Phụng vụ

Cử hành Thánh Thể: Bài 36- 37 & 38: Lời chuyển cầu

  • In trang này
  • Lượt xem: 288
  • Ngày đăng: 02/07/2024 07:51:46

Ngày 5 tháng 8 năm 2023, Ủy ban Phụng tự Hội đồng Giám mục Việt Nam đã thông báo về chương trình Đào tạo phụng vụ cho Dân Chúa gồm: (1) Thực hành mục vụ và (2) Kiến thức phụng vụ. Để đào sâu hiểu biết về kiến thức phụng vụ, Ủy ban Phụng tự trân trọng giới thiệu loạt bài về cử hành Thánh Thể do linh mục Giuse Phạm Đình Ái, SSS tổng hợp và biên soạn.

 

BÀI 36: LỜI CHUYỂN CẦU

 

I/ NGHI THỨC  

Sau Lời nguyện dâng tiến, chủ tế chuyển sang đọc Lời chuyển cầu, chẳng hạn Lời chuyển cầu trong Kinh nguyện Thánh Thể II: “Lạy Chúa, xin nhớ đến Hội Thánh Chúa lan rộng khắp hoàn cầu, để kiện toàn Hội Thánh trong đức mến, cùng với Đức Giáo Hoàng […] Xin Chúa cũng nhớ đến anh chị em chúng con đang an nghỉ trong niềm hy vọng sống lại […] Chúng con nài xin Chúa thương xót tất cả chúng con, […] Nhờ Đức Giêsu Kitô, Con Chúa.”

 

II/ LỊCH SỬ - Ý NGHĨA

Truyền thống dâng Lời chuyền cầu trong Kinh nguyện Thánh Thể đã có ngay từ thuở đầu của phụng vụ Thánh lễ cả bên Đông lẫn bên Tây phương. Chúng bắt nguồn và được vay mượn từ phụng tự Do Thái: mỗi khi dâng lời chúc tụng tạ ơn Thiên Chúa, dù tại tư gia hay hội đường, người Do Thái thường lồng vào các Lời chuyển cầu cho các nhu cầu hiện tại, cho tất cả những người thân thuộc trong tâm tình ngợi khen Thiên Chúa.[1]

 

Nhưng, cũng như kinh “Thánh, Thánh, Chí Thánh” (Sanctus), người ta không thấy những Lời chuyển cầu trong Kinh nguyện Thánh Thể của thánh Hippôlytô nhưng nằm ở phần mà ngày nay chúng ta gọi là lời nguyện tín hữu. Chúng cũng không có trong các gia đình phụng vụ Gallican và Tây Ban Nha. Các gia đình phụng vụ khác đều có, nhưng vị trí của chúng trong các Kinh nguyện Thánh Thể lại khác nhau. Sự kiện này giúp chúng ta biết là chúng mới được thêm vào sau này.[2]

 

Trong gia đình phụng vụ Antiôkia, những Lời chuyển cầu được đặt sau kinh Khẩn nài Chúa Thánh Thần (Epiclesis) và trước Vinh tụng ca cuối cùng. Tại Ai Cập và Êtiôpi, chúng được đặt xen kẽ giữa kinh Tiền tụng và kinh Sanctus, trong khi nơi các nghi điển phụng vụ Syria mạn Đông, người ta xếp chúng giữa kinh Tưởng niệm (Anamnesis) và kinh Khẩn nài Chúa Thánh Thần (Epiclesis). Cụ thể như sau: [i] Cấu trúc của Anaphora thuộc gia đình Antiôkia theo thứ tự là: Đối thoại; Chúc tụng và cảm tạ; Dẫn nhập vào kinh Sanctus; Kinh Sanctus; Lời nguyện hậu-Sanctus; Tường thuật thiết lập bí tích Thánh Thể; Anamnesis; Epiclesis; Lời chuyển cầu; và Vinh tụng ca[ii] Cấu trúc Anaphora của gia đình Alexandria theo thứ tự: Đối thoại; Chúc tụng và cảm tạ; Lời chuyển cầu; Dẫn nhập vào kinh Sanctus; Kinh Sanctus; Epiclesis I; Lời nguyện hậu-Sanctus; Tường thuật thiết lập bí tích Thánh Thể; Anamnesis; Epiclesis II; và Vinh tụng ca[iii] Cấu trúc Anaphora của gia đình Đông Syria được sắp xếp như sau: Đối thoại; Chúc tụng và cảm tạ; Dẫn nhập vào kinh Sanctus; Kinh Sanctus; Lời nguyện hậu-Sanctus; Tường thuật thiết lập bí tích Thánh Thể; Anamnesis; Epiclesis; Lời chuyển cầu; và Vinh tụng ca. [3]

 

Lễ quy Rôma có cấu trúc như Anaphora của gia đình Alexandria. Lúc đầu, có khá nhiều Lời chuyển cầu trước truyền phép, chẳng hạn Lời chuyển cầu cho Hội Thánh, cho Đức Giáo hoàng, Đức Giám mục địa phương, những người còn đang sống và những người đang tham dự Thánh lễ; theo sau là bản liệt kê danh sách các thánh tông đồ và tử đạo được tôn kính đặc biệt ở Rôma. Hướng đến phần kết thúc lời nguyện là nhóm thứ hai gồm những lời nguyện cầu nhớ đến những anh chị em đã ly trần (từ thế kỷ IX) đồng thời kêu cầu các thánh tử đạo và các thánh.[4] Trong Lễ quy Rôma hiện nay, cấu trúc của Lời chuyển cầu vẫn không thay đổi. Trước truyền phép có 3 kinh: (1) Cầu cho Hội Thánh (NTTL 84); (2) Cầu cho người còn sống (NTTL 85); (3) Hiệp thông cùng Hội Thánh với bản danh sách các thánh (NTTL 86). Sau truyền phép thì có: (1) Cầu cho người đã qua đời (NTTL 95); (2) Cầu cho cả cho chúng con, là tôi tớ tội lỗi theo sau là bản danh sách các thánh (NTTL 96).[5] Như vậy, cả trước lẫn sau truyền phép Lễ quy Rôma có 5 kinh dùng làm Lời chuyển cầu và đều có bản liệt kê tên các thánh. Đây là cách xếp đặt riêng của Lễ quy Rôma, có lẽ không dựa vào lý do giáo lý, nhưng chỉ do tính thích cân đối, lặp đi lặp lại của Rôma, tuy vậy bản liệt kê danh sách các thánh được rút ngắn hơn.[6]

 

Trong cách xếp đặt các Lời chuyển cầu, các Kinh nguyện Thánh Thể mới (II, III, IV) khác xa với Lễ quy Rôma và đi theo cấu trúc Antiôkia. Trong các Kinh nguyện Thánh Thể này, các Lời chuyển cầu được phân phối ở trước và sau phần truyền phép. Các Lời chuyển cầu được sắp xếp theo diễn tiến của lịch sử cứu độ. Cũng như trong kinh Tin kính, Hội Thánh và các bí tích được xếp vào phần dành cho Chúa Thánh Thần, trong các Kinh nguyện Thánh Thể mới cũng vậy, những Lời chuyển cầu được đưa về phần cuối lời nguyện và nối kết với kinh Khẩn nài Chúa Thánh Thần. Đó là một trật tự rất tự nhiên và cần thiết. Trong kinh Tiền tụng mở đầu Kinh nguyện Thánh Thể, chúng ta đã nhắc tới các thần thánh trên trời cũng như xin các ngài cùng tham dự vào lời tạ ơn của chúng ta, thì tại phần cuối, chúng ta lại nhắc tới các ngài và mong được chung hưởng vinh quang thiên quốc với các ngài.[7]

 

Hình như theo nguồn gốc, những Lời chuyển cầu này hướng theo hai chiều khác biệt, nhưng lại gần cận nhau và thường đồng quy với nhau:

(1) Trước tiên, chúng hướng về những người dâng bánh rượu hay những của lễ khác, cả những người dâng tiền xin chỉ ý lễ. Hội Thánh hướng về họ và xin cho họ được tham dự vào hiệu quả của Thánh lễ. Chẳng hạn cầu cho những người còn sống khi mới lãnh nhận các bí tích hôm ấy, hoặc mới nhận một chức vụ, một bậc sống mới trong Hội Thánh, cầu nguyện cho những anh chị em tân tòng. Ngoài ra, trong Thánh lễ cầu cho những tín hữu đã qua đời, trước khi tưởng nhớ chung những người quá cố, cũng có kinh cầu nguyện riêng cho những người linh mục chỉ lễ cho.[8]

 

(2) Chiều hướng thứ hai mà những Lời chuyển cầu hướng tới là sự hiệp thông trong Hội Thánh. Do vậy, vị tư tế nhắc tên của Đức Thánh cha, của Đức Giám mục giáo phận và cầu nguyện cho các linh mục, tu sĩ, những người hiện diện cũng như vắng mặt. Chúng ta (Giáo Hội lữ hành) không chỉ nhắc tới những người nơi trần thế, nhưng xin hiệp thông cả với các thần thánh trên trời (Giáo Hội khải hoàn) với lòng khao khát được ở cùng với các ngài và được chia sẻ những thiện hảo thiêng liêng. Chúng ta cũng hiệp thông với những anh chị em đã ly trần (Giáo Hội thanh luyện) và chuyển cầu cho họ được thương nhận vào Nước Chúa (x. GLCG 958, 1030, 1032; PV 7).

 

Việc sắp xếp Lời chuyển cầu thường thay đổi trong mỗi Kinh nguyện Thánh Thể, nhưng theo một chủ đề là dâng lên Chúa Cha (1) trước hết tất cả những ai sẽ được Mình và Máu Chúa Kitô bổ dưỡng; (2) thứ hai là dâng lên Chúa Cha toàn thể Hội Thánh hoàn vũ và chỉ giới hạn vào Hội Thánh cũng như sự hợp nhất của Hội Thánh mà thôi. Bởi vậy, Lời chuyển cầu thường có cấu trúc theo hình kim tự tháp như sau: (i) Lời cầu cho Đức Giáo hoàng (lãnh đạo Hội Thánh phổ quát), cho Đức Giám mục giáo phận (lãnh đạo Hội Thánh địa phương), cho tất cả các Đức Giám mục (Kinh nguyện Thánh Thể I), cho toàn thể hàng giáo sĩ (Kinh nguyện Thánh Thể II) như biểu hiện của sự hiệp thông với các ngài là mục tử của Hội Thánh; (ii) Lời cầu cho Hội Thánh hoàn vũ với toàn thể dân thánh đã được Thiên Chúa cứu độ (Kinh nguyện Thánh Thể II và III); (iii) Lời cầu cho sự hiệp nhất của Hội Thánh (Kinh nguyện Thánh Thể III và IV); (iv) Lời cầu cho những người đã qua đời; (v) Lời cầu cho những người đang tham dự cử hành Thánh Thể (kẻ sống) được liên kết với Đức Maria và các thánh hầu diễn tả mầu nhiệm Hội Thánh hiệp thông (x. GLCG 1354).[9]

 

Tóm lại Lời chuyển cầu là một trong những phần thêm vào giá trị nhất cho phụng vụ ngày nay, cũng là phần quan trọng của Kinh nguyện Thánh Thể, có chủ đề là Hội Thánh, hy tế và ơn cứu độ đạt được nhờ Chúa Kitô cũng như được biểu lộ trong sự hợp nhất.[10] Lời chuyển cầu cho thấy Hy lễ Tạ ơn được cử hành trong sự hiệp thông với toàn thể Hội Thánh, cả thiên quốc lẫn trần gian, và cho thấy lễ phẩm được dâng tiến để cầu cho chính Hội Thánh và mọi chi thể, còn sống cũng như đã qua đời, là những chi thể đã được kêu mời thông phần ơn cứu chuộc và ơn cứu độ do Mình và Máu Ðức Kitô đem lại (x. NTTL 95-97, 105, 113, 122; QCSL 79g).[11]

 

III/ MỤC VỤ

A/ Nêu tên Đức Giáo hoàng và Đức Giám mục

1) Phải nêu tên đức giáo hoàng và đức giám mục giáo phận trong Kinh nguyện Thánh Thể vì với thánh chức giám mục các ngài kế vị các tông đồ, là tiêu điểm và nguyên lý hiệp thông của Hội Thánh hoàn vũ và Hội Thánh địa phương [bên cạnh bí tích Thánh Thể].[12]

 

2) Tư tế trước hết nêu danh hiệu của đức giáo hoàng đương kim mà không cần nêu con số. Tiếp đến, nêu danh tính của đức giám mục đang cai quản giáo phận hoặc đức giám mục giám quản giáo phận hoặc vị cùng đẳng cấp với giám mục giáo phận theo luật.[13] Nếu có thể, tư tế nêu thêm tên của đức giám mục phó hay phụ tá.[14]

 

3) Khi cử hành Thánh lễ trong một giáo phận khác mà cộng đoàn dân Chúa là những người của mình, ví dụ: khi đi hành hương, du lịch, nghỉ mát…, chủ tế sẽ xướng tên đức giám mục của mình trước rồi mới xướng tên của giám mục địa phương sau.[15]

 

4) Tư tế không nêu tên của: (1) các giám mục khác đang hiện diện, cho dù ngài là chủ tế;[16] (2) đức giám mục về hưu; (3) linh mục giám quản. [17] Bởi lẽ, (a) việc nêu tên Đấng Bản quyền địa phương trong Kinh nguyện Thánh Thể không phải là một vấn đề về danh dự hay kính trọng, nhưng bởi lý do hiệp thông và bác ái:[18] ngài là tiêu điểm và nguyên lý của sự hiệp nhất;[19] (b) những lời chuyển cầu trong Kinh nguyện Thánh Thể cũng bao gồm việc cầu nguyện cho tất cả các giám mục (x. QCSL 92).[20]

 

5) Tư tế không đọc các danh hiệu/tước vị nào khác của đức giám mục hay đức giám mục giám quản (như tổng giám mục, hồng y tổng giám mục hay giám quản tông toà) mà chỉ đơn giản đọc như trong bản văn của Sách Lễ Rôma: “Đức giám mục T. chúng con…”. [21]

 

6) Khi có nhiều vị [giám mục phụ tá] phải được nêu tên, thì đọc dưới một công thức tổng quát: đức giám mục T… chúng con và các giám mục cộng tác với ngài (QCSL 149).[22]

 

7) Khi một giáo phận trống ngôi/trống tòa (sede vacante) và được tạm thời cai quản bởi một giám mục trong chức vụ giám mục giám quản/giám quản tông tòa, thì công thức trong Kinh nguyện Thánh Thể không cần thay đổi, nghĩa là vẫn đọc: “…đức giám mục T. chúng con…” như thường. Không đọc các danh hiệu khác biệt nếu có của vị giám mục giám quản như tổng giám mục, hồng y tổng giám mục hay giám quản tông toà.[23]

 

8) Chỉ khi đã chịu chức giám mục và đã tựu chức/nhậm chức, vị giám mục tân cử mới được nêu tên trong Kinh nguyện Thánh Thể vì bấy giờ ngài mới hưởng quyền tài phán mục vụ trong giáo phận, và do đó thiết lập sự hiệp thông trong Hội Thánh qua việc cử hành Thánh Thể.[24]

 

B/ Cầu cho người sống và các tín hữu đã qua đời

1) Khi sử dụng Kinh nguyện Thánh Thể I, tư tế đọc: Lạy Chúa xin nhớ đến (những) tôi tớ của Chúa là... (và …) rồi chắp tay cầu nguyện giây lát cho những người mà ngài có ý cầu nguyện cho. Tuy nhiên ở đây, tư tế không nhất thiết phải nêu rõ danh tính của họ mà chỉ cần nếu ý lễ lúc đầu lễ hoặc ghi nhớ tổng quát ý lễ trước Thánh lễ (x. NTTL 85; Ritus servantus in celebratione Missae (1962) VIII, n. 3).[25]

 

2) Khi sử dụng Kinh nguyện Thánh Thể II và III: việc nêu tên người quá cố/ý lễ chỉ áp dụng đối với các Thánh lễ: [i] an táng; [ii] lễ sau khi được tin báo tử; lễ giỗ đầu (x. QCSL 355, 381);[26] [iii] lễ giỗ mãn tang (theo tục lệ Việt Nam) trong đó chắc chắn phải sử dụng bài lễ “Thánh lễ cầu cho người đã qua đời”[27] và mặc lễ phục màu tím (x. QCSL 346d). Nên nhớ rằng trong Thánh lễ nào Hội Thánh cũng có cầu cho kẻ sống và người chết, và trong mỗi Kinh nguyện Thánh Thể đều có nhớ đến những người quá cố rồi (x. Notitiae 5 [1969] 325, n. 4; QCSL 355).[28]

 

C/ Nêu tên các thánh

1) Với Kinh nguyện Thánh Thể I, tư tế không nên đọc thêm bất kỳ tên thánh nào khác không gồm trong danh sách của Sách lễ Rôma.[29] Cũng không tùy tiện thêm bất cứ tên thánh nào khác theo ý thích của mình vào trong các Kinh nguyện Thánh Thể II, IV, hay Kinh nguyện Thánh Thể Hòa Giải (I và II) vì các Kinh nguyện Thánh Thể này không được dự liệu cho trường hợp đó.[30]

 

2) Nếu tư tế muốn đọc thêm tên thánh bảo trợ, thánh sáng lập dòng, thánh mừng kính trong ngày…, ngài nên chọn đọc Kinh nguyện Thánh Thể III (NTTL 113), hay nếu vào dịp đúng, sử dụng một trong số những Kinh nguyện Thánh Thể dùng trong các dịp hội họp (I, II, III, IV).[31]

 

_______

[1] Nguyễn Thế Thủ, Phụng vụ Thánh Thể, 131.

[2] Robert Cabié, “The Eucharist”, trong The Church at Prayer, vol. 2, ed. A. G. Martimort, trans. Matthew J. O’Connell (Collegeville: The Liturgical Press, 1986), 103-04.

[3] X. Peter E. Fink, ed. The New Dictionary of Sacramental Worship (Collegeville: The Liturgical Press, 1990), s.v. “Eucharistic Prayers,” by Barry Ryan, 451-459; Trần Đình Tứ, Phụng vụ Thánh lễ,141.

[4] X. Joseph A. Jungmann, SJ, The Mass: An Historical, Theological, and Pastoral Survey, trans. Julian Fernandes, ed. Mary Ellen Evans ((Collegeville: The Liturgical Press, 1976), 197.

[5] X. Joseph A. Jungmann, SJ, The Mass of the Roman Rite: Its Origins and Development (Missarum Sollemnia), vol. 2, trans. Francis A. Brunner (New York : Benziger Brothers, 1951), 248-59.

[6] Trần Đình Tứ, Phụng vụ Thánh lễ, 142; X. Nguyễn Văn Trinh, Phụng vụ Thánh lễ. 407-08.

[7] X. Peter E. Fink, ed. The New Dictionary of Sacramental Worship, s.v. “Eucharistic Prayers,” by Barry Ryan, 451-459.         

[8] X. Trần Đình Tứ, Phụng vụ Thánh, 142.

[9] X. Enrico Mazza, The Celebration of the Eucharist, trans. Matthew J. O’Connell (Collegeville: The Liturgical Press/A Pueblo Book, 1999), 294.

[10] Ibid.

[11] X. DeGrocco, A Pastoral Commentary on the General Instruction of the Roman Missal, no. 79g.

[12] X. McNamara, “Mentioning Bishops in the Eucharistic Prayers” (24 Nov. 2009); “Which Ordinary to Mention at Mass” (27 Sept. 2011); Notitiae 45 (2009) 308-320; Bộ Giáo lý Đức tin, “Giáo Hội như là Hiệp thông,” số 14; Susan K. Wood, “The Church as Communion” trong The Gift of the Church, ed. Peter C. Phan (Collegeville: The Liturgical Press, 2000), 159-176.

[13] X. Hiến chế Tín lý về Giáo Hội [Lumen Gentium]các số 22-23; Sắc lệnh về Nhiệm vụ Mục vụ của Giám mục [Christus Dominus], no. 6; Sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo, số 1369; ĐGH Biển Đức XVI, Sacramentum caritatis, số 39; André Mutel et Peter Freeman, Cérémonial de la sainte Messe à l'usage ordinaire des paroisses: suivant le missel romain de 2002 et la pratique léguée du rit romain, 2nd ed. (Perpignan: Editions Artège, 2012), 41.

[14] Notitiae 45 (2009) 308-320.

[15] Arturus Tabera, “Sắc Lệnh về việc Phải Xướng Tên Đức Giám mục trong Kinh nguyện Thánh Thể” (09/10/1972), Phụng Vụ, Năm III, số 16 (06/1973): 3-5.

[16] X. McNamara, “Mentioning Bishops in the Eucharistic Prayers” (24 Nov. 2009), https://www.ewtn.com/catholicism/library/mentioning-bishops-in-the-eucharistic-prayers-4503.

[17] Sắc lệnh Cum de nomine (09/10/1972): Acta Apostolicae Sedis 64 [1972], 692-694; X. McNamara, “When the Holy See Is Vacant (19 Feb. 2013 & 26 Feb. 2013), https://www.ewtn.com/catholicism/library/when-the-holy-see-is-vacant-4668; McNamara, “Coadjutors in the Eucharistic Prayer” (20 Nov. 2018), https://www.ewtn.com/catholicism/library/coadjutors-in-the-eucharistic-prayer-13307.

[18] Bộ Phụng Tự, “Sắc Lệnh về việc Phải Xướng Tên Đức Giám mục trong Kinh nguyện Thánh Thể” (09/10/1972), Phụng Vụ, Năm III, số 16 (06/1973): 3-5.

[19] X. McNamara, “Mentioning Bishops in the Eucharistic Prayers” (24 Nov. 2009); “Which Ordinary to Mention at Mass” (27 Sept. 2011); Notitiae 45 (2009) 308-320.

[20] X. Foley, et al. (eds.), A Commentary on the General Instruction of the Roman Missal, 250-251.

[21] X. USCCB, Committee on Divine Worship, “The Naming of the Pope and the Bishop in the Eucharistic Prayer,” Newsletter, Vol. XLIX (Mar. 2013).

[22] X. McNamara, “Mentioning Bishops in the Eucharistic Prayers” (24 Nov. 2009), “Which Ordinary to Mention at Mass” (27 Sept. 2011).

[23] X. USCCB, Committee on Divine Worship, “The Naming of the Pope and the Bishop in the Eucharistic Prayer,” Newsletter, Vol. XLIX (Mar. 2013); McNamara, “Mentioning Bishops in the Eucharistic Prayers” (24 Nov. 2009).

[24] X. McNamara, “Mentioning a Bishop-Elect or Apostolic Administrator”, https://saintcharles.co.za/liturgy-qa-mentioning-a-bishop-elect-or-apostolic-administrator-zenit/.

[25] X. André Mutel et Peter Freeman, Cérémonial de la sainte Messe, 134.

[26] X. Notitiae 5 (1969), 325, n. 4

[27] Sách Lễ Rôma [1992], 1124-1164.

[28] X. McNamara, “Mentioning the Mass Intention” (9 Oct. 2007), https://www.ewtn.com/catholicism/library/mentioning-the-mass-intention-4390; Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích, Hướng dẫn về Lòng Đạo đức Bình dân và Phụng vụ (17/12/2001), no. 255; Joyce Ann Zimmerman, “The Choice of the Mass and Its Parts,” trong A Commentary on the General Instruction of the Roman Missal, ed. Foley, et al., 411; Elliott, Ceremonies of the Modern Roman Rite, nos. 312, 314; DeGrocco, A Pastoral Commentary on the General Instruction of the Roman Missal, no. 355.

[29] X. McNamara, “Adding Names in Eucharistic Prayers” (17 Feb. 2009), https://www.ewtn.com/catholicism/library/adding-names-in-eucharistic-prayers-4463.

[30] X. Elliott, Ceremonies of the Modern Roman Rite, nos. 312, 316.

[31] X. Notitiae 14 [1978] 594-595, n. 17.

 

 

BÀI 37: VINH TỤNG CA CUỐI CÙNG

 

I/ NGHI THỨC 

Sau các lời chuyển cầu cho người sống và người đã qua đời, tư tế kết thúc Kinh nguyện Thánh Thể bằng việc xướng Vinh tụng ca: “Chính nhờ Người, với Người và trong Người, mà mọi danh dự và vinh quang đều quy về Chúa Là Cha toàn năng, trong sự hợp nhất của Chúa Thánh Thần đến muôn đời”. Tiếp đó, cộng đoàn phụng vụ cùng nhau tán đồng và kết thúc bằng lời tung hô “Amen” (x. QCSL 79h).

 

II/ LỊCH SỬ - Ý NGHĨA

1/ Câu xướng

Vinh tụng ca được dịch từ tiếng Hy Lạp là doxologia. Chữ này bởi doxa có nghĩa là vinh quang và logos nghĩa là lời. Như vậy, doxologia là “lời về vinh quang”, tức là một công thức cử hành vinh quang Thiên Chúa, dành mọi vinh quang và danh dự cho Thiên Chúa là Cha toàn năng. Những công thức này có nhiều trong Thánh Kinh (x. Rm 11,36; 16,25; Gl 1,3-5; Tm 17) và trong cử  hành phụng vụ Thánh lễ ngay từ thế kỷ II, thậm chí từ thế kỷ I.[1] Các Vinh tụng ca chính trong phụng vụ là: (1) “Vì vương quyền, uy lực và vinh quang là của Chúa đến muôn đời” sau kinh Khấn xin của kinh Lạy Cha; (2) “Vinh danh Chúa Cha và Chúa Con cùng vinh danh Thánh Thần Thiên Chúa…” kết thúc các Thánh vịnh trong các Giờ kinh Phụng vụ; (3) Đoạn cuối cùng trong các thánh thi; (4) Kinh Vinh danh trong Thánh lễ và kinh Te Deum cũng được gọi là những Vinh tụng ca; (5) Vinh tụng ca kết thúc Kinh nguyện Thánh Thể của Thánh lễ: “Chính nhờ Người, với Người và trong Người, mà mọi danh dự và vinh quang đều quy về Chúa là Cha toàn năng, trong sự hợp nhất của Chúa Thánh Thần đến muôn đời.” Vinh tụng ca này có thể được coi như là đỉnh cao nhất của Thánh lễ.[2]

 

Theo tập tục của Đông phương, những lời chúc tụng được dâng lên trực tiếp cho Ba Ngôi một cách đồng đều đúng như những bản thảo thần học hồi thế kỷ IV, nghĩa là Ngôi Cha và Ngôi Con và Ngôi Thánh Thần đều có quyền năng và vinh dự như nhau: “Sáng danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần, như đã có trước vô cùng và bây giờ và hằng có và đời đời chẳng cùng.[3] Công thức trên là kết quả của các cuộc tranh luận về thần học Chúa Ba Ngôi trong những Công đồng đầu tiên của Hội Thánh. Rôma lại có một truyền thống thực hành khác, những lời chúc tụng được dâng lên Chúa Cha, nhờ, với và trong Chúa Kitô, cũng như trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần, tức khẳng định vai trò của Đức Kitô, là Thượng Tế cao vời cùng là Đấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và nhân loại (x. Hr 8,1; 9,24; Ep 1,10).[4] Đây không phải là sự khác biệt với thần học bên Đông phương bởi vì Tây phương luôn nhấn mạnh Ba Ngôi Thiên Chúa nhận một uy quyền như nhau. Có lẽ Hội Thánh La-tinh muốn cho thấy lời tôn vinh chỉ mang ý nghĩa đích thực khi liên kết với Chúa Kitô, và lời tôn vinh chỉ có thể cất lên nhờ Chúa Thánh Thần là nguyên lý hiệp nhất giữa Ba Ngôi và giữa muôn loài thọ tạo trong Đức Kitô (x. Ep 4,2).[5]

 

Trong bốn Kinh nguyện Thánh Thể hiện nay, Lời chuyển cầu cuối cùng được nối liền với Lời chúc vinh bằng cách quy hướng về sự trung gian của Chúa Kitô, tuy mỗi kinh có những sắc thái khác nhau: (1) Kinh nguyện Thánh Thể II là kinh ngắn nhất, nên câu chuyển cũng đơn giản nhất: “Nhờ Đức Giêsu Kitô, Con Chúa”; (2) Kinh có câu chuyển tiếp đầy đủ nhất là Lễ quy Rôma: “Lạy Chúa, nhờ Người, Chúa hằng sáng tạo, thánh hoá, ban sinh lực, giáng phúc và phân phát cho chúng con tất cả những lễ vật này”; (3) Kinh nguyện Thánh Thể III và IV cũng có những câu giông giống câu của Lễ quy Rôma: “Nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con, nhờ Người Cha rộng ban mọi ơn lành cho thế gian (III); Nhờ Người, Cha rộng ban mọi ơn lành cho thế gian (IV).[6]

 

Câu chuyển tiếp này giúp chúng ta hiểu rằng mọi thứ Chúa Cha ban cho chúng ta đều qua Đức Giêsu, và tất cả chúng sẽ được quay về Chúa Cha theo cùng một cách, tức là đều qua Đức Giêsu. Tuy nhiên việc ban xuống và quay về sẽ không xảy ra nếu không có sự can thiệp của Chúa Thánh Thần. Chính trong sự hợp nhất của Ngài trong Ba Ngôi Thiên Chúa mà tất cả sẽ được nhận biết.[7]

 

Câu “Chính nhờ Người/Đức Kitô, [cùng] với Người/Đức Kitô và trong Người/Đức Kitô” làm chúng ta liên tưởng tới Đức Kitô bị treo trên thánh giá, nơi Ngài tự hiến mạng sống để cứu chuộc nhân loại và cũng là nơi làm vinh danh Chúa Cha.[8] Câu “Chính nhờ Người, với Người và trong Người….”  có nghĩa là tất cả mọi danh dự và vinh quang đều được dâng lên Chúa Cha nhờ chính Chúa Kitô. Nhờ chính Chúa Kitô, vì Người là Thượng Tế cao cả và là Đầu của Hội Thánh, là Thủ lãnh của nhân loại đã được cứu chuộc và của toàn thể muôn loài trong trời đất (x. Ep 1,10), lúc này cả cộng đoàn được cứu chuộc đang ở quanh Người, sẽ cùng hợp nhất với Người và trong Người để tôn vinh Chúa Cha trên trời.[9] Không phải ngẫu nhiên mà Vinh tụng ca được xếp đặt ở phần kết thúc Kinh nguyện Thánh Thể và cũng không phải ngẫu nhiên mà Vinh tụng ca ở dạng khẳng định/chỉ thị chứ không phải dạng ước mong hay thỉnh cầu. Bởi vì Hội Thánh vào lúc này đang ở trước bàn thờ để cung kính dâng lên Chúa Cha Mình bị nộp và Máu đổ ra của Chúa Kitô, Đấng đã hành động vì vâng phục thánh ý Chúa Cha cùng với tình yêu vô biên dành cho nhân loại; và Chúa Cha đang ở đây để thực sự tiếp nhận mọi vinh quang và danh dự. Thời khắc này, những lời của Malakhi 1,11 được hoàn tất: “Quả thật, từ đông sang tây, Danh Ta thật cao cả giữa chư dân; và ở khắp nơi, người ta dâng lễ hy sinh và lễ vật tinh tuyền kính Danh Ta, bởi vì Danh Ta thật cao cả giữa chư dân.”[10] 

 

Trong nghi lễ phụng vụ dành cho Đức Giáo hoàng ngày xưa, việc nâng Mình và Máu Thánh lên khi đọc Vinh tụng ca là một trong những cử chỉ cổ xưa nhất trong Kinh nguyện Thánh Thể theo truyền thống Rôma và có nguồn gốc từ nghi lễ trong Cựu Ước thuộc về nghi thức tiến dâng của lễ lên trước nhan Chúa (x. Xh 29,24.26; Lv 14,12.24; Ds 5,25).[11] Việc “nâng cao”/ “đại nâng cao” mà hiện nay chỉ là trưng ra Mình/Máu Thánh sau truyền phép cho mọi người chiêm ngắm và thờ lạy thì xuất hiện gần đây hơn nhiều. Còn thực hành “giơ cao”, đúng thật là “giơ cao” đĩa thánh và chén thánh như hiện nay trong phần Vinh tụng ca ngày xưa lại chỉ là “tiểu nâng cao” mà thôi. Đây là kiểu thực hành Rôma đã có từ thế kỷ VII, trong đó, một thầy tổng phó tế (tại các lễ đại triều) sẽ giữ một chén nặng [có khi đến 10 kg] cùng nâng lên với Đức Giáo hoàng đang vừa đọc “Chính nhờ Người…” vừa đang nâng cao hai ổ bánh lên. Cử chỉ này kéo dài trong suốt cả Vinh tụng ca cho đến hết lời tung hô Amen của dân chúng.[12]

 

Thế kỷ XI, thay vì nâng Bánh Thánh và Chén Thánh lên, chủ tế làm 3 dấu thánh giá trên Mình-Máu Thánh. Đến thế kỷ XII, ghi thêm hai dấu thánh giá nữa thành 5 dấu thánh giá với 2 cách giải thích như sau: (1) Biểu trưng cho 5 dấu đanh trên thân xác Chúa Giêsu; (2) 3 dấu thánh giá trước quy về Ngôi Con “chính nhờ Người, với Người và trong Người”, 2 dấu thánh giá còn lại quy chiếu đến Ngôi Cha và Ngôi Thánh Thần. Từ thế kỷ XIV, vị tư tế đặt chén trên bàn thờ, bái quỳ, đọc bắt đầu câu Per omnia saecula saeculorum – đến muôn đời.  Vì vậy, những lời kết này xuất hiện như một cách dẫn vào kinh Lạy Cha theo sau. Trong Sách lễ 1570 (được sử dụng mãi cho đến những năm 1960), vị tư tế trong khi nguyện thầm hầu hết Vinh tụng ca sẽ ghi ba hình Thánh giá bằng Mình Thánh trên chén, rồi thêm hai lần nữa bằng Mình Thánh giữa chén và chính ngài, rồi cuối cùng ngài nâng cao một chút chén thánh cùng với Mình Thánh ở trên chén trước khi kết thúc Vinh tụng ca đọc thầm và bắt đầu dẫn nhập vào kinh Lạy Cha.[13]

 

Ngay lập tức sau Công đồng Vaticanô II, chữ đỏ mới đã bỏ đi thực hành ghi những dấu thánh giá của thập niên 1960 và quy định linh mục chủ tế phải giữ Mình Thánh bằng tay phải ở trên chén thánh (được giữ bằng tay trái) rồi nâng cả hai lên cao một chút trong khi đọc toàn bộ Vinh tụng ca lớn tiếng. Ngày nay, phần Vinh tụng ca được phục hồi tầm quan trọng và vẻ đẹp nguyên thủy. Khi đọc Vinh tụng ca/Lời chúc vinh, một tay vị tư tế cầm đĩa có đựng Bánh Thánh, và tay kia cầm chén thánh chứa Máu Thánh, cả hai tay cùng giơ cao không phải để cho cộng đoàn thấy cho bằng để biểu lộ sự hiến dâng, làm cho Vinh tụng ca thêm vẻ trang trọng (x. QCSL 151).[14] Nếu phó tế hiện diện, thì chính thầy nâng chén. Vinh tụng ca long trọng được cộng đoàn kết thúc bằng tiếng Amen long trọng mà được xem là một trong số những tung hô trọng thể nhất của dân chúng trong Thánh lễ (x. QCSL 180).[15]

 

2/ Amen long trọng

Amen là một tiếng đầy ý nghĩa, là một lời phát xuất từ chữ “Amuna” của người Do Thái, nghĩa là “tin”, là “đúng vậy” vốn được sử dụng thường xuyên trong bối cảnh phụng vụ (x. 1Sb 16,36; Nk 8,6; Rm 1,25; Gl 1,5; Ep 3,21; 1Cl 16,24; 1Tx 5,28; 2Tx 3,18; Kh 7,12; 5,14; 19,4).[16] Nhưng trong phần Vinh tụng ca kết thúc Kinh nguyện Thánh Thể, tiếng Amen long trọng (great Amen) không chỉ có nghĩa là “tin”, là “chớ gì được như vậy”, vì vinh quang và danh dự mà linh mục dâng lên Chúa không phải là một lời ước, nhưng là một khẳng định, tán đồng.[17] Amen long trọng này đáp lại và phê chuẩn cho toàn bộ Kinh Nguyện Thánh Thể như một dấu niêm phong cho cử hành bí tích Thánh Thể, bí tích hiệp nhất của Hội Thánh, nghĩa là có sự đồng hóa hoàn toàn giữa cộng đoàn với tư tế, và đích thực tư tế là tiếng nói của Hội Thánh.[18] Nói cách khác, Amen long trọng này là sự xác nhận của Dân Chúa đối với toàn bộ Kinh nguyện Thánh Thể và cũng chính là lời tuyên xưng đức tin của phần Phụng vụ Thánh Thể, nghĩa là toàn thể cộng đoàn tuyên xưng niềm tin chính đáng của mình qua những điều phụng vụ vừa trình bày.[19] Ở đâylinh mục muốn nói lên rằng: “Mình và Máu Thánh mà con đang nâng cao, chính là vinh quang thuộc về Chúa mà Chúa đã ban cho chúng con.” Vì thế lời Amen này cũng muốn nói lên rằng: “Đó thật là vinh quang, thật đúng như vậy, chắc chắn như vậy, chúng con đồng tình, ủng hộ và tán thành với lời khẳng định ấy” (x. QCSL 79h,  151);[20] Đồng thời, trong tiếng Amen, tất cả những người tham dự Thánh lễ cùng hòa nhập với tất cả những vị anh hùng trong lịch sử cứu độ: các thầy Lêvi, ông Etra, thánh Phaolô; cũng như với tất cả các thiên thần và các thánh trên trời, mà tôn vinh Thiên Chúa trong bài ca chúc tụng muôn đời, mừng vui vì Chúa Kitô đến với chúng ta nơi bí tích Thánh Thể.[21] Amen là tiếng tập trung và diễn tả tất cả sự thờ lạy, tất cả lòng cảm tạ, tất cả nỗi buồn và nhu cầu của cộng đoàn.[22]

 

 Tóm lại, Vinh tụng ca tóm kết toàn bộ ý nghĩa của Kinh nguyện Thánh Thể mà có mục đích là tôn vinh, chúc tụng, ngợi khen và tán dương vinh quang Chúa Cha, qua Chúa Kitô và trong Chúa Thánh Thần với lời tung hô vui mừng của mọi người vì vô số những ân huệ Ngài thương ban: những hồng ân của hôm qua, của hôm nay và ngay cả của ngày mai. Tung hô Amen long trọng của dân chúng đáp lại sau Vinh tụng ca là một từ quan trọng nhất trong toàn bộ phụng vụ và gây ấn tượng mạnh mẽ nhất trong tất cả những lời tung hô. Lời Amen là sự xác nhận của Dân Chúa đối với toàn bộ Kinh nguyện Thánh Thể.

 

III/ MỤC VỤ

1) Theo hướng dẫn của Hội Thánh, chỉ một mình chủ tế xướng Vinh tụng ca hoặc nếu có các linh mục đồng tế, các ngài có thể cùng đọc/hát với chủ tế. Các tín hữu khác không được trực tiếp đọc/hát Vinh tụng ca, nhưng tham gia bằng đức tin và thinh lặng, sau đó là bằng lời tung hô Amen long trọng (x. QCSL 79, 236, 151; LNGM 158; CHTL 199; Ecclesia de Mysterio 6§2; Redemptionis sacramentum 54).

 

2) Do bản chất đối đáp của kinh nguyện, Vinh tụng ca được kết thúc bởi lời đáp Amen của toàn thể cộng đoàn nhưng không phải của chủ tế, nghĩa là chủ tế không đọc/hát Amen (x. QCSL 79, 151, 180; LNGM 158; OCM 15).[23] Các vị đồng tế cũng không đọc/hát Amen long trọng dù các ngài có cùng chủ tế đọc/hát Vinh tụng ca hay không, trừ trường hợp vừa không có sự hiện diện của giáo dân, vừa các vị đồng tế hiện diện không đọc/hát Vinh tụng ca.[24]

 

3) Thánh Giêrônimô và nhiều tác giả khác thời xưa đã nhấn mạnh tầm quan trọng của tiếng Amen kết thúc Kinh nguyện Thánh Thể khi cho biết âm vang của nó nghe như thể tiếng sấm sét trong thành Rôma, làm rung lắc các đền thờ dân ngoại như thế nào.[25] Vì thế, nên thể hiện tiếng Amen cách long trọng, tức là làm cho phần tung hô này thật nổi bật và tưng bừng phấn khởi với tiếng hát mạnh mẽ của toàn thể cộng đồng Dân Chúa, với âm thanh hòa vào của toàn bộ các loại nhạc cụ có thể được, với việc kéo dài hay nhắc lại tiếng Amen nhiều lần;[26]

 

4) Nên hát Amen long trọng cả khi chủ tế không hát “Chính nhờ …” vì tiếng Amen long trọng này không phải đáp lại câu “Chính nhờ …” mà là đáp lại toàn bộ Kinh nguyện Thánh Thể mà câu “Chính nhờ…” chỉ là đoạn cuối của nó, tức chỉ là thành phần của Kinh nguyện Thánh Thể hơn là một lời tung hô (x. CHTL 199).[27]

 

5) Nên hát tiếng Amen long trọng trong bất cứ Thánh lễ nào, cả trong Thánh lễ ngày thường hoặc Thánh lễ cho những cộng đoàn nhỏ hơn và ngay cả khi không có nhạc cụ kèm theo (x. MVTN 103a).[28]

 

6) Đang khi đọc/hát Vinh tụng ca thì một mình chủ tế nâng đĩa thánh và chén thánh lên; hoặc nếu có phó tế/linh mục đồng tế hiện diện, thì chủ tế giữ đĩa thánh, còn phó tế/linh mục đồng tế (nếu không có phó tế) đứng bên phải chủ tế giữ chén thánh. Sự khác biệt giữa phó tế và linh mục đồng tế ở đây là: linh mục thì có thể tự lấy chén thánh, còn phó tế thì nhận chén thánh từ chủ tế (dù rằng chữ đỏ không nói rõ ràng như vậy);[29]

 

7) Chủ tế nên cập nhật để không thực hành theo quy định của Sách lễ Tridentinô nữa khi chỉ nâng cả đĩa thánh và chén thánh ở mức độ thấp mà nay cần thay đổi bằng cách nâng đĩa thánh và chén thánh lên thật cao (elevans/the major “physical” elevation/the grand gesture of lifting high the gifts toward heaven for all to see)[30] đến độ mắt của chủ tế phải hướng lên cũng như phải giữ đĩa thánh và chén thánh cho đến khi kết thúc lời tung hô Amen long trọng như một cử điệu dâng tiến đầy mạnh mẽ và ý nghĩa nhằm diễn tả sự hiến dâng đích thực Hy lễ Đức Kitô lên Chúa Cha (x. NTTL 124; QCSL 151, 180; LNGM 158).[31] Đĩa và chén thánh cần ở độ cao ngang nhau dù trong trường hợp chủ tế nâng cả hai hay trong trường hợp phó tế/linh mục đồng tế nâng chén còn chủ tế nâng đĩa.[32]  Tuy khó khăn, nhưng đúng là khi đọc/hát Vinh tụng ca thì chủ tế cúi đầu vì liên hệ đến danh Ba Ngôi Thiên Chúa một trật (x. QCSL 275a).[33]

 

8) Phải bãi bỏ thực hành trong đó một số linh mục cùng nhau nâng nhiều chén thánh hay bình thánh trong khi đang đọc/hát “Chính nhờ Người…” (x. QCSL 180), nghĩa là chỉ có một đĩa và một chén được nâng cao lúc này, tất cả những chén thánh hay bình thánh khác vẫn phải ở trên bàn thờ cho dù có đông phó tế hay linh mục đồng tế hiện diện (Notitiae 46 (2009): 171).

 

9) Khi kết thúc Kinh nguyện Thánh Thể, linh mục nên dừng lại giây lát để cho thấy rõ rằng Kinh nguyện Thánh Thể (= hành động “tạ ơn”) đã hoàn tất và nghi thức hiệp lễ (= hành động “bẻ ra và trao cho”) sắp bắt đầu.[34]

______

[1] Le Gall, La Mess au fil de ses rites (Chambray: C.L.D, 1992), 197.

[2] Ibid., 170.

[3] X. Robert Cabié, “The Eucharist”, trong The Church at Prayer, vol. 2, ed. A. G. Martimort, trans. Matthew J. O’Connell (Collegeville: The Liturgical Press, 1986),106.

[4] X. Nguyễn Văn Trinh, Phụng vụ Thánh lễ (Hà Nội: Nxb. Tôn Giáo, 2008), 425.

[5] X. Joseph A. Jungmann, SJ, The Mass: An Historical, Theological, and Pastoral Survey, trans. Julian Fernandes, ed. Mary Ellen Evans (Collegeville: The Liturgical Press, 1976), 204; Nguyễn Thế Thủ, Phụng vụ Thánh Thể, 133; Nguyễn Văn Trinh, Phụng vụ Thánh lễ, 426.

[6] Trần Đình Tứ, Phụng vụ Thánh lễ (Sài Gòn: ĐCV Thánh Giuse, 1997), 145.

[7] Jean Yves Garneau, SSS, Discovering the Eucharist, trans. Conrad Goulet, SSS (Makati: St. Paul Publications, 1991), 139.

[8] Garneau, SSS, Discovering the Eucharist, 140.

[9] X. Joseph A. Jungmann, SJ, The Mass of the Roman Rite: Its Origins and Development (Missarum Sollemnia), vol. 2, trans. Francis A. Brunner (New York : Benziger Brothers, 1951), 267-68; Jungmann, SJ, The Mass: An Historical, Theological, and Pastoral Survey, 204.

[10] Jungmann, SJ, The Mass of the Roman Rite, 266.

[11] Le Gall, La Mess au fil de ses rites, 172.

[12] X. Robert Cabié, “The Eucharist”, 106; Jungmann, SJ, The Mass of the Roman Rite, 266-67; Nguyễn Văn Trinh, Phụng vụ Thánh lễ, 426.

[13] X. Cabié, “The Eucharist”, 106; Jungmann, SJ, The Mass of the Roman Rite, 267-71; Nguyễn Văn Trinh, Phụng vụ Thánh lễ, 426.

[14] Le Gall, La Mess au fil de ses rites, 173.

[15] James P. Moroney, The Mass Explained: An Introduction to the New Roman Missal (New Jersey: Catholic Book Publishing Corp., 2008), 94.

[16] X. Edward Sri, A Biblical Walk through the Mass (West Chester: Ascension Press, 2011), 120.

[17] X. Jungmann, SJ, The Mass of the Roman Rite, 266.

[18] Enrico Mazza, The Celebration of the Eucharist, trans. Matthew J. O’Connell (Collegeville: The Liturgical Press/A Pueblo Book, 1999), 295; J. D. Crichton, Understanding the Mass, 3rd edition (Londong/New York:  Geoffrey Chapman, 1993), 109.

[19] The Sacred Congregation for the Sacraments and Divine Worship, Inaestimabile Donum: Instruction Concerning Worship of the Eucharistic Mystery, no. 4(17 April 1980); Sri, A Biblical Walk through the Mass, 121; Kenneth Smits, “A Congregational Order of Worship,” trong Living Bread, Saving Cup, ed. Kevin Seasoltz (Collegeville: The Liturgical Press: 1987), 298; Turner, Let Us Pray, no. 611.

[20] A.M. Roguet, Tìm hiểu Thánh lễ, số 38.

[21] = chú thích 19. 

[22]. Sean Swayne, Gather Around the Lord: A Vision for the Renewal of the Sunday Eucharist (Columba Press, 1987), 58.

[23] X. DeGrocco, A Pastoral Commentary on the General Instruction of the Roman Missal (Chicago: Liturgy Training Publication, 2011), no. 151.

[24] X. Paul Turner, Ars Celebrandi (Collegeville: The Liturgical Press, 2021), Kindle, 135.

[25] X. Dennis C. Smolarski, sj, How Not to Say Mass (New Jersey: Paulist Press, 1986), 68. 

[26] X. St. Jerome, Commentary on Galatians II, vol. 7, 427 (A.D. 381), trans. John Chapman, O.S.B., “St. Jerome and Rome,” The Dublin Review CXXII: 42-73, at 62.

[27] = chú thích 18.

[28] Ibid.

[29] X. Turner, Ars Celebrandi, 135.

[30] Dennis C. Smolarski, sj, How Not to Say Mass (New Jersey: Paulist Press, 1986), 68.

[31] X. Preces eucharistiae pro concelebratione (1972), 15 (et passim); Kevin W. Irwin, Responses to 101 Questions on the Mass (New York/Mahwah: Paulist Press, 1999), 84; Phan Tấn Thành, Cử hành Bí tích Tình yêu, 203; Dom (maintenant Mgr) Robert Le Gall, Dictionnaire de liturgie (Chambray 1987), sv. élévation.

[32] X. Turner, Let Us Pray, nos. 608-609.

[33] Ibid., no. 612.

[34] X. Catholic Bishops’ Conference of England and Wales, Celebrating the Mass (London: Catholic Truth Society and Colloquium [CaTEW] Ltd., 2005), 199; Robert Liewellyn, “The Congregation shares in the Prayers of the President,” trong The New Liturgy, ed. Lancelot Sheppard (Westminster/London: Darton, Longman & Todd Ltd., 1970), 105, 109-11.

 

BÀI 38: KHÁI QUÁT VỀ NGHI THỨC HIỆP LỄ

 

I/ NGHI THỨC

Nghi thức hiệp lễ hiện nay diễn tiến như sau: Chủ tế mời gọi cộng đồng đọc kinh Lạy Cha (NTTL 124); Cộng đoàn đọc chung kinh Lạy Cha (NTTL 124); Chủ tế đọc kinh “Lạy Chúa, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ,…” (Libera nos); giáo dân tung hô: “Vì vương quyền, uy lực và ...” kết thúc lời nguyện trên (NTTL 125); Chủ tế đọc Lời cầu bình an (NTTL 126); Trao chúc bình an (NTTL 127- 128); Chủ tế bẻ bánh trên đĩa, lấy một miếng nhỏ bỏ vào chén và đọc thầm một lời nguyện: “Xin cho việc hòa Mình và Máu Ðức Giêsu Kitô... “(NTTL 129) trong khi đó cộng đoàn hát hoặc đọc kinh Lạy Chiên Thiên Chúa [Agnus Dei] (NTTL 130); Chủ tế chắp tay đọc thầm một trong hai công thức để dọn mình rước lễ: [i] “Lạy Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống...” hoặc [ii] “Lạy Chúa Giêsu Kitô, con sắp rước...” (NTTL 131); Chủ tế bái gối, cầm bánh thánh trên chén thánh hoặc đĩa thánh, quay về phía giáo dân đọc lớn tiếng: “Ðây Chiên Thiên Chúa....” (NTTL 132); Chủ tế cùng đọc chung với giáo dân: “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa...” (NTTL 132); Lời nguyện thầm của chủ tế: “Xin Mình Thánh Chúa Kitô gìn giữ con ...” + chủ tế rước Mình Thánh (NTTL 133); Thừa tác viên cho cộng đoàn rước lễ (NTTL 134); đang khi vị chủ tế rước lễ thì hát ca hiệp lễ (NTTL 136); Tráng chén với lời nguyện thầm kèm theo: “Lạy Chúa, miệng chúng con vừa rước Mình và Máu Chúa...” (NTTL 137); Thinh lặng hoặc hát hay đọc Thánh vịnh hay Thánh ca tạ ơn (NTTL 138); Lời nguyện hiệp lễ (NTTL 139).

Tóm lại, diễn tiến nghi thức hiệp lễ hiện nay là: Kinh Lạy Cha; Trao chúc bình an; Bẻ Bánh; Hiệp lễ; Lời nguyện hiệp lễ.

 

II/ LỊCH SỬ

Như chúng ta biết, Phụng vụ Thánh Thể gồm có bốn hành động hoặc bốn động tác: [Đức Kitô] cầm lấy (1) bánh và rượu; tạ ơn (2)bẻ ra (3); và trao cho (4) các môn đệ: Động tác thứ I là “cầm lấy” (1) tương ứng với hồi chuẩn bị lễ vật; Động tác thứ II là “tạ ơn” (2) tương ứng với phần Kinh nguyện Thánh Thể; Động tác thứ III và IV là “bẻ ra” (3) và “trao cho” (4) tương ứng với phần hiệp lễ.

 

Cũng như các phần khác của Thánh lễ, phần hiệp lễ của nghi lễ Rôma đã được cấu tạo dần dần qua dòng thời gian: nhiều yếu tố của phụng vụ thế kỷ thứ VIII như được thấy một cách đầy đủ trong sách Ordo Missae Primus (Ordo Missae I) đã đi vào phụng vụ thời Trung cổ và sau đó thuộc về nghi thức Thánh lễ Trentô dựa trên phụng vụ của giáo triều kể từ thế kỷ XII trở đi. Phần hiệp lễ có hình thức như hiện nay kể từ năm 1570, chính là năm Sách lễ của Đức Piô V được công bố.[1]

 

Với Thánh lễ đầu tiên trong bữa tiệc ly, nghi thức hiệp lễ chắc chắn rất đơn giản. Chúa cầm lấy bánh, bẻ ra trao cho các môn đệ và nói: “Hãy cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy,” sau đó cầm lấy chén rượu, trao cho các ông và nói: “Hãy cầm lấy mà uống, đây là chén Máu Thầy.” (x. Mc 14, 22-24; Mt 26, 26-28; Lc 22, 19-20; 1 Cr 11, 23-25).

 

Thời các tông đồ, Thánh lễ được cử hành trong Bữa ăn huynh đệ, chưa có bàn thờ thực sự để dâng lễ. Những người rước lễ vẫn ngồi bàn, vì thế hiệp lễ cũng được cử hành ngay tại bàn ăn và liền ngay sau Kinh nguyện Thánh Thể, kể như chẳng có nghi lễ gì đặc biệt, ngay cả trong một thời gian dài sau đó cho đến thế kỷ IV, có lẽ các tín hữu lên rước lễ liền sau khi kết thúc Kinh nguyện Thánh Thể. Cuối thế kỷ I, người ta đã thêm những kinh nguyện trước và sau khi rước lễ bởi thế người ta thấy lời nguyện sau hiệp lễ (Postcommunionem) đã được đề cập trong sách Didache. Cũng theo sách này, nghi lễ trao Mình Thánh Chúa, đặc biệt là cho những người vắng mặt, là nhiệm vụ của các phó tế.[2] Cuốn Hộ giáo thứ nhất của thánh Justinô Tử đạo mô tả rằng: “Sau khi vị chủ sự hoàn tất nghi thức tạ ơn và toàn dân thưa Amen, các vị mà chúng tôi gọi là phó tế, phân phát bánh và rượu có pha nước đã "trở thành Thánh Thể" cho mọi người hiện diện hưởng dùng và đem về cho những người vắng mặt” (Apologia I, 65:1; GLCG 1345).[3]

 

Đến thế kỷ III, sách Truyền thống Tông đồ của thánh Hippôlytô cho biết rằng khi rước lễ, người ta đã xếp hàng và đi lên như một cuộc rước kiệu, có bài hát kèm theo (được thêm vào thế kỷ VI). Sau khi rước lễ, chủ tế đọc kinh để tạ ơn, rồi đặt tay đọc lời nguyện chúc lành. Cuối cùng, thầy phó tế giải tán giáo dân. Vào thế kỷ IV, nghi thức rước lễ bên Đông phương của Giáo hội Hy lạp gồm các yếu tố: [i] Lời nguyện đang khi bẻ Bánh Thánh; [ii] Lời chúc lành trên dân [2 yếu tố [i] và [ii] giúp mọi người chuẩn bị rước lễ cho xứng đáng]; [iii] Phân phát Mình Thánh; [iv] Lời nguyện và chúc lành trên dân chúng.[4]  Thế kỷ V, vì cần có lời kết thúc phần nghi thức rước lễ nên lời nguyện hiệp lễ ra đời. Lời nguyện này xuất hiện lần đầu tiên trong sách Sacramentarium Gregorianum/Ordo Missae Primus với cái tên là “Lời nguyện kết thúc” (Ad complendum) như một lời kinh công khai mang tính tổng hợp để kết thúc một cuộc rước/di chuyển trong nhà thờ cũng như kết thúc cử hành Thánh Thể. Các sách phụng vụ khác của Rôma lại gọi lời nguyện này là “Lời nguyện sau hiệp lễ” (Post communionem) và cũng được biết đến là “Lời nguyện sau hiệp lễ của cộng đoàn” như bên Ai Cập và những nơi khác bên Đông phương.[5] Sang thế kỷ VII, trong lễ chặng viếng giáo hoàng tại Rôma, cũng như khi Thánh lễ chặng viếng được truyền qua Pháp và Đức với những thêm thắt mới, các kinh nguyện và cơ cấu phần hiệp lễ lúc ấy không khác mấy với hồi hiệp lễ hiện nay gồm cả những mẫu thức khác nhau về việc tư tế thanh tẩy môi miệng, ngón tay và chén thánh tại Rôma và cả ở những nơi khác.[6]

 

Theo mô tả của Ordo Missae I, cũng như hồi hiệp lễ ngày nay, hồi hiệp lễ trong lễ Chặng viếng Roma diễn tiến như sau: 1/ Kinh Lạy Cha; 2/ Kinh khẩn nài sau kinh Lạy Cha (Embolism); 3/ Nghi lễ bẻ bánh đang khi ca đoàn hát kinh Lạy Chiên Thiên Chúa; 4/ Hòa lẫn Bánh Thánh với nhau kèm theo công thức: “Xin bình an của Chúa Kitô luôn ở cùng anh chị em”; 5/ Hôn bình an theo trật tự: chủ tế trao cho tổng phó tế, tổng phó tế trao cho Giám mục và cứ thế cho những thừa tác viên khác; 6/ Khi bẻ bánh, Đức Giáo hoàng bắt đầu, rồi ngài về ghế của mình; 7/ Các thầy giúp lễ đem túi vải lên bàn thờ lĩnh Mình Thánh xuống cho các Giám mục và linh mục bẻ tiếp; 8/ Đức Giáo hoàng rước lễ tại ngai từ thầy phó tế, rồi ngài bẻ lấy một mẩu nhỏ từ Bánh Thánh vừa tiếp nhận, đoạn bỏ mẩu này vào trong chén Máu Thánh với công thức đi theo: “Xin cho việc hòa trộn và thánh hiến Mình và Máu Thánh Chúa Giêsu làm cho chúng con, những người lãnh nhận Thánh Thể, sẽ bước vào sự sống đời đời. Amen” (Fiat commixtio); 9/ Đối đáp: “Chúa ở cùng anh chị em” - “và ở cùng thần trí cha”; 10/ Đức Giáo hoàng hiệp lễ từ chén thánh; 11/ Tổng phó tế loan báo nơi sẽ cử hành lễ Chặng viếng lần tới; 12/ Từ ghế của mình, Đức Giáo hoàng trao Mình Thánh cho các Giám mục, linh mục và phó tế; 13/ Các linh mục trao Mình Thánh cho giáo dân. Họ xếp hàng lên rước lễ như khi lên dâng lễ vật. Họ đứng, giơ tay nhận Mình Thánh, còn Máu Thánh thì uống chung trong các chén nhỏ do thầy phó tế cầm. Đang khi rước lễ, ca đoàn hát ca hiệp lễ. Rước lễ xong, ra hiệu cho ca đoàn kết thúc ca hiệp lễ bằng Gloria Patri; 14/ Đức Giáo hoàng lên bàn thờ đọc lời nguyện sau hiệp lễ; 15/ Thầy tổng phó tế hát “Ite Missa est” để giải tán dân chúng và họ đáp lại “Tạ ơn Chúa”; 16/ Phụng vụ kết thúc với đoàn rước trở vào phòng thánh trong thinh lặng. Trên đường, Đức Giáo hoàng ban phép lành cho những cá nhân.[7]

 

Phụng vụ vừa nêu trên chứa đựng nhiều yếu tố vẫn còn nằm trong Nghi thức Thánh lễ sau đó, tức Thánh lễ thời Trung cổ và Thánh lễ Trentô. Khi Thánh lễ Chặng viếng được truyền qua Pháp và Đức, người ta thêm vào những kinh nguyện mới, như kinh “Lạy Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” để linh mục dọn mình rước lễ. Sau này, vì phụng vụ xa cách giáo dân, nghi lễ bẻ bánh cũng mất đi ý nghĩa của nó. Thay vì bánh có men người ta dùng bánh không men, bánh này có thể bẻ trước mà không sợ bị khô. Dần dần, người ta dùng những bánh tròn nhỏ cho giáo dân, nên chỉ phải bẻ bánh lớn dành cho linh mục. Với bánh tròn nhỏ cộng theo sự cung kính đối với Mình Thánh, người giáo dân không rước lễ bằng tay, nhưng bằng miệng. Lúc đầu họ còn đứng, nhưng dần dần đã quỳ để tỏ lòng cung kính. Vì quá chú trọng đến tính chất mầu nhiệm của Thánh lễ, người ta cảm thấy phải ở xa để chiêm ngưỡng hơn là nên rước lễ thường xuyên. Thế là Synod Adge (506) ra quyết định mức tối thiểu là phải rước lễ 3 lần trong năm vào dịp lễ Phục sinh, Giáng sinh và Hiện xuống (Can. 18 [Mansi VIII, 327]). Cuộc cải cách Carolingian sau đó đã nỗ lực tái giới thiệu thực hành rước lễ mỗi Chúa nhật, nhất là Chúa nhật mùa Chay, nhưng kết quả không đạt bao nhiêu. Đến thế kỷ XIII, các tín hữu vẫn không hiệp lễ nhiều, và để khắc phục, Công đồng Latêranô IV (năm 1215) đã ra một mức tối thiểu mới là buộc các tín hữu phải rước lễ mỗi năm ít là một lần trong mùa Phục sinh.[8] Đang khi đó, nhiều kinh nguyện và những việc thú tội mới được thêm vào như là những nghi thức chuẩn bị ngoài Thánh lễ. Những kinh nguyện và việc thú tội này khác nhau tùy theo miền, tùy theo tu viện. Chúng dẫn nghi thức hiệp lễ đến chỗ bị tách ra làm hai phần: phần dành cho tư tế và phần dành cho giáo dân. Nghi thức Thánh lễ phục hồi tính duy nhất của nghi thức rước lễ bằng cách loại bỏ những mẫu thức khác nhau trước lúc giáo dân rước lễ và bằng cách đưa vào phần hiệp lễ những lời nguyện cho cả thừa tác viên lẫn dân chúng với một mẫu thức dẫn nhập. [9]

 

III/ Ý NGHĨA

Toàn bộ nghi thức hiệp lễ là sự kết nối giữa Kinh nguyện Thánh Thể và việc rước lễ. Nó giúp cộng đoàn chuẩn bị tâm hồn qua việc hòa giải, đón nhận nhau trước khi tiến tới việc lãnh nhận Mình Máu Chúa Kitô. Hiệp lễ chính là dấu hiệu người lãnh nhận được hiệp nhất với Chúa Kitô và Hội Thánh của Ngài. Sự hiệp nhất này không chỉ là phạm trù thuộc về tình cảm của con người nhưng là một thực tại thiêng liêng mời gọi chúng ta nên “một lòng một trí” với tất cả những ai thuộc về gia đình Hội Thánh (x. GLCG 1391, 1396, 1398). 

 

Nhấn mạnh đặc biệt đến khía cạnh phục sinh vì lời của Đức Giêsu trong Tin Mừng theo thánh Gioan: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết.” (Ga 6,54). Trong tiệc thánh của Chúa, khi lãnh nhận Mình của Chúa Con, các tín hữu loan báo cho nhau Tin Mừng: Thiên Chúa đã ban cho họ những hồng ân đầu tiên của sự sống, như xưa kia thiên thần báo cho bà Maria thành Mácđala: “Chúa Kitô đã Phục Sinh”. Ngày nay, Thiên Chúa cũng ban sự sống và sự phục sinh cho những ai rước lấy Chúa Kitô (x. GLCG 1391).

 

Qua việc hiệp lễ, không những người lãnh nhận được nuôi dưỡng và làm cho mạnh sức mà còn chuẩn bị cho họ cuộc sống vĩnh cửu trên thiên đàng. Họ không những được tham dự vào bàn tiệc thiêng liêng nơi bàn thờ mà còn hướng tới bữa tiệc muôn đời của Chúa trên thiên quốc đúng như lời trong một kinh nguyện cổ mà đã trở thành điệp ca tin mừng của Giờ Kinh Phụng Vụ lễ Mình và Máu Thánh Chúa Kitô: “Ôi yến tiệc Mình và Máu Thánh, Chúa Kitô thành lương thực nuôi ta. Tiệc nhắc nhở Người đã chịu khổ hình. Và đổ đầy ân sủng xuống cõi lòng nhân thế. Tiệc bảo đảm cho ta. Một ngày mai huy hoàng rực rỡ!” (x. GLCG 1402-05).

 

IV/ CẦU NGUYỆN

1/ Lạy Chúa, Chúa đã cho chúng con cùng được chia sẻ một tấm bánh bởi trời; xin ban Thánh Thần là nguồn mạch tình yêu giúp chúng con cũng biết tâm đầu ý hợp và chân thành yêu thương nhau (Lời Nguyện Hiệp Lễ - Chúa nhật Tuần 2 Thường niên).

 

2/ Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho chúng con cùng được chia sẻ một tấm bánh, cùng được uống chung một chén rượu; xin cho cộng đoàn chúng con đây biết thành tâm hiệp nhất trong tình yêu của Ðức Kitô, để nhờ đó mà cả thế giới này được hưởng ơn cứu độ (Lời Nguyện Hiệp Lễ - Chúa nhật Tuần 5 Thường niên).

 

3/ Lạy Chúa, chúng con vừa tham dự bí tích Thánh Thể, là mối dây liên kết mọi người chúng con trong Chúa; xin cho bí tích này cũng làm cho hội Thánh được hiệp nhất và bình an (Lời Nguyện Hiệp Lễ - Chúa nhật Tuần 11 Thường niên).

 

_______

[1] X. John Baldovin, “History of the Latin Text and Rite”, trong A Commentary on the Order of Mass of the Roman Missal, gen. ed. Edward Foley (Collegeville: The Liturgical Press, 2011), 593-97; Trần Đình Tứ, Phụng vụ Thánh lễ (Sài Gòn: ĐCV Thánh Giuse, 1997), 149.

[2] X. Trần Đình Tứ, Phụng vụ Thánh lễ, 149.

[3] Trích lại trong R. C. D. Jasper & G. J. Cuming, Prayers of the Eucharist: Early and Reformed, 3rd ed. (Collegeville: A Pueblo Book/The Liturgical Press, 1987/1990), 29.

[4] X. Joseph A. Jungmann, SJ, The Mass of the Roman Rite: Its Origins and Development (Missarum Sollemnia), vol. 2, trans. Francis A. Brunner (New York : Benziger Brothers, 1951), 276.

[5] X. Robert Cabié, “The Eucharist”, trong The Church at Prayer, vol. 2, ed. A. G. Martimort, trans. Matthew J. O’Connell (Collegeville: The Liturgical Press, 1986), 122; Nguyễn Văn Trinh, Phụng vụ Thánh lễ (Hà Nội: Nxb. Tôn Giáo, 2008), 474.

[6] X. John Baldovin, “History of the Latin Text and Rite”, 595; X. Trần Đình Tứ, Phụng vụ Thánh lễ, 150.

[7] John Baldovin, “History of the Latin Text and Rite”, 594-595.

[8] X. Joseph A. Jungmann, SJ, The Mass of the Roman Rite: Its Origins and Development (Missarum Sollemnia), vol. 2, trans. Francis A. Brunner (New York : Benziger Brothers, 1951), 361-62.

[9] Trần Đình Tứ, Phụng vụ Thánh lễ, 150-151.

Bài cùng chuyên mục:

Danh sách các Thánh Tử Đạo Việt Nam xếp theo ngày lễ (29/06/2028 11:30:38 - Xem: 3,383)

Tại Việt Nam, có nhiều kitô hữu đã hy sinh mạng sống làm chứng cho Tin Mừng và đức tin. Có 117 vị đã được Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II phong thánh ngày 19.6.1988, gồm

Thánh Lu-ca Tác Giả Tin Mừng (Ngày 18-10) (17/10/2024 08:19:15 - Xem: 4,712)

Thánh Lu-ca sinh vào tiền bán thế kỷ thứ nhất tại Antiochia, tức Antakya, Thổ-nhĩ-kỳ ngày nay. Theo truyền thống, Ngài là một trong những môn đệ trung tín của Thánh Phao-lô.

Thánh I-Nha-Xi-Ô An-Ti-Ô-Khi-A, Giám mục,tử đạo (Ngày 17/10) (16/10/2024 08:17:30 - Xem: 3,373)

Theo truyền tụng kể lại,thánh Inhaxiô Antiôkhia là em bé đã được Chúa Giêsu ẵm bế đặt trước mặt các môn đệ,khi các trẻ nhỏ tới trò chuyện,quấy rầy Chúa Giêsu.

Thánh Tê-Rê-Xa Giê-su, Trinh nữ, tiến sĩ Hội Thánh, Ngày 15/10 (14/10/2024 08:27:53 - Xem: 4,980)

Thánh Têrêxa Giêsu được Giáo Hội ca ngợi:" Người đã để Thiên Chúa yêu Người nhiều".Thánh nhân đã được Thiên Chúa ban cho khả năng yêu và được yêu.

Thánh Giáo hoàng Gioan XXIII (ngày 11/10) (10/10/2024 09:07:35 - Xem: 5,020)

Gioan XXIII, sinh tại làng Sotto il Monte, thuộc tỉnh Bergamo, vào ngày 25.11.1881, con trai đầu của ông Giovanni Battista Roncalli và bà Marianna Mazzola.

Thánh Phêrô LÊ TÙY, Linh mục (1773-1833) ngày 10/10 (09/10/2024 08:44:40 - Xem: 2,434)

Phêrô Lê Tùy sinh trưởng trong một gia đình nề nếp khá giả làng Bằng Sở, huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín, Hà Đông, nay thuộc giáo phận Hà Nội.

Cử hành Thánh Thể: Bài 51 - Lời chào và phép lành cuối lễ (08/10/2024 16:37:45 - Xem: 143)

Để đào sâu hiểu biết về kiến thức phụng vụ, Ủy ban Phụng tự trân trọng giới thiệu loạt bài về cử hành Thánh Thể do linh mục Giuse Phạm Đình Ái, SSS tổng hợp và biên soạn.

Lễ Kính Đức Mẹ Mân Côi (Ngày 7-10) (06/10/2024 07:25:07 - Xem: 5,953)

Lịch sử của ngày Đại Lễ này liên quan tới một cuộc chiến giữa quân đội của các nước theo Ki-tô giáo với quân đội Thổ-nhĩ-kỳ theo Hồi giáo.

Thánh Phan-Xi-Cô Át-Xi-Di ( St. Francis of Assisi ) Ngày 04/10 (03/10/2024 07:22:08 - Xem: 4,830)

Thánh Phanxicô Átxidi là vị sáng lập Dòng Anh Em Hèn Mọn cũng không đi ra ngoài đường lối của Chúa. Ngài phó thác,tin,cậy,yêu,mến Chúa để càng ngày càng trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu.

Các Thiên Thần Hộ Thủ (Guardian Angles) (Ngày 02/10) (01/10/2024 08:18:47 - Xem: 4,863)

Sự trợ giúp này,Chúa và Giáo Hội gọi là các Thiên Thần Hộ Thủ hay Bản Mệnh.Các Thiên Thần Bản Mệnh gìn giữ con người khỏi hiểm nguy, khỏi mọi sự dữ quấy phá,

Bài viết mới
Câu chuyện chiều thứ 7