Suy niệm tin mừng chúa nhật

CÁC BÀI SUY NIỆM LỄ MÂN CÔI

  • In trang này
  • Lượt xem: 2,525
  • Ngày đăng: 26/09/2022 10:37:13

 

Lễ ĐỨC MẸ MÂN CÔI

  1. Đức Chúa ở cùng Bà

Suy Niệm

Con người hôm nay mệt mỏi, lo âu, căng thẳng, vội vã. Chuỗi Mân Côi làm lòng ta lắng xuống, thanh thản bình an để chiêm ngắm cuộc đời Chúa Giêsu và ca ngợi Mẹ.

Kính Mừng Maria đầy ơn phúc.

Đây là lời sứ thần chào Mẹ lúc truyền tin, lời mời Mẹ vui lên vì ơn cứu độ nay đã đến.

Mẹ đầy ơn phúc vì được Thiên Chúa đặc biệt yêu thương. Tình thương Chúa chở che Mẹ ngay từ lúc chưa chào đời, và tình thương ấy còn bao bọc Mẹ mãi mãi.

Mẹ được tuyển chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế, nên Mẹ được giữ gìn khỏi vết nhơ nguyên tội.

Chúng ta được dự phần vào niềm vui và ân phúc của Mẹ vì chúng ta cũng được Thiên Chúa tuyển chọn, yêu thương được tẩy xóa nguyên tội để trở nên thụ tạo mới.

Đức Chúa Trời ở cùng Bà.

Trong Cựu Ước, có bao người được Thiên Chúa ở cùng, để rồi được Ngài sai đi phục vụ Dân Chúa. Nhưng Thiên Chúa ở cùng Mẹ một cách độc nhất vô nhị.

Khi được đầy tràn Thánh Thần và cưu mang Ngôi Lời, Mẹ trở nên như Hòm Bia, như Đền Thánh, nơi vinh quang Thiên Chúa hiện diện giữa con người.

Nhiều lần trong mỗi Thánh Lễ, vị linh mục chúc chúng ta: Chúa ở cùng anh chị em.

Kitô hữu là người có Đức Kitô ở cùng và được mời gọi đem Ngài đến cho thế giới.

Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ.

Đó là lời bà Êlisabét ca ngợi Mẹ (Lc 1, 42) vì chỉ mình Mẹ được diễm phúc sinh hạ Đấng Mêsia. Mẹ đã cưu mang Người và cho Người bú mớm (Lc 11, 27).

Nhưng sau đó bà Êlisabét còn ca ngợi Mẹ có phúc vì đã tin Chúa sẽ thực hiện điều Ngài nói với Mẹ (Lc 1, 45).

Tin là dám buông đời mình trong tay Chúa và để Ngài dẫn đi trong đêm tối của lòng tin.

Mọi tín hữu đều được mời sống hành trình đức tin như Mẹ, để được cùng Mẹ chung hưởng hạnh phúc: “Phúc cho ai không thấy mà tin” (Ga 20, 29)

Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời.

Chỉ Thiên Chúa là Đấng Thánh và là nguồn mọi sự thánh thiện.

Mẹ được chia sẻ sự thánh thiện ấy cách tuyệt vời, vì Mẹ được chọn làm Mẹ Đức Giêsu, Mẹ Thiên Chúa, và vì chẳng ai thực thi ý Chúa trọn vẹn như Mẹ.

Chúng ta chẳng được diễm phúc sinh ra Đức Giêsu, nhưng chính Ngài lại mời gọi ta làm mẹ của Ngài: “Mẹ tôi và anh em tôi là những ai nghe Lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 8,21).

Khi thực thi Lời Chúa trong cuộc sống, chúng ta sinh Đức Giêsu cho nhân loại hôm nay. Ngài vẫn cần những người mẹ để có mặt đến tận thế.

Chẳng có gì Đức Maria được hưởng cách viên mãn, mà Hội Thánh và từng người lại không được dự phần.

Xin Mẹ cầu cho ta khi này và trong giờ lâm tử.

Gợi Ý Chia Sẻ

Bạn có khi nào lần chuỗi không? Bạn có biết lần chuỗi không? Bạn có thấy lần chuỗi là một cách cầu nguyện nhẹ nhàng và lắng đọng không?

Bạn nghĩ gì về Đức Mẹ? Đức Mẹ có phải là Đấng ở trên cao và xa lạ với bạn, hay là Đấng rất gần bạn trong cuộc sống đức tin?

Cầu Nguyện

Lạy Mẹ Maria, khi đọc Phúc Âm, lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.

Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giêsu. Mẹ đưa con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ. Mẹ tìm con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana. Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng. Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.

Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong, từ con người hay từ Thiên Chúa.

Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu trong mọi bước đường của cuộc sống. Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa. Có những con đường đầy máu và nước mắt.

Xin Mẹ dạy chúng con đừng sợ lên đường mỗi ngày, đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly.

Xin giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa.

 

  1. Tôi là nữ tỳ của Chúa

Suy Niệm

Nhân vật chủ yếu mà thánh Luca muốn trình bày trong bài Tin Mừng trên đây là chính Đức Giêsu. Ngài là Con Đấng Tối Cao, là Vua Mêsia (c.32-33). Ngài là Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa (c.35). Thiên Chúa muốn Con Ngài vào đời làm người, nên đã chuẩn bị cho Con một người mẹ tuyệt hảo. Maria là người được Thiên Chúa đặc biệt mến thương. Thiên thần gọi cô là Đấng đầy ân sủng, là người được Đức Chúa ở cùng (c.28), là người đẹp lòng Thiên Chúa (c.30). Maria đã là một thụ tạo tuyệt vời ngay từ trước khi làm mẹ Đức Giêsu. Nhưng Thiên Chúa vẫn tôn trọng tự do của cô Maria. Ngài cần sự ưng thuận của một thụ tạo nhỏ bé trước khi trao cho Maria chức vụ làm Mẹ Đấng Cứu Thế. “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên cô và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên cô” (c.35). Maria hẳn đã phải suy nghĩ trước khi chấp nhận làm mẹ theo một cách thức lạ lùng đến thế.

Lời mời gọi nào của Thiên Chúa cũng gây xáo trộn những dự định và tính toán riêng tư. Nếu Maria đã khấn sống khiết tịnh, thì nay Thiên Chúa lại muốn cô làm mẹ và sinh con. Nếu Maria đã muốn sống bậc hôn nhân một cách bình thường với ông Giuse, thì nay Thiên Chúa lại muốn cô có một người con, không phải với Giuse, và tương quan giữa cô với Giuse hẳn phải thay đổi.

Maria không hiểu hết con đường mình sắp đi. Có biết bao trắc trở, khó khăn, mờ tối. Nhưng cô tin vào Thiên Chúa đang mời gọi. Cô buông mình để tay Chúa dẫn đưa, vì xác tín rằng chẳng có gì Ngài không làm được. Maria đã xin vâng trong niềm tin yêu phó thác. Tiếng xin vâng này mở đầu cho một chuỗi xin vâng làm nên cuộc đời người nữ tỳ của Chúa.

Lắm khi chúng ta thấy Đức Maria quá cao xa vì tràn đầy những ơn chúng ta không hề có. Chúng ta quên rằng Mẹ cũng là một tín hữu bước những bước gập ghềnh qua sa mạc cuộc đời. Nói tiếng xin vâng khi mọi sự dường như sụp đổ, chuyện đó cần đến lòng tin. “Phúc cho em là kẻ đã tin...” (Lc 1,45).

Tiếng xin vâng khó khăn nhất của Mẹ Maria là tiếng xin vâng dưới chân thập giá. Những lời thiên thần nói ngày xưa có còn đáng tin không? Chỉ khi Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra với Mẹ tất cả những tiếng xin vâng trong đời mới bừng sáng trọn vẹn và rực rỡ ý nghĩa.

Chúng ta có dám liều xin vâng như Mẹ không?

Gợi Ý Chia Sẻ

Thiên Chúa đã nói với Đức Maria qua vị thiên sứ. Còn bạn, có khi nào Chúa nói với bạn và mời bạn cộng tác không? Bạn có khi nào nghe Chúa nói qua giờ cầu nguyện, qua một người hay một biến cố trong cuộc sống không?

Để xin vâng, cần phải tin. Để tin, cần phải liều. Có khi nào bạn dám bỏ mọi chỗ dựa nơi người đời để dựa vào Chúa không?

Cầu Nguyện

Lạy Mẹ Maria, khi đọc Phúc Âm, lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.

Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giêsu. Mẹ đưa Con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ. Mẹ tìm Con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana. Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng. Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.

Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong, từ con người hay từ Thiên Chúa.

Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu trong mọi bước đường của cuộc sống.

Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa. Có những con đường đầy máu và nước mắt.

Xin Mẹ dạy chúng con đừng sợ lên đường mỗi ngày, đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly. Xin giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa.

 

  1. Kinh Mân Côi, Lời Kinh Kỳ Diệu

(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)

Tin Mừng Lc 1: 26-38 Hôm nay, Giáo Hội mừng kính Đức Mẹ dưới tước hiệu Mân Côi, mỗi người chúng ta hãy khám phá ra: “Chuỗi Mân côi là lời kinh tuyệt diệu, tuyệt diệu trong đơn sơ và trong sâu thẳm của nó…”

Người Việt Nam ta từ xưa tới nay và chắc chắn về sau, lòng tôn sùng Đức Mẹ Maria luôn là một điểm sáng. Điều này hiển nhiên tại các gia đình, đền đài, nhà thờ, dòng tu và những trung tâm hành hương tôn kính Đức Mẹ đây đó.

Như vậy, tràng hạt Mân Côi chính là một vật bất ly thân của chúng ta, bởi vì qua lời kinh Mân Côi, người Kitô hữu đang cùng với Mẹ theo sát Chúa Giêsu trên các chặng đường cứu chuộc. Hơn nữa, khi đọc kinh Mân Côi với tâm tình của Đức Mẹ, ấy là lúc chúng ta cùng với Mẹ suy đi và nghĩ lại trong lòng tất cả mọi biến cố vui buồn, sướng khổ, thành công hay thất bại dưới cái nhìn ân sủng và giá trị cứu chuộc.

1. Lợi ích của việc lần Chuỗi Mân Côi

Nói đến Chuỗi Mân Côi, người ta thường hay nhớ đến những ơn lạ tình thương do lòng thương xót Thiên Chúa ban qua lời chuyển cầu của Mẹ Maria.

Những ơn đó ta có thể liệt kê ra đây như một dấu tích từ ái của Mẹ dành cho con cái như: những ơn chữa lành bệnh tật, tai qua nạn khỏi, làm ăn phát đạt, gia đình hạnh phúc, con cái thảo hiền. Nhưng có lẽ ơn mà nhiều người được hơn cả, đó là ơn hoán cải đời sống, trở về với Chúa.

Như vậy, cuộc đời của người Kitô hữu luôn gắn bó với Mẹ Maria cách mật thiết, khăng khít và nhiệm mầu.

Điều này đã được chứng minh cách cụ thể nơi tổ tiên chúng ta!

Nhớ lại biến cố Lavang, Trà Kiệu... Những nơi này, khi xưa, cha ông chúng ta đã phải hứng chịu biết bao gian lao khốn đốn do nạn bắt đạo gắt gao của các vua chúa quan quyền. Đời sống đạo của các ngài luôn bị đe dọa. Giữa cơn cuồng phong bão táp, các ngài đã phải trốn chạy vào những nơi rừng thiêng nước độc hay dồn nén trong nhà thờ... Lúc này, cha ông chúng ta chỉ biết cậy trông lòng thương xót của Thiên Chúa qua trung gian Mẹ Maria. Vì thế, trên tay không rời Chuỗi Mân Côi, cửa miệng không ngừng vang lên kinh Kính Mừng, tâm hồn hoàn toàn phó thác, cậy trông Mẹ thương cứu giúp... Cuối cùng, Mẹ đã hiện ra để an ủi, củng cố lòng tin, bảo vệ con cái và hứa sẽ nâng đỡ cho khỏi ngàn nỗi hiểm nguy.

Nhìn ra thế giới, chúng ta cũng thấy Đức Mẹ đã nhiều lần can thiệp để Giáo Hội được bình an, trong đó phải kể đến những sự kiện lớn như:

Vào thế kỷ 13, tại niềm Nam nước Pháp, có bè rối Albigeois nổi lên chống đối Giáo Hội. Thấy được mối nguy cơ khó giải này, nên thánh Đaminh đã phát động chiến dịch lần Chuỗi Mân Côi, cuối cùng, Đức Mẹ đã đưa được những tâm hồn ngông cuồng này trở về với Giáo Hội.

Tiếp đến, vào năm 1571, lúc ấy, Giáo Hội đang bị quân Hồi Giáo đe dọa tiêu diệt. Họ đang sôi sục tiến về Rôma với mục đích bắt Đức Giáo Hoàng Piô V, và tham vọng san bình địa đền đài và biến thủ đô của Giáo Hội trở thành trung tâm của Hồi Giáo.

Họ sẵn sàng chém giết, bắt bớ tất cả những ai chống đối. Thời điểm này, họ rất thuận lợi khi hướng gió và mặt trời luôn ở phía sau họ, khiến cho việc tiến về thành đô Rôma rất thuận lợi.

Khi nghe tin dữ này, Đức Giáo Hoàng rất bình tĩnh, ngài đã xin ơn soi sáng và phát động chiến dịch lần Chuỗi Mân Côi để phó thác mọi sự cho Đức Mẹ. Quả thật, Mẹ đã cứu Giáo Hội một cách nhiệm mầu! Bởi vì quân Hồi Giáo là một quân hùng hậu, vũ khí tối tân, họ đứng về phía chủ động và đang gặp thuận lợi về nhiều mặt. Người Công Giáo thì ít ỏi, thô sơ... Nhưng nhờ sự can thiệp của Đức Mẹ, vì thế, nếu trước đó họ rất thuận lợi bởi hướng gió, nhưng chẳng bao lâu, họ đã bị chính hướng gió xoay chiều đổi hướng liên tục, khiến các con tàu của chúng đâm vào nhau và phá vỡ chiến trận.

Chẳng mấy chốc, tin thắng trận của người Công Giáo đã đến Rôma, Đức Giáo Hoàng đã tuyên bố, đây là hồng ân phép lạ do lời chuyển cầu của Mẹ Maria. Hôm đó rơi vào đúng ngày 07/10. Vì thế, ngày lễ Đức Mẹ Mân Côi được thiết lập để tạ ơn Đức Mẹ.

Có thể nói rằng: trải qua dòng thời gian, đã nhiều lúc Giáo Hội đến bến bờ vực thẳm do lòng đạo đức xuống dốc, suy thoái hoặc bị kẻ thù đe dọa. Trong những thời điểm quan trọng đó, để cứu vãn tình thế, Đức Mẹ đã hiện ra nơi này nơi kia để ban cho nhân loại sứ điệp nhằm đưa lịch sử sang trang. Trong các lần đó, không nơi nào Mẹ đặt chân đến mà không mời gọi con cái siêng năng lần Chuỗi Mân Côi để đón nhận được nhiều ơn lành của Thiên Chúa. Như vậy, kinh Chuỗi Mân Côi là một kinh rất có giá trị trước tòa Chúa và Mẹ Maria.

2. Giá trị và ý nghĩa của kinh Mân Côi

Tại sao Kinh Mân Côi lại có hiệu lực đến như vậy?

Thưa, rất đơn giản, bởi vì qua lời kinh Kính Mừng, chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội lặp lại lời Sứ Thần ca tụng, tôn vinh và chân nhận uy quyền của Mẹ.

Nhưng có lẽ điều đặc biệt hơn cả khi lần Chuỗi Mân Côi, đó là: chúng ta suy đi nghĩ lại trong lòng mọi biến cố nơi cuộc đời của Chúa Giêsu như Mẹ, đồng thời dõi bước theo Mẹ và cùng Mẹ bước đi trên các chặng đường cứu chuộc của Chúa Giêsu.

Thật vậy, khởi đi từ làng quê Nazareth, chúng ta cùng với Mẹ vui mừng tạ ơn Chúa đã đoái thương đến Mẹ và nhân loại khi chọn Mẹ làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Vì thế, Mẹ sẵn sàng chia sẻ niềm vui cứu độ cho mọi người qua trung gian người chị họ. Niềm vui ấy trở nên tuyệt đỉnh khi Mẹ sinh hạ Con Thiên Chúa.

Sau thời gian Mẹ - Con cùng chung mái nhà, giờ đây, Con của Mẹ ra đi thi hành sứ vụ Chúa Cha trao phó, Mẹ đã âm thầm theo sát Con Yêu như một người môn đệ trung tín. Những lúc vui, thành công, Mẹ luôn luôn âm thầm. Nhưng những khi Con Mẹ bị chống đối, vu vạ, cáo gian, Mẹ đã tìm đến để dõi theo, an ủi, động viên...

Có thể nói, từ làng quê Nazareth đến đỉnh đồi Canvê, Mẹ luôn luôn đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu, khi thì trực tiếp, khi thì gián tiếp cách nhiệm mầu. Chính vì thế, Mẹ xứng đáng được Chúa Giêsu ban tặng niềm vui Phục Sinh cùng với các môn đệ trong nhà Tiệc Ly. Sau cuộc đời tại thế, Thiên Chúa đã ban cho Mẹ hồng ân trổi vượt muôn loài, đó là cho Mẹ được diễm phúc thăng thiên cả hồn lẫn xác. Cuối cùng, Thiên Chúa đã tôn phong Mẹ làm Nữ Hoàng Thiên Quốc bên tòa Chúa uy linh.

Như vậy, có thể nói: khi chúng ta lần Chuỗi Mân Côi với trọn lòng mến, chúng ta đã cùng với Mẹ sống Tin Mừng của Con Mẹ cách sống động nhất.

3. Sống sứ điệp Ngày lễ

Hôm nay, Giáo Hội mừng kính Đức Mẹ dưới tước hiệu Mân Côi, mỗi người chúng ta hãy khám phá ra: “Chuỗi Mân côi là lời kinh tuyệt diệu, tuyệt diệu trong đơn sơ và trong sâu thẳm của nó…” (thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II).

Hơn nữa, chúng ta hãy nhớ lại lời Đức Giáo Hoàng Piô X khuyên nhủ: “Khi gia đình không được an vui hoà thuận, hãy lần Chuỗi Mân Côi để xin Mẹ ban cho sự an vui hoà thuận yêu thương. Khi gặp người chồng thiếu trách nhiệm, hãy chạy đến với Mẹ nhờ tràng Chuỗi Mân Côi, để xin Mẹ cảm hoá. Khi vợ chồng xung khắc nhau, hãy lần Chuỗi Mân Côi, xin Mẹ tạo sự cảm thông”. Ngài nói thêm: “Nếu các con muốn cho gia đình được bình an, thì hãy lần hạt mỗi buổi tối”.

Thật vậy, kinh Mân Côi là một vũ khí sắc bén để chống lại ma quỷ. Là liều thuốc hòa bình cho những ai bất an. Là nguồn nâng đỡ cho những ai yếu đuối. Là niềm hy vọng cho những người tội lỗi. Là ngọn lửa mến cho những ai nguội lạnh. Là bảng chỉ đường, ngọn hải đăng cho những ai lạc lối.

Thấy được giá trị và ơn ích của Chuỗi Mân Côi, mỗi người chúng ta hãy siêng năng lần Chuỗi Mân Côi hằng ngày. Tuy nhiên, hãy đọc trong lòng mến chứ không phải đọc cho qua hay bị ép buộc. Đọc trong tâm tình của trẻ thơ phó thác và tin tưởng nơi Mẹ. Đọc trong tâm tình hiệp thông với Giáo Hội, và nhất là đọc trong tâm tình suy đi nghĩ lại trong lòng với chính Đức Mẹ.

Lạy Thiên Chúa là Cha toàn năng, chúng con tạ ơn Chúa đã ban cho Mẹ Maria những hồng ân đặc biệt, để Mẹ phân phát những ơn lành của Chúa cho nhân loại.

Xin Chúa cho chúng con biết vâng nghe lời Mẹ, để đáng được hưởng những ơn lành của Chúa ban qua Mẹ Maria. Amen.

 

  1. Mân côi

Hôm nay là ngày lễ kính Mẹ Mân Côi, tôi muốn chia sẻ một vài ý nghĩ đơn sơ về chuỗi tràng hạt của chúng ta.

Trước hết kinh Mân Côi là một việc đạo đức do chính Mẹ đã truyền dạy. Thực vậy, vào năm 1206, bè rối Albigeois nổi lên và trở thành một mối đe doạ cho Giáo Hội tại nước Pháp. Thánh Đaminh được sai đến để cảm hoá. Mặc dù đã cố gắng rất nhiều, nhưng vẫn thất bại, bè rối mỗi ngày một lan rộng. cuối cùng thánh Đaminh đã cầu xin với Đức Mẹ, và theo truyền thuyết thì chính Đức Mẹ đã hiêẹn ra, truyền dạy thánh Đaminh phép lần hạt Mân Côi. Nhờ kinh Mân Côi mà thánh Đaminh đã cảm hoá được những người theo bè rối, dẫn đưa họ trở về cùng Giáo Hội.

Tiếp đến kinh Mân Côi là một việc đạo đức có nội dung phong phú và cao cả. Đúng thế, xét về những lời kinh chúng ta đọc, thì kinh Lạy Cha là lời kinh do chính Chúa Giêsu đã truyền dạy, còn kinh Kính Mừng là lời kinh được rút tỉa từ lời chào kính của sứ thần Gabriel và của bà Elisabeth, tất cả đều xuất phát tự Kinh Thánh. Nhưng quan trọng hơn là về những mầu nhiệm suy gẫm. Đó là những biến cố trong cuộc đời của Chúa Giêsu có liên quan mật thiết với Mẹ Maria, trình bày cho chúng ta tất cả mầu nhiệm nhập thể và cứu độ mà Thiên Chúa đã vì yêu thương mà thực hiện cho chúng ta qua dòng thời gian. Đồng thời qua mỗi biến cố, qua mỗi sự kiện, chúng ta đều rút ra một nhân đức, một bài học cụ thể áp dụng vào đời sống thiêng liêng. Từ đó chúng ta có thể kết luận: Kinh Mân Côi chính là một bản tóm lược cuộc đời Chúa Giêsu, một bản đúc kết Tin Mừng Phúc Âm.

Sau cùng, kinh Mân Côi còn là một việc đạo đức được Mẹ ưu chuộng và được Giáo Hội khuyến khích. Thực vậy khi hiện ra tại Fatima, Mẹ đã truyền cho chúng ta ba mệnh lệnh đó là tôn sùng Trái Tim Mẹ, cải thiện đời sống, và lần hạt Mân Côi. Nếu suy nghĩ chúng ta sẽ nhận thấy việc lần hạt Mân Côi sẽ bao gồm cả hai mệnh lệnh kia, vì nhờ kinh Mân Côi chúng ta biểu lộ được lòng tôn sùng kính mến Mẹ cũng như tìm thấy được những tiêu chuẩn hướng dẫn cho việc đổi mới đời sống. Ngoài ra các Đức Giáo Hoàng không ngừng nhắc nhở chúng ta chu toàn việc đạo đức cao cả này. Đức Lêo XIII đã nói: Kinh Mân Côi phảng phất hương thơm và duyên dáng những cánh hồng, xứng đáng được dâng kính Đức Trinh Nữ Maria. Đức Piô X thì bảo: Nếu các con muốn cho gia đình mình được êm ấm và hạnh phúc, các con hãy lần hạt Mân Côi mỗi buổi tối trong giờ kinh gia đình. Đức Piô XII đã viết: Trong những lời kinh và những cách cầu nguyện tôn kính Mẹ Maria thì chuỗi Mân côi là một việc đạo đức cao cả nhất. Đức Thánh Cha Gioan XXIII thì bảo: Kinh Mân Côi là hơi thở của mọi tâm hồn. Sau cùng Đức Phaolô VI đã xác quyết: Kinh Mân Côi rất thích hợp với người tín hữu, đồng thời cũng rất làm cho Mẹ được hài lòng, hầu ban xuống cho chúng ta những ơn lành cần thiết.

Tuy nhiên điều Giáo Hội nhấn mạnh không phải chỉ là đọc kinh Mân Côi, mà còn là suy nghĩ và sống kinh Mân Côi, nhờ đó mà kinh Mân Côi tăng cường đức tin, nuôi dưỡng đời sống đạo đức và giúp chúng ta cải thiện đời sống. Thế nhưng chúng ta đã đọc, đã gẫm và đã sống kinh Mân Côi như thế nào? Phải chăng chúng ta cố đọc cho thật nhiều như một cái máy sản xuất ra những lời kinh, mà tâm tình thì lại trống rỗng, còn cuộc sống thì lại chìm ngập trong tội lỗi.

 

  1. Kinh Mân Côi – Lời kinh cuộc đời

(Lễ Mân Côi 2016 – ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên)

Trình thuật về cuộc gặp gỡ giữa Sứ thần Gabrien với Trinh nữ Maria trong Tin Mừng Thánh Luca đã trở thành điểm khởi đầu cho một chuỗi 20 mầu nhiệm Mân Côi, được chia ra bốn phần: Mùa Vui, Mùa Sáng, Mùa Thương và Mùa Mừng.

Với lời thưa “Xin vâng” của Trinh nữ Maria, Ngôi Lời đã nhập thể làm người và cư ngụ giữa nhân loại. Đây là khởi đầu của một cuộc sáng tạo mới. Cuộc sáng tạo thứ nhất đã bị hoen màu tội lỗi do sự bất tuân của Ađam và mọi thế hệ kế tiếp. Trong Đức Giêsu, Thiên Chúa sẽ canh tân mọi vật mọi loài. Khởi đi từ mầu nhiệm Truyền tin, Kinh Mân Côi dẫn chúng ta từng bước theo Đấng Cứu thế, chiêm ngưỡng và suy tư từng biến cố của cuộc đời Người. Từ thời thơ ấu của Chúa ở làng quê Nagiarét, đến tuổi trưởng thành, lên đường thực thi sứ vụ loan báo Tin Mừng. Từ lời giảng dạy đơn sơ mà đầy khôn ngoan đến những phép lạ kỳ diệu chứng minh quyền năng Thiên Chúa. Từ cuộc khổ hình thập giá đến sự phục sinh và lên trời vinh quang. Mỗi mầu nhiệm đều mời gọi chúng ta đón nhận những thông điệp Chúa muốn truyền đạt. Qua Kinh Mân Côi, dung nhan Chúa Giêsu được phác họa, giáo huấn của Người được chuyển tải và tình thương của Thiên Chúa được thể hiện.

Một nhân vật luôn hiện diện trong suốt hai mươi mầu nhiệm Mân Côi, đó là Trinh nữ Maria thành Nagiarét. Qua lời Sứ thần truyền tin, Đức Maria được Chúa mời gọi cộng tác với Ngài trong chương trình nhập thể và cứu độ con người. Trong mọi biến cố của cuộc đời Chúa Giêsu, Mẹ luôn diện hiện một cách âm thầm, khiêm tốn. Đó không phải là sự hiện diện thụ động, cam chịu, nhưng là sự đồng hành, cảm thông, cộng tác với Chúa Giêsu. Nếu mọi hành động của Chúa Giêsu đều có giá trị cứu rỗi nhân loại, thì Đức Mẹ là người cộng tác thiết thân gần gũi vào những hành động ấy. Vì vậy, Đức Mẹ được tuyên xưng là Đấng Đồng công cứu chuộc. Từ mầu nhiệm thứ nhất là Truyền tin, cho đến mầu nhiệm cuối cùng là việc Đức Mẹ được Chúa thưởng triều thiên vinh quang, chúng ta thấy chân dung và cuộc đời Đức Mẹ được phác họa một cách đầy đủ và sâu sắc. Đức Mẹ từng bước chiêm ngắm những giai đoạn khác nhau của cuộc đời Đấng Cứu thế, cũng là con của Mẹ. Mẹ gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu, đến nỗi ta có thể gọi Mẹ là người môn đệ đầu tiên và môn đệ trọn lành của Người. Thánh Luca đã viết: “Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (Lc 2,51). Đức Mẹ vui niềm vui của Chúa Giêsu, khi Người được người ta lắng nghe và ca ngợi tôn vinh. Đức Mẹ chia sẻ sự đau khổ của con mình, khi Người bị xúc phạm, sỉ nhục và nhất là khi Người chịu đóng đinh trên thập giá. Bốn giai đoạn Vui, Sáng, Thương, Mừng trong kinh Mân Côi, vừa phác họa cuộc đời Đấng Cứu thế, vừa diễn tả hành trình đức tin của Đức Mẹ. Hai mầu nhiệm cuối cùng, tức là sự chết lành của Đức Mẹ và việc Người được tôn vinh trên hết các triều thần thánh, là phần thưởng cho một đời trung kiên, đồng thời cộng tác với Chúa Giêsu để mang lại ơn cứu độ cho trần gian. Suy niệm mỗi mầu nhiệm Mân Côi, chúng ta đọc mười kinh “Kính Mừng”. Khi đọc kinh này, chúng ta cùng với Đức Mẹ chiêm ngưỡng và suy tư những biến cố được diễn tả trong Tin Mừng, đồng thời cầu xin cho chúng ta được những ơn cần thiết trong đời sống, để trở nên môn đệ đích thực của Chúa Giêsu.

Bốn mùa Vui-Sáng-Thương-Mừng của cuộc đời Chúa Cứu thế cũng phác họa những giai đoạn khác nhau của cuộc sống chúng ta. Lúc sinh ra khỏi lòng mẹ là ta khởi đầu cuộc sống trần gian. Thế rồi, từng bước ta lớn lên trưởng thành vào đời. Cuộc đời dạy ta những bài học sâu sắc. Có những lúc thành công, có những khi thất bại. Mỗi lần thất bại làm ta già dặn kinh nghiệm hơn. Chắng có ai sống trên đời này mà không gặp gian nan thử thách. Từ bậc quân vương vua chúa cho tới thảo dân nô lệ, ai ai cũng phải trải qua những thử thách đau thương để từng bước trưởng thành. Kinh Mân Côi giúp ta nhìn thấy chính hình ảnh mình qua cuộc đời Chúa Cứu thế. Kinh Mân Côi cũng khẳng định với chúng ta, Chúa Giêsu đang hiện diện trong cuộc đời này. Người chia vui sẻ buồn với chúng ta. Người nâng đỡ chúng ta trên mọi bước đường trần gian. Người lau khô giọt lệ nơi đôi mắt chúng ta và khích lệ chúng ta trỗi dậy kiên cường trước phong ba bão táp của cuộc đời. Nếu ngày xưa, Chúa đã chịu khổ hình để dạy chúng ta bài học khiêm nhường và để bày tỏ tình thương của Thiên Chúa, thì hôm nay, Người lại đang đau khổ nơi những mảnh đời bất hạnh. Người đồng hoá với những người bị bỏ rơi, bị gạt ra bên lề cuộc sống. Vì thế, khi giúp đỡ người nghèo là chúng ta giúp đỡ Chúa (x. Mt 25, 31-46).

Cỗ tràng hạt rất gần gũi thân thuộc với người tín hữu chúng ta. Tràng hạt không phải là một đơn vị đong đếm, nhưng là mối dây liên kết chúng ta với Đức Mẹ với anh chị em mình. Tràng hạt cũng là chuỗi hoa hồng thiêng liêng, kết lại để dâng kính Mẹ Thiên Chúa. Mỗi kinh Kính Mừng là một đoá hồng huyền nhiệm, thể hiện lòng yêu mến hiếu thảo và cậy trông của chúng ta. Truyền thống Giáo hội công nhận Thánh Đaminh là người đã cổ võ lần hạt Mân Côi theo lệnh truyền của Đức Mẹ để đem lại bình an hiệp nhất cho Giáo hội, trong bối cảnh có nhiều rạn nứt, chia rẽ. Thánh Đaminh cũng là người đầu tiên kết những bông hoa hồng làm thành tràng hạt dâng kính Đức Mẹ, vì thế, chuỗt hạt ngày nay chúng ta sử dụng, dù được làm bằng chất liệu gì, cũng được gọi là “Chuỗi Mân Côi”, có nghĩa là tràng hoa hồng.

Miệng đọc, trí suy, tay lần tràng hạt, Kinh Mân Côi đơn giản mà huyền diệu. Mỗi kinh Kính mừng, ta lần một hạt, như tiến một bước trên đường đời, giúp ta đến gần Chúa Giêsu hơn. Qua Kinh Mân Côi, chúng ta gửi gắm nơi Đức Mẹ niềm vui nỗi buồn của cuộc đời nhân thế. Những chuỗi hạt thiêng liêng nhân lên mãi trong cuộc đời chúng ta, kéo ơn từ trời xuống, giúp ta nên thánh. Ước chi mỗi người tín hữu cảm nhận dồi dào ân sủng Chúa ban qua Kinh Mân Côi, để cuộc đời chúng ta được biến đổi và nên hoàn thiện.

 

  1. Mẹ đầy ơn phúc – ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên

Ave Maria là lời chào của thiên sứ Gabrien khi đến gặp Đức Mẹ trong ngày truyền tin. Thiên sứ từ trời cao, xuống trần để gặp một phụ nữ khiêm hạ. Ave Maria vừa là lời chào, vừa là lời mời gọi hãy vui lên vì “Đức Chúa ở cùng Bà”.

Nhờ nhạc phẩm “Ave Maria”, tên tuổi của nhà soạn nhạc người Áo Franz Schubert được cả thế giới biết đến. Tuyệt tác của ông đã được dịch ra nhiều thứ tiếng. Nhiều danh ca nhờ bài thánh ca này mà được nổi danh ở tầm mức quốc tế. Thật tuyệt vời khi thấy Đức Trinh nữ Maria được ca tụng tôn vinh qua bài ca này. Từ những đại nhạc hội hàng ngàn hàng vạn thính giả, đến những nghệ sĩ violon hát rong ngoài đường phố, tất cả đều ca lên lời chào Đức Trinh nữ Maria: Mẹ đầy ơn phúc. Từ những tín hữu đạo đức đến những người vô tín ngưỡng, tất cả đều chăm chú cảm nhận những lời ca và âm điệu ngọt ngào của bài thánh ca để tôn vinh Mẹ Chúa Trời.

Ave Maria là lời chào của thiên sứ Gabrien khi đến gặp Đức Mẹ trong ngày truyền tin. Thiên sứ từ trời cao, xuống trần để gặp một phụ nữ khiêm hạ. Ave Maria vừa là lời chào, vừa là lời mời gọi hãy vui lên vì “Đức Chúa ở cùng Bà”. Qua lời chào kính trọng ấy, thiên sứ tỏ bày sự cung kính trước người phụ nữ được Chúa chọn làm thân mẫu của Ngôi Lời nhập thể. Khi muốn cứu chuộc con người, Thiên Chúa mời gọi sự cộng tác của một người phụ nữ. Ngài đã chọn Đức Trinh nữ Maria như một “điểm đỗ” để Con của Ngài giáng trần. Thánh Luca đã diễn tả cuộc gặp gỡ kỳ diệu ấy, là một cuộc gặp gỡ giữa trời với đất, giữa Thiên Chúa cao cả và con người phàm trần. Trinh nữ Maria đã thưa lời “Xin vâng” để mở lòng đón nhận Ngôi Lời nhập thể. Với lời thưa “Xin vâng” của Mẹ, Con Thiên Chúa đã đến thế gian, khởi đầu công cuộc cứu độ loài người.

“Kính mừng Maria đầy ơn phúc”, trước hết là lời kinh ca ngợi. Chúng ta hợp lời với sứ thần chào kính và ca tụng thiên chức cao cả của Đức Mẹ. Mẹ là người được Thiên Chúa chọn lựa trong muôn người, để làm ngai tòa cho Đấng Cứu thế ngự khi đến trần gian, mặc lấy thân phận con người. Lời Mẹ nói tiên tri về chính mình nay đã được thực hiện: “Từ nay, hết mọi đời, sẽ khen tôi diễm phúc” (Lc 2,48). Qua cuộc đời của Mẹ, chúng ta ca tụng quyền năng vô biên của Thiên Chúa, đã thực hiện những việc lạ lùng. Mẹ được tôn vinh làm Nữ Vương trời đất, cùng với Đức Giêsu là Vua Vũ trụ để chúc phúc cho muôn loài.

“Kính mừng Maria đầy ơn phúc”, đó là lời kinh của niềm phó thác cậy trông. Khi lần hạt Mân Côi, chúng ta xin Đức Mẹ cầu bầu cho chúng ta được những ơn lành phần hồn phần xác, nhất là được ơn trung thành như Đức Mẹ. Lời kinh thấm nhập mỗi con tim, diễn tả tâm tư trìu mến của chúng ta dành cho Mẹ. Lời kinh đem lại sự ngọt ngào mỗi khi chúng ta âu sầu đau khổ; đem lại hy vọng mỗi khi chúng ta gặp khó khăn thất bại; đem lại niềm vui mỗi khi chúng ta buồn bã; đem lại sức mạnh mỗi khi chúng ta yếu đuối; đem lại sự đỡ nâng mỗi khi chúng ta có nguy cơ gục ngã trên đường đời. “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời”, đó là lời cầu nguyện của Giáo Hội, cũng là lời cầu nguyện của mỗi con tim, xin Đức Mẹ bầu cử cho chúng ta đang còn bước đi trong cuộc sống dương gian đầy gian nan thử thách. "Kinh Mân côi không những kéo ơn trên trời xuống cho tội nhân, khiến họ mau mắn về với Mẹ, nhưng còn làm cho họ đứng vững trên con đường sùng kính mến yêu Mẹ. Nơi nào đông người chuyên chăm lần hạt, nơi ấy giáo hữu tiến nhanh trên đường thánh thiện, trái lại nơi nào thờ ơ, giáo hữu sẽ lâm vào tình trạng hư hỏng” (Thánh Grignion de Monfort).

“Kính mừng Maria đầy ơn phúc”, đó là lời kinh của tâm tình hiếu thảo chúng ta dâng lên Mẹ Thiên Chúa. Có người thắc mắc tại sao phải lặp đi lặp lại nhiều lần kinh Kính mừng khi lần hạt Mân Côi. Điều đó thật dễ hiểu! Người con hiếu thảo nào cũng muốn nói ngàn lần lời yêu thương với cha mẹ mình mà vẫn chưa đủ. Ngôn ngữ diễn tả tình yêu giống như dòng sông tuôn chảy mãi không dừng, cũng thế, những lời chào kính Đức Mẹ dù có lặp đi lặp lại là bằng chứng của tình mến chúng ta dành cho Đức Mẹ. Kinh Mân Côi sẽ giúp khơi nguồn dòng chảy yêu thương từ nơi Đức Mẹ đến với chúng ta.

“Kính mừng Maria đầy ơn phúc”, mỗi lời kinh là một bước đường đời dẫn ta đến gần Chúa hơn, và giúp chúng ta nên giống Chúa. Bởi lẽ kinh Kính mừng được đọc trong tâm tình suy niệm, chiêm ngắm những mầu nhiệm của cuộc đời Chúa Cứu thế, từ ngày Truyền tin cho đến khi Người sống lại và lên trời vinh quang. Mỗi bước đường của chúng ta đều có Đức Mẹ đồng hành. Mỗi lối đi dương thế đều có Chúa dẫn đưa. Đó là giá trị của Kinh Mân Côi.

Kinh Mân Côi là hình thức cầu nguyện được chính Đức Mẹ khuyến khích. Quả vậy, khi hiện ra ở Lộ Đức cũng như ở Phatima, Đức Mẹ đã cùng lần hạt với các thị nhân, trong tình thân thương trìu mến. Vì thế, tượng Đức Mẹ được trình bày tại hai nơi thánh địa này đều có cỗ tràng hạt nơi tay của Đức Mẹ. “Hãy siêng năng lần hạt”, đó còn là lệnh truyền của Đức Mẹ khi hiện ra với ba trẻ chăn chiên ở Phatima năm 1917.

“Kính mừng Maria đầy ơn phúc”, ước chi lời kinh này luôn vang lên nơi môi miệng chúng ta, từ khi sinh ra cho đến lúc lìa đời, nhờ đó, chúng ta luôn được Đức Mẹ phù hộ độ trì. Nhờ Mẹ và qua Mẹ, chúng ta sẽ gặp Đức Giêsu, và đạt được sự sống đời đời.

 

  1. Bài giảng lễ Đức Mẹ Mân Côi năm 2013

ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên

Kinh Mân Côi, một kinh nguyện giản đơn mà giá trị, quen thuộc mà đầy sức hấp dẫn. Lịch sử Giáo Hội đã chứng minh thần lực huyền nhiệm của kinh Mân Côi. Mỗi dịp tháng 10 về, chúng ta lại được mời gọi cùng suy tư và khám phá giá trị thiêng liêng của kinh Mân Côi.

Kinh Mân Côi là hình thức đạo đức bình dân, nhưng lại được yêu mến và thực hành bởi các nhà khoa học và những triết gia công giáo. Trong số những nhân vật nổi tiếng, phải kể đến Louis Pasteur, nhà bác học người Pháp sống thế kỷ 19, cha đẻ của lý thuyết lên men, vi khuẩn và vắcxin trừ bệnh chó dại.Người ta kể rằng khi ngồi trên xe lửa, không bao giờ ông rời cỗ tràng hạt. Tiếp đến là Blaise Pascal, khoa học gia, đồng thời là triết gia người Pháp thế kỷ 17. Cũng nên nhắc đến André-Marie Ampère, nhà vật lý người Pháp thế kỷ 18-19, người đã sáng lập ra môn điện từ học, cũng là một tín hữu yêu mến kinh Mân Côi và thường xuyên lần hạt.

Trong suốt bề dày của lịch sử, nhiều vị Giáo Hoàng đã cổ võ việc đọc kinh Mân Côi và đã có những giáo huấn rất sâu sắc về hình thức cầu nguyện này.Đức Thánh Cha Lêô XIII đã dành tất cả 17 văn kiện để nói về phép lần hạt Mân Côi. Trong một văn kiện, Đức Giáo Hoàng đã viết: “Muốn được Thiên Chúa cứu chữa cho khỏi những cơn khó khăn của thời đại ngày nay, Ta nghĩ không có gì hiệu nghiệm hơn là việc tôn sùng Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa. Vậy Ta khuyên các giáo hữu, hãy tập thói quen đạo đức lần hạt Mân Côi hoặc công khai hoặc trong gia đình”. Cũng chính vị Giáo Hoàng này vào năm 1887 đã nâng lễ Đức Mẹ Mân Côi lên bậc lễnhì với kinh lễ và kinh Phụng vụ theo phụng vụ dòng Đaminh. Đức Thánh Piô X ấn định mừng lễ Mẹ Mân Côi vào ngày mồng 7 tháng 10. Đức Giáo Hoàng Piô XI gọi kinh Mân côi thực là một triều thiên hoa hồng rực rỡ nhất mà tuổi thanh xuân có thể đội. Đó là những đoá hồng trinh khiết và đoá hồng tình mến, đoá hồng tình yêu huynh đệ, đoá hồng chí tông đồ tươi nở trong khung cảnh lộng lẫy của một gia đình thiêng liêng như đoàn Thanh niên Công giáo Tiến hành.

Tại sao tràng Mân Côi là có sức hấp dẫn kỳ diệu như thế? Thưa, bởi vì kinh Mân Côi chính là cuốn Tin Mừng thu gọn. Đọc kinh Mân Côi là chiêm ngắm và suy niệm cuộc đời của Chúa Giêsu để chúng ta đón nhận giáo huấn của Chúa và thực thi những gì người dạy. Những lời kinh “Ave Maria” gắn bó chúng ta với Đức Mẹ, để nhờ Mẹ mà chúng ta có thể nên môn đệ trọn lành của Chúa Giêsu. Vẻ đẹp của kinh Mân Côi được sánh ví như chuỗi hoa hồng. Mỗi kinh Kính Mừng là một đóa hoa tỏa ngát hương thơm, đem lại cho người cầu nguyện sự dịu ngọt trong tâm hồn. Tràng hạt Mân Côi gồm 50 hay 200 hạt nối liền với nhau, như lời gọi hiệp thông liên kết được gửi đến các tín hữu để làm nên một “cỗ tràng hạt” thiêng liêng là toàn thể cộng đoàn Giáo Hội. Kinh Mân Côi nhắc chúng ta nhớ mình thuộc về Giáo Hội của Chúa Ki-tô, có Đức Mẹ là Đấng phù hộ chở che nâng đỡ.

Có người hỏi tôi: “Tại sao phải lặp đi lặp lại những 50 lần kinh Kính Mừng. Đọc một lần là Chúa biết và Đức Mẹ biết rồi!”. Kinh Kính Mừng là lời chào tôn kính và lời tâm sự yêu thương của chúng ta đối với Đức Mẹ. Khi hai người yêu nhau, họ muốn lặp đi lặp lại mãi những lời yêu thương mà không thấy chán. Cũng vậy, người con hiếu thảo sà vào lòng mẹ để bầy tỏ tâm tình yêu mến, dốc bầu tâm sự với mẹ mình hàng giờ mà không cảm thấy nhàm. Khi lần hạt cũng vậy, chúng ta tâm sự với Đức Mẹ, nằn nì Mẹ cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta được nên giống như Mẹ trong cử chỉ, lời nói và hành động. Đối với người yêu mến Chúa và yêu mến Đức Mẹ, việc đọc kinh cầu nguyện không bao giờ đơn điệu buồn chán, vì qua lời kinh, họ thực sự được gặp gỡ Chúa và tâm sự với Ngài.

Thánh Đaminh đã viết: “Sau thánh lễ và kinh Phụng vụ, không có sự tôn kính nào đẹp lòng Chúa Giêsu và Mẹ Thánh Người bằng sốt sắng đọc kinh Mân côi”.Ước chi mỗi người tín hữu chúng ta đều biết yêu mến kinh Mân Côi để trọn vẹn cuộc sống của chúng ta là một chuỗi hoa hồng huyền nhiệm, tỏa ngát hương thơm trong vườn đời.

 

  1. Người Nữ tuyệt vời

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)

Ở Việt Nam, mừng vào Chúa Nhật 27 Thường Niên.

Đức Maria là một người như bao người khác, là một thiếu nữ như bao cô gái thời của Ngài, và cũng là một phụ nữ như bao phụ nữ Do Thái. Tuy nhiên, Đức Maria là một người rất đặc biệt. Điều làm Đức Maria khác thường không phải là dung nhan thể lý trời ban, nhưng là chính cách cư xử tuyệt vời của Ngài đối với Thiên Chúa.

Không có bằng chứng gì cho thấy Đức Maria là cô thiếu nữ sắc nước hương trời; cũng chẳng có bằng cớ nào cho thấy Đức Maria là một phụ nữ có tài quán xuyến. Phải chăng đó là lý luận hợp lý vì dường như chẳng có chàng trai nào “tranh giành” Maria với Giuse. Nếu Đức Maria là trang tuyệt thế giai nhân, thì ắt hẳn “làng cung kiếm đã rắp ranh bắn sẻ;” nếu Đức Maria có tài quán xuyến thì chắc đã có lắm kẻ mày râu muốn Đức Maria quản lý tài sản của họ.

Nét đặc biệt của Đức Maria là XIN VÂNG với tất cả những gì Thiên Chúa muốn, cho dù ý định của Thiên Chúa được tỏ lộ trong bất cứ tình huống nào và bất cứ thời điểm nào. Cuộc đời của Đức Maria diễn ra không gì đặc biệt lắm cho tới khi sứ thần Gabriel tới “truyền tin.” Có lẽ từ ngữ chính xác cho biến cố này là “hỏi ý kiến” xem Đức Maria có sẵn sàng để Thiên Chúa can thiệp vào đời của Ngài không. Lúc này Đức Maria đã đính hôn với Giuse. Ban Phụng Vụ Các Giờ Kinh dịch tình trạng của Đức Maria lúc bấy giờ là đã “thành hôn,” nghĩa là, hai người đã có thể ăn ở với nhau như vợ chồng cho dù họ chưa về sống chung với nhau. Thiên Chúa sai sứ thần Gabriel tới hỏi ý kiến Đức Maria, một cô gái khoảng 17 tuổi đã đính hôn, xem cô có sẵn sàng để Thiên Chúa làm những gì Ngài muốn trên cuộc đời của mình không, cụ thể, xem Đức Maria có chấp nhận một thai nhi trong dạ mình không. Maria thắc mắc chuyện xảy ra thế nào, vì tuy dù Giuse và Maria hai người đã thành hôn nhưng thực sự hai người chưa chung sống với nhau dưới một mái nhà: “việc đó xảy ra cách nào, vì tôi cho đến hiện tại không biết đàn ông,” nghĩa là, cho đến hiện tại tôi chưa có tương quan vợ chồng với Giuse. Và rồi khi được thiên thần giải thích cho biết Thánh Thần Thiên Chúa sẽ ngự trên Maria để thực hiện những gì Thiên Chúa muốn, vì không có việc gì mà Thiên Chúa không làm được, thì Đức Maria đã sẵn sàng và quảng đại xin vâng, để Thiên Chúa làm tất cả những gì Ngài muốn trên cuộc đời của mình.

Với tiếng XIN VÂNG của Đức Mẹ, Thiên Chúa đã có thể nhập thể trong cung lòng mẹ. Thiên Chúa có thể làm người, và thực sự Ngài đã thành một người giữa bao người khác. Qua tiếng xin vâng, Đức Maria trở thành Mẹ Thiên Chúa. Qua hành vi xin vâng, để Thiên Chúa muốn làm gì trên đời Mẹ thì làm, Mẹ đã trở thành người độc nhất vô nhị trên trần gian này. Đức Maria không chỉ thưa tiếng Xin Vâng với Thiên Chúa trong biến cố “Truyền Tin,” Mẹ còn thưa tiếng xin vâng với Thiên Chúa trong tất cả mọi biến cố của đời sống. Mẹ đã thưa tiếng xin vâng khi trở về Bêlem, quê quán của Giuse, để đăng ký nhân khẩu cho dù lúc đã gần đến ngày sanh và việc di chuyển rất khó khăn; Mẹ thưa tiếng xin vâng khi bước vào hang chiên cừu, và rồi sinh hạ Thiên Chúa nhập thể trong tình trạng nghèo hèn cùng cực, nơi chuồng chiên cừu; Mẹ thưa tiếng xin vâng khi chấp nhận dâng Chúa trong đền thờ; Mẹ thưa tiếng xin vâng khi chấp nhận sống đời sống rất bình thường tại Nadarét; Mẹ thưa tiếng xin vâng khi luôn chờ đợi Thiên Chúa làm những điều kỳ diệu ngang qua Đức Yêsu Kitô trong thời gian rất dài ở Nadarét; Mẹ thưa tiếng xin vâng đặc biệt trong biến cố đứng dưới chân thập giá, dù Mẹ chẳng biết làm sao Lời Thiên Chúa đã nói với Mẹ qua sứ thần lúc truyền tin có thể thực hiện: “Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài ngai báu Đavít tổ tiên Ngài, nước Ngài rộng vô biên.” Đức Maria trở thành người tuyệt vời qua hành vi xin vâng của Mẹ.

Khi Đức Maria thưa tiếng XIN VÂNG tại biến cố “truyền tin,” Mẹ đã đặt Thiên Chúa trên tất cả: trên tình yêu đối với Giuse, trên mạng sống mình, và trên cả danh tiếng gia đình. Nếu Đức Maria và thánh Giuse là đôi nam nữ yêu nhau tha thiết, thì thưa tiếng Xin Vâng quả là một hy sinh vô cùng lớn, vì khi thưa tiếng Xin Vâng Mẹ có thể mất Giuse, vì có gì làm bằng chứng để Giuse tin vào việc thiên thần tới loan báo ý định của Thiên Chúa trong trường hợp này. Và nếu Giuse công bố sự thật là cái thai trong dạ Đức Maria không do Giuse, thì Đức Maria sẽ bị đối xử như một phụ nữ ngoại tình, và cái chết do ném đá sẽ chờ đón Maria. Và một khi câu chuyện không như mình mong muốn thành sự thật, thì danh tiếng gia đình sẽ bị thương tổn. Khi thưa tiếng Xin Vâng, Đức Maria đã chọn Thiên Chúa trên hết, đã đặt ý định của Thiên Chúa trên tất cả và bất chấp tất cả. Mẹ tin tưởng phó thác tuyệt đối cho Thiên Chúa. Thiên Chúa quyền năng, Ngài có khả năng làm tất cả những gì Ngài muốn; về phía Đức Maria, Ngài chỉ cần phó thác và vâng phục mà thôi.

“Ví thử đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai.” Đời của Đức Maria đầy dẫy những biến cố trái lòng, không thiếu những thập giá, thế nhưng hành vi chọn lựa của Đức Maria đã làm Ngài trở thành người tuyệt vời. Đức Maria đã không thực hiện những biến cố vĩ đại trước mặt người đời, nhưng Ngài chu toàn nghĩa vụ sống như bao người một cách tuỵệt vời. Với những hành vi chọn lựa sống, Mẹ đã trở thành người mẫu cho con người của mọi thời đại.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

1. Theo bạn, Đức Maria và bạn giống và khác nhau ở những điểm nào?

2. Đâu là điều làm Đức Maria trở nên người tuyệt vời?

3. Bạn có thể trở nên người tuyệt vời như Đức Maria không? Tại sao?

 

  1. Sức mạnh của lời kinh Kính Mừng

(Suy niệm Lễ Đức Mẹ Mân Côi của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Tháng Mười dẫn chúng ta về với Mẹ Mân Côi, một tay bồng Chúa Giêsu hài Ðồng, còn tay kia thì trao tràng chuỗi Mân Côi cho thánh Ðaminh. Hình ảnh ý nghĩa này chứng tỏ rằng kinh Mân Côi là một phương thế được Ðức Mẹ ban cho nhân loại qua thánh Đaminh, để nhờ chiêm ngắm và suy niệm về cuộc đời của Chúa, mà yêu mến Chúa và theo Chúa mỗi ngày một trung thành hơn.

1. Kinh Kính Mừng

"Kính mừng Maria đầy ơn phúc"

Là câu đầu tiên trong Kinh Kính Mừng chúng ta vẫn thường đọc. Nguồn gốc của lời Kinh này phát xuất từ miệng sứ thần Gabriel chào kính Đức Maria lúc truyền tin: "Kính mừng Maria đầy ơn phúc (Lc 1,28), và lời xác nhận của bà Êlisabet: " Em thật có phúc hơn mọi người nữ, vì Đấng em cưu mang thật diễm phúc".

Những lời của sứ thần Gabriel và của bà Êlisabet trên đây đã được Giáo hội dùng để chúc tụng ngợi khen Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ chúng ta. Đồng thời, Giáo hội thêm vào lời cầu khẩn xin Mẹ thương nâng đỡ phù trì "Thánh Maria ĐứcMẹ Chúa Trời... và trong giờ lâm tử".

Phụng vụ mừng lễ Đức Mẹ Mân Côi hôm nay, dựa trên trang Tin Mừng (Lc 1,26-38) dìu ta về với "Đức Maria đầy ơn phúc". Mẹ có phúc trước hết là vì Mẹ đã đón nhận hồng phúc khi thưa “xin vâng”. Phúc tiếp theo của Mẹ là có Thiên Chúa ở cùng, Mẹ cưu mang, sinh hạ, nuôi dưỡng và làm Mẹ Đấng gồm phúc lạ. Phúc của Mẹ thật cao với khôn sánh, nên Giáo hội không ngớt lời lặp đi lặp lại danh xưng “đầy ơn phúc” này để tôn vinh Mẹ. Nếu yêu và được yêu là những điều hạnh phúc nhất trong đời, thì Đức Maria rất hạnh phúc khi được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn và chính Mẹ cũng đầu tư vốn liếng cuộc đời, biết dành trọn vẹn tình yêu thương của mình cho Thiên Chúa.

Mẹ được đầy ơn phúc, Mẹ cũng muốn cho con cái mình hạnh phúc, vì mẹ nào mẹ chẳng thương con. Nên khi con cái lầm đường lạc lối, sa lầy trong tội, Mẹ đã mở rộng vòng tay, dẫn lối chỉ đường cho con người đạt tới hạnh phúc với lời nhắn nhủ: "Hãy ăn năn đền tội, hãy năng lần hạt Mân Côi". Làm theo lời dặn dò của Mẹ, Hội Thánh đã thoát nhiều cơn giông tố hiểm nguy xác hồn, phá tan được bao bè rối, mang lại bình an trong tâm hồn. Chúng ta hãy đón nhận lời yêu cầu hiền mẫu của Mẹ siêng năng lần chuỗi Mân Côi.

Đời con một chuỗi Mân Côi.

Hạt thương hạt sáng hạt vui hạt mừng.

Ngày đêm nguyện gẫm không ngừng.

Như cây nến cháy nhỏ từng lời kinh.

2. Ơn phúc bởi đọc Kinh Kính Mừng

Sống trong thời văn minh điện toán toàn cầu hóa, biến con người thành những kẻ chạy đua với với thời cuộc. Kẻ làm, người học, có kẻ vừa học vừa làm, làm trong đi học… khiến người ta làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm, làm thêm cả ngày nghỉ. Thì hỡi ông bà anh chị em, dù bận đến đâu cũng đừng bỏ lễ Chúa nhật và lễ Trọng buộc. Dù mệt đến đâu cũng đừng bỏ đọc Kinh Kính Mừng. Vì "Mẹ Maria chúc phúc cho những ai đọc Kinh Kính Mừng" (St Bênađô).

Nhiều bạn trẻ cho rằng: Thời buổi khoa học, ai còn tụng niệm như mấy ông già bà cả nữa. Không, câu chuyện có thật của một nam sinh Pháp và Bác học Louis Pasteur, Giám Đốc Viện nghiên cứu vi trùng học quốc tế, Giáo sư chuyên khoa Đại Học hoá học và sinh vật học là bằng chứng. Người đời thường có quan niệm: hễ càng văn minh, người ta càng xa Chúa. Nhưng ngược lại Louis Pasteur Bác học trứ danh lại càng tin theo Chúa. Và sợi dây gắn kết niềm tin ấy, động lực để nghiên cứu khoa học lại là Kinh Kính Mừng. Ông lần hạt khi đi trên Métro trước mặt những nam sinh nữ tú mà chúng không hay biết ông là người thầy của mình.

Thế giới ngày hôm nay tục hóa, con người sống như thể không có Thiên Chúa, chân phước Alanô mách bảo chúng ta: "Bất cứ ai trung thành đọc Kinh Mân Côi và suy ngắm những Mầu Nhiệm sẽ được ân thưởng. Mẹ sẽ xin cho họ được tha mọi hình phạt và mọi tội lỗi trong giờ họ chết".

Nếu bị ma quỉ cám dỗ, sự xấu, người xấu lôi kéo, hãy đọc Kinh Kính Mừng, vì: "Kinh Kính Mừng làm cho Quỉ Dữ trốn chạy, Hỏa Ngục run sợ" (Lời thánh Anphongsô). Nếu con cái hư đốn, chồng không trung thủy, vợ bất trung thành, hãy đọc Kinh Kính Mừng: "Nhờ Kinh Kính Mừng, biết bao tội nhân bỏ đường tội lỗi, bao linh hồn đã tiến cao trên đường trọn lành. Biết bao người được ơn chết lành và hưởng phúc Thiên đàng".

3. Lời kinh cầu cho hòa bình

Chúng ta đang sống trong một tình hình quốc tế đầy những căng thẳng, khủng bố dưới mọi hình thức ngày càng man dợ, trộm cắp, giết người cách tinh vi, hủy hoại môi sinh, gây đau khổ cho đồng loại. Trước những thế lực mạnh hơn trên trái đất này định đoạt số phận của nhân loại, chúng ta cảm thấy bị giới hạn và bất lực, phải nại đến sức mạnh từ trời cao. Chúng ta chạy đến với Thiên Chúa, để khẩn xin ơn bình an cho thế giới. Việc làm trong tháng này là hãy lần hát Mân Côi, như Giáo hội vẫn thường làm trong các cơn túng cực. Vì chỉ có lời cầu nguyện mới vượt qua được các biên giới các quốc gia và các ngăn cách của thù ghét cũng như không hiểu nhau, mới đem lại bình an cho nhân loại.

Nữ Vương truyền phép Rất Thánh Mân Côi, cầu cho chúng con.

Nữ Vương bình an, cầu cho chúng con. Amen.

 

  1. Kinh Kính Mừng, lời kinh cầu cho hòa bình

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

1. Kinh Kính Mừng

"Kính mừng Maria đầy ơn phúc",

Đó là câu đầu tiên trong Kinh Kính Mừng chúng ta vẫn thường xuyên đọc nhất là trong tháng Mười. Nhưng nguồn gốc của lời Kinh này phát xuất từ miệng sứ thần Gabriel khi chào kính Đức Maria lúc truyền tin (Lc1,28). Đức Maria là Đấng đầy ơn phúc như lời sứ thần nói, vì có Thiên Chúa ở cùng. Phúc của Mẹ thật cao với khôn sánh, lời bà Ê-li-sa-bet xác nhận: " Em thật có phúc hơn mọi người nữ, vì Đấng em cưu mang thật diễm phúc". Ai có Thiên Chúa ở cùng, người ấy được đầy ơn phúc. Đức Maria là người diễm phúc không chỉ Mẹ có Thiên Chúa ở cùng, mà Mẹ còn cưu mang Thiên Chúa ngay trong lòng mình nữa.

Những lời của sứ thần Gabriel và của bà Ê-li-sa-bet trên đây đã được Giáo hội dùng để chúc tụng ngợi khen Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ chúng ta. Đồng thời Giáo hội thêm vào đó lời cầu khẩn Mẹ thương nâng đỡ phù trì "Thánh Maria ĐứcMẹ Chúa Trời... và trong giờ lâm tử".

Phụng vụ mừng lễ Mẹ Mân Côi hôm nay, dựa trên trang Tin Mừng (Lc 1,26-38) lại dìu ta về với "Đức Maria đầy ơn phúc". Mẹ có phúc trước hết là vì Mẹ có Thiên Chúa ở cùng, và Con lòng Mẹ gồm phúc lạ. Thế nên Giáo hội không ngớt lời lặp đi lặp lại danh xưng hạnh phúc này: "Kính mừng Maria đầy ơn phúc" để tôn vinh Mẹ Maria. Đức Maria là người hạnh phúc vì Mẹ đã đón nhận hồng phúc, được tuyển chọn để cưu mang, sinh hạ, nuôi dưỡng và làm Mẹ Đấng Cứu Thế, là Mẹ Thiên Chúa. Nếu yêu và được yêu là những điều hạnh phúc nhất trong đời, thì Đức Maria cũng rất hạnh phúc khi được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn và chính Mẹ cũng biết dành trọn vẹn tình yêu thương của mình cho Thiên Chúa.

Mẹ được đầy ơn phúc, Mẹ cũng muốn cho con cái mình hạnh phúc "Mẹ nào mẹ chẳng thương con". Nên khi con cái lầm đường lạc lối, sa lầy trong tội, Mẹ đã mở rộng vòng tay, dẫn lối chỉ đường cho con người đạt tới hạnh phúc với lời nhắn nhủ: "Hãy ăn năn đền tội, hãy năng lần hạt Mân Côi". Làm theo lời dặn dò của Mẹ, Hội Thánh đã thoát nhiều cơn giông tố hiểm nguy xác hồn, phá tan được bao bè rối, mang lại bình an trong tâm hồn.

2. Ơn phúc bởi đọc Kinh Kính Mừng

Chính Mẹ đã dạy chân-phước Alanô: "Bất-cứ ai trung thành đọc Kinh Mân Côi và suy ngắm những Mầu Nhiệm sẽ được ân thưởng. Mẹ sẽ xin cho họ được tha mọi hình phạt và mọi tội lỗi trong giờ họ chết".

Thánh Bênađô nói: "Kinh Kính Mừng làm cho Quỉ Dữ trốn chạy, Hỏa Ngục run sợ".

Còn Thánh Bônaventura nói: "Mẹ Maria chúc phúc cho những ai đọc Kinh Kính Mừng".

Thánh Montfort "Những người rối đạo, những người vô tín ngưỡng, những người kiêu căng chê ghét hay khinh thị Kinh Kính Mừng, là những người có dấu bị trầm luân Hỏa-Ngục. Không có gì có hiệu-lực được lên Nước Thiên Chúa bằng đọc Kinh Mân Côi".

Thánh Anphongsô "Nhờ Kinh Mân Côi, biết bao tội nhân bỏ đường tội lỗi, bao linh hồn đã tiến cao trên đường trọn lành. Biết bao người được ơn chết lành và hưởng phúc Thiên đàng".

Kinh Mân côi là kinh chính Đức Trinh Nữ đã khuyến khích khi hiện ra với Cô Bernardette ở Lộ đức (1858) cũng như trong các lần hiện ra với ba em mục đồng Lucia, Phanxicô và Giaxinta 6 lần từ 13 tháng 5 tới 13 tháng 10 năm 1917. Cả 6 lần Đức-Mẹ đều thúc-dục: "Các con hãy tiếp-tục đọc Kinh-Mân-Côi hằng-ngày". Và nhất là: "Các con hãy đọc kinh Mân côi để cầu nguyện cho hòa bình".

3. Lời kinh cầu cho hòa bình

Chúng ta đang sống trong một tình hình quốc tế đầy những căng thẳng, càng ngày càng gia tăng, khiến ngày mùng 07 tháng 9 vừa qua, Đức Thánh Cha Phanxicô phải mời gọi cả Hội Thánh ăn chay cầu nguyện cho hòa bình tại Syria và những nơi bạo lực đang hoành hành. Lời cầu của Hội Thánh đã được nhận lời, chiến tranh đe dọa Damacus đang qua đi, nhưng tại Trung Đông, Ai Cập, Triều Tiên và cả Thánh Địa xem ra Hòa Binh vẫn vắng bóng. Chẳng nói đâu xa, tại Thánh phố Vinh tình hình đang nguy cấp giữa Địa phận Vinh với chính quyền. Trong tình hình hiện nay, chỉ biết chạy đến với Thiên Chúa, để khẩn xin hòa bình cho thế giới và cho quê hương Việt Nam. Việc làm trong tháng này là hãy lần hát Mân Côi, như Giáo hội vẫn thường làm trong các cơn túng cực. Vì chỉ có lời cầu nguyện mới vượt qua được các biên giới các quốc gia và các ngăn cách của thù ghét cũng như không hiểu nhau, mới đem lại bình an cho nhân loại. Trong lúc này chúng ta cảm thấy cần phải hướng về Đức Maria, Nữ vương hòa bình... phải khẳng định rằng, nơi nào thiếu hòa bình, nơi nào con người tỏ ra bất lực hay không muốn dẹp đi mầm mống thù ghét và chết chóc, thì việc trợ giúp phải đến từ Trời. Chính Đức Maria, Nữ vương hòa bình, Đấng đem chúng ta trở lại với Chúa Cha.

Trước những thế lực mạnh hơn, chúng ta thương cảm thấy bất lực. Khi nghĩ đến sức mạnh của những người thế lực trên Trái đất này định đoạt số phận của nhân loại, chúng ta cảm thấy bị giới hạn và bất lực. Chúng ta chỉ biết tin tưởng vào lời cầu nguyện mà thôi. Chúng ta chỉ biết tin cậy vào một sức mạnh lớn hơn, vào Chúa. Đức Maria, như gương mẫu của Người Phụ nữ phó thác hoàn toàn cho thánh ý Chúa. Và với tình mẫu tử, Mẹ sẽ dẫn đưa chúng ta đến với Chúa Kitô, theo dõi chúng ta trên đường đến với Chúa Cha, Đấng có thể cải hóa và làm cho các tâm hồn con người tùng phục thánh ý của Người.

Vậy kinh Mân Côi càng có lý do hơn nữa để xúc tiến hòa bình, một hoà bình cho tới nay vẫn chưa trở lại. Với lời Mẹ Maria dạy và kinh nghiệm của các thánh về ơn phúc bởi đọc Kinh Kính Mừng, chúng ta hãy sốt sáng đọc kinh Mân Côi, để cầu nguyện cho bản thân, cho gia đình, cho Giáo hội, cho quê hương và cho toàn thế giới.

Nữ Vương truyền phép Rất Thánh Mân Côi, cầu cho chúng con. Nữ Vương bình an, cầu cho chúng con. Amen.

 

  1. Mẹ tin cậy mến - AM Trần Bình An

"Nghe tin con bị bắt cóc, chân tay tôi như rụng rời. Suốt 2 tiếng cháu bị khống chế, tôi chỉ biết đứng ngoài cầu nguyện", chia sẻ của người mẹ một nạn nhân bị khống chế làm con tin tại trường Mầm Non 10A, Tân Bình, Sài Gòn. Sau khi được giải cứu và đưa đến bệnh viện khâu vết thương, khoảng 12h ngày11/10/2012, bé Nguyễn Đắc Tài (3 tuổi) đã được bố mẹ đưa về nhà. Khoảng 8h30, đang đi mua thức ăn chị nhận được điện thoại của trường báo bé bị một kẻ lạ mặt xông vào lớp khống chế bắt làm con tin. Chị bấn loạn vội chạy đến trường, không biết số phận con trai thế nào.

"Trong đầu tôi cứ nghĩ kẻ bắt cóc đã mang cháu đi đâu rồi. Khi đến nơi biết cháu vẫn đang bị khống chế bên trong, tôi vừa lo vừa mừng vì còn có cơ hội cứu con. Suốt 2 giờ đồng hồ chờ công an giải cứu, tôi chỉ biết khóc và cầu nguyện", người mẹ trẻ kể.

Theo điều tra của Công an quận Tân Bình, khoảng 8h30 ngày 11/10/2012, Cao Quốc Huy (28 tuổi) mặc áo giáp tự chế, tay cầm 2 con dao đi vào khu vực trường Mầm non 10A. Cô hiệu trưởng Trần Thị Kim Thùy (52 tuổi,) đang đứng trước cửa văn phòng đã bị Huy nắm tóc uy hiếp. Cô la lớn làm gã bỏ chạy vào lớp mầm. Hắn khống chế, dọa giết 2 bé Tài và Khôi.

Hàng trăm cảnh sát được huy động đến trường nhưng Huy vẫn cố thủ trong lớp học và liên tục đưa ra yêu sách. Khoảng 10h30, nhiều chiến sĩ đã ập vào khống chế giải cứu an toàn 2 cháu nhỏ. Nghi can có tiền sử bệnh tâm thần, từng thoát án tù về tội Giết người. (VnExpress)

Tin Mừng thánh Luca Chúa Nhật 27 Thường Niên, thuật lại Đức Giêsu dạy về đức tin và thái độ phục vụ khiêm tốn. Hôm nay cũng là ngày lễ kính trọng thể Đức Mẹ Mân Côi. Thật là một sự trùng hợp lạ lùng và đầy ý nghĩa. Bởi vì Mẹ chính là tấm gương sống động của tin cậy mến và phục vụ.

Tin

Người mẹ kể trên chỉ biết khóc và cầu nguyện, vì đứa con thơ bị bắt làm con tin. Bà bất lực trước nghịch cảnh, chỉ còn biết đặt hết niềm tin cậy vào Chúa Quan Phòng, cứu giúp con bà khỏi sự dữ.

Còn Mẹ Maria đã tin mãnh liệt, tin tuyệt đối, tin vô điều kiện ngay khi Sứ thần Gabriel loan báo Mẹ thụ thai Đấng Cứu Thế. Mẹ chỉ tỏ ra rất bối rối, một phản ứng rất tự nhiên, khi nhận được lời truyền tin quá sức cao cả và bất ngờ, chứ không hề chút đắn đo, dè dặt, hay ngần ngại, thắc mắc. Mẹ không như thầy tư tế Zacaria tỏ ra ngờ vực, hoài nghi, đòi dấu lạ, khi Sứ thần Chúa báo tin bà vợ Elizabet già cả, sẽ sanh con.

“Đức tin là một hành vi cá nhân, là sự đáp trả tự nguyện của con người đối với sáng kiến của Thiên Chúa, là Đấng đã mạc khải chính mình.” (Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, số 166)

Như thế, đức tin là một hồng ân Thiên Chúa ban tặng cho con người nhưng không, và con người đáp trả lại tấm thịnh tình của Thiên Chúa. Mẹ Maria đón nhận hồng ân vĩ đại, đã ân cần mau mắn đáp lại: “Xin vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời Sứ thần nói.” (Lc 1, 38)

Hơn nữa, Mẹ còn vui mừng cảm tạ, ngợi khen, tán tụng Thiên Chúa qua Kinh Magnificat. Mẹ hát lên lời tri ân của Mẹ và của toàn thể dân Chúa, vì nay lời hứa Giao Ước mới được thực hiện.

Cậy

Mẹ Maria can đảm, toàn tâm toàn ý bước theo chân Tổ phụ Abraham, “Cha của các tín hữu,” Mẹ hoàn toàn đặt tin tưởng vào Thiên Chúa, khi chân thành khiêm hạ, tự khẳng định, nhận mình chỉ là nữ tỳ hèn mọn.

Khi thưa “Xin Vâng,” Mẹ đã hoàn toàn tin cậy, hoàn toàn phó thác, dâng hiến trọn vẹn cuộc đời vào tay Chúa Quan Phòng, sẵn sàng đón nhận mọi khó khăn, gian khổ khi đồng hành theo Chúa, đồng công cứu chuộc nhân loại.

Mẹ tin cậy vào Thánh Ý Chúa nhiệm mầu, khi vâng phục đi theo con đường chông gai, thách đố, vất vả, khổ sở, đau đớn, cùng với người bạn đời Giuse, vốn được Sứ thần linh ứng chỉ dẫn. Từ việc khai hoa nở nhụy thiếu thốn tứ bề ở Bê lem, đến chạy trốn sang Ai Cập, rồi trở về quê hương, Mẹ đều vui lòng chấp nhận, không hề oán than, cũng chẳng phiền muộn. Mẹ âm thầm bằng lòng chấp nhận những đau khổ tột cùng sắp đến, qua lời tiên tri của ông già Simêon: “Còn chính bà, thì một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà..” (Lc 2, 34)

Mến

Mẹ đau khổ biết bao khôn xiết, khi Con Trẻ Giêsu lạc mất ba ngày dài tại đền thờ Giêrusalem. Chắc hẳn không thiếu những giòng lệ nóng bỏng thương nhớ Con, hớt ha hớt hải tìm Con, như bà mẹ kể trên. Mẹ còn chịu thêm thử thách tình mẫu tử, khi nghe Con đáp lại lúc hạnh ngộ: “Cha mẹ tìm con làm gì? Cha mẹ không biết con phải lo việc cho Cha con ư?”

Tình yêu của Mẹ lại càng thêm phiền muộn, đớn đau, khi nghe Đức Giêsu, Con Mẹ, dõng dạc tuyên bố: “Kẻ nghe lời Cha ta và thực hành, người ấy là anh chị em và là Mẹ ta.” Không phải Đức Giêsu chối bỏ, phụ ân, phụ nghĩa, bất hiếu với người Mẹ thân thương, nhưng Người muốn xác định, phải dành ưu tiên cho tình yêu Thiên Chúa, trổi vượt trên tình nghĩa gia đình, tình phụ mẫu, tình huynh đệ huyết thống trần gian.

Nhưng thách đố cao nhất, đau khồ tận cùng, khi Mẹ đồng hành cùng Đức Giêsu trong suốt cuộc khổ nạn. Cao điểm tuyệt đỉnh khi Mẹ đứng dưới chân thập giá. “Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà.”Thật đúng như lời ông già Simêon tiên báo.

Chuỗi Mân Côi là dây ràng buộc con với Mẹ, là cuốn phim kỷ niệm con đường hy vọng của Mẹ: Âu yếm như Bê Lem, khắc khoải như Ai Cập, trầm lặng như Nazareth, lao động như xưởng mộc, sốt sắng như đền thờ, cảm động lúc Chúa giảng, đau khổ bên thánh giá, vui mừng lúc Phục Sinh, tông đồ bên thánh Gioan.

Tóm tắt lại, Chúa sống trong Mẹ, Mẹ trong Chúa, hai cuộc đời chỉ là một. Đừng bỏ chuỗi Mân Côi Mẹ đã trao và nhắn nhủ con sống như Mẹ, với Mẹ, nhờ Mẹ, trong Mẹ. (Đường Hy Vọng, số 922)

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con nhân đức tin vững vàng, nhất là mỗi khi trước phong ba cuộc đời, trước thách đố khắc nghiệt. Xưa kia Người đã từng nói với Phêrô: “Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin” (Lc 22,32), vậy xin Chúa cũng nguyện cầu cho chúng con vững lòng tin.

Lạy Mẹ Maria, xưa kia Chúa Giêsu đã trăn trối tông đồ Gioan lại cho thân mẫu:“Thưa Mẹ, đây là con Mẹ!” Rồi Người nói với ông Gioan: “Đây là Mẹ con!” Cũng nhưNgười trao chúng con lại cho Mẹ săn sóc, che chở. Xin Mẹ đoái thương, cầu bầu cho chúng con theo Chúa luôn mãi, với niềm tin cậy mến sắt son, bền đỗ đến cùng. Amen.

 

  1. Thiên Chúa ở cùng Mẹ - AM Trần Bình An

Ngày 19/9/1846, khi các tu sĩ đang hát kinh tại nhà thờ, đến câu: “Ôi, lênh láng thay những dòng nước mắt của Mẹ…” thì trên đỉnh núi Salette nước Pháp, gần dãy núi Alpes, Đức Mẹ hiện ra với hai em chăn chiên Melanie và Maximin. Đức Mẹ vừa nói vừa khóc: “Khốn cho nhân loại, Chúa sắp nổi cơn giận dữ, giáng xuống trần gian bao nhiêu tai họa. Chúa ruồng bỏ loài người và đổ hình phạt liên tiếp xuống trong 35 năm.” Melanie đã tiết lộ trước khi qua đời rằng: “Từ khi hiện ra đến lúc biến đi, Đức Mẹ chỉ khóc nức nở. Những giọt lệ, từ trên gò má lăn xuống lấp lánh như những viên ngọc. Trong dịp này Đức Mẹ đầy tình âu yếm nhắn nhủ người ta biết sống cầu nguyện, năng lần chuỗi Mân Côi, thánh hoá các ngày lễ trọng và Chủ Nhật.”

Ở vùng La Salette này, nằm giữa dãy Núi Alpes. Dân chúng nghèo nàn, làm nghề chăn nuôi bò cừu. Hai em thả đàn cừu đi uống nước dưới suối, rồi tìm ghế ngồi nghỉ. Khi trở về chỗ cũ, hai em thấy một bàu lửa sáng rực. Rồi hiện ra một bà xinh đẹp ngồi ngay trên ghế đá. Bà tì khuỷu tay lên đầu gối, hơi nghiêng mình về phía trước, có vẻ buồn sầu vô hạn. Các em sợ quá, định lùi lại. Nhưng bà đứng lên bảo các em: “Các con đừng sợ, hãy đến đây với Ta.” Bà nói: “Nếu người ta không chịu cải thiện đời sống. Ta không còn cách nào ngăn cản cánh tay công thẳng của Con ta được. Ta không bỏ các con. Nhưng trái lại chúng con không làm như vậy. Những kẻ đau thương cũng không biết đến Ta chỉ kêu ca nguyền rủa. Mùa màng hoa màu hư hỏng là tại các con. Hai con phải năng đọc kinh sáng tối lần chuỗi hạt Mân Côi kính Ta.” Sau cùng, Đức Mẹ bảo các em truyền bá cho người ta những điều Đức Mẹ dạy. (Chuỗi hạt Mân Côi với Đức Mẹ La Salette, TinMừng.net)

Trong Tin Mừng của lễ Mẹ Mân Côi, các Tông đồ thưa với Đức Giêsu rằng: "Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con." Hôm nay, chúng ta hiệp ý khấn xin Mẹ Mân Côi nhân đức quan trọng bậc nhất này. May mắn thay, Mẹ Maria đã thương ban cho người Kitô hữu tràng chuỗi Mân Côi. Mỗi khi lần chuỗi, là làm một cuộc hành trình đức tin với Mẹ Maria. Cuộc lữ hành trình đầy thử thách gian khổ, sầu bi, nhưng cũng tràn đầy vui mừng, hy vọng.

Thiên Chúa ở cùng Mẹ

Mẹ không chỉ tin, mà Mẹ còn hoàn toàn trông cậy, nồng nàn yêu mến, luôn sống đẹp lòng Chúa với tâm tình khiêm hạ, đơn sơ, trong sạch, nghèo khó. Sứ thần Gabriel đến kính chào Mẹ: "Mừng vui lên, hỡi Ðấng đầy ân sủng, Ðức Chúa ở cùng bà.” (Lc 1, 28)

Khi Thiên Chúa yêu thương, tuyển chọn và gọi một ai đó thi hành sứ vụ quan trọng, vượt khả năng, sức lực, trình độ của họ, Người thường hứa chắc chắn: “Ta sẽ ở với ngươi”, chẳng hạn, với Giacóp (St 28,13-15); với Môsê (Xh 3,12), với Giôsuê (Gs 1, 5.9), với Đavít (2Sm 7, 3), với Giêrêmia (Gr 1, 6-8), với Đức Maria (Lc 1, 28), với Phaolô (Cv 18, 10)...

“Thiên Chúa ở cùng” là hồng ân vô cùng cao quý, là hạnh phúc tuyệt đỉnh vô song, nhưng kèm theo biết bao đau khổ, gian lao, thử thách, hòng tôi luyện bản thân cho xứng đáng. Từ khi thân thưa hai tiếng “Xin Vâng,” Mẹ Maria sẽ chịu bao khổ ải, bao bất hạnh. Chịu nghi ngờ, khốn khổ khi mang thai, phải trốn chạy khỏi bị vua Hêrôđê truy sát, chịu lâm bồn nơi chuồng bò lừa hôi hám. Hoảng hốt thấy mất Con. Long đong theo Con giảng dạy. Kinh hoàng cuộc khổ nạn. Tan nát cõi lòng dưới chân thập tự.

“Thiên Chúa ở cùng” với các chứng nhân Tử Vì Đạo, ban sức mạnh anh dũng cho các ngài hy sinh chịu nhục hình, cũng như sẵn sàng hiến mạng sống vì đức tin. “Thiên Chúa ở cùng” với toàn thể Kitô hữu trong Hội Thánh chiến đấu, để trở nên chứng nhân giữa đời.

Mẹ cưu mang Con Chúa

Bà chị Elizabeth vui mừng thấy cô em Maria đến thăm, đã hớn hở chúc mừng Mẹ: "Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc.” (Lc 1, 42) Không chỉ sứ thần Gabriel từ trời xuống chúc tụng Mẹ, mà cả đến người trần cũng cung kính tuyên dương đại hồng phúc của Mẹ Maria.

Nhưng Đức Giêsu còn làm hơn thế nữa, đi xa hơn nữa, khi công khai tuyên bố rằng, những ai nghe và thực hành Tin Mừng, cũng đều trở nên anh chị em và mẹ của Người.“Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành.” (Lc 8, 21)

Vậy còn diễm phúc nào hơn, tất cả những ai tuân thủ Tin Mừng, đều có thể mang Chúa, có Chúa hiện diện trong tâm hồn. Không chỉ nghe và thực hành, mới được Chúa đến ở cùng, mà hơn nữa, qua mầu nhiệm Thánh Thể, chính Mình Thánh Chúa Giêsu còn yêu thương, từ bi, lân tuất, khiêm hạ, ngự vào trong lòng tín hữu.

Emmanuel

“Chỉ có một Thiên Chúa và là Cha mọi người hết thảy, Ðấng trên mọi người, giữa mọi người, và trong mọi người.” (Ep 4, 6) Thiên Chúa vẫn đang ở cùng nhân loại cho đến tận thế, tuy âm thầm, kín đáo và khiêm cung. Không chỉ ở trong Kitô hữu, mà còn ở trong tất cả mọi người, kể cả người không tin Chúa, từ chối Chúa. Vì ai cũng đều mang dấu ấn Đấng Tạo Hoá. “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ.” (St 1, 27)

Ngài quảng đại, hiện hữu ngay trong những người bạc phận, bé nhỏ, khốn nghèo, bệnh hoạn, tù đầy, bị xua đuổi, ruồng rẫy ra khỏi cộng đồng, sống bên lề xã hội. “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã viếng thăm; Ta bị tù đày, các ngươi đã đến với Ta." (Mt 25, 35-36)

Mở đầu và kết thúc Tin Mừng, thánh Matthêu cố tình làm nổi bật sứ vụ của Đức Giêsu, khi bắt đầu bằng Emmanuel, Thiên Chúa Ở Cùng, và kết thúc bằng lời hứa cam kết với các Tông đồ và với nhân loại: “Thầy ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế."(Mt 28, 20)

Lời chào của Thiên Thần: "Kính mừng Bà đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Bà..." và lời chào của Hội Thánh: "Chúa ở cùng anh chị em" có mang một ý nghĩa sâu xa, khả dĩ biến đổi cuộc đời con không? (Đường Hy Vọng, số 238)

“Lạy Chúa con chỉ là đầy tớ vô duyên, là đầy tớ vô duyên, vô duyên bất tài, con vô duyên bất tài. Nhưng con trung tín chân thành. Nhưng con trung tín chân thành. Con luôn trung tín chân thành.” (Hải Linh & Lm Vũ Đình Trác, Tình Chúa Yêu Tôi)

Vào Tháng Mân Côi, kính xin Mẹ cầu bầu cho chúng con ý thức sâu xa hai lời chào Mẹ, để chúng con biết Chúa luôn yêu thương ở cùng, giúp chúng con chiến thắng bản thân, vượt qua cám dỗ thử thách, nhân ái với tha nhân, mãi đồng hành cùng Mẹ trên đường hy vọng. Amen.

 

  1. Mẹ Mân Côi, Mẹ Hòa Bình

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

Ngày 21 tháng 9 vừa qua, Cao ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc đã long trọng vinh danh Nữ Tu Công Giáo Angelique Namaika và trao tặng cho chị giải thưởng Nansen. Đây là giải thưởng cao quý của Cao ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc để tôn vinh những người làm việc với những người tị nạn. Chị Angelique Namaika đã giúp thay đổi cuộc sống của hơn 2.000 phụ nữ và các bé gái đã bị buộc phải rời nhà của họ sau khi bị nhóm Quân đội Kháng chiến của Allah lạm dụng trong những năm dài địa ngục của họ. (x. Vietcatholic 30.9.2013).

Hôm nay ngày 7 tháng 10, Giáo hội suy tôn một phụ nữ diễm phúc nhất trần gian, đó chính là Đức Mẹ Mân Côi. Với tâm tình sùng mộ, mọi tín hữu suy tôn Mẹ Maria là Nữ Vương Ban Sự Bình An. Suốt tháng Mân Côi, Hội Thánh khắp nơi hướng về Đức Mẹ một cách đặc biệt. Lòng sùng kính của dân Chúa đối với Đức Mẹ trong thời gian này mang một đặc điểm riêng. Đó là cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi. Kinh Mân Côi là lời kinh hòa bình. Bằng chuỗi Mân Côi, Hội Thánh cầu nguyện cho hòa bình thế giới, mỗi người cầu xin bình an cho gia đình cho tâm hồn mình.

Lễ Đức Mẹ Mân Côi được ĐGH Piô V thiết lập để ghi nhớ chiến thắng của Hải quân Kitô giáo với quân Thổ Nhĩ Kỳ tại trận Lepanto ngày 7-10-1571. Chiến thắng là nhờ các tín hữu lần Chuỗi Mân Côi dâng kính Đức Mẹ ở Rôma vào ngày giao chiến. Một phép lạ của Đức Mẹ trong Tháng Mân Côi. ĐGH Leo XIII đã thiết lập Tháng Mười là tháng Mân Côi vào ngày 1-9-1883 và đã công bố con số kỷ lục là 11 Tông thư về Chuỗi Mân Côi trong triều đại Giáo hoàng của ngài.

Ngày lễ kính Đức Mẹ Mân Côi, suy tôn Mẹ là Nữ Vương Ban Sự Bình An với 3 lý do.

1. Lý do thứ nhất

Mẹ đã đóng góp cả cuộc đời mình cùng với Chúa Giêsu mà giải thoát con người khỏi ách nô lệ tội lỗi. Kinh Mân Côi, xét về phương diện mầu nhiệm suy gẫm, là kinh về Chúa Giêsu. Nhưng xét về nội dung thành phần của chuỗi hạt, tức là từng kinh Kính Mừng, thì đó là kinh về Đức Maria. Mẹ kết hợp cuộc đời mình với Chúa Giêsu qua 20 ngắm: Vui, Sáng, Thương, Mừng. Vui là vui với Chúa Giêsu trong mầu nhiệm nhập thể; Sáng cũng là sáng với Chúa Giêsu qua mọi nẻo lối rao giảng Tin Mừng; Thương là thương cùng với Chúa Giêsu trên đường Thánh giá; và Mừng còn là mừng cùng với Chúa Giêsu trong mầu nhiệm phục sinh. Mỗi ngắm như thế là mỗi phần đời khác nhau, nhưng liên kết cả 20 ngắm lại sẽ thấy cuộc đời của Đức Mẹ gắn bó với đời của Chúa Giêsu không rời nửa bước. Con đi đâu thì Mẹ theo đi đó: Con xuống thế làm người chuộc tội nhân loại, thì Mẹ cũng hiệp công với Con của mình từ đêm giáng sinh cho đến chiều tử nạn mà bước đi trên đường giải phóng nhân loại khỏi ách nô lệ tội lỗi. Con của Mẹ là Chúa Giêsu được xưng tụng là Hoàng Tử Hòa Bình, đến chuộc tội nhân loại, giao hòa con người với Chúa Cha, thì Mẹ vì sự gắn bó, hợp tác, hiệp công với Con của mình trong suốt hành trình như thế cũng đã trở nên Nữ Vương Hòa Bình cho toàn thế giới. Nếu Eva xưa đã để lại thảm họa, thì với Mẹ Maria cách riêng trong kinh Mân Côi, cách riêng hơn nữa trong lời kinh Ave Maria, nền hòa bình viên mãn của trời đã chính thức mở ra. Vì vậy, Đức Mẹ trong kinh Mân Côi, hay Đức Mẹ Mân Côi cũng chính là Nữ Vương Hòa Bình.

2. Lý do thứ hai

Vì Mẹ cũng hỗ trợ con người trong công cuộc xây dựng hòa bình với nhau.

Vào thế kỷ XIII, bè rối Albigeois nổi lên ở miền Nam nước Pháp. Với Chuỗi Mân côi do Đức Mẹ truyền dạy, chỉ trong một thời gian ngắn, thánh Đaminh đã cảm hóa được 150.000 người theo bè rối trở về cùng Giáo Hội.

Thế kỷ XVI, ảnh hưởng của Tin lành mạnh mẽ và đe dọa toàn cõi Âu Châu. Dân thành Luxembourg vẫn trung thành với Giáo Hội. Hôm ấy toàn thể dân phố được mời tới nhà thờ để nghe giảng thuyết. Khi vị mục sư bước lên tòa giảng, một người giáo dân xướng kinh và tất cả nhà thờ đều lần hạt to tiếng cho đến lúc vị mục sư phải bước xuống tòa giảng và ra khỏi nhà thờ. Nhờ kinh Mân Côi, dân thành Luxembourg giữ vững niềm tin và trung thành với Giáo Hội.

Năm 1511, lịch sử được chứng kiến một thành quả vĩ đại của Kinh Mân Côi mang lại. Chính biến cố lịch sử này là nguồn gốc lễ kính Thánh Mẫu Mân Côi. Khi ấy quân Hồi xâm lăng Âu Châu, tàn phá những nơi họ đi qua, tiêu diệt dân Công giáo. Cùng với việc triệu tập đạo quân thánh giá từ hai nước Ý và Tây Ban Nha, Đức Giáo hoàng Piô V kêu gọi mọi người siêng năng lần chuỗi Mân Côi.

Cuộc chiến quá chênh lệch đã diễn ra tại vịnh Lepante, nhưng với quân số ít ỏi và khí giới thô sơ, người Công giáo đã thắng trận vẻ vang trước đoàn quân Hồi giáo đông đảo và trang bị hùng hậu. Từ Roma, Đức Giáo hoàng nghe tin chiến thắng và nói với các vị trong giáo triều hãy tạ ơn Chúa. Hôm đó là ngày 07 tháng 10. Đức Giáo hoàng đã thiết lập lễ Mân Côi để tạ ơn Đức Mẹ và ghi nhớ cuộc chiến thắng lịch sử này.

Trước năm 1917, Bồ Đào Nha ở vào một tình trạng suy thoái một cách trầm trọng về phương diện tôn giáo. Gần hai thế kỷ, óc bè phái đã gây nên những chia rẽ và những cuộc nội chiến. Giáo Hội bị bách hại bởi những kẻ theo nhóm tam điểm. Nhà thờ bị phá hủy, các linh mục và tu sĩ bị bắt bớ, khắp nơi người ta tổ chức những đoàn hội chống lại Giáo Hội. Thế nhưng kể từ năm 1917, năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, Bồ Đào Nha đã đi vào một khúc quanh mới của lịch sử. Người ta tổ chức những đoàn hội chuyên lo lần hạt Mân Côi để xin Mẹ chấm dứt những xáo trộn và ban mọi ơn lành xuống cho đất nước. Bồ Đào Nha đã xứng đáng với tước hiệu quê hương của kinh Mân Côi.

Lịch sử còn ghi lại nhiều thành quả kỳ diệu khác nữa của Kinh Mân Côi. Chẳng hạn Kinh Mân côi đã mang lại chiến thắng tại Vienna ngày 12 tháng 9 năm1683, hay đã chấm dứt bệnh dịch tại Milan...

Chuỗi Mân Côi chính là một phương thế hòa bình hữu hiệu của mỗi tín hữu. Khi hiện ra tại Lộ Đức hay tại Fatima, Đức Mẹ đều kêu gọi chúng ta hãy siêng năng lần chuỗi Mân Côi. Ở đâu kinh Mân Côi được ưa chuộng, ở đó tước hiệu hòa bình đi liền với danh xưng của Mẹ cũng được mộ mến. Ở đâu kinh Mân Côi được cổ võ thì ở đó cũng vang lên lời cầu nguyện tha thiết: "Nữ Vương ban sự bình an, cầu cho chúng con". Xét về cấu trúc của kinh Mân Côi phần sau của mỗi ngắm chúng ta quen đọc "ta hãy xin cho được" ơn này ơn khác, hoặc phần sau của chính kinh Kính Mừng với câu "Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời...", chúng ta cũng thấy cả một dự phóng, cả một chương trình, cả một lời kinh dâng lên Mẹ Mân Côi mong hòa bình nội tâm, làm tiền đề cho cách cư xử giao hòa của con người với Thiên Chúa cũng như cách đối xử hòa bình giữa con người với nhau. Đằng nào cũng thế, giúp đỡ con người dập tắt chiến tranh năm xưa (lý do của lễ Mân Côi) hay là nâng đỡ con người xây dựng hòa bình hôm nay, Đức Mẹ Mân Côi trong lòng Giáo Hội chính là tượng đài Nữ Vương Hòa Bình.

3. Lý do thứ ba

Vì Mẹ còn khuyên tất cả mọi tín hữu siêng năng lần hạt và coi chuỗi kinh Mân Côi như là phương tiện hun đúc hòa bình. Ngày 13 tháng 10 năm 1917 tại Fatima, Đức Mẹ đã hiện ra và ban sứ điệp: cải thiện đời sống, siêng năng lần hạt, tôn sùng trái tim Mẹ. Đây chính là lộ trình nên Thánh bao gồm ba bước tiếp theo nhau. Chuỗi Mân Côi được đặt như một nhịp cầu giữa một bờ là tội lỗi nhân loại và bờ bên kia chính là ơn thánh hóa của Thiên Chúa. Cũng như việc lần hạt chuyên cần là một phương tiện hiệu quả giúp chúng ta đạt được hòa bình. Chính trong ý nghĩa này, kinh Mân Côi phải được gọi là Kinh của hòa bình. Bao giờ cũng thế, trong nghệ thuật công giáo, Đức Mẹ không đứng một mình, luôn luôn có Chúa Giêsu hiện diện, hoặc trong những thế kỷ gần đây tại Lộ Đức, cũng như tại Fatima, Đức Mẹ hiện diện với chuỗi Mân Côi. Nếu có ai hỏi tôi: Đức Mẹ có lần hạt không? Chắc chắn tôi sẽ đưa ra lời khẳng định: Có. Không chỉ vì Đức Mẹ đã lần chuỗi chung với ba trẻ ở Fatima hoặc với cô Bernadette ở Lộ Đức, mà còn ngay trong mầu nhiệm của chuỗi kinh Mân Côi đã có sự hiện diện của Đức Mẹ rồi. Có nghĩa là Mẹ cùng lần hạt với chúng ta và hơn nữa Mẹ kêu gọi chúng ta lần hạt. Cá nhân lần hạt Mân Côi, cá nhân vui sống thảnh thơi an bình; gia đình lần chuỗi Mân Côi, gia đình hạnh phúc một đời an vui. (x. ĐGM Giuse Vũ Duy Thống, bài giảng tại Tàpao ngày 13-10-2011).

Giáo hội tôn vinh Đức Mẹ Mân Côi là Nữ Vương Hòa Bình. Chuỗi Mân Côi là chuỗi kinh của nền hòa bình. Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận khuyên nhủ: "Chuỗi Mân Côi là giây ràng buộc con với Mẹ, là cuốn phim kỷ niệm con đường hy vọng của Mẹ: âu yếm như Bêlem, khắc khoải như Ai Cập, trầm lặng như Nazareth, lao động như xưởng mộc, sốt sắng như đền thờ, cảm động lúc Chúa giảng, đau khổ bên thánh giá, vui mầng lúc phục sinh, tông đồ bên thánh Gioan. Tóm tắt lại, Chúa sống trong Mẹ, Mẹ trong Chúa, hai cuộc đời chỉ là một. Đừng bỏ chuỗi Mân Côi Mẹ đã trao và nhắn nhủ con sống như Mẹ, với Mẹ, nhờ Mẹ, trong Mẹ" (Đường Hy vọng số 922); "Ai mến Mẹ thì yêu thích chuỗi Mân Côi. Bởi vì chỉ có người yêu mới lặp lại một chuyện, một lời mà không biết nhàm chán" (Đường Hy vọng số 947).

Lạy Mẹ Mân Côi, Nữ Vương Hòa Bình, xin giúp chúng con siêng năng lần hạt Mân Côi. Nhờ đó, chúng con có thể cộng tác với Mẹ trong công cuộc xây dựng nền hòa bình thế giới và đem ơn cứu độ cho muôn dân. Amen.

 

  1. Lễ Mẹ Mân Côi

(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)

Tin Mừng Lc 1: 26-38 Năm 1571, lịch sử được chứng kiến một thành quả vĩ đại của kinh Mân Côi. Cuộc chiến thắng xảy ra hết sức lạ lùng, nhờ hiệu quả của kinh Mân Côi. Chính biến cố lịch sử này là nguồn gốc lễ kính Thánh Mẫu Mân Côi.

Lễ mừng kính Đức Mẹ Mân Côi được Đức Giáo Hòang Piô V, xuất thân từ dòng Đa Minh lập ra vào năm 1572, với tước hiệu là lễ "Đức Mẹ Chiến Thắng" để cảm tạ Đức Mẹ đã giúp đạo quân Công Giáo chặn đứng cuộc xâm lăng của người Hồi Giáo tại vùng Lepante ngày 07/10/1571.

Năm 1571, lịch sử được chứng kiến một thành quả vĩ đại của kinh Mân Côi. Cuộc chiến thắng xảy ra hết sức lạ lùng, nhờ hiệu quả của kinh Mân Côi. Chính biến cố lịch sử này là nguồn gốc lễ kính Thánh Mẫu Mân Côi.

Nếu nguồn gốc của lễ Mân Côi ngày 7 tháng 10, bắt nguồn từ việc các tín hữu Âu Châu thành công trong việc phòng thủ, trước sức tiến công như vũ bão của quân đội Thổ Nhĩ Kỳ năm 1571, tại vịnh Lepante thời thánh giáo hoàng Piô V, thì cũng từ đó, Giáo Hội cổ võ tín hữu đặc biệt cầu nguyện bằng chuỗi hạt quý giá này.

Cổ võ không phải để mừng kính chiến thắng tại Lepante, nhưng cổ động lòng tin vào sự can thiệp của Đức Maria qua các thời đại.

Tin tưởng vào sự cầu bầu của Đức Mẹ trong buổi sơ khai cũng như dọc suốt lịch sử của Giáo Hội, chúng ta kêu cầu Mẹ qua tràng chuỗi Mân Côi.

Kinh nghiệm cho thấy, nhờ kinh Mân Côi, Đức Maria đã can thiệp mạnh mẽ vào đời sống cá nhân, gia đình cũng như các cộng đoàn, can thiệp một các mạnh mẽ và hiệu quả, nhiều khi quá sự mong ước của chúng ta.

Chính vì vậy chúng ta lắng nghe lời kêu gọi của vị Cha Chung Giáo Phận: “Tháng Mười năm nay là một tháng rất đặc biệt. Không chỉ là tháng Mân Côi và cũng không chỉ có ngày Thế Giới Truyền Giáo vào Chúa Nhật ngày 20 tháng 10, nhưng theo ý muốn của Đức thánh Cha Phanxicô, vị Cha Chung của chúng ta, đây là “Tháng Đặc Biệt Truyền Giáo”. Vì thế, tôi kêu gọi mọi thành phần Dân Chúa trong giáo phận Phú Cường chúng ta hãy bước vào tháng 10 năm 2019 này trong tinh hiệp thông sâu xa với Đức Thánh Cha Phanxicô và nhiệt tình hưởng ứng lời kêu gọi của ngài. Chúng ta hãy cùng cử hành Tháng Đặc Biệt Truyền Giáo này trong nỗ lực cầu nguyện cho công cuộc Loan Báo Tin Mừng và phát huy những sáng kiến nhằm khơi dậy ý thức về sứ mệnh truyền giáo của mọi tín hữu trong lòng Giáo Hội, cũng như sự nhiệt tình dấn thân trong việc loan báo Tin Mừng.

