”, đôi khi thêm giới từ opisō, “sau”, chỉ việc đi theo để làm môn đệ của Chúa Giêsu (4,19. 20tt; 8,22; 9,9). Hai hành vi “nhận lấy thập giá” và “đi theo” Chúa Giêsu làm nên sự xứng đáng của người môn đệ của Chúa Giêsu (x. 27,32).

Từ bỏ mạng sống vì Chúa

Câu 39 có cấu trúc đối đảo: a- Ai tìm mạng sống mình, b- Mất mạng sống mình, b’ Ai liều mất mạng sống mình – vì Tôi –, a’ Tìm được mạng sống mình. Yếu tố quan trọng nhất trong cấu trúc nầy là heneken emou, “vì Tôi”, nằm ở trung tâm. Nó chỉ động lực của việc liều mất mạng sống. “Vì Chúa Giêsu” là động lực đúng đắn nhất để liều mất mạng sống. Việc liều mất mạng sống mà Chúa Giêsu nói đây nằm trong bối cảnh của sự bắt bớ vì Chúa (5,11; 10,18). Vậy nếu vì Chúa mà mất mạng sống, thì cũng “nhờ Chúa” mà tìm lại được mạng sống (x. 16,25).

Phần Thưởng Dành Cho Người Đón Tiếp (10,40-42)

Sang phần nầy, Matthêô dùng đại danh từ ngôi thứ hai số nhiều “các con”, humas (c. 40) / humin (c. 42); từ đóng khung phần nầy. Đối tượng giáo huấn của Chúa Giêsu là dân chúng. Đoạn nầy gồm ba câu chia làm hai phần, và mỗi phần gồm ba yếu tố: – Sự đón tiếp (c. 40); – Phần thưởng (cc. 41-42).

Sự đón tiếp (c. 40)

Ba yếu tố “các con” – “Tôi” – “Đấng đã sai Tôi” gắn liền mật thiết với nhau bởi động từ “đón tiếp”. Sự liên kết nầy có được bởi chỉ có một việc sai đi. Môn đệ là những người được Chúa Giêsu sai đi (x. 10,16; 11,10; 15,24; 21,1tt), và Chúa Giêsu bởi Chúa Cha, “Đấng đã sai Tôi” (x. 15,24; 21,37). Như thế sứ vụ của người môn đệ bắt nguồn từ Chúa Cha do việc họ tham dự vào sứ vụ của Chúa Giêsu; do đó họ được đón tiếp như chính Chúa Giêsu và Chúa Cha. Như thế có sự đồng hoá giữa Chúa Giêsu và các môn đệ bởi sự tham dự của họ.

Phần thưởng (cc. 41-42)

Hai câu nầy gồm ba phần: tiên tri, người công chính và môn đệ. Động từ “đón tiếp” còn được dùng ở đây; như thế nó liên kết câu nầy với câu trên. Xét theo văn mạch khi Chúa Giêsu nói đến việc đón tiếp các “tiên tri”, “người công chính”, “môn đệ”, Ngài ám chỉ các môn đệ của Ngài.

Tước hiệu “tiên tri” (14,5; 21,11; 26,46) và “người công chính” (27,19) trước tiên dành cho Chúa Giêsu. Ngài chọn lựa và sai các môn đệ đi làm sứ vụ với tư cách hay danh nghĩa của Ngài, nên họ cũng được gọi là “tiên tri”, người công chính” hay “môn đệ” của Ngài. Cụm từ “vì danh nghĩa”, eis onoma, được lập lại ba lần, có nghĩa là người nầy làm tiên tri vì được Chúa tuyển chọn và sai đi, và họ được đón tiếp vì người ta nhận biết họ là tiên tri của Chúa. Như thế một cách nào đó, Chúa Giêsu tiếp tục đồng hoá chính Ngài với các môn đệ. Việc nầy chúng ta sẽ thấy rõ hơn khi Chúa Giêsu đã liên kết các môn đệ của Ngài trong sự bắt bớ của họ với “các tiên tri đến trước họ” (5,12). Trong câu 13,17, Chúa Giêsu xem các môn đệ của Ngài như là “các tiên tri và người công chính” vì họ được thấy và nghe những điều mà các tiên tri và người công chính trước đây đã ước ao không được. Sau nầy Ngài cũng nói đến việc sai “các tiên tri” của Ngài đến giữa người Do thái (23,34). Như thế, các môn đệ của Chúa Giêsu được xem như “các tiên tri” và “người công chính” của thời Ngài.

Sau cùng nói đến phần thưởng dành cho người đón tiếp các môn đệ của Chúa Giêsu. Đấng ban phần thưởng chính là Thiên Chúa (x. 6, 4.6.18). Phần thưởng dành cho các tiên tri như thế nào, thì phần thưởng cho người đón tiếp họ cũng được như vậy. Các tiên tri chịu bắt bớ sẽ được phần thưởng lớn lao trên trời (5,12), và người công chính được vào hưởng “sự sống đời đời” (25,46). Vậy lần nữa nhờ việc liên kết với Chúa Giêsu mà các môn đệ nhận được danh nghĩa tiên tri và người công chính, và những ai tiếp đó họ, thì được Chúa Cha ân thưởng.

Liên kết với Chúa Giêsu cũng là liên kết với Chúa Cha và sự sống đời đời. Với các môn đệ, sự liên kết nầy còn cần thiết hơn nữa bởi bản chất và những đòi hỏi của sứ vụ, tương quan bản thân và cả phần thưởng dành cho họ. Liên kết với Chúa Giêsu quyết định sự sống đời đời với Thiên Chúa như là phần thưởng.

 

35.Con đón Chúa, Chúa đón con--Lm. Minh Anh

“Kẻ nào đón tiếp các con là đón tiếp Thầy;

kẻ nào đón tiếp Thầy, là đón tiếp Đấng đã sai Thầy”.

Kính thưa Anh Chị em,

Một trong những chủ đề của phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay là đón tiếp, con người đón tiếp Thiên Chúa, Thiên Chúa tiếp đón con người; và ở đâu có đón tiếp, ở đó có niềm vui; ở đâu có niềm vui, ở đó có an bình.

Bài đọc thứ nhất, sách Các Vua kể chuyện thời Cựu Ước, hai ông bà của một gia đình sang trọng đón tiếp thầy trò ngôn sứ Êlisê và này, người của Chúa báo tin vui cho họ, “Năm tới cũng vào thời kỳ này, bà sẽ bồng bế một bé trai”; Chúa Giêsu trong Tin Mừng Matthêu thời Tân Ước thì nói rõ hơn, đối tượng được đón tiếp chính là Thiên Chúa, “Kẻ nào đón tiếp các con là đón tiếp Thầy; kẻ nào đón tiếp Thầy, là đón tiếp Đấng đã sai Thầy”.

Lần dỡ các trang Thánh Kinh, chúng ta chứng kiến bao cuộc đón tiếp đem lại niềm vui và bình an. Từ cuộc đón tiếp những người khách lạ giữa sa mạc ở cụm sồi Mamrê của Abraham, hoặc cuộc đón tiếp sứ thần của Manoac mẹ Samson thời các thẩm phán cho đến cuộc đón tiếp Êlisê thời các vua… chúng ta thấy niềm vui và bình an là một điều gì đó luôn luôn xảy đến cho các gia đình. Và này, một cuộc tiếp đón khác, giản dị nhất nhưng cũng trọng đại nhất vốn mang đến một niềm vui lớn nhất không chỉ cho một gia đình son sẻ nhưng cho cả đại gia đình nhân loại phong nhiêu là cuộc đón tiếp sứ thần Gabriel của một thiếu nữ Giuđê có tên là Maria; ở đó, cũng một lời hứa tương tự, “Này đây, bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu”. Và Giêsu đó chính là hoàng tử bình an và niềm vui cho con người mọi thời. Đến lượt Ngài, Ngài lại sai các môn đệ mình ra đi loan báo tin mừng bình an đó, rằng, Thiên Chúa là tình yêu; rằng, Người yêu thương con người đến đời đời.

Thế nhưng, một điều chúng ta đừng bao giờ quên, vì Thiên Chúa là tình yêu nên Người là Đấng luôn luôn đi bước trước. Người đón tiếp con người ngay trong ý định yêu thương đời đời của Người, ngay cả trước khi tạo thành nó, ban cho nó muôn vật muôn loài. Thiên Chúa đón tiếp con người cả khi nó hoá nên những tội nhân phản bội Người. Và vì là tình yêu nên tình yêu của Người là một tình yêu đời đời; Người bất lực trong việc để cho mình hết yêu. Vì thế, lòng Thiên Chúa luôn luôn rộng mở để đón tiếp con người đến nỗi đã ban Con Một Giêsu để ai tin vào người con đó thì được sống đời đời.

Chúa Giêsu, bàng bạc trong các trang Tin Mừng, đã đón tiếp bao con người đến với Ngài và họ đã hưởng lấy niềm vui và bình an. Một Nathanael đến với Ngài khi đêm đã chùng xuống; một Matthêu đến với Ngài khi vừa được gọi giữa sổ sách và tiền bạc; những người mù, những người cùi và những ai bệnh hoạn tật nguyền đến với Ngài; sau cùng, cả người trộm lành, cũng kịp được Ngài đón… để tất cả được chữa lành xác hồn và đổi mới.

Mỗi ngày, qua việc cầu nguyện, qua các bí tích, đặc biệt bí tích Thánh Thể, chúng ta đón tiếp Thiên Chúa, đón tiếp Chúa Giêsu; thế nhưng, sự thật là, chính Thiên Chúa, chính Chúa Giêsu đón tiếp chúng ta. Chúa Giêsu đón tiếp chúng ta qua bí tích rửa tội để chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa; đón tiếp chúng ta qua bí tích hoà giải để tha thứ và chữa lành tâm can mỗi người; đón tiếp chúng ta qua bí tích Thánh Thể để chúng ta được nuôi sống và thông phần sự sống thần linh của Thiên Chúa… và đến giờ sau hết, hạnh phúc biết bao, khi chúng ta lâm chung lìa đời, cũng chính Thiên Chúa đang dang rộng tay đón lấy chúng ta như những đứa con được đón chờ.

Như vậy, mỗi ngày khi chúng ta đón tiếp Thiên Chúa thì cũng chính lúc ấy, Người đón tiếp chúng ta. Cụ thể hơn nữa, khi chúng ta đón tiếp anh chị em mình, nhất là những người nghèo khổ là chúng ta đón tiếp chính Chúa Giêsu.

Một bà mẹ quê hay thương người, trong nhà thường có những người mất trí lui tới, ăn uống; họ được bà sai làm những việc lặt vặt. Thỉnh thoảng gặp giờ cơm, bà cũng buộc họ ngồi vào bàn ăn với con cái. Người chị cả trong nhà rất khó chịu, thường hay phàn nàn vì họ luôn luôn có mùi hôi. Nhưng bà mẹ lại nói với các con mình, “Chúa Giêsu đó, Chúa Giêsu đó” và thế là không còn đứa nào dám hé môi.

Anh Chị em,

Người nghèo thì luôn luôn vui mừng vì được ai đó viếng thăm hay ít nữa, không bị xua đuổi. Như thế, mỗi khi đón tiếp họ, Chúa Giêsu đang ở trong họ lại nghênh đón chúng ta.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, mỗi ngày con đón Chúa, Chúa đón con cả khi con tồi tệ hôi hám nhất; xin cho con đón được Chúa trong những anh chị em ‘khó đón’ nhất chứ không chỉ trong những người nghèo”, Amen.

 

36.Thiên Chúa là khởi nguyên và tận cùng--Lm. Phêrô Trần Minh Đức

“Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được”. Lời của Đức Giêsu làm cho chúng ta cảm thấy sợ hãi, nóng lạnh, nổi da gà! Phải chăng chúng ta không nên nghĩ đến chuyện cải thiện, duy trì và bảo vệ cuộc sống của chúng ta? Đức Giêsu có dụng ý gì khi nói với chúng ta những lời lẽ như trên?

Khi nói về cuộc sống, chúng ta liên tưởng đến một cuộc sống bình nhật, một cuộc sống an lành, hạnh phúc dài lâu bên cạnh những người chúng ta thương mến. Đối với nhiều người thì thời gian khó khăn đen tối sau chiến tranh, sau những cơn bão lụt, hạn hán, là một cuộc đấu tranh để sinh tồn. Điều đáng ngạc nhiên là: tiềm lực nào đã giúp con người trở nên tháo vát, có đủ khả năng để bảo vệ và duy trì mạng sống của mình cũng như thân nhân của mình? Phải chăng là “cái khó bó cái khôn”?

Ở Tây Âu sau đệ nhị thế chiến con người đã ra công tái thiết, xậy dựng. Chính trong thời gian khó khăn này cũng làm nẩy sinh không biết bao nhiêu những bậc tài ba lỗi lạc trong mọi lãnh vực. Con người đổ dồn tất cả vốn liếng để đầu tư, để phát triển cũng như bảo đảm cuộc sống. Ai cũng ham sống sợ chết. Bởi vậy càng văn minh tiến bộ thì càng nảy sinh nhiều loại bảo hiểm: bảo hiểm sức khoẻ, bảo hiểm mạng sống, bảo hiểm tai nạn lưu thông, bảo hiểm hưu dưỡng, … Tất cả đã trở thành chuyện tất nhiên và đáng mừng. Nhưng chúng ta phải tiép tục suy tư về hai chữ „bảo hiểm“. Phải chăng tất cả giúp con người bảo đảm cuộc sống? Dĩ nhiên là không rồi! Dù là bảo hiểm nào đi nữa cũng không giúp chúng ta trốn tránh cái chết. Tất cả đều biết: một ngày nào đó mình sẽ lìa đời. Nhưng hầu hết chẳng ai muốn nghĩ đến chuyện đó. Họ cho rằng, tôi còn trẻ, còn nhiều thời gian. Nhưng thần chết đôi lúc đến bất chợt. Đùng một cái con người phải đối diện với đống gạch vụn của những chương trình, kế hoạch cho cuộc sống của mình. Con người tự cảm thấy mình bất lực, không tài nào dựa vào khả năng mình để cứu vãn tình thế. Có lẽ chính tại đây họ phải tự hỏi: Đức Giêsu hiểu thế nào về cuộc sống?

Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, nhưng Người cũng là con người như chúng ta. Lẽ dĩ nhiên Người cũng tha thiết muốn sống. Thực là kinh hãi khi Người phải chết trong lúc tuổi đời bước vào giai đoạn chín chắn, đầy hứa hẹn. Lời cầu nguyện của Người với Chúa Cha trong Vườn Cây Dầu xin cho mình tránh khỏi đau khổ và sư chết là một lời cầu xin chân thật tận đáy lòng. Nhưng Người sẵn sàng vâng theo ý Chúa Cha. Người sẵn sàng tự hiến. Người sẵn sàng chết để đánh đổi cho chúng ta một cuộc sống vĩnh cửu. Người đành mất mạng sống để đạt được sự sống mới. Chính Người đã phục sinh, đã đi trước chúng ta tiến vào thiên đàng.

Con đường của Đức Giêsu cũng là con đường dành cho mỗi người chúng ta. Chúng ta có thể hiểu được thế nào là mất hoặc tìm được sự sống khi chúng ta ngước mắt nhìn lên Đức Giêsu. Ai nghĩ rằng, chỉ có cuộc sống trần thế là quan trọng hơn cả, thì kẻ đó sẽ tìm đủ mọi phương tiện để chiếm hữu của cải và tìm cách hưởng thụ, nhưng kẻ đó sẽ phải đối diện với cái chết với hai bàn tay trắng. Tất cả đều phải để lại khi đã xuôi tay. Kẻ đó không hiểu đâu là ý nghĩa của cuộc sống con người. Ý nghĩa của cuộc sống con người chính là: Thiên Chúa là khởi nguyên, là trung điểm và tận cùng của cuộc sống con người. Do đó, ai đặt Thiên Chúa vào địa vị cao trọng nhất trong cuộc sống, kẻ đó hiểu giá trị đích thực của đời sống. Kẻ đó am hiểu những gì Thiên Chúa sẽ trọng đãi đối với kẻ mến yêu Ngài. Cho nên, dầu sống hay chết, dù sống an ninh hay trong nguy hiểm, tất cả đều nằm trong vòng tay đầy yêu thương quan phòng của Thiên Chúa. Ai sống như thế, kẻ đó tìm được sự sống.

 

37.Suy niệm của JKN

Câu hỏi gợi ý:

1. Yêu bản thân mình có phải là điều tốt hay chính đáng không? Tại sao? Nhưng tại sao Đức Giêsu lại nói: "Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được". Có gì mâu thuẫn và không hợp lý chăng?

2. Tại sao yêu Chúa và yêu tha nhân thì sẽ được hạnh phúc vĩnh cửu, được sự sống đời đời? Có thể lý giải cách nào không?

Suy tư gợi ý:

1. "Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất"

Người ta ai cũng yêu mình. Đó là điều rất tự nhiên và chính đáng. Chính Đức Giêsu đã từng nói: "Hãy yêu đồng loại như yêu chính mình" (Mt 19,19). Thánh Phao-lô cũng nói: "Chồng phải yêu vợ như yêu chính thân thể mình. Yêu vợ là yêu chính mình. Không ai ghét thân mình bao giờ" (Ep 5,28-29). Chính vì yêu mình, nên ai cũng có bản năng tự vệ, tự giữ lấy mạng sống, và không ai chịu liều mất mạng sống mình nếu không phải vì những lý do rất đặc biệt. Thế mà Đức Giêsu lại nói: "Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được". Có gì mâu thuẫn và không hợp lý chăng?

Ai cũng yêu mình, nhưng có hai cách yêu: yêu mình cách sáng suốt, và yêu mình cách ngu xuẩn. Yêu mình cách sáng suốt là yêu làm sao để chính mình được hạnh phúc. Còn yêu mình cách ngu xuẩn là yêu mình nhưng lại làm cho mình đau khổ. Vấn đề mấu chốt của việc yêu mình sáng suốt là ở chỗ nhận định được mình là gì, và những gì là mình.

2. Yêu mình cách sáng suốt và yêu mình cách ngu xuẩn

a) Minh họa 1:

Một người thích uống rượu, thích ăn những đồ ăn nhiều chất mỡ. Nhưng bác sĩ khuyên anh ta đừng uống rượu kẻo hại gan, đừng ăn đồ nhiều mỡ kẻo hại mạch máu. Nhưng anh ta nghĩ: gan không phải là mình, mạch máu cũng không phải là mình, chúng làm sao thây kệ chúng, không liên quan gì tới mình cả. Mình thương mình thì mình cứ ăn uống cho thỏa thích: "Vui xuân kẻo hết xuân đi, cái già sồng sộc nó thì theo sau"! Chẳng bao lâu sau, anh bị viêm gan và cao huyết áp trầm trọng, phải đau đớn rất nhiều, và cuối cùng chết sớm.

Cái sai lầm của anh này là nghĩ gan của mình, dạ dày của mình, phổi của mình… không phải là mình, nên không thương chúng, bỏ mặc chúng không thèm chăm sóc, để rồi chúng bị thương tổn, bị bệnh. Khi chúng bị bệnh thì bản thân anh cũng bị bệnh theo. Lúc đó anh mới biết chúng cũng là mình, thương chúng chính là thương mình, chăm sóc chúng chính là chăm sóc mình. Còn thương mình kiểu cứ ăn uống cho mình được thỏa thích bất chấp chúng ra sao thì ra, chính là làm hại mình, là tự giết mình.

b) Minh họa 2:

Một anh có vợ và một bầy con, nhưng anh chẳng quan tâm gì tới vợ con, anh chỉ biết lo cho bản thân anh, thậm chí còn đánh đập vợ con không thương tiếc khi bị trái ý. Anh còn mèo chuột lăng nhăng làm vợ con rất đau khổ. Chẳng bao lâu sau anh bị bệnh, không còn làm được việc gì. Lúc này anh rất cần vợ con nuôi dưỡng, chăm sóc anh. Nhưng vì anh đã đối xử quá tệ với vợ con, nên bây giờ anh bị hất hủi và đau khổ. Bây giờ anh mới nhận ra thương vợ con là thương chính bản thân mình, và chăm sóc vợ con cũng là chăm sóc chính bản thân mình.

Chúng ta còn có thể đưa ra nhiều minh họa khác chứng tỏ quần áo ta mặc, đôi giày ta đi dưới chân cũng là bản thân ta, những người sống chung quanh ta cũng chính là bản thân ta, v.v… Bên Phật giáo, từ ngữ "tăng thân" có nghĩa là thân được thêm vào bản thân của ta, bao gồm tất cả mọi người, mọi vật trong vũ trụ mà ta có cảm tưởng là ở bên ngoài ta. Theo giáo lý Đức Phật, tất cả mọi chúng sinh và tất cả những vật vô tri trong vũ trụ cũng là bản thân ta. Ta yêu chúng cũng là yêu chính ta, ta ghét chúng cũng là ghét chính ta. Ta làm cho chúng tốt đẹp hạnh phúc cũng chính là làm cho ta nên tốt đẹp hạnh phúc. Ta làm cho chúng xấu xa đau khổ cũng chính là làm ta nên xấu xa đau khổ. Vì thế, yêu mình một cách sáng suốt chính là biết yêu thương tất cả mọi người, mọi vật. Yêu mình một cách ngu xuẩn là do quan niệm về mình một cách quá giới hạn, tưởng rằng mình chỉ là thân xác mình, và chỉ biết đối xử tốt với nó, còn mặc kệ không thèm quan tâm chăm sóc đến những gì không phải là thân xác mình.

3. Thiên Chúa chính là bản thân sâu thẳm nhất của ta

Thánh Âu Tinh nói: "Thiên Chúa còn thân mật với tôi hơn chính bản thân tôi thân mật với tôi" (Deus intimior intimo meo). Nói cách khác, Thiên Chúa còn là tôi hơn cả chính bản thân tôi, Thiên Chúa là "cái tôi" sâu xa nhất của tôi. Chính vì thế, yêu Chúa bao nhiêu thì cũng là yêu mình bấy nhiêu. Và tương tự, yêu tha nhân thế nào cũng chính là yêu mình thế nấy. Thiên Chúa, tha nhân, và bản thân ta, một cách nào đó chỉ là một. Theo triết lý nhất nguyên của Đông phương, thì toàn thể những gì hiện hữu chỉ là một bản thể duy nhất, được thể hiện thành muôn vật dưới muôn hình vạn trạng trong thế giới hiện tượng. Trong nhãn quan của triết lý này, ta cảm thấy rất dễ hiểu việc yêu Thiên Chúa, yêu tha nhân cũng là yêu chính bản thân ta.

Chỉ có một điều là ta có thể cảm nghiệm được thân xác ta là ta một cách trực tiếp, nhưng phải có trí tuệ cao mới có thể cảm nghiệm được Thiên Chúa hay tha nhân cũng chính là ta một cách gián tiếp. Thực ra, ta chỉ có thể cảm nhận một cách trực tiếp nhất ý nghĩ của ta là ta, rồi mới cảm nghiệm được thân xác ta với các cơ quan của nó là ta. Vì thế, những gì ta lo cho thân xác ta thì có hậu quả thấy được ngay trước mắt. Còn những gì ta lo cho Thiên Chúa, cho tha nhân thì phải một thời gian sau - nghĩa là lâu hơn ít nhiều - mới thấy được hậu quả nơi ta.

Điều ấy có khác gì hai cách dùng tiền: một đằng là dùng tiền để mua ngay những gì cần thiết hay ích lợi cho bản thân, một đằng là dùng tiền để kinh doanh hầu có lợi lâu dài về sau. Cách trước thì sự hưởng thụ ích lợi đến ngay với mình, nhưng chỉ một thời gian là hết. Cách sau thì sự hưởng thụ đến với mình có thể rất chậm, nhưng sẽ rất lâu dài, thậm chí không bao giờ hết. Từ đó ta hiểu được tại sao yêu Thiên Chúa và tha nhân thì có được sự sống đời đời hay hạnh phúc vĩnh cửu, còn lối sống ích kỷ thì chỉ có được sự sống hay hạnh phúc tạm bợ mà thôi, để rồi sau đó là sự chết hay đau khổ lâu dài.

4. Hãy yêu Thiên Chúa hơn cả cha mẹ, anh em, con cái mình

Như đã nói trên, Thiên Chúa và tha nhân một cách nào đấy cũng chính là bản thân mình, nên yêu Thiên Chúa và tha nhân cũng là yêu chính bản thân mình. Nhưng Thiên Chúa mới chính là bản thân mình một cách sâu xa nhất. Vì thế, để yêu mình một cách sáng suốt và đem lại hạnh phúc lâu dài, người ta nên hy sinh bản thân cho tha nhân và Thiên Chúa. Và yêu tha nhân cũng chính là yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa thì trừu tượng, không thấy được, nên yêu Chúa một cách cụ thể là yêu tha nhân, nhưng hãy ưu tiên yêu người gần gũi với mình nhất, rồi đến những người xa hơn, và phải yêu thương tất cả không trừ một ai, dù là kẻ thù. Thánh Gio-an viết: "Nếu ai nói: "Tôi yêu mến Thiên Chúa" mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy" (1Ga 4,20). Nhưng giả như có sự xung đột giữa việc yêu Chúa và yêu tha nhân, thì ta luôn luôn phải dành ưu tiên cho Thiên Chúa. Nhưng một cách thực tế, yêu Thiên Chúa luôn luôn đồng nghĩa với yêu tha nhân, nên trong những trường hợp có sự xung đột này, ta thường phải hy sinh tình yêu tha nhân mang tính cá biệt cho tình yêu tha nhân mang tính đại đồng. Một cách cụ thể là phải đặt tình yêu chung

Trong một nhãn quan bao quát như trên, ta hãy đọc lại bài Tin Mừng hôm nay, ta sẽ thấy bài Tin Mừng trở nên dễ hiểu hơn trước rất nhiều.

CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, bây giờ con mới hiểu rõ tại sao mà con phải yêu Cha và yêu tha nhân. Bây giờ con mới hiểu yêu Cha và yêu tha nhân chính là yêu bản thân con một cách sáng suốt nhất, là đem lại hạnh phúc lâu dài cho bản thân con. Bây giờ con mới hiểu câu nói của thánh Phan-xi-cô: "Chính lúc quên mình (để yêu Thiên Chúa và tha nhân) là lúc gặp lại bản thân". Xin cho con biết yêu con bằng cách yêu Thiên Chúa và tha nhân một cách tích cực và chân thành. Amen.

 

38.Siêu thoát--Lm. Đỗ Vân Lực

Đức Giêsu có phải là một mâu thuẫn lớn nhất trong cuộc đời này không? Một đàng, Người nêu gương và kêu gọi mọi người hi sinh chính bản thân. Một đàng, Người lại muốn biến bản thân thành trung tâm cuộc sống con người. Thế nghĩa là gì?

THEO THẦY

Không gì thân thiết với con người bằng tương quan gia đình. Chính từ gia đình, con người hiện hữu và phát triển. Càng sống dưới mái ấm gia đình, con người càng đi sâu vào tương quan tình cảm và nội tâm. Thế nhưng trước những đòi hỏi Tin Mừng, các giá trị đó trở thành tương đối, vì “Nước Trời đã đến gần,” (Mt 10:7) và “Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông.” (Lc 17:21) Không có gì cao trọng hơn Nước Trời. Nước Trời là một giá trị tuyệt đối, đến nỗi người ta phải “bán tất cả những gì mình có” (M6 13:44.46) mới mua sắm nổi. Nước Trời là tất cả ý nghĩa và giá trị cuộc đời. Quả thực, “chính vì Nước Thiên Chúa mà anh em chịu đau khổ.” (1 Tx 1:5)

Để mua được một giá trị siêu việt đó, người ta phải hi sinh cả tương quan gia đình. Tương quan gia đình vượt lên trên “những gì mình có” và rất gần “những gì mình là”, tức là chính bản thân. So với Nước Trời, bản thân cũng là một giá trị quá nhỏ. Nhưng giá trị nhỏ bé này vẫn là một thực tại vô cùng quí giá không dễ gì đánh đổi. Chỉ đức tin mới thấy được chiều kích vĩ đại của Nước Trời và mới mạc khải cho ta biết Nước Trời chính là “Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.” (Mt 16:16) “Người cũng là đầu của thân thể, nghĩa là đầu của Hội thánh,” (Cl 1:18) và “chúng ta là bộ phận trong thân thể của Người.” (Ep 5:30) Chính vì thế, Đức Giêsu mới nói: “Ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được.” (Mt 10:39) Cái tôi nhỏ bé hòa nhập vào cái tôi vĩ đại. Không những không mất mát, mà còn tìm thấy chính mình trong một chiều kích lớn lao và một giá trị tuyệt vời hơn.

Nhưng trong cuộc sống, nhiều lúc hi sinh gần như đồng nghĩa với đổi chác. Người ta hi sinh là để tìm lại được cái gì cân xứng hoặc trổi vượt hơn. Thật vậy, những hi sinh của “một phụ nữ giàu sang” (2 V4:8) tại Sunêm cho ngôn sứ Eâlisa đã không uổng phí. Vì hiếu khách, vợ chồng đã đặc biệt dành nơi ăn chốn ở xứng đáng cho ngôn sứ Eâlisa, “là một người của Thiên Chúa, là một vị thánh.” (2 V4:9) Phần thưởng của ngôn sứ thật trọng hậu. Không những bà được ông bảo đảm có con trai (x. 2 V 4:8-17). Sau này, khi con bà chết, ông cũng đã làm cho cậu sống lại và trả lại cho bà (x. 2 V 4:31-37). Như thế, chính khi hi sinh thời giờ, sức lực và tiền của cho ngôn sứ, bà đã được đền bù cân xứng.

Nếu một ngôn sứ còn đem lại được phần thưởng lớn lao như thế, Đức Giêsu sẽ có phần thưởng nào cho người môn đệ? Khi chạm tới mạng sống, mọi hi sinh đều phải khựng lại, mọi tính toán đều phải chấm dứt. Thế mà Đức Giêsu dám đòi hỏi người môn đệ phải hi sinh chính bản thân là giá trị đáng quí nhất trên đời. Đó là một đòi hỏi tuyệt đối. Dĩ nhiên hi sinh đó sẽ được đền bù cân xứng. Đúng hơn còn vượt quá điều người ta mong đợi. Đức Giêsu khẳng quyết: “Phàm ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất, vì danh Thầy, thì sẽ được gập bội và còn được sự sống đời đời làm gia nghiệp.” (Mt 19:29; Mc 10:28-30; Lc 18:28-30) Bỏ đi những liên hệ tình cảm để đi sâu vào nguồn mạch tình yêu vô cùng lớn lao là Thiên Chúa, còn gì lợi hơn? Một khi đã đón nhận được nguồn tình yêu đó, ngay từ đời này, người môn đệ đã được quan tâm và che chở. Thực tế, “khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Kitô Giêsu, là chúng ta được dìm trong cái chết của Người,” (Rm 6:3) để “chúng ta cũng được sống một đời sống mới như Người nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha.” (Rm 6:7) Đời sống mới “đầy tràn ân sủng và sự thật.” (Ga 1:14) Nói khác, khi theo Đức Giêsu, người môn đệ sẽ “trở nên con Thiên Chúa” (Ga 1:12), và hoàn toàn được giải thoát (x. Ga 8:36). Đó là phần thưởng dành cho những ai “theo Thầy” và “đón tiếp Thầy”. Từ đó, cuộc sống tự nhiên trở thành một chứng từ mãnh liệt trước mắt mọi người.

Thực ra, khi kêu gọi môn đệ “theo Thầy” và “liều mất mạng sống mình vì Thầy”, Đức Giêsu không có ý thổi phồng cái tôi của mình. Hi sinh cái tôi để đánh đổi lấy một cái tôi khác, dù cái tôi này có vĩ đại tới đâu, cũng chỉ là chuyện “đánh bùn sang ao”. Chính Đức Giêsu cũng phải hi sinh cái tôi để làm theo thánh ý Chúa Cha. “Thực vậy, Đức Kitô đã không chiều theo sở thích của mình.” (Rm 15:3) Trong vườn Cây Dầu, Người đã “xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha.” (Mt 26:39) Ý Cha đã thực thi hoàn toàn trong cái chết của Đức Giêsu. Như vậy, Người đã từ bỏ chính mình. Muốn “theo Thầy”, môn đệ cũng “phải từ bỏ chính mình.” (Lc 9:23)

Xét cho cùng, khi sống kiếp phàm trần, Đức Giêsu cũng chấp nhận chỉ một mình Chúa Cha mới là nguyên ủy tuyệt đối. Từ lời nói tới việc làm, Đức Giêsu luôn qui hướng về Chúa Cha (x. Ga 14:10). Bởi đấy, nếu “vì yêu mến Thầy” (Ga 16:27) mà anh em đã “liều mất mạng sống mình vì Thầy” (Mt 10:39) thì “chính Chúa Cha sẽ yêu mến anh em.” (Ga 16:27) Nơi đỉnh cao tình yêu đó, con người có thể vượt lên trên tất cả để đạt tới “một cái gì tuyệt đối, tột đỉnh và nền tảng.” (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 24/06/2002) Như thế, “theo Thầy” không có nghĩa là đi từ hư vô này sang hư vô khác, nhưng tới một hiện hữu tuyệt đối là chính Thiên Chúa. Thực vậy, “ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy.” (Mt 10:40) Đức Giêsu còn nhấn mạnh: “Tôi và Chúa Cha là một.” (Ga 10:30) Không những Người hiệp nhất với Chúa Cha, nhưng còn đồng hóa với các môn đệ (x. Mt 10:40) và người nghèo (x. Mt 26:40). Như vậy, khi “theo Thầy”, người môn đệ biết mình theo ai và phải làm gì.

SIÊU THOÁT

Càng từ bỏ càng siêu thoát. Nhân loại hôm nay đang cần những con người biết từ bỏ mọi sự để tìm chân lý. Nói khác, con người siêu thoát là một nhu cầu cấp thiết nhất cho sự sống còn của nhân loại. Nếu chết dí dưới đống dữ kiện khoa học và kỹ thuật, con người sẽ không tìm được hướng giải thoát cho chính cuộc sống. Nhân loại hôm nay đang căng thẳng vì lo âu mọi mặt. Chính vì thế, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã thúc đẩy các Kitô hữu hãy cống hiến cho những người đang ưu tư đau khổ “những câu giải đáp của chân lý và hi vọng” bằng cách trình bày cho họ một triết lý siêu việt (Zenit 24/06/2002). Triết lý đó không đến với những con người suốt ngày cắm đầu vào những đống dữ kiện khổng lồ và chết ngộp trong đời sống dư thừa vật chất. “Song song với những khám phá khoa học lạ lùng và những tiến bộ kỹ thuật kỳ diệu, chúng ta đang chứng kiến hai mất mát lớn: mất mát Thiên Chúa và hiện hữu, mất mát linh hồn và nhân phẩm. Đôi khi sự kiện này sinh ra những hoàn cảnh khó khăn cần đến những câu trả lời trong chân lý và hi vọng.” (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 24/06/2002) Nếu không từ bỏ chính mình, con người sẽ không bao giờ tìm thấy những câu trả lời đó và sẽ không bao giờ khám phá thấy mình là ai. Quả thực, “văn hóa ngày nay nói và biết nhiều về con người, nhưng hình như không biết con người là ai. Thực vậy, con người chỉ có thể hiểu biết trọn vẹn về chính mình trong ánh sáng Thiên Chúa. Con người là “hình ảnh Thiên Chúa – được tình yêu tạo dựng và được an bài sống hiệp thông đời đời với Thiên Chúa.” (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 24/06/2002) Hình ảnh này chỉ tìm thấy nơi Đức Giêsu và những ai đang“theo Thầy”.

 

39.Bỏ mình để đi theo Chúa Giêsu--Học viện Giáo hoàng Piô X Đà Lạt

CÂU HỎI GỢI Ý

1. Đoạn văn này có thuần nhất không? Các câu 37-39 có đề cập cùng một vấn đề như cc. 40-42 không?

2. Trong 6 câu này, có mấy câu quy chiếu về Chúa Giêsu? Đâu là hậu quả cho việc khổ chế Kitô giáo?

3. Phải chăng tình yêu đối với cha mẹ là chướng ngại vật giữa Thiên Chúa với tôi? Thiên Chúa không phải là chính tình yêu sao: tình yêu có thể đối nghịch với tình yêu à?

Các câu 37-39 gợi lên một vài nhận xét tổng quát như sau:

1. Trong lúc mấy đoạn văn trước của Diễn từ này minh nhiên quy hướng về việc làm chứng tá truyền giáo “trước mặt người đời” (c. 33), thì các câu đây, cũng như mấy câu 34-35, lại chú trọng tới việc đòi hỏi mọi người phải theo Chúa Giêsu cho đến chết, mà không ám chỉ gì về ý nghĩa truyền giáo của đức vâng phục đó; nơi câu 39, sự chú ý lại hoàn toàn tập trung về ý tưởng cứu rỗi cá nhân; thành thử ta có quyền thắc mắc không biết tác giả Tin Mừng đã đặt đúng ở đây ba lời nói đó (cc. 37, 38, 39) hay không!

2. Cảm tưởng này càng tăng thêm qua sự kiện các câu 38 và 39 lại được lặp lại ở 16, 24-25; nếu như vậy thì ta đang đứng trước cùng một hiện tượng như trong các đoạn văn trước là: Mt đưa vào trong phần huấn thị cho các sứ đồ những lời Chúa Giê-su có lẽ đã nói cho môn đồ cách chung và ngay cả đám đông nữa; quả thế, câu song song vòi Mt 16, 24-25 trong Mc 8, 34-35 cho ta thấy Chúa Giêsu ngỏ lời với đám đông cùng các môn đồ Người”.

3. Tuy nhiên sự kiện này không phải chỉ là một lắt léo có tính cách văn chương; vì cái nối kết cách sâu xa hai nhóm huấn dụ của Chúa Giêsu (10, 37-39 và 16, 24-25), là trong cả hai trường hợp, Người đều đòi hỏi một sự gắn bó công khai. Người không đếm xỉa đến mọi cuộc tận hiến riêng tư vốn chỉ là một cuộc đào sâu âm thầm, kín đáo. Về vấn đề này, thành ngữ “vác khổ giá mình”, có ở cả hai câu, thật là đầy ý nghĩa như ta sẽ thấy sau đây. Vì thế Mt có thể ghi lại các lời đó của Chúa Giêsu ở chương 10 cũng như chương 16. Chẳng có việc gắn bó nào với Chúa Kitô mà không phải là một cuộc mạo hiểm công khai đầy bất trắc; nhưng cũng chẳng có việc công khai “dấn thân” sống các mệnh lệnh của Người mà không đồng thời là hành vi thâm sâu nhất, riêng tư nhất (mất mạng sống). Thành ra, vào cuối bài huấn dụ dài dòng về việc tông đồ truyền giáo này, ta đứng trước cái chủ đề chính yếu vốn chi phối bài huấn dụ từ đầu này đến đầu kia: đó là không có gì che giấu mà có thể bị giấu che mãi, nghĩa là cuộc sống “nội tâm” nhất (của cá nhân cũng như tập thể) sẽ trở thành công khai nhất và nguy hiểm nhất vậy.

CHÚ GIẢI CHI TIẾT

“Kẻ yêu Cha mẹ hơn ta”: Ở đây Chúa Giêsu tỏ ra ghen tương theo nghĩa ghen tương của Gioan trong Cựu ước (Đnl 29, 20; 32,16; Ge 2; 18; Dcr 1, 14...); Người không chấp nhận bất cứ tình yêu nào cạnh tranh với tình yêu mà người ta phải có đối với Người. Tuy nhiên hãy ghi nhận các điểm này:

1. Động từ yêu ở đây chẳng phải là động từ agapan (x 5, 43; 19, 19; 22, 37tt) thường được dùng trong các Tin Mừng để chỉ tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân, song là động từ philein, họa hiếm trong Mt, và thường được hiểu theo nghĩa: gắn bó với, có cảm tình với, thích thú điều này điều nọ (6, 5; 23, 6; 26, 48 theo nghĩa cái hôn của Giuđa); thành thử lời ấy tố cáo nhưng gắn bó có tính cách tự nhiên và gia đình, dĩ nhiên là chính đáng, nhưng có thể trở thành chướng ngại vật việc phụng sự Chúa Kitô.

2. Nghĩa của câu này và nhất là văn mạch trực tiếp và tổng quát cho thấy nó không đặt đối nghịch hai thứ tình cảm nội tâm, nhưng hai thái độ cụ thể: kẻ nào sắp theo Chúa Giêsu mà còn ràng buộc với gia đình thì chẳng xứng đáng với Người vậy.

Về câu 37, hãy lưu ý: Chúa Giêsu là kẻ đầu tiên đem nó ra thực hành. Không phải Người ít quan tâm đến lòng yêu thương chính đáng đối với cha mẹ bà con đâu: trước sự tráo trở của Biệt phái dám tuyên bố là “của cúng” những vật đáng ra phải được cấp dưỡng cho cha mẹ già yếu, Chúa Giêsu đã mạnh mẽ nhắc lại giới luật: “Ngươi hãy thảo kính cha mẹ ” (Mc 7, 11tt) Nhưng đối với Người, tình yêu này phải lệ thuộc thánh ý Chúa Cha trên trời. Người đã làm gương về điều đó khi ở lại Đền thờ dịp hành hương Giêrusalem lần thứ nhất: “Cha mẹ không biết là con phải ở nơi nhà Cha con sao?” (Lc 2, 49). Và về sau Người gọi là cha là mẹ những kẻ tụ họp quanh Người và “những ai làm theo ý Thiên Chúa” (Mc 3, 33-35).

Trong câu 37 này, thánh ý Thiên Chúa được biểu hiệu một cách cụ thể qua con người Chúa Giêsu, hiện thân hoàn toàn của thánh ý đó. Đến nỗi kẻ nào chẳng nhìn nhận sự tối thượng của Người thì không thể thành môn đồ Người được. Vì sao có sự khắt khe đó, sự khắt khe mà tự nhiên ta khó chấp nhận? Lý do duy nhất có thể đưa ra là vì Người là Thiên Chúa, là Ngôi vị thần linh. Đứng trước ngôi vị này, tất cả mọi giá trị và mọi ngôi vị khác đều phải lu mờ đi.

“Không xứng với Ta “: Tất cả các đoạn văn của Mt có dùng hạn từ “xứng đáng” đều cho thấy đây không phải là một sự xứng đáng nội tại có trước khi được Chúa Kitô kêu gọi, cũng chẳng phải là sự xứng đáng sở đắc được nhờ một khai tâm đạo lý nào đó kiểu tôn giáo Hy lạp, nhưng là sự xứng đáng mà ngày nay ta có thể gọi là hiện sinh: kẻ nào không muốn cắt đứt liên hệ thân thiết nhất (nếu cần) để theo Chúa Giêsu, thì ra bất xứng hay đúng hơn, tự làm cho mình nên bất xứng với Người.

“Kẻ không vác lấy khổ giá mình”: Trong truyền thống Nhất lãm, ít nhất đã có 5 lần Chúa Giêsu tuyên bố câu đó: Ý nghĩa nguyên thủy của thành ngữ “vác khổ giá mình” không được minh xác mấy. Tuy nhiên tư tưởng chủ yếu vẫn như sau: Theo Chúa Kitô là theo Người trên một con đường đau khổ mãnh liệt và công khai. Do đó phải tiên liệu và chấp nhận sự chống đối dữ dội và hầu như chính thức mà mình phải chịu vì là môn đồ Chúa Kitô.

“Kẻ cố tìm sự sống mình thì sẽ mất; còn kẻ đánh mất sự sống mìmh vì Ta thì sẽ gặp lại: Người môn đồ chẳng được từ bỏ sự sống vì cho rằng sự sống không có giá trị, vì thích phấn đấu hoặc vì bị cáo chết ám ảnh một cách bệnh hoạn. Không được bỏ sự sống với một thái độ khinh bỉ kiêu căng như các triết gia kiêu kỳ hay các bài ca ái quốc chủ trương. Câu Chúa Giê-su nói nghịch hoàn toàn. Phải mất sự sống đi để được nó. Và ngược lại, kẻ đã gặp” nó, đang chiếm hữu nó bây giờ, đang gắn bó vào nó và xem sự sống mình ở đời này như là sự sống đích thực, thì sẽ mất nó cho mà xem. Điều này không môn luận lý, không khoa luân lý nào của thế gian có thể giúp quán triệt cả. Vì đây là một kinh nghiệm hiện sinh đã bắt đầu trong cuộc sống bình thường mỗi ngày và có thể kết thúc cách cao cả trong hy tế tử đạo: Lời này của Chúa Giêsu không phải là một hình thức tu từ hay biện chứng pháp thuần lý, nhưng là một biện chứng pháp hiện sinh. Chân lý của nó chỉ có thể nhận thức được và sống trong niềm tin. Bảo chứng duy nhất của chân lý này là Thiên Chúa. Và thế là đã đủ.

“Kẻ tiếp đón các con là tiếp đón Ta “: Nguyên tắc “người được sai đi ngang hàng với kẻ sai đi ” rất quen thuộc với Do thái giáo. Ngày nay vẫn vậy, vai trò ngoại giao của các đại sứ sứ thần… cũng dựa trên nguyên tắc đó. Động từ “đón tiếp” phải được hiểu vừa theo nghĩa rất cụ thể là hiếu khách, nghĩa đã có từ đầu chương, vừa theo nghĩa “tùng phục ” Lời mà sứ đồ đem đến.

“Kẻ tiếp đón một ngôn sứ… tiếp đón người công chính”: Nghĩa của câu này không mấy rõ. Một vài nhà chú giải (Schniowind, Bonnard, Légasse…) hiểu các chữ “ngôn sứ” và “công chính” như là tiếng đồng cách hay đồng nghĩa với chữ “sứ đồ”. Thật vậy trong Tân ước người ta luôn nói đến các “ngôn sứ” theo nghĩa là những kẻ có ơn đoàn sủng của Giáo Hội sơ khai và một cách nào đó kế vị các ngôn sứ Cựu ước (Cv 11, 27tt; 13, 1; 21, 10tt; 1Tx 5, 20; 1Cr 14, 1- 5. 32. 37). Nếu thế thì nghĩa của câu này có lẽ như sau: Ai tiếp đón sứ đồ, tức là ngôn sứ người công chính, với lòng kính trọng phải dành cho một ngôn sứ và người công chính, thì… Nhưng nhiều nhà chú giải khác (Trilling, E.Meyer, O.Michel v.v…) lại nghĩ “ngôn sứ” và “công chính” là hai chức vụ hay hai loại người khác với các sứ đồ trong Giáo Hội sơ khai.

Cả hai cách giải thích trên đều gặp khó khăn. Cách giải thích đầu không ăn khớp với văn mạch. Quả thế, trong c. 40, Chúa Giêsu trực tiếp nói với các sứ đồ (“chúng con”); vì vậy không thấy làm sao câu sau lại tiếp tục nói về họ ở ngôi thứ ba (trong lúc họ đang có mặt) và lần này gọi họ là các “ngôn sứ” và người “công chính”. Hơn nữa, các sách Tân ước luôn phân biệt kỹ lưỡng “sứ đồ” và “ngôn sứ”; không lẽ ở đây lại lẫn lộn cả hai cách chú giải thứ nhì ăn khớp với văn mạch vì, như đã nói ở trên, các “ngôn sứ”, trong Giáo Hội sơ khai, được biết như là một nhóm người xác định khác với nhóm sứ đồ. Nhưng vẫn còn một khó khăn: nếu người “công chính” của đoạn này là một nhóm đặc biệt trong Giáo Hội sơ khai, sao lại không thấy các sách Tân ước đề cập chỗ nào nữa cả. Có lẽ chữ “công chính” không chỉ nhột chức vụ hay tác vụ như đã có trong các cộng đoàn của Phaolô, nhưng là một tình trạng, phát xuất từ lối sống gương nẫu của một số Kitô hữu, và do đó đã khiến họ được một địa vị trổi vượt trong cộng đoàn. Có lẽ đây là dấu vết lối tổ chức cổ xưa của cộng đoàn sơ khai.

“Một trong những kẻ bé mọn này”: Nhóm thứ ba đây gồm các môn đồ tầm thường của Chúa Giêsu, những kẻ không có trách vụ gì trong cộng đoàn Kitô hữu. Tư tưởng của câu này rất táo bạo và cao quý. Ai chỉ mang tư cách môn đồ thôi cũng đã đáng kính trọng vì đó và đáng được đặt ngang hàng với mọi môn đồ. Vâng, các kẻ “bé mọn”, vốn không là gì khác ngoài “môn đồ”, không làm gì khác ngoài việc “tin ” (18, 6) cũng đáng được kính nể và yêu thương đặc biệt. Vì họ dễ bị loại ra một bên, dễ bị “người lớn” đối xử một cách ngạo mạn. Lời khuyến dụ của Chúa Giêsu (như trong 18, 6-14) nhằm đề phòng các điều đó vậy.

“Phần thưởng của ngôn sứ… của người công chính”: Khó mà diễn tả cách cụ thể điều thành ngữ này muốn nói. Có lẽ phải quy chiếu về ý tưởng chủ yếu của các câu trước, tức là người được sai đi ngang hàng với kẻ sai đi. Trong trường hợp đó có thể hiểu như sau: kẻ tiếp đón một ngôn sứ sẽ nên giống hay ngang hàng với ngôn sứ và như thế sẽ lĩnh cùng phần thưởng như vị này. Đối với người công chính cũng vậy. Việc đặc biệt tôn trọng người “bé mọn” được biểu lộ qua sự kiện là hành động nhỏ nhặt nhất làm cho họ sẽ không uổng công vô ích.

KẾT LUẬN

Diễn từ về sứ vụ môn đồ chấm dứt ở điểm này: chung quy lại cũng chỉ nói về “môn đồ Chúa Giêsu”, nghĩa là Ki-tô hữu thông thường, kẻ được sai đi và liên kết với sứ mệnh của Thầy mình. Ngay cả người Kitô hữu khiêm hèn nhất, tức là kẻ “bé mọn”, cũng có thể gán cho mình những điều đã nói trước. Họ thấy phẩm giá cao quý của mình được xác nhận cách rõ ràng trong câu cuối cùng của Diễn từ Chúa Giêsu.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1. Theo Chúa Giêsu chẳng phải là bỏ yêu thương cha mẹ con cái mình. Ngược lại thì có. Vì kẻ thật sự theo Người sẽ được một sự tự do mới, sự tự do chân chính để yêu thương cha mẹ và tất cả mọi người một cách đích thực. Nhưng thứ tình yêu này là một tình yêu mới, siêu nhiên (chứ không phải là phản tự nhiên), có khả năng yêu kẻ khác vì Thiên Chúa, trong Thiên Chúa với chính tình yêu của Ngài. Nhưng trước đó, môn đồ phải dứt khoát quyết định theo Chúa Kitô.

2. Trong đời sống mỗi người, có một ngưỡng cửa giúp kiểm chứng cách rõ ràng việc họ phó thác cho Thiên Chúa và từ bỏ chính mình có thật sự và thực tâm hay không. Đó là cái chết. Kẻ nào dám liều mất sự sống đời này một cách ý thức, thì có thể nói: quyết định của họ là triệt để và đích thực. “Vác khổ giá của mình” là cho thấy mình sẵn sàng chết đi. Môn đồ chỉ xứng đáng theo Thầy khi sẵn sàng đánh mất sự sống, khi chấp nhận điều đó một cách sâu xa và với tất cả con người.

3. Lúc một người anh em trong Chúa Giêsu Kitô hay một linh mục vào nhà ta, ta không chỉ đón tiếp họ theo phép lịch sự tự nhiên, thường tình, nhưng trong đức tin, như tiếp đón chính Chúa Giêsu vậy.

4. Ta phải lưu lâm đến hết mọi người và phục vụ họ ngay cả trong những chuyện tầm thường nhất, như mời một ly nước lã. Vì bất cứ một sự lưu tâm nào đối với kẻ “bé mọn” nhất cũng là một sự lưu tâm đối với Chúa. Khi mở rộng lòng mình cho tha nhân như thế, ta sẽ “được sự sống” là điều duy nhất có thể làm ta thỏa mãn.

 

40.Chú giải của Noel Quesson

Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu được cấu tạo trên năm bài giảng của Đức Gỉêsu, kết hợp với năm giai đoạn “Ký thuật”

Dĩ nhiên, đây là những tổng hợp mà Mát-thêu tập họp từ các yếu tố thường được tìm thấy trong các văn cảnh khác trong sách Luca và Mác-cô. Ngày hôm nay chúng ta đọc phần cuối của "Bai giảng về các Tông Đồ”, "bài giảng thứ hai trong soạn thảo của Mát-thêu. Ơ đây, Đức Giêsu cho các Tông Đồ mà Người đã bổ nhiệm" để thay thế Người. (Mt 10, 1.2.5-11,1) những chỉ thị cho việc tông đồ. Đó là những phán quyết theo mẫu câu nói, vô cùng mạnh mẽ... nghịch lý, gọt giũa nhu những câu châm ngôn, mà một khi đã nghe, người ta không còn quên được.

Ai yêu cha hay yêu mẹ hơn Thầy thì không xứng với Thầy.

Những lời này cứng rắn không thể trạng! Những lời thiếu tình người có thể bị hiểu sai, ở một thời đại mà cha mẹ rất khó chịu vì những quan hệ khó khăn với con cái như thời đại chúng ta. Có vẻ như Đức Giêsu khuyên con cái không yêu cha mẹ chúng! Giới răn thứ tư của Thiên Chúa vẫn là một giới răn thiêng liêng: "Thảo kính cha mẹ?". Chính Đức Giêsu đã làm gương về sự vâng lời và trung tín tế nhị đối với Mẹ Người (Lc 2,50; Ga 19,26). Người cũng nhắc lại rằng sự giúp đỡ cụ thể cha mẹ cũng vượt qua trước "của lễ dâng trong Đền Thờ" (Mt 15,3-6). Vậy Đức Giêsu muốn nói gì bằng những lời cứng rắn mà Người phát biểu ở đây? Một cách chính xác, Đức Giêsu quan niệm về bổn phận thiêng liêng nhất, và nói với chúng ta một cách mạnh mẽ nhất, rằng người ta phải yêu mến Người hơn tất cả những người đáng yêu nhất, những người mà chúng ta phải yêu nhiều nhất. Theo Đức Giêsu, trở thành tín hữu, đôi lúc có thể gấy ra sự chống đối của những người thân yêu nhất của chúng ta. Lúc đó, Đức Giêsu đòi hỏi chúng ta phải yêu mến Người hơn. Và chúng ta biết rõ ở thời đại chúng ta điều đó rất thường xảy ra. Tin Mừng đề nghị chúng ta một sự chọn lựa dứt khoát dẫn đến sự dấn thân trọn vẹn cho một quan niệm sống. Vì sự chọn lựa ấy triệt để nên nó làm cho người ta không sống như trước đây, Đức Giêsu thường trở thành một nguyên nhân của những sự bất hòa ngay trong những gia đình đoàn kết nhất bởi tình cảm tự nhiên. Qua bản văn cổ này được viết ra từ 2000 năm nay, cuộc xung đột ấy không mới mẻ như người ta tưởng. Lạy Chúa, xin giúp chúng con trung tín với Chúa dù với giá máu của trái tim con.

Ai yêu con trai hay con gái mình hơn Thầy, thì không xứng với Thầy.

Câu thứ hai này hoàn toàn song song với câu trên: sau mối quan hệ của con cái đối với cha mẹ... giờ đây là mối "quan hệ của cha mẹ đối với con cái...” Đức Giêsu đòi hỏi vị trí hàng đầu trong tình yêu của chúng tạ; Yêu sách này không thể chấp nhận được, không thể hiểu được, nếu Người không phải Thiên Chúa! Trong tất cả những vị sáng lập các tôn giáo, Đức Giêsu là người duy nhất nói như thế, những vị khác nói rằng: "phải yêu mến Thiên Chúa. Còn tôi, tôi chỉ là người phát ngôn của Thiên Chúa". phải, trong mọi tôn giáo, người ta đặt Thiên Chúa lên trên mọi sự. Nhưng ở đây chính là Đức Giêsu. Táo bạo biết bao? Anh hãy ghi nhận chữ Thầy (Tôi) không ngừng được lặp lại trong các công thức đó: không xứng với Thầy"... "không xứng với Thầy" Vậy Thầy là ai?”

Vào thời đại chúng ta, chúng ta nhạy cảm với sự hiệp nhất của những tình yêu. Chúng ta thường nói rằng khi yêu thương những người khác là chúng ta yêu mến chính Thiên Chúa. Và thật vậy? Theo chiều hướng này, sự liên đới của chúng ta là chính và được Thiên Chúa mong muốn. Và thật thảm hại nếu chúng ta sử dụng những công thức của Tin Mừng ấy để biện minh cho sự thiếu tình yêu thương của chúng ta, sự co quắp của chúng ta trên những lợi ích cá nhân, sự bất lực ích kỷ của chúng ta không chịu đựng, dung thứ như những người thân yêu. Vả lại, yêu cha mẹ, yêu con cái còn đi xa hơn khung cảnh gia đình chật hẹp. Đó cũng là thừa nhận cội rễ di truyền, địa phương, văn hóa, xã hội: dù muốn hay không, chúng ta là con cái và cha mẹ… chúng ta phụ thuộc và chúng ta tạo ra sự phụ thuộc! Chúng ta là thành phẩm của một "môi trường", một "thời đại Nhưng các sự liên đới ấy dù rất quan trọng, không thể trở thành một cái cớ biện minh cho việc chúng ta không đi theo Đức Giêsu. Biết bao thanh niên hoặc biện minh sự bỏ đạo của họ, bằng sư bỏ đạo của mọi người xung quanh họ!

Ai yêu "môi trường" của mình hơn cả Thầy không xứng với Thầy.

Ai yêu bạn bè mình hơn chính Thầy không xứng với Thầy.

Ai yêu hoàn cảnh, nghề nghiệp của mình hơn chính Thầy không xứng đáng với Thầy.

Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy thì không xứng với Thầy.

Đó là cấp độ thứ ba của nấc thang từ bỏ: trên hết là phải từ bỏ chính mình. Sự ám chỉ thập giá ấy làm chúng ta nghĩ rằng hẳn Đức Giêsu không bao giờ đề nghị những sự hy sinh như thế nếu Người đã không sống chúng trước tiên. Mọi thập giá được chúng ta vác... là một thập giá "đi theo" Đức Giêsu. Bạn đang đau khổ... bạn đi theo sau thập giá của Người.

Vác thập giá của mình! Chúng ta có thể bị cám dỗ làm cho cách diễn đạt ấy mất hết sức mạnh và sự khốc liệt của nó. Đối với Mát-thêu, vấn đề không phải là một hình ảnh sùng đạo, một ngôn ngữ quy ước để nói về những hy sinh nho nhỏ của đới sống. Vào thời đại của Đức Giêsu, sự đóng đinh thập giá vẫn là hình phạt dành cho những kẻ nô lệ, hình phạt tàn ác và ô nhục nhất trong các cực hình Người bị kết án phải hứng chịu sự giận dữ của quần chúng, hấp hối trong sự đau đớn khủng khiếp dưới sự chứng kiến của đám đông. Xem ra Đức Giêsu có thể đã thấy những kẻ bị đóng đinh, trước khi chính Người cũng bị đóng đinh? Ở Pa-lét-tin, vùng đất mà người La Mã chiếm đóng đó là cách xử tử thông thường. Một sử gia của thời đó đã thuật lại rằng khi Hê-rô-đê cả chết, thủ lãnh của đạo quân La Mã, Varus đã ra lệnh đóng đinh cùng một lúc hai ngàn người Do Thái! Thập giá không còn là một vật để thờ phượng hay để điểm trang!

Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm thấy được.

Đây còn là một lời tuyên bố mà bề ngoài như nói ngược lại tất cả những gì thế giới hiện đại đòi hỏi: Ngày nay, sự tìm tòi cao nhất là để "tự thực hiện" bản thân, “phát triển mình", "tự thể hiện mình": Còn Đức Kitô đề nghị chúng ta "mất. mạng sống mình" để "theo Người"!

Tuy nhiên, nếu chúng ta chịu suy nghĩ một chút thì bên trên sự đụng chạm ban đầu, chúng ta khám phá trong tư tưởng của Đức Giêsu một trong những luật căn bản của đời sống chúng ta. Một người không có khả năng từ bỏ mình vì người khác thì người đó không có khả năng yêu thương. Kinh nghiệm hiện sinh hàng ngày của chúng ta cho chúng ta khám phá rằng "phải đánh mất mình đi" để thật sự phát triển trong tình yêu người khác. Vả lại, nghịch lý ấy chỉ có thể hiểu được trong ánh sáng Phục Sinh, chính Đức Giêsu đã sống nghịch lý đó trước tiên. Đánh mất sự sống... để chiếm lấy sự sống!

Lời của Đức Giêsu không có đặc tính gì là thích tự hành hạ mình, tiêu cực, buồn bã; đó là một lời tích cực và vui tươi Vấn đề là phải chiếm lấy". Đức Giêsu đề nghị chết cho chính chúng ta để thật sự sống. "Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào" (Ga 10,10). Vậy, đây không phải là một sự bàng hoàng dũng cảm của thuyết hư vô và dù ít dù nhiều cũng là sự tự tử, mà đây là tình yêu thương mỗi ngày đòi hỏi chúng ta phải đánh mất mình vì những người khác... và là sự phát triển cao thượng nhất! Không hề phá hủy con người, sự hy sinh từ bỏ tạo thành những người đàn ông và đàn bà cao cả nhất. Chỉ cần nghĩ đến Charles de Foucault, Mẹ Têrêxa Can-quýt-ta, Martin Luther Kinh và nhiều người khác!

Còn nếu co quắp vào tính ích kỷ nhỏ bé của mình, sự phát triển của cá nhân mình thì như Đức Giêsu đã nói đó là phương tiện chắc chắn nhất làm hỏng cuộc đời mình. Lạy Chúa, xin cho chúng con hiểu được lời Chúa và ban cho chúng con sức mạnh để sống lời ấy. Thánh Phaolô đã nói "được rửa tội" chính là chịu đóng đinh với Đức Kitô để sống với Người" (Rôm 6,6-8) Và mỗi thánh thể nhắc chúng ta rằng Đức Giêsu đã "nộp sự sống của Người".

Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy”.

Đoạn văn bắt đầu bằng những lời này là phần kết luận của "Bài giảng về các Tông Đồ". Và thật ra chúng ta luôn ở trong cùng một luồng tư tưởng: luôn là vấn đề của lòng yêu thương... và yêu thương dưới hình thức đơn giản nhất là đón tiếp người khác.

Ai đón tiếp một ngôn sứ, vì ngườ ấy là ngôn sứ thì sẽ được lãnh nhận phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ, ai đón tiếp một người công chính, vì người ấy là người công chính thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc công chính.

Và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ là một chén nước lã mà thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu.

Thế giới hiện đại này có vẻ đề cao sự phát triển cá nhân kể cả bằng sự đè bẹp những người khác (ví dụ như trong việc phá thai và nhiều hoàn cảnh khác...) cũng thế giới ấy đã tìm thấy công thức tàn bạo: "Tha nhân là hỏa ngục!"

Còn Đức Giêsu đề cao lòng hiếu khách, cởi mở, đón tiếp chúng ta có dành cho người xa lạ một chỗ khiêm tốn nơi bàn ăn của chúng ta không? Người khách được đón tiếp vào nhà chúng ta là một sự hiện diện của Đức Chúa. Hỡi vị khách xa lạ, hãy nói cho chúng tôi nghe điều bí mật của bạn.

Tiếp đón niềm nở chính là hình thức vui tươi của lòng yêu thương.

Đó là một ơn thường gặp nhất mà người ta có thể thực hiện ở mọi lúc dù khi quá nghèo và người ta không có gì để cho ngoài tính cách của sự đón tiếp Đức Giêsu đã gợi ra ba loại thành viên của cộng đoàn:

Các ngôn sứ, các người công chính và các kẻ bé nhỏ! Hai loại người trên đã được tôn kính trong đạo Do Thái. Nhưng Đức Giêsu còn thêm những "kẻ bé nhỏ", những "môn đệ bình thường", những người mà người ta luôn -liều lĩnh bỏ quên họ để chỉ quan tâm đến các Kitô hữu siêu hạng các chiến sĩ đức tin, các người dấn thân cao cả? Trong một thế giới rất dễ dành mất tình người và lại luôn đi tìm những môi trường mới cho sự hiệp thông nhân loại, lời mời gọi Đức Giêsu luôn có giá trị. Các kỹ thuật viên của mọi hệ thống, các chuyên gia về "nhóm năng động", các người nhiệt thành truyền bá các ý thức hệ xứng đáng... đều phải tìm cách thực hiện động tác đơn giản cho người đang khát một chén nước: chỉ là một chén nước lã! Biểu tượng cho tương quan con người đơn giản nhất. Tin Mừng xem ra không đơn giản. Đức Giêsu cảnh báo sự dửng dưng và vô tâm của chúng ta. Tha nhân! Người khác! Kẻ bé nhỏ nhất.

 

41.Ai đón tiếp các con là đón tiếp Thầy--Fiches Dominicales

I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:

Với Chúa nhật XIII này, kết thúc bài "diễn từ sai đi truyền giáo".

1. Sẵn sàng để theo Đức Kitô.

Đức Giêsu nói với "mười hai môn đệ" thân thiết mà Người vừa phong làm tông đồ, tức là những kẻ "được sai đi, của Người. Bài diễn từ có chia làm phần rõ rệt: Phần thứ nhất tập trung vào SỰ SẴN SÀNG TRỌN VẸN và sự gắn bó triệt để của người môn đệ vào Đức Kitô. Đức Giêsu đòi người môn đệ yêu mến Người hơn những gì thân yêu nhất: "Ai yêu cha mẹ hơn Thầy không xứng đáng làm môn đệ Thầy. Ai yêu con cái hơn Thầy không xứng làm môn đệ Thầy. Những lời này không đi ngược với giới răn thảo kính cha mẹ. Trong thể văn khoa đại kiểu Sêmít, những lời này chỉ nhắm thiết lập một trật tự ưu tiên trong những lựa chọn. Những tình cảm gia đình, dù chính đáng, không thể kìm hãm, càng không thể ngăn chặn những môn đệ bước theo Đức Giêsu. Những mối dây liên hệ thiêng liêng này chỉ là tương đối so với mối liên hệ tuyệt đối: gắn bó vô điều kiện vào bản thân Đức Giêsu. Ở đoạn văn trước đó, cùng đậm đặc chất Sêmít, Đức Giêsu đã nói không úp mở cho những ai muốn theo Người biết những chọn lựa đau đớn mà họ sẽ phải trải qua: "Thầy đến để tách lìa con trai khỏi cha, con gái khỏi mẹ, con dâu khỏi mẹ chồng, người trong một nhà sẽ chống đối nhau. Claude Tassin gợi ý: "Hãy nghĩ tới nhũng người ngoại đạo mới trở lại, từ chối không thờ lạy thần của gia đình vì đức tin Kitô hữu... Giữa "ngôi nhà" của Thiên Chúa (câu 25) và ngôi nhà của riêng mình", người môn đệ luôn luôn bị đẩy vào cho phải lựa chọn giữa (nhà" của Thiên Chúa và "nhà của riêng mình”, Đức Giêsu sẽ đi xa hơn nữa: Người mời gọi môn đệ yêu mến Người hơn chính bản thân họ, hơn cả mạng sống của họ? Và vì người môn đệ đã chọn chia sẻ vận mệnh với Người, Đức Messia chọn đóng đinh, họ sẽ không ngại ngùng vác lấy "thập giá bản thân" mà theo Người". Nếu ta thường cho rằng kiểu nói "vác thánh giá" thuộc về một ngôn ngữ ước lệ thì các độc giả của Matthêu không nghĩ thế, vì họ phải sống trong một hoàn cảnh bắt bớ, đe doạ, nơi cái chết trên thập giá xảy ra rất thường và là hình khổ tàn bạo, nhục nhã hơn hết, hình khổ dành cho nô lệ. Thế nên ai chọn nối bước Đức Giêsu chắc chắn rồi sẽ như Thầy mình, gặp phải hiểu lầm, thù ghét, và cả bắt bớ nữa.

2. Đón tiếp các môn đệ của Đức Kitô.

Với 4 câu, phần thứ hai trở lại đề tài "ĐÓN TIẾP" môn đệ Đức Kitô.

Trước hết để xác định sự duy nhất giữa Đấng sai đi và người được sai đi: "Ai tiếp đón các con là tiếp đón Thầy; ai tiếp đó Thầy là tiếp đón Đấng đã sai Thầy”.

Sau đó, để phân biệt chi tiết sự đón tiếp theo 3 mức độ giảm dần một cách nghịch lý: các "tiên tri", những "người công chính", nhưng "kẻ bé mọn", và long trọng xác nhận họ có tư cách xứng đáng là sứ giả của Phúc âm. Các "tiên tri" hiển nhiên là những Kitô hữu. Họ đã thi hành một tác vụ được chấp nhận trong Giáo Hội sơ khai. Những "người công chính có lẽ là những thành phần được kính trọng trong cộng đoàn Kitô hữu. Còn những kẻ "bé mọn" là các môn đệ, họ chẳng làm gì hơn là "tin" vào Đức Giêsu. Họ cũng đáng được trân trọng và yêu mến đặc biệt.

J. Perron ghi nhận: "không ý nghĩa sao, chỉ "diễn từ tông đồ" này khởi đầu như chỉ nói riêng với nhóm 12, tách họ riêng ra, trao cho họ trách nhiệm và tư cách người được sai đi của Đức Kitô, lại kết thúc bằng trao ban cho cả những người bé nhỏ nhất sự cao trọng và trách nhiệm y như thế?”.

II. BÀI ĐỌC THÊM:

(Mgr. L. Daloz, Le Règne descieux s 'est approché DDB).

1. Đức Giêsu không chỉ đồng hoá với các tông đồ mà Người sai đi loan báo Nước Thiên Chúa. Người còn đồng hoá với mỗi một môn đệ, nhất là với những người bé nhỏ nhất. Người sẽ nói: "Ai vì danh Thầy mà đón tiếp một trẻ nhỏ chính là đón tiếp chính Thầy" (l8,5). Đặc biệt, Người mời gọi ta nhận biết Người trong những kẻ túng cùng, khốn khổ: "Quả thực Thầy bảo anh em, mỗi lần anh em làm như thế cho một trong những kẻ bé mọn này, là anh em làm cho chính Thầy" (25,40). Hôm nay, ngay khi nói với các tông đồ: "Ai tiếp đón anh em la tiếp đón Thầy". Người nói tiếp và cho biết Người gắn bó biết bao với từng người: cho một tiên tri vì họ là tiên tri, cho người công chính vì họ là người công chính, cho kẻ bé mọn nhát vì họ là môn đệ. Ai đón tiếp họ, Người hứa sẽ ban phần thưởng, khi đón tiếp họ, cũng là chọn đứng về phía Người. Giữa Đức Giêsu và các môn đệ có một dây hiệp thông sâu xa. Đôi khi ta nói về "bí tích huynh đệ". Các bí tích, trước hết là bí tích rửa tội, không biến anh em ta, một cách nào đó, thành những “bí tích" của Đức Giêsu Kitô mà họ đã được ghi đấu đó sao? Cái nhìn đức tin phải giúp ta nhận biết Đức Giêsu hiện diện trong anh em ta. Mỗi người chúng ta được sai đến với con người để cho họ biết Đức Giêsu đã đến gần...".

2. Điểm bình thường trở tàhnh nơi diễn ra lắm bất ngờ

Yêu thương, tiếp đón là những từ ngữ thuộc về ngôn từ và phong tục của Nước Trời. Cái bình thường, cái thường ngày trở thành ân sủng, khả năng, khám phá ra niềm vui Nước Trời. Điều bình thương nhất như cho một ly nước uống, bỗng trở thành nơi diễn ra sự bất ngờ, mạc khải. Có lẽ Thiên Chúa muốn thời gian nghỉ hè sắp tới sẽ giúp ta trở nên biết quan tâm tới người khác, tới Đấng khác. Như thế, chúng ta sẽ trở thành những con người của niềm tin, những tín hữu.

 

42.Sự hiếu khách và Con Thiên Chúa--‘Mở Ra Những Kho Tàng’--Charles E. Miller, C.M.

Sự hiếu khách là một đức tính tốt đẹp mà đôi khi nó dẫn đến nhiều ngạc nhiên và sinh ra những kết quả không ngờ. Trong bài đọc I, người đàn bà xứ Shunem chứ không phai người Israel. Dù người Shunem thường bị người Israel khinh miệt, coi họ như dân ngoại, bà ta đã nhận biết tiên tri Êlisêô là một vị thánh. Bà đã thuyết phục được chồng bà để tỏ lòng hiếu khách với người của Thiên Chúa, vị tiên tri đã chấp nhận sự hiếu khách này với một sự ngạc nhiên. Phần thưởng bất ngờ mà người đàn bà được là một năm sau bà hạ sinh được một cậu bé trai, và bà vui sướng với phần thưởng đó trong môt thời gian dài.

Đoạn văn này đã báo trước lời giáo huấn của Chúa Giêsu trong Phúc Âm: “Người nào tiếp đón một tiên tri mang danh là tiên tri thì nhận phần thưởng của một tiên tri”. Phần thưởng của người đàn bà xứ Shunem là đứa bé trai, đứa con do chính máu huyết bà sinh ra. Chúa Giêsu đã nói với mọi người: “Ai tiếp đón các con là tiếp đón Thầy”. Khi chúng ta tỏ ra hiếu khách với tha nhân, chúng ta cũng sẽ nhận được một bé trai, nhưng không phải do mau huyết của chúng ta sinh ra. Chúng ta lãnh nhận Người Con đời đời của Chúa Cha. Khi chúng ta đến với tha nhân là chúng ta đến với chính Đức Kitô.

Thánh Martin thành Tour là một mẫu gương. Ngài thường được xem là con người đầu tiên được tôn kính như một vị thánh mà không phải do tử vì đạo. Ngài sinh ra tại Pháp và lúc mà cuộc bách hại đạo đang đến hồi chấm dứt. Chưa có ai được những thiện nam tín nữ kính trọng như một vị thánh trong Giáo Hội sơ khai trước đó như ngài, những người đã chết giống như Đức Kitô và vì Đức Kitô. Bây giờ điều quan trọng là bắt đầu chuyển đến sống vì Đức Kitô và để yêu mến Đức Kitô.

Khoảng đời của Thánh Martin đã nêu cao chân lý yêu thương tha nhân là thật sự yêu thương Đức Kitô. Trong lúc Thánh Martin đang còn là một người đang học giáo lý theo đạo và đang phục vụ trong quân đội, ngài đang thi hành phiên gác trong một đêm đông giá lạnh thì gặp một người nghèo khổ đang run rẩy vì quần áo của ông ta như mớ giẻ rách, đứng trước mặt ngài. Thánh nhân liền cởi chiếc áo choàng của mình, rút gươm cắt chiếc áo choàng ra làm hai mảnh và đưa một mảnh cho người ăn xin nghèo khổ đó. Sau đó, trong lúc ngủ, Martin nằm mơ thấy Đức Kitô khoác mảnh áo khoác mà ngài đã cho người ăn xin. Ngài nghe Đức Kitô nói; “Hỡi Martin, tuy con mới học giáo lý để theo đạo, mà con đã cho Ta chiếc áo này”.

Đoạn văn trên đã minh họa phần cốt yếu của đức tin chúng ta về Đức Kitô. Là những người Công giáo, chúng ta tin rắng Đức Kitô hiện diện trong từng lời Thánh Kinh và Người nói với chúng ta khi Lời Chúa được tuyên đọc trong nghi thức phụng vụ. Chúng ta tin rằng Đức Kitô đang hiện diện trong bí tích Thánh Thể và trên bàn thờ khi chúng ta cử hành sự chết và sự Phục Sinh của Người. Cùng với những xác tín trên chúng ta phải tin rằng Chúa Kitô đang hiện diện nơi mọi người, khi chúng ta phục vụ tha nhân là chúng ta phục vụ Người, và khi chúng ta phớt lờ người khác là chúng ta phớt lờ chính Người. Chúng ta phải có một đức tin bao gồm nơi thực tại của Đức Kitô, nơi Lơi Chúa, nơi bí tích Thánh Thể và nơi mọi người. Phụng vụ không phải là một sự sùng kính riêng tư, một quan hệ cá nhân giữa Thiên Chúa với một người nào đó. Đó là sự diễn tả của Giáo Hội, trong một thân xác và một tinh thần trong Đức Kitô. Sự hợp nhất trong Đức Kitô phải chuyển động cách sống của chúng ta.

Khi chúng ta đến với những người không nhà, những người đói khát, chúng ta phải nhận ra Đức Kitô ở trong họ. Khi chúng ta để ý đen những bà mẹ trẻ, cô độc đang mang thai, những người cần chúng ta chăm sóc, chúng ta phải thấy Đức Kitô trong họ. Khi chúng ta nhận ra những ngoại kiều, ủng hộ hay chống đối chúng ta đang ở giữa chúng ta, chúng ta phải biết rằng Đức Kitô cũng là một người ngoại quốc. Và chúng ta phải hành động theo lời dạy của Chúa. Chúng ta phải luôn luôn tiếp đón Đức Kitô và đừng ngoảnh mặt đi. Những người Công Giáo phải ngạc nhiên nếu mình không hiếu khách. Sự tử tế sẽ là một diễn tả đích thực của đức tin chúng ta.

 

43.Chấp nhận vác Thánh Giá đời mình  theo Chúa--Lm. Joshepus Quang Nguyễn

Vào đêm canh thức bế mạc đại hội giới trẻ thế giới 2013 tại Brazin, Anh Felipe Passos, 23 tuổi, khuyết tật chia sẻ về cuộc đời anh như sau: khi tham dự đại hội giới trẻ, tại Madrid năm 2011, anh quyết tâm sẽ ở khiết tịnh cho đến khi kết hôn và làm việc chăm chỉ để nhóm cầu nguyện của anh có thể tham dự Ngày Giới trẻ Thế giới tại Rio de Janeiro. Với một ít tài sản, Felipe và bạn bè đã bắt đầu tiết kiệm tiền bằng cách làm việc vất vả. Vào ngày 11-1-2011, hai thanh niên bước vào nhà của anh với vũ trang, để cướp số tiền mà nhóm anh đã tích góp được với rất nhiều hy sinh. Felipe vì cố gắng giữ lại khoản tiết kiệm của nhóm nên anh bị bắn một phát chí tử. Anh chết lâm sàng, nhiều lần tim ngừng đập, bác sĩ lắc đầu bó tay. Anh đã hôn mê, phải thở qua ống thông mũi, trong khi đó cộng đoàn của anh hy sinh cầu nguyện cho anh. Và khi anh tỉnh lại, điều đầu tiên anh làm là xin được rước Thánh Thể và sau khi lãnh nhận, anh hồi phục nhanh chóng. Nhưng rồi sau đó, cuộc đời anh Felipe gắn liền với chiếc xe lăn, và anh tuyên bố: “Đây là Thánh giá của tôi, Thánh giá mà Chúa gửi đến, để tôi có thể gần Ngài hơn, để sống cởi mở hơn với ân sủng và tình yêu của Ngài”.

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói: "Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được”. Trước hết chúng ta cần phải hiểu thập giá của mình là gì? Có phải là cây thập giá của Chúa Giêsu khi xưa vác không? Chắc chắn là không rồi, thập giá mình đây là: nếu là những người có gia đình thì thập giá ấy chính là những khó khăn, gian nan khốn khổ về vật chất cũng như tinh thần trong hoàn cảnh gia đình mình. Chẳng hạn, làm ăn thất bại, cơm áo gạo tiền, con cái hoang đàng, vợ ngoại tình, chồng say sỉn, cờ bạc hay có chồng mà không có con như phụ nữ giàu sang trong bài đọc một kể… Rồi nếu là ông là bà, thì thập giá ấy chính là sự cô đơn tuổi già, con cái bỏ rơi, đủ thứ bệnh tật. Nếu là những học sinh, sinh viên hay bạn trẻ chưa lập gia đình, thập giá ấy chính là chuyện bài vở thi cử, bằng cấp, tìm kiếm việc làm, và rồi đối đầu với bao cám dỗ làm suy bại con người và trí óc tuổi trẻ. Rồi những người đi tu, thập giá ấy chính là đau khổ trong việc giữ đức khó nghèo, khiết tịnh và vâng lời. Và cuối cùng là nhưng người khuyết tật hay bệnh nhân, thập giá là những chiếc xe lăn, những cặp nạn và những cơn đau xé lòng do căn bệnh gây nên. Chúng ta sẽ nói rằng những thập giá này tuy vô hình nhưng quá nặng làm sao chúng ta vác nỗi theo Chúa!

Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là những bậc cha ông của chúng ta cũng đã gặp những thập giá còn nặng nề và đáng sợ hơn chúng ta nhiều, ấy nhưng các Ngài đã vui lòng chọn và vác thập giá đến hơi thở cuối cùng. Các Ngài chẳng những vác thập giá mình hằng ngày bằng một đời sống thánh thiện quên mình, chết đi cho lòng vị kỷ và cho tội lỗi như các tín hữu khác, các Ngài còn thực sự đóng đinh chính xác mình vào thập giá để minh chứng cho đức tin bằng cuộc tử đạo. Cuộc đời các Ngài lặp lại từng bước những chặng được thập giá của Chúa Giêsu và kết thúc bằng lời phó thác: Lạy Cha, con xin phó hồn con ở trong tay Cha. Bằng đời sống và bằng cái chết, các thánh tử Đạo Việt Nam xác tín Đức Tin của mình rằng: Không ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Đức Kitô. Các ngài nghiệm rằng tình yêu dành cho Chúa mạnh hơn cả sự chết, vì dù có chết cũng được Chúa cho sống. Anh Felipe sau khi rước Thánh Thể Chúa anh đã tin vững vàng rằng Chúa là nguồn bình an và hạnh phúc nhất và chỉ đức tin mạnh mẽ vào Chúa anh mới có thể đón lấy và vác thập giá của mình là chiếc xe lăn để anh có thể gần Chúa hơn, để sống cởi mở hơn với ân sủng và tình yêu của Ngài.

Nhà thần học cha Arialdo Beni nói rằng: “Đức tin là vấn đề ý chí hơn là lý trí. Đức tin là tiếng xin vâng đáp lời đề nghị và lời hứa của Chúa. Đức tin là phó thác, tín nhiệm và trung thành dù cuộc sống có chết đi, là cố gắng toàn diện”. Vì vậy, nếu chúng ta tin và yêu Chúa một cách hời hợt, những thập giá ấy trở thành khổ giá, chúng làm cho ta sờ lòng nãn chí, thật vọng dễ dàng bỏ thập giá đời ta, bỏ Chúa, bỏ tha nhân và bỏ chính mình là tự tử. Còn nếu chúng ta tin và yêu Chúa một cách chân tình và thật sự, những thập giá kia là thánh giá đời ta vì thập giá ấy có Chúa vác cùng ta, có Chúa nâng đỡ ta và có Chúa giúp ta đi đến đỉnh vinh quang để được cứu độ. Cho nên, chúng ta phải vinh dự và hạnh phúc sống với, sống cùng thánh giá để được Chúa ban ân sủng dồi dào ngay đời này và ban triều thiên đời sau. Ngược lại, nếu chúng ta xấu hổ, tủi hờn, buồn khổ vì những thập giá này, chúng ta cảm thấy đời mình sau đắng cay biết là ngần nào vì thiếu vắng Chúa, thiếu vắng tha nhân và mất linh hồn thì nào có ích chi. Cho nên, Thánh Phaolô trong bài đọc 2 nói rằng: “Tất cả chúng ta đã chịu phép rửa trong Ðức Kitô, tức là đã chịu phép rửa trong sự chết của Người. Và chúng ta đã cùng chịu mai táng với Người, bởi vì được thanh tẩy trong sự chết của Người, để như Ðức Kitô nhờ vinh hiển của Chúa Cha mà sống lại từ cõi chết thế nào, thì cả chúng ta cũng phải sống đời sống mới như thế”.

Chúa Giêsu hôm nay khẳng định rằng “Ai muốn theo Tôi, thì phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”. Vâng, cái từ bỏ mà Chúa nói ở đây, đó là bỏ cái tôi kiêu ngạo, cái mặc cảm, cái sợ hãi của mình để khiêm tốn và can trường vui lòng chấp nhận vác lấy giá đời ta theo Chúa trong tin yêu và phó thác vào lòng thương xót Chúa. Cho nên, Chúa Giêsu nói rằng ai không mến thánh giá thì không thể làm môn đệ và là con cái Chúa. Ai xấu hổ thánh giá thì khốn cho người ấy vì Chúa cũng sẽ xấu hổ vì kẻ ấy. Trong đời, ai không muốn sướng, ai cũng muốn giữ mạng sống mình, ai cũng muốn thoát khổ chứ ai muốn khổ bền vững. Nhưng Thánh Phaolô nói rằng khốn khổ, gian truân, đói rách, bệnh họan, khuyết tật, chết chóc là chuyện xảy ra thường tình và thường ngày với chúng ta. Ấy vậy, đừng vì những thử thách ấy mà chúng ta bỏ tha nhân, bỏ chính mình, bỏ Chúa và tình yêu của Ngài. Chính lúc ấy chúng ta càng theo Chúa, tin Chúa, nương tựa vào Chúa xót thương chúng ta sẽ được cứu và bình an vì Chúa đã trải qua nó và toàn thắng nó.

Ước gì qua Lời Chúa hôm nay, xin Chúa giúp chúng ta nhìn thấy Thánh giá Chúa gửi đến chúng ta hầu noi gương các Thánh, biết chấp nhận vác Thánh giá đời mình để làm chứng cho Thiên Chúa, Đấng giàu lòng thương xót luôn ban ân sủng và tình yêu của Ngài làm cho đời ta bình an và hạnh phúc dù có khó khăn gian khổ. Amen.

 

44.Vác Thập Giá theo chân Chúa--Lm. Joshepus Quang Nguyễn

Nhìn vào cuộc sống, chúng ta thấy nhiều người đã lên tiếng thán phục Chúa Giêsu, tôn thờ kính mến Ngài nhưng lại không dám bước theo Người bởi vì theo Ngài là theo đường thương khó, con đường khó mà thương ai dám theo. Họ giống như một em bé ngồi xem xiếc. Em há hốc miệng ngạc nhiên và khâm phục người đi thăng bằng trên sợi dây mong manh. Khi người ấy nhìn xuống và hỏi:

- Em có tin rằng tôi có thể vác em mà đi trên sợi dây này không?

Em không ngần ngại trả lời:

- Chắc chắn là ông không làm được.

Thế nhưng, khi người ấy nói với em:

- Vậy em hãy lên đây và tôi sẽ vác em mà đi trên dây. Nghe vậy, em bé liền sợ hãi và từ chối lời mời gọi, vì theo em, nó thật là nguy hiểm.

Với chúng ta cũng thế. Nhiều người trong chúng ta luôn nói rằng mình tin Chúa, nhưng lại không dám bước theo Người hoặc có bước theo Chúa, thì chỉ bước theo trong một mức độ nào đó mà thôi, chẳng hạn, theo Người đến bên thập giá, chứ không dám theo Người đến độ đóng đinh mình vào thập giá. Vì chưng, có những lúc trong cuộc sống, đau khổ và thử thách xảy ra như muốn vùi dập chúng ta, khiến chúng ta bị cám dỗ chối bỏ Chúa, khước từ thập giá và không bước theo Người nữa. Trong những hoàn cảnh như thế, chúng ta phải làm sao đây?

Trước hết, chúng ta hãy thầm nhủ rằng chính Chúa Giêsu cũng đã từng có những lúc cảm thấy thập giá của mình như nặng quá sức. Chẳng hạn trong cơn hấp hối tại vườn Cây Dầu, Người đã cầu nguyện: Xin Cha cất chén đắng này cho con, nhưng không theo ý Con, một theo ý Chúa mà thôi và rồi cuối cùng Người đã chấp nhận thập giá cho đến hết hơi lên đến đỉnh Canvê và chiến thắng vinh quang trong sự sống lại vinh hiển của Ngài. Đó, Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng cứu độ trần gian, thế mà Người đành thú nhận với bản thân và với thế gian rằng mình không đủ sức vác nỗi thập giá, huống nữa là chúng ta. Nhưng với ơn Chúa và quyết tâm thi hành Thánh ý Chúa Cha, Chúa Giêsu đã vác thập giá đến cùng không bỏ cuộc, không tuyệt vọng. Bởi đó, chúng ta phải khiêm nhường noi gương Người, vác thập giá đè nặng trên đôi vai nhỏ bé của chúng ta trong mọi hoàn cảnh vì Chúa Giêsu hôm nay đã quả quyết rằng: “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được”. Vì vậy, trong mọi khó khăn thử thách, chúng ta hãy kêu xin Chúa phù trì đỡ nâng và giúp đỡ chúng ta vì Người đã biết thế nào là sức nặng của thập giá, thế nào là lảo đảo và té ngã khi vác thập giá, chắc hẳn Người sẽ đồng hành, chia sẻ và ban ơn trợ giúp cho chúng ta, vì như Lời Chúa hứa ban: "Ơn của Thầy đã đủ cho con, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối" (2Cr 12,9).

Con đường của các môn đệ theo Chúa Giêsu, Ðấng bị đóng đinh là con đường “chịu mất chính mình”, để tìm lại được chính mình, như Đức nguyên Giáo hoàng Benedictô XVI viết: con đường “chịu mất chính mình”, là điều cần thiết đối với con người, và nếu không có điều này, thì nó không thể tìm lại được chính mình” (Ðức Giêsu thành Nagiarét 2007, 333). Ngày nay Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta: “Vác thập giá mà theo” (Mt 10, 38). Theo Chúa khi chấp nhận thập giá của mình với lòng yêu mến. Dưới con mắt thế gian, đây là một thất bại. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết: “Một cách nhiệm mầu chính Chúa Kitô chấp nhận... chết trên một thập giá để nhổ tận gốc rễ tội kiêu căng khỏi trái tim con người, và biểu lộ một sự vâng phục toàn vẹn con thảo”. Khi tự nguyện chấp nhận cái chết, Chúa Giêsu mang lấy thập giá của tất cả mọi người và trở thành suối nguồn ơn thánh cứu độ cho toàn dân.

Người ta hỏi: Chúa Giêsu có thích khổ đau và thập giá không? Không, Chúa Giêsu đã không đi tìm thập giá và đau khổ, y như thể Ngài thích, nhưng Ngài vác trên mình thập giá và sự đau khổ, đến mất mạng hầu giữ được lòng trung thành với Thiên Chúa. Ai muốn đi theo Chúa Giêsu, phải đặt sự trung thành với thánh ý Thiên Chúa trên tất cả mọi sự. Vác thập giá mình là từ bỏ ý mình, vâng theo ý Chúa. Ý Chúa muốn là hy sinh và từ bỏ để sống trọn vẹn cho Chúa và cho tha nhân. Cho nên, vác thập giá mình mà theo Đức Giêsu là liều thuốc chữa chúng ta khỏi căn bệnh ghê sợ: “sự trì trệ”, ù lì, tê liệt và khép kín lòng mình với CHÚA, với chính mình và với tha nhân.

Quyết định theo Chúa Giêsu, là gạt bỏ tất cả, hướng về Chúa là sự giầu có đích thực của chúng ta, không gì hơn Ngài, không đặt cái gì trước Ngài, toàn bộ phải qui hướng về Ngài. Ngài cũng khẩn khoản mời gọi chúng ta dùng mọi cách để đi đến tận cùng là trở nên những môn đệ Đức Giêsu. Theo Chúa Kitô, chúng ta không mất gì hết, chúng ta được tất cả. Như Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI nhấn mạnh trong bài giảng khai mào sứ vụ Giám mục Rôma: “Ai chấp nhận cho Chúa Kitô bước vào trong cuộc đời họ, thì người đó không mất đi điều gì cả, tuyệt đối không mất điều gì làm cho cuộc đời được tự do, tươi đẹp và cao cả. Không! Chỉ trong tình bạn với Chúa Kitô này mà các cửa sự sống được mở rộng ra. Chỉ trong tình bạn với Chúa mà những khả năng to lớn của cuộc sống con người được thể hiện đích thực. Chỉ trong tình bạn với Chúa mà chúng ta cảm nghiệm được điều gì là tươi đẹp và điều gì là tự do”. Với sức mạnh cao cả và với niềm xác tín lớn lao, dựa trên những năm dài kinh nghiệm cá nhân về cuộc sống, Đức Giáo hoàng nói với chúng con rằng: “Anh em đừng sợ Chúa Kitô. Chúa không đến lấy mất đi điều gì cả, nhưng ban cho đủ mọi sự. Ai hiến thân cho Chúa, thì được nhận gấp trăm. Phải, hãy mở ra, hãy mở rộng mọi Cửa cho Chúa Kitô, và chúng con sẽ gặp được sự sống thật” (Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI, 24/4/ 2005).

Lạy Chúa, trong niềm tin, chúng con yêu mến Chúa trên hết mọi sự, xin đến giúp chúng con để chúng con thấy rằng trên đường đi, có Chúa là sức mạnh để chúng con vác thập giá của mình tiến bước theo Chúa cho đến trọn đời. Amen.

 

45.Chúa Nhật 13 Thường Niên--Jaime L. Waters

(Chuyển ngữ: ĐCV. Sao Biển)

NHỮNG GIAN NAN VÀ PHẦN THƯỞNG CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ ĐỨC KITÔ

Các bài đọc Lời Chúa của Chúa nhật XIII Thường niên hôm nay nêu bật những lợi ích của đức tin vào Thiên Chúa. Các bài đọc cũng cho thấy những rủi ro cũng như những đòi hỏi đi kèm với người môn đệ.

Trong bài đọc thứ nhất, một “người phụ nữ giàu có” tỏ lòng hiếu khách với ngôn sứ Êlisa. Nhận ra ông là người của Thiên Chúa, bà mời ông dùng bữa và ngay cả chuẩn bị cho ông một căn phòng có sẵn đồ dùng khi ông có dịp ghé thăm. Nơi những câu mà bài đọc không trích đọc (các câu 12-13), Êlisa cảm kích trước sự quảng đại của bà, đã gợi ý can thiệp để bà có sự giúp đỡ về chính trị và quân sự, nhưng bà từ chối và cho rằng bà đang sống ở giữa dân, những người thân thuộc với bà. Giêkhadi, tôi tớ của Êlisa, cho biết người phụ nữ này có chồng đã già và không có con trai, khiến có thể nghĩ rằng bà không thể mang thai. Êlisa  báo trước rằng bà sẽ được bế con trai, và sau bài đọc hôm nay trình thuật tiếp tục với việc bà hạ sinh đứa trẻ kỳ diệu này. Đứa trẻ lớn lên nhưng rồi lại đột ngột qua đời. Người phụ nữ đến nhờ vị ngôn sứ giúp đỡ, và cuối cùng ông đã hồi sinh con trai bà.

Có nhiều bài học qua câu chuyện này. Đặc biệt, trình thuật dạy chúng ta về lòng hiếu khách, sự kiên trì và lòng biết ơn. Người phụ nữ thật tốt bụng với Êlisa mà không hề mong ông đáp đền gì. Đổi lại, Êlisa bày tỏ lòng biết ơn và giúp bà được  thụ thai. Tuy nhiên, bà đã cảm nghiệm sự mất mát của đứa con  và đã kiên trì cầu xin Êlisa hồi sinh con trai của bà. Bài Tin mừng hôm nay cũng vang vọng những chủ đề về lòng hiếu khách và quyền năng của ngôn sứ.

Cũng như trong Chúa nhật XII Thường niên, bài Tin mừng hôm nay trích từ diễn từ về sứ vụ (Mt 10,1-11,1) trong đó Chúa Giêsu tiên báo những gì mà các môn đệ sẽ trải qua khi họ rao giảng Tin mừng. Chúa Giêsu tuyên bố “Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy. Ai đón tiếp một ngôn sứ, vì người ấy là ngôn sứ, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ.” (Mt 10,40-41). Sứ điệp này cho thấy trước một số người trên thực tế sẽ từ chối các Tông đồ và sứ điệp Tin mừng. Chúa Giêsu làm nổi bật giá trị của việc chấp nhận Tin mừng. Việc cởi mở đón tiếp các môn đệ Đức Giêsu sẽ giúp người ta đón nhận Đức Kitô, và qua Ngài để đón nhận Cha trên trời. Hơn nữa, Chúa Giêsu liên kết các hành động ngôn sứ, như những hành động kỳ diệu của Ngài gợi lại những gì mà Êlisa và Êlia đã làm, với việc đón nhận phần thưởng.

Ngoài những phúc lợi trên, Chúa Giêsu còn đưa ra những yêu cầu và những quyết định khó khăn mà các môn đệ của Ngài sẽ phải đối mặt. Chúa Giêsu đòi hỏi những ai theo Ngài phải yêu Ngài hơn chính cha mẹ và con cái của họ. Tương tự như vậy, họ phải “vác lấy  thập giá của mình”, bao hàm hành động hy sinh bản thân. Chúa Giêsu thậm chí còn ám chỉ đến việc tử đạo khi khẳng định rằng những ai chịu từ bỏ mạng sống mình vì niềm tin vào Ngài sẽ có được sự sống đời đời, một ý tưởng cũng xuất hiện trong bài đọc thứ hai trích từ thư của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Phần thưởng của việc đón nhận Tin mừng thật tuyệt vời, nhưng những đòi hỏi cũng thật nặng nề. Chúa Giêsu muốn các môn đệ nhận ra đầy đủ những hàm ẩn nơi quyết định đức tin của họ. Niềm tin thì không thụ động hay dễ dàng. Đó là một sự dấn thân tích cực đối với Thiên Chúa và cộng đoàn. Dâng hiến chính bản thân mình cho Chúa sẽ đưa đến cuộc sống hy sinh vì người khác. Chúa Giêsu cho thấy trước những công việc của người môn đệ chân chính và mời gọi họ noi gương Ngài, trong khi nhận  ra những lợi ích và những thách thức mà họ có thể gặp phải.

Nguồn: https://www.americamagazine.org/faith/2020/06/12/costs-and-rewards-christian-discipleship

 

46.Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành

Vào một đêm mưa bão cách đây đã nhiều năm, có một cặp vợ chồng già bước vào gian tiền sảnh của một khách sạn nhỏ ở thành phố Philadelphia của Mỹ và hỏi thuê phòng. Họ ghé vào tránh bão và hy vọng có thể mướn được căn phòng trọ qua đêm.

Tiếp đón họ là một chàng trai có nụ cười rất dễ mến. Chàng trai giải thích rằng trong thành phố của họ đang có ba hội nghị lớn nên tất cả các phòng đều đã có người thuê. Chàng trai ngập ngừng một lát rồi nói tiếp: “Nếu thời tiết tốt, tôi sẽ gửi hai vị đến một khách sạn khác, nhưng làm sao tôi có thể để một đôi vợ chồng đáng mến như hai vị ra ngoài trong trời mưa gió như thế này vào lúc một giờ khuya được? Hai vị có thể ở tạm trong phòng của tôi được không? Nó không phải là phòng sang trọng gì cho lắm, nhưng nó cũng gọn gàng và sạch sẽ. Vì tôi phải trực vào khoảng thời gian này nên tôi có thể nghỉ ngơi ở đây cũng được. Xin ông bà đừng ngại.”

Cặp vợ chồng rất biết ơn và nhận lời trọ lại trong căn phòng đó của anh. Chàng nhân viên nhìn cặp vợ chồng già và mỉm cười với họ, và họ cũng mỉm cười lại với anh.

Nhiều năm sau đó, khi chàng trai trẻ dường như đã quên câu chuyện này, thì bất ngờ, anh nhận được một lá thư kèm cặp vé máy bay. Lá thư là từ cặp vợ chồng già. Họ nhắc lại đêm mưa bão hôm đó với lòng biết ơn sâu sắc cùng lời mời cậu đến thăm New York.

Chàng trai trẻ có đôi chút ngạc nhiên. Cả đêm đó, cậu không ngủ được và nằm suy nghĩ ngẩn ngơ: có lẽ ngày mai họ sẽ dẫn mình đi thăm thành phố một vòng và dùng bữa ở một nhà hàng sang trọng nào đó chăng? Nhưng nghĩ lại, cậu thấy mọi thứ có vẻ hơi quá, vì chỉ là một sự giúp đỡ nhỏ thôi, liệu có cần phải tới mức như vậy không?

Sáng hôm sau, cậu đáp máy bay xuống New York. Cặp vợ chồng già có vẻ như đã đứng đợi cậu ở đó từ lâu. Họ mỉm cười, vẫy tay chào từ xa và đón cậu lên một chiếc xe sang trọng. Sau khi đi qua vài con phố, cặp vợ chồng già đưa cậu tới góc ngã tư đại lộ Fifth Avenue, người chồng đưa tay chỉ tòa nhà tráng lệ mới xây ở đó – một cung điện toàn bằng đá đỏ với những ngọn tháp cao vươn thẳng trên nền trời xanh, rồi nói với chàng trai: “Đây là tòa khách sạn mà tôi xây cho cậu, và tôi hy vọng cậu có thể quản lý nó”.

“Ông không đùa đấy chứ?” – Cậu ngỡ ngàng.

“Không. Đây là một đề nghị hoàn toàn nghiêm túc”, người chồng già trả lời bằng một giọng chắc nịch với nụ cười thấp thoáng trên môi.

Công trình tráng lệ kia chính là khách sạn nổi tiếng Waldorf Astoria – nơi tụ họp của tầng lớp quý tộc lớn của New York vào thời điểm đó. Đây cũng là nơi mà các nhân vật cao cấp trên toàn thế giới thường xuyên lui tới để nghỉ ngơi, đặc biệt là các Tổng thống Mỹ khi họ đang còn tại chức.

Người đàn ông già trong câu chuyện này chính là William Waldorf Astor của dòng họ Astor, một trong những gia đình giàu có nhất ở New York vào thế kỉ đó. Còn chàng trai tốt bụng kia chính là George Charles Boldt – vị giám đốc đầu tiên của khách sạn này! (Nguồn: daikynguyenvn.com).

Thái độ đầy ắp tình người của chàng trai tốt bụng trong câu chuyện trên đây, phần nào giúp chúng ta hiểu sứ điệp của Lời Chúa trong Chúa Nhật hôm nay. Ở bài đọc I, trích sách các vua quyển thứ hai kể lại rằng, trên con đường đi thi hành sứ mạng, tiên tri Êlisa đi ngang qua Su-nêm và được một phụ nữ sang trọng mời ở lại dùng bữa tại nhà bà. Mỗi lần lưu lại đây, tiên tri Êlisa được bà đón tiếp một cách chu đáo. Không những thế, bà còn coi vị Tiên tri như một Đấng Thánh đến từ Thiên Chúa và muốn dọn cho vị Tiên tri một nơi ở xứng đáng trong nhà của mình. Bà nói với chồng rằng: “Tôi biết rằng người thường trọ nhà mình là một vị thánh của Thiên Chúa. Vậy chúng ta hãy làm cho ông một căn phòng trên lầu, và đặt trong căn phòng đó một cái giường, một cái bàn, một cái ghế, và một cây đèn, để mỗi khi đến, ông ở đó” (2V 4,9-10). Sự hiếu khách của bà đã làm cho tiên tri Êlisa hết sức cảm kích. Vì thế, khi biết vợ chồng bà đã già mà chưa có con, Êlisa đã khẩn cầu cùng Chúa, và lời khẩn cầu của Ngài đã được Thiên Chúa chấp nhận. Tiên tri Êlisa nói với bà rằng: “Năm tới cũng vào thời kỳ này, bà sẽ bồng bế một bé trai” (2V 4,16).

Cùng một sứ điệp ấy, sau khi đòi buộc các môn đệ và những ai muốn theo Ngài phải yêu mến Chúa trên hết mọi sự, trên cả cha mẹ và mạng sống của mình, bài Tin mừng hôm nay cũng đề cập tới việc Đức Giêsu mời gọi mỗi người chúng ta thể hiện lòng hiếu khách bằng sự đón tiếp và giúp đỡ. Chắc chắn, Ngài mong muốn chúng ta đón tiếp và giúp đỡ hết mọi thành phần trong xã hội, không phân biệt giàu nghèo sang hèn, khỏe mạnh hay ốm đau, bạn hay thù, chủng tộc hay màu da. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu chỉ mời gọi chúng ta đón tiếp ba thành phần sau:

Thứ nhất, đón tiếp các môn đệ: “Kẻ nào đón tiếp các con là đón tiếp Thầy; và kẻ nào đón tiếp Thầy, là đón tiếp Ðấng đã sai Thầy.” (Mt 10,40). Chính Đức Giêsu đã đồng hóa mình với các môn đệ, cũng như Ngài tự đồng hóa mình với Chúa Cha. Có lẽ cũng vì sự đồng hóa đó mà trong thực tế chúng ta thấy, từ thời Đức Giêsu cho đến hôm nay, các môn đệ và các đấng kế vị Ngài đi đâu cũng được đón tiếp một cách trân quý. Đặc biệt, ở Việt Nam chúng ta, các Giám mục, linh mục, tu sĩ, những người làm việc nhà Chúa đi bất cứ nơi đâu cũng được người giáo dân yêu mến, và đón tiếp một cách trang trọng như là đón tiếp chính Chúa vậy. Ở cuối đoạn Tin mừng, Đức Giêsu còn cho biết: “Kẻ nào cho một trong những người bé mọn này uống chỉ một bát nước lã mà thôi với danh nghĩa là môn đệ, thì quả thật, Thầy nói với các con, người ấy không mất phần thưởng đâu”(Mt 10,42). Những kẻ bé mọn ở đây không chỉ hiểu là các môn đệ của Chúa, mà còn là những nạn nhân của cường quyền, bạo lực, những người đang phải chịu cảnh đói khát, trần truồng, bệnh tật, hay tù đày(x. Mt 25,35-36). Như vậy, giúp đỡ kẻ bé mọn chính là giúp đỡ các môn đệ, giúp đỡ kẻ bé mọn tức là giúp đỡ chính Đức Giêsu.

Thứ hai, đón tiếp các tiên tri: “Kẻ nào đón tiếp một tiên tri với danh nghĩa là tiên tri, thì sẽ lãnh phần thưởng của tiên tri.”(Mt 10,42). Các “tiên tri” ở đây được hiểu là các kitô hữu. Đặc biệt là các kitô hữu được giao nhiệm vụ thi hành một tác vụ nào đó trong Giáo hội: nhiệm vụ dạy giáo lý; nhiệm vụ làm việc bác ái; nhiệm vụ loan báo Tin mừng cho dân ngoại…Họ có thể gặp khó khăn hay bị bách hại trong khi thi hành nhiệm vụ. Họ có thể phải chạy trốn “từ thành này qua thành khác”. Những lúc như thế, họ cần đến sự đón tiếp và chở che của mọi người. Vì vậy, nếu ai đón tiếp họ, nhất là trong những lức nguy hiểm như thế thì chắc chắn sẽ được Chúa ghi công, được Chúa trao “phần thưởng của tiên tri.”

Thứ ba, đón tiếp những người công chính: Đây là thành phần được tôn trọng trong cộng đoàn Giáo hội. Họ là những tấm gương phản chiếu lối sống mẫu mực: mẫu mực trong đời sống gia đình; mẫu mực trong đời sống cộng đoàn; mẫu mực trong đời sống bác ái yêu thương; mẫu mực trong đời sống đức tin... Vì vậy, họ xứng đáng để được mọi người đón tiếp và tôn trọng. Cho nên, Đức Giêsu mới nói: ai đón tiếp họ thì sẽ được đón nhận phần thưởng của người công chính (x. Mt 10, 41).

Như vậy, lòng hiếu khách không chỉ là một đức tính thiết yếu, một việc bổn phận “cho khách độ nhà” mà còn mang lại cho chúng ta những phần thưởng cao quý. Từ mẫu gương hiếu khách của chàng trai tốt bụng trong câu chuyện trên đây đến mẫu gương hiếu khách của người phụ nữ giàu sang tại Su-nêm và những giáo huấn của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay, mỗi người chúng ta hãy nhìn lại chính mình để xét xem: Tôi có lòng hiếu khách không? Tôi có sẵn sàng đón tiếp và giúp đỡ những kẻ bé mọn là hiện thân của Chúa không? Tôi có sẵn sàng đón tiếp và giúp đỡ những sứ giả của Chúa không?

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết chu toàn bổn phận “cho khách độ nhà”, biết sống quảng đại, sẵn sàng đón tiếp và giúp đỡ các sứ giả của Chúa, nhất là những kẻ bé mọn. Nhưng trước hết, xin cho chúng con có lòng yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Amen.

 

47.Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi

Thiên Chúa yêu thương ta nên trao nộp Con Một Người cho ta. Nhưng Người vẫn để cho ta được tự do đón nhận quà tặng vô giá ấy. “Khi thời gian tới hồi viên mãn”, Chúa Giêsu Kitô đến với ta như vị Ngôn Sứ tối cao của thời Tân Ước, chỉ dạy cho ta đường đi tới sự sống vĩnh cửu. Ta phải đón nhận Người như thế nào, đó là cốt lõi của đời sống Kitô hữu và cũng là đề tài của Lời Chúa hôm nay.

1. Tiếp đón “người của Thiên Chúa” (bài đọc Cựu Ước – 2 V 4:8-11.14-16a)

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu khẳng định: “Ai đón tiếp một ngôn sứ, vì người ấy là ngôn sứ, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ” (Mt 10:41). Câu truyện người phụ nữ tại Su-nêm đón tiếp ngôn sứ Ê-li-sa đã minh chứng cho lời nói trên của Chúa. Bà là người giàu có trong thành. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc, nhưng chỉ tiếc một điều là ông bà đã lớn tuổi mà không có con. Ngôn sứ Ê-li-sa đã được gia đình bà tiếp đãi ân cần và kính trọng, đến độ họ làm thêm một căn phòng đặc biệt để ngài có chỗ nghỉ ngơi mỗi lần đi qua Su-nêm. Trước lòng tốt của người phụ nữ ấy, ngôn sứ Ê-li-sa muốn làm một điều gì đó để trả ơn. Ngài hỏi bà muốn điều gì, nhưng bà đều từ chối. Đối với bà, đón tiếp vị ngôn sứ, người của Thiên Chúa, là một bổn phận và một vinh dự, chứ không phải là việc có qua có lại. Tiểu đồng Giê-kha-di đi theo ngôn sứ là người tinh tế, nhận ra được nỗi khổ tâm của bà vì không có con. Hai ông bà mong có được một đứa con trai, nhưng điều ấy chỉ có quyền năng Chúa mới giúp họ toại nguyện. Theo đề nghị của tiểu đồng, Ê-li-sa đã cầu xin Chúa ban cho bà một mụn con. Ngôn sứ nói với bà trước khi lên đường: “Vào độ này sang năm, bà sẽ có cháu trai bồng”. Quả thực, bà đã sinh được một đứa con trai. Nhưng ít năm sau, đứa nhỏ bị bạo bệnh và chết. Nghe tin, ngôn sứ Ê-li-sa đã đến cầu nguyện và làm cho em được sống lại.

Lòng tốt và kính trọng của người phụ nữ Su-nêm đối với vị ngôn sứ đã được ân thưởng. Ân thưởng là việc Chúa làm. Người đã ban cho bà được thoát khỏi nỗi đau khổ ray rứt vì không có con trai. Đứa con là sự tiếp nối sự sống của bà mẹ, là đời sống mới phát sinh từ sự sống của người mẹ. Do đó, ngôn sứ Ê-li-sa cầu xin Chúa ban cho bà một đứa con là ngài giúp cho bà được tiếp tục sống và sống đời sống mới. Ý nghĩa này có thể giúp ta hiểu được lời Chúa hứa với những ai đón nhận Con Một Thiên Chúa: “Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người (Ngôi Lời), thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (Ga 1:12).

2. “Ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy” (bài Tin Mừng – Mt 10:37-42)

Đón tiếp một vị ngôn sứ thôi mà người phụ nữ Su-nêm đã được ân thưởng hơn cả lòng mong ước của bà, huống chi là khi ta đón tiếp Đức Kitô, Đấng Cứu Độ được Chúa Cha sai đến trần gian. Ngôn sứ chỉ là vị sứ giả được Thiên Chúa sai đi để mang lời Người đến cho dân Chúa. Còn Đức Kitô, Người không chỉ nói thay cho Thiên Chúa, mà Người là chính Lời của Thiên Chúa nói với ta (Dt 1:1). Do đó, việc đón nhận Người mang tính cách tuyệt đối đến nỗi không những ta chủ động đón nhận Người, nhưng là ta còn phải bỏ mọi sự mà “theo Thầy” và sẵn sàng “liều mất mạng sống vì Thầy” (Mt 10:37-38).

Chúa Giêsu đặt việc “đón tiếp Thầy” vào một tương quan rộng lớn và trọn vẹn nhất, đó là tương quan “anh em – Thầy – và Đấng đã sai Thầy”. Thực vậy, Người được sai đến để làm Con Yêu Dấu liên kết tất cả nhân loại thành một đoàn em đông đúc của Người và đưa họ về với Chúa Cha. Người là gạch nối giữa mọi người với nhau và giữa mọi người với Thiên Chúa. Sự liên kết chặt chẽ ấy nói lên tính phổ quát của ơn cứu độ trong một tương quan hoàn hảo giữa ba thành phần: Thiên Chúa, Đức Kitô và nhân loại. Nói khác đi, ta được Thiên Chúa cứu độ nhờ Đức Kitô và cùng với anh chị em. Ta đón nhận nhau là ta đón nhận Chúa, ta đón nhận nhau là ta được cùng một phần thưởng với anh chị em đón nhận ta. Như thế, dù ta là “ngôn sứ” hay ta là “người công chính”, thì ta cũng đều nhận được cùng một phần thưởng là ơn cứu độ. Ta là giáo hoàng, giám mục, linh mục, tu sĩ hay giáo dân thì hết thảy ta sẽ lãnh nhận cùng một phần thưởng là ơn cứu độ nếu ta biết đón nhận Đức Kitô.

Ta sẽ hỏi: vậy tôi đón nhận Chúa như thế nào? Câu trả lời của Chúa là ta đón nhận anh chị em là ta đón nhận chính Chúa. Chúa Giêsu đã nói lên tương quan đón nhận ấy qua một thí dụ cụ thể: là môn đệ Chúa, nếu ta chỉ cần cho một em nhỏ uống một chén nước lã thôi là ta làm cho chính Người và sẽ được ân thưởng. Thí dụ đơn sơ ấy cho thấy việc đón nhận Chúa cần phải được thể hiện cụ thể qua cuộc sống hằng ngày. Một em nhỏ và một chén nước lã biểu tượng cho những gì nhỏ bé tầm thường trong cuộc sống. Đón nhận Chúa là một hành vi đức tin được thực hiện qua những đối xử nhỏ nhặt trong đời sống hằng ngày. Nhưng nếu ta làm thì chắc chắn không mất phần thưởng và phần thưởng sẽ to lớn hơn cả điều ta mong ước, giống như người phụ nữ Su-nêm đã được vậy.

3. Sống đời sống mới: một phương thức đặc biệt để đón nhận Đức Kitô (bài đọc Tân Ước – Rm 6:3-4.8-11)

Đón nhận Chúa Kitô qua những hành vi nhỏ mọn trong cuộc sống hằng ngày là những cách cụ thể. Tuy nhiên, những cách này được thực hiện là nhờ ta có một nền tảng đón nhận được xây dựng trên tương quan giữa Chúa Kitô và ta, là sống chết với Người, “được mai táng với Người” và “sống một đời sống mới”. Thánh Phao-lô nhìn cuộc sống của ta dưới hai khía cạnh: chết đi đối với tội lỗi và sống cho Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô. Tuy nhiên có không phải là hai điều khác biệt không ăn nhập với nhau, trái lại là hai điều ngược nhau của cùng một thực thể. Thí dụ ta có một bình đựng nước. Nếu ta bỏ đầy sỏi đá vào trong bình, bình sẽ chứa được ít nước thôi. Nhưng nếu bình hoàn toàn rỗng, bình sẽ chứa được đầy nước. Đời sống đức tin của ta cũng vậy. Nếu ta càng loại trừ đi tội lỗi thì Chúa càng đầy ắp trong linh hồn ta. Sau khi ta “được dìm vào trong cái chết của Chúa Kitô và được mai táng với Người”, nghĩa là sau khi ta được chịu phép Rửa tội, ta liền có được một đời sống mới. Bí tích Rửa tội là dấu chỉ của khởi đầu một cuộc sống mới. Nhưng muốn làm phát triển đời sống mới này, ta phải tiếp tục tiến trình chết đi cho tội lỗi và sống cho Thiên Chúa.

Chết đi cho tội lỗi là lối sống đi ngược lại lối sống của người đời, tức lối sống cho tội lỗi. Đúng vậy, người đời sống cho tham vọng, cho thù hận, cho tiền của và nhục dục. Đó là những lẽ sống của họ nên họ làm đủ cách để đạt được những thứ ấy, kể cả việc sử dụng những phương tiện xấu xa như lừa gạt hay bạo lực. Tội lỗi chỉ lôi kéo được những ai muốn sống cho nó mà thôi. Còn những ai đã chết rồi đối với nó, tức là không đi theo con đường của nó, thì nó chẳng thiết tha gì.

Sống cho Thiên Chúa trong Đức Kitô là sống theo đúng gương mẫu của Đức Kitô. Vậy Đức Kitô đã sống cho Thiên Chúa như thế nào? Lẽ sống của Người là “thi hành thánh ý Chúa Cha”, chu toàn sứ mệnh cứu độ trần gian. Người thực hiện tất cả những gì Kinh Thánh đã nói về Người. Người hoàn tất sứ vụ rao giảng Tin Mừng, dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần. Sau hết, Người chấp nhận cái chết khổ nhục trên thập giá để đền tội nhân loại. Lối sống cho Chúa của Đức Kitô là sống để phụng sự Thiên Chúa và phục vụ nhân loại. Tình yêu là động lực của mọi hoạt động, cho nên Người mới làm được cả những việc sức loài người không làm nổi, thí dụ yêu thương và tha thứ kẻ thù, chấp nhận chết thay cho ta là những kẻ tội lỗi. Hơn thế nữa, vì thực hiện lý tưởng sống cho Chúa, Đức Kitô đã được sống lại từ cõi chết để đem lại sự sống đời đời cho tất cả những ai theo gót Người mà phụng thờ Thiên Chúa và yêu thương tha nhân.

4. Sống Lời Chúa

Đón nhận Chúa Kitô là việc đưa ta vào một hành trình đức tin với những hy sinh và mất mát đời này. Đón nhận Chúa Kitô không chỉ dừng lại ở việc ta lãnh Bí tích Rửa tội làm con cái Chúa, nhưng đưa ta vào một cuộc sống mới theo khuôn mẫu Đức Kitô. Người là Thầy, còn ta là môn đệ. Kim chỉ nam để ta sống cuộc sống mới cho đúng nghĩa, đó là ta luôn nhớ mình phải làm mọi sự với danh nghĩa là môn đệ đích thực của Đức Kitô. Do đó, nếu ta nói một đàng làm một nẻo là ta đã phản bội danh nghĩa môn đệ đích thực mất rồi. Đời sống mới của ta có hai mặt, một đàng là mến Chúa và đàng khác là yêu người. Quả thực, không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn trên!

Suy nghĩ: Lý tưởng sống đức tin của tôi không đòi phải làm những điều trọng đại, nhưng là những việc làm nhỏ nhặt hằng ngày, thí dụ “cho một trong những kẻ bé nhỏ uống một chén nước lã”. Vậy đối với cuộc sống tôi, ai là “những kẻ bé nhỏ” tôi phải phục vụ và “chén nước lã” tôi phải cho là những gì? Tôi có đón nhận Chúa theo phương cách đó không? Tại sao?

Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã dủ lòng thương nhận chúng con làm nghĩa tử để chúng con trở thành con cái ánh sáng; xin đừng để chúng con sa vào cảnh tối tăm lầm lạc, nhưng gìn giữ chúng con luôn rạng ngời ánh sáng chân lý Chúa. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật 13 mùa Thường niên).

 

48.Thiên Chúa không thua lòng quảng đại của con người--Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP.

Tại một Tòa Giám Mục miền bắc Việt Nam, trong khuôn viên Tòa Giám mục, có một khẩu hiệu rất đặc biệt, đó là: “Mỗi vị khách là một Đức Giêsu”. Ấn tượng hơn nữa là cung cách của vị Giám Mục và nhiều nhân viên trong đó đã để lại cho người đến thăm nhiều cảm xúc qua cách đón tiếp mang đậm chất Kitô.

Khi ra về, nhiều người đã không ngớt lời khen ngợi tấm lòng hiếu khách, chân tình và đơn sơ của Đức Giám Mục và những người ở nơi đây.

Tại sao nơi đó lại có cung cách đối đãi tốt như vậy? Thưa, bởi vì nơi đó đã thấm đượm bài học của chính Đức Giêsu dạy: “Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy” (Mt 10, 40).

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay sẽ lần lượt làm sáng tỏ nhằm giúp chúng ta hiểu tâm tình trên.

1. Lời Chúa

Khởi đi từ bài đọc 1, tác giả sách các Vua kể về sự kiện tiên tri Êlisê được một phụ nữ người Sunam đón tiếp rất thịnh tình khi ông và tiểu đồng đi ngang qua đây.

Người phụ nữ này là người thuộc giới thượng lưu trong thành. Gia đình giàu có. Đời sống vợ chồng rất ấm êm. Tuy nhiên, có một nỗi khổ tâm quá lớn đối với vợ chồng bà, đó là ông bà đã lớn tuổi mà không có con.

Nguyện vọng của ông bà là mong sao được Chúa thương nhận lời cho mình mụn con để nối dòng.

Được tiếp đãi tử tế và rất thân tình, tiên tri Êlisê nghĩ đến ân nghĩa, nên trước khi rời khỏi nơi ấy, ông đã ngỏ ý muốn trả ơn vì những điều mà gia đình đã làm cho ông cũng như tiểu đồng.

Tuy nhiên, bà chủ đã hoàn toàn khước từ, bởi bà luôn nghĩ rằng: “Người đến trọ nhà mình là một vị thánh”. Vì thế, khi đón tiếp Ngài là đón tiếp người của Thiên Chúa. Vì thế, không lẽ lại sòng phẳng như “hòn đất ném đi, hòn trì ném lại???” Vì thế, dù nói thế nào, bà đều từ chối không hề nhận bất cứ thứ gì mà vị tiên tri đáp lễ.

Thấy được tấm lòng chân thành ấy, Êlisê cũng áy náy! Tuy nhiên, khi được tiểu đồng mách cho biết nguyện vọng của ông bà là muốn có một người con để nối dõi tông đường cũng như tránh đi sự tủi nhục.

Thấy được sự khao khát chính đáng, Êlisê đã cầu nguyện và chúc phúc cho hai ông bà và nói tiên tri: “Vào độ này sang năm, bà sẽ có cháu trai bồng”. Sau đó tiên tri Êlisê lên đường. Đúng như điều đã nói, bằng rầy sang năm, ông bà đã có một người con trai.

Tuy nhiên, niềm vui chỉ được ít lâu, vì chỉ vài năm sau, thằng bé bị bệnh và qua đời.

Khi nghe tin ấy, tiên tri Êlisê đã không ngớt cầu xin Chúa cho con bà được sống lại, và Chúa đã nhận lời. Đứa trẻ đã sống lại để sống một cuộc sống mới trong ân sủng và tình thương của Thiên Chúa.

Qua câu chuyện trên, chúng ta nhận thấy: Thiên Chúa không thua lòng quảng đại của con người. Nếu chúng ta rộng tay làm phúc cho Chúa hay những người cần đến sự giúp đỡ của chúng ta với lòng mến, thì chắc chắn Chúa sẽ trả ơn gấp bội.

Sang bài đọc 2, thánh Phaolô đi xa hơn để cho thấy nền tảng và nguồn gốc của sự sống mới chính là Đức Giêsu, Đấng đã sống cuộc sống như ta, đã chết và đã sống lại vì nhân loại. Ngài nói: “Nếu ta cùng chết, cùng được mai táng với Ngài, thì ta cũng có được một đời sống mới như Ngài”.

Nếu trước kia, tâm hồn chúng ta đầy rãy những tội lỗi, bon chen, ích kỷ, hận thù, kiêu ngạo và thiếu tinh thần bác ái, thì khi ta được lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, nghĩa là ta được dìm mình vào trong một khuôn đúc mới, để xuất hiện một hình ảnh mới, hình ảnh của Đức Giêsu Kitô. Từ đó, con người của ta được biến đổi và được mặc lấy sự sống mới trong Ngài.

Thật vậy, nếu chết đi cho tội là loại bỏ những ích kỷ, tham vọng, nhục dục, thù hận, ghét ghen, vô cảm, vô tâm, dửng dưng, thì sống một đời sống mới trong Đức Giêsu Kitô là biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa dạy; biết yêu thương, tha thứ, nhân từ, cảm thông, liên đới, quảng đại, dấn thân vì người nghèo…, bởi vì những thứ đó thuộc về phẩm chất của Thiên Chúa và chúng ta được mời gọi loan truyền tình thương của Ngài qua những hành vi đó.

Đỉnh cao của phụng vụ Lời Chúa hôm nay là bài Tin Mừng.

Như một lời hiệu triệu, Đức Giêsu đã nói về sự liên đới giữa Ngài với ta, giữa ta với Ngài và Thiên Chúa Cha trong một đường dây bác ái. Ngài nói: “Ai đón tiếp một trẻ nhỏ…là đón tiếp Thầy…ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy…”. Mối liên hệ này cho thấy sự khăng khít và giao hảo giữa ba thành phần: Thiên Chúa - Đức Kitô và nhân loại. Nói khác đi, ta được Thiên Chúa cứu độ nhờ Đức Kitô và cùng với anh chị em.

Chính vì thế mà Đức Giêsu đã đặt trọng tâm của sự liên kết này qua người nghèo và mời gọi người môn đệ hãy làm cho mối liên hệ này được trở nên sống động hơn.

Như vậy, qua 3 bài đọc, chúng ta thấy có một chủ đề xuyên suốt, đó là: nếu ta rộng lòng quảng đại giúp đỡ những người khó khăn, bần cùng trong tâm tình mến yêu Chúa và anh chị em, ta sẽ được Thiên Chúa trọng thưởng ở ngay đời này và cả đời sau. Thiên Chúa không bao giờ thua lòng quảng đại của chúng ta. Ngược lại, Người sẽ trả công hậu hĩnh đến không ngờ.

2. Sống sứ điệp Lời Chúa

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đi vào mối tương quan với Thiên Chúa cách sống động.

Hành trình này có thể được ví như một hành trình đức tin. Đức tin ấy được chứng minh bằng những việc thực thi đức ái, từ bỏ tội lỗi để sống cho Thiên Chúa.

Chúng ta không thể nói rằng: đức tin của tôi chỉ cần được ghi trong sổ Rửa Tội; đức tin của tôi cũng chỉ cần ở trong nhà thờ; hay đức tin của tôi chẳng cần phải tỏ lộ ra bên ngoài.

Không! Nói như thế là tự mâu thuẫn, không nền tảng và vu vơ, chẳng khác gì người xây nhà mình trên nền cát, bởi vì: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2, 26. ); hay như thánh Gioan nói: “Người anh em chúng ta nhìn thấy mà không yêu mến, thì làm sao yêu mến Thiên Chúa là Đấng ta không thấy?” (x. 1 Ga 4, 20)

Đức tin mà chúng ta được đón nhận phải đưa chúng ta vào trong sự sống mới của Đức Kitô, mà sự sống mới của Đức Kitô chính là vâng lời Chúa Cha tuyệt đối và yêu con người đến cùng.

Như vậy, nếu ta nói mình là môn đệ, là người thuộc về Đức Kitô mà ta không lắng nghe Lời Chúa, hay lắng nghe xong rồi bỏ, hoặc nghe một đàng làm một nẻo… thì chúng ta không khác gì hạt giống gieo bên vệ đường, bụi gai, sỏi đá.

Hay nếu nói là người đi theo Chúa, mà ta không mang trong mình tâm tư của Chúa, đó là từ bi, nhân hậu, bao dung, tha thứ, liên đới, nhất là thi hành bác ái dối với người nghèo, bảo vệ người cô thế cô thân, bênh vực cho công bằng, sống sự thật… thì chúng ta có khác gì những Pharisêu giả hình thời xưa đâu?

Mong sao, Lời Đức Giêsu dạy khi xưa: "Mỗi lần các ngươi làm cho một người nhỏ bé nhất của Ta đây, là các ngươi làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40), sẽ được chúng ta ý thức và mau mắn thi hành trong lòng mến, để sau này, chúng ta được Thiên Chúa trọng thưởng trên Thiên Đàng.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con biết yêu thương anh chị em chúng con bằng tình yêu chân thành và đầy lòng mến. Xin cũng ban cho chúng con biết sống xứng đáng là con cái Chúa khi chúng con biết đi theo đường lối của Thiên Chúa trong ánh sáng và chân lý. Amen.

 

49.Suy niệm của Lm Augustine, SJ.

Gợi ý để sống và chia sẻ Tin Mừng

Lũ trẻ từ bỏ mình vì yêu Hài Nhi Giêsu

Ðó là một buổi chiều mùa đông tuyết phủ đầy mặt đất, bốn đứa trẻ của gia đình ông bà Mặc Ðăng Nghinh (Mc Donald) bị bó cẳng, không ra ngoài chơi được, nên cãi lộn, trêu chọc và phá hỏng đồ chơi của nhau. Chúng làm thế chỉ vì hiếu động nhưng cũng có màn gay cấn. Chẳng hạn, từ phòng khách bà mẹ nghe rõ mồn một:

- Con mụ kia! Của tôi mà!

- Không phải đâu anh "phệ"! Tôi dành được trước mà.

Giáng sinh mới qua có mấy ngày mà lũ trẻ đã om sòm cãi nhau về những đồ chơi chúng nhận được vào dịp lễ.

Bà Nghinh sực nghĩ tới một sáng kiến để giúp bọn trẻ thực sự sống ơn bình an và hoà giải mà Chúa Giáng sinh mang lại. Nhiều năm trước, bà nội có kể cho bà nghe về một phong tục Giáng sinh cổ truyền. Người ta đã giúp trẻ em khám phá ra ý nghĩa đích thực của Giáng sinh qua một trò chơi độc đáo.

Vậy người mẹ đã tập hợp bốn đứa nhóc lại và hỏi: các con có muốn chơi trò chơi Giáng sinh mới không? Ðiều cần thiết là phải giữ bí mật. Ai có thể chơi môn chơi bí mật này?

- Con! Ðức (Eric) mau miệng nói trước.

- Con có thể giữ bí mật hơn anh ấy, Bé Hiền cướp lời anh. Nó tên là Hiền mà chẳng hiền chút nào. Lúc nào cũng muốn gây gỗ với anh lớn hơn nó một tuổi.

Hai đứa nhỏ nhất cũng huà theo tuy chưa rõ chuyện ất giáp ra sao: Con cũng làm được - Con cũng làm được.

Người mẹ giải thích:

- Ðược rồi, đây là nội dung trò chơi: chúng ta sẽ mừng lễ Giáng sinh lại vào ngày 25 tháng Giêng sắp tới, và sẽ chuẩn bị cho Hài Nhi Giêsu một máng cỏ êm ái nhất thế giới để Hài Nhi Giêsu ngủ ngay ở đây trong căn nhà của chúng ta. Chúng ta sẽ chất rơm đầy máng cỏ giúp tạo hơi ấm để Hài Nhi có thể ngủ ngon. Và đây là ý nghĩa của trò chơi. Mỗi cọng rơm đặt vào máng cỏ tượng trưng cho một việc tốt chúng ta làm cho một người nào đó, từ bây giờ đến lễ Giáng sinh. Càng nhiều việc tốt, máng cỏ càng có nhiều cọng rơm và Hài Nhi Giêsu càng được êm ấm. Ðiều phải giữ kín là: chúng ta không được kể cho ai biết việc tốt đó được thực hiện cho bất cứ ai.

Bé Hiền là người đầu tiên thắc mắc: "Làm thế nào mà Chúa Hài Ðồng Giêsu biết đó là giường của Ngài?"

Người mẹ trả lời: Ngài sẽ biết thôi, Ngài sẽ nhận ra tình yêu chúng ta đặt nơi máng cỏ nhờ sự êm ái máng cỏ.

- Nhưng chúng ta sẽ làm việc tốt cho ai? Ðó là thắc mắc của Ðức, đứa lớn nhất.

Người mẹ trả lời: Ðơn giản thôi, chúng ta sẽ thực hiện việc tốt cho nhau. Mỗi tuần, từ bây giờ đến lễ Giáng sinh đó, chúng ta sẽ để tất cả tên chúng ta trong chiếc mũ này, cả tên của mẹ và tên của bố. Rồi mỗi người sẽ rút một tên và làm việc tốt cho người đó trong cả tuần.

Nhưng đây mới là điều khó: Chúng ta không được cho ai biết tên người rút được và phải cố gắng làm nhiều điều tốt cho người mình rút được tên. Mỗi khi làm một việc tốt, chúng ta sẽ đặt một cọng rơm vào máng cỏ.

Bé Hiền cau mày nói: Nhưng nếu con rút phải tên người con không thích thì sao?

Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy

thì không xứng với Thầy

Người mẹ suy nghĩ một chút rồi nói: Con có thể dùng những cọng rơm lớn hơn dành cho việc việc tốt con làm cho người đó, vì việc tốt loại đó được thực hiện cách khó khăn. Dĩ nhiên những cọng rơm lớn sẽ mau làm đầy máng cỏ. Thế rồi vào đêm Giáng sinh, Hài Nhi Giêsu sẽ cảm thấy êm ái biết bao khi Ngài nằm trên máng cỏ với những cọng rơm bự chất chứa nhiều tình yêu loại đó! Mẹ cho rằng Chúa Hài Ðồng sẽ rất vui vẻ khi ta bày tỏ tình yêu dành cho Ngài.

Vấn đề được nêu lên là "Ai sẽ làm máng cỏ?" Vì Ðức lớn nhất và là đứa duy nhất được phép sử dụng dụng cụ, nên nó xuống ngay nhà hầm và hí hoáy thực hiện công trình mà nó lấy làm hãnh diện. Trong hai giờ đồng hồ từ nhà hầm vang lên tiếng lưỡi cưa xèn xẹt, rồi tiếng búa đập trên đinh. Một lúc lâu, tất cả đều im bặt không còn tiếng động nữa. Cuối cùng, Ðức trèo lên nhà với chiếc máng cỏ trong tay. Nó cười toe:

- Ðây rồi, chiếc máng cỏ đẹp nhất thế giới! Con làm có một mình đấy nhé!

Mọi người đều đồng ý và bà Nghinh có thể tiến hành trình bày trò chơi Giáng sinh của bà: Bây giờ chúng ta cần những cọng rơm.

Thế là năm mẹ con lên xe. Bà Nghinh lái xe tới một mảnh đất bỏ hoang đầy cỏ dại. Bây giờ là cuối tháng mười hai, cỏ đã khô và ngả sang màu vàng trông giống như rơm. Chỉ trong chốc lát chiếc hộp bằng các tông nơi thùng xe chứa đầy cọng cỏ khô giống như rơm.

Sau bữa cơm tối, ai nấy trong bàn ăn đều rút thăm lấy một mảnh giấy đã gập lại trong đó có ghi tên một người trong gia đình gồm hai bố mẹ và bốn con.

Bé Hiền rút trước, lập tức nó khúc khích cười. Tiếp theo là Lan rút ngay miếng giấy bố nó đã viết khiến bố nó che miệng tủm tỉm cười. Ðến lượt hai ông bà rút thì cả hai đều nghiêm túc không tỏ thái độ. Út Minh là người duy nhất chưa biết đọc, nên bố nó phải đọc thầm lá thăm vào tai nó. Ðức là người rút thăm cuối cùng. Người ta thấy rõ nét mặt nó tỏ ra không hài lòng. Nó nhét cái tên vào túi áo, không nói gì.

Tuần lễ sau, nhiều bất ngờ xảy ra. Dưới nhà hầm, có người đã quét sạch mạt cưa thay cho Ðức. Còn bé Hiền đánh răng rồi về phòng thì thấy phòng mình đã được dọn dẹp tươm tất. Nơi nhà bếp có ai đã lau quét tươm tất khi bà Nghinh ra cổng lấy thư về. Mỗi buổi sáng bố hỏi: Giày của bố đâu rồi? Không ai trả lời cả, nhưng trước khi đi làm, bố lại thấy đôi giầy của mình đã được đánh bóng và để vào chỗ cũ.

Dáng dấp của phần thưởng không bị mất

Bà Nghinh để ý thì thấy những thay đổi quan trọng hơn xảy ra trong tuần: Lũ trẻ không trêu chọc nhau hoặc đánh lộn nhau nhiều như trước. Ðôi khi có nổ ra cuộc tranh cãi, nhưng bỗng im bặt không vì một lý do rõ ràng. Ngay cả bé Hiền và Ðức cũng tỏ ra hoà hoãn với nhau hơn. Thực ra, lũ trẻ đều có những nụ cười bí mật và đôi khi bật thành tiếng khúc khích.

Bốn tuần lễ "Mùa Vọng" (theo trò chơi) đầy những bất ngờ mà bất ngời cuối cùng là do bé Ðức. Nó liên tục rút phải tên bé Hiền nên nó dứt khoát muốn bỏ nhà ra đi để cho mọi người ăn lễ Giáng sinh đó xong mới về. Mẹ phải tìm đủ cách thuyết phục, Ðức mới đổi ý. Ðức đã đặt nơi máng cỏ cọng rơm cuối cùng, loại bự!

Câu chuyện vừa kể giúp làm sáng tỏ phần chót của bài giảng về sứ mạng truyền giáo (Mt 10,1-42). Ở phần chót của bài giảng này, điều được nhấn mạnh là từ bỏ (cc 37-39) và phần thưởng (cc 40-42).

Bài giảng về sứ mạng truyền giáo đã lần lượt dạy các môn đệ về việc phải làm (cc 5-15) về tình hình thù địch phải đối phó (cc. 16-25) về niềm tin tưởng vào Thiên Chúa cần được duy trì (cc. 26-33).

Bây giờ để kết thúc, Ðức Giêsu đòi các môn đệ trong bối cảnh tình yêu mà ai cũng dễ dàng nghiệm thấy được, đó là bối cảnh gia đình. Nhưng ở phần cuối này, Ðức Giêsu còn đòi các môn đệ phải xác định rõ mối tình lớn lao hơn mối tình đối với cha, với mẹ, với con trai, con gái của mình (c.37). Ở đây Ðức Giêsu chỉ nhẹ nhàng ám chỉ về tình yêu của "Ðấng đã sai Thầy" (c.40). Ðó là Ðấng không xa lạ với các môn đệ vì Ngài ở thâm sâu nơi cõi lòng họ: chính Ngài dạy họ phải nói gì khi bị điệu ra trước vua chúa quan quyền (c.18). Thực ra chính "Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em" (c.20). Thiên Chúa đã yêu ta trước (x. 1Ga 4,10). Trước khi ta biết yêu thương là gì thì Thiên Chúa đã lo để ta có cha có mẹ luôn ứng trực săn sóc và vỗ về, để ta tồn tại và nên người. Nay Thiên Chúa còn phái Ðức Kitô, Con của Người đến cứu ta khỏi tội (Mt 1,21). Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của Ðức Kitô, Ðấng hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu (x. Ga 13,13). Nào Ngài chẳng có quyền đòi ta phải yêu Ngài hơn cha mẹ và con cái ta sao?

Phần chót của bài giảng về sứ mạng truyền giáo nhắc nhở ta về điều cơ bản của bài giảng, đó là niềm tin. Các môn đệ đại diện cho chính Ðức Giêsu, nên đón nhận họ không những là đón nhận chính Ðức Giêsu, nhưng còn là đón nhận Ðấng phái Ðức Giêsu đến trần gian để cứu chuộc muôn người. Sẽ có phần thưởng xứng hợp dành cho những ai đón nhận các ngôn sứ, các thánh nhân và cả các tín hữu Kitô bình thường.

Một số câu hỏi gợi ý

1. Bạn nghĩ vì ai mà bọn trẻ của gia đình bà Nghinh từ bỏ mình? Bạn có thấy dáng dấp về phần thưởng chúng nhận được ngay trong bầu khí bình an của gia đình chăng? Phần thưởng ấy sẽ như thế nào sau này theo niềm tin của bạn?

2. Bạn hiểu thế nào về câu nói "Ai giữ mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được? (c.39). Bạn có thấy các thánh tử đạo minh hoạ điều vừa nói chăng?

 

50.Theo Chúa

Nghe Chúa giảng, người ta đã trầm trồ khen ngợi:

- Chưa từng có ai nói hay như Ngài.

Hơn nữa Ngài còn đòi hỏi người ta phải hy sinh. Đúng thế, Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta phải yêu mến Ngài trên hết mọi sự, kể cả những tình cảm vừa hợp pháp lại vừa thiêng liêng nhất:

- Ai yêu cha mẹ hơn ta, thì không xứng đáng với ta.

Có nghĩa là Ngài luôn luôn phải chiếm vị trí ưu tiên, phải chiếm chỗ nhất trong trái tim và cuộc đời của mỗi người chúng ta.

Mặc dù chúng ta phải thảo kính cha mẹ, nhưng trong những trường hợp xung khắc, Đức Kitô phải luôn luôn phải là nhân vật số một.

Tiếp theo Chúa Giêsu đã xác định:

- “Ai không vác thập giá mà theo ta, thì cũng chẳng xứng đáng với ta”.

Thập giá mà chúng ta phải vác lấy trong cuộc sống, không chỉ là những bắt bớ, những cấm cách về đức tin, mà còn là tất cả những khổ đau, những buồn phiền chúng ta gặp phải. Ngài còn nói tiếp:

- “Ai tìm kiếm sự sống thì sẽ mất, còn ai vì ta mà mất sự sống thì sẽ tìm thấy được nó”.

Thoạt nghe qua, chúng ta thấy lời xác quyết ấy thực là vô lý, nhưng nếu suy nghĩ, chúng ta sẽ thấy nó thật sâu xa, thật thấm thúy… Sự sống ở đây bao gồm hai ý nghĩa, đó là sự sống phần xác, sự sống đời này và sự sống vĩnh cửu, sự sống đời sau.

Đây quả thực là một niềm an ủi khích lệ lớn cho chúng ta khi gặp phải những bắt bớ, những cấm cách, những khó khăn vì đức tin. Thực vậy, ai luôn chiều theo bản thân và miệt mài tìm kiếm những vui thú cho mình thì sẽ mất đi sự sống vĩnh cửu.

Trái lại, ai từ bỏ mình và những vui thú xác thịt, nghĩa là săn sàng chịu chết vì Đức Kitô thì sẽ tìm thấy được sự sống vĩnh cửu và niềm hạnh phúc nước trời ở đời sau, cũng như sẽ tìm thấy niềm vui mừng và sự bình an ngay từ đời này.

Không ai trên trần gian này hạnh phúc cho bằng các thánh, như lời thánh Phaolô đã xác quyết:

- “Tôi ngập tràn niềm vui giữa những thử thách”.

Hãy vào những nhà dòng khổ tu với một nếp sống khắc khổ và chúng ta sẽ thấy được những khuôn mặt chan hòa niềm vui.

Trái lại, bước chân vào những chốn ăn chơi, chúng ta chỉ thấy những khuôn mặt thất vọng và trống rỗng. Có những người đã tự tử ngay trên tiền bạc và danh vọng của mình.

Trong khi đó, các thánh là những người đã chết với nụ cười bình an trong tình thương của Chúa.

Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã hy sinh cho Chúa những gì trong cuộc sống bình thường của chúng ta?

Cầu nguyện

Lạy Chúa, qua đoạn Tin mừng hôm nay, Chúa đòi hỏi chúng con phải từ bỏ mình, có nghĩa là phtừ bỏ những tư tưởng, những lời nói và những việc làm, khi chúng đi ngược lại với những điều Chúa đã truyền dạy. Đồng thơi Chúa bảo chúng con phải vác thập giá mình hằng ngày. Thập giá đời thường của chúng con, đó chính là những hy sinh gian khổ, những bực bội buồn phiền, những mệt mỏi vất vả chúng con gặp phải trong cuộc sống. Tất cả đã kết thành cây thập giá đời thường Chúa muốn chúng con vác lấy để bước theo Chúa. Có từ bỏ mình và chấp nhận thập giá, chúng con mới thực sự trở thành những người môn đệ của Chúa.

 

51.Đón tiếp

Cách đây vài năm có dịp lên thăm người bạn ở tiểu bang Minnesota tôi nghe kể câu chuyện như sau. Tiểu bang Minnesota ở phía trung bắc nước Mỹ, giáp với Canada, vào mùa đông thường có những trận bão tuyết và nhiệt độ tụt xuống -30 hay -40 độ âm Farenheit. Vào một đêm bão tuyết, chiếc xe hơi của người phụ nữ bị chết máy trên đường tới Rochester. Chị biết rằng sẽ bị chết cóng nếu cứ ngồi lại ở trong xe. Tuy là vùng miền quê, nhưng trên trục lộ chính, cũng có một số nhà dọc theo đường lộ. Chị vào gõ cửa khoảng trên một chục căn nhà nhưng chẳng có ai mở cửa. Sau cùng, có một người lái xe ngang qua thấy chị nằm gục ngã bên vệ đường bèn đưa chị vào nhà thương cấp cứu. Chị được cứu sống, nhưng đã bị chết tất cả các ngón tay, ngón chân và một bàn chân vì giá lạnh.

Phần xấu nhất của câu chuyện là tại mỗi căn nhà nơi chị bước vào gõ cửa, mọi người đều ở trong nhà đêm hôm đó. Tất cả mọi người đều nghe tiếng gõ cửa. Tất cả mọi người đều là các Kitô hữu. Nhưng không một ai đã mở cửa, vì họ sợ trộm cướp sẽ đột nhập vào nhà giữa đêm bão tuyết. Câu chuyện bi thảm này đã xảy ra ở một vùng quê hiền hòa chứ không phải là ở Chicago hay New York, nơi mà thường xảy ra những vụ bắn nhau và giết người mỗi ngày!

Theo tự điển Webter’s, để định nghĩa chữ “hospitality”, “hiếu khách”, tác giả đã đặt nó nằm ở giữa hai chữ “hospice”, chỗ ở săn sóc cho người hấp hối, hay nhà nghỉ chân cho khách vãng lai, và chữ “hospital”, “bệnh viện”, nơi chữa lành. Ý nghĩa đích thực của sự hiếu khách là cái mà chúng ta ban tặng cho khách khi chúng ta mở cửa nhà ra trong tinh thần thực sự là cống hiến chỗ ở và chữa lành cho họ.

Sự tốt lành, tử tế, và cử chỉ bác ái yêu thương với tha nhân là một trong những hoa trái của Chúa Thánh Thần. Sách Giáo lý Công giáo số 901, đã trích dẫn lại tinh thần của Công đồng Vaticanô II trong Hiến chế Lumen Gentium – Anh sáng Muôn dân, đoạn 34 như sau:

“Nhân vì đã được thánh hiến cho Chúa Kitô và được Chúa Thánh Thần xức dầu, các giáo dân đã lãnh nhận ơn gọi kỳ diệu và những phương tiện giúp cho Chúa Thánh Thần sinh ra trong họ những hoa trái ngày càng dồi dào hơn. Đúng thế, tất cả các hoạt động của họ, những việc cầu nguyện và các việc tông đồ của họ, đời sống phu phụ và gia đình của họ, những lao nhọc hàng ngày của họ, những giải lao về tâm trí và thân thể của họ, nếu họ sống những điều này trong Thần Khí của Chúa, rồi cả những thử thách của cuộc đời, nếu được chịu đựng cách nhẫn nhục, thì tất cả mọi sự sẽ trở thành “lễ tiến dâng thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa, nhờ Chúa Giêsu Kitô”. Và trong việc cử hành Thánh thể, các lễ vật này sẽ hợp với sự hiến dâng Thân thể của Chúa để được dâng lên Chúa Cha với tất cả niềm kính thảo. Đó là cách giáo dân hiến dâng tất cả thế giới lên Thiên Chúa, bằng cách dâng lên Chúa từ khắp nơi một sự phụng tự tôn thờ do cuộc sống thánh thiện của họ”.

Nếu “Người khách là Chúa Kitô” thì cuộc sống thánh thiện là cuộc sống biết đón nhận “Người khách” đó.

 

52.Yêu Chúa hơn

Như chúng ta đã biết: Thiên Chúa hứa ban cho Abraham một dòng dõi đông như sao trên trời và nhiều như cát dưới biển. Thế nhưng, hai ông bà đã già mà vẫn còn son sẻ.

Đến khi có được một mụn con trai là Isaac, thì Thiên Chúa lại đòi ông phải đem lên núi, sát tế mà dâng kính Ngài.

Dầy vậy, ông vẫn không lùi bước trước đòi hỏi của Thiên Chúa, mặc dù đã phải trải qua những giây phút giằng co và xâu xé, băn khoăn và lo nghĩ.

Cuối cùng, ông đã dám tin và dám chấp nhận, cho dù ông không hiểu. Ông đã dám yêu mến Thiên Chúa hơn Isaac, vốn là lẽ sống và là niềm hy vọng của ông. Thiên Chúa đã thử thách để ông có dịp bày tỏ tình mến và làm cho tình mến nơi ông được liên tục phát triển.

Chỉ một mình Thiên Chúa mới có quyền đòi hỏi con người yêu mến Ngài trên hết mọi sự, bởi vì Ngài là Đấng sáng tạo. Ngài phải chiếm chỗ nhất trong trái tim cũng như trong cuộc đời mỗi người chúng ta. Ngài chính là giá trị tuyệt vời, vượt lên trên mọi giá trị khác.

Qua đoạn tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng đã đưa ra những đòi hỏi quyết liệt không kém.

Trước hết, Ngài đòi chúng ta phải yêu mến Ngài hơn cả cha mẹ.

Thực vậy, đối với người Á đông, chữ hiếu vừa là một giá trị cao cả, lại vừa là một bổn phận quan trọng. Ngài không bao giờ đi ngược lại điều răn thứ tư về bổn phận thảo kính cha mẹ.

Thế nhưng, nếu có sự xung đột giữa tình yêu đối với cha mẹ và tình yêu đối với Thiên Chúa, thì Ngài đòi chúng ta phải đặt Thiên Chúa lên trên cả cha mẹ, không được vì cha mẹ mà trở nên thờ ơ trước lời mời gọi của Thiên Chúa.

Thực vậy, đã có người ngần ngại và do dự đối với lời mời gọi của Ngài, anh ta muốn trì hoãn một thời gian để chôn cất cha già, hay đúng hơn để lo phụng dưỡng cho đến khi cha già qua đời. Thế nhưng, Chúa đòi anh theo Ngài ngay lập tức, để lên đường đi loan báo Tin mừng.

Trường hợp thánh Phanxicô Assie là một thí dụ điển hình về thái độ siêu thoát đối với những tình cảm gia đình, để sống theo những thôi thúc của Chúa. Đúng thế, thánh nhân đã dám cởi bỏ cả bộ áo quần trên mình, trả lại cho cha mẹ, để đi ăn xin trong chính thành phố mà gia đình mình đang sống.

Mỗi người chúng ta đều có một cội nguồn. Cội nguồn ấy chính là ông bà cha mẹ. Ngoài ra, cội nguồn ấy còn là truyền thống dân tộc, được hình thành từ bao đời, và vẫn còn được tiếp tục trong thời buổi hiện nay.

Vì thế, cần phải mở rộng để đón nhận những giá trị quí báu của dĩ vãng và hiện tại, đồng thời cũng cần phải để thanh lọc những gì không phù hợp với giáo lý Đức Kitô. Điều quan trọng đó là phải làm sao để tinh thần của Đức Kitô trở thành tiêu chuẩn giúp chúng ta nhận ra những giá trị đích thực, cần được gìn giữ và phát huy trong một thế giới đảo điên, vàng thau lẫn lộn.

Tiếp đến, Ngài đòi chúng ta phải yêu mến Ngài hơn cả những đứa con mà chúng ta đã mang nặng đẻ đau.

Thực vậy, có cha mẹ nào mà lại không yêu thương con cái của mình. Tuy nhiên, hai chữ con cái ở đây còn được hiểu theo một nghĩa rộng, đó là tất cả những gì con người đã làm ra.

Nhân loại hôm nay không ngừng sáng tạo và phát minh. Thế nhưng, có những thứ sản phẩm, thay vì là phương tiện giúp đỡ con người, thì đã trở nên một thứ ông chủ, đẩy con người vào tình cảnh nô lệ cho chính những gì mình đã phát minh, đã làm ra.

Cuối cùng, con người chỉ biết cắm đầu chạy theo những lợi nhuận và những tiện nghi vật chất. Một xã hội chỉ biết hưởng thụ, chắc chắn sẽ không còn chỗ dành cho Đức Kitô.

Sau hết, Ngài đòi hỏi chúng taph vác thập giá mình mà bước theo Ngài.

Thực vậy, chúng ta không tìm kiếm đau khổ, nhưng luôn sẵn sàng chấp nhận để góp phần vào thập giá Chúa, cũng như cộng tác với Ngài trong chương trình cứu độ. Lúc đó thập giá sẽ trở thành dấu chỉ của tình yêu. Bởi vì không ai yêu mình hơn người hiếm mạng sống mình vì bạn hữu.

 

53.Ân tình

Willton Rix có kể một câu chuyện đầy kịch tính như sau “Vào một sáng mùa đông tuyết lạnh, Sadhu Sundar Singh và một người bạn du lịch qua miền núi Bắc Ấn Độ. Thình lình một cơn bão tuyết ào ào đổ tới, gió lạnh gào thét bên tai họ, khiến hai người phải chống trả hết sức khó khăn.

Đang lúc “dầu sôi lửa bỏng” ấy, họ lại thấy một người đàn ông nằm vất vưởng bên đường chờ chết. Sadhu muốn dừng lại để cứu giúp người bị nạn, nhưng bạn ông cho rằng, nỗ lực ấy chỉ hoài công thôi. Vì để cứu lấy chính mình trong lúc này cũng đã vất vả lắm rồi. Và ông bạn ấy đã bỏ đi.

Chạnh lòng xót thương, Sadhu ở lại bên kẻ bất hạnh, xoa nóng tay chân con người sống dở chết dở ấy. Với sức lực còn lại, Sadhu cố gắng cõng anh trên lưng và khó nhọc đi qua vùng bão tuyết. Hơi ấm của hai thân thể hòa quyện lấy nhau khiến người kia hồi sinh và cả hai cùng mạnh sức.

Đi khoảng một dặm, họ kinh ngạc khi nhìn thấy một xác chết lạnh cóng bên vệ đường. Họ càng sững sờ hơn nữa khi nhận ra đó chính là anh bạn cùng đi với Sadhu sáng nay.

Nghĩa cử yêu thương của Sadhu đã minh chứng hùng hồn cho lời nói của Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay: “Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được”. Ông bạn của Sadhu đã cố giữ lấy mạng sống mình nên đã mất mạng, còn Sadhu liều mất mạng “Vì anh em” nên đã được sống. Một người không có khả năng từ bỏ mình “Vì anh em” thì họ cũng không có khả năng yêu thương. “Phải liều mất đi” để “tìm thấy lại”. Đó là nghịch lý mà Đức Giêsu đã trải qua để nêu gương cho chúng ta. Người đã sẵn lòng chịu chết ô nhục để rồi sống lại vinh quang, và cũng để nói lên lời yêu thương con người.

“Ai liều mất mạng sống mình vì Thầy”. “Vì Thầy” cũng chính là “Vì anh em”. Biết bao lần, Đức Giêsu đã đồng hóa mình với tha nhân. Đó là sợi chỉ hồng xuyên suốt các Tin mừng. Người tuyên bố: “Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy”. Đến ngày phán xét, Người cũng sẽ nói với mỗi người chúng ta: “Mỗi lần các ngươi làm cho một người nhỏ bé nhất của Ta đây, là các ngươi làm cho chính Ta vậy”.

“Người bé nhỏ nhất” không cần phải tìm đâu xa. Họ không ở tận Châu Mỹ, Châu Âu, cũng không sống nơi chân trời góc biển. Họ ở trước cửa nhà chúng ta, họ là những kẻ nghèo hèn khốn khổ, họ là những người cô thế cô thân, họ là những ai không cửa không nhà, họ là những người già cả cô đơn, họ là những kẻ nghiện ngập sa đọa, họ là những ai bị hất hủi lãng quên.

Đức Giêsu còn hứa: “Ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ là một chén nước lã mà thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì không mất phần thưởng đâu”. Cho “một chén nước lã” là cử chỉ nhỏ bé ai cũng có thể làm được, dù là một đứa trẻ.

“Một chén nước lã” đối với Chúa lại là “một chén ân tình”. Điều đó cho thấy, Thiên Chúa không hề bỏ sót một nghĩa cử yêu thương nào của chúng ta. Đồng thời Người cũng muốn nói, cho dù chỉ là nghĩa cử bé nhỏ âm thầm, một khi đã được khoác vào tấm áo tình yêu thì nó liền trở nên vô cùng cao cả. Tình yêu chính là trọng tâm của đời sống người tín hữu.

Tình yêu là chiếc đũa thần biến thập giá trở nên nhẹ nhàng, vừa sức cho mỗi người.

Tình yêu là liều thần dược giúp người tín hữu dám liều mất mạng sống vì Thầy.

Tình yêu đã làm cho người tín hữu mến Chúa hơn cha mẹ, con cái, cũng sẽ giúp họ yêu thương phục vụ mọi người cách thiết thực, chân tình.

Sức mạnh phi thường khiến thánh Phaolô vượt qua bao gian nan thử thách trên đường truyền giáo chính là tình yêu. Ngài viết: “Tình yêu Đức Kitô thúc bách tôi”.

Lạy Chúa, xin cho chúng con dám sống chết cho tình yêu Chúa, cho chúng con biết: Chân thành hơn trong yêu thương, bác ái hơn trong lời nói, nhân từ hơn trong cách cư xử.

Xin cho cuộc đời chúng con mãi mãi là mùa hoa nhân ái.

 

54.Theo Chúa

Thảo kính cha mẹ là một giới răn của Thiên Chúa và chúng ta không thể nghĩ rằng Đức Kitô lại chủ trương bất hiếu, đi ngược lại với đòi hỏi của Thiên Chúa. Chính Ngài cũng có một người cha, một người mẹ và Tin Mừng cho thấy Ngài luôn phục tùng cha mẹ Ngài. Tuy nhiên đoạn Phúc Âm vừa nghe muốn trình bày với chúng ta một bậc thang giá trị mới.

Thực vậy, Ngài không đòi hỏi những kẻ theo Ngài phải từ bỏ cha mẹ hay con cái. Bởi vì việc theo Chúa tự nó không phải là một cái gì mâu thuẫn với tình thương yêu cha mẹ và con cái. Thế nhưng cũng có những lúc kẻ theo Chúa bị đặt trước sự lựa chọn: hoặc nghe lời những kẻ thân yêu nhất hoặc đi theo Đức Kitô. Những quan hệ gia đình có thể trở thành những cản trở trên bước đường theo Chúa, không phải chỉ một số người đã đi tu hay vào chủng viện mới có cơ hội trải qua những kinh nghiệm đau thương ấy. Một người con trai muốn làm linh mục để đáp lại lời mời gọi của Chúa: Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Nhưng anh lại được cha mẹ coi như là cột trụ, là tương lai của gia đình. Các ngài mong anh có một nghề hái ra tiền để bảo đảm tuổi già của ông ba, hay lập gia đình để các cụ có tí cháu bế cho vui cũng như để nối dõi tông đường. Anh bị đặt trước một sự giằng co.

Nhưng theo Chúa ở đây không chỉ có nghĩa là đi tu hay vào chủng viện, mà còn phải hiểu là sống theo những đòi hỏi của Ngài, là thực hiện những điều Ngài truyền dạy. Đòi hỏi ấy phải vượt lên trên tất cả mọi thứ đòi hỏi khác. Không phải vì Chúa Giêsu là một con người độc đoán, mà bởi vì Ngài biết rõ Ngài là đường, là sự thật và là sự sống. Hẳn rằng mỗi người chúng ta cũng có dịp sống qua những lựa chọn này.

Một thanh niên làm ở sở thuế. Anh có một vợ và ba con. Vợ anh không có việc làm, còn 3 con anh thì phải đi học. Gia đình anh lại rất nghèo. Vợ anh nhiều lần khuyên anh hãy làm như người ta. Nếu anh nghe vợ, xiêu lòng trước những lời than khóc của cô ấy, thì anh quả thực không còn xứng đáng với Đức Kitô, anh đã từ khước cuộc sống mới mà Chúa Giêsu đã thiết lập bằng giá máu của Ngài. Trong trường hợp của anh, thì chính những người thân yêu lại là một cản trở trên con đường anh bước theo Chúa.

Tuy nhiên không phải chỉ những người thân, mà còn cả bản thân chúng ta nữa, cũng có thể là những cám dỗ thúc đẩy chúng ta đi ngược lại với những đường lối của Chúa. Chẳng hạn như lòng tham lam, tính ích kỷ, những khát vọng về tiền tài và địa vị nhiều lúc làm cho chúng ta phản bội lại lý tưởng của mình. Thế nhưng, chúng ta có dám liều, dám hy sinh, dám từ bỏ tất cả để bước theo Chúa hay không?

 

55.Bước theo Chúa

“Ai không vác thập giá mình mà theo Ta, kẻ ấy không xứng đáng làm môn đệ Ta”.

Nhìn vào cuộc sống, chúng ta thấy nhiều người đã lên tiếng thán phục Chúa, nhưng lại không dám bước theo Người. Họ giống như một em bé ngồi xem xiếc. Em há hộc miệng ngạc nhiên và khâm phục người đi thăng bằng trên sợi dây mong manh. Khi người ấy nhìn xuống và hỏi:

- Em có tin rằng tôi có thể vác em mà đi trên sợi dây này không?

Em không ngần ngại trả lời:

- Chắc chắn là ông làm được.

Thế nhưng, khi người ấy nói với em:

- Vậy em hãy lên đây và tôi sẽ vác em mà đi trên dây.

Nghe vậy, em bé liền sợ hãi và từ chối lời mời gọi, mà theo em, thật là đầy nguy hiểm.

Với chúng ta cũng thế. Nhiều người trong chúng ta luôn nói rằng mình tin Chúa, nhưng lại không dám bước theo Người. Họ chỉ là những kẻ dám đốc, dám xúi mà lại chẳng dám làm. Và nếu có làm, có bước theo Chúa, thì chỉ làm, chỉ bước theo trong một mức độ nào đó mà thôi. Họ theo Người đến bên thập giá, chứ không dám theo Người đến độ đóng đinh mình vào thập giá.

Có những lúc trong cuộc sống, đau khổ và thử thách đã xảy ra như muốn vùi dập chúng ta, khiến chúng ta bị cám dỗ chối bỏ Chúa, khước từ thập giá và không bước theo Người nữa. Trong những hoàn cảnh như thế, chúng ta phải làm gì?

Tôi xin thưa:

- Chúng ta hãy thầm nhủ rằng chính Chúa đã từng có những lúc cảm thấy thập giá của mình như nặng quá sức. Chẳng hạn trong cơn hấp hối tại vườn Cây Dầu, Người đã cầu nguyện: Xin Cha cất chén đắng này cho con, nhưng không theo ý Con, một theo ý Chúa mà thôi. Đề rồi cuối cùng Người đã chấp nhận thập giá, đồng thời cũng đã chấp nhận cho một kẻ xa lạ là ông Simong vác đỡ Ngài trên đường lên đỉnh Canvê.

Thực vậy, là Con Thiên Chúa, là Đấng cứu độ trần gian, thế mà Người đành thú nhận với bản thân và với thế gian răng mình không đủ sức vác nồi thập giá, huống nữa là chúng ta. Bởi đó, phải khiên nhường noi gương Người, khi thập giá đè nặng trên đôi vai nhỏ bé của chúng ta.

Ngoài ra, chúng ta cũng hãy kêu xin Người giúp đỡ. Người đã biết tjhế nào là sức nặng của thập giá, thế nào là lảo đảo và té ngã khi vác thập giá, chắc hẳn Người sẽ hiều biết và thông cảm với chúng ta, vì “đoạn trường ai có qua cầu mới hay”.

Đồng thời chúng ta cũng cần phải nhờ đến những người chung quanh, như cha mẹ, anh em và bè bạn, như Chúa Giêsu đã nhờ đến ông Simong ngày xưa.

Tin Mừng hôm nay mời hỏi chúng ta hãy kiểm điểm đời sống và tự vấn lương tâm xem chúng ta có khiêm nhường như Chúa Giêsu khi thập giá đổ xuống trên cuộc đời chúng ta hay không? Chúng ta có kêu cầu Chúa và những người thân yêu để giúp đỡ chúng ta khỏi thất vọng nản chí hay không?

Và cuối cùng, bản thấn chúng ta cần phải cố gắng để không trở nên một thập giá, một gắnh nặng cho người khác đã đành, mà hơn thế nữa, còn phải tích cực giúp đỡ họ vác lấy cây thập giá cuộc đời, là những hy sinh gian khổ trong cuộc sống. Vì thế, chúng ta cũng phải kiểm điểm và tự vấn lương tâm xem chúng ta đã cư xử thế nào đối với những người đang cần chúng ta giúp đỡ. Chúng ta đã sẵn sàng hay tứ chối, chúng ta đã giúp đỡ họ một cách vui vẻ hay miễn cưỡng.

Hãy bắt chước Chúa Giêsu mà vác lấy cây thập giá đời mình, đồng thời cũng hây bắt chước ông Simong, giúp đỡ người khác trong khi họ đang vác lấy thập giá mà bước theo Chúa.

 

56.Phần thưởng

"Kẻ nào tiếp đón một tiên tri vì danh nghĩa là tiên tri, thì sẽ lãnh phần thưởng của tiên tri" (Mt 10:41).

Thời nay, mỗi lần đi đâu xa, người ta có thể ghé vào quán cóc bên đường hay tiệm ăn trong phố để mua chút gì lót dạ; người ta cũng có thể thuê một quán trọ bình dân hay khách sạn hạng sang để trú ngụ qua đêm. Nhưng trong thời tiên tri Elisa, làm gì có được chuyện đó, dù rằng người du hành có nhiều tiền mấy chăng nữa, cũng khó kiếm được hàng quán để ăn uống và nghỉ ngơi. Thế nên ai khởi sự đi xa, ra khỏi phạm vi gia đình hoặc làng xóm là bắt đầu lệ thuộc vào lòng hiếu khách của những người xa lạ để sống còn.

Elisa vô cùng may mắn khi gặp được người phụ nữ ngoại bang ở thành Sunam đón tiếp và mời dùng bữa với danh nghĩa là một tiên tri, "vị thánh của Thiên Chúa." Người phụ nữ này vốn giàu có và đạo đức. Thấy Elisa thường qua lại thành Sunam nên bà mới bàn với chồng cất một căn phòng trên gác cao, có "một cái giường, một cái bàn, một cái ghế, và một cái đèn, để mỗi khi đến, ông ở đó." Trước lòng hiếu khách cao quí đó, tiên tri Elisa muốn thưởng công cho hai vợ chồng. Thế rồi khi biết người chồng đã già mà vợ lại chưa con, Elisa liền hứa cho bà được "sinh một cậu con trai vào năm tới."

Đây quả là phần thưởng vượt quá ước mơ. Nhưng đó cũng mới chỉ là phần thưởng dành cho những người đón tiếp tiên tri. Còn phần thưởng của Thiên Chúa dành cho những người xử tốt với chính môn đệ Ngài còn đáng mong đợi hơn nhiều.

Ngày xưa, khi dân chúng của một làng hay thành nào đón tiếp Đức Giêsu, lập tức nơi đó nhận được phần thưởng của Thiên Chúa: bệnh nhân được chữa lành, tội nhận được tha thứ, người nghèo được loan báo Tin Mừng. Còn với nơi nào từ chối đón tiếp Ngài hay các môn đệ, phần dành cho nơi đó chỉ là chút bụi bàn chân.

Người Do thái thường cảm nhận: khi tận tâm đón tiếp vị đại diện của ai là như chân thành đón tiếp chính người đó. Thành ra khi đón nhận các môn đệ Đức Kitô thì không khác gì đón nhận chính Ngài, mà đón nhận chính Ngài cũng có nghĩa là đón nhận chính Thiên Chúa.

Trong một thế giới, khi chủ nghĩa cá nhân ích kỷ khép kín lòng người, Tin Mừng của Đức Giêsu lại vang lên lời mời gọi mở lòng, hiếu khách. Nói đúng hơn, Ngài kêu mời con người bước vào hành trình yêu thương mà hình thức đơn giản nhất là việc đón tiếp. Một nhà tư tưởng đã viết: "Tiếp đón niềm nở chính là hình thức vui tươi của lòng yêu thương."

Lắm khi người ta dễ dàng tiếp đón các nhân vật nổi tiếng như các đấng tiên tri, người công chính, vị tư tế..., và chắc chắn họ sẽ nhận được ân phúc mà Thiên Chúa ban thưởng cho những con người dấn thân cao cả đó. Thế nhưng Đức Giêsu còn đi xa hơn khi mời gọi người ta nới rộng sự tiếp đón đến các kẻ bé mọn, người bị bỏ rơi, người già đau yếu, thai nhi vô tội.... Những con người này cũng cần được ân cần tiếp đón như sứ giả của Đức Kitô. Và chỉ "một bát nước lã" cho họ uống thôi cũng đủ cầm chắc phần thưởng Thiên Chúa trao ban rồi.

Tiếp đón không chỉ thuần túy là mở cửa nhà, mở hầu bao, mở chum nước, nhưng đúng hơn là mở rộng con tim. Chỉ khi rộng mở tâm hồn, con người mới thật sự lớn lên trong cảm thông, tương quan, tình thân, và hiệp nhất. Một tác giả đã nhận định: "Sống là phải mở ra. Như cánh hoa mở ra với mặt trời, như dòng sông mở ra với biển khơi, như cơ thể mở ra với khí trời và ánh nắng. Mở ra như thế là đòi hỏi thiết yếu của sự sống." Phương diện thể chất còn cần mở ra để được sống, huống chi là phương diện tâm linh.

Mở ra nào cũng có nguy cơ tiêu hao mất mát. Khi can đảm mở rộng con tim là sẵn sàng chấp nhận đau thương rướm máu. Thế nhưng nếu chỉ lo khép kín trong ích kỷ là tự đi vào huỷ diệt, còn khi biết rộng mở cho yêu thương là bắt đầu tìm gặp sự sống: "Ai cố giữ mạng sống mình thì sẽ mất. Ai dám mất mạng sống vì Thầy thì sẽ tìm lại được nó" (Mt 10:39).

Yêu thương phải là nền tảng của mọi dâng hiến. Bởi vì nếu tôi đem cả gia tư vốn liếng mà phát chẩn; và nếu như tôi nộp mình chịu thiêu, nhưng lại không có lòng mến thì cũng hư không vô ích cho tôi (1 Cor 13:3).

Yêu thương làm nên sự sống, nhưng yêu thương nào cũng mời gọi hy sinh hiến dâng. Hy sinh không phá huỷ con người, cũng không là cách tự tử cuồng tín, song là lối đường tạo nên những người đàn ông và đàn bà cao cả nhất (Noel Question).

Yêu thương khiến người ta tha thiết mở cửa tâm hồn ra với thế giới (dù cửa nhà có đang khép kín) để dám đón nhận tất cả và hy sinh cho tất cả. Alain Cavalier, người thực hiện cuốn phim về Chị Thánh Têrêsa và được giải thưởng Cannes cao quí đã phát biểu như sau: "Rút mình khỏi thế giới, một mình trong phòng kín... đóng kín lại để mở ra nhiều hơn, tốt hơn." Và rồi, nhờ mở ra trong khát mong yêu thương tròn đầy, nên tuy không đi truyền giáo đâu xa hơn bốn bức tường tu viện, Têrêsa vẫn là quan thầy của các vùng truyền giáo, không làm linh mục để hoán đổi một linh hồn tội lỗi, nhưng đã vực dậy bao cõi lòng lao đao lạc lối, không giảng một bài nảy lửa làm rúng động tâm linh, nhưng lại là tiến sĩ của con đường thơ ấu dẫn bao tâm hồn đến với Tình Yêu.

Chị Thánh đã mở trái tim mình để đón tiếp Tình Yêu nên đã lãnh được phần thưởng của Tình Yêu.

Thế ra, tuy không phải là tiên tri hay nhà thừa sai truyền giáo, tuy không phải là linh mục hay thành viên trong các tu viện đó đây, nhưng nếu biết mở lòng cho yêu thương, kính trọng, cầu nguyện và đỡ nâng những bước chân rao giảng Tin Mừng, tôi sẽ có được phần thưởng mà Đức Kitô sẽ dành ban cho các sứ giả kiên trung của Người.

 

57.Chọn lựa

Một trong những lý do khiến nhiều anh em lương dân không muốn gia nhập Kitô giáo, đó là vì họ nghĩ rằng nếu vào đạo họ sẽ phải bỏ ông bà, bỏ cha mẹ. Sẵn có một ý nghĩ như vậy, nếu họ lại được nghe lời Chúa Giêsu nói trong bài Tin mừng hôm nay, họ sẽ càng tin chắc rằng suy nghĩ của họ về đạo Công giáo là đúng. “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy thì không xứng đáng với Thầy”. Thật rõ ràng và dứt khoát. Nhưng có thật là khi vào đạo Công giáo người ta sẽ phải từ bỏ cha mẹ của mình không?

Để trả lời cho câu hỏi trên, ta có thể nhớ lại lời Chúa Giêsu đã nói về đời sống vợ chồng: “Người đàn ông sẽ lìa bỏ cha mẹ và luyến ái với vợ mình và cả hai sẽ nên một huyết nhục”.

Trong cuộc đời này có mối quan hệ nào thân thương, gắn bó mật thiết cho bằng mối tình của cha mẹ và con cái? Ta càng cảm nghiệm điều này rõ ràng hơn khi cha mẹ qua đời. Cha mẹ qua đời là một mất mát to lớn không thể bù đắp được trong cuộc đời của những đứa con. Dù thân thương gắn bó như vậy, thế mà anh thanh niên vẫn có thể lìa bỏ cha mẹ để sống với một người thiếu nữ xa lạ nào đó mà anh đã chọn làm bạn đời. Thì ra có một cái gì đó thật mãnh liệt đã kéo anh thanh niên ra khỏi vòng tay yêu thương của cha mẹ để gắn bó với người bạn đời của mình. Điều mãnh liệt ấy là gì nếu không phải là tình yêu? Và thật ra, dù lìa bỏ cha mẹ để gắn bó với người bạn đời của mình, thì không phải anh thanh niên cắt đứt tình nghĩa với cha mẹ. Tình nghĩa vẫn còn đó, nhưng lìa bỏ cha mẹ là để cho cuộc sống mới được phát sinh và vươn cao.

Nếu chỉ có tình yêu mới lý giải được sức mạnh đã lôi kéo người thanh niên ra khỏi cuộc sống chung với cha mẹ để gắn bó với người yêu, thì cũng chỉ có tình yêu mới lý giải được lời mời gọi của Chúa Giêsu: “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy sẽ không xứng đáng với Thầy. Ai giữ lấy mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống vì Thầy sẽ lại tìm thấy”. Phải có lòng yêu mến Đức Giêsu mãnh liệt lắm người ta mới dám từ bỏ và đánh đổi mọi sự, kể cả mạng sống của mình. Và khi từ bỏ những mối liên hệ thân thương của đời mình, thì không phải là phủ nhận giá trị của những mối liên hệ ấy, lại càng không phải là hủy diệt đi, nhưng là để cho cuộc sống mới, cuộc sống của Đức Kitô được vươn cao trong lòng mình, trong đời mình.

Đi đạo, theo đạo là sống cuộc sống của Chúa Giêsu, là yêu mến và gắn bó với Người, là đi vào một cuộc tình với Người. Mà dấu chỉ cho thấy một người có lòng yêu mến Đức Kitô chính là người ấy biết yêu thương anh em mình. Chúa Giêsu đã khẳng định rõ ràng điều ấy: “Bất cứ sự gì các ngươi làm cho một người trong các anh em bé mọn của Ta đây là các ngươi làm cho chính Ta”. Và “Ai cho một trong những kẻ bé mọn này dù chỉ là một ly nước lã thôi sẽ không mất phần thưởng đâu”.

Nếu đối với những người khác mà Chúa Giêsu còn đòi ta phải quan tâm, phải đối xử tốt như vậy huống chi là tổ tiên, là ông bà, là cha mẹ của ta? Chỉ có điều là Người muốn chúng ta đừng để bất cứ mối liên hệ nào, bất cứ giá trị trần gian nào ngăn cản lòng yêu mến của ta đối với Người. Càng yêu mến Chúa nhiều ta càng được thôi thúc để yêu mến ông bà, cha mẹ và mọi người nhiều hơn. Thế thì đâu có phải khi theo Chúa là phải bỏ ông bà, cha mẹ.

 

58.Vì người

Ông Inhac Pađêrốtki, nhạc sĩ người Ba Lan. Một hôm, sau khi trình diễn, người ta gặp thấy ông ngồi im lặng sau hậu trường, vẻ mặt thẩn thờ, mắt nhìn xa xăm. Người nhạc công phụ diễn với ông, ngạc nhiên hỏi ông có đau bệnh gì không? Pađêrốtki trả lời: “Tôi vẫn khỏe. Tôi chỉ buồn vì thiếu mất hai người bạn. Họ là đôi vợ chồng có mái tóc màu nâu. Hôm nay vắng mặt họ tại hàng ghế thứ tư, nơi họ thường ngồi”. Người bạn kinh ngạc thốt lên: “Không ngờ ông lại có bạn nơi thành phố này. Ông quen thân với họ chứ?”. Pađêrốtki đáp: “Tôi biết họ rất rõ, nhưng tôi chưa bao giờ gặp họ hai mươi năm nay, cứ mỗi lần tôi đến đây trình diễn, họ đều có mặt tại hàng ghế ấy. Tôi mến họ cách thưởng thức nhạc. Họ là tư duy của tôi. Và tất cả những bản nhạc tôi chơi đều dành riêng để tặng họ. Hôm nay tôi mất hết hứng thú vì vắng họ”. Ngừng một lát, rồi ông tiếp: “Mong sao không có gì xảy ra cho họ”.

Chỉ nhờ vào cách thưởng thức nhạc mà đôi vợ chồng thính giả ấy đã được nhạc sĩ Pađerốtki dành trọn tài năng âm nhạc của ông cho họ. Một sự đáp trả vượt quá tưởng tượng. Tuy nhiên, sự đáp trả mà Chúa Giêsu hứa cho những kẻ theo Ngài còn vượt xa hơn biết bao. Khi chọn lựa theo Chúa Giêsu, người môn đệ biết sẽ không tránh được nhiều mất mát. Nhưng Thiên Chúa không để cho họ thiệt thòi. Ngài sẽ đền bù, một sự đền bù vượt xa mọi chờ mong. Trước mặt Thiên Chúa, sẽ không có gì bị bỏ quên. Một bát nước lã thôi cũng sẽ được đền bù xứng đáng. Và cũng không có việc làm nào là kém giá trị.

Đón tiếp một ngôn sứ sẽ lãnh phần thưởng của ngôn sứ. Đón tiếp người công chính sẽ lãnh phần thưởng của người công chính. Đón tiếp người rao giảng sẽ lãnh phần thưởng của người rao giảng. Chúa Giêsu đã nói như thế trong Tin mừng hôm nay. Người môn đệ đừng sợ mất phần thưởng, nhưng hãy sợ mình chưa trung thành thực thi bổn phận. Với Thiên Chúa, bổn phận, dù công khai hay âm thầm, cũng vẫn luôn cần thiết. Thiên Chúa cần những con người ngày đêm nhiệt thành rao giảng, làm chứng cho Ngài, thì Ngài cũng cần những tiếp tay âm thầm hỗ trợ cho những con người ấy. Đây chính là niềm phấn khởi, hi vọng cho mỗi Kitô hữu. Tài hèn,sức kém, chúng ta không thể làm ngôn sứ, làm người lãnh đạo, hoặc làm kẻ gánh vác những trách vụ nặng nề, nhưng chúng ta vẫn có thể đóng góp một vài giúp đỡ cho những con người ấy.

Dù là vĩ nhân, cũng cần đến những nhu cầu căn bản của đời sống. Công chúng sẽ chẳng bao giờ biết đến những con người đứng sau hậu trường. Nhưng nếu không có họ thì xã hội chẳng thể nào có được các vĩ nhân. Lịch sử chỉ nhớ đến các vĩ nhân, chứ lịch sử không đủ giấy bút để ghi lại những khuôn mặt đã góp phần vào đời sống của vĩ nhân. Lịch sử không nhớ, nhưng Thiên Chúa lại nhớ tất cả, chẳng bỏ sót một khuôn mặt nào. Phần thưởng của họ cũng có giá trị như của các vĩ nhân. Cũng có thể là các việc đạo đức của chúng ta không đặc biệt sáng chói để được gọi là người công chính, là thánh nhân. Tuy nhiên, nếu chúng ta góp phần làm cho một người khác trở thành công chính, góp phần bằng cầu nguyện, hi sinh, thì chúng ta cũng lãnh nhận triều thiên của người công chính.

Tìm hiểu thêm một chút nữa, chúng ta sẽ ý thức hơn và hiểu rõ hơn điều ấy: Càng đi tìm chính mình, chúng ta càng đánh mất chính mình. Càng co cụm trong vỏ ốc của mình, chúng ta càng chết dần trong nỗi cô đơn. Niềm khao khát hạnh phúc, chúng ta chỉ có thể lấp đầy khi đến với tha nhân mà thôi. Đó là chân lý nền tảng về con người. Con người chỉ thành đạt thực sự, con người chỉ thực sự là người khi biết sống cho tha nhân.

Qua cuộc tử nạn và cái chết của Ngài, Chúa Giêsu cũng khẳng định chân lý ấy. Ngài bảo chúng ta: “Ai tìm mạng sống mình, sẽ mất. Ai đành mất mạng sống mình, sẽ gặp lại”. Đó là nghịch lý của Kitô giáo. Nhưng đó cũng là chân lý của cuộc đời. Thật thế, tất cả những ai miệt mài trong tiền của, danh lợi, chức quyền, lạc thú riêng mình, thì rồi cũng chỉ chuốc lấy đắng cay, chua xót, muộn phiền mà thôi. Trái lại, một cuộc sống tiêu hao vì người khác sẽ luôn là một cuộc sống tràn đầy, sung mãn. Chính trong phục vụ chúng ta mới tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống. Chính qua những cử chỉ yêu thương chúng ta mới tìm được bản thân mình. Đó là chính là ý nghĩa của “Kinh Hòa Bình” mà chúng ta vẫn thường hát: “Xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người…chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân…”

 

59.Thập giá

Một trong những điều dễ chịu, thú vị trong đời sống là gặp được một người cởi mở, thân thiện, nồng nhiệt và mến khách. Lòng mến khách là một dấu ấn xác nhận người môn đệ chân chính của Đức Kitô.

Khi mùa đông dài chấm dứt, thì mùa xuân trở lại. Dọc theo đường phố, người ta vui mừng. Họ kéo màn và mở các cửa sổ. Không khí mát, ánh sáng mặt trời và hơi ấm tràn vào nhà họ. Họ thốt lên “Cám ơn Thiên Chúa vì mùa xuân về, cám ơn Thiên Chúa vì ánh sáng mặt trời!”

Thế rồi đúng lúc ấy, một người ăn xin xuất hiện ở cuối đường. Anh ta bị phát hiện qua những cửa sổ mở rộng. Dọc theo chiều dài của con đường những cửa sổ đóng lại từng cái một các tấm màn cửa kéo kín lại, và các then cửa gài chặt lại. Người ăn xin gõ vào mỗi cánh cửa nhà trên đường, nhưng không có cánh cửa nào mở ra cho anh ta.

Một cách tuyệt vọng, anh ta rời bỏ con đường và hướng về một nơi nào khác. Không lâu sau khi anh ta đi khỏi, các màn cửa lại được kéo ra lại, các cánh cửa một lần nữa mở ra. Ánh sáng mặt trời và không khí trong lành lại ùa vào. Và mọi người lại vui mừng.

Điều lạ lùng là nhà chúng ta luôn mở rộng để đón nhận ánh sáng mặt trời và không khí trong lành của Thiên Chúa nhưng thường không mở ra để đón nhận con cái của Người, đặc biệt khi người này đến trong cảnh cơ hàn.

Đức Kitô khuyến khích chúng ta phải mến khách. Ngày nay lòng mến khách rất khác với ngày xưa khi không cần khóa chặt cửa nhà mình. Khổ nỗi, những ngày ấy đã qua rồi. Ngày nay là thời buổi ổ khóa, then cài, lỗ quan sát, nhìn qua cửa, hệ thống báo động, chó… Vì thế ngày nay hơn bao giờ hết, cần đến lòng mến khách thân thiện. Trong thế giới ngày nay, có rất nhiều cảnh cô đơn, nhiều người xa lạ, ngoại kiều, kẻ tha hương.

Lòng mến khách đối với một người bạn không có gì đáng kể. Nó không bao hàm nguy cơ, và xem ra ân nghĩa có thể được đáp trả. Nhưng lòng mến khách đối với một người xa lạ đến với mình. Lòng mến khách không có nghĩa làm họ giống mình. Nó có nghĩa chấp nhận những người khác như họ vẫn thế. Điều này làm họ tỏa sáng sự xa lạ của họ, đồng thời vẫn trở thành thành viên của cộng đoàn.

Nếu những người Kitô hữu sống thành những khu đặc biệt cứ trong đó họ củng cố và bảo đảm cho chính họ và những đặc tính của họ thì thế giới còn hy vọng được điều gì? Đức Kitô kêu gọi chúng ta phải đến với người xa lạ. Và phần thưởng sẽ rất lớn. Người nói rằng ngay cả một hành động nhân từ nhỏ bé như cho uống một chén nước lã thì hành động này cũng sẽ được thưởng công. Nhưng cũng có phần thưởng trần thế và là những phần thưởng lớn – Sự phát triển hiểu biết, tình thân hữu và hợp tác là những điều mà những người láng giềng của chúng ta đòi hỏi.

Đó là một loại mùa xuân mà chúng ta có thể làm cho nó đến nhà và khu phố của chúng ta, một mùa xuân sẽ xua đuổi mọi đám sương mù của sợ hãi, nghi kỵ, thù hận. Đối với những môn đệ của Đức Kitô, lòng mến khách không phải là điều phụ thuộc ngoại lệ. Nó là trung tâm của Tin mừng. Và động lực tối hậu của nó luôn sáng tỏ, đón tiếp người xa lạ là đón tiếp chính Đức Kitô.

Lòng mến khách không phải mở cửa nhà mình cho bằng mở cửa tâm hồn mình. Mở cửa tâm hồn mình thường gặp những nguy cơ. Người ta có thể bị tổn thương. Nhưng mở cửa tâm hồn mình là bắt đầu sống. Đóng cửa tâm hồn mình là bắt đầu chết.

 

60.Chúa trong anh em

“Sự gì ngươi làm cho kẻ bé mọn”

Văn hào hiện sinh vô thần Jean Paul Sartres có nói: “Hỏa ngục là người khác!” Thật là câu nói quái gở, đi ngược lại hoàn toàn tinh thần Phúc Âm.

Đối với chúng ta, người khác là ai? Ta hãy nghe Chúa Giêsu trả lời: Người khác, chính là Ta: “Sự gì ngươi làm cho một kẻ bé nhỏ nhất vì danh Ta, là làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40).

Người khác đó ở đâu? Làm sao tìm ra họ? Họ ở một thế giới khác? Họ ở chân trời góc biển, ở tận Châu Phi, Á châu xa lắc?

Không! Như Lazarô, họ ở ngoài cửa chúng ta. Họ là những người hèn mọn không ai nghĩ tới, những kẻ lạc loài, không cửa không nhà. Họ ở ngay đường phố, cùng chung cư hàng xóm chúng ta. Cũng có thể họ là những người trong gia đình, nhưng ta đã cố tình quên họ trong cảnh sống cô đơn, góa bụa, già cả của họ. Họ là “hỏa ngục của ta”, vì họ làm rầy ta trong cảnh sống “Thiên đàng” mà ta cho là đã tạo dựng được.

Hôm nay, qua bài Phúc Âm, Chúa dạy: “Kẻ nào cho một trong những người bé mọn này uống chỉ một bát nước lã thôi với danh nghĩa là môn đệ, thì quả thật, Thầy nói với các con, người ấy không mất phần thưởng đâu”.

Chúa dạy chúng ta ân cần tiếp đón anh em, một vấn đề được Kinh Thánh nhiều lần nhắc đến. Phúc Âm noái đến Chúa Kitô như một người khách mà người ta niềm nở đón tiếp hay là thờ ơ xua đuổi. Nên chú ý rằng Chúa Giêsu không bao giờ mời khách, nhưng Ngài luôn là khách được mời. Ngài đến cách riêng với người tội lỗi để có dịp gọi họ trở lại, như tại nhà Matthêô (Mt 9,10-18) và Giakêu (Lc 19,5-10). Ngài đến với gia đình quen thân của hai chị em Martha và Maria, cũng chỉ để nói lên một sự cần thiết nhất là lắng nghe và thực thi Lời Chúa. Ngài đến như một người khách lạ đến khuấy động lòng người, đặt lại mọi vấn đề. Vì thế, Gioan nói: “Người đến trong nhà Người và các gia nhân Người không tiếp nhận” (Ga 1,11)

Vì thế, chúng ta phải ân cần tiếp đón anh em trong niềm tin, vì người hành khất đến gõ cửa, người lao động đến xin việc làm, “người khách ấy chính là Ngài”.

Ở xứ Palestine, vấn đề nước là vấn đề sinh tử. Davit trong cánh đồng khô cháy Rơphaim (2 Samuel 23,15) đã kêu lên: “Chớ gì tôi được uống nước ở Belem!” Giọt nước ấy, Chúa Giêsu đã đến xin cùng thiếu nữ Samaria bên bờ giếng, giữa một trưa hè. Phải chăng nhiều lần Ngài cũng bị từ chối, nên Ngài hứa phần thưởng cho những ai cho kẻ khác chỉ một bát nước lã. Và phải chăng cách đón tiếp anh em ân cần hơn cả, là tìm cách cho họ được biết và sống với Chúa là “suối hằng sống”. “Ai tin Ta, thì như lời Thánh Kinh dạy: Từ lòng họ nước hằng sống sẽ chảy ra như giòng sông” (Ga 7,38).

Thánh Bác sĩ Giuseppe Mascatti lúc đậu bác sĩ lúc 22 tuổi. Cả cuộc đời chuyên lo cho người nghèo ở thành Naples. Bác sĩ luôn khuyên bảo các thanh thiếu niên mà ông gặp gỡ điều này: trước khi uống thuốc lo đi xưng tội rước lễ đã. Ngài được tôn phong Hiển Thánh vào Chúa nhật cuối tháng 10 năm 1987.

Lạy Chúa, xin cho con tìm thấy Chúa trong người anh em.

 

61.Chỗ đứng của Thiên Chúa

Thiên Chúa có chỗ đứng nào trong cuộc đời chúng ta?

Đọc lại Kinh Thánh chúng ta thấy ngày xưa dân Do Thái rất nhiều lần đã quì gối thờ lạy con bò vàng. Họ chọn con bò vàng làm thần tượng thay cho Thiên Chúa. Còn ngày hôm nay, nhiều người trong chúng ta cũng đã chọn lầm thần tượng cho mình. Con bò vàng ngự trị trong thẳm sâu cõi lòng họ là tiền tài, là danh vọng, là lạc thú…

Còn chúng ta thì sao? Mang danh hiệu là Kitô hữu, rất nhiều lần chúng ta đã tuyên xưng đức tin, đã chọn lựa Đức Kitô và đã dành cho Ngài địa vị số một trong cuộc sống của chúng ta. Chúng ta liên tục thực hiện khẩu hiệu sau đây:

- Thiên Chúa là thứ nhất, tha nhân là thứ hai, còn tôi là thứ ba.

De Leo là một quân nhân Hoa Kỳ, sau khi từ giã chiến trường Việt Nam trở về, anh kiếm được một chân canh giữ tượng nữ thần tự do ở Nữu Ước. Công việc của anh là chăm sóc cho ngọn đuốc trong tay và chiếc mũ triều thiên trên đầu bức tượng.

Anh phải làm thế nào cho ngọn đuốc luôn cháy, những khung cửa sổ bằng kính nơi ngọn đuốc và mũ triều thiên lúc nào cũng sạch sẽ. Chỉ vào ngọn đuốc, anh hãnh diện nói:

- Đó là ngôi nhà nguyện của tôi. Tôi dâng hiến nó cho Chúa và tôi thường lên đó để cầu nguyện vào những lúc rảnh rỗi.

Đối với anh, Thiên Chúa là thứ nhất.

Tuy nhiên, anh còn làm được nhiều việc khác nữa. Hội Hồng thập tự đã cấp giấy khen cho anh sau khi anh hiến nửa lít máu lần thứ sáu mươi năm. Khi hay biết những công việc bác ái Mẹ Têrêsa đang làm bên Ấn Độ, anh đã gửi tặng Mẹ 12.000 đô la, ngòai ra anh còn bảo trợ cho sáu em bé mồ côi, thông qua các tổ chức từ thiện.

Và như thế, đối với anh, tha nhân là thứ hai.

Riêng bản thân anh thì như thế nào? Chính anh đã nói với phóng viên tờ Los Angeles Times như sau:

- Tôi chẳng giàu xã hội tính, cũng chẳng bận áo quần hợp thời trang, nhưng tôi có được tính khôi hài. Tuy nhiên vấn đề là tôi không có đủ tiền để cưới vợ, và cũng chả giữ lại được đồng nào làm của riêng.

Và như thế đối với anh, bản thân mình là thứ ba.

Lúc đầu mọi người đều nhìn anh bằng cặp mắt nghi ngờ và họ mỉm cười, nhưng giờ đây thì tất cả đều nhìn nhận anh một cách nghiêm chỉnh và anh thực xứng đáng với danh hiệu là người giữ ngọn lửa của nữ thần tự do.

Với chúng ta cũng vậy. Chúng ta phải đặt Chúa vào địa vị, vào chỗ đứng số một, đồng thời phải cố gắng thực thi sự lựa chọn ấy suốt dọc cuộc đời của mình. Như trái đất xoay quanh mặt trời thế nào, thì mọi tư tưởng, mọi lời nói và mọi việc làm của chúng ta cũng phải xoay quanh Đức Kitô như vậy, để rồi chúng ta có thể nói lên như thánh Phaolô:

- Tôi sống, những không còn là tôi sống, mà là chính Đức Kitô sống trong tôi.

Nói cách khác, Đức Kitô chính là thần tượng số một của lòng chúng ta.

Có như vậy thì trong ngày sau hết, chúng ta mới được Ngài đón nhận vào quê hương nước trời.

 

62.Từ bỏ

Năm 1994 Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong chân phước cho chị Mác-đa-la Mô-ra-nô, là một nữ tu thuộc dòng Đức Mẹ Phù Hộ. Ngay từ thuở niên thiếu, Mác-đa-la đã phải nếm mùi tang tóc, chỉ trong vòng một tháng, thần chết đã hai lần đến gõ cửa nhà chị và cướp mất hai cột trụ của gia đình: người cha và người chị cả, những ngày đen tối bắt đầu đè nặng trên vai bà quả phụ Cartarina với bốn đứa con thơ dại.

Hồi đó Mác-đa-la mới 8 tuổi, nhưng đã tỏ ra khôn ngoan và chín chắn, thấy mẹ đau buồn và khóc hoài, chị thường nói với mẹ: “Mẹ ơi, thôi đừng khóc nữa, chẳng bao lâu con sẽ khôn lớn và con hứa sẽ giúp mẹ thật nhiều như bố và chị Phanxica đã giúp mẹ vậy”. Nhưng không phải tới lúc khôn lớn mà ngay từ bây giờ, vì nhu cầu và hoàn cảnh khó khăn của gia đình, Mác-đa-la đã ngồi xuống trước guồng tơ dệt chỉ mà chị Phanxica đã để lại.

Một hôm, tình cờ cha Bandenla, người anh họ của mẹ đến chơi và biết Mác-đa-la không được đi học, cha hứa sẵn sàng phụ giúp thêm vào nhu cầu vật chất của gia đình và trả tiền học phí cũng như tiền sách vở cho Mác-đa-la đi học. Sau hơn mười năm chăm chỉ học tập, chị đã tốt nghiệp và trở thành một cô giáo trường làng, thế là Mác-đa-la đã bắt đầu làm việc để phụ giúp gia đình. Suốt 16 năm trời, chị đã giữ lời hứa với mẹ, hơn nữa, chị biết mẹ luôn ấp ủ một ước muốn thầm kín là có được một căn nhà với mảnh vườn nho nhỏ, những luống rau và mấy giàn nho ngon ngọt. Vì thế, chị đã chuyên cần làm việc và âm thầm dành dụm, giảm bớt chi tiêu không cần thiết. Đến ngày sinh nhật thứ 30 của mình, Mác-đa-la dẫn mẹ đến xem mảnh đất với căn nhà và khu vườn như mẹ mong ước, chị âu yếm nói với mẹ: “Thưa mẹ, đây là món quà con xin biếu tặng mẹ, con chỉ xin mẹ một điều là cho phép con tận hiến cuộc sống còn lại của con cho Chúa để đáp lại tiếng gọi của Ngài vẫn thúc giục con từ lâu rồi”.

Quyết định của Mác-đa-la đã gây đau khổ nhiều cho mẹ chị, cho cha xứ, bạn bè và các phụ huynh học sinh của chị, vì họ mất đi một người con hiếu thảo, một người bạn tốt, một giáo viên gương mẫu, một người giáo dân nhiệt thành việc tông đồ. Trái lại, trong tâm hồn chị trào dâng một niềm vui mừng, vì chị có thể thực hiện được ước mơ chị đã ấp ủ từ lâu.

Ngày chia ly không khỏi ngậm ngùi đau xót, nhưng chị đã tìm được sức mạnh nơi tình yêu và lời nói của Chúa: “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy thì không xứng đáng với thầy”. Đồng thời chị cũng được sự an ủi vì tin vào lời Chúa đã hứa: “Quả thật, Thầy bảo cho anh em rõ, không ai bỏ nhà cửa, cha mẹ, vợ con, anh chị em vì nước Thiên Chúa mà lại chẳng lãnh nhận gấp trăm ở đời này và sẽ được sống đời sau”. Thật vậy, lời hứa ấy đã thể hiện qua suốt 30 năm sống đời tận hiến, trong đó, hơn 25 năm hăng say với sứ mệnh tông đồ giữa giới trẻ nghèo khổ, bị bỏ rơi tại đảo Xixilia. Và Chúa đã thưởng cho chị qua việc Đức Giáo Hoàng tôn phong chị lên bậc chân phước để mọi người ngưỡng mộ và tôn kính.

Kể lại câu chuyện trên để minh họa cho bài Tin Mừng hôm nay. Bài Tin Mừng này là đoạn cuối trong bài giảng dạy về truyền giáo của Chúa Giêsu. Ngài nói với các tông đồ, và qua các ông, nói với mọi Kitô hữu về sự từ bỏ tất cả mọi sự để đi theo làm môn đệ Ngài và Ngài hứa ban thưởng bội hậu cho họ. Tại sao Chúa đòi hỏi như vậy và đòi hỏi như vậy có nghịch lý không? Quả thực, con đường theo Chúa vốn đầy những nghịch lý, một trong những cái nghịch lý ấy là điều kiện để theo Chúa. Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu cho biết điều kiện đó là phải từ bỏ tất cả: gia đình, của cải, nghề nghiệp và chính bản thân mình. Cái nghịch lý là ở chỗ đó. Muốn theo Chúa, phải từ bỏ hết, phải từ bỏ tất cả, nghĩa là phải coi Chúa hơn hết tất cả mọi người, hơn hết tất cả mọi sự và tin vào một mình Chúa thôi.

Có người cho rằng: những điều trên đây Chúa chỉ dạy riêng cho những người đi tu mà thôi, nói thế cũng đúng, nhưng những lời Chúa dạy đây không phải là không áp dụng được cho tất cả chúng ta, bởi vì với mỗi người, Chúa cũng đòi hỏi phải từ bỏ, không phải từ bỏ để đi tu hay để làm tông đồ cho Chúa, nhưng trong cuộc sống, chúng ta cũng có nhiều cái, nhiều điều và nhiều lần phải từ bỏ.

Tóm lại, trong đời sống thường ngày, người Kitô hữu bị giằng co giữa một bên là tình cảm gia đình, bên kia là đòi hỏi của Chúa; hoặc một bên là quyến rũ của tiền tài, danh vọng, sống buông thả, một bên là sự trung thành với lý tưởng Kitô giáo. Trong những trường hợp giằng co như vậy, chúng ta sẽ chọn thế nào và phải làm gì? Bài Tin Mừng hôm nay soi sáng và hướng dẫn chúng ta hãy chọn đúng và thực hành đúng.

 

63.Đón tiếp

Một số người nghĩ rằng Giáo Hội đã lỗi thời và không còn cần thiết nữa. Có người cho rằng giảng huấn của Tin Mừng là khùng điên. Trong số báo The World xuất bản tháng 11 năm 1989, Ted Turner chủ nhân của cơ quan truyền thông Turner Broadcasting đã tuyên bố: “Kitô giáo là một tôn giáo dành cho những kẻ thua cuộc”. Ngoài câu nói này, ông còn vung vít nhiều điều khác nữa, nhưng câu này gồm tóm điểm chính yếu những gì ông ta đã phát biểu.

Trước mặt người đời những người Kitô hữu là những người khùng điên, dại khờ, thua lỗ. Nhưng điều người đời nghĩ rằng điên dại thì thật ra lại là sự khôn ngoan và quyền năng của Thiên Chúa. Đây là điều thánh Phaolô đã nói: “Thật thế, lời rao giảng về thập giá là một sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta là những người được cứu độ, thì đó lại là sức mạnh của Thiên Chúa”.

Bài Phúc âm hôm nay, là phần kết luận của chương 10, “Bài giảng về những Sứ Mệnh Truyền Giáo”. Đây là những hướng dẫn của Chúa Giêsu ban cho các tông đồ trước khi sai họ ra đi rao giảng Tin Mừng. Sau khi chọn 12 tông đồ, Chúa Giêsu đã ban quyền hành và sai họ ra đi thi hành mục vụ trong cánh đồng truyền giáo. Người ta chỉ thị cho họ phải chấp nhận cuộc sống hy sinh, khó nghèo, làm việc vất vả, gặp nhiều thử thách, bị bắt bớ hành hạ và bị giết chết. Đứng trước viễn tượng đó Người đã khuyên họ không nên vì sợ hãi mà thiếu lòng tự trọng, rồi mang mặc cảm tự ti làm hủy diệt nhân cách con người. Bởi, tuy không được tôn trọng trước mặt người đời, nhưng trước mặt Thiên Chúa họ rất quan trọng. Đây chính là Tin Mừng đối với các tông đồ.

“Kẻ nào đón tiếp các con là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy”. Chúng ta có bao giờ thực sự nghĩ rằng khi một người nào đó đón tiếp chúng ta là họ đón tiếp Chúa Giêsu Kitô không?

Theo những cuộc thăm dò cho biết hai trong ba người có quan niệm rất thấp về bản thân mình. Các nhà tâm lý học gọi đó là sự tự đánh giá thấp về chính mình. Thiếu lòng tự trọng thường là nguyên do của nhiều vấn đề xã hội và tâm lý. Người có lòng tự trọng cao thường lành mạnh hơn là những người thiếu lòng tự trọng. Họ sống lâu và ít có tai nạn hơn. Họ tránh được những thái độ khiêm nhã. Họ không cần phải dùng đến thuốc kích thích hay bia rượu, và cũng không cần phải khoe khoang hay làm những sự liều lĩnh ngu xuẩn để gây sự chú ý. Những người có lòng tự trọng cao thường thành công và kiếm được những việc làm lương bổng cao hơn. Tại sao? Những nhà tâm lý học trả lời rằng vì họ có niềm hy vọng và tinh thần lạc quan. Đây chính là yếu tố tạo nên thành công.

Martin Seligman, giáo sư tâm lý học của trường đại học University of Pennsylvania đã làm cuộc thăm dò các nhân viên của một hãng bán bảo hiểm lớn. Kết quả cho thấy rằng những người mong mỏi thành công đã bán bảo hiểm được 37/o nhiều hơn những người không mong đợi gì. Điểm then chốt là khi một người tự coi mình là một người thất bại thì tương lai sẽ thể hiện đúng điều dự đoán đó!

Tôi nghĩ Chúa Giêsu cũng đã hiểu tâm trạng của các tông đồ khi bị hất hủi và bị bắt bớ, họ phải trải qua những thời gian khó khăn để kiến tạo sự tự trọng. Suy nghĩ tích cực về chính mình đang khi bị phê bình gay gắt là những thử thách tâm lý khó khăn nhất các môn đệ đang gặp phải

Những lời khích lệ của Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta có giá trị vì được Thiên Chúa yêu thương. Giá trị của chúng ta không hệ tại ở lời phê bình của người đời, hay do tài năng khéo léo của chúng ta, nhưng vì chúng ta là môn đệ của Người, cho dù nam hay nữ, già hay trẻ, giáo dân hay tu sĩ, hay chỉ là một trong những con người “bé nhỏ”.

“Kẻ nào đón tiếp một tiên tri với danh nghĩa là tiên tri, thì sẽ lãnh phần của tiên tri… Và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ là một chén nước lã mà thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy… người đó sẽ không mất phần thưởng đâu”. Có khi nào chúng ta nghĩ rằng chúng ta đón tiếp một người nào đó là chúng ta đón tiếp chính Chúa Giêsu không? Những người Công giáo ở Ao Quốc thường treo khẩu hiệu này ở nhà mình: “Người khách là Chúa Kitô”.

Trong suốt 58 năm làm linh mục (1910-1968), thánh Padre Piô đã nghe hàng ngàn người xưng tội. Thế nhưng, hiều vị giáo sĩ lúc bấy giờ đã coi cha Padre Piô là kẻ dối trá. Từ những năm mới bắt đầu, dân chúng tung tin đồn ngài là nhà huyền bí giả hiệu với những vết thương tự làm khổ mình, và cả chuyện lăng nhăng về tình dục. Năm 1931 với sự đồng ý của Vatican, bề trên đã cấm ngài không được giải tội và dâng thánh lễ công khai. Phải mất 2 năm để điều tra và phục hồi năng quyền cho ngài được dâng thánh lễ. Mãi đến ngày 5 tháng 3 năm 1934 ngài mới được phép giải tội, nhưng chỉ ngồi tòa cho đàn ông mà thôi. Hai tháng sau đó, ngày 12 tháng 5, ngài mới được phép giải tội cho cả phụ nữ nữa. Vì sự nghi ngờ này, nhiều vị trong Giáo Hội tránh né cha Padre Piô. Nhưng vị giáo hoàng tương lai đã không thèm để ý tới những tin đồn. Ngài đã chỉ dựa vào cảm giác tốt lành của những người Công giáo bình thường: “Kẻ nào đón tiếp một tiên tri với danh nghĩa là tiên tri, thì sẽ lãnh phần của tiên tri“.

Đức Giáo Hoàng đã đón nhận một phần thưởng tốt đẹp. Năm 1962, đang khi tham dự Công đồng Vatican II, ngài nghe tin một bè bạn đang hấp hối vì ung thư cổ họng. Ngài viết thư xin cha Padre Piô cầu nguyện cho bà. Dr Wanda Poltawka đã được khỏi bệnh và phục hồi sức khỏe. Và 40 năm sau, bà đã có mặt trong buổi lễ phong thánh của cha Padre Piô.

Chúng ta cầu xin Thiên Chúa gửi đến cho chúng ta những vị thánh, giống như cha Padre Piô. Nhưng chúng ta cũng phải cầu xin cho chính chúng ta có sự khiêm tốn để đón nhận họ như một vị thánh nữa.

 

64.Sự hiếu khách và con Thiên Chúa

Sự hiếu khách là một đức tính tốt đẹp mà đôi khi nó dẫn đến nhiều ngạc nhiên và sinh ra những kết quả không ngờ. Trong bài đọc I, người đàn bà xứ Shunem chứ không phải người Israel. Dù người Shunem thường bị người Israel khinh miệt, coi họ như dân ngoại, bà ta đã nhận biết tiên tri Êlisêô là một vị thánh. Bà đã thuyết phục được chồng bà để tỏ lòng hiếu khách với người của Thiên Chúa, vị tiên tri đã chấp nhận sự hiếu khách này với một sự ngạc nhiên. Phần thưởng bất ngờ mà người đàn bà được là một năm sau bà hạ sinh được một cậu bé trai, và bà vui sướng với phần thưởng đó trong một thời gian dài.

Đoạn văn này đã báo trước lời giáo huấn của Chúa Giêsu trong Phúc âm: “Người nào tiếp đón một tiên tri mang danh là tiên tri thì nhận phần thưởng của một tiên tri”. Phần thưởng của người đàn bà xứ Shunem là đứa bé trai, đứa con do chính máu huyết của bà sinh ra. Chúa Giêsu đã nói với mọi người: “Ai tiếp đón các con là tiếp đón Thầy”. Khi chúng ta tỏ ra hiếu khách với tha nhân, chúng ta cũng sẽ nhận được một bé trai, nhưng không phải do máu huyết của chúng ta sinh ra. Chúng ta lãnh nhận người Con đời đời của Chúa Cha. Khi chúng ta đến với tha nhân là chúng ta đến với chính Đức Kitô.

Thánh Martin thành Tour là một mẫu gương. Ngài thường được xem là con người đầu tiên được tôn kính như một vị thánh mà không phải do tử vì đạo. Ngài sinh ra tại Pháp vào lúc mà cuộc bách hại đạo đang đến hồi chấm dứt. Chưa có ai được những thiện nam tín nữ kính trọng như một vị thánh trong Giáo hội sơ khai trước đó như ngài, những người đã chết giống như Đức Kitô và vì Đức Kitô. Bây giờ điều quan trọng là bắt đầu chuyển đến sống vì Đức Kitô và để yêu mến Đức Kitô.

Khoảng đời của thánh Martin đã nêu cao chân lý yêu thương tha nhân là thật sự yêu thương Đức Kitô. Trong lúc thánh Martin đang còn là một người đang học giáo lý theo đạo và đang phục vụ trong quân đội, ngài đang thi hành phiên gác trong một đêm đông giá lạnh thì gặp một người nghèo khổ đang run rẩy vì quần áo của ông ta như một mớ giẻ rách, đứng trước mặt ngài. Thánh nhân liền cởi chiếc áo choàng của mình, rút gươm cắt chiếc áo choàng ra làm hai mảnh và đưa một mảnh cho người ăn xin nghèo khổ đó. Sau đó, trong lúc ngủ, Martin nằm mơ thấy Đức Kitô khoác mảnh áo khoác mà ngài đã cho người ăn xin. Ngài nghe Đức Kitô nói: “Hỡi Martin, tuy con mới học giáo lý để theo đạo, mà con đã cho Ta chiếc áo này”.

Đoạn văn trên đã minh họa phần cốt yếu của đức tin chúng ta về Đức Kitô. Là những người công giáo, chúng ta tin rằng Đức Kitô hiện diện trong từng lời Thánh Kinh và Người nói với chúng ta khi Lời Chúa được tuyên đọc trong nghi thức phụng vụ. Chúng ta tin rằng Đức Kitô đang hiện diện trong bí tích Thánh Thể và trên bàn thờ khi chúng ta cử hành sự chết và sự phục sinh của Người. Cùng với những xác tín trên chúng ta phải tin rằng Chúa Kitô đang hiện diện nơi mọi người, khi chúng ta phục vụ tha nhân là chúng ta phục vụ Người, và khi chúng ta phớt lờ người khác là chúng ta phớt lờ chính người. Chúng ta phải có một đức tin bao gồm nơi thực tại của Đức Kitô, nơi Lời Chúa, nơi bí tích Thánh Thể và nơi mọi người. Phụng vụ không phải là một sự sùng kính riêng tư, một quan hệ cá nhân giữa Thiên Chúa với một người nào đó. Đó là sự diễn tả của Giáo hội, trong một thân xác và một tinh thần trong Đức Kitô. Sự hợp nhất trong Đức Kitô phải chuyển động cách sống của chúng ta.

Khi chúng ta đến với những người không nhà, những người đói khát, chúng ta phải nhận ra Đức Kitô ở trong họ. Khi chúng ta để ý đến những bà mẹ trẻ, cô độc đang mang thai, những người cần chúng ta chăm sóc, chúng ta phải thấy Đức Kitô trong họ. Khi chúng ta nhận ra những ngoại kiều, ủng hộ hay chống đối chúng ta đang ở giữa chúng ta, chúng ta phải biết rằng Đức Kitô cũng là một người ngoại quốc. Và chúng ta phải hành động theo lời dạy của Chúa. Chúng ta phải luôn luôn tiếp đón Đức Kitô và đừng ngoảnh mặt đi. Những người công giáo phải ngạc nhiên nếu mình không hiếu khách. Sự tử tế sẽ là một diễn tả đích thực của đức tin chúng ta.

 

65.Đòi hỏi người môn đệ--Huệ Minh

Trang Tin Mừng hôm nay nói rất rõ. Chúa Giêsu tuyên bố: ai yêu mến cha mẹ, con cái hơn Người thì không xứng đáng là môn đệ của Người. Và Người còn đòi hỏi hơn nữa khi tuyên bố tiếp theo: "Kẻ không vác lấy khổ giá mình mà theo Ta, ắt không xứng với Ta". Nếu được phép làm một phân tích văn chương nho nhỏ, chúng ta có thể nói các đòi hỏi đã được đưa ra càng ngày càng gắt gao hơn. Ðầu tiên Chúa chỉ đòi người môn đệ phải yêu Người hơn cha mẹ; rồi Người bảo họ phải yêu Người hơn cả con cái là những giọt máu của chính bản thân mình; cuối cùng Người lại buộc họ phải vác lấy khổ giá mà đi theo Người tức là phải yêu Người đến nỗi không sợ chết và dám bỏ mạng sống vì Người.

Ta thấy các tông đồ được Chúa Giêsu tuyển chọn để trở nên những sứ giả của lòng thương xót Chúa. Họ còn được Chúa dặn dò phải vững tin ở sự quan phòng đầy tình thương và quyền năng của Chúa, để không sợ hãi trước bất cứ thế lực trần gian nào và kiên trung chu toàn sứ vụ đã được Chúa trao ban. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã tỏ cho các tông đồ biết, vì được chính Chúa kêu gọi, tuyển chọn và sai đi để thực hiện sứ vụ của chính Ngài nên họ thực sự là những ngôn sứ của giao ước mới. Và vì thế, tiếp đón họ cũng là tiếp đón chính Chúa Kitô và tiếp đón chính Thiên Chúa.

Có thể nói nội dung bài Tin Mừng hôm nay xoay quanh một chữ YÊU. Và các môn đệ Đức Giêsu được mời gọi phải làm cho tình yêu mình dành cho Thầy sinh những quả ngọt trái lành như đã được liệt kê lần lượt trong bản văn.

Trước hết, tình yêu cho hoa trái đầu tiên của nó là sự phân rẽ xem ra cay nghiệt hơn cả việc đối đầu và loại trừ như đã thấy trong các cuộc xung đột hay chiến tranh, đó là sự phân rẽ giữa cha mẹ với con cái và với người thân trong nhà. Điều này đau đớn khác nào cắt từng khúc ruột mỗi người.

Ta thấy tình yêu đòi sự ưu tiên xem ra quá sức người, đó là phải đặt Chúa lên trên cả đấng sinh thành và dưỡng dục mình. Tiếp theo đó, tình yêu đòi phải mở cửa lòng tiếp nhận không chỉ chính Chúa, mà là những người được Chúa sai đến, rồi lại cả những người nghèo hèn bé nhỏ.

Người yêu cầu phải “ghét” cha mẹ, vợ con, anh em, chị em. Chẳng phải là điều răn yêu thương người thân cận đã bị đảo lộn rồi sao? Nghĩa là để đi theo Đức Giêsu, người ta phải thay thế tình yêu đối với người thân cận bằng sự ghét bỏ đối với họ? Nhưng ý nghĩa của từ “ghét” ở đây được làm sáng tỏ nhờ Mt 10,37: “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy”. Điều này có nghĩa là ai muốn đi theo Đức Giêsu thì phải yêu mến Người hơn tất cả những người khác, kể cả những người gần gũi với mình nhất. Người ấy lại còn phải yêu mến Người hơn cả chính bản thân mình. Đức Giêsu yêu cầu người ta dành cho Người một vị trí đặc biệt và duy nhất. Vì thế, “ghét” đây cũng có thể phải hiểu là “dứt khoát” với những quan hệ nào đó nếu can, để có thể trung thành với Tin Mừng. Chính tương quan duy nhất với Đức Giêsu sẽ điều hành mọi tương quan của ta với những người khác.

Như lời Chúa Giêsu nói với các tông đồ trong tin mừng hôm nay, khi chúng ta tiếp đón các tông đồ và các giáo huấn của các ngài, chúng ta tiếp đón chính Chúa Kitô và giáo huấn của Ngài. Các tông đồ của Chúa Kitô ngày nay chính là các giám mục--những người kế vị các tông đồ ngày xưa--có sự thông hiệp trọn vẹn với đức giáo hoàng, đấng kế vị Thánh Phêrô và là Vị Ðại Diện Chúa Kitô làm Ðầu Hữu Hình của Hội Thánh ở trần gian. Trong sự hiệp thông với đức thánh cha và các đức giám mục, tất cả các linh mục, phó tế vàø mọi tín hữu trong Hội Thánh cũng được thông dự vào sứ vụ của các tông đồ theo những mức độ và chiều kích khác nhau tùy đấng bậc mình để phục vụ và xây dựng Nhiệm Thể Chúa Kitô.

Khi tỏ lòng kính yêu và vâng phục các vị thẩm quyền đang phục vụ Hội Thánh, chúng ta thực sự tỏ lòng kính yêu và vâng phục chính Chúa Kitô và được lãnh nhận tất cả những phúc lộc Thiên Chúa dành cho những tín hữu chân thực của Người. Trái lại, phủ nhận hay chống đối Huấn Quyền của Hội Thánh cũng là phủ nhận và chống đối Chúa Kitô và giáo huấn của Người. Ðây cũng là điều Ðức Cha Nguyễn Văn Thuận đã ân cần khuyên nhủ chúng ta trong tác phẩm Ðường Hy Vọng của ngài: "Suốt đời con hãy ghi lòng tạc dạ: luôn luôn kính trọng người của Hội Thánh, bí tích của Hội Thánh, chỉ thị của Hội Thánh, phụng vụ của Hội Thánh. Chúa sẽ chúc lành cho con" (# 266).

Nói cách khác, Chúa đòi người môn đệ phải từ bỏ tất cả, ngay cả mạng sống mình để đi theo và yêu mến Người. Người không cho phép môn đệ nào được lấy cớ yêu cha yêu mẹ, yêu con cái hay sự sống của mình mà từ chối với Người một điều gì khiến Người thấy tình yêu của môn đệ đối với Người chưa thật hoàn toàn và Người chưa là tất cả đối với họ. Người đòi hỏi tình yêu tuyệt đối, nên Người không nhận làm môn đệ những kẻ muốn đi theo Người nhưng lại còn xin phép về nhà lo an táng cha hay thu xếp những công việc khác. Người có thể đòi hỏi như thế bởi chính Người đã từ bỏ tất cả vì môn đệ và để cho người ta trở thành môn đệ. Chúng ta đã thấy Người đã nộp mình chịu chết cho những kẻ Người thương yêu như thế nào. Tình yêu lớn lao như vậy và tuyệt đối như thế chỉ thấy người môn đệ xứng đáng khi họ cũng yêu tuyệt đối và lớn lao như vậy.

Ai muốn đi theo Đức Giêsu, phải đặt sự trung thành với thánh ý Thiên Chúa trên tất cả mọi sự. Vì trân trọng ý muốn của Ngài, người ta phải chấp nhận đau khổ, tủi nhục, bị khinh bỉ và tất cả những gì đối lập lại với một cuộc đời thú vị, thậm chí đến chỗ mất mạng sống mình. Hẳn là chúng ta muốn tạo ra một hình thái Kitô giáo vừa tầm với chúng ta, làm chúng ta vui thích. Đức Giêsu nói với người ta rằng họ chỉ có thể bước theo Người theo những điều kiện của Người. Ai muốn thuộc về Đức Giêsu, thì phải quyết định theo Đức Giêsu toàn thể, với trọn con đường của Người.

Những đòi hỏi này của tình yêu dễ khiến tôi, bạn và anh chị mệt mỏi, dễ đặt ta vào tình cảnh nghi vấn, hoang mang không biết yêu như thế có ổn chăng, không biết mình có thể trung thành với đường yêu này đến bao giờ, dẫu rằng tâm ta vẫn thiện đủ để khát mong yêu Chúa, lòng ta vẫn sáng đủ để chọn cho mình một đối tượng và một cách yêu đúng đắn giữa muôn vàn sắc màu và cung bậc của tình yêu trong thời đại này.

Thật vậy, đáng lẽ ra, đã yêu thì phải nên một, đã thương thì phải đoàn kết. Đàng này, yêu lại gây chia lìa. Đơn giản là vì cách yêu của Chúa không như kiểu yêu phàm trần, vì lối yêu của Chúa là đường đẹp, đường thánh nhưng chẳng mấy ai thích đi. Đây chính là gốc rễ của chia rẽ và giáo gươm.

Thêm vào đó, còn những thách đố không hề nhỏ, đó là thách đố từ việc chỉ vì yêu Chúa mà nếu cần, ta lại phải sẵn sàng đặt tình cảm gia đình sang một bên mà dấn bước cho lòng mến Chúa, phải ngưng lo cho cha mẹ mà chu toàn bổn phận với Chúa.

Những nghịch lý trên khiến ta cảm nhận từ đáy lòng mình chút gì đó xót đau, khiếp khủng, thậm chí oan ngang mà không phải ai cũng có thể vượt qua.

Nếu yêu Chúa, ta có dám đứng một mình khi mọi người đứng ở phía đối diện chăng? Đó là lúc tất cả chọn oán thù mà ta lại muốn yêu thương. Đó là lúc ta muốn giữ lại bào thai trong bụng mình mà cha mẹ hoặc người chồng bắt ta phải phá. Đó là lúc ta chọn đến nhà thờ mà mọi người muốn ở nhà xem đá bóng. Đó là lúc ta muốn cất lên lời kinh tạ ơn sau một ngày mệt nhọc mà con cái ta lại muốn bật máy karaoke để giải trí.... Dám đứng một mình là đồng nghĩa với việc chấp nhận sự phân rẽ, chấp nhận sự đối đầu, chấp nhận bị loại trừ,...

Bước theo Đức Giêsu: hoặc là một cuộc bước theo trọn vẹn, hoặc chẳng phải là một cuộc bước theo. Người ta không được chỉ chọn ra một vài nét thuộc về hành trình của Đức Giêsu mà người ta thích. Hoặc là người ta sẵn sàng đi với Người trọn chuyến đi, hoặc có bắt đầu cũng chẳng ích gì. Thập giá của Đức Giêsu là dấu chỉ cụ thể về sự trung thành vô điều kiện của Người đối với thánh ý Chúa Cha, với định mệnh của Người và với sứ mạng của Người. Đối với Người, sự trung thành này còn quý giá hơn chính mạng sống Người.

 

 

Bài cùng chuyên mục:

Thứ Hai 25/11/2024 – Thứ Hai tuần 34 thường niên – CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM. Bổn mạng Giáo Hội Việt Nam. – Làm chứng cho Chúa. (24/11/2024 10:00:00 - Xem: 1,555)

CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM. Bổn mạng Giáo Hội Việt Nam.

+ Chúa Nhật 24/11/2024 – CHÚA NHẬT 34 THƯỜNG NIÊN năm B. – ĐỨC GIÊSU KITÔ VUA VŨ TRỤ. – Vua Giêsu. (23/11/2024 10:00:00 - Xem: 6,600)

CHÚA NHẬT 34 THƯỜNG NIÊN năm B. – ĐỨC GIÊSU KITÔ VUA VŨ TRỤ.

Thứ Bảy 23/11/2024 – Thứ Bảy tuần 33 thường niên. – Chúa Giêsu xác định rõ ràng về sự sống lại. (22/11/2024 10:00:00 - Xem: 3,247)

Thứ Bảy tuần 33 thường niên.

Thứ Sáu 22/11/2024 – Thứ Sáu tuần 33 thường niên. – Thánh Cêcilia, trinh nữ, tử đạo. Lễ nhớ. – Ðền thờ, nơi gặp gỡ Chúa. (21/11/2024 10:00:00 - Xem: 5,771)

Thánh Cêcilia, trinh nữ, tử đạo. Lễ nhớ.

Thứ Năm 21/11/2024 – Thứ Năm tuần 33 thường niên – Đức Mẹ dâng mình trong đền thờ. Lễ nhớ. – Ðức Mẹ Dâng Mình Vào Ðền Thờ. (20/11/2024 10:00:00 - Xem: 6,435)

Đức Mẹ dâng mình trong đền thờ. Lễ nhớ.

Thứ Tư 20/11/2024 – Thứ Tư tuần 33 thường niên. – Nén bạc sinh lời. (19/11/2024 10:00:00 - Xem: 3,818)

Thứ Tư tuần 33 thường niên.

Thứ Ba 19/11/2024 – Thứ Ba tuần 33 thường niên. – Thể hiện hoán cải cách cụ thể. (18/11/2024 10:00:00 - Xem: 3,805)

Thứ Ba tuần 33 thường niên.

Thứ Hai 18/11/2024 – Thứ Hai tuần 33 thường niên. – Người mù thành Giêricô. (17/11/2024 10:00:00 - Xem: 3,914)

Thứ Hai tuần 33 thường niên.

+ Chúa Nhật 17/11/2024 – CHÚA NHẬT 33 THƯỜNG NIÊN năm B. – CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM. Bổn mạng Giáo Hội Việt Nam. – Làm chứng cho Chúa. (16/11/2024 10:00:00 - Xem: 15,246)

CHÚA NHẬT 33 THƯỜNG NIÊN năm B. – CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM.

Thứ Bảy 16/11/2024 – Thứ Bảy tuần 32 thường niên. – Cầu nguyện là sức mạnh. (15/11/2024 10:00:00 - Xem: 3,580)

Thứ Bảy tuần 32 thường niên.

Bài viết mới
Câu chuyện chiều thứ 7