Phụng vụ

Cử hành Thánh Thể: Bài 14 & 15- Tung hô Tin Mừng - Alleluia

  • In trang này
  • Lượt xem: 327
  • Ngày đăng: 16/01/2024 18:02:26

Ngày 5 tháng 8 năm 2023, Ủy ban Phụng tự Hội đồng Giám mục Việt Nam đã thông báo về chương trình Đào tạo phụng vụ cho Dân Chúa gồm: (1) Thực hành mục vụ và (2) Kiến thức phụng vụ. Để đào sâu hiểu biết về kiến thức phụng vụ, Ủy ban Phụng tự trân trọng giới thiệu loạt bài về cử hành Thánh Thể do linh mục Giuse Phạm Đình Ái, SSS tổng hợp và biên soạn.

BÀI 14: TUNG HÔ TIN MỪNG - ALLELUIA

 

 

I/ LỊCH SỬ

Hallelu-Yah là sự kết hợp của hai từ gốc Do-thái cổ là: “Hallelu” (hãy ngợi khen) và “Yah/Ia” (Giavê, Thiên Chúa). Vì thế tiếng Alleluia - được dùng trong phụng vụ Do Thái - có nghĩa là “Hãy ngợi khen Đức Chúa.” Trong Cựu Ước, Alleluia được dân Do Thái sử dụng khi bắt đầu hay khi kết thúc các Thánh vịnh trong phụng vụ đền thánh (x. Tv 104-106, 113-113, 115-117, và 146-150). Còn trong Tân Ước, Alleluia xuất hiện duy nhất trong sách Khải huyền (19,1-9): là tiếng tung hô vui mừng hoan hỉ, là bài ca chiến thắng của đoàn người đã được cứu chuộc hát vang trên trời.[1]

 

Alleluia được sử dụng trong hầu hết các gia đình phụng vụ Đông phương. Theo thánh Augustinô (354-430), Alleluia được hát vào mỗi Chúa nhật. Ngay từ đầu, người lĩnh xướng có thói quen thêm thắt nhạc vào âm cuối của tiếng Alleluia và kéo dài kiểu ngân một nguyên âm trên nhiều nốt nhạc khác nhau cũng như hát với nhiều bè khác nhau đến độ chỉ ca đoàn mới có thể hát nổi, còn dân chúng chỉ lắng nghe và “thưởng thức.” Trong nghi lễ Rôma, do ảnh hưởng bởi Đông phương, Alleluia được đưa vào hồi hậu bán thế kỷ VII dưới triều của một số giáo hoàng xuất thân từ Đông phương.[2] Tuy nhiên, ban đầu Alleluia chỉ được hát vào lễ Phục sinh; sau đó, được hát suốt mùa Phục sinh; và rồi suốt năm phụng vụ trừ mùa Chay như chúng ta thực hành ngày nay.

 

Sách Ordo Romanus I nói rằng Alleluia được tiếp nối theo sau đáp ca. Vào mùa Chay, Alleluia không được sử dụng, nên người ta thay thế bởi một đoạn Thánh vịnh dài hơn được gọi là Tractus (Bài ca liên xướng), có lẽ đây là dấu vết còn sót lại của việc hát Thánh vịnh mà không có câu đáp ca.[3] Ngày nay cũng vậy, chúng ta không hát Alleluia trong mùa Chay, nhưng vẫn đọc một câu điệp khúc (x. QCSL 62).  

 

Sách lễ Rôma 1574 và Sách lễ Rôma 1962 vẫn tiếp tục truyền thống Trung cổ bằng việc để cho ca đoàn hát Alleluia vào Thánh lễ trọng, trong khi luôn luôn để linh mục xướng đọc Alleluia.[4]

 

Hướng dẫn của Hội Thánh hiện nay liên quan đến Alleluia như sau:

Sau bài đọc liền trước bài Tin Mừng, hát Alleluia hay bài nào khác do chữ đỏ quy định tùy mùa phụng vụ. Lời tung hô như vậy tự nó là một nghi thức hoặc một hành vi độc lập, qua đó cộng đoàn tín hữu đón chào Chúa sắp nói với mình trong Tin Mừng và dùng lời hát tuyên xưng niềm tin của mình. Ca đoàn hoặc ca viên xướng trước Alleluia, mọi người đứng hát, và nếu cần thì lặp lại. Còn câu tung hô thì ca đoàn hoặc ca viên hát. a) Alleluia được hát trong các mùa ngoài Mùa Chay, câu tung hô lấy ở Sách Bài đọc, hoặc sách Các bài ca tiến cấp. b) Mùa Chay, thay vì Alleluia thì hát câu tung hô trước bài Tin Mừng có trong Sách Bài đọc. Cũng có thể hát một thánh vịnh khác hay ca tiếp liên mùa Chay, như thấy trong sách Các bài ca tiến cấp (Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma [QCSL], số 62).

Khi hát Alleluia, hoặc ca khúc nào khác, linh mục bỏ hương và chúc lành cho hương, nếu có xông hương. Rồi linh mục chắp tay, cúi mình trước bàn thờ, đọc thầm: Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin thanh tẩy tâm hồn … (QCSL 132)

- Lúc ấy, linh mục lấy sách Tin Mừng, nếu sách đó đặt trên bàn thờ, cầm nâng cao sách lên một chút, tiến đến giảng đài, có các thừa tác viên giáo dân đi trước. Họ có thể cầm bình hương và nến.     Những người hiện diện quay về giảng đài, tỏ lòng tôn kính đặc biệt đối với Tin Mừng Đức Kitô (QCSL 133).

 

II/ Ý NGHĨA

Trong phụng vụ Rôma, lời tung hô Alleluia liên kết chặt chẽ với bài Tin Mừng, với mục đích diễn tả niềm vui mà Tin Mừng mang đến, là tiếng kêu hân hoan vui mừng của Hội Thánh đến độ thánh Augustinô gọi Alleluia là “bài hoan ca” (jubilus).[5] Alleluia được coi như là tiếng tung hô Chúa Kitô, Đấng đang đến với chúng ta trong khi công bố Lời của Người. Tin Mừng chính là lời của Người, và Người thực sự hiện diện trong lời đó, hoàn toàn giống như Người sẽ hiện diện sau đó trong bí tích Thánh Thể. Đây là ca khúc hát kèm với cuộc kiệu Sách Tin Mừng từ bàn thờ tới giảng đài. Cuộc rước này như là một sự biểu lộ ra bên ngoài Đức Kitô đang đến (adventus Christi), là một biểu tượng loan báo Ngài sẽ lại đến lần cuối cùng trong vinh quang cũng như sắp đến ngay bây giờ trong lời của Ngài (QCSL 62).[6] Vì thế, có những sự việc đáng lưu ý: [i] Mọi người đứng lên như để chào đón Ngài;[7] [ii] Cuộc rước Sách Tin Mừng  với hương và nến đi trước như dấu chỉ của niềm vui (Nghi Thức Thánh Lễ [NTTL], số 14-15; Mục Lục Các Bài Đọc Trong Thánh Lễ [BĐ], số 17; QCSL 133, 175;);[8] [iii] Đi kèm với tung hô Alleluia luôn luôn là một câu Kinh Thánh mà phần lớn được trích từ chính bài Tin Mừng sắp được công bố hoặc có thể được lấy từ Thánh vịnh hay những bản văn Thánh Kinh khác theo mùa hoặc chung các thánh; [iv] Xông hương Sách Tin Mừng (QCSL 134, 175).[9]

 

Sau khi cúi chào bàn thờ, phó tế/linh mục cung kính lấy Sách Tin Mừng từ bàn thờ để rước sang giảng đài như muốn nói lên rằng chúng ta nhận Tin Mừng từ Chúa Kitô và việc công bố Tin Mừng hiển nhiên là phát xuất từ Chúa Kitô.[10] Phó tế/linh mục giơ Sách Tin Mừng lên cao một chút [y như trong cuộc rước đầu lễ] đang khi tiến tới giảng đài, có người cầm bình hương đang tỏa khói cùng với 2 thừa tác viên cầm đèn nến đi trước biểu tượng cho Luật và Các Ngôn Sứ loan báo về Đức Kitô (x. NTTL 14-15; QCSL 133, 175; BĐ 17)[11] và nhằm: [i] tôn vinh phẩm giá của Sách Tin Mừng mà cũng là tôn vinh Chúa Kitô; [ii] biểu trưng Chúa Kitô mà Tin Mừng công bố là ánh sáng thế gian; [iii] diễn tả niềm hy vọng về ngày vĩnh cửu khi toàn thể Hội Thánh được biến hình nhờ ánh sáng của Con Chiên (Kh 22,23); [iv] cộng đoàn chuẩn bị con đường hương thơm cho Ngôi Lời Thiên Chúa;[12]  [v] nhấn mạnh rằng việc công bố Tin Mừng là đỉnh cao của toàn bộ phần Phụng vụ Lời Chúa (x. NTTL 14-15; QCSL 133, 175; Lễ Nghi Giám Mục [LNGM] 140).[13]

 

III/ ĐỀ NGHỊ MỤC VỤ

1) Giám mục chủ tế bỏ hương trong tư thế ngồi dù tất cả mọi người đứng lên và hát Alleluia (x. Lễ Nghi Giám Mục [LNGM], số 140). Nếu linh mục chủ tế bỏ hương, ngài có thể ngồi (NTTL [1965], 42) nhưng nên đứng để bỏ hương (x. QCSL 131). Khi [ĐGM] chủ tế ngồi bỏ hương, người cầm bình hương và tàu hương có thể đứng hoặc quỳ trước mặt ngài, miễn là cách nào thuận tiện hơn cho việc bỏ hương (cf. Caeremoniale Episcoporum (ấn bản 1745-1948), I-XI, n. 3Pontificales ritus (21 juin 1968, n. 25).[14]

 

2) Đức Giám mục chủ tế chúc lành cho phó tế ở tư thế ngồi hơn là đứng, nhưng linh mục chủ tế chúc lành cho thầy chỉ ở tư thế đứng (x. NTTL [1965], 42; QCSL 131, 212; cf. Caeremoniale Episcoporum (ấn bản 1745-1948), II-V, n. 7et II-VI, n. 12).[15]

 

3) Đừng bao giờ để phó tế/linh mục ra giảng đài công bố Tin Mừng một mình trong khi các người giúp lễ đứng không.[16]

 

4) Đôi khi, có thể rước Sách Tin Mừng qua một phần dân chúng trong nhà thờ với đoạn rước dài hơn bình thường (= từ bàn thờ đến giảng đài) nhằm diễn tả về mặt biểu tượng và nghi thức tầm quan trọng chúng ta đặt nơi Lời Chúa, nhất là nơi Tin Mừng.[17]

 

5) Nên hát Alleluia trong mọi Thánh lễ bởi vì Alleluia là một dạng tung hô, mà thường phải hát mới phù hợp với thái độ hoan hô.[18] Cũng phải hát Alleluia sao cho phần này thực sự báo trước Tin Mừng và dùng lời hát mà tuyên xưng niềm tin của các tín hữu hân hoan chào đón Chúa Kitô, Đấng sắp nói với chúng ta qua Tin Mừng (x. QCSL 62-63; BĐ 23; MVTN 150).[19] Gelineau cho rằng nếu không thể hiện Alleluia và Amen thành lời tung hô thì chúng chỉ biến thành những lời lẩm bẩm tập thể.[20] Quy chế Tổng quát Sách Lễ Rôma (số 63c) nhấn mạnh: “Alleluia hoặc lời tung hô trước Bài Tin Mừng, nếu không hát thì có thể bỏ”: điều này ngụ ý rằng luôn luôn và hết sức bao nhiêu có thể nên hát tung hô Tin Mừng hơn là đọc, việc hát tung hô Tin Mừng phải được ưa thích hơn (x. BĐ 23).[21]

 

6) Nến cập nhật việc hát tung hô tin Mừng theo hướng dẫn mới của Quy chế Tổng quát Sách Lễ Rôma [2002]: [i] Xướng trước Alleluia hay bắt đầu hát Alleluia không còn do “hết mọi người” nữa (QCSL [1975], số 37), nhưng chỉ do “ca đoàn hoặc ca xướng viên” đảm nhận; [ii] Câu tung hô cũng vậy, không phải do “hết mọi người” hát chung với nhau mà chỉ do “ca đoàn hoặc ca xướng viên hát” (x. QCSL [2002] 62; BĐ 56; Hướng Dẫn Mục Vụ Thánh Nhạc [MVTN], số 150).[22] Như vậy, chúng ta hát tung hô Tin Mừng như sau: [1] Đơn vị I “Alleluia”:[23] do ca đoàn hoặc một ca viên xướng lên; [2] Đơn vị II “Alleluia”: toàn thể cộng đoàn hát lặp lại Alleluia như đơn vị [1] (đơn vị I và II thay vì hát 2 lần thì có thể do toàn thể cộng đoàn cùng nhau hát lên 1 lần nếu như Alleluia là dài hoặc quá thông dụng);[24] [3] Đơn vị III “Câu xướng trước Tin Mừng”: do ca đoàn hoặc một ca xướng viên hát; [4] Đơn vị IV “Alleluia”: toàn thể cộng đoàn hát lặp lại Alleluia như đơn vị II.[25] Thực hành này không những đúng ý định của Hội Thánh mà còn thực sự dễ dàng và đơn giản hơn cho dân Chúa vì một là, không cần phải tập hát Alleluia trước cho cộng đoàn: mọi người chỉ lần lặp lại Alleluia do ca đoàn/một ca viên xướng trước, “Câu xướng trước Tin Mừng” thuộc về nhiệm vụ [hát] của ca đoàn/một ca viên; hai là, mọi người không phải nhìn vào sách/màn hình hầu có thể nhìn về phía đoàn rước Sách Tin Mừng [nếu có] (QCSL [2002], 62; PV 33).

 

7) Có thể đọc/hát câu tung hô Tin Mừng từ giảng đài (x. QCSL 309; BĐ 33).[26] Nhưng vì linh mục hay phó tế công bố Phúc Âm sắp di chuyển đến đó, nên xướng viên thường dẫn câu tung hô Tin Mừng từ giá riêng của mình hay từ khu vực ca đoàn.[27] Còn nếu hát tại giảng đài thì xướng viên phải di chuyển không trì hoãn đang khi cộng đoàn hát lặp lại Alleluia (đơn vị IV) kết thúc phần tung hô Tin Mừng.[28]

 

8) Trong Mùa Chay, không bao giờ hát/đọc Alleluia, có thể thay thế bằng những câu tung hô như sau (hát trước và sau câu Tung hô trước Tin Mừng): 1. Lạy Chúa Kitô là Ngôi Lời Thiên Chúa, chúng con xin ngợi khen Ngài. Hoặc: 2. Lạy Chúa Kitô ngàn đời vinh hiển, xin chúc tụng và tôn vinh Ngài.[29]

 

9) Phải tránh tình trạng đoàn rước tung hô Tin Mừng “gãy gánh giữa đường” (bước đi trong thinh lặng), nghĩa là chưa tới giảng đài, hay có những trường hợp, thày phó tế/linh mục đồng tế chưa kịp lấy Sách Phúc Âm trên bàn thờ, thì hát tung hô Tin Mừng đã kết thúc. Gặp trường hợp này, đàn sĩ nên tiếp tục dạo nhạc hoặc cộng đoàn nên hát tiếp tiếng Alleluia cho tới khi đoàn rước tới giảng đài mới thôi.

 

10) Thỉnh thoảng, vào những dịp trọng thể, nên hát lại tung hô Tin Mừng Alleluia lần nữa sau khi cộng đoàn thưa “Lạy Chúa Kitô ngợi khen Chúa”, bởi vì hành động này làm cho hai tiếng reo vui – hoan hô như hai phần bao lấy bài Phúc Âm,[30] đồng thời thể hiện tâm tình mạnh mẽ và sốt mến của cộng đoàn muốn “chúc tụng Thiên Chúa” vì nghĩa của tiếng Alleluia chính là “hãy ngợi khen Thiên Chúa”.[31]

 

IV/ SUY NIỆM

Alleluia là bài ca vừa làm chúng con say mê vừa gợi lên trong chúng con nhiều điều: như một lời tung hô đầy hoan hỷ để chào đón Tin Mừng của Chúa, để diễn tả sự kinh ngạc đầy thú vị của chúng con, để ca khen Thiên Chúa vì hồng phúc Ngài tuôn đổ trên chúng con; nhưng trên tất cả, lạy Chúa Giêsu, chúng con kết nối Alleluia với cuộc phục sinh của Chúa. Chúng con hát Alleluia để loan báo một tin vui vĩ đại: bây giờ Chúa vẫn đang sống, Chúa đang cùng đi với chúng con.

 

Người ta vẫn hỏi tại sao không hát Alleluia trong mùa Chay. Chúng con hiểu rằng vì Alleluia luôn gắn liền với biến cố phục sinh, Hội Thánh tạm thời ngưng hát Alleluia trong 40 ngày thống hối của mùa Chay nhằm chuẩn bị tâm hồn chúng con đón nhận niềm vui trọn vẹn và vĩ đại của biến cố phục sinh.

 

Trong đêm vọng phục sinh, Hội Thánh phục hồi bài ca Alleluia cho nên tiếng Alleluia đã được cất lên một cách long trọng và hùng tráng sau một thời gian tạm thời lịm tắt. Trước Bài Phúc Âm, vị tư tế xướng hát Alleluia và toàn thể cộng đoàn phụng vụ cùng lặp lại theo ngài. Hát đến 3 lần, mỗi lần lên giọng cao hơn. Lạy Chúa, chúng con hát Alleluia như bài ca khải hoàn để công bố với thế giới rằng Chúa đã trỗi dậy từ cõi chết, Chúa đã chiến thắng tử thần. Chúng con ước muốn giai điệu của bài ca này phải lan tràn đến mọi ngõ ngách của vũ trụ. Từ đêm phục sinh cho đến mùa Chay lần tới, chúng con lại say mê hát Alleluia – Chúa vẫn đang sống với chúng con. Xin hãy để cho thế giới lắng nghe lời ca tiếng hát Alleluia của chúng con và làm cho thế giới này được biến hình đổi dạng nhờ quyền năng phục sinh của Chúa.

 

Vào một số dịp hoặc Chúa nhật, chúng con hát Alleluia đi kèm với cuộc rước sách Tin Mừng đến giảng đài. Thực hành này giúp chúng con hồi tưởng lại đêm Vọng Phục sinh, cũng như làm mới lại kinh nghiệm của chúng con về ngày lễ mẹ của các lễ vọng. Chúa nhật tạo âm hưởng cho cả tuần cũng như lễ đêm Vọng Phục sinh tạo âm hưởng cho toàn bộ những ngày khác trong năm. Mỗi tuần sẽ khởi đi từ nốt nhạc cao độ của bài ca phục sinh Alleluia. Alleluia thấm nhập toàn bộ tuần lễ của chúng con vì mỗi ngày chúng con đều được tắm gội trong ánh sáng phục sinh của Chúa.

 

Lạy Chúa, Alleluia là bài ca phục sinh hàng ngày cho chúng con. Alleluia dạy chúng con biết thưa “xin vâng” với Chúa trong cuộc đời cũng như thừa nhận rằng chúng con sẽ gặt hái được nhiều điều hơn cả những tính toán hay kinh nghiệm của chúng con. Xin để cho đức tin của chúng con vào mầu nhiệm phục sinh của Chúa phá tan bóng tối che khuất tầm nhìn hy vọng của chúng con về một thế giới tốt đẹp hơn. Chúng con biết rằng u sầu ảm đạm vẫn còn đó nhưng như “người dại khờ” của Thiên Chúa, chúng con vẫn sẽ tiếp tục cử hành niềm vui cuộc sống giữa bao cảnh đau khổ buồn phiền như thế. Chúng con vẫn sẽ tiếp tục hét lên tiếng “xin vâng” của đức tin vào sự phục sinh của Chúa.

 

Trước một thế giới chìm ngập trong sản xuất, cạnh tranh và hiệu năng kỹ thuật, Alleluia vẫn là lời hiệu triệu của Chúa để làm cho con người hiện tại phải trỗi dậy và để mừng vui vì sự hiện diện của Chúa giữa chúng con. Alleluia là một lời mời gọi để kính mừng “ngày lễ của những kẻ khờ dại”, để chúng con không còn như một cỗ máy nữa, và để chúng con sống cuộc đời của những kẻ đã được Chúa thương cứu độ.

 

Alleluia, Alleluia! Lạy Chúa, ước gì bài ca hân hoan và tràn đầy hy vọng này cất chúng con lên khỏi những lối mòn của cuộc sống hàng ngày hầu chúng con có thể đến với ngày lễ đầy vui tươi mà kính mừng mầu nhiệm phục sinh của Chúa. Ước gì lời ca Alleluia đem đến cho chúng con niềm an ủi chắc chắn rằng giờ đây ngôi mộ chôn cất Chúa đã thực sự là ngôi mộ trống, Chúa không còn ở đó nữa, nhưng Chúa đang rảo khắp đó đây trên quả đất này hầu mời gọi tất cả chúng con hãy bước ra khỏi nấm mồ của chính mình. Amen.

 

 


[1] Lawrence J. Johnson, The Mystery of Faith: A Study of the Structural Elements of the Order of the Mass (Washington DC:  FDLC, NE, 2003), 38.

[2] Robert Cabié, “The Eucharist”, trong The Church at Prayer, ed. A. G. Martimort (Collegeville: The Liturgical Press, 1992), tập 2: 64-65.

[3] OR I, 57-58, trích lại từ Michael Witczak, “History of the Latin Text and Rite”, trong A Commentary on the Order of Mass of the Roman Missal, ed. Edward Foley (Collegeville: The Liturgical Press, 2011), 165. 

[4] Michael Witczak, “History of the Latin Text and Rite”, 165.  

[5] X. Georges Beyron, “Những Bài ca của Thánh lễ,” trong Họp nhau Cử hành Phụng vụ, tập II (Đồng Nai: Nxb Đồng Nai, 1992), 257; Phan Tấn Thành, Hiểu và Sống Đức tin, tập 2 (Sài Gòn: Học viện Đa Minh, 2009), 117–123.

[6] Reinhard Messner, “La Liturgie de la Parole,” 57, trích lại trong John D. Laurance (ed.), The Sacrment of the Eucharist (Collegeville: The Liturgical Press, 2012), 136.   

[7] Phan Tấn Thành, Cử hành Bí tích Tình yêu (Sài Gòn: Học Viện Đaminh, 2012), 164.

[8] X. Lucien Deiss, Celebration of the Word, trans. Lucien Deiss & Jane M. A. Burton (Collegeville: Liturgical Press, 1993), 123.

[9] X. Phan Tấn Thành, Cử hành Bí tích Tình yêu, 164.

[10] X. Serra, “Theology of the Latin Text and Rite” trong A Commentary on the Order of Mass of the Roman Missal, ed. Foley Edward, 128.

[11] X. André Mutel et Peter Freeman, Cérémonial de la sainte Messe à l'usage ordinaire des paroisses: suivant le missel romain de 2002 et la pratique léguée du rit romain, 2nd ed. (Perpignan: Editions Artège, 2012), 102.

[12] X. Lucien Deiss, Celebration of the Word, trans. Lucien Deiss & Jane M. A. Burton (Collegeville: The Liurgical Press, 1993), 120.

[13] X. DeGrocco, A Pastoral Commentary on the General Instruction of the Roman Missal (Chicago: Liturgy Training Publication, 2011), no. 132.

[14] X. André Mutel et Peter Freeman, Cérémonial de la sainte Messe, 100.

[15] X. Ibid, 101.

[16] Nguyễn Thế Thủ, Hướng dẫn Cử hành Phụng vụ (Sài Gòn: ĐCV Thánh Giuse, 2000), 96.

[17] X. Mick, Worshiping Well (Collegeville:  The Liturgical Press, 1997), 49; DeGrocco, no. 62.

[18] Leben, Để sống Phụng vụ, 95; Phan Tấn Thành, Hiểu và Sống Đức tin, 117–123.

[19] X. Lawrence E. Mick, Worshiping Well, 48; Erasto Fernandez, SSS, The Eucharist: Step by Step (Mumbai: St. Paul, 2005), 43.

[20] Gelineau, The Liturgy Today and Tomorrow 1st ed., trans. Dinah Livingstone (New York: Paulist Press, 1978), 80.

[21] X. McNamara, “Gospel Acclamation, Before and After” (12 April 2007), https://www.ewtn.com/catholicism/library/gospel-acclamation-before-and-after-4396; “Việc hát Alleluia trước Tin Mừng vẫn là lý tưởng” (06/06/2017), dg. Nguyễn Trọng Đa, http://conggiao.info/viec-hat-alleluia-truoc-tin-mung-van-la-ly-tuong-d-41645; “Singing or Reciting the Alleluia” (18 Dec. 2018), https://www.ewtn.com/catholicism/library/singing-or-reciting-the-alleluia-4920; DeGrocco, no. 63; Turner, Let Us Pray: A Guide to the Rubrics of Sunday Mass (Collegeville: The Liturgical Press, 2012), no. 330; X. Beyron, “Những Bài ca của Thánh lễ,” trong Họp nhau Cử hành Phụng vụ, tập II, 242.

[22] X. Turner, no. 328; Georges Beyron, “Les chants de la messe” trong Dans Vos Asssemblées, ed. J. Gélineau (Desclée, 1989), 434; McNamara, “Singing or Reciting the Alleluia” (18 Dec. 2018), https://www.ewtn.com/catholicism/library/singing-or-reciting-the-alleluia-4920; “Its Singing is for Cantors or Choirs” (11 Feb. 2020), https://www.ewtn.com/catholicism/library/verse-before-the-gospel-14238.

[23] Một đơn vị Alleluia, một là được hát ngân nga thật dài với nhiều nốt nhạc khác nhau như trong lễ Vọng Phục sinh; hai là, gồm 2 hay 3 từ Alleluia tuỳ theo sáng tác của nhạc sĩ, tức gấp đôi hay gấp ba chữ Alleluia lên hầu tạo cho nhịp điệu âm nhạc được hay hơn và cho phép nâng cao tầm mức quan trọng của tiếng Alleluia. Một Alleluia ngắn ngủn chỉ kéo dài vài giây, rồi được theo sau bởi một câu được đọc lên sẽ làm gián đoạn dòng chảy của bài ca, không đủ tôn cao sự chuẩn bị của chúng ta dành cho Tin Mừng mà chúng ta sẽ công bố và lắng nghe đang khi đứng (x. Lucien Deiss, Visions of Liturgy and Music for a New Century, 141; Joseph Génineau, Liturgical Assembly, Liturgy Song, trans. Bernadette Gasslein (Portland: Pastoral Press, 2002), 109.

[24] Paul Turner, Let Us Pray, no. 324.

[25] Xem thêm phần giải thích của: [1] cha Edward McNamara, LC trong bài “Ai hát câu tung hô trước bài Tin Mừng?” (11/02/2020), dg. Nguyễn Trọng Đa, https://Zenit.org/articles/the-verse-before-the-gospel/; “Hát hoặc đọc Alleluia như thế nào? Lại nói về “Thánh lễ chữa lành” (18/12/2018), https://giaophanvinhlong.net/hat-hoac-doc-alleluia-nhu-the-nao-lai-noi-ve-thanh-le-chua-lanh.html[2] Georges Beyron, “Những bài ca của Thánh lễ,” trong Họp Nhau Cử Hành Phụng Vụ, tập II, 257-258; [3] Paul Turner, Let Us Pray, no. 324.

[26] X. Edward McNamara, “Singing the Alleluia at the Ambo” (08 Jan. 2013).

[27] Paul Turner, Let Us Pray, no. 329.

[28] X. André Mutel et Peter Freeman, Cérémonial de la sainte Messe, 98.

[29] Hướng Dẫn Mục Vụ Thánh Nhạc [MVTN], số 153b; Ordo Lectionum Missae [1981], “ACCLAMATIONES pro tempore Quadragesimae”, 129.

[30] X. Leben, Để sống Phụng vụ, 95.

[31] X. David Haas, Music and the Mass (Chicago: Liturgy Training Publications, 1998), 48. 

 

BÀI 15: CÔNG BỐ TIN MỪNG

 

I/ VĂN KIỆN

- Bài đọc Tin Mừng là đỉnh cao của phụng vụ lời Chúa. Chính Phụng vụ dạy ta phải hết lòng tôn kính bài đọc này, vì Phụng vụ dành cho bài Tin Mừng sự tôn kính đặc biệt hơn các bài đọc khác: về phía thừa tác viên được đề cử để đọc thì phải dọn mình nhờ lời chúc lành hay lời cầu nguyện; về phía các tín hữu, thì phải tung hô để nhìn nhận và tuyên xưng Đức Kitô đang hiện diện và nói với họ; họ đứng để nghe Tin Mừng; ngoài ra còn có những dấu chỉ tôn kính đặc biệt dành riêng cho Sách Tin Mừng (QCSL 60).

- Tại giảng đài, linh mục mở sách rồi chắp tay đọc: Chúa ở cùng anh chị em. Cộng đoàn đáp: Và ở cùng cha. Linh mục đọc tiếp: Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô..., đưa ngón tay cái làm dấu trên sách và trên mình, nơi trán, miệng và ngực, mọi người khác cũng làm như vậy. Cộng đoàn tung hô: Lạy Chúa Kitô, vinh danh Chúa. Linh mục xông hương sách Tin Mừng, nếu có xông hương (x. số 277-278). Đoạn linh mục công bố Tin Mừng, và đến cuối, xướng câu tung hô: Đó là lời Chúa. Mọi người đáp: Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa. Linh mục hôn sách, đọc thầm: Nhờ những lời Tin Mừng vừa đọc, xin Chúa xóa tội chúng con (QCSL 134).

II/ LỊCH SỬ

Từ những ngày đầu tiên, Hội Thánh đã nhấn mạnh tính ưu việt của Tin Mừng bằng những dấu chỉ tôn kính xung quanh nghi lễ công bố Tin Mừng như:

(1) Người công bố: phải là một thừa tác viên đặc biệt (phó tế hay linh mục) và phải chuẩn bị cho mình bằng một phép lành hay một lời nguyện.[1] Vào thế kỷ IV, tại Constantinopoli, Đức Giám mục công bố Tin Mừng trong lễ Phục sinh; tại Alexandria, Phúc Âm được công bố bởi một tổng phó tế; còn trong nhiều thánh đường khác, bởi một phó tế hay một linh mục.[2]

(2) Cuộc rước: Sách Tin Mừng được tôn kính như chính Chúa Kitô và hơn tất cả những cuốn sách phụng vụ khác vì trực tiếp đề cập đến lời nói và hành động của Ngài. Bởi vậy, ngay từ thời cổ, trong cả nghi điển Đông phương lẫn Tây phương, đã có cuộc rước Sách Tin Mừng trọng thể đến giảng đài vào dịp lễ Lá như rước Chúa Giêsu tiến vào thành Giêrusalem. Đến thế kỷ X-XI, cuộc rước này vẫn quan trọng, thậm chí được thực hiện trong các Thánh lễ tư riêng, Sách Phúc Âm có chứa cả Bài đọc khác được giúp lễ mang từ “phía Thánh thư” sang “phía Tin Mừng.”[3]

(3) Tư thế đứng: từ đầu thế kỷ IV, tại Đông phương, cộng đoàn ngồi khi nghe các Bài đọc khác, nhưng đứng khi nghe công bố Phúc Âm nhằm tôn kính và tỉnh thức trước sự hiện diện của Chúa Phục Sinh. Bên Tây phương cũng vậy, khi hát Phúc Âm, tất cả dân chúng đứng lên để lắng nghe.[4] 

(4) Làm dấu thánh giá trên sách, trán, miệng và ngực (từ thời Trung cổ) diễn tả người nghe sẵn sàng mở rộng tâm trí trước Lời Chúa, tuyên xưng Lời ngoài miệng và bảo toàn Lời trong tâm trí;

(5) Hôn kính: theo sách Ordo Romanus I, từ thế kỷ VIII, tại Rôma, một số thừa tác viên hôn Sách Tin Mừng được giữ bởi một phụ phó tế sau khi nghe công bố. Về sau, đối tượng hôn sách Tin Mừng được mở rộng ra cho tất cả giáo sĩ và thậm chí cho mọi người.[5] Thế kỷ XIII-XVIII, tập tục hôn kính này nơi còn nơi mất.[6] Đến nay, cử điệu hôn Sách Tin Mừng chỉ dành riêng cho những vị có chức thánh làm nhiệm vụ công bố Tin Mừng hay Đức Giám mục chủ tế. Đang khi hôn, thừa tác viên công bố Tin Mừng đọc công thức: “Nhờ những Lời Tin Mừng vừa đọc, xin Chúa thanh tẩy tội lỗi chúng con.” Thực hành này xuất hiện khoảng năm 1000.[7]

(6) Tung hô: những câu tung hô hướng về Chúa Kitô lúc khởi đầu và kết thúc công bố Tin Mừng xuất hiện vào thời Charles đại đế (768-814), tức vua Charlemagne của nước Frank và vị hoàng đế thứ II của vương triều Carolingian, người đã được Đức Lêô III trao vương miện.

(7) Xông hương: từ ban đầu, hương chỉ được mang đi trong cuộc rước, đến thế kỷ XI người ta mới xông hương sách Tin Mừng .[8]

Ngày nay, Nghi thức Thánh lễ vẫn giữ lại những dấu chỉ long trọng và tôn kính thật đẹp như thế đối với Sách Tin Mừng.[9] Rõ ràng, những thực hành này cũng gần như tương tự như dành cho bàn thờ: hôn kính, cúi chào, xông hương, rước kiệu với đèn nến và giúp lễ... 

Sách Ordo Romanus I (thế kỷ VIII) cho biết, phó tế đến gần Đức Giám mục trước khi công bố Tin Mừng. Đức Giám mục chỉ đơn giản nói với thầy phó tế: “Xin Chúa ở trong tâm hồn và môi miệng thầy.” Cũng có bằng chứng là ngài ghi dấu thánh giá trên phó tế nhưng dường như được phát triển sau này (Ordo Romanus I: 59). Trong Sách lễ 1474, đã thấy ghi những lời nguyện cá nhân dành cho phó tế và linh mục đọc riêng ở những thời khắc quan trọng trong Thánh lễ và cả những lời nguyện vào lúc công bố Tin Mừng. Thực hành như hiện nay, nghĩa là phó tế đến xin vị chủ tế ban phép lành cho mình, hoặc linh mục công bố Phúc Âm sẽ tự đọc lời nguyện riêng cho mình, đã có kể từ Sách lễ 1570. Đến nay lời nguyện riêng này vẫn chưa thay đổi. Lời chào dân chúng: “Chúa ở cùng ...”, lời loan báo “Tin Mừng  Đức Giêsu Kitô theo...” và dấu thánh giá cũng xuất hiện kể từ Sách lễ 1570 và tồn tại đến nay.[10]

III/ Ý NGHĨA 

Sách Tin Mừng  được kính trọng trong phần Phụng vụ Lời Chúa  bằng những nghi thức và cử điệu gần tương tự như dành cho bàn thờ và Thánh Thể. Làm như thế, Hội Thánh tỏ bày sự tôn kính đối với Lời Chúa và niềm tin của Hội Thánh vào sự hiện diện của Đức Kitô, Người đang nói với dân theo một cách thế đặc biệt trong việc công bố những văn bản thánh trong phụng vụ.

Trước khi công bố Tin Mừng, linh mục/phó tế sẽ ngỏ lời chào truyền thống (nói hay hát) đến dân chúng: “Chúa ở cùng anh chị em” (Nghi thức Thánh lễ [NTTL], số 15; Mục Lục Các Bài Đọc Trong Thánh Lễ [BĐ], số 65) với đôi tay chắp lại (x. QCSL 134, 175) và dân chúng thưa “và ở cùng cha (thầy).” Lời chào “Chúa ở cùng anh chị em” ở đây là nhằm chuẩn bị người nghe trước khoản khắc mới của việc gặp gỡ Chúa Phục Sinh. Lời chào và đáp lại này thể hiện sự trao tặng cho nhau món quà đức tin vào sự hiện diện của Chúa Kitô mà Lời của Ngài sắp được nghe công bố.[11]

Lời mở đầu khi công bố Tin Mừng là: “Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh...” và dân chúng đáp lại: “Lạy Chúa vinh danh Chúa.” Khi công bố xong, phó tế/linh mục sẽ xướng: “Đó là Lời Chúa” và cộng đoàn đáp lại: “Lạy Chúa Kitô ngợi khen Chúa” (NTTL 16; QCSL 134). Tất cả những lời mở đầu và kết thúc như trên nhằm tôn vinh Chúa Kitô và tuyên xưng niềm tin của đoàn dân vào sự hiện diện của Chúa Giêsu Kitô trong lời của Ngài bởi vì Tin Mừng là sứ điệp của chính của Chúa Cha được truyền tải đến nhân loại qua môi miệng của Con Ngài. Chúng ta không chỉ gặp gỡ Đức Giêsu trong một tường thuật lịch sử mà còn cảm nhận chính mình đang được đi cùng với Ngài trên những nẻo đường dương thế.[12] Lúc này, chúng ta không chỉ nghe về Chúa Giêsu nhưng đang nghe chính Ngài nói trực tiếp với mình.[13] Những lời mở đầu và kết thúc đó cũng nhằm xác nhận rằng lời được công bố là Lời của Thiên Chúa, không phải lời người phàm, đồng thời chúc tụng và tạ ơn Thiên Chúa vì đã mạc khải Lời Ngài cho nhân loại.[14]

Sau khi thừa tác viên công bố Phúc Âm nói: “Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh...”, thì “Ngài làm dấu thánh giá trên sách, trên trán, môi và ngực” và “mọi người khác cũng làm như thế” (x. QCSL 134, 175; NTTL 15; BĐ 17). Đây là một thực hành bất thành văn được phổ biến từ lâu đời, mãi đến nay mới được Hội Thánh quy định bằng văn bản tại số 134 của QCSL [2002]:

- Ý nghĩa của phần nhỏ bé này là xin Chúa ban ơn và chúc phúc cho thừa tác viên đọc Tin Mừng (NTTL 14). Cử điệu này là sự nhắc nhở không lời cho những thừa tác viên công bố Tin Mừng rằng, quả thực, đó chính là “Tin Mừng”, và trong khi công bố bản văn này phó tế hay linh mục phải cung kính sứ điệp trong những những gì ngài suy nghĩ (trí), trong những gì ngài nói (môi miệng) và trong trái tim của ngài (ngực). Qua việc ghi dấu này, thừa tác viên cầu xin cho mầu nhiệm Chúa chịu chết và sống lại được công bố trong lời Tin Mừng thấm nhập trọn vẹn trong con người của ngài, bám rễ sâu trong trí khôn và tâm hồn của ngài; cho trí tuệ của ngài được soi sáng để thông hiểu Lời Chúa và tâm hồn ngài được sưởi ấm để đón nhận Tin Mừng; cho ngài can đảm để dùng môi miệng mà rao giảng giáo lý của Chúa. Điều này gần tương tự như thái độ cần có của dân Israel mà Chúa đã truyền dạy: “Những lời này tôi truyền cho anh (em) hôm nay, anh (em) phải ghi tạc vào lòng (Đn 6,4-9).[15]

- Việc ghi dấu thánh giá trên trán cũng nhắc nhở chúng ta không nên đơn giản chỉ biết về Tin Mừng nhưng phải biết Tin Mừng; cũng như biết về Đức Giêsu Kitô thôi chưa đủ mà phải biết Đức Giêsu Kitô. Nếu Lời Chúa ở trong tâm trí, Lời sẽ hướng dẫn chúng ta hành động và ban cho chúng ta một sự bình an đích thực. Việc ghi dấu thánh giá trên môi nhắc nhớ chúng ta những lời của thánh Giacôbê (Gc 3,6-10) và khuyến cáo chúng ta đừng bao giờ là chứng nhân giả trá của Chúa Kitô bởi những lời chúng ta nói ra (Mt 5,22; Cl 3,8), trái lại “hãy nói những lời tốt đẹp, để xây dựng và làm ích cho người nghe” (Ep 4,29). Việc ghi dấu thánh giá trên ngực mời gọi chúng ta bắt chước Đức Mẹ Maria “hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2,19).[16] Cộng đoàn ghi dấu thánh giá còn với mục đích là cầu xin Thiên Chúa chúc phúc cho tâm trí và trái tim, để có thể chấp nhận, ôm trọn sứ điệp Tin Mừng được công bố bởi phó tế/linh mục, và đến phiên mình, tín hữu sẽ công bố sứ điệp ấy qua đôi môi và đời sống.[17]

 

Cộng đoàn ngồi khi nghe đọc Sách Thánh (Bài đọc I + Thánh vịnh đáp ca + Bài đọc II) như môn sinh ngồi nghe sư phụ dạy dỗ, nhưng như trên đã nói, mọi người sẽ đứng lên và hòa nhập vào lời tung hô Alleluia cũng như cuộc rước Sách Tin Mừng, rồi họ hướng về giảng đài để nghe công bố Tin Mừng. Tư thế đứng lúc này đúng theo những gì nêu ra trong sách Nakhum (Nk 8,5). Tư thế đứng vừa tiếp nối thái độ cung kính mà các Kitô hữu đã tuân giữ từ những thế kỷ đầu tiên (Constitutiones Apostolicae II, 57),[18] vừa là dấu chỉ tỏ lòng tôn trọng Sách Tin Mừng vì Tin Mừng chứa đựng những lời của Đức Giêsu, là giáo huấn của chính Đức Giêsu, gợi cho chúng ta nhớ về những biến cố và hành động trong cuộc đời của Chúa Giêsu. Với Lời Chúa tác động trên mình, chúng ta đứng như một cộng đoàn phục sinh để chào đón và lắng nghe Đức Kitô Phục Sinh một cách vững vàng bằng chính đôi chân của mình cũng như bước đi một cách can đảm và hân hoan hướng về vùng đất hứa, hướng về vương quốc của Thiên Chúa trên thiên đàng.[19]

 

Công bố Tin Mừng xong, thừa tác viên xướng: “Đó là Lời Chúa”, cộng đoàn đáp lại: “Lạy Chúa Kitô ngợi khen Chúa” [nhưng không cúi đầu] (x. NTTL 16; QCSL 134, 175) như diễn tả điều kỳ diệu của mầu nhiệm Nhập thể: Ngôi Lời đến cư ngụ giữa chúng ta và chúng ta đang được gặp gỡ Lời sống động của Thiên Chúa nên cất tiếng ngợi khen NgàiTiếp đó, thừa tác viên đọc Phúc Âm hôn vào trang sách đang mở của cuốn Sách Bài đọc/Sách Tin Mừng. Đó là một dấu hiệu cổ xưa để bày tỏ lòng kính trọng và yêu mến. Chạm môi miệng vào một đối tượng nào có nghĩa là mong ước đưa tất cả đối tượng ấy vào trong tâm hồn mình, hợp nhất mình với đối tượng mà mình trọng kính. Khi phối hợp việc hôn kính với lời nguyện trong thinh lặng, hành động hôn kính Sách Bài đọc/Sách Phúc Âm này chứng tỏ sự thánh thiện cũng như quyền năng của Lời Chúa vừa được công bố, nhờ sự chết và phục sinh của Chúa Kitô, sẽ lau sạch và đổi mới trái tim và cả cuộc sống của tất cả những ai hấp thụ Lời Chúa trong tinh thần đức tin.[20] 

 

Đang khi hôn Sách Tin Mừng, phó tế/linh mục hôn sách đọc thầm: “Nhờ những lời Tin Mừng vừa đọc, xin Chúa xóa tội chúng con” (NTTL 16; QCSL 134, 175; BĐ 17). Câu này quy chiếu đến lời trong sách Ngôn sứ Isaia: “Một trong các thần Xê-ra-phim bay về phía tôi, tay cầm một hòn than hồng người đã dùng cặp mà gắp từ trên bàn thờ. Người đưa hòn than ấy chạm vào miệng tôi và nói: “Đây, cái này đã chạm đến môi ngươi, ngươi đã được tha lỗi và xá tội” (Is 6,1-9). Câu này cũng liên hệ đến đoạn Tin Mừng theo thánh Gioan: “Thật, tôi bảo thật các ông: ai nghe lời tôi và tin vào Đấng đã sai tôi, thì có sự sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống” (Ga 5,24). Đây là một trong số nhiều lời nguyện riêng để linh mục dâng lên trong Thánh lễ, vừa xin ơn tha thứ vừa nhằm diễn tả quyền năng cứu độ của Lời Chúa (QCSL 33)[21] vì việc công bố Tin Mừng không phải là một sự mô tả về ơn cứu độ nhưng là một biến cố cứu độ ở đây và bây giờ cho chúng ta; chúng ta đang trải nghiệm ơn cứu độ ấy mỗi khi lắng nghe/công bố Tin Mừng trong Thánh lễ.[22]

 

IV/ ĐỀ NGHỊ MỤC VỤ

1) Công bố Tin Mừng thuộc nhiệm vụ của người có chức thánh, nhưng phải theo thứ tự ưu tiên sau: phó tế – vị đồng tế – chủ tế; nếu phó tế không hiện diện, một linh mục đồng tế mới công bố Tin Mừng; chỉ trong trường hợp vắng mặt cả phó tế lẫn linh mục đồng tế, chủ tế mới đọc Tin Mừng (x. QCSL 59, 94, 175; BTCĐ 63).

 

2) Khi linh mục/phó tế công bố Tin Mừng, (i) những người giúp lễ mang nến (nếu có) đứng đối diện nhau ở hai bên giảng đài nhưng không được cản trở tầm nhìn của dân chúng hướng về đây (x. QCSL 309);[23] (ii) người cầm bình hương (nếu có) đứng lui ra sau một chút bên phải của linh mục/phó tế, có thể nhẹ nhàng đung đưa bình hương [qua bên trái và bên phải] cho tỏa khói hương như dấu chỉ của lòng cung kính đối với Lời Chúa;[24] (iii) mọi người hướng về giảng đài để tỏ lòng đặc biệt tôn kính Tin Mừng Chúa Kitô (x. QCSL 133, 29, 309; LNGM 74, 141).[25]

 

3) Mọi tín hữu phải kính cẩn lắng nghe các Bài đọc Lời Chúa vì thế không được chia vai khi đọc Tin Mừng [và các Bài đọc Sách Thánh], cũng không được cùng đọc Tin Mừng chung với thừa tác viên công bố Tin Mừng (x. Bộ Giáo Luật [BGL], số 762; Huấn thị Bí tích Cứu độ [BTCĐ], số 63; QCSL 29, 59) trừ Bài Thương khó trong Tuần Thánh (x. QCSL 109).[26]

 

4) Vào những dịp lễ trọng hay Chúa nhật, có thể hát Bài Tin Mừng nhằm nhấn mạnh tầm quan trọng của Tin Mừng trong Thánh lễ. Tuy nhiên, việc ca hát phải làm nổi bật ý nghĩa lời Chúa, đừng làm lu mờ những lời ấy” (BĐ 14). Nếu không hát chính Bài Tin Mừng, thì các lời trước và sau Bài Tin Mừng [như “Chúa ở cùng anh chị em”, “Bài trích Phúc Âm theo thánh…”, “Đó là Lời Chúa”] nên được hát. Đây là cách vừa làm nổi bật tầm quan trọng của bài Tin Mừng vừa khơi động đức tin của những người đang lắng nghe (x. QCSL 40; BĐ 17; MVTN 157-158).[27]

 

5) Linh mục/phó tế mở sách rồi chắp tay đọc: “Chúa ở cùng anh chị em” chứ không dang tay ra rồi chắp lại, bởi vì hành động công bố Tin Mừng không thuộc về chức năng/vai trò của chủ tế mà là chức năng của phó tế. Xét như nhân vật đứng đầu cộng đoàn, chủ tế thường chào cộng đoàn với tay dang ra rồi chắp lại. Nhưng phó tế thi hành chức năng thừa tác của mình trong Thánh lễ sẽ không được dang tay rồi khép tay lại khi chào như chủ tế. Bởi vậy lúc này, linh mục đồng tế/chủ tế đang đảm nhận nhiệm vụ/chức năng công bố Tin Mừng của phó tế nên cũng không dang tay và khép tay lại trong lời chào. Lời chào “Chúa ở cùng anh chị em” ở đây là nhằm chuẩn bị người nghe trước khoản khắc mới của việc gặp gỡ Chúa Phục Sinh (x. NTTL 15; QCSL 59, 134, 175; LNGM 141; BĐ 65).[28]

 

6) Linh mục/phó tế xướng câu “Đó là Lời Chúa” (x. NTTL 16; QCSL 134, 175; BĐ 17) nhưng không giơ cao Sách Thánh lên, vì câu “Đó là Lời Chúa” trước tiên quy chiếu đến bản văn vừa được công bố chứ không phải đến cuốn sách chứa đựng bản văn.[29] Việc giơ cao này là nhầm lẫn vì có thể lôi kéo sự chú ý của các tín hữu vào đối tượng là cuốn sách chứ không vào Lời vừa được công bố và như vậy sẽ gây tổn hại cho Lời Chúa được mọi người trong cộng đoàn tiếp nhận vào tâm hồn họ.[30]

 

7) Trong những Thánh lễ long trọng (in more solemn celebrations) do đức giám mục chủ sự, khi công bố Tin Mừng xong, phó tế/linh mục đưa Sách Tin Mừng cho đức giám mục hôn (LNGM 74, 141). Ngài sẽ dùng Sách Tin Mừng này để ghi dấu thánh giá ban phép lành cho dân chúng (LNGM 175; Verbum Domini, các số 56&53).[31] Nếu không đưa Sách Tin Mừng cho đức giám mục hôn, chính phó tế/linh mục vừa hôn sách vừa đọc thầm: “Nhờ những Lời Tin Mừng vừa đọc, xin Chúa xóa tội chúng con” (x. NTTL 16; QCSL 134, 175; LNGM 74, 141). Sau đó, Sách Tin Mừng được mang để ở bàn phụ hoặc một nơi nào khác thích hợp và xứng đáng (x. QCSL 175; LNGM 141).[32]

 

8) Nếu trong tuần có ngày lễ đặc biệt (lễ trọng/lễ kính) thì phải công bố Bài Tin Mừng của ngày lễ đó thay thế cho Bài Tin Mừng trong tuần.[33] Tuy nhiên, để tín hữu có thể lắng nghe toàn vẹn Tin Mừng của tuần lễ đó theo cách thức “đọc liên tục” (lectio continua), nên công bố Bài Tin Mừng vốn không được đọc trong ngày lễ đặc biệt vào hôm trước hoặc là hôm sau của ngày lễ mừng bằng cách gộp đọc hai Bài Tin Mừng của hai ngày thành một.[34]

 

 


[1] PL 4:319, trích lại trong Paul Turner, At the Supper of the Lamb (Chicago: Liturgy Training Publications, 2011), 35.

[2] PG 67:1477-1478, trích lại trong Paul Turner, At the Supper of the Lamb, 35; x. Josef A. Jungmann, SJ, The Mass: A Historical, theological & Pastoral Survey, trans. Julian Fernamdes (Collegeville: The Liturgical Press, 1976), 176-77.

[3] Johannes H. Emminghaus, The Eucharist: Essence, Form, Celebration (Collegeville: The Liturgical Press, 1997), 146; Joseph A. Jungmann, SJ, The Mass of the Roman Rite: Its Origins and Development (Missarum Sollemnia), vol. 1, trans. Francis A. Brunner (New York : Benziger Brothers, 1951), 446.

[4] X. Jungmann, The Mass of the Roman Rite, 448.

[5] Ordo Romanus V:38, trích lại trong Paul Turner, At the Supper of the Lamb, 37.

[6] X. Jungmann, The Mass of the Roman Rite, 450.

[7] Lawrence J. Johnson, The Mystery of Faith: A Study of the Structural Elements of the Order of the Mass (Washington DC:  FDLC, NE, 2003)41.

[8] X. Jungmann, The Mass of the Roman Rite, 452; Johannes H. Emminghaus, 147.

[9] Johnson, The Mystery of Faith, 41.

[10] Paul Turner, At the Supper of the Lamb, 35-37.

[11]  X. Phạm Đình Ái, Cử Hành Hy lễ Tạ ơn (Sài Gòn: Học Viện Dòng Thánh Thể, 2013), 138.

[12] Adoft Adam, Eucharistic Celebration: The Source and Summit of Faith, trans. Robert C. Schultz (Collegeville: A Pueblo Book/The Liturgical Press,1994), 41-42.

[13] X. Edward Sri, A Biblical Walk through the Mass (Pennsylvania: Ascenion Press, 2011), 67.

[14] X. Phan Tấn Thành, Cử hành Bí tích Tình yêu (Sài Gòn: Học Viện Đaminh, 2012), 162. 

[15] Vũ Thái Hòa, 40 câu hỏi về Thánh lễ, 27; Le Gall, La Mess au fil de ses rites (Chambray: C.L.D, 1992)83-84.

[16] Jeffrey Pinyan, Praying the Mass, 3rd ed. (2011), 64-65.

[17] X. Edward McNamara, “Gestures at the Gospel” (26 Aug. 2014), acc. 04/11/2023, https://www.ewtn.com/catholicism/library/gestures-at-the-gospel-4735.

[18] Phan Tấn Thành, Cử hành Bí tích Tình yêu, 162. 

[19] Jean Yves Garneau, SSS, Discovering the Eucharist, trans. Conrad Goulet, SSS (Makati: St. Paul Publications, 1991), 69-70.

[20] John D. Laurance (ed.), The Sacrment of the Eucharist (Collegeville: The Liturgical Press, 2012), 137.

[21] Adoft Adam, Eucharistic Celebration: The Source and Summit of Faith, 43.

[22] X. Elliott, Ceremonies of the Modern Roman Rite (San Francisco: Ignatius Press, 2004)no. 263; Irwin, Responses to 101 Questions on the Mass (New York/Mahwah: Paulist Press, 1999)66-67.

[23] Paul Turner, Let Us Pray: A Guide to the Rubrics of Sunday Mass (Collegeville: The Liturgical Press, 2012), no. 340.

[24] X. André Mutel et Peter Freeman, Cérémonial de la sainte Messe à l'usage ordinaire des paroisses: suivant le missel romain de 2002 et la pratique léguée du rit romain, 2nd ed. (Perpignan: Editions Artège, 2012)104; DeGrocco, A Pastoral Commentary on the General Instruction of the Roman Missal (Chicago: Liturgy Training Publication, 2011), no. 134.

[25] Elliott, Ceremonies of the Modern Roman Rite, no. 388.

[26] X. ĐGH Biển Đức XVI, Sacramentum caritatis, số 53; Thánh Bộ Giáo sĩ và các Thánh Bộ khác của Giáo triều; Huấn Thị Ecclesiae de mysterio (15/08/1997): AAS 89 (1997), 852-877.

[27] X. McNamara, “Singing the Gospel” (16 April 2013 & 5 July 2013), https://www.ewtn.com/catholicism/library/singing-the-gospel-4675.

[28] X. McNamara, “Deacons Praying with Extended Hands” (14 Feb. 2017), https://www.ewtn.com/catholicism/library/deacons-praying-with-extended-hands-4839; DeGrocco, A Pastoral Commentary on the General Instruction of the Roman Missal, no. 134; Turner, Let Us Pray, no. 345; Denis Gill, “Ars Celebrandi, Part 4: Handing Out Blessings Left and Right” (Oct. 25, 2018), https://adoremus.org/2018/10/ars-celebrandi-part-4-handing-out-blessings-left-and-right/.

[29] X. McNamara, “Words after the Gospel” (21 Oct. 2003), https://www.ewtn.com/catholicism/library/words-after-the-gospel-4971.

[30] Dennis C. Smolarski, Q & A: The Mass, 82.

[31] X. Marco Benini, “The Blessing with the Book of the Gospels: A Recent Adoption from the Byzantine to the Roman Rite,” trong Antiphon: A Journal for Liturgical Renewal, volume 24, Number 1 (2020): 50-66.

[32] X. Elliott, Ceremonies of the Modern Roman Rite, no. 390.

[33] Bộ Phụng Tự, Những Quy luật Tổng quát về Năm Phụng vụ và Lịch chung Rôma 1969, số 16c.

[34] Irwin, Responses to 101 Questions on the Mass, 58-59. 

 

Bài cùng chuyên mục:

Danh sách các Thánh Tử Đạo Việt Nam xếp theo ngày lễ (29/06/2028 11:30:38 - Xem: 2,226)

Tại Việt Nam, có nhiều kitô hữu đã hy sinh mạng sống làm chứng cho Tin Mừng và đức tin. Có 117 vị đã được Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II phong thánh ngày 19.6.1988, gồm

Thánh Giuđitha Prusia (04/05/2024 07:23:07 - Xem: 3,739)

Thánh Giuđitha Prusia sống vào thế kỷ thứ mười ba. Ngài được sinh tại Turingia (ngày nay vùng này thuộc Trung Đức). Giuđitha muốn bắt chước mẫu gương của thánh nữ Êlizabeth Hungari.

Thánh Peregrine (1265-1345) (03/05/2024 07:52:08 - Xem: 3,082)

Thánh Peregrine sinh ở Forli, nước Ý, và là quan thầy của những người bị đau khổ vì bệnh ung thư, bệnh AIDS (SIDA) và các căn bệnh trầm trọng khác.

Thánh GIACÔBÊ và PHILIPPHÊ Tông Đồ (Thế kỷ thứ I) (02/05/2024 07:29:38 - Xem: 9,394)

Giáo hội tôn kính hai vị tông đồ này trong cùng một ngày, vì vào thế kỷ thứ V, xác các thánh được đưa về Rôma với nhau và đặt ở đền thờ các thánh tông đồ.

Thánh Giuse NGUYỄN VĂN LỰU, Trùm họ (1790 -1854) (01/05/2024 07:52:13 - Xem: 4,477)

Chào đời năm 1790 tại họ Cái Nhum, tỉnh Vĩnh Long. Ngay từ thời niên thiếu, cậu Giuse Nguyễn Văn Lựu đã được hấp thụ một nền giáo dục gia đình Công Giáo đạo đức.

Thánh Piô V, Giáo hoàng, (ngày 30/4) (29/04/2024 07:50:01 - Xem: 2,006)

Thánh Piô V sinh ngày 17 tháng 01 năm 1504 tại làng Bosco( xứ Piémont) Alêsan, thánh nhân có tên thật là Ghiliêri. Được sinh ra trong một gia đình không khá giả, chỉ đủ ăn,

Thánh Catarina Xiêna, trinh nữ, tiến sĩ Hội Thánh, (ngày 29/4) (28/04/2024 07:47:10 - Xem: 2,269)

Thánh nữ Catarina chào đời năm 1347 trong một gia đạo đức và thế giá. Ngay từ lúc còn nhỏ, Catarina đã được hưởng một nền giáo dục hết sức nhân bản và đạo đức của gia đình:

Thánh Mác-cô, tác giả sách Tin Mừng, (ngày 25/4) (24/04/2024 07:36:19 - Xem: 2,076)

Thánh Mác-cô là một trong bốn tác giả đã ghi lại cuộc đời của Chúa Giêsu. Bốn thánh sử viết Tin Mừng của Chúa Giêsu là Matthêu, Máccô, Luca và Gioan.

Đôi nét về Chúa nhật Lòng Chúa Thương Xót (23/04/2024 06:17:22 - Xem: 2,147)

Nhưng chính xác thì Lòng Chúa Thương Xót là gì? Sự sùng kính Lòng Chúa Thương Xót này bắt đầu từ đâu?

Thánh Anselmô, Giám mục, tiến sĩ Hội Thánh, (ngày 21/4) (20/04/2024 08:34:01 - Xem: 1,754)

Thánh Anselmô sinh tại Aoste, một thành phố nhỏ nằm trên ranh giới xứ Piémont và Thụy Sĩ. Người xuất thân trong một gia đình quí tộc, danh tiếng và giầu có.

Bài viết mới
Câu chuyện chiều thứ 7