Việc này không chỉ giới hạn trong thánh Mười năm nay, nhưng cần được tiếp tục trong đời sống Kitô hữu, cách đặc biệt như một sự khởi động để giáo phận bước vào năm mục vụ mới, năm ‘hiệp thông loan báo Tin Mừng’ là đỉnh cao của định hướng mục vụ bốn năm của giáo phận, tức là “hiệp thông trong đức tin và đức ái để loan báo Tin Mừng”

Vậy “hiệp thông loan báo Tin Mừng” là gì và hiệp thông và truyền giáo có liên hệ gì với nhau?

1. Hiệp Thông và Truyền Giáo liên kết chặt chẽ với nhau.

- Hiệp Thông và Truyền Giáo liên kết mật thiết với nhau, cả hai giải thích và bao hàm nhau, đến độ sự Hiệp Thông cho thấy nguồn gốc và đồng thời cả kết quả của việc Truyền Giáo. Một đòi hỏi thiết yếu của cuộc sống trong Đức Kitô là hễ ai hiệp thông với Chúa thì phải sinh hoa kết quả: ”ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, người ấy sẽ sinh nhiều hoa trái.” Như thế, thật chính xác khi bảo rằng ai không sinh hoa kết quả, thì ấy là người đã không sống trong sự hiệp thông: ”cành nào không sinh hoa trái thì Cha Thầy sẽ tỉa đi.” Hiệp Thông với Đức Kitô, và từ đó phát sinh sự hiệp thông giữa các Kitô hữu với nhau, chính là điều kiện cần thiết để sinh hoa kết quả: và sự hiệp thông với người khác, một món quà của Đức Kitô và Thánh Thần, chính là hoa quả tuyệt vời nhất mà cành cây có thể sinh ra. Hiểu như thế thì hiệp thông và tuyền giáo là hai việc không thể tách rời nhau. Chúng thẩm thấu và bao hàm nhau, đến nỗi có thể nói “hiệp thông vừa là gốc vừa là hoa trái của việc truyền giáo: hiệp thông đưa tới truyền giáo và truyền giáo được hoàn thành trong sự hiệp thông.”

- Hiệp Thông và Truyền Giáo liên kết mật thiết với nhau vì Hiệp Thông mang tính Truyền Giáo và Truyền Giáo nhằm mục đích Hiệp Thông. Luôn luôn cùng một Thánh Thần duy nhất, Đấng kêu gọi và hiệp nhất Giáo Hội, sai đi truyền giảng Tin Mừng “cho đến tận cùng trái đất.” Về phần mình, Giáo Hội ý thức rằng sự Hiệp Thông mà Giáo Hội đã đón nhận như một hồng ân, là được ban cho hết thảy mọi người. Như thế, Giáo Hội cảm nhận được rằng mình mắc nợ với hết mọi người và với từng người, về hồng ân đã lãnh nhận từ Chúa Thánh Thần, Đấng gieo vào lòng người tín hữu tình mến của Chúa Giêsu Kitô, là sức mạnh nối kết bên trong và đồng thời phát triển bên ngoài. Sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội phát xuất từ chính bản chất của Giáo Hội, như ý định của Đức Kitô, đó là trở thành “dấu chỉ và khí cụ …. của sự hiệp nhất nhân loại”. Sứ vụ này nhắm bày tỏ và giúp mọi người sống sự Hiệp Thông “mới”, sự Hiệp Thông đã đến trong lịch sử nhân loại qua Con Thiên Chúa làm người.

2. Sống Mầu Nhiệm Hiệp Thông

- Giáo xứ là một cộng đoàn “luôn luôn hiệp thông với nhau”, giữa linh mục và giáo dân cũng như giữa giáo dân với nhau. Sự Hiệp Thông trong cộng đoàn được thể hiện qua sự tôn trọng, cộng tác và chia sẻ. Thật vậy, trên nền tảng bí tích Rửa Tội, mọi tín hữu đều bình đẳng với nhau về phẩm giá, cho nên phải tôn trọng lẫn nhau, tránh mọi hình thức phân biệt đối xử. Đồng thời phải cộng tác và chia sẻ với nhau để cùng xây dựng ngôi nhà chung là giáo xứ và thi hành sứ mạng chung là loan báo Tin Mừng cho muôn dân.”

- Đời sống gia đình Kitô hữu đã là đời sống cộng đoàn hướng tới Hiệp Thông. Bàn ăn là nơi cả nhà vui vẻ sum vầy ăn chung trong thanh bình đầm ấm; và bàn thờ là nơi cả nhà cầu nguyện chung tạo nên giờ phút hồi tâm sau một ngày, hay một tuần, một tháng. Thế nhưng, giáo xứ mới là nơi các tín hữu có thể tập họp quanh Bàn Tiệc Thánh Thể, là trung tâm đời sống phụng vụ của các gia đình Kitô giáo; đó là nơi tốt nhất để dạy giáo lý cứu độ của Chúa Kitô, cho trẻ nhỏ và cho cha mẹ chúng, và là nơi thuận tiện cho việc thực thi bác ái, từ thiện và huynh đệ. Như vậy, đời sống cộng đoàn giáo xứ hướng tới sự Hiệp Thông sâu hơn, cao hơn, rộng lớn hơn trong cộng đoàn nhỏ gia đình.

- Đời sống trong cộng đoàn Hội Thánh tại địa phương, mà đỉnh cao là Cộng Đoàn Thánh Thể, là biểu hiện sự Hiệp Thông với Thiên Chúa nhờ Chúa Kitô trong Chúa Thánh Thần, mang tính bí tích đó. Biểu hiện bí tích đó nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần, ơn Thông Hiệp, mà thành hiện thực cho cộng đoàn cử hành. Hiện thực Tình Yêu đó vừa là hiệu quả của ân sủng vừa là do sự tham dự tự do của tín hữu. Hoa quả của ân sủng và lòng tin đó thể hiện qua thái độ sống thường nhật trong cộng đoàn giữa các thành viên và với người khác: đó là “nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật … tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hi vọng tất cả, chịu đựng tất cả.”

Sống tình yêu thương cụ thể bằng việc nghĩ tốt, nói tốt, làm tốt cho nhau; cảm thông chia sẻ và mau mắn đáp ứng nhu cầu của nhau; quảng đại tha thứ lỗi lầm cho nhau; năng thăm hỏi và động viên khen ngợi đúng lúc; phê bình góp ý cách tế nhị để giúp nhau sửa lỗi; biết tôn trọng nhau khi giao tiếp và có tinh thần trách nhiệm đối với việc chung. Tránh nói xấu nhau, không tranh cãi to tiếng, tránh thái độ vô trách nhiệm với việc chung, nhất là tránh lạm dụng tín nhiệm vay mượn tiền bạc, thường là nguyên nhân gây bất hòa và làm tan rã các gia đình trong giáo xứ.

3. Sống Mầu Nhiệm Hiệp Thông để Truyền Giáo

- Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc nhớ rằng “giáo xứ là sự hiện diện của Hội Thánh tại một địa phương nhất định… giáo xứ là một cộng đoàn của các cộng đoàn, một thánh điện để những người khát nước đến uống dọc đường, và một trung tâm thường xuyên vươn ra truyền giáo. Tuy nhiên, phải nhìn nhận rằng lời kêu gọi xem xét lại và canh tân các giáo xứ của chúng ta vẫn chưa đủ sức đưa các giáo xứ trở thành những môi trường sống hiệp thông và tham dự, và làm cho giáo xứ trở nên hoàn toàn hướng về truyền giáo”.

- Mỗi Giáo Hội địa phương phải được xây dựng trên những chứng từ của sự hiệp thông Hội Thánh, đó vốn là điều làm nên chính bản chất của Giáo Hội. Giáo Phận và Giáo Xứ là sự Hiệp Thông của các cộng đoàn, tập hợp xung quanh Vị Mục Tử, trong đó các giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân “đối thoại trong cuộc sống và bằng con tim” được nâng đỡ bởi ân sủng của Chúa Thánh Thần. Chính trong giáo phận sự hiệp thông của các cộng đoàn này được thực hiện trước hết ngay giữa lòng các thực tại xã hội, chính trị, kinh tế, tôn giáo và văn hóa. Sự Hiệp Thông Hội Thánh đó hàm nghĩa mỗi Giáo Hội địa phương phải trở thành một “Giáo Hội Tham Gia” (partipatory Church), có nghĩa là, một Giáo Hội trong đó mọi người đều sống ơn gọi riêng của mình và thực hiện vai trò riêng của mình. Để xây dựng sự “Hiệp Thông để Truyền Giáo” và “Truyền Giáo bằng Hiệp Thông”, đặc sủng của mỗi thành viên cần được nhìn nhận, phát huy, và sử dụng cách hiệu quả. Cách riêng, cần để cho giáo dân và tu sĩ tham gia sâu xa hơn nữa trong việc lên kế hoạch mục vụ và ra quyết định, thông qua các cơ chế tham gia như là Hội Đồng Mục Vụ hay các Công Hội Giáo Xứ.

4. Một Linh Đạo Hiệp Thông đích thực

Một Linh Đạo Hiệp Thông đích thực cần phải:

- Đâm rễ sâu trong đời sống Chúa Ba Ngôi, và trở thành một cộng đoàn cầu nguyện và chiêm niệm, một cộng đoàn cử hành Bí Tích Thánh Thể.

- Tham gia và đồng trách nhiệm, hiệp nhất với chủ chăn cũng như với Giáo Hội.

- Làm chứng cho những điều mình tuyên xưng, để cho những giá trị đó nhập thể vào trong lối sống của mình, diễn tả chúng trong cách thế hiện diện, đối thoại và thực hành của mình trong mọi lãnh vực của cuộc sống.

 

  1. Mẹ Mân Côi – Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Lời Chúa: Cv. 1,12-14; Gl. 4,4-7; Lc 1,26-38

Có một gia trưởng trẻ, trước đây, anh ta rất ít đi lễ, nếu có đi lễ, anh cũng thường đứng dưới góc sân nhà thờ. Gần đây, anh ta có dấu hiệu thay đổi, anh thường xuyên đi lễ và sau lễ còn đứng lại viếng Đức Mẹ rất lâu. Cha ngạc nhiền hỏi sở lấy làm thăm anh: Gia đình có chuyện gì mà thời gian gần đây thấy anh đi đễ và viếng Đức Mẹ sốt sắng quá? Anh trả lời: Thưa cha, con đi Tapao và được thấy Đức Mẹ. Từ đó đến nay, mỗi tháng con đều đi Tapao vào ngày mười ba trong tháng. Ngày nào vợ chồng con trước khi đi ngủ cũng lần chuỗi. Hôm nào chưa lần chuỗi thì con không thể ngủ được. Sau khi nghe anh kể, cha sở suy nghĩ: Không biết anh có nhìn thấy Đức Mẹ thật hay không, nhưng việc anh thay đổi một cách nhanh chóng như thế quả là một phép lạ Đức Mẹ đã thực hiện trên cuộc đời của anh. Ai cũng ngạc nhiên khi thấy anh từ một người hờ hững trở thành một người sốt sắng, từ một người dửng dưng với giáo xứ, nay trở thành một tông đồ nhiệt thành.

Trong lịch sử Giáo hội đã có biết bao người nhận được ơn biến đổi cũng như những phép lạ từ Đức Maria qua tràng chuỗi Mân Côi. Kinh Mân côi là lời kinh đơn sơ, bình dân, ai cũng có thể thuộc và có thể đọc ở bất cứ đâu, bất cứ khi nào, và cũng là lời kinh đem bao nhiêu ơn Chúa và phép lạ đến cho người tín hữu. Đức Thánh Giáo hoàng Gioan-Phaolô II là một bằng chứng về sự can thiệp của Mẹ Maria. Ngài hết lòng yêu mến Đức Mẹ và yêu mến việc lần chuỗi Mân Côi. Ngài cổ vũ và mời gọi mọi người cùng đọc kinh Mân Côi. Chính Ngài đã thiết lập thêm Năm Mầu Nhiệm Sự Sáng vào chuỗi Mân Côi để mọi người cùng suy gẫm.

Có một biến cố lớn trong cuộc đời của Ngài liên quan đến Đức Mẹ mà chúng ta không thể quên. Đó là vào ngày 13/5/1981, ngày lễ Đức Mẹ hiện ra tại Fatima. Trong khi Đức Thánh Cha chào thăm khách hành hương tại quảng trường Thánh Phêrô, thì một loạt đạn đã bắn vào Ngài. Đức Thánh Cha ngã xuống, cả quảng trường Thánh Phêrô rung động bởi tiếng khóc và lời kinh Mân Côi. Thật là phép lạ khi các viên đạn chỉ cách trái tim của ngài vài centimet. Mọi người đều tin rằng, đó là nhờ sự che chở của Đức Mẹ,

Ai đã đến các trung tâm hành hương Đức Mẹ, sẽ thấy rõ lòng yêu mến của người tín hữu dành cho Mẹ. Biết bao người đã được ơn của Đức Mẹ, trong đó có cả những người không phải là Kitô hữu. Điều đó cho thấy rằng, Đức Maria thực sự là người Mẹ thiêng liêng của tất cả mọi người. Nếu trong đời sống thường ngày, mỗi khi gặp khó khăn, chúng ta chạy đến với mẹ của mình, thì trong đời sống đức tin cũng vậy, chúng ta hãy tin tưởng chạy đến với Mẹ Maria, chắc chắn Mẹ không bao giờ từ chối chúng ta.

Mẹ là Đấng quyền thế trước mặt Thiên Chúa. Mẹ đã hoàn toàn dâng trọn cuộc đời cho chương trình cứu độ của Chúa. Mẹ không tiếc gì với Thiên Chúa, vì thế Thiên Chúa cũng không tiếc gì với Mẹ. Vì được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn và gìn giữ, Mẹ trở nên như bông hoa trinh trong trước toà Thiên Chúa. Trong ngày sứ thần truyền tin, Thiên Chúa đã ngỏ lời với Mẹ, đã mời Mẹ cộng tác vào chương cứu chuộc của Thiên Chúa. Mặc dù không hiểu hết ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa, Mẹ vẫn sẵn sàng xin vâng để cho Thiên Chúa thực hiện.

Câu chuyện truyền tin cho thấy, Sứ thần Gabriel hết sức cung kính khi gặp Mẹ. Sứ Thần đã chào Mẹ: Kính chào Bà đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng Bà. Điều đó nói lên rằng, Mẹ là người luôn được sống trong ân phúc của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa đã nhìn đến Mẹ ngay từ ngàn xưa, Thiên Chúa đã gìn giữ Mẹ trong trắng tuyệt vời và Thiên Chúa luôn ở cùng Mẹ. Thiên Chúa là Đấng Thánh, Ngài cư ngụ ở nơi thánh và nơi nào Ngài cư ngụ, Ngài sẽ làm cho nó nên thánh. Điều đó thật đúng nơi Đức Maria. Vì Thiên Chúa ở cùng Mẹ, nên Ngài đã biến tâm hồn và con người của Mẹ nên đền thánh của Ngài. Trong biến cố truyền tin, Thiên Chúa đã hết sức tôn trọng tự do của Mẹ. Ngài đã sai Sứ Thần hỏi ý kiến Mẹ, để chọn cung lòng Mẹ làm nơi cho Con Thiên Chúa làm người.

Dù không hiểu hết những gì sẽ xảy ra, không hiểu việc mang thai và sinh con sẽ như thế nào, tương lai sẽ ra sao, nhưng trước lời mời gọi của Thiên Chúa, Mẹ đã sẵn sàng thưa xin vâng: Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Sứ Thần truyền. Mẹ đã khiêm tốn để cho Thiên Chúa sử dụng trọn cuộc đời của mình, Mẹ đã dâng cho Chúa cung lòng mình làm nơi cho Con Thiên Chúa cư ngụ.

Kể từ khi thưa tiếng xin vâng, cuộc đời của Mẹ bước qua giai đoạn mới, đó là giai đoạn phục vụ Chúa Cứu Thế, cũng là người con bé nhỏ trong bụng Mẹ. Với một người mẹ bình thường thì công sinh dưỡng là trời bể. Mẹ thì không dám kể công sinh dưỡng Đấng Cứu Thế, nhưng chắc chắn, Chúa Cứu Thế sẽ không thể quên công ơn trời biển này được. Vì thế, lời chuyển cầu của Mẹ quả là có thần thế trước mặt Thiên Chúa. Thiên Chúa không thể từ chối lời Mẹ khẩn xin.

Lời kinh Kính Mừng Maria là lời Giáo hội lặp lại lời Sứ Thần ca tụng Mẹ, cũng đồng thời là lời tán dương Thiên Chúa về sự kỳ diệu Thiên Chúa đã thực hiện trên cuộc đời Mẹ. Do đó, Kinh Kính Mừng là lời kinh phù hợp nhất, tốt đẹp nhất mà cả Giáo hội tạ ơn Thiên Chúa và chiêm ngắm những kỳ công Thiên Chúa đã thực hiện nơi Mẹ.

Tràng chuỗi Mân Côi là sự tóm kết tất cả chương trình cứu độ của Thiên Chúa qua từng biến cố, trong đó, Mẹ Maria là cộng tác viên đắc lực của Chúa. Khởi đầu từ màu Nhiệm Nhập thể, Con Thiên Chúa xuống thế làm người, Đức Maria được chia sẻ vào niềm vui vì ơn cứu độ đã được thực hiện. Niềm vui ấy được đầy tràn trong tâm hồn Mẹ, vì Mẹ đã đón nhận Đấng Cứu Thế, đã sinh hạ Con Thiên Chúa, được bồng ẵm Ngài trên tay và nuôi dưỡng Ngài bằng dòng sữa của Mẹ. Mẹ Maria âm thầm theo Chúa suốt hành trình truyền giáo như một người môn đệ. Những lúc Chúa thành công, được nhiều người ca tụng, Mẹ chỉ đứng lẫn vào đám đông như mọi người. Nhưng khi Chúa Giêsu gặp thất bại, bị người đời chống đối, Mẹ Maria đã đứng ra như một người Mẹ, hết sức can đảm để hiện diện và an ủi Chúa Giêsu. Đặc biệt trong hành trình thập giá, khi mọi người gào thét tìm cách giết Chúa, các môn đệ bỏ trốn, thì một mình Mẹ đã theo Chúa đến chân thập giá để cùng chia sẻ và đón nhận đau khổ của Chúa vào tâm hồn Mẹ.

Vì theo sát Chúa trên hành trình thập giá, nên trong ngày vinh quang phục sinh, Mẹ cũng chính là người được hưởng niềm vui và ơn phúc Phục sinh đầu tiên từ Chúa Giêsu, con của Mẹ. Mẹ đã hiện diện trong nhà Tiệc ly với các tông đồ như người Mẹ của Giáo hội và cũng là người tín hữu, để cùng cầu xin Chúa Thánh Thần hiện xuống. Với cả một cuộc đời trung thành trọn vẹn với Chúa trong lời thưa Xin vâng, Thiên Chúa đã trọng thưởng cho Mẹ đặc ân được đưa về trời cả hồn và xác trước thời hạn, và còn tặng ban cho Mẹ vinh dự làm Nữ Hoàng Thiên Quốc, để Mẹ tiếp tục cầu bầu cho Giáo hội và cho mỗi chúng ta.

Mừng lễ Đức Maria Mân Côi hôm nay, chúng ta cùng với Mẹ tạ ơn Thiên Chúa vì Thiên Chúa đã chọn Mẹ làm cộng tác viên của Ngài và còn trao ban cho Mẹ vinh quang và danh dự, để từ nơi toà thiên Chúa, Mẹ vẫn tiếp tục che chở chúng ta. Tin tưởng như thế, để mỗi người hãy cầm lấy tràng chuỗi Mân Côi để ca tụng Chúa và khấn xin Đức Mẹ che chở chúng ta trên hành trình dương thế này. Đừng bao giờ nghĩ kinh Mân Côi là nhàm chán, cũng đừng cho đó là lời kinh của người già, nhưng Kinh Kính Mừng là lời kinh thích hợp cho tất cả mọi người và là lời kinh hiệu quả nhất cho mọi lời cầu xin.

Khi đọc Kinh Kính Mừng là chúng ta tin tưởng chạy đến với Thiên Chúa qua Mẹ Maria, chúng ta nại đến lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa và công ơn cứu chuộc của Chúa Giêsu. Do đó, Thiên Chúa không thể không đón nhận lời Mẹ chuyển cầu cho chúng ta. Hãy chuyên chăm đọc Kinh Kính Mừng mỗi ngày, Mẹ sẽ chỉ cho chúng ta biết noi gương Mẹ sống đẹp lòng Chúa. Kinh Kính Mừng sẽ đem lại cho các gia đình sự bình an, êm ấm, sẽ xua tan sự dữ và ma quỷ trong gia đình, vì có Chúa và Đức Mẹ hiện diện, thì không có ma quỷ hay sự dữ nào có thể làm hại chúng ta được. Amen.

 

  1. Quà tặng

Kinh nghiệm sống cho chúng ta thấy: Quà tặng thường làm dịu lại cõi lòng con người, là một thứ nam châm hút tình cảm của kẻ khác, là một loại keo dính, là một thứ dây cột chặt người khác lại với chúng ta. Và Kinh Thánh đã đưa ra những mẩu chuyện điển hình: Giacop đã bảo con đem dâng hoa trái lên quan đại thần, để người con của Simeon bị quan phạt được tha thứ. Abigail cũng đã đem nhiều lễ vật dâng cho Đavit, để xin nhà vua xá tội cho Nabal.

Còn chúng ta thì sao? Bước vào giữa tháng 10, nhưng chúng ta đã dâng lên cho Mẹ được những gì? Chúng ta nên nhớ rằng: Dâng kính Mẹ thì không bao giờ chúng ta bị thua lỗ, bị thiệt thòi. Cũng như cha mẹ ở đời phải hy sinh nhiều vì con cái, chứ mấy khi ngược lại. Cha mẹ bao giờ cũng yêu thương con cái nhiều hơn là con cái yêu thương cha mẹ.

Với niềm tin đó, chúng ta hãy đến với Mẹ hôm nay vì không ai đến với Mẹ mà lại phải ra về tay không. Hãy mang theo một thứ quà tặng đẹp lòng Mẹ nhất, đó là kinh Mân côi.

Như chúng ta đã biết kinh Mân Côi xuất phát từ lời Chúa. Chẳng hạn kinh Lạy Cha là khuôn mẫu cho mọi tâm tình cầu nguyện mà chính Chúa Giêsu đã truyền dạy cho chúng ta. Còn kinh Kính Mừng là lời chào kính của sứ thần Gabriel, của bà Isave hợp với lời kêu xin của cộng đồng dân Chúa. Rồi những sự việc đều là những biến cố trong cuộc đời của Chúa. Và chúng ta có thể nói: Kinh Mân côi chính là cuốn Tin Mừng được rút gọn.

Ngoài ra kinh Mân côi là một lời kinh bình dân, dễ nhớ, dễ đọc và dễ suy gẫm, nhờ đó mà cuộc đời chúng ta được thấm nhuần tinh thần Phúc Âm, cũng như nhờ đó chúng ta tìm thấy nguồn nghị lực và niềm hy vọng cho bản thân.

Hơn thế nữa, trải qua dòng thời gian kinh Mân Côi đã đem lại biết bao nhiêu ơn lành cho cá nhân, cho xã hội, cho dân tộc cũng như cho toàn thể nhân loại. Đặc biệt là trong phạm vi gia đình, bởi vì gia đình là tế bào đầu tiên của xã hội, là vườn ươm trồng cây đức tin cho con cái. Đức Thánh Cha Piô XII đã diễn tả: Không cảnh nào êm đẹp cho bằng cảnh tượng gia đình, mỗi khi màn đêm buông xuống, cùng nhau dâng lên những lời kinh ca tụng Nữ Vương trời đất, nhờ đó mà mọi người trong gia đình sẽ xích lại gần nhau hơn, cũng như sẽ được gặp nhau trong tình thương của Mẹ.

Từ những điều vừa trình bày chúng ta có thể đi tới một kết luận: Yêu Mẹ là yêu kinh Mân côi. Bởi vì chỉ trong tình yêu chúng ta mới thích lặp đi lặp lại một lời bất tận mà không nhàm chán. Vậy chúng ta có lần hạt mân côi vì tình yêu mến Mẹ hay không? Chúng ta đã thực hiện lời Mẹ truyền dạy hay chưa. Kinh mân côi phải trở nên như lễ vật Abel chúng ta dâng tiến Mẹ mỗi khi chiều xuống. Mỗi lời kinh mân côi sẽ là như một hạt ngọc chúng ta thu tích vào kho tàng thiêng liêng của chúng ta, mỗi lời kinh mân côi sẽ là như một tấm ván đóng cho chúng ta con thuyền của Noe, để với con thuyền này chúng ta sẽ vượt qua biển trần gian để tiến tới bờ bến vĩnh cửu là quê trời.

Ước gì lời kinh mân côi sẽ là lễ vật thường xuyên chúng ta dâng kính Mẹ, hôm nay cũng như mai ngày, nhờ đó mà chúng ta biểu lộ được lòng tôn sùng kính mến của chúng ta đối với Mẹ.

 

  1. Đức Mẹ Mân Côi – Gm. Farrell

(Gm. Farrell – Chuyển ngữ: Trầm Thiên Thu)

Hơn 100 năm qua, người Công giáo đã cử hành Tháng Mười là Tháng Mân Côi. Việc sùng kính này đã được ĐGH Leo XIII (1810-1903) thiết lập ngày 1-9-1883 và đã công bố con số kỷ lục là 11 Tông thư về Chuỗi Mân Côi trong triều đại giáo hoàng của ngài.

Việc dành riêng Tháng Mười là Tháng Mân Côi mời gọi chúng ta thêm siêng năng lần Chuỗi Mân Côi, không chỉ trong Tháng Mười mà suốt cả năm và suốt cả đời.

Ngày 7 tháng 10, chúng ta mừng lễ Đức Mẹ Mân Côi. Lễ này được Thánh GH Piô V thiết lập để ghi nhớ chiến thắng của Hải quân Kitô giáo đối với quân Thổ Nhĩ Kỳ tại trận Lepanto ngày 7-10-1571. Chiến thắng này nhờ người ta lần Chuỗi Mân Côi dâng kính Đức Mẹ ở Rôma vào ngày giao chiến.

Theo thời gian, không còn ai nhớ rõ nguồn gốc. Việc lần chuỗi hạt là thói quen xưa trước thời kỳ Kitô giáo, nhưng người Công giáo đã dùng Chuỗi Mân Côi hằng thế kỷ qua. Mới đầu, người ta gọi là “những hạt kinh Lạy Cha” vì người ta dùng để đếm 150 kinh Lạy Cha (Paternosters). Một số người cho rằng 150 kinh Lạy Cha được thay thế bằng việc ngâm 150 Thánh vịnh cho những ai không đọc.

Truyền thuyết đạo đức này được cho là nguồn gốc của Chuỗi Mân Côi như chúng ta biết là “công” của Thánh Đa Minh (Dominic), nhưng không có dữ liệu nào xác định truyền thuyết này. Tuy nhiên, đó là một tu sĩ Dòng của Thánh Đa Minh, người thiết lập 15 Lời Hứa Mân Côi từ thế kỷ XV, và một tu sĩ Dòng Carthusia là Đa Minh Prussia đã thêm phần suy niệm vào kinh Kính Mừng. 15 mầu nhiệm truyền thống được Thánh GH Piô V tiêu chuẩn hóa.

Kinh Mân Côi là lòng sùng kính Đức Mẹ, thể hiện truyền thống Công giáo tin Đức Mẹ là Đấng dẫn đường đến với Chúa Giêsu như câu chuyện tiệc cưới Cana (Ga 2:8), Đức Mẹ đã nói với gia nhân “làm theo lời Chúa Giêsu bảo”.

Vẻ đẹp của kinh Mân Côi gấp đôi. Thứ nhất là tính đơn giản, thứ nhì là dẫn chúng ta đến với Chúa Giêsu qua các mầu nhiệm của cuộc đời Ngài, cuộc khổ nạn và sự phục sinh của Ngài. Chuỗi Mân Côi đã và đang theo vô số người trên hành trình đến với Chúa Cha.

 

  1. Lễ Mẹ Mân Côi

(Trích dẫn từ ‘Sống Tin Mừng’)

“Hỡi Maria, xin đừng sợ, vì Bà được đầy ơn phước trước Thiên Chúa, Bà sẽ cưu mang và sinh hạ một con trai và đặt tên trẻ ấy là Giêsu” (Lc 1,30-31).

Thời gian viên mãn đã đến, người trinh Nữ mà dấu chỉ của lời loan báo trước đây đã được thực hiện một cách sáng tỏ. Đó là Đức Maria, Đấng làm tâm hồn chúng ta tràn đầy tin tưởng và niềm vui, cùng thiên thần Gabriel, chúng ta cất lên lời chào: “Kính Mừng Maria, Hãy Vui Lên”.

Qua lời chào và mời gọi của Thiên Chúa: “Hỡi Maria, hãy vui lên”, vì thời giờ thực hiện lời hứa đã đến. Như vậy, làm sao Mẹ Maria không vui lên được khi biết chính mình đã được chọn để thực hiện lời Chúa hứa, làm dấu chỉ loan báo hòa bình sắp đến. Mỗi lần chúng ta chào Mẹ qua Kinh Kính Mừng, thì chính khi ấy chúng ta được tham gia vào niềm tri ân và niềm vui của Mẹ đối với Thiên Chúa.

“Mẹ là Đấng Đầy Ơn Phước”, vì chính Mẹ được Thiên Chúa chúc phúc, Mẹ hoàn toàn thuộc về tôi tớ Giavê, như được loan báo nơi sách tiên tri Isaia: “Đây là tôi tớ Ta, Đấng Ta tuyển chọn, Người đẹp lòng Ta mọi đàng” (Is 42,1). Mẹ được đầy ơn phúc vì Đấng sắp ngự đến nơi Mẹ là Con yêu dấu của Thiên Chúa. Mẹ Maria là người được đầy tràn niềm vui, vì Mẹ đã được Thiên Chúa cho nếm trước niềm vui là Ngôi Lời Thiên Chúa Nhập Thể trong lòng Mẹ. Nhờ Thiên Chúa mạc khải, Mẹ Maria hiểu được sứ mệnh của Mẹ như là dấu chỉ của niềm hy vọng, dấu chỉ Thiên Chúa chu toàn lời hứa của Ngài cho dân Israel. Suốt đời Mẹ là bài ca trung thành của Thiên Chúa, như Mẹ đã thốt lên nơi nhà ông Zacaria: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, Ngài đã trung tín với lời hứa cho Abraham và con cháu ông”.

“Thiên Chúa ở cùng Bà”. Đó là lời Mẹ đã từng suy niệm, khi tiên tri Isaia loan báo trước về biến cố cứu rỗi sắp đến. Vì vậy, những lời Thiên Chúa ở cùng Bà”. Giây phút quan trọng nhất của lịch sử đã đến, đó là lúc Maria được hay tin Đấng là: “Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Mẹ vui mừng vì chính Đấng được gọi là Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta, ở trong chính cung lòng Mẹ. Chúng ta hiệp với Mẹ trong niềm vui mừng và cảm tạ Thiên Chúa, vì Ngài đã đến ở với nhân loại.

“Hỡi Maria đừng sợ”. Kinh nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa nơi chính mình không khỏi làm cho con người run sợ, không những Mẹ cảm nghiệm, nhưng Mẹ còn được mạc khải cho biết giờ đây lời hứa thành sự thật nơi Mẹ. Đây là một điều mà không bao giờ Mẹ dám nghĩ đến. Nhưng Thiên Chúa đã mạc khải chính những ý định của Ngài cho Mẹ. Vì thế, Mẹ rất vui mừng, nhưng niềm vui mừng ấy đi kèm với niềm run sợ, một sự run sợ thánh.

Kinh nghiệm sống đời Kitô của chúng ta cũng có hai tâm tình này như Mẹ Maria: “Vui và Sợ”. Mẹ Maria nhờ ơn Chúa giúp để thắng vượt cái sợ và Mẹ đã phó thác tin tưởng hoàn toàn trong Ngài. Xin Mẹ giúp chúng ta tham dự vào niềm vui của Mẹ, được trở thành dấu chỉ thực hiện ơn cứu rỗi của Ngài nơi anh chị em xung quanh.

Lạy Cha là Chúa trời đất, chúng con chúc tụng Cha, vì Cha đã không mạc khải những mầu nhiệm cao cả ấy cho kẻ khôn ngoan kiêu ngạo, nhưng Cha đã mạc khải cho những kẻ bé mọn và khiêm tốn. Cha đã chọn Đức Maria để thực hiện lời hứa cứu rỗi chúng con, nhờ lời cầu khẩn của Đức Maira và nhân danh Đấng Emmanuel là Đức Giêsu Kitô, Đấng Thiên Chúa ở cùng chúng con, xin cho chúng con nhận ra sự hiện của Người và tiếp rước Người đến ở với chúng con.

Lạy Mẹ Maria, chúng con Kính Mừng Mẹ, Đấng “Đầy Ơn Phước”, Mẹ đã lãnh nhận mọi ơn lành của Thiên Chúa để giúp chúng con chu toàn thánh ý Chúa. Thiên Chúa ở cùng Mẹ để Thiên Chúa ở cùng với chúng con, chúng con sẽ cảm nhận được điều này như Mẹ nếu chúng con biết sống trung thành với ơn gọi làm con cái Thiên Chúa.

Xin Mẹ cầu bầu cho chúng con được luôn sống trong niềm vui như Mẹ, đó là luôn có Chúa hiện diện bên cạnh trong cuộc sống hằng ngày của chúng con. Amen.

 

  1. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN CỦA ĐỨC MARIA

Khi nhìn ngắm các tượng ảnh Đức Mẹ, ta dễ có cảm tưởng rằng Đức Mẹ đã sống một đời bình an thư thái. Vì các nghệ nhân thường tạo ra những hình ảnh về Đức Mẹ đẹp đẽ, hiền từ, dường như siêu thoát mọi cảnh khổ đau ở trần gian. Khi ngợi ca Đức Mẹ là tuyệt mỹ, đầy ơn phúc, vô nhiễm nguyên tội, ta thường nghĩ rằng: Đức Mẹ đã được tạo dựng đặc biệt, hoàn hảo ngay từ đầu, thánh thiện từ khi sinh ra và mãi mãi là như thế, không tiến, không lùi, đẹp như một pho tượng đúc sẵn.

Nhưng nếu đọc Phúc Âm kỹ lưỡng, ta sẽ thấy hành trình đức tin của Mẹ không phải luôn luôn bằng phẳng, êm xuôi, dễ dàng. Vì yêu thương, Thiên Chúa đã thanh luyện Mẹ, uốn nắn Mẹ. Và vì thế đã để Mẹ trải qua những kinh nghiệm đớn đau khi tin nhận và bước theo Chúa.

Cuộc thanh luyện thứ nhất: Thiên Chúa mời gọi Mẹ bỏ chương trình riêng để sống theo chương trình của Thiên Chúa. Maria, một thôn nữ bình dị sống thầm lặng trong một làng quê nhỏ bé. Cô muốn cuộc đời mãi mãi bình thản êm xuôi như thế. Nhưng Thiên Chúa đã đến khuấy động đời cô. Khi đề nghị Maria làm mẹ, Thiên Chúa đã mở ra trước mặt cô một lý tưởng cao đẹp, nhưng cũng đầy gian khổ chông gai. Maria đã ngoan ngoãn thưa “Xin vâng”. Lời thưa ‘xin vâng’ của Maria làm ta nhớ đến tổ phụ Abraham. Như Abraham đã từ bỏ quê hương, gia đình đi vào một tương lai bấp bênh theo tiếng Chúa mời gọi, Maria cũng đã từ bỏ chương trình riêng trong nếp sống bình dị, để đi vào chương trình của Thiên Chúa trong một tương lai bất ổn, hoàn toàn phó thác vào Thiên Chúa.

Cuộc thanh luyện thứ hai: Thiên Chúa gửi đến cho Đức Mẹ nhiều đau khổ. Vì nhận lời làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria phải gánh chịu nhiều đau khổ.

Đau khổ thứ nhất là bị Giuse nghi ngờ. Làm sao giải thích cho Giuse hiểu. Làm sao tránh được búa rìu dư luận. Không những bị nghi ngờ, mà còn nguy hiểm đến tính mạng nữa. Thời ấy, những cô gái chửa hoang sẽ bị ném đá cho đến chết. Nhưng vững tin vào Thiên Chúa, Đức Maria đã để mặc Thiên Chúa lo liệu dàn xếp mọi chuyện. Ngài chỉ biết cúi đầu, thinh lặng vâng phục và phó thác.

Đau khổ thứ hai là Đức Maria đã sinh hạ Chúa Giêsu trong cảnh cơ bần: không nhà cửa, không giường chiếu, không mùng mền. Thiếu thốn mọi phương tiện. Chung số phận với súc vật.

Đau khổ thứ ba là bị vua Hêrôđê tìm giết nên phải trốn sang Ai Cập. Con trẻ sơ sinh yếu ớt. Sản phụ chưa được nghỉ ngơi lại sức đã phải đi lên đường trốn chạy. Tuy nhiên, nỗi cực nhọc phần xác không sánh được với nỗi đau đớn trong tâm hồn: Tại sao lại mang lấy thân phận tội đồ? Tại sao lại bị người đời thù ghét, săn đuổi?

Đối diện với những đau đớn ấy, chắc chắn niềm tin của Đức Maria phải lung lay, nghi hoặc: Con Thiên Chúa mà phải chịu nghèo khổ, khốn cùng đến thế sao? Tuy có chao đảo, nhưng Đức Maria vẫn phó thác và tin tưởng vào Thiên Chúa.

Cuộc thanh luyện thứ ba: Đức Maria bị dứt lìa khỏi Chúa Giêsu. Niềm vui và hạnh phúc của người mẹ là đứa con, nhất là con một. Con là tất cả của mẹ. Con quý giá hơn chính mạng sống của mẹ. Tách con ra khỏi mẹ khác nào lấy gươm đâm vào tim mẹ. Thế mà Chúa Giêsu đã tách lìa Đức Maria rất sớm. Phúc Âm ghi lại hai lần Chúa Giêsu từ chối Đức Mẹ.

Lần thứ nhất: Khi Chúa Giêsu lên 12 tuổi, cả nhà đi lên Giêrusalem dự lễ. Tan lễ, Chúa Giêsu đã tự tiện ở lại, để thánh Giuse và Đức Maria đi tìm mất ba ngày. Trong ba ngày đó, Đức Maria đã trải qua biết bao lo âu, sợ hãi, đau đớn, cực nhọc. Vậy mà khi gặp cha mẹ, Chúa Giêsu đã nói: “Cha mẹ tìm con làm gì. Cha mẹ không biết con phải lo việc cho Cha con ư?”. Lời này khiến cho Đức Maria buồn phiền không ít vì thấy đứa con từ nay thoát khỏi vòng tay của Mẹ.

Lần thứ hai: Khi Chúa Giêsu đi rao giảng, Đức Maria và mấy người bà con đến tìm Chúa Giêsu. Nhưng Chúa Giêsu không ra tiếp, lại còn nói những lời như chối từ liên hệ huyết thống: “Kẻ nghe lời Cha ta và thực hành, người ấy là anh chị em và là Mẹ ta”.

Những lời nói và thái độ của Chúa Giêsu như thế chắc chắn khiến cho Đức Maria buồn phiền. Nhưng những lời nói và thái độ ấy cũng giúp thanh luyện Đức Maria khỏi những tình cảm riêng tư, những liên hệ sinh học tự nhiên để bước vào tình yêu rộng lớn của Thiên Chúa và tạo lập những dây liên hệ siêu nhiên với Ngài.

Cuộc thanh luyện cuối cùng: Đức Maria phải chứng kiến cái chết nhục nhã của Chúa Giêsu trên thập giá. Còn gì buồn hơn khi mẹ mất con. Còn gì đau đớn hơn khi mẹ thấy con chết đau đớn, tủi nhục giữa tuổi thanh xuân. Ở đây ta cũng nhớ lại tổ phụ Abraham. Để thử thách ông, Thiên Chúa đã truyền cho ông sát tế Isaác, đứa con trai duy nhất. Đức Maria cũng được mời gọi hy sinh người con duy nhất của mình. Đau đớn hơn tổ phụ Abraham vì Đức Maria phải chứng kiến hy lễ đó hoàn tất. Khi mọi người trốn chạy, chối bỏ Chúa Giêsu, Đức Maria vẫn ở lại dưới chân cây thập giá đau nỗi đau của Chúa Giêsu, nhục nỗi nhục của Chúa Giêsu. Và khi Chúa Giêsu trút hơi thở cuối cùng thì Đức Maria như bị mất tất cả, bị tước đoạt tất cả những gì yêu quý nhất. Đứng dưới chân thánh giá, Đức Maria trở nên một người nghèo nhất. Mẹ chẳng còn gì cho riêng mình. Chẳng còn điểm tựa nào để bám víu, Mẹ chỉ còn biết phó thác trông cậy vào Thiên Chúa.

Như vậy Thiên Chúa đã dẫn đưa Đức Maria từ bỏ chương trình riêng tư, từ bỏ chính mình, từ bỏ những gì thân thiết nhất của mình, để đi vào chương trình của Thiên Chúa, để trọn vẹn phó thác cho Thiên Chúa.

Ngày nay khi lần chuỗi Mân Côi là ta ôn lại hành trình đức tin của Mẹ. Hành trình đầy thử thách gian khổ nhưng cũng đầy chiến thắng vinh quang.

Xưa kia lễ Mân Côi được mừng để kỷ niệm cuộc thắng trận ở Lepante. Ngày nay, khi mừng lễ Mân Côi ta mừng Đức Mẹ Maria đã chiến thắng chính bản thân, đã vượt qua hết những thử thách và đạt tới đích điểm của hành trình đức tin.

Lạy Mẹ Maria, xin cho con biết noi gương Mẹ, biết từ bỏ ý riêng mình để thực hiện ý Thiên Chúa. Xin giúp con can đảm vượt qua mọi thử thách và giữ vững niềm tin tưởng phó thác trong tay Chúa.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1) Hãy kể ra những cuộc thanh luyện của Đức Mẹ.

2) Tại sao con người phải chịu thanh luyện? Có phải vì Chúa muốn hành hạ con người không?

3) Thanh luyện hệ tại điều gì? Chịu khổ sở hay từ bỏ mình, điều nào quan trọng hơn?

 

  1. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.

MARIA, NGƯỜI NỮ THÁNH THỂ

Bài Tin Mừng tường thuật cuộc truyền tin kết thúc bằng hai tiếng “Xin Vâng” của Đức Mẹ. Với hai tiếng “Xin Vâng”, cuộc đời Đức Mẹ hoàn toàn thay đổi. Từ nay Mẹ không còn sống cho mình nhưng hoàn toàn sống cho Thiên Chúa. Mẹ kết hiệp chặt chẽ với Thiên Chúa qua Chúa Giêsu. Và vì thế, Mẹ trở thành gương mẫu của lòng tôn sùng và thực hành bí tích Thánh Thể.

Thật vậy, với hai tiếng “Xin Vâng”, Mẹ là gương mẫu trong việc đón nhận Thánh Thể. Khi đón nhận Ngôi Hai Thiên Chúa vào lòng, Mẹ hoàn toàn tin tưởng thịt máu của bào thai Mẹ được diễm phúc cưu mang trong lòng chính là Thiên Chúa. Như thế, Mẹ khuyên dạy ta khi đón nhận Mình Thánh Chúa, hãy tin vững vàng ta đã đón nhận Thịt Máu của Chúa Giêsu.

Với hai tiếng “Xin Vâng”, tâm hồn Mẹ trở nên ngôi nhà chầu đầu tiên được đón tiếp, cất giữ Chúa Giêsu Thánh Thể. Đây chính là ngôi nhà chầu xinh đẹp nhất vì cung lòng thanh khiết của Mẹ là một đền thờ nguy nga lộng lẫy. Hơn nữa việc luôn ghi nhớ và suy niệm những điều thiên thần nói, giúp Mẹ luôn hướng về Chúa Giêsu trong lòng, biến Mẹ thành một người chầu Mình Thánh liên tục. Như thế Mẹ khuyên dạy ta hãy năng chầu Mình Thánh Chúa.

Sau khi thưa “Xin Vâng”, Mẹ vội và lên đường đi viếng bà thánh Elizabeth. Đây chính là cuộc rước kiệu Thánh Thể đầu tiên. Cuộc rước kiệu thật đơn sơ, không kèn trống, không đông đảo, nhưng đầy sốt sắng, đầy cung kính nên đã đem lại lợi ích phi thường: đem ơn cứu độ đến cho ông thánh Gioan Baotixita còn trong lòng mẹ, làm cho mọi người tràn đầy niềm vui. Như thế Mẹ nhắn nhủ ta kiệu Thánh Thể sốt sắng sẽ đem lại nhiều ơn ích thiêng liêng.

Nhưng cũng với hai tiếng “Xin Vâng”, Mẹ luôn hướng về Chúa Giêsu. Từ khi còn trong bào thai cho đến khi sinh ra trong hang đá Bêlem. Từ khi ấu thơ cho đến khi hoạt động công khai. Việc Mẹ tất tả đi tìm Chúa Giêsu trong đền thờ Giêrusalem nói lên sự gắn bó mật thiết. Mẹ coi Chúa Giêsu là lẽ sống. Mẹ không thể sống nếu thiếu vắng Chúa. Với lòng tha thiết tìm kiếm Chúa, Mẹ khuyên dạy ta hãy yêu mến đến khao khát Chúa. Vì Thánh Thể Chúa chính là nguồn sự sống của ta.

Với hai tiếng “Xin Vâng”, không những Mẹ vâng lời Thiên Chúa hoàn toàn, mà còn dạy mọi người biết vâng lời Chúa. Nên tại tiệc cưới Cana, Mẹ khuyên nhủ gia nhân: “Người bảo gì các con hãy cứ làm theo” (Ga 2,5). Thái độ hoàn toàn vâng phục đã được Chúa thưởng công bằng phép lạ “nước lã hóa thành rượu ngon”. Hôm nay Mẹ cũng nhắc nhủ ta: Nếu Chúa đã dặn dò: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thày” (Lc 22-19), thì hãy vâng lời Chúa, siêng năng tham dự thánh lễ, chầu MTC, chịu lễ, chắc chắn Chúa sẽ làm phép lạ đổi mới đời các con như biến nước lã thành rượu ngon.

Với hai tiếng “Xin Vâng”, Mẹ hoàn toàn kết hiệp với Chúa Giêsu, theo Chúa trên đường lên Núi Sọ và đứng dưới chân thánh giá để nên một với Chúa Giêsu trong việc dâng hiến chính bản thân mình, dâng những đau đớn khổ cực làm của lễ đền tội cho nhân loại. Ở đây Mẹ đã sống mầu nhiệm Thánh Thể, mầu nhiệm tự hiến mình cho nhân loại. Như Chúa Giêsu, tấm lòng tan nát của Mẹ đã trở thành tấm bánh bẻ ra ban cho nhân loại sự sống mới. Như thế Mẹ dạy ta phải biết hiến thân chịu mọi đau đớn, vất vả trong đời sống để nên một với Chúa Giêsu Thánh Thể. Việc kết hiệp với Chúa Giêsu Thánh Thể để hiến dâng thân mình sẽ đem lại hạnh phúc cho bản thân và cho tha nhân.

Và với hai tiếng “Xin Vâng”, một lần cuối cùng Mẹ vâng lời Chúa, nhận thánh Gioan làm con. Nhận thánh Gioan là nhận cả nhân loại làm con. Vì thế Mẹ đã sống mầu nhiệm Thánh Thể khi hiệp nhất với tất cả mọi người, nhận tất cả nhân loại vào gia đình mình, đón tiếp mọi người vào đồng bàn trong bữa tiệc Thánh Thể, và trong bữa tiệc Nước Trời. Hôm nay, Mẹ nhắn nhủ ta khi chịu lễ rồi hãy biết yêu thương đoàn kết vì tất cả chúng ta được đồng bàn với Chúa, cùng ăn một bánh, cùng uống một chén với nhau. Và tất cả chúng ta đều là các chi thể trong thân thể của Chúa. Tuy năm Thánh Thể đã kết thúc, nhưng việc yêu mến sùng kính và nhất là việc sống bí tích Thánh Thể vẫn tiếp diễn. Đặc biệt trong tháng Mân Côi, nếu ta yêu mến Đức Mẹ, ta càng phải yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể, vì Mẹ chính là mẫu gương yêu mến Thánh Thể, đến nỗi Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô đệ nhị đã gọi Mẹ là “Người Nữ Thánh Thể”. Nếu chúng ta siêng năng lần hạt Mân Côi, chắc chắn Đức Mẹ sẽ hướng dẫn ta đến yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể, vì tất cả các mầu nhiệm trong kinh Mân Côi đều hướng về Chúa Giêsu. Và mầu nhiệm 5 Sự Sáng đưa ta trực tiếp tới bí tích Thánh Thể. Thật là đẹp khi ta lần hạt trước Thánh Thể. Vì như Đức Mẹ đã khấn cầu cho tiệc cưới Cana được ơn phúc thế nào, hôm nay, trước Thánh Thể, Đức Mẹ cũng khẩn cầu ơn phúc cho chúng ta như vậy.

Lạy Mẹ Mân Côi, xin dạy con biết yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể và xin Mẹ khẩn cầu cho con bên tòa Chúa. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Lời “Xin Vâng” của Đức Mẹ biểu lộ niềm tin. Bạn có giữ vững được niềm tin trong những lúc gặp thử thách để thưa “Xin Vâng” với Chúa trong đau khổ không?.

2) Gia nhân đã vâng lời Đức Mẹ “Người bảo gì các anh cứ việc làm theo” nên đã múc nước lã mà không hiểu gì. Bạn có sẵn sàng vâng lời Chúa làm những việc mà bạn không hiểu?

3) Khi hiện ra ở Fatima, Đức Mẹ đã mời gọi ta thực hiện 3 điều. Bạn có sẵn sàng “Xin Vâng” để thực hiện không?

 

  1. Lễ Mẹ Mân Côi

(Suy niệm của Lm. Alfonso)

Tin Mừng Lc 1: 26-38 "Hãy lần hạt Mân côi, để Mẹ Maria luôn ở với bạn, hướng dẫn, che chở, gìn giữ bạn như người Mẹ. Kinh Mân Côi phải là lời cầu nguyện trong gia đình bạn. Gia đình cầu nguyện với nhau là gia đình tồn tại với nhau".

Suy niệm:

Kinh Mân Côi theo định nghĩa của các từ điển thần học Công Giáo, tiếng La Tinh gọi là Rosarium, Anh ngữ là Rosary, Hán tự là 玫 瑰 涇, phát âm là [méiguijing], giọng Hán Việt đọc là Mai Côi Kinh. Tiếng Việt đọc trại ra là Mân Côi – Văn Côi – Mai Khôi – Môi Khôi.

Như vậy, chữ “Mân Côi” có nghĩa là “Bông hồng”. Thuở xưa, dân chúng hay kết vòng hoa thành triều thiêng dâng tặng một vị họ ngưỡng mộ. Cho nên gọi là lời kinh hoa hồng (hoa Mân Côi) vì hoa hồng là nữ hoàng của các loài hoa. Ban đầu có 15 mầu nhiệm Mân Côi gồm 150 Kinh Kính Mừng tương ứng với 150 Thánh Vịnh. Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã thêm năm sự Sáng để kinh Mân Côi trở thành cuốn sách Tin Mừng rút gọn. Sự tiến triển qua dòng thời gian của kinh Mân Côi quan trọng nhất nằm ở chỗ chuyển từ một lời kinh chúc tụng Đức Mẹ Maria đến chỗ suy niệm về cuộc đời Chúa Cứu thế với con tim và cặp mắt của Mẹ Maria. Mỗi chục kinh để tưởng nhớ một mầu nhiệm liên hệ đến Chúa Giêsu hay Đức Mẹ. Kinh Mân Côi suy niệm 20 Mầu Nhiệm, gồm 200 kinh chia làm từng chục. Mỗi chục gồm một kinh Lạy Cha, 10 kinh Kính Mừng và 1 kinh Sáng Danh, và được chia làm 4 Mầu Nhiệm chính mà đặc ngữ Công Giáo gọi là Mùa, như Mầu Nhiệm Mùa Vui, Sáng, Thương, Mừng:

- Năm mầu nhiệm Vui: diễn tả mầu nhiệm Nhập thể và cuộc sống âm thầm của Chúa Giêsu suốt ba mươi năm tại Nadaréth.

- Năm mầu nhiệm Sáng: Diễn tả những biến cố trong ba năm Chúa Giêsu đi loan báo Tin mừng Nước Trời.

- Năm mầu nhiệm Thương: Diễn tả các sự đau khổ mà Chúa Giêsu phải chịu trong cuộc Tử nạn để đền tội và chết thay cho loài người.

- Năm mầu nhiệm Mừng: Diễn tả các sự kiện cứu độ của mầu nhiệm Chúa Giêsu Phục Sinh mà Đức Maria là người đầu tiên đại diện cho Hội Thánh được hưởng ơn ấy.

Bởi đó, một tràng 200 Kinh Mân Côi là triều thiên hoa hồng lớn, và một chuỗi Mân Côi 50 kinh là một bó hoa hay một triều thiên hoa hồng nhỏ mà chúng ta dâng lên Chúa Giêsu và Mẹ Maria để tỏ ý ca ngợi các Đấng.

Lòng sùng kính Đức Mẹ đã có từ trong truyền thống Kinh Thánh. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, thánh Luca tường thuật lại sự kiện Thiên Chúa sai sứ thần Gabriel đến với một thôn nữ. Nhưng lời sứ thần Chúa rất cung kính: “Kính chào Trinh Nữ đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Trinh Nữ”. Cung kính bởi vì sứ thần mang sứ điệp cho một người quan trọng thực thi việc nhiệm mầu. Sứ thần loan báo cho Đức Maria biết kế hoạch mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa, bằng việc Chúa Cha muốn Con Một thụ thai làm người trong lòng Đức Trinh nữ Maria. Chúa Cha cũng chờ đợi Đức Maria ưng thuận trong sự tự do trước biến cố cứu chuộc mà Người sẽ thực hiện. Và Đức Maria đã khiêm tốn gật đầu: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền". Chính bởi sự tự khiêm ấy mà Mẹ đáng được ca tụng.

Sách Công vụ Tông đồ còn cho biết, sau khi Chúa Giêsu thăng thiên, “các môn đệ trở lại Giêrusalem, đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Maria thân mẫu Đức Giêsu, và với anh em của Người.” Mẹ chẳng những đồng hành hiệp công với công trình cứu chuộc của Chúa Con, mà còn tiếp tục đồng hành cùng Hội thánh cho đến ngày được Chúa rước lên trời. Vì thế mà chúng ta có lý khi chạy đến cậy trông nơi Mẹ.

Hội Thánh luôn nhắc chúng ta về sự linh nghiệm của Chuỗi Mân Côi trong đời sống Đức Tin. Chỉ những ai siêng năng lần Chuỗi Mân Côi hằng ngày mới cảm nhận được ơn ích thiêng liêng mà Thiên Chúa đã ban cho con người qua lời kinh đơn sơ này. Chính nhờ Chuỗi Mân Côi các tín hữu dâng kính Mẹ giúp Hội Thánh thoát khỏi biết bao cơn nguy biến như lịch sử đã minh chứng.

Vào thế kỷ XIII, bè rối Albigeois nổi lên ở miền Nam nước Pháp. Đức Mẹ hiện ra với thánh Đaminh và chỉ cho ngài tràng chuỗi Mân Côi như một khí giới thiêng liêng. Chính nhờ lối sống đơn sơ khiêm hạ và sự nhiệt thành rao giảng Lời Chúa của các tu sĩ dòng Đaminh, cùng việc các tín hữu siêng năng lần hạt Mân Côi, chỉ sau một thời gian ngắn, thánh Đaminh đã cảm hóa đưa được 150.000 người theo lạc giáo trở về cùng Hội Thánh.

- Năm 1511, đạo quân Hồi giáo phát xuất từ Thổ nhĩ kỳ xâm lược Âu Châu, Đức Giáo hoàng Piô V đã kêu gọi thành lập đạo binh Thánh Giá. Ngài cũng kêu gọi mọi tín hữu hợp ý bằng việc siêng năng lần hạt Mân côi để xin Đức Mẹ giúp ngăn cuộc xâm lược. Ngày 7/10/1571, trong trận chiến tại vịnh Lepante, đạo quân Thánh Giá đã chặn đứng đà tiến của quân địch trang bị vũ khí hùng hậu. Để ghi nhớ cuộc chiến thắng lịch sử này, Đức Giáo hoàng đã truyền thiết lập lễ Mân côi hằng năm để tạ ơn Chúa.

* Thánh Đaminh quả quyết: "Không có cách cầu nguyện nào đẹp lòng Chúa Giêsu và Mẹ Maria bằng đọc kinh Mân côi sốt sắng.”

* Thánh Bênađô nói: "Kinh Mân côi có sức xua đuổi ma quỷ, hỏa ngục kinh hoàng khi nghe Danh Thánh Maria".

* Theo thánh Grignion de Monfort: “Ngoài Thánh lễ Missa và kinh Nhật khóa (Phụng vụ Giờ kinh), không còn kinh nào có sức kéo ơn Chúa xuống cho ta hơn Kinh Mân Côi. Kinh là chiếc giây nối liền đất với trời".

* Còn với thánh Alphongsô Maria Liguori nhiệt thành truyền bá lòng sùng kính Mẹ Maria: “Hết mọi ơn thánh ở trong Chúa Giêsu như nguồn mạch, nhưng do ý định mầu nhiệm và thương xót của Chúa, không một ơn nào ban xuống cho loài người mà không có Mẹ cầu xin cho.” Cả những lúc tuổi già sức yếu trên giường bệnh, thánh Alphongsô vốn không ngừng lần hạt Mân Côi. Có lúc ngài hỏi thầy giúp bệnh nhân rằng: “Cha đã lần hạt Mân Côi chưa thầy?” Thầy giúp bệnh nhân trả lời: “Cha đừng sợ, vì Cha đã lần hạt nhiều rồi, Đức Mẹ không bao giờ bỏ Cha đâu!” Nghe thấy câu nói đơn sơ ngây ngô như thế, ngài đã nhấn mạnh khi nói với Thầy: “Con không biết rằng, phần rỗi đời đời của Cha hệ tại việc lần hạt Mân Côi sao?” Ngài dạy rằng áo choàng của Mẹ như tấm lá chắn cho tội nhân.

* Thánh Alano de la Roche thì cho biết những hồng ân ban cho những người siêng năng lần hạt:

1. Kẻ có tội ăn năn trở lại,

2. Người đói khó được dư đầy ơn phúc,

3. Người bị xiềng xích, nô lệ tội lỗi được giải phóng,

4. Người buồn phiền, than khóc được vui mừng,

5. Người chiến đấu được an bình, khỏi mưu chước ma quỷ.

6. Người thiếu thốn được no đủ,

7. Các tu sĩ sống xứng đáng với bậc mình,

8. Người ngu dốt thành thông giỏi,

9. Người ham danh sẽ chiến thắng hư danh,

10. Kẻ qua đời được tha hình phạt vì tội đã phạm.

Mẹ thánh Têrêsa Calcutta khuyên nhủ: "Hãy lần hạt Mân côi, để Mẹ Maria luôn ở với bạn, hướng dẫn, che chở, gìn giữ bạn như người Mẹ. Kinh Mân Côi phải là lời cầu nguyện trong gia đình bạn. Gia đình cầu nguyện với nhau là gia đình tồn tại với nhau".

Kinh Mân Côi là lời kinh dễ đọc, phù hợp mọi người kể cả người già, trẻ em, người bận bịu kẻ rỗi rảnh, kẻ cô đơn hay nhóm hội đông đúc. Có thể nói Kinh Mân Côi là lời kinh gần gũi nhất trong các gia đình. Nhân tháng Mân Côi kính Đức Mẹ, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi mọi tín hữu trên toàn thế giới đọc kinh Mân Côi mỗi ngày, trong suốt tháng Mười kính Đức Mẹ, cùng lần chuỗi trong tinh thần hiệp thông và ăn năn sám hối, cầu xin Thánh mẫu Thiên Chúa và Tổng Lãnh Thiên Thần Micae bảo vệ Giáo Hội khỏi ma quỷ, kẻ luôn tìm cách chia tách chúng ta ra khỏi Thiên Chúa và anh chị em mình.

Vậy các hội đoàn, lớp giáo lý, ca đoàn, các thành viên trong gia đình, khu xóm được mời gọi tổ chức lần Chuỗi Mân Côi sống mà giáo phận Phú Cường hướng dẫn. Giá trị ơn ích các tín hữu được hưởng của cả chuỗi Mân Côi dù là thực hiện chỉ một chục, nhờ sự liên kết, nâng đỡ nhau sống tâm tình đạo đức lời kinh Mân Côi mọi nơi mọi lúc.

 

  1. Kinh Mân Côi: Góp phần xây dựng nhân loại mới

(Suy niệm của Lm Px Đào Trung Hiệu)

Nói đến kinh Mân Côi, tôi nhớ đến mẹ tôi. Bà là hình ảnh của người tín hữu bình dân Việt Nam: Bà quen dùng kinh mân côi làm đơn vị đo chiều dài. Khi có người hỏi nhà thờ cách bao xa, bà trả lời: “Đi được ba chuỗi năm chục”. Nghĩa là phải đi bộ độ 45 phút, tính nhẩm ra khoảng ba cây số. Nếu nguồn gốc của lễ Mân Côi ngày 7 tháng 10, bắt nguồn từ việc các tín hữu Âu Châu thành công trong việc phòng thủ, trước sức tiến công như vũ bão của quân đội Thổ Nhĩ Kỳ năm 1571, tại vịnh Lepante thời thánh giáo hoàng Pio V. Thì cũng từ đó, Giáo hội cổ võ tín hữu dành trọn tháng mười để đặc biệt cầu nguyện bằng chuỗi hạt quý giá này, và hơn thế nữa, cổ võ chúng ta cầu nguyện bằng kinh Mân Côi trong suốt cuộc sống.

Kinh Mân côi là một hình thức cầu nguyện đơn giản nhưng phong phú đã được Giáo hội phổ biến qua nhiều thế kỷ. Đơn giản, vì bất cứ ai cũng dễ dàng thực hiện, dễ dàng đọc một mình trong mọi tình huống, ở mọi nơi, mọi lúc, và dễ dàng khi cầu nguyện chung mà ai ai cũng có thể tích cực tham gia. Nhưng kinh mân côi lại rất phong phú, vì có bao nhiêu sách viết về kinh Mân Côi đã tìm ra trong các mầu nhiệm nguồn suy niệm dồi dào, dường như không bao giờ cạn. Kinh Mân Côi chính là nguồn gia tăng sinh lực cho con người và là lời ngợi ca cuộc sống.

Gương một nhà trí thức...

Mỗi người có thể rút ra một bài học qua mẩu chuyện sau: Trên chuyến xe lửa đi Paris, có một chàng thanh niên mặt mũi sáng sủa, trên tay ôm một chồng sách dày. Ngồi đối diện với anh là một cụ già, đang cầm chuỗi Mân côi lâm râm đọc kinh. Chàng trai thấy chướng mắt lên tiếng nói: “Bác ơi! thời buổi này mà bác còn đọc thứ kinh của đàn bà trẻ con ấy nữa à!”. Cụ già ngước mắt nhìn anh và trả lời: “Cám ơn cậu, cậu có vẻ thông thái lắm, cậu giải thích cho tôi nghe đi”.

Thế là chàng trai có dịp khoe về mình: anh đang học năm cuối đại học Bách khoa; anh khuyên cụ già bỏ mấy thứ dị đoan lẩm cẩm đi, vì rồi đây khoa học sẽ xây dựng một thế giới mới chứ không phải những tôn giáo ảo tưởng của người xưa. Và chàng trai hăng say thuyết cho cụ suốt nửa tiếng. Cụ già chăm chú nghe anh nói, đến khi sắp xuống xe, còn mời anh khi nào rảnh đến nhà hướng dẫn thêm cho cụ và trao cho cậu một tờ danh thiếp. Chàng trai bỗng thấy mình như từ trên trời rơi xuống, vì trên danh thiếp ghi tên nhà khoa học mà anh suốt đời thán phục: “Louis Pasteur,Viện Hàn Lâm Pháp”

Êm đềm mà thấm lâu...

Trong xã hội thực dụng hôm nay, nhiều người đạo đức coi thường kinh mân côi. Họ nói: điều quan trọng của kitô hữu là hiểu và sống Lời Chúa, là thực thi công bằng bác ái Phúc Âm. Không sai, nhưng chưa chính xác. Thế nhưng, họ chưa hiểu ra sức mạnh êm đềm mà thấm lâu của những lời kinh đơn giản này.

Ta biết các vận động viên và các cầu thủ, dù thuộc bộ môn nào như bơi lội, đá banh, chạy đua... đều không thể bỏ những bài tập thể dục căn bản là tập thở. Đọc kinh Mân Côi chính là thực hiện một việc rất đơn giản như việc hít thở.

Các tôn giáo lớn như Hồi giáo và Phật giáo đều có xâu chuỗi. Với những lời kinh ngắn gọn, người tín đồ có một khoảng thời gian và không gian cần thiết để tiếp cận với Đấng tuyệt đối. Dù thiếu tập trung, Đấng tuyệt đối vẫn làm công việc của Ngài. Chính việc hội ngộ với Chúa cách thường xuyên này sẽ nuôi dưỡng đời sống nội tâm của họ, và đem lại cho mọi hoạt động của họ một giá trị mới.

Qua 20 mầu nhiệm Mân côi, kitô hữu ngày càng được gắn bó sâu sắc hơn vào những biến cố chính trong công cuộc cứu độ. Ngày này qua ngày khác, họ chiêm ngưỡng và học theo gương Đức Kitô nhập thể trong ngày lễ Truyền Tin, theo gương Đấng Giáng Sinh tại Belem, Đấng bôn ba ra giảng về Nước Trời, Đấng Hiến tế chính đời mình trên Thập Giá và sống lại vinh quang. Họ chiêm ngưỡng đức Maria trên thiên quốc như một hứa hẹn cho tương lai của giáo hội và nhân loại.

Hơn thế nữa, phụng vụ lễ Mân Côi qua đoạn sách Công vụ Tông đồ (bài đọc II), nhắc cho chúng ta một truyền thống trong lịch sử giáo hội ngay từ thuở sơ khai. Như các tông đồ xưa trong ngày lễ ngũ tuần, đã cùng cầu nguyện với đức Maria tại nhà tiệc ly, để đón nhận Thánh Thần mà ra đi loan báo Tin Mừng phục sinh. Thì nay kitô hữu sẽ cùng với Mẹ Maria để cầu nguyện và tìm được nguồn nghị lực trên bước đường sứ vụ.

Hướng đến một nhân loại mới

Lời kinh “Kính Mừng” quen thuộc, chính là lời chào mừng “Ave: Mừng vui lên” của thiên sứ Gabriel thưa với Đức Maria, mà chúng ta đọc lại trong Tin Mừng Luca hôm nay (1, 28).

Lời chào “Ave” ấy không chỉ gửi đến cho mình Mẹ Maria. Vì theo truyền thống Giáo hội, lời chào “Đấng đầy ơn sủng”, chính là một chứng nghiệm cho Lời Giavê đã hứa trong vườn địa đàng xưa, sau khi tổ tông nhân loại sa ngã: về người nữ sẽ đạp dập đầu con rắn trong vườn địa đàng (bài đọc I). Người nữ ấy tuy xuất thân từ Adam và Evà, nhưng thoát khỏi vòng kiềm tỏa của tội nguyên tổ. Người nữ ấy được tràn đầy ân sủng, được hồng ân Vô nhiễm; Người nữ ấy được so sánh như Evà mới của một nhân loại mới. Người nữ ấy, tên là Maria, là dấu hiệu của ân sủng Thiên Chúa hiện diện giữa con người. Như lời Thánh Thi trong kinh thần vụ kính Đức Mẹ:

“Chữ E-va Mẹ đảo vần,

Thành A-ve gửi bình an cho đời”.

Lịch sử cứu độ đã khởi sự từ lời hứa tại vườn địa đàng. Thiên Chúa hứa cứu độ nhân loại. Ngài hứa ở cùng nhân loại. Ngài hứa sẽ gửi đến Đấng Emmanuel “Thiên Chúa ở cùng”. Lời hứa ấy nay được cụ thể hóa khi Ngôi Lời nhập thể trong cung lòng Đức Trinh Nữ: “Này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu”. Giêsu có nghĩa là Chúa Cứu, sẽ được muôn đời nhắc đến trong lời kinh: “Và Giêsu Con lòng Bà đầy phúc lạ”.

Đọc kinh “Kính Mừng”, ta có thể cảm thấy tâm trạng tương tự như các khán giả đang theo dõi các vận động viên Olympic hoặc Saegames. Họ chờ đón những kỷ lục mới “cao hơn, nhanh hơn, xa hơn”. Khi chúc mừng một vận động viên lãnh huy chương vàng, họ cũng chúc mừng khả năng của một dân tộc và của cả nhân loại...

Cũng vậy, qua những lời “Kính mừng Maria đầy ơn phúc”, chúng ta chiêm ngưỡng một “kỷ lục tuyệt hảo” của nhân loại. Chiêm ngưỡng Đức Maria, một tạo vật hoàn hảo của nhân loại mới.

Hơn thế nữa, trong nhân loại mới đó, chúng ta không chỉ là khán giả, mà còn là thành viên. Nên lời kinh “Kính Mừng” không chỉ được gửi đến cho đức Maria, mà còn là lời chúc mừng một nhân loại mới đang được hình thành.

Và như thế, qua kinh Mân Côi, chúng ta sẽ chìm sâu vào tình yêu và ân sủng cứu độ của Thiên Chúa, sẽ nhận ra lời Ngài kêu mời chúng ta giữ một vị trí riêng biệt trong lịch sử cứu độ và tìm được sức mạnh mới để hoàn tất vị trí ấy của mình trong lịch sử.

Nếu được như vậy, chúng ta có thể đi đến kết luận: Kinh Mân Côi góp phần biến đổi trần gian.

 

  1. Kinh Mân Côi và Đời Sống Đức Tin

(Suy niệm của Lm Đaminh Đinh Viết Tiên)

1. Kinh Mân Côi, bài ca đi cùng năm tháng

Trong Giáo Hội cũng có những bài ca, có thể gọi là “đi cùng năm tháng”, những bài ca luôn đồng hành với Giáo Hội qua thời gian, qua những thăng trầm, những sóng gió của lịch sử. Bài ca đó có tên là “Chuỗi Mân Côi”, là những Kinh Kính Mừng. Bài ca này được vang lên mỗi ngày trong các nhà thờ hay chỗ riêng tư, được lâm râm khẩn cầu nơi môi miệng của mọi người, kẻ trí thức hay người bình dân, người thanh niên hay những người tuổi đời đã xế bóng.

Kinh Mân Côi quả là “bài ca đi cùng năm tháng” đối với Giáo Hội, cũng như đối với mỗi người chúng ta. Ở đây xin đan cử Đức Gioan Phaolô II, vị Giáo Hoàng luôn cổ vũ mọi người đến với Mẹ qua Kinh Mân Côi.

Trong tông thư “Kinh Mân Côi” Ngài chia sẻ như sau: “Từ thuở niên thiếu, lời kinh này đã có một chỗ đứng quan trọng trong đời sống thiêng liêng của tôi (…) Kinh Mân Côi đã đồng hành với tôi trong những lúc vui sướng cũng như trong những giai đoạn khó khăn. Tôi đã giao phó cho lời kinh ấy biết bao lo âu; nơi lời kinh ấy, tôi đã luôn tìm được sự nâng đỡ (…) Kinh Mân Côi là lời kinh tôi ưa thích. Một lời kinh kỳ diệu. Kỳ diệu qua vẻ đơn sơ và chiều sâu của nó (…). Con tim của chúng ta có thể gán vào chục kinh Kính Mừng mọi biến cố của đời sống cá nhân, gia đình, quốc gia, Giáo Hội và toàn thể nhân loại.

Mối quan tâm của riêng ta và của những người thân cận, đặc biệt những người thân thiết nhất của ta. Vì thế, lời kinh Mân Côi đơn sơ ghi dấu ấn lên nhịp sống của con người. Anh chị em thân mến, với những lời này, tôi đã đặt những năm đầu tiên của triều đại Giáo Hoàng trong nhịp sống hằng ngày của Kinh Mân Côi. Hôm nay, khi bắt đầu năm thứ 25 phục vụ trong tư cách người kế vị thánh Phêrô, tôi muốn làm lại cũng một điều đó. Biết bao ơn lành tôi đã lãnh nhận được trong những năm tháng này từ Đức Thánh Trinh Nữ qua Kinh Mân Côi”.

2. Kinh Mân Côi, lời kinh kết nối

a. Với Đức Maria

Kinh Kính Mừng là sự nối kết giữa lời chào của Tổng Lãnh Thiên Thân Gabriel trong buổi truyền tin, với lời mừng của bà Elisabet trong ngày thăm viếng, nên mỗi lần lặp lại đã trở thành lời chào mừng chính thức cho sự nối kết giữa nhân loại với Đức Maria.

Trong cuộc hội kiến lịch sử giữa Tổng Thiên Sứ và Đức Maria được khởi đầu bằng lời chào và kết thúc bằng lời thưa xin vâng. Nơi Đức Maria, người ta hiểu rằng tất cả khởi đi từ ơn phúc, nhưng còn ở trong tiềm ẩn cho đến khi có sự đáp trả bằng lời thưa: Xin vâng.

Xin vâng không chỉ bằng lời nói mà bằng cả một đời đánh đổi: vừa bền lòng thực thi ý Chúa, vừa bền chí chấp nhận những thử thách cam go vốn không thiếu trong hành trình đức tin, nhất là dưới chân Thánh Giá.

“Còn Đức Maria thì ghi nhớ những sự việc đó và suy niệm trong lòng” (Lc 2, 19.51). Khi đọc và suy niệm Kinh Mân Côi là ta cùng Mẹ suy niệm các mầu nhiệm trong cuộc đời của Chúa và của Mẹ. Qua việc cùng Mẹ suy niệm, sẽ giúp ta cảm nhận thật sâu sự đồng hành của Mẹ trong cuộc đời mỗi người.

b. Với Đức Giêsu

Trong Kinh Kính Mừng chỉ có hai danh xưng: Maria và Giêsu được xướng lên, mở đầu bằng Maria và kết thúc bằng Giêsu. “Kính mừng Maria đầy ơn phúc Đức Chúa Trời ở cùng bà, bà có phúc lạ hơn mọi người phụ nữ và Giêsu con lòng bà gồm phúc lạ”. Lời kinh đã kết nối với Đức Mẹ, để rồi được nối kết với Con của Mẹ. Qua Mẹ Maria đến với Chúa Giêsu.

Nơi trường học của Đức Maria, chúng ta được học bài học cơ bản: “Ngài bảo gì, các anh hãy làm như vậy” (Ga 2,5). Như vậy, nếu ta mời Mẹ cùng đồng hành thì từng bước chúng ta sẽ được dẫn đến đích điểm là kết nối với Đức Giêsu. Lộ trình đức tin cũng là giáo án mà Mẹ sẽ dạy chúng ta trong hành trình làm môn đệ: Sống đức tin và can đảm bước theo Chúa. “Phúc cho em vì em đã tin rằng lời Chúa sẽ được thực hiện trong cuộc đời em” (Lc 1,45) và cũng như Mẹ, chúng ta dám thưa với Chúa trong mọi tình huống của cuộc đời.

c. Với mọi người trong Chúa Kitô, nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria

Thực ra đây là hệ lụỵ của hai mối kết nối trên. Một khi liên đới với Đức Maria để hiệp thông với Đức Kitô, tất nhiên mọi người là anh chị em hiệp thông với nhau. Nhưng chính từ đây mở ra một nhãn giới mới đầy lạc quan, tin tưởng, hy vọng cho tất cả những ai đọc và suy niệm Kinh Mân Côi.

Thói quen của các gia đình Việt Nam là việc đọc kinh tối gia đình, kết hiệp giữa việc đọc Kinh Mân Côi và suy niệm Tin Mừng. Việc này đã có một âm hưởng rất tốt và có sức biến cải tình trạng gia đình.

Mỗi tối khi màn đêm xuống dần, sắp sửa kết thúc một ngày, không hình ảnh nào đẹp hơn khi mọi người quây quần trước bàn thờ, cử hành kinh tối gia đình. Bao niềm vui, nỗi buồn đều dâng lên Chúa, những thất bại đắng cay, cũng như những thành tựu phấn khởi trong ngày đều được trình bày cho Chúa nghe… tự nhiên tâm hồn cảm thấy ấm hơn và tình thân trong gia đình được nối kết thắm thiết, vì tất cả được dâng lên Chúa và được sẻ chia cho nhau, cùng hiệp thông trong lời cầu nguyện.

Nếu Chúng ta đọc Kinh Mân Côi với tất cả tâm tình, chúng ta cảm thấy mình được biến đổi: lòng tin mạnh mẽ, niềm cậy trông kiên vững, sống dễ thương hơn với mọi người.

3. Qua Kinh Mân Côi, chúng ta cảm nghiệm: Mẹ vẫn ở bên ta

Tổng thống George Washington, một trong những nhà anh hùng của nền độc lập Hoa Kỳ, thường được đề cao như một người con hiếu thảo đối với mẹ mình. Ông năng về thăm mẹ. Một hôm, thấy con đã vất vả công việc quốc gia, lại còn mất nhiều thời giờ thăm viếng, an ủi mình, bà mẹ mới hỏi ông: - Tại sao con lại chịu khó mất hàng giờ như vậy để ngồi bên cạnh mẹ?

Vị tổng thống vĩ đại của nước Mỹ đã trả lời:- Thưa mẹ, ngồi bên cạnh để lắng nghe mẹ nói, không phải là một việc mất thời giờ. Bởi vì, sự thanh thản và lòng nhân hậu của mẹ đã giúp con vui sống.

Mẹ của Tổng thống George Washington đã không nói nhiều, nhưng sự hiện diện đầy thanh thản và lòng nhân hậu của một người mẹ đã giúp ông tăng thêm sức mạnh để dấn thân phụng sự tổ quốc, vui sống trong trách nhiệm nặng nề của một nguyên thủ quốc gia.

Đối với người Kitô hữu, Mẹ luôn hiện diện âm thầm nhưng rất gần gũi bên cạnh mỗi người chúng ta.

- Sự hiện diện của Mẹ trong gia đình Giacaria đã củng cố niềm tin của bà Elizabeth, đem lại niềm hân hoan vô bờ cho trẻ Gioan Baotixita.

- Sự hiện diện của Mẹ tại tiệc cưới Cana đã làm cho người chủ tiệc mát mặt và mọi thực khách được uống rượu ngon làm hoan hỉ lòng người.

- Sự hiện diện của Mẹ trên đường Thánh Giá đã tiếp bước cho Đấng Cứu Thế lên tới đỉnh đồi Canvê.

- Sự hiện diện của Mẹ dưới chân Thập Giá đã cho Chúa Giêsu an tâm về với Chúa Cha sau khi trối Gioan, đại diện loài người lại cho Mẹ.

- Sự hiện diện của Mẹ trong nhà tiệc ly đã giúp các tông đồ sốt sắng cầu nguyện để lãnh nhận Chúa Thánh Thần.

Và chắc chắn sự hiện diện của Mẹ trong cuộc đời người Kitô đã làm nảy sinh muôn ngàn phúc lộc. Sự hiện diện hiền mẫu của Mẹ trong cuộc đời chúng ta đã mang lại biết bao niềm vui, sự ủi an, lòng can đảm giúp chúng ta tiếp tục tiến bước trong cuộc lữ hành đức tin.

Những lúc mệt mỏi rã rời trong cuộc sống hiện tại, những lúc tối tăm bao phủ, những lúc nặng trĩu u buồn của quá khứ, những lúc hụt hẫng đến độ không còn biết nương tựa vào ai, chúng ta hãy chạy đến với Mẹ, qua việc đọc và suy niệm Kinh Mân Côi, ta sẽ thấy tâm hồn thanh thản và bình an

Đọc và suy niệm Kinh Mân Côi, là những giây phút êm ái, ngọt ngào, hạnh phúc bên cạnh Mẹ. Với tấm lòng từ bi nhân hậu của Mẹ sẽ là nguồn ủi an, nâng đỡ và giúp sức chúng ta trong mọi cảnh huống cuộc đời đầy thử thách chông gai này.

 

  1. Việc ấy sẽ xảy ra cách nào

(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)

Bài Phúc Âm được đọc trong ngày lễ kính Đức Mẹ Mân Côi đề cập tới biến cố truyền tin. Điều đó có vẻ như thiếu thiếu một gì đó, vì thật ra truyền tin chỉ là ‘mầu nhiệm Mân Côi’ thứ nhất trong số 20 mầu nhiệm được đem ra suy gẫm? Phụng vụ muốn nói gì khi chọn đoạn Tin Mừng này, đặc biệt cho giáo dân Việt Nam khi mà Hội Đồng Giám Mục trong khóa họp tháng 4 năm 1991 đã quyết định cho phép mừng trọng thể lễ này vào ngày Chúa Nhật? Đặt vấn nạn như thế có nghĩa là muốn xác định nội dung đích thực của việc lần hạt Mân Côi: một việc đạo đức được Đức Mẹ ưa thích, hay còn là một con đường sống Tin Mừng bình dân nhưng hữu hiệu và sâu sắc?

Người Công giáo chúng ta vẫn biết rằng giá trị của việc lần hạt Mân Côi hệ tại ở suy niệm các sự kiện hay biến cố xảy ra trong cuộc đời đức Giêsu và đức Maria, hầu giúp ta nhận ra, ngày càng sâu sắc hơn, hồng ân cứu độ. Tuy nhiên sự nhận biết này nhiều khi chỉ dừng lại ở nhận thức, một cảm thức chung chung mang tính lý thuyết; hoặc giả hồng ân cứu độ đó chỉ là điều ta đã từng nhận lãnh một lần ngày rửa tội xa xưa. Biến cố truyền tin nói riêng, và mọi biến cố liên quan tới đức Maria nói chung, theo như tác giả Lu-ca trình bày, cho thấy một khía cạnh khác của cuộc sống Hồng Ân cứu độ: các biến cố thường nhật cần phải được nhìn nhận và được đưa vào hồng ân này, nhất là khi chúng xem ra càng khó hiểu và xa lạ với kế hoạch từ ái của Thiên Chúa.

Biết bao lần tôi phải tự hỏi, trong tư cách một Kitô hữu đứng trước nhiều biến cố liên quan tới mình, tới tha nhân và xã hội loài người, thì “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào?” Câu hỏi này không mong tìm cho ra một giải đáp hợp lý cho từng sự kiện, nhưng là để nhận ra lòng từ bi thương xót của Chúa đang được thực hiện ra sao. Trong lần hạt Mân Côi, cùng với đức Maria, tôi giáp mặt với cuộc sống hàng ngày, có thể là những niềm vui, những biến cố trang trọng mang nhiều ý nghĩa, cũng có thể là những nỗi buồn, những đổ vỡ..., những chuyện vụn vặt vu vơ, những thành công hay thất bại, những kỳ vọng hay hoài bão…

Đối với một Kitô hữu như tôi, tất cả mọi biến cố bất luận tốt xấu, đều có giá trị nếu được nhìn nhận và đưa vào tình yêu nhân ái của Thiên Chúa đầy lòng xót thương. Đối với Kitô hữu, sẽ không chỉ có vấn đề ‘thánh hóa = làm phép’ các biến cố hàng ngày, theo kiểu dâng chúng lên cho Thiên Chúa, như cách nói bình dân thông thường. Điều một Kitô hữu cần làm là dìm mọi biến cố của cuộc sống mỗi ngày ngập sâu trong hồng ân cứu độ. Truyền tin, và nhiều biến cố khác nữa, đã được đức Maria sống như thế. Mẹ đã ‘ghi nhớ tất cả các điều ấy… và suy đi nghĩ lại trong lòng’ (Lc 2,19.51). Maria đã không lần hạt, nhưng là Mẹ Mân Côi vì đã không ngừng khám phá và sống từng biến cố đời mình trong hồng ân cứu độ của Thiên Chúa.

Dành được thời giờ mỗi ngày để xét mình và suy gẫm các ‘mầu nhiệm phép Mân Côi’ là điều tốt, nhưng rồi cũng có lúc trở thành nhàm chán. Chung qui đó vẫn còn là công việc nặng tính lý thuyết và khá trừu tượng. Lần hạt Mân Côi sẽ làm cho cả hai việc trên trở nên sống động hơn, hiện sinh hơn, nếu qua đó tôi cùng với Mẹ nhìn nhận lòng từ ái Chúa trong từng biến cố cuộc sống mình. Mà các biến cố thì luôn thực tế, thiết thực và biến đổi không ngừng trong đời sống thường ngày. Các biến cố không chỉ được phân loại tối hay xấu theo nghĩa luân lý, mà tất tất đều cần được ánh sáng hồng ân cứu độ của Chúa soi chiếu và biến đổi, Như thế tôi không chỉ lần chuỗi hạt, mà sống Mân Côi mỗi ngày. Chắc chắn sống Mân Côi như thế sẽ thiết thực dẫn đưa tôi đạt tới một cuộc sống Kitô ngày càng Tin Mừng hơn, hiểu theo nghĩa cho phép tôi ngày càng vào sâu hơn trong hồng ân cứu độ, và mau mắn biến đổi đời tôi - không theo nghĩa ngày càng trở nên tốt lành thánh thiện hơn - nhưng ngày càng thâm tín khi nhận ra rằng tình thương của Chúa trên tôi (và trên toàn nhân loại) không bao giời vơi cạn, bất chấp tất cả những yếu đuối biến thiên vô hình vạn trạng của con người. Sứ điệp Fa-ti-ma sẽ không bao giờ mất đi cái ý nghĩa thâm sâu của nó, đã được vang vọng từ thời Thánh Đa-minh, và sẽ còn tiếp tục mãi qua mọi thời: “Hãy năng lần Mân Côi!”

Lạy Mẹ Mân Côi! Cùng với Mẹ, xin cho con sống Mân Côi hàng ngày. Xin cho con luôn tìm được giải đáp thỏa đáng cho mọi tình huống và biến cố trong đời con qua câu nói của sứ thần mà chính Mẹ đã được nhắc nhở: “Vì đối với Thiên Chúa - nhân lành, không có gì là không thể làm được’. Cùng với Mẹ, con mong rằng việc lần hạt Mân Côi sẽ trở thành con đường Tin Mừng đích thực cho con. Amen.

 

  1. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên

Lịch sử Cứu Độ đã khởi đầu với việc Thiên Chúa tuyển chọn và kêu gọi Abraham, được tiếp nối và thực hiện trong lịch sử Israel cho đến khi như lời thánh Phaolô viết “Khi đến thời đến buổi, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và lệ thuộc vào lề luật Do thái”. Về Người Con ấy, Sứ Thần Gabriel đã nói “Người sẽ nên cao cả, và Thiên hạ sẽ gọi Người là Con Đấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và vương quyền của Người sẽ vô tận”. Như thế lịch sử Cứu Độ phải được đón nhận như là lịch sử vương quyền của Đức Kitô trong dân Người: trước hết nơi Israel và bây giờ là nơi Giáo Hội của Người.

Qua cơ cấu diễn biến của lịch sử cứu độ chúng ta thấy cốt lõi là một cuộc đối thoại không ngừng giữa Thiên Chúa với con người. Cuộc đối thoại không nhằm cách ly con người khỏi cuộc sống thường ngày với những lo âu và hy vọng của họ, nhưng ngược lại cuộc đối thoại nhằm mở cánh cửa đời sống, cánh cửa gia đình, cánh cửa dân tộc và xã hội để Thiên Chúa, và đích xác hơn là để Con của Người bước vào và đổ tràn Thánh Thần Người, để mỗi cuộc sống, mỗi gia đình, mỗi dân tộc và toàn thể xã hội tự thẳm sâu đáy lòng mình có thể thốt lên “Abba, Cha ơi” đối với Thiên Chúa, và như thế, mỗi cuộc sống, mỗi gia đình, mỗi dân tộc và xã hội trở nên “người thừa tự” gia sản của “Cha” trên trời.

Abraham đã dần dần khám phá ra được chân lý ấy khi ông ra khỏi xứ Ur. Từ biến cố này qua biến cố khác, cuối cùng ông được mời gọi tiến lên ngọn núi Thiên Chúa chỉ định, ở đấy ông đã khẳng định được với tất cả tự do và yêu mến: chính Thiên Chúa sẽ lo liệu mọi sự cho ông và con cái ông.

Ở bình minh của Tân Ước, không phải nơi Đền Thánh Giêrusalem, mà ở trong chính mái nhà nhỏ bé nghèo nàn của Mẹ, Đức Maria được mời gọi trở về với chính mình, với vấn đề thiết thân nhất của Mẹ: “Làm sao có chuyện ấy được, vì tôi không biết đến người nam!” Để rồi Mẹ được mời gọi để xác tín với tất cả sự tin yêu tự do Thiên Chúa sẽ đến, sẽ đảm nhận lấy cuộc sống Mẹ cho nó trở nên cảnh vực Thần Linh. Đó là điều thánh Phaolô cũng nói như thế trong mấy câu thư vắn tắt chúng ta vừa nghe.

Vì thế, khi đón nhận công việc thiết lập vương quyền của Đức Kitô như là sứ mạng riêng biệt của mình, Giáo Hội Đức Kitô qua các tông đồ đã ý thức về trọng tâm thiết yếu của sứ vụ là trở về “nơi các ông thường trú ngụ để “đồng tâm nhất trí, siêng năng cầu nguyện”. Cầu nguyện từ đó đã là hơi thở và sức sống của Giáo Hội, của công cuộc loan báo tin mừng Cứu Độ.

Thật khác với biết bao suy nghĩ và hành động của chúng ta ngày nay: chúng ta bị lôi kéo vào sức hấp dẫn và tính hiệu quả của những tổ chức, cơ cấu và phương tiện, đã gạt qua một bên nỗ lực “Đối Thoại với Thiên Chúa” “nỗ lực cầu nguyện liên lỷ”. Gia đình Kitô Giáo nơi chúng ta thường trú không còn là “nhà cầu nguyện”, thậm chí ngay cả “Nhà Cầu Nguyện” cũng trở thành những trung tâm trình diễn, tiếp thị, kỹ thuật. hơn là nơi con người đối thoại với Thiên Chúa!

Bài sách Công Vụ Tông Đồ tuy thật vắn gọn, nhưng đã gợi nhớ một yếu tố nền tảng của cuộc đối thoại cứu độ: Các Tông Đồ đã cầu nguyện với Đức Maria và cùng với anh em của Đức Giêsu. Sở dĩ các ông đã cầu nguyện cùng với Đức Maria, là vì duy mình Đức Maria mới có kinh nghiệm trọn vẹn về “đối thoại cứu độ” này. Với Đức Maria đây là đối thoại do sáng kiến của Thiên Chúa, được “Thánh Thần bao bọc chở che” và chính Thiên Chúa hoàn thành. Giáo Hội phải nhờ Mẹ để thực hiện sự cầu nguyện.

Trong viễn ảnh đó mà chúng ta hiểu được tại sao Giáo Hội khắp nơi, và cách riêng Giáo Hội Việt Nam vô cùng yêu mến và trân trọng Kinh Mân Côi. Chính đây là lúc mỗi người như được sống lại khung cảnh Nhà Tiệc Ly với các Tông Đồ, để bên gối Mẹ, Giáo Hội và mỗi người được Mẹ dẫn dắt qua mọi biến cố đời sống, Mẹ khám phá ra sự mời gọi của Thiên Chúa và bằng cách nào để Thiên Chúa đảm nhận lấy cuộc sống nhỏ bé của mình, mà thực hiện nên những điều kỳ diệu. Trong cũng cái nhìn đức tin ấy, chúng ta mới thấu hiểu được tại sao chỉ là những lời kinh thật đơn giản, không đòi hỏi sự thông thái khôn ngoan, lời kinh chất phác của những tâm hồn thật quê mùa, lời kinh phản ánh rất trung thực lời “Xin Vâng” của người con gái Xion làng Nazaret xưa, lại có thể có quyền lực giải thoát con người trong mọi tình huống khó khăn nhất, và đem lại có khi cho cả một dân tộc niềm hoan lạc hạnh phúc. Chỉ vì lời kinh ấy là ân tình trao ban kinh nghiệm về Thánh Thần của Mẹ.

Trong tháng Mân Côi và trong đời sống, khi trở về với Kinh Mân Côi, người Kitô hữu phải cảm nhận được niềm vui được trở về mái nhà Tiệc Ly xưa, để một lần nữa họ được Đức Mẹ cho thấy Chúa Thánh Thần đã đến với Mẹ bằng ngõ ngách nào, và làm sao Ngài đã hoàn thành sứ mạng của Ngài trong mỗi biến cố đời Mẹ: Sứ Mạng làm cho Chúa Giêsu hình thành và lớn lên trong lòng dạ và cuộc sống Mẹ. Đây qủa thực là một viễn cảnh bao la và kỳ diệu chờ đợi chúng ta trong Kinh Mân Côi. Ước gì những suy nghĩ này giúp chúng ta có thêm nhiệt tình và sốt sắng lần chuỗi Mân Côi.

 

  1. Bài học quan trọng của kinh Mân Côi

(Trích dẫn từ ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ của Lm. Ignatio Trần Ngà)

Mọi tội lỗi của loài người đều do một cội rễ sinh ra, đó là tội không vâng lời Thiên Chúa. Ngay từ khởi thuỷ, tổ tông loài người là Ađam và Evà đã không vâng lời Thiên Chúa, không đi theo đường lối Người, nên đã bị trục xuất khỏi vườn địa đàng, phải chịu đau khổ và phải chết, để lại hậu quả tai hại cho con cháu về sau.

Sự bất tuân nầy cũng giống như tàu đi trật đường rầy. Một khi nguyên tổ là đầu tàu đi trật đường rầy thì cả đoàn tàu là muôn vàn con cháu cũng bị lao xuống vực sâu tội lỗi. “Thật vậy, vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân... “ (Rm 5, 19)

Vì thế, muốn cứu chuộc loài người hư vong vì đi trệch đường lối Thiên Chúa thì phải có một đầu tàu khác lôi kéo đoàn tàu trở lại theo đúng đường rầy. Chúa Giêsu chính là “đầu tàu” nầy: “Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất (là Chúa Giêsu) đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính”. (Rm 5, 19)

Tràng chuỗi Mân Côi chính là một lời động viên liên lỉ kêu mời mọi người theo gót Chúa Giêsu và Mẹ Maria, đi theo con đường vâng phục như Chúa Giêsu và Mẹ Maria để được tiến vào nơi hạnh phúc muôn đời.

* Theo gương vâng phục của Mẹ Maria

Bà E-và xưa đã nghe lời dụ dỗ của Sa-tan, không tuân giữ lời Thiên Chúa truyền dạy, nên đã lôi kéo dòng dõi của mình vào cõi chết.

Đức Maria là E-và mới đã uốn nắn lại những sai trật của E-và xưa, bằng đời sống vâng phục Thiên Chúa tuyệt đối nên Mẹ được đưa lên trời hưởng phúc muôn đời vinh hiển. Đó là một nét lớn trong nội dung của kinh Mân Côi.

Dù được Thiên Chúa đưa lên địa vị làm mẹ của Ngôi Hai Thiên Chúa, Đức Maria vẫn tự coi mình là người nữ tỳ hèn mọn của Thiên Chúa và suốt đời vâng theo lệnh Chúa truyền. Mẹ đã thưa với sứ thần Gabrien trong ngày truyền tin rằng: “Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”. Đó là bài học vâng phục mà Mẹ dạy chúng ta qua mầu nhiệm vui.

Sự vâng phục trong tinh thần khiêm tốn của Mẹ Maria đã làm đẹp lòng Thiên Chúa, nên Thiên Chúa đã tôn vinh Mẹ, ban cho Mẹ được lên trời cả hồn lẫn xác (là nội dung gẫm thứ tư thuộc năm sự mừng) rồi lại trọng thưởng Mẹ trên thiên quốc (là nội dung gẫm thứ năm thuộc năm sự mừng).

* Theo gương vâng phục của Chúa Giêsu

Song song với tấm gương vâng phục của Mẹ Maria là tấm gương vâng phục chói ngời của Chúa Giêsu trong mầu nhiệm thương.

Trong Vườn Dầu, dẫu phải “lâm cơn xao xuyến bồi hồi, và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất... (Luca 22, 44) thì Chúa Giêsu cũng xin thưa với Cha: “Xin đừng làm theo ý Con, mà làm theo ý Cha!” (gẫm thứ nhất năm sự thương)

Kế đó, khi bị đưa ra toà xét xử, và dù phải chịu đòn vọt tơi bời (gẫm thứ hai năm sự thương), Chúa Giêsu vẫn cắn răng chịu đựng trong tinh thần vâng phục thánh ý Chúa Cha: “Xin cho ý Cha thể hiện”.

Sau đó, quân dữ bện vòng gai làm như một thứ 'vương miện', chụp lên đầu Người, lại còn thay nhau khạc nhổ, phỉ báng, nhạo cười... (gẫm thứ ba năm sự thương), Chúa Giêsu vẫn bằng lòng uống cạn chén đắng Cha trao: “Xin đừng theo ý Con, mà làm theo ý Cha”.

Dù đã đến lúc sức tàn lực kiệt, lại phải vác lấy thập giá nặng nề, lảo đảo bước lên đồi Can-vê như một tên tử tội khốn cùng nhất, bị kiệt sức và phải ngã xuống nhiều lần (gẫm thứ tư), Chúa Giêsu vẫn đi cho đến cùng con đường Chúa Cha đã định: “Xin đừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha”.

Dù phải chịu đóng đinh ô nhục và chịu chết rất đau thương trên thập giá giữa hai tên tử tội, chịu bao kẻ qua lại thách thức nhạo cười (gẫm thứ năm), Chúa Giêsu vẫn một lòng vâng theo ý Cha và xin Cha tha thứ cho những việc họ làm. (Lc 23, 34)

Sự vâng phục tuyệt đối của Chúa Giêsu rất đẹp lòng Thiên Chúa Cha nên Người đã cho Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại và lên trời vinh hiển (gẫm thứ nhất và thứ hai năm sự mừng) và siêu tôn Chúa Giêsu vượt bậc: “Chính vì thế, Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Người, ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu...” (Pl 2, 9)

Thế là từ đây, nhờ sự vâng phục tuyệt đối của Chúa Giêsu, mọi kẻ tin sẽ được cứu độ, con cháu Ađam tưởng đã phải hư mất đời đời nay lại được cứu rỗi: “Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất (Ađam) đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất (Chúa Giêsu) đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính. (Rm 5, 19)

Như thế, chuỗi Mân Côi là lời mời gọi chúng ta vâng phục Thiên Chúa theo gương Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Vâng theo ý Thiên Chúa là con đường đã đưa Chúa Giêsu và Mẹ Maria vào cõi trời vinh hiển và cũng là con đường duy nhất dẫn chúng ta vào chốn hạnh phúc đời đời như lời Chúa Giêsu dạy: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7,21).

 

  1. Mân Côi, bản tóm lược Tin Mừng

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Trên một chuyến xe lửa về Paris, một sinh viên trẻ tuổi ngồi bên một cụ già. Chỉ ít phút sau khi đoàn tàu chuyển bánh, cụ già rút trong túi áo ra một chuỗi tràng hạt và từ từ chìm đắm trong cầu nguyện. Người sinh viên quan sát cử chỉ của cụ già với vẻ bực bội. Sau một hồi lâu, xem chừng như không còn đủ kiên nhẫn nữa, anh ta mới lên tiếng:

- Thưa ông, nếu tôi không lầm thì ông vẫn còn tin những chuyện nhảm nhí ấy chứ?

Cụ già điềm nhiên trả lời?

- Đúng thế, tôi vẫn tin. Còn cậu, cậu không tin sao?

Người sinh viên cười một cách ngạo mạn và quả quyết:

- Lúc nhỏ tôi tin, nhưng bây giờ làm sao tôi có thể tin những chuyện ấy nữa. Khoa học đã thực sự mở mắt cho tôi. Ông cứ tin tôi đi, hạy quăng chuỗi tràng hạt ấy đi, và hãy học hỏi những khám phá mới. Ông sẽ thấy rằng những gì ông tin từ trước đến giờ đều là mê tín dị đoan cả.

Cụ gì bình tĩnh hỏi người sinh viên:

- Cậu vừa nói về những khám phá mới của khoa học. Cậu có cách nào giúp tôi hiểu được điều nầy không?

Người sinh viên hăng hái đề nghị:

- Ông cứ cho tôi địa chỉ, tôi sẽ gởi đến cho ông một quyển sách. Ông sẽ tha hồ đi vào thế giới của khoa học.

Cụ già từ từ rút trong túi áo ra một thiếp và trao cho người sinh viên. Đọc qua tấm danh thiếp, người sinh viên bỗng xấu hổ đến tái mặt và lặng lẽ rời sang toa khác. Bởi vì trên tấm danh thiếp ấy có ghi: “Louis Pasteur viện nghiên cứu khoa học Paris”.

Anh chị em thân mến,

Louis Pasteur là một nhà bác học thời danh của viện nghiên cứu khoa học Paris. Cuộc đời nghiên cứu khoa học của ông gắn liền với việc cầu nguyện và cầu nguyện với tràng chuỗi mân côi. Ngược lại, con người sống trong thời đại khoa học kỹ thuật ngày nay chỉ đề cao tính thực dụng, đề cao những gì mang lại hiệu quả cụ thể, tức thời, giải đáp những nhu cầu cuộc sống. Vì thế, người ta dễ lơ là với việc cầu nguyện, cho rằng cầu nguyện chẳng mang lại cái gì cụ thể cho cuộc sống, chỉ thấy mất thời giờ, nếu không cho là chuyện nhảm nhí, mê tín dị đoan.

Nếu việc cầu nguyện nói chung bị quên lãng như thế, thì hình thức cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi lại càng khó khăn nhiều hơn nữa. Nhất là chuỗi Mân Côi được thực hành với niềm tin tưởng có vẻ ma thuật, phù phép sẽ không còn thu hút nổi người ngày nay, nhất là giới trẻ. Họ chỉ thấy đó là công việc tẻ nhạt, mất thời giờ và hoàn toàn máy móc. Có người lại còn mặc cảm khi lần chuỗi Mân Côi, vì nghĩ rằng đó là việc đạo đức của các bà già và con nít!

Chính vì vậy, cần phải đổi mới việc lần chuỗi Mân Côi. Việc đổi mới nầy hệ tại ở chỗ khám phá nội dung và giá trị Tin Mừng của tràng chuỗi Mân Côi. Trong Tông huấn “Lòng sùng kính Đức Maria” (Marialis Cultus), Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã không ngừng nhắc đến kinh Mân Côi là một kinh bản chất Tin Mừng, là kinh Tin Mừng, là bản tóm lược Tin Mừng. Tin Mừng ở đây là Tin Mừng Cứu Độ. Tin Mừng ấy không nơi nào được vang lên với tất cả niềm hân hoan phấn khởi cho bằng lời kinh “Ave Maria” mà chúng ta đọc là “Kính Mừng Maria” thay vì trong nguyên ngữ Hy Lạp có nghĩa là “Hãy vui lên, Maria!” khi thiên sứ loan báo Tin Mừng cứu độ. Tin Mừng cứu độ mà bao đời hằng ấp ủ trong hy vọng, giờ đây được thực hiện nơi người thiếu nữ Sion mang tên Maria, vì Maria đã được Thiên Chúa tuyển chọn để trở thành Mẹ của Con Ngài, Mẹ của Đấng mà nơi Ngài ơn cứu độ được hoàn thành. Vì thế, Maria được ban một tên mới: “Hãy vui lên, Người đầy ơn phúc” là tên mới của Đức Mẹ. Đọc lên lời kinh “Kính mừng Maria” là reo lên niềm vui ơn cứu độ. Ơn cứu độ mà chúng ta được hội nhập vào, khởi đi từ lòng Thiên Chúa thương xót và thông qua thái độ đầy tin tưởng, cậy trông của Đức Maria.

Nội dung Tin Mừng cứu độ là chính Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, từ khi giáng sinh đến cuộc sống, lời rao giảng, cái chết và sự phục sinh của Ngài. Thế mà chuỗi Mân Côi là bản tóm lược cuộc đời của Chúa Giêsu với những biến cố chính yếu nhất: “Từ khi thụ thai và những mầu nhiệm của thời thơ ấu cho đến giờ phút cao điểm của biến cố Vượt Qua cuộc Tử Nạn hồng phúc và Phục Sinh vinh quang – và cho đến hồng ân tuôn đổ xuống trên Giáo Hội ngày lễ Ngũ Tuần cũng như trên Đức Trinh Nữ trong ngày kết thúc cuộc hành trình trần gian đã được đưa cả xác hồn về quê hương thiên quốc” (MC số 45). Vì vậy có lạ gì khi nói chuỗi Mân Côi là bản tóm lược Tin Mừng.

Anh chị em thân mến,

Khi lần chuỗi Mân Côi cùng với lời kinh Kính Mừng Maria được lặp đi lặp lại như một điệp khúc vui, chúng ta được mời gọi đi vào tâm tình của Mẹ Maria, dọc theo những biến cố của cuộc đời của người Con yêu dấu: những tâm tình khiêm nhu, nghèo khó, yêu thương, vâng phục, tín thác… Đây là những giá trị của Tin Mừng. Chúng ta phải quay về với Tin Mừng, phải đọc lên trong lòng bản hiến chương Nước Trời, nơi đó, những kẻ nghèo khóc, hiền lành, đau khổ, trong sạch, biết xót thương, biết xây dựng hòa bình… được công bố là kẻ có phúc, là con Thiên Chúa, là kẻ chiếm lãnh Nước Trời. Chỉ khi đó, chúng ta mới hiểu được cuộc đời của Đức Maria, mới nhận ra vẻ đẹp sáng ngời vốn chỉ là tăm tối đối với thế gian. Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Đức Maria và qua Ngài thêm một lần xác tín lại hằng ngày những giá trị của Tin Mừng, những giá trị mà tất cả những ai xưng mình là môn đệ Đức Kitô không thể không biết đến và lấy làm lẽ sống cho đời mình.

Nói rằng chuỗi Mân Côi là Kinh Tin Mừng, ngay lập tức chúng ta đi đến hệ luận: không thể lần chuỗi Mân Côi cách máy móc và chỉ chú trọng đến số lượng. Bởi một lẽ đơn giản và minh bạch là Tin Mừng không chấp nhận thái độ đó. Chính Chúa Giêsu đã nói: “Khi cầu nguyện thì các ngươi chớ lãi nhãi như người ngoại. Họ tưởng hễ nói nhiều thì sẽ được nhận lời” (Mt 6,7). Thái độ phải có là lần chuỗi Mân Côi với tinh thần của Tin Mừng, cũng chính là tâm tình của Đức Maria: “Người giữ kỹ mọi điều ấy và hằng suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2,19; 2,51). Đó là biết lắng nghe Lời Chúa, suy niệm và thi hành.

Thưa anh chị em,

Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Đức Maria làm lại cuộc hành trình của cuộc sống. Cùng với Đức Maria nhìn lại những biến cố cơ bản trong chiều dài lịch sử cứu độ, và qua những biến cố đó, nhìn vào những biến cố hôm nay, của cá nhân, gia đình, xã hội và Giáo Hội trong ánh sáng Tin Mừng. Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Đức Maria đi tìm một lời đáp trả cho những vấn đề của cuộc sống hôm nay, lời đáp trả thấm nhuần lòng tin, niềm hy vọng và dám chấp nhận dấn thân trong hành động cụ thể, trong những lựa chọn đầy can đảm như Mẹ Maria đã dấn thân cả cuộc đời vì Nước Trời.

Không có lời cầu nguyện đích thực khi chưa dám sáp nhập toàn bộ con người và cuộc đời mình vào mối liên hệ với Thiên Chúa. Cũng không thể có việc lần chuỗi Mân Côi đích thực khi chưa dấn mình cùng với Đức Maria vào nẻo đường của Thiên Chúa.

 

  1. Nhờ Mẹ Đến Với Chúa

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Sau khi phản bội Chúa bằng một cái hôn, Giuđa cảm thấy chán nản thất vọng đến độ không còn tin tưởng vào tình thương tha thứ của Chúa nữa. Ông cầm lấy 30 đồng bạc là giá bán Chúa đi vào đền thờ và nám trả lại cho các Thượng tế và Kỳ lão. Sau đó ông đi thắt cổ tự tử. Câu chuyện này đã đi vào lịch sử của dân làng Oberammergau ở Đức. Cứ 10 năm một lần theo lời thề của cha ông để lại từ mấy trăm năm qua, người dân làng diễn lại cuộc tử nạn của Chúa Giêsu. Trong cảnh Giuđa ra ngoài ngồi than thở: “Tôi đã phản bội Thầy tôi. Tôi không biết chạy đến với ai nữa!”

Khán giả ở dưới im lặng theo dõi, một em bé ngồi bên cạnh mẹ, thông cảm cho số phận của kẻ chìm đắm trong thất vọng, em muốn tìm cách để cứu vớt con người khốn khổ ấy. Em quay sang mẹ và nói lớn đến nỗi tất cả khán giả trong hội trường đều nghe thấy:

“Mẹ ơi, sao ông ta không chịu chạy đến với Mẹ Maria?”.

Thưa anh chị em,

Phải chi Giuđa mà biết chạy đến với Mẹ Maria, hẳn là ông đã không thắt cổ tự tử. Hãy nhờ Mẹ Maria mà đến với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu cũng có một người mẹ như mọi người, và nhất là Ngài cũng trải qua một thời thơ ấu như mọi người. Kỷ niệm của những giây phút ngồi trên gối mẹ, những lần sà vào lòng mẹ, hẳn phải luôn đậm nét trong ký ức của Chúa Giêsu. Có lẽ chính kinh nghiệm bản thân ấy đã trở nên bài học mà Ngài muốn nhắn gởi chúng ta: “Hãy chạy đến với Mẹ Maria”.

Tràng chuỗi Mân Côi là một phương thế giúp chúng ta chạy đến với Mẹ Maria. Đức Thánh Cha Piô X đã nhắn nhủ các gia đình Công giáo: “Khi gia đình không được an vui hòa thuận, hãy lần chuỗi Mân Côi để xin Mẹ ban cho sự an vui hòa thuận yêu thương. Khi gặp người chồng thiếu trách nhiệm, hãy chạy đến với Mẹ nhờ tràng chuỗi Mân Côi, để xin Mẹ cảm hóa bạn mình. Khi vợ chồng xung khắc nhau, hãy lần chuỗi Mân Côi, xin Mẹ tạo sự cảm thông…”.

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, ngay trong tuần lễ sau khi đắc cử Giáo Hoàng, đã nói với tất cả các tín hữu hiện diện tại quãng trường Thánh Phêrô khi đọc Kinh Truyền Tin rằng: “Chuỗi Mân Côi là lời cầu nguyện mà tôi yêu thích nhất. Đó là lời kinh tuyệt vời. Tuyệt vời trong sự đơn giản và sâu sắc. Với lời kinh này chúng ta lặp lại nhiều lần những lời Đức Trinh Nữ đã nghe sứ thần Gabriel và người chị họ Êlizabeth nói với Mẹ. Toàn thể Giáo Hội cùng liên kết với những lời kinh ấy. Người ta có thể nói rằng: Kinh Mân Côi là kinh chú giải chương cuối cùng của Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội (Lumen Gentium) của Công Đồng Vatican II, chương bàn đến sự hiện diện tuyệt vời của Đức Mẹ trong mầu nhiệm Chúa Kitô diễn ra trước mắt chúng ta. Những biến cố ấy bao gồm toàn bộ các mầu nhiệm Vui, Thương, Mừng và chúng ta hiệp thông sống động với Chúa kitô nhờ Mẹ Maria. Đồng thời, chúng ta có thể đưa kinh Mân Côi vào tất cả những biến cố trong cuộc sống hằng ngày của từng cá nhân, từng gia đình, xã hội, Giáo Hội và toàn thể nhân loại, những biến cố của chính bản thân của anh chị em chung quanh, nhất là với người thân yêu sống gần gũi với chúng ta. Như thế, kinh Mân Côi đơn sơ này sẽ rập theo nhịp sống của con người” (Gioan Phaolô II, 29.10.1978).

Trong Tông Huấn “Lòng sùng kính Đức Maria” (Marialis Cultus), Đức Thánh Cha Phaolô VI đã nói: “Kinh Mân Côi là kinh Tin Mừng”. Là kinh Tin Mừng không chỉ ở chỗ lời kinh Lạy Cha, Kính Mừng được chấp nối bằng những lời lẽ trong Thánh Kinh, nhưng nhất là vì lời kinh ấy đưa chúng ta vào nội dung chính yếu của Tin Mừng là mầu nhiệm Chúa Giêsu.

Vì thế, đối tượng cốt yếu của chuỗi Mân Côi không phải là mầu nhiệm Đức Maria, nhưng là mầu Chúa Giêsu, trải dài từ tiếng khóc Bêlem đến nỗi đau thập giá và niềm vui phục sinh, đến ân huệ Thánh Thần. Cùng với cuộc sống ấy là những giá trị căn bản của Tin Mừng được xác quyết: yêu thương, nghèo khó, khiêm nhường, từ bỏ… những giá trị “nên xác thịt” nơi con người Chúa Giêsu và là tiếng mời gọi được gởi tới cho tất cả mọi người.

Trên nẻo đường Tin Mừng ấy, lại có sự hiện diện của Đức Maria, một người Mẹ đầy tình mẫu tử và cũng là người môn đệ ấy đã thông điệp trọn vẹn với Chúa Giêsu, Đấng cứu độ trong suốt cuộc đời: từ khi sinh ra đến khi chứng kiến cái chết trên thập giá, sống lại và lên trời. Chuỗi Mân Côi đưa người tín hữu vào suy niệm về những đoạn đường Chúa đã đi qua với sự hiện diện của Mẹ Maria trong những đoạn đường ấy.

Như thế, thưa anh chị em,

* Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Mẹ Maria và qua Mẹ Maria, chúng ta thêm một lần xác tín và xác tín lại hằng ngày những giá trị của Tin Mừng.

* Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Mẹ Maria nhìn lại những biến cố cơ bản trong chiều dài lịch sử cứu độ và qua những biến cố ấy, chúng ta nhìn lại những biến cố hôm nay của cá nhân, gia đình, xã hội và Giáo Hội trong ánh sáng Tin Mừng.

* Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Mẹ Maria đi tìm một lời đáp trả cho những vấn đề của cuộc sống hôm nay, lời đáp trả thấm nhuần lòng tin, niềm hy vọng và dám chấp nhận dấn thân trong những lựa chọn can đảm, trong hành động cụ thể như Mẹ Maria đã dấn thân cả cuộc đời vì Nước Trời.

Chính như thế đó, Thánh Đaminh đã biến chuỗi Mân Côi thành phương thế loan báo Tin Mừng. Nhờ đó nhiều người đã thoát khỏi sự lầm lạc do bè rối Albigeois gây ra và đã trở về với Giáo Hội.

Cũng chính như thế đó, Đức Gioan XXIII đã lần chuỗi Mân Côi như phương thế nuôi dưỡng đời sống mục tử của ngài.

Đối với chúng ta cũng thế, không có lời cầu nguyện đích thực khi chưa dám sáp nhập toàn bộ con người và cuộc đời chúng ta vào mối liên hệ với Thiên Chúa. Cũng không thể có việc lần chuỗi Mân Côi đích thực khi chưa dấn mình -cùng với Mẹ Maria- vào nẻo đường của Thiên Chúa. Hãy chạy đến với Mẹ Maria để nhờ Mẹ dẫn chúng ta đến với Chúa Giêsu.

 

  1. Kinh Mân Côi – Lời kinh kết nối (Lc 1,26-38)

(Trích trong ‘Nút Vòng Xoay’ - ĐGM. Vũ duy Thống)

Chiều qua ghé mừng bổn mạng Phanxicô Khó Khăn của một người bạn là cha của một gia đình một vợ ba con. Đúng lúc gia đình vừa đi lễ về. Đang khi tay bắt mặt mừng, đứa gái út đã nhanh nhẩu chỉ cho tôi chiếc áo mới màu xanh nước biển đang mặc và khoe rằng hôm nay nó là Việt kiều Úc Châu đấy. Tôi còn chưa hiểu ất giáp gì thì nó đã liến thoắng đố tôi hôm nay trong gia đình nó có gì lạ. Tôi đảo mắt nhìn một vòng nhưng chẳng thấy có gì khác nên đành chịu. Con bé lí lắc đã chẳng giữ kín được câu đố của mình nên đã nhanh chóng bật mí cho tôi. Nó nói: gia đình nó hôm nay mỗi người mặc một màu áo: bố màu trắng người Châu Âu, mẹ màu vàng người Châu Á, chị hai màu đỏ người Châu Mỹ, còn anh ba màu xanh lá người Châu Phi. Cả gia đình là năm châu, là thế giới.

Thấy tôi vẫn ngẩn người chưa hiểu, anh bạn tôi đã phải giải thích: chả là vào tháng Mân Côi, má xấp nhỏ muốn làm một chuỗi kinh sống trong gia đình nên phân bổ mỗi người mỗi ngày đọc một chục, năm người thành năm chục, năm chục năm màu năm châu là sáng kiến của Đức Giám Mục Fulton Sheen đã lâu ở bên Mỹ, còn năm màu áo minh họa là sáng kiến của con út nhà này. Con bé đỏ mặt hãnh diện, mọi người cười vui. Và khởi đi từ niềm vui ấy, tôi miên man suy nghĩ: Kinh Mân Côi là lời kinh kết nối.

1) Kết nối với Đức Maria.

Bởi Kinh Kính Mừng là nối kết lời thiên thần Gabriel chào Đức Maria trong buổi Truyền Tin với lời mừng của bà Êlisabet trong ngày Thăm Viếng, nên mỗi lần được lặp lại đã trở thành lời chào mừng chính thức cho sự kết nối giữa con người với Đức Maria.

Sự kết nối ấy là kết nối với một cá nhân khi đối diện với mầu nhiệm của Thiên Chúa chỉ dám nhận mình là một tôi tớ, nhưng đã được cất nhắc lên vinh quang làm Mẹ Thiên Chúa. Đó là một dung hòa tuyệt hảo giữa một đàng là hồng ân của Thiên Chúa và đàng khác là nỗ lực của con người, nghĩa là nơi Đức Maria, người ta hiểu rằng tất cả khởi đi từ ơn phúc Chúa ban nhưng còn ở trong tình trạng tiềm ẩn, chỉ đến khi có sự đáp trả cộng tác bằng lời “xin vâng” thì ơn phúc kia mới lộ hiện.

Nhưng “xin vâng” không chỉ bằng lời mà là bằng cả một đời đánh đổi: vừa bền lòng thực thi ý Chúa, vừa bền chí chấp nhận những thử thách cam go vốn không thiếu trên hành trình đức tin bên cạnh Chúa Giêsu.

Sự kết nối ấy là một sự “nối mạng”, nghĩa là kết nối vào một vận mạng. Đức Maria trong vinh quang hiện tại không những không xa cách mà còn gần gũi nhân loại hơn cả bao giờ. Mẹ là Mẹ Thiên Chúa đã nên Mẹ Giáo Hội để qua Kinh Kính Mừng, một tâm tình hiệp thông gắn bó nảy sinh, rất linh động như dòng chảy hai chiều đi đi về về giữa Đức Maria xuống với con người và giữa con người lên với Đức Maria, rất tự nhiên như tình mẫu tử, đằm thắm khi yên ổn nhưng cũng đầy trách nhiệm những khi kêu cầu.

2) Kết nối với Chúa Giêsu.

Nếu đối tượng trực tiếp của Kinh Mân Côi là kết nối với Đức Maria qua những chặng đường mầu nhiệm đời Mẹ, thì hành trình cùng với Mẹ, từng bước, người ta sẽ được dẫn tới đích điểm là kết nối với Chúa Giêsu.

Có một điều ngạc nhiên đến thú vị là nếu có ai hỏi ta Đức Maria có lần hạt không, ta sẽ trả lời khẳng định: Đức Maria cũng lần hạt. Hiện ra ở Lộ Đức hoặc ở Fatima, Mẹ đều lần hạt với con cái mình. Điều này cho thấy người ta không chỉ lần hạt kết nối với Mẹ nhưng còn cùng với Mẹ lần hạt kết nối với Chúa Giêsu nữa.

Chính kết cấu của Kinh Kính Mừng cũng muốn nói lên điều ấy. Trong Kinh Kính Mừng chỉ có hai danh xưng Maria và Giêsu được xướng lên, mở đầu bằng Maria và kết thúc bằng Giêsu: “Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ và Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ”, nghĩa là kết nối với Mẹ để được nối kết với Con của Mẹ, kết nối với Đức Maria để rồi nối kết với Chúa Giêsu. Qua Mẹ Maria đến với Chúa Giêsu.

Nhưng kết nối với Chúa Giêsu được thấy rõ nhất là qua những mầu nhiệm Mân Côi mùa Vui, Thương, Mừng như cách gọi truyền thống: Vui trong mầu nhiệm Nhập Thể Đức Giêsu xuống thế làm người sống cho mọi người; Thương trong mầu nhiệm Tử Nạn Đức Giêsu chịu chết chuộc tội cho cả nhân loại và Mừng trong mầu nhiệm Phục Sinh Đức Giêsu bước vào vinh quang mở ra tương lai cho mọi sinh linh.

Đây là sự kết nối nền tảng và là đỉnh cao. Thiếu nó, kết nối với Đức Maria dẫu có vẫn còn lỏng lẻo, chưa có nó kết nối dẫu đậm đà vẫn chưa vươn tới đẫy đà cần thiết.

3) Kết nối với mọi người trong Chúa Kitô nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria.

Thực ra đây là hệ lụy tất nhiên của hai mối kết nối nói trên. Một khi liên đới với Đức Maria để hiệp thông với Đức Kitô, tất nhiên mọi người là anh chị em hiệp thông với nhau, nhưng chính ở đây lại mở ra một nhãn giới đầy lạc quan tin tưởng hy vọng cho tất cả những ai lần hạt Mân Côi.

Với Kinh Mân Côi, tín hữu nhận biết người Ấn Độ là anh em của mình, người Châu Âu sung túc cũng nhận ra người Somali đói nghèo là chi thể của mình, người Kinh cảm nhận hơn nữa người Thượng gần gũi với mình. Tại sao ta lần hạt ở nhà thờ, gia đình, trên đường……? Tại sao ai cũng lần hạt được, từ giáo sĩ đến giáo dân, từ trí thức đến nông dân, từ em thơ đến các cụ? Thưa bởi vì Kinh Mân Côi bình đẳng phổ cập, chẳng những phù hợp với mọi người mà còn củng cố hiệp thông với mọi người. Buồn hay vui người ta đều lần hạt, đám cưới thì lần hạt xin hạnh phúc đời này, còn đám tang thì lần hạt xin hạnh phúc đời sau.

Nếu Kinh Mân Côi có được xem là vũ khí thì vũ khí ấy lại là tình thương san sẻ có sức mạnh gắn hàn liên kết hiệp thông. Bằng Kinh Mân Côi, người ta san sẻ cho nhau sứ điệp Tin Mừng như lễ Mân Côi hôm nay theo lịch sử là ghi dấu chiến thắng Lépante năm 1571 giữa Hồi Giáo và Công Giáo, nhưng theo tinh thần lại là ghi dấu một sức mạnh khi mọi người hiệp thông trong Kinh Mân Côi.

Trình bày Kinh Mân Côi là lời kinh kết nối không có tham vọng đem lại cái gì mới mà chỉ muốn lặp lại ý muốn của Đức Maria và Giáo Hội ở một hòa âm mới hơn trong mối hiệp thông. Để với những ai đã quen lần hạt hằng ngày, xin được kiên trì. Kinh Mân Côi giúp nối mạng tâm linh cho tâm tình bộc bạch thành tâm sự dễ dàng, nhanh chóng. Kinh Mân Côi còn là người bạn chân tình, dễ tính, trung thành luôn sẵn sàng hiện diện mọi lúc, mọi nơi.

Một lần làm phép xâu chuỗi cho bà cụ và cô gái, thấy họ kính cẩn trong cách trao và nhận, tôi chỉ vào túi mình và nói với hai người: tôi cũng có chuỗi kinh. Tất cả đều cười vui. Mong rằng không chỉ có chuỗi kinh để lần hạt chu toàn nhiệm vụ, mà còn có chuỗi kinh biết hiệp thông nối kết với nhau và cầu nguyện cho nhau.

 

  1. Mẹ Mân Côi – Mẹ chiến thắng

(Trích trong ‘Với Cả Tâm Tình’ - ĐGM. Vũ duy Thống)

Lễ Đức Mẹ Mân Côi gợi nhớ về một trận chiến. Năm 1571, trước sức mạnh đe dọa của Hồi Giáo trên phần đất nước Ý, Đức Giáo Hoàng Piô V đã kêu gọi con cái mình chung sức bảo vệ. Các vua chúa Công Giáo Châu Âu đáp lời. Đạo binh Thánh Giá lên đường ra tiền tuyến. Hậu phương yểm trợ bằng Kinh Mân Côi. Ngày 7 tháng 10, kết thúc binh lửa ở vịnh Lépante, với phần thắng nghiêng về phía Công Giáo. Người ta mở lễ ăn mừng. Mẹ Mân Côi từ đó có thêm danh hiệu là Mẹ Chiến Thắng.

Ngày nay, cuộc chiến mang màu tôn giáo ấy đã lùi xa vào dĩ vãng. Đạo binh Thánh Giá cũng chẳng còn. Nhưng vẫn còn đó danh hiệu Mẹ Chiến Thắng. Vì thế, vấn đề không phải là mặc cảm để mà nhức nhối, hoặc háo thắng với nhiều hời hợt, mà chính là bình tĩnh chiêm ngắm chân dung Đức Maria Chiến Thắng đã được ghi dấu hiền hòa qua Kinh Mân Côi.

1) Mẹ chiến thắng trên chính phận mình.

“Kính mừng Maria đầy ơn phúc”. Lời thiên sứ truyền tin ngày nào được đưa vào phần đầu của Kinh Kính Mừng như muốn làm nổi bật lên sáng kiến của Thiên Chúa đã thương chuẩn bị Mẹ từ thuở ban sơ cho mầu nhiệm Con Chúa làm người. Điều này thật quan trọng và chính yếu. Nhưng ở phần chìm của Kinh Kính Mừng, như bài Phúc Âm ghi lại, là một thái độ đáp ứng không kém quan trọng của Đức Maria đối với thánh ý Chúa. Phần chìm ấy là tiếng “Xin Vâng”.

“Xin Vâng” là tiếng nói của một tâm hồn rộng mở vốn đã quen tìm trong suy niệm tiếng nói muôn thuở của Thiên Chúa. “Xin Vâng” là tiếng vắn gọn như phản ứng xuất thần, mà thực ra là cả một tiến trình đòi hỏi hy sinh chính bản thân mình để đánh đổi. “Xin Vâng” là tiếng một lần dâng lên sẽ không bao giờ rút lại, một lần đoan hứa sẽ có giá trị suốt đời, một lần cúi đầu đáp tiếng là sẽ cúi đầu chấp nhận tất cả, cho dẫu đó là bất trắc của dịp Giáng Sinh hay là lưỡi gươm của ngày Dâng Con, hoặc là đắng cay nghiệt ngã nhất của chiều Tử Nạn. “Xin Vâng” là tiếng hiền hòa của người khiêm nhường, chỉ dám nhận mình là tôi tớ, nhưng lại là tiếng vinh quang đưa người khiêm nhường ấy bước lên thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa.

Rõ ràng tiếng “Xin Vâng” đã thay đổi phận đời Đức Maria. Và ở đây, xin được gọi đó là một chiến thắng: chiến thắng của thánh ý Chúa trên cuộc đời Đức Maria đã trở nên chiến thắng của Đức Maria trên chính số phận đời thường của mình.

Vì thế, hôm nay, nếu đọc lên kinh “Kính mừng Maria đầy ơn phúc”, thì hãy vui mừng thêm nữa để nhận ra rằng ơn phúc của Thiên Chúa dẫu đã tiềm ẩn nơi Đức Maria, nhưng chỉ thực sự tỏ hiện qua tiếng “Xin Vâng”, để nhớ mãi hình ảnh Đức Mẹ chiến thắng trên chính phận mình.

2) Mẹ chiến thắng trên mỗi phận người.

“Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội”. Phần sau của Kinh Kính Mừng là lời cầu nguyện xem ra độc lập với phần trước, mà thực ra chỉ là một tâm tình duy nhất. Nếu phần trước là lời kính mừng Đức Mẹ Chiến Thắng trên chính phận mình để trở nên “Đức Mẹ Chúa Trời”, thì phần sau là lời kính mừng Đức Mẹ Chiến Thắng trên mỗi phận người tín hữu, qua mẫu gương trinh trong thánh đức. Do đó, danh hiệu “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời” chính là lời kính mừng trang trọng và cao quý Giáo Hội dành cho Đức Maria. Đó cũng là chiến thắng chung cuộc Đức Maria đã đạt được trong đời mình.

Nhưng chiến thắng vinh quang ấy chẳng những không đẩy Đức Mẹ lên cao để xa cách cuộc đời dương thế, mà ngược lại, còn đem Mẹ đến gần gũi nhân loại hơn cả bao giờ. Vì thế, không lạ gì khi kính mừng Đức Mẹ trong vinh quang, tín hữu bỗng dưng nghĩ về đời mình, không phải để xót xa phận mình tội lỗi cho bằng cảm nhận mối tương quan “Mẹ Thiên Chúa – Mẹ Giáo Hội” một cách chân tình với lòng trông cậy.

Bên kia lời “cầu cho chúng con là kẻ có tội” là cả một tình mẫu tử thiêng liêng. Là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ có dư thánh đức để mà chiến thắng tội lỗi, nhưng là Mẹ Giáo Hội, Mẹ vẫn liên hệ với đời tín hữu như là phần đời của Mẹ. Nếu tín hữu nhận mình là kẻ có tội mà vẫn dám cầu xin “Thánh Maria”, và nếu ngước trông lên Mẹ thánh đức mà vẫn không ngại trình bày cuộc đời tội lụy, thì đó là vì đã tín nhiệm và cậy trông vào tấm lòng người mẹ.

Mẹ đã chiến thắng phận mình, Mẹ cũng sẽ chiến thắng trên mỗi phận người tín hữu bằng cách khơi lên sự thánh thiện cho lui xa dần những phần tội lụy.

3) Mẹ Chiến Thắng – Mẹ Mân Côi

Phác vẽ chân dung Đức Mẹ Chiến Thắng qua Kinh Mân Côi như trên, thiết tưởng cũng một phần nào đó khơi lối đi vào ngày lễ hôm nay, đồng thời muốn xác tín về vị trí Đức Maria trong mầu nhiệm Hội Thánh, và nhắc nhở gián tiếp về vai trò của Kinh Mân Côi trong đời sống mọi kẻ tin.

Mừng lễ Mẹ Mân Côi không còn là mừng về một chiến thắng quân sự nào, mà chính là mừng về một chiến thắng còn lớn lao và cốt thiết hơn ở trong tấm lòng của Đức Maria và ở trong nỗi lòng của mỗi người con của Mẹ. Đó là chiến thắng của ơn thánh trên tội lỗi, để gợi mở những chiến thắng khác của những điều thiện hảo tốt lành trong đời sống mọi người. Mừng lễ Mẹ Mân Côi cũng không chỉ mừng cho Mẹ mà thực ra là mừng cho mọi kẻ tin, bởi lẽ Đức Mẹ trong mầu nhiệm Giáo Hội chính là kẻ đi trước bước lên chiến thắng và vì thế, trong Chúa Kitô, Mẹ trở thành Đấng che chở cầu bầu, phù trợ cho mọi tín hữu biết cậy nhờ Mẹ khi khao khát chiến thắng của ơn cứu độ trên chính phận mình.

Và mừng lễ Mẹ Mân Côi hôm nay chính là khẳng định mối liên hệ sâu bền giữa hai danh hiệu “Mẹ Mân Côi – Mẹ Chiến Thắng”, để thấy được rằng muốn có chiến thắng không thể xao lãng lần hạt Mân Côi; và nếu yêu mến lần hạt Mân Côi, sẽ có ngày bước vào chiến thắng. Kinh Mân Côi là một vũ khí, nhưng là vũ khí hòa bình luôn đem lại hiệu quả tích cực. Ai yếu đuối, Kinh Mân Côi đem cho sức mạnh; ai tội lỗi, Kinh Mân Côi dắt về ơn thánh; ai bất hạnh, Kinh Mân Côi giúp bình tĩnh tìm ra hướng lối vươn lên; ai khô khan, Kinh Mân Côi giúp khám phá ra những ánh lửa vẫn còn ẩn giấu trong những đám tro tưởng như nguội lạnh. Chỉ vì một lẽ, trong Kinh Mân Côi là hiện diện của Đức Mẹ Chiến Thắng.

Có một truyện kể lâu lắm rồi: hai thôn đạo tranh chấp nhau về một mảnh đất giáp ranh mà thôn nào cũng nhận là của mình. Chiến tranh lạnh, chiến tranh nóng nổ ra. Khối kẻ u đầu sứt trán. Cuối cùng cha xứ phải giải hòa và đem miếng đất giáp ranh ấy vào làm của chung gọi là “đất Đức Bà”, đồng thời cho dựng một tượng đài Đức Mẹ ở đấy. Hết tranh chấp, thôn trên thôn dưới mỗi tối quây quần lần hạt vui vẻ. Người ta gọi đó là đài Đức Mẹ Hòa Bình, nhưng cha xứ lại rất tâm đắc: đó là đài Đức Mẹ Chiến Thắng: thắng chia rẽ, thắng hận thù, thắng tội lỗi.

Lạy Đức Mẹ Chiến Thắng, xin cầu cho chúng con. Amen.

 

  1. Kinh Mân Côi – Lời kinh kỳ diệu

(Trích trong ‘Từng Bước Một Thôi’ - ĐGM. Vũ Duy Thống)

Ngày 16 tháng 10 năm 1978, trong lần xuất hiện đầu tiên trước công chúng sau khi đắc cử Giáo Hoàng, Đức Gioan Phaolô II đã ký thác sứ vụ của ngài cho Đức Mẹ Maria và giới thiệu lại Kinh Mân Côi cho toàn thế giới như là “lời kinh diệu kỳ”.

Sau hai mươi lăm năm, tức là vào dịp mừng Ngân khánh Giáo Hoàng, trong Tông thư “Kinh Mân Côi”, một lần nữa ngài ân cần nhắc lại kỷ niệm xưa mà nay đã trở thành xác tín: Kinh Mân Côi là lời kinh kỳ diệu. Đơn giản trong hình thức, đơn sơ trong nội dung, nhưng không đơn thuần là một kinh dành cho giới bình dân như có thời người ta nghĩ, nhất là sau Vatican II khi Phụng Vụ tìm lại được vị thế đỉnh cao và trung tâm.

Vâng, Kinh Mân Côi là kinh phổ quát cho hết mọi người, phổ cập cho mọi trình độ và phổ biến trong bất cứ hoàn cảnh nào, nhưng đâu là nét kỳ diệu của Kinh Mân Côi?

1) Kinh Mân Côi hệ tại việc gặp gỡ Đức Maria trong tình mẫu tử.

Đành rằng lời kinh nào dâng lên Đức Maria cũng là dâng lên trong tình mẫu tử, như được thể hiện qua truyền thống cầu nguyện Việt Nam, nhất là trong lãnh vực ca nguyện. Cứ thử làm một bảng liệt kê những ca khúc hát dâng Đức Mẹ ắt sẽ rõ. Nhiều lắm. Chỉ những ca khúc bắt đầu bằng chữ “Mẹ ơi” từ nốt bậc năm về nốt bậc một không phân biệt trưởng thứ cũng có thể làm thành một cuốn sưu tập không mỏng. Nhưng vượt lên tất cả, riêng Kinh Mân Côi đã đẩy tình mẫu tử ấy lên một cung bậc diệu kỳ.

Phần đầu Kinh Kính Mừng dựa trên Phúc Âm là lời chào của sứ thần Gabriel phối hợp với lời mừng của bà Êlisabet làm thành lời xưng tụng Đức Maria là Mẹ Chúa Giêsu, Đấng từ trời cao xuống thế làm người. Phần sau Kinh Kính Mừng là lời xin ơn trợ giúp qua đó tín hữu xưng hô Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Và tổng hợp cả hai phần ngắn ngủi đọc lên chỉ trong mười lăm giây đồng hồ là cả một lời kinh kỳ diệu nối kết tâm tình con thảo vào với mầu nhiệm Đức Maria trên đỉnh vị thế là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ con người; Mẹ Chúa Giêsu và Mẹ của mỗi người chúng ta.

Nếu “nải chuối buồng cau, đường mía lau xôi nếp một” là ca dao tình mẹ ngọt ngào trong văn học dân gian Việt Nam, thì Kinh Kính Mừng quả là lời kinh tuyệt diệu ngọt ngào tình mẫu tử thiêng liêng giúp ta gặp được Đức Maria cao xa là Mẹ Chúa Trời nhưng vẫn cứ luôn gần gũi với người dương thế cho dẫu phận người hôm nay không đẹp đẽ gì, vì xét cho cùng chỉ là kẻ có tội “khi nay và trong giờ lâm tử”. Chính vì thế Kinh Kính Mừng đã trở thành lời nguyện tắt mọi lúc mọi nơi.

2) Kinh Mân Côi: Qua Mẹ để tới Chúa Kitô.

Thật vậy, hình thức lời kinh trực tiếp dâng lên Đức Mẹ, nhưng nội dung chiêm niệm lại là mầu nhiệm cuộc đời Chúa Giêsu trải ra theo mười lăm ngắm truyền thống Vui Thương Mừng và năm mầu nhiệm sự Sáng do Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đề nghị. Chả thế mà Đức Phaolô VI trong Tông huấn Marialis Cultus đã gọi Kinh Mân Côi là “cuốn Phúc Âm rút gọn”, rất gọn không còn cách nào gọn hơn được nữa, để có thể ghi vào trong bộ nhớ sống, sẵn sàng bung ra làm việc trên màn hình máy tính cuộc đời. Từ việc Chúa Giêsu sinh ra trong Máng cỏ đến việc Người biến hình trên Núi Tabor, rồi qua việc Người như bị Chúa Cha ruồng bỏ, để hiện hình sáng tỏ trong mùa Phục Sinh.

Tất nhiên người ta có thể đến với Chúa Giêsu bằng nhiều cách khác nhau như đọc Phúc Âm, rước Thánh Thể, thương giúp người…, nhưng đến với Chúa Giêsu bằng cung cách của Kinh Mân Côi thì quả là độc đáo; không phải là bí tích nhưng hiệu quả dọn đường cho bí tích; không phải là Phụng Vụ nhưng tâm tình rất cận kề Phụng Vụ; và nhất là được cùng với Đức Mẹ trên từng cây số cuộc đời Chúa Giêsu và theo phong cách của Đức Mẹ là “lưu giữ và suy niệm trong lòng”, tức là “khẩu tụng” đều đều lời kinh Đức Mẹ và “tâm suy” dài dài cuộc đời Đấng Cứu Thế.

“Ad Jesum per Mariam” chính là đây, bằng phương thức tụng niệm tức là vừa đọc vừa suy niệm của Kinh Mân Côi. Đó là kết cấu tinh thần. Ngay trong kết cấu vật thể của tràng hạt Mân Côi, người ta cũng thấy rõ dụng ý này: năm mươi Kinh Kính Mừng kết thành tràng hạt, nhưng cả tràng hạt chỉ được kết thúc bằng tượng Chúa Giêsu chịu chết treo trên Thánh Giá. Thật diệu kỳ được Đức Mẹ dẫn tới Chúa Giêsu.

3) Kinh Mân Côi là phương thế giúp người người vững bước trên đường nên thánh

Khi nêu lên hiệu quả thánh hóa của Kinh Mân Côi trong nhịp sống Giáo Hội, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã không quên gợi lại những chứng tích lịch sử, những khuôn mặt tiền nhiệm, những lời kêu gọi của Đức Mẹ trong những lần hiện ra tại Lộ Đức và Fatima, và nhất là chính kinh nghiệm bản thân gắn bó với chuỗi Mân Côi, ngày xưa còn bé cũng như trong sứ vụ hiện nay và cách riêng qua biến cố ngài bị ám sát hụt ngày 13 tháng 05 năm 1981 kỷ niệm dịp Đức Mẹ hiện ra lần đầu tiên tại Fatima. Kinh Mân Côi, như kiểu nói bình dân, chính là vũ khí giúp ta chống lại ba thù “ma quỷ, thế gian, xác thịt”, và là sinh tố tăng cường ba việc “nên thánh, mến Chúa, yêu người”.

Nếu nhân đức là việc tốt lành được tập tành lặp đi lặp lại thành thói quen phản xạ tự nhiên, thì Kinh Mân Côi chính là một bửu bối không thể thiếu được cho người tu thân luyện đức theo gương Đức Mẹ và theo chân Chúa Giêsu từ Máng Cỏ ấp ủ qua Thập Giá trui rèn tới Nhà Tạm chiêm ngưỡng. Mỗi một mầu nhiệm xướng lên là một nhân đức khơi gợi để theo lời kinh nhả nhẹ và dưới tác động của ơn thánh, lòng người được bớt bất xứng hơn, tạo điều kiện thuận lợi dần dần cho việc nên thánh.

Những nhà thông thái có sách vở chữ nghĩa, những nhà cai trị có sức mạnh quyền hành, những nhà tu trì có bầu khí ổn định làm phương tiện, còn hầu hết chúng ta là những nhà “tu hành” nghĩa là tu thân bằng việc hành đạo như người giáo dân, hay đi tu mà vẫn phải đi tới đi lui đi xuôi đi ngược ở giữa cuộc đời như các giáo sĩ triều, thì Kinh Mân Côi chính là một hành trang và phương tiện “bỏ túi” (hoặc đeo tay đeo cổ) gọn nhẹ giúp thánh hóa bản thân, gia đình và xã hội. Theo định nghĩa này, Kinh Mân Côi không khác gì điện thoại di động hòa đời ta vào mạng sự sống thiêng liêng.

Tóm lại, Kinh Mân Côi, đúng như kiểu nói của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, chính là lời kinh diệu kỳ dâng qua Đức Mẹ tới Chúa Giêsu để người đọc được vững bước đi trên đường thánh hóa. Đối với cộng đoàn hôm nay kết thúc ba ngày tĩnh tâm khởi đầu cho năm học mới, ta quyết tâm đọc Kinh Mân Côi với nhiều xác tín hơn, để năm học mới tâm hồn được bình an hơn, việc tuân thủ kỷ luật cá nhân và cộng đoàn được nghiêm minh hơn và nhất là từng người được nỗ lực sống thánh đức hơn.

 

  1. Tình Mẹ thật tuyệt vời

(Suy niệm của Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

Nói đến tình mẫu tử là chạm đến nơi sâu thẳm nhất trong trái tim mỗi người. Một tình yêu thật thiêng liêng và thật tuyệt vời. Mẹ sinh con ra, nuôi con trưởng thành. Mẹ sẵn sàng hy sinh cả tính mạng mình để con hạnh phúc. Mẹ thường sẵn sàng hy sinh nhiều thứ vì con cái (thời gian, tiền bạc, sức khỏe, tuổi trẻ…) và cũng tự hào rằng đã trao cho con những điều đó. Đượcsống trong tình mẹ thì ta mới hiểu hết được ý nghĩa của tình yêu không điều kiện và biết rằng không phải lúc nào yêu thương cũng cần đáp trả.

Tại Hà Nam, mọi người đã chứng kiến một mẹ không màng đến sự nguy hiểm của bản thân, cố gắng nén sự đau đớn khi bị ngọn lửa thiêu đốt, ôm chặt lấy con trai, lấy thân mình che chắn cho con trong đám cháy.

Ngày xảy ra sự việc, cô Dương dậy rất sớm. Sau khi đánh thức con gái, cô vào bếp chuẩn bị bữa sáng. Đang dở tay, cô đột nhiên nghe thấy có người dưới tầng hô to: "Cháy rồi!". Hoảng sợ, cô Dương kéo luôn cô con gái đã thức dậy chạy ra ngoài. Sau khi con gái đã an toàn, cô Dương quyết định chạy ngược trở lại tầng 5 để cứu con trai.

Thế nhưng khi đánh thức được con trai và chuẩn bị chạy ra ngoài, lửa đã bốc lên dữ dội, chặn đứng lối thoát của hai mẹ con.

Rơi vào đường cùng, cô Dương không thể làm gì khác, ôm chặt lấy con trai, dùng thân thể của mình như lá chắn, chắn những lưỡi lửa đang liếm vào cơ thể con trai. Lúc này, biết con trai vừa đau vừa sợ, cô Dương cố nén sự đau đớn khi bị bỏng toàn thân, dỗ dành con trai, trấn an cậu bé rằng "Đừng sợ! Mẹ ở đây rồi!".

Khi các nhân viên cứu hỏa đến nơi, đem hai mẹ con cứu ra ngoài, cô Dương đã bị bỏng nặng. Con trai bỏng nhẹ. Rất may cả hai mẹ con đều sống sót.

Tháng Mân Côi, Giáo hội mời gọi chúng ta hướng về Mẹ Maria là Mẹ của Chúa Giêsu cũng là mẹ của chúng ta. Xưa bên cây thập giá Chúa đã trao phó thánh Gioan cho Mẹ. Qua Gioan, Mẹ Maria đã nhận làm mẹ của cả nhân loại. Từ nay Mẹ là mẹ của từng người chúng ta. Từ nay Mẹ sẽ bao bọc chúng ta như mẹ đã từng bao bọc hài nhi Giêsu. Từ nay Mẹ Maria sẽ chăm sóc chúng ta như xưa đã chăm sóc cho Chúa Giêsu con Mẹ. Từ nay Mẹ Maria sẽ đứng bên cuộc đời chúng ta như Mẹ đã đứng kề bên thánh giá Chúa. Từ nay cái đau của chúng ta cũng là nỗi đau của Mẹ. Vì tình mẹ mãi mãi là thế. Hết mình vì con. Chấp nhận khổ vì con. Một tình yêu quên cả chính mình để hết lòng chăm sóc đoàn con như tình mẹ trần thế mà ca dao đã từng nói: “Đêm mùa thu mẹ ru con ngủ - Năm canh dài thức trọn năm canh”.

Mẹ Maria cũng đang nói với chúng ta: hãy yên tâm, ở bên Mẹ con sẽ quên hết mọi ưu phiền. Hãy phó thác nơi Mẹ. Có Mẹ mọi sự dữ sẽ bị đẩy lùi. Mọi khó khăn sẽ tan biến. Lịch sử đã từng chứng minh nhiều lần Giáo hội rơi vào khủng hoảng tưởng chừng như sẽ bị nghiền nát trước sự dữ. Thế mà, khi con cái phó thác nơi Mẹ thì bình an đã trở về, sóng gió cũng qua đi.

Giáo hội không bao giờ quên ngày 7-10-1571. Khi mà vua Hồi Giáo mang đại quân hướng về La Mã và thề hứa sẽ biến đền thờ Thánh Phêrô thành một “chuồng ngựa”. Đạo binh Công giáo ít ỏi với vũ khí thô sơ ra nghênh chiến trong khi ở hậu phương giáo dân lần chuỗi Mân Côi cầu xin với Đức Mẹ. Nhưng đạo quân Hồi giáo đã không thể tiến tới thành Roma. Một cơn giông tại vịnh Lepant, đã quật ngã tất cả đạo quân chìm sâu dưới biển. Mẹ Maria đã chặn đứng sức tiến vũ bão của đạo quân Hồi giáo. Và để ghi ơn Đức Mẹ, Đức Giáo Hoàng Piô V đã thiết lập lễ kính Đức Mẹ Mân Côi vào ngày 07/10 hằng năm.

Cuộc đời hôm nay vẫn còn đó những khó nguy, vẫn còn đó sức mạnh của sự dữ khiến chúng ta cảm thấy bất lực và sợ hãi. Hãy phó thác cho Mẹ. Hãy cầm lấy vũ khí chiến đấu là tràng chuỗi Mân Côi để phó thác nơi Mẹ. Chắc chắc Mẹ có dư khả năng thay đổi tình thế cho chúng ta, vì Mẹ là Mẹ Thiên Chúa quyền năng. Ước gì chúng ta luôn trân trọng tình mẹ, luôn gắn bó với mẹ, luôn cậy dựa vào mẹ để nhờ Mẹ và qua Mẹ chúng ta lãnh nhận được muôn vàn ơn lành hồn xác của Chúa. Và chắc chắn khi đó chúng ta cũng được nghe câu nói thật thân thương của Mẹ: "Mẹ sẽ luôn ở bên con đừng lo nhé con của Mẹ”. Amen.

 

  1. Lá sầu riêng – Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền

(Trích dẫn từ ‘Cùng Nhau Suy Niệm’)

Ở đời tình mẹ là thiêng liêng nhất, cao cả nhất. Nếu không có tình mẹ, có lẽ chúng ta khó có thể cảm nghiệm được thế nào là một tình yêu tinh ròng, thanh khiết, không một toan tính ích kỷ nhỏ nhoi nào. Tình mẹ là một tình yêu vô vị lợi, sống hết mình vì con. Ca dao đã nói rất nhiều về những hy sinh của mẹ như: “Nuôi con chẳng quản chi thân, Chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo con lăn”. Và rồi khi trái gió trở trời, lòng mẹ cũng quặn đau vì con: “Con ho lòng mẹ tan tành, Con sốt lòng mẹ như bình nước sôi”.

Có lẽ chúng ta đều biết đến câu chuyện “Lá sầu riêng” của sân khấu cải lương đã từng trình diễn. Đó là câu chuyện thật cảm động về tình thương của người mẹ hết mình vì tương lai và hạnh phúc của con. Truyện kể về một người mẹ nhà quê, nghèo nàn. Cuộc đời cơ cực với cảnh mẹ goá con côi. Cuộc sống bữa no bữa đói, khiến bà lo sợ cho tương lai của đứa con. Bà đã chấp nhận gửi con cho một gia đình giầu có trong làng, và rồi bà tình nguyện ở bên đứa trẻ để chăm sóc nó với tư cách là một vú nuôi. Năm tháng trôi qua, khi bà đã già yếu, và đứa con do tay bà chăm sóc đã thành danh giữa đời. Bà nghĩ rằng đã tới lúc nói cho con biết sự thật về nguồn gốc của nó, và chắc chắn nó sẽ vui mừng lắm, vì có một người mẹ đã quên cả bản thân mình để lo cho con. Bà nghĩ rằng, lúc đó những giọt nước mắt sung sướng của hai mẹ con nhận ra nhau sẽ dạt dào lắm! Nhưng tiếc thay, điều đó đã không xảy ra! Đứa con không chấp nhận sự thật ấy. Nó đã xua đuổi bà. Nó không dám nhận bà là mẹ. Nó sợ điều này sẽ ảnh hưởng đến công danh sự nghiệp nó ở đời. Thay cho những giọt nước mắt sung sướng là những giọt nước mắt tủi nhục đắng cay. Bà đã thốt lên trong tiếng nấc nghẹn ngào: “Con ơi! Ngày con còn bé, mẹ cho con một cục kẹo, con đã theo mẹ cả ngày, bây giờ mẹ cho con cả cuộc đời, sao con nỡ lòng xua đuổi mẹ hở con?”.

Tình thương của mẹ trần thế đôi khi cũng quặn đau vì sự đoạn tình, đoạn nghĩa của con. Tình thương của người Mẹ thiên quốc càng quặn đau hơn khi con đang xa lìa vòng tay che chở của Mẹ. Người Mẹ thiên quốc cũng đau khổ vì những đứa con đã không nhìn nhận sự trợ giúp của Mẹ. Người Mẹ thiên quốc vẫn đang bị xúc phạm bởi chính thái độ khước từ của con.

Tháng Mân Côi, Giáo hội mời gọi chúng ta hướng về Mẹ Maria là mẹ của Chúa Giêsu cũng là mẹ của chúng ta. Xưa bên cây thập giá Chúa đã trao phó thánh Gioan cho Mẹ. Qua Gioan, Mẹ Maria đã nhận làm mẹ của cả nhân loại. Từ nay Mẹ là mẹ của từng người chúng ta. Từ nay Mẹ sẽ bao bọc chúng ta như mẹ đã từng bao bọc hài nhi Giêsu. Từ nay Mẹ Maria sẽ chăm sóc chúng ta như xưa đã chăm sóc cho Chúa Giêsu con Mẹ. Từ nay Mẹ Maria sẽ đứng bên cuộc đời chúng ta như Mẹ đã đứng kề bên thánh giá Chúa. Từ nay cái đau của chúng ta cũng là nỗi đau của Mẹ. Vì tình mẹ mãi mãi là thế. Hết mình vì con. Chấp nhận khổ vì con. Một tình yêu quên cả chính mình để hết lòng chăm sóc đoàn con như tình mẹ trần thế mà ca dao đã từng nói: “Đêm mùa thu mẹ ru con ngủ - Năm canh dài thức trọn năm canh”.

Thế nhưng, Mẹ Maria đã được gì khi làm mẹ chúng ta? Mẹ có vui khi làm mẹ nhân loại hay không? Nếu vui tại sao mỗi khi Mẹ hiện ra ở nơi này, nơi kia Mẹ đều khóc, đều trầm ngâm, đều lo lắng cho sự an nguy của con cái? Mẹ đều khóc cho nhận thế tội tình. Mẹ đều khóc vì những đứa con sa đàng tội lỗi nhưng không chịu quay trở về. Phải chăng mẹ cũng đang đau khổ khi nhìn thấy những người con vì danh vọng ở đời, vì vinh hoa phú quý mà đánh mất tình mẹ? Phải chăng kịch bản “lá sầu riêng” đang diễn tả nỗi lòng của Mẹ thiên quốc? Nếu đúng vậy, Mẹ cũng đang bảo chúng ta: “Con ơi! Chẳng lẽ chỉ vì một chút bổng lộc trần gian mau qua mà con đã vội quên tình mẹ? Và không lẽ chỉ vì những vinh hoa trần thế mau qua mà con đã từ chối mẹ sao? Hãy nhận mẹ làm mẹ để mẹ tiếp tục yêu con, để mẹ tiếp tục hy sinh cho con, và để mẹ tiếp tục che chở bảo vệ con”.

Xin cho mỗi người chúng ta biết nhận ra tình thương của mẹ để sám hối ăn năn về những lỗi lầm của mình. Xin giúp chúng ta đừng vì vinh hoa phú quý mà lạc xa tình mẹ. Ước gì chúng ta luôn trân trọng tình mẹ, luôn gắn bó với mẹ, luôn cậy dựa vào mẹ để nhờ Mẹ và qua Mẹ chúng ta lãnh nhận được muôn vàn ơn lành hồn xác của Chúa. Amen.

 

  1. Kinh Mân Côi

Nguồn gốc kinh Mân Côi là những bông hồng kết thành triều thiên, mà những tín hữu Bắc Âu thời Trung cổ đội lên đầu Đức Mẹ, trong những tiếng đàn ca và múa hát. Tiếc thay, ngày nay kinh Mân Côi đã trở thành một kinh đơn điệu nhàm chán và máy móc, mà chỉ có ông già bà già cùng những người đạo đức mới đọc, để ăn mày ân xá, còn giới trẻ và đặc biệt là phía đàn ông con trai, chẳng cảm thấy vui vì khi lần hạt.

Mặc dầu vậy, cứ đến tháng mười, các đấng các bậc trong Hội Thánh cũng lại hết lời khuyên bổn đạo “Hãy ăn năn sám hối và lần hạt Mân Côi”. Nhưng thực tế cho thấy ít có ai sám hối thật lòng, còn lần hạt thì cũng luôn luôn chỉ có mấy cụ già và người lớn tuổi. Ai không tin thì cứ thử làm một cuộc điều tra.

Trong khi đó vào tháng năm, thì người ta lại rầm rộ thi đua tổ chức Dâng Hoa. Rõ ràng là râu ông nọ cắm cằm bà kia. Vì đáng lẽ cái thứ “phụng vụ dân gian” này phải được kết hợp với kinh Mân Côi, thì mới đúng về nguồn gốc và ý nghĩa của nó.

Thật vậy, người Kitô hữu Bắc Âu, sống vào koảng từ thế kỷ XI tới XIII, vì không hiểu gì về phụng vụ bằng tiếng Latinh, nên đã sáng tạo ra một thứ phụng vụ dân gian, là sáng tác những bài ca bằng tiếng bản xứ, đôi khi rất lãng mạn và trữ tình, đồng thời kết những triều thiên hoa hồng, vừa đội lên đầu Đức Mẹ, vừa hát vừa múa.

Theo truyền thuyết thì có một anh lái buôn, vì phải đi rong ruổi đó đây, không thể tham dự những buổi họp mừng Đức Mẹ với anh chị em tín hữu, nên đã nghĩ ra cách đọc đi đọc lại những câu kinh mà ban đầu chỉ có lời chào của sứ thần Gabriel cộng với lời chúc mừng của bà Elisabeth.

Thánh Đaminh đã dùng cái nên tảng của lòng sùng kính này để xây dựng nên truyền thống suy niệm những mầu nhiệm cứu độ, bằng cách giảng dạy cho các tín hữu nghe biết về những biến cố của cuộc đời Chúa Giêsu. Có thể nói, thánh nhân đã biến đổi một hình thức sùng kính chỉ có tính cách tình cảm trở thành một phương tiện loan báo Tin Mừng. Đối với thánh nhân, điều quan trọng không phải là múa hát hay đội triều thiên cho Đức Mẹ, mà là hái cho bằng được những bông hoa của ơn cứu độ từ cây hồng ân sủng được trồng trong vườn thiêng là cõi lòng Đức Trinh Nữ.

Chính nhờ nghe lời rao giảng mà người ta sám hối và tin vào Phúc Âm. Sám hối phải được liên kết với việc tin vào Phúc Âm, chứ không phải sám hối rồi chỉ đọc kinh. Đọc kinh mà không biết, không hiểu Tin Mừng thì làm sao đạt được niềm tin. Và không tin thì đọc kinh làm gì cho uổng công.

Bởi thế, cần phải bớt kinh, bớt việc làm của cái miệng, để tăng thêm việc làm cho trái tim, cho cái tâm. Thật ra thì sự suy niệm này đã được chính Đức Mẹ thực hiện và làm gương cho chúng ta. Thánh Luca đã ghi lại những hai lần thái độ của Đức Mẹ, đó là luôn để tâm suy niệm những biến cố liên quan tới Chúa Giêsu, người Con của Mẹ. Vậy thì đối với chúng ta, suy niệm những mầu nhiệm của Tin Mừng, đó chính là cách hữu hiệu nhất để hái được những bông hồng tươi thắm mà cài lên áo Mẹ hiền.

 

  1. Kinh Mân Côi

Có một ông trùm đã nói với cha sở như sau:

- Chỉ tại cái tivi mà gia đình con không còn lần hạt vào buổi tối nữa. Người ta thích quây quần bên nhau để giải trí, hơn là để cầu nguyện.

Cũng chính ông trùm ấy đã nói về cậu con trai của mình, khi được nhắc nhở là hãy vào nhà thờ sớm, trước thánh lễ, để cùng với mọi người đọc kinh, thì cậu ấy đã trì hoãn và trả lời:

- Nhà thờ chưa lần hạt xong.

Và ông trùm ấy đã phát biểu với nhiều tiếc xót:

- Vào thời chúng con, người ta chờ nhà thờ đông đủ rồi mới lần hạt, còn bây giờ thì khác, người ta lần hạt để chờ mọi người tới đông đủ.

Lời than thở đầy tiếc xót trên đây của ông trùm phản ảnh được phần nào thái độ hiện nay đối với việc đọc kinh Mân côi tại gia đình cũng như tại nhiều xứ đạo.

Để phục hồi lòng tôn sùng kính mến Mẹ qua việc đọc kinh Mân côi, thiết tưởng chúng ta nên nhắc lại những hậu quả to lớn mà kinh Mân côi đã đem lại cho chúng ta.

Trước hết, với kinh Mân côi chúng ta cùng Mẹ sống lại những chặng đường quan trọng trong cuộc đời của Chúa Giêsu và đi sâu vào những mầu nhiệm chính yếu của lịch sử ơn cứu độ. Từ đó chúng ta sẽ nhận ra những tín hiệu Phúc âm cho những chặng đường của niềm tin hôm nay trong cuộc sống cá nhân, gia đình và xã hội cũng như Giáo hội.

Trong sinh hoạt của Giáo hội, kinh Mân côi luôn được cổ võ bởi vì lời kinh này đã đem lại cho chúng ta hình ảnh về Mẹ Maria, hình ảnh một người mẹ luôn gần gũi, gắn bó và mật thiết với chúng ta. Vậy chúng ta có đọc kinh Mân côi trong ý hướng ấy hay không?

Tiếp đến, với kinh Mân côi chúng ta sẽ được nhờ Mẹ mà đến cùng Chúa, Đấng Cứu độ của chúng ta. Tất nhiên, có nhiều con đường để đến cùng Chúa, nhưng con đường được Mẹ chỉ dạy sẽ là con đường chắc chắn nhất, bảo đảm nhất và an toàn nhất, bởi vì Mẹ là người gần gũi với Chúa hơn bất cứ tạo vật nào.

Vì thế, các nhà đạo đức vốn thường đưa ra một kinh nghiệm quí giá, đó là:

- Per Mariam, ad Jesum, nhờ Mẹ mà đến cùng Chúa.

Vậy chúng ta có lần hạt với cảm nghiệm đó không?

Và sau cùng, với kinh Mân côi chúng ta còn được Mẹ bầu cử trước mặt Chúa. Nhờ lời bầu cử của Mẹ, chúng ta sẽ lãnh nhận được những ơn lành hồn xác, như lòng mong ước.

Lời van xin của kinh Kính mừng: Cầu cho chúng con là kẻ có tội khi này và trong giờ lâm tử…Đã gói ghém tất cả nỗi lòng của chúng ta qua mong ước được thánh hóa hôm nay và được cứu rỗi ngày mai.

Chiến thánh tại vịnh Lépante năm 1571 gắn liền với kinh Mân côi mà ngày lễ hôm nay là một nhắc nhở, cũng đã ghi sâu trong tâm trí chúng ta một hình ảnh khác nữa về Mẹ Maria, đó là Mẹ luôn che chở và cầu bầu cho chúng ta. Vậy chúng ta có lần hạt trong tâm tình này hay không?

Tạp chí “Kiến thức ngày nay” có một bài viết về những người phụ nữ giàu nhất thế giới,trong đó có nữ hoàng Elisabeth nước Anh. Tài sản của nữ hoàng trị giá hàng tỷ đô la. Thế nhưng, khi đọc bài báo ấy, chúng ta cảm thấy nó lạnh lùng, nó xa vắng bởi vì nó chẳng liên quan gì tới chúng ta.

Thế nhưng, khi thoáng nghe những bài hát về Mẹ, chúng ta bỗng cảm thấy nao nao con tim và ngọt ngào cả tâm hồn, bởi vì chúng ta thấy trước mặt mình tấm lòng của một người mẹ giàu tình thương và nhân ái.

Tuy nhiên, điều quan trọng đó là bản thân chúng ta có biết tìm đến với Mẹ và nhất là tìm đến với Mẹ qua lời kinh Mân côi, như Mẹ đã truyền dạy hay không?

 

  1. Cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi

(Suy niệm của ĐGM. Bùi Tuần)

Trong lịch phụng vụ, tháng 10 có tên là tháng Mân côi. Suốt tháng này, Hội Thánh khắp nơi hướng về Đức Mẹ một cách đặc biệt. Lòng sùng kính của dân Chúa đối với Đức Mẹ trong thời gian này mang một đặc điểm riêng. Đó là cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi.

Mân côi chính là hoa hồng. Như thể, bằng chuỗi Mân côi, Hội Thánh trở thành một vườn hồng mênh mông, hương thơm sắc đẹp, dâng lên Mẹ hiền.

Lịch sử chuỗi Mân côi là một hành trình dài. Hành trình đó mang nhiều gợi ý. Những gợi ý này có thể giúp chúng ta cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi một cách sốt sắng, vừa hợp với truyền thống, vừa sát với thời sự.

Chuỗi Mân côi đốt lên lửa mến.

Lịch sử cho thấy kinh Mân côi được thành hình do động lực sùng kính Đức Mẹ. Người được nhắc tới nhiều trong lịch sử kinh Mân côi là thánh Đaminh, đấng sáng lập Dòng Giảng thuyết. Ngài qua đời năm 1221. Một số tài liệu quả quyết rằng chính Đức Mẹ đã trao cho thánh Đaminh chuỗi Mân côi. Xung quanh thánh Đaminh còn một số tu sĩ nhiệt thành, như tu sĩ Dominique dòng Chartreux thành Trèves, tu sĩ Alain de la Roche dòng Đaminh thành Lille.

Các vị này đã có những đóng góp quan trọng. Tất cả các ngài đều là những tông đồ của Đức Mẹ. Với lòng xác tín, hăng hái, nhiệt thành, các ngài rao giảng, truyền bá kinh Mân côi. Trước hết là trong các cơ sở Dòng, sau là tại các giáo xứ của nhiều giáo phận Âu Châu.

Phong trào đọc kinh Mân côi sau đó được tổ chức thành các hiệp hội. Các người trong hiệp hội liên đới với nhau bằng chia sẻ đời sống thiêng liêng. Nhận thấy phong trào kinh Mân côi đem lại nhiều kết quả lớn lao và mau lẹ cho đời sống đức tin, Toà Thánh đã công nhận, khuyến khích và ban nhiều ân xá.

Năm 1475, tại Cologne, chính hoàng đế nước Đức là Fredéric III, hoàng hậu và hoàng tử đã xin ghi tên vào hội kinh Mân côi. Nhờ vậy, chuỗi Mân côi có thêm uy tín.

Uy tín đó không phải là lý do để phong trào kinh Mân côi lan rộng. Lý do lan rộng chính là tính cách Kinh Thánh và bình dân của chuỗi Mân côi.

Các lời kinh của chuỗi Mân côi đều được đúc kết từ Kinh Thánh. Các mầu nhiệm suy gẫm trong chuỗi Mân côi cũng được rút ra từ Kinh Thánh. Số 150 kinh Kính Mừng cũng là để nhớ lại số 150 thánh vịnh của Cựu Ước.

Tuy nền tảng là Kinh Thánh, nhưng chuỗi Mân côi được sắp xếp một cách bình dị, dễ đọc, dễ hiểu, hợp với bình dân. Miệng đọc kinh, lòng suy gẫm, tay lần chuỗi hạt, đó là một hình thức đạo đức bình dân thấy có ở nhiều tôn giáo truyền thống như Phật giáo, Hồi giáo.

Với hình thức đạo đức này, kinh Mân côi đã đốt lên lửa mến trong các tâm hồn. Nhiều tâm hồn trước kia nguội lạnh đã được ơn trở về.

Chuỗi Mân côi thắp sáng niềm hy vọng cứu độ.

Lịch sử cho thấy: Khi khấn cầu ơn nọ ơn kia, nhiều người đã dựa vào chuỗi Mân côi như một nguồn để tìm sức mạnh cậy trông.

Năm 1571, trước cơn đe doạ đạo Chúa bị tàn phá, Đức Thánh Cha Piô V, đã truyền cho Hội Thánh cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi, với hy vọng Chúa sẽ cứu. Khấn cầu đó đã được Chúa chấp nhận. Chiến thắng ở vịnh Lepante ngày 7 tháng 10 năm 1571 đã là cơ sở để Đức Thánh Cha thiết lập lễ Đức Mẹ Mân côi. Hằng năm cứ đến ngày 7 tháng 10, Hội Thánh đề cao chuỗi Mân côi như một nguồn hy vọng.

Năm 1629, trước cơn dịch tả nguy hiểm lan rộng trên nước Ý, tu sĩ Timoteo Ricci đã lập ra chuỗi Mân côi liên tiếp. Thầy tính rằng: Mỗi năm có 8.760 giờ. Căn cứ vào đó, thầy làm ra 8.760 tấm vé. Mỗi vé ghi tháng, ngày, giờ. Rồi cho rút thăm. Ai được vé nào thì cam kết đọc chuỗi Mân côi tháng ngày giờ đó. Mục đích có ý xin ơn chết lành cho những người hấp hối, xin ơn trở lại cho những người tội lỗi, xin ơn bình an cho các dân tộc.

Từ sáng kiến đó, phong trào kinh Mân côi liên tiếp được thành lập và lan rộng. Năm 1657, Đức Giáo Hoàng Alexandre VII chấp nhận phong trào đạo đức này, và ban cho nhiều ân xá.

Năm 1826, trước nhu cầu truyền giáo cho các vùng xa xôi, bà Pauline Jaricot, thành Lyon, đã có sáng kiến lập ra phong trào “Kinh Mân côi sống”. Cứ 10 nguời thì thành một nhóm nhỏ. Mỗi người trong nhóm cam kết đọc 10 kinh Kính Mừng mỗi ngày. Hơn nữa, mỗi người trong nhóm sẽ tìm thêm 5 người. Năm người này cũng hứa đọc 10 kinh Kính Mừng mỗi ngày. Và cứ thế nhân lên số người đọc kinh Kính Mừng.

Mỗi tháng, bà Pauline phổ biến cho các nhóm một bản suy gẫm Lời Chúa, hướng về truyền giáo.

Đầu thế kỷ XX, trước tình hình suy giảm đức tin tại Pháp, cha Joseph Eyquem lập ra những hội Mân côi. Sinh hoạt của những người theo hội này cũng là đọc 10 kinh Kính Mừng mỗi ngày. Ngoài ra, họ họp nhau mỗi tháng một lần. Cuộc họp không tổ chức ở nhà thờ, nhưng ở nhà tư, lúc ở nhà này, khi ở nhà khác. Cuộc họp gồm đủ mọi thành phần. Những tín hữu bình thường, những người ly dị, những người rối vợ rối chồng, những người xa tránh các bí tích. Họ cầu nguyện, trao đổi, chia sẻ và giúp đỡ nhau vượt qua các thử thách.

Nói chung, khi gặp những khó khăn nguy hiểm, cả trong đạo lẫn ngoài đời, người ta đã chạy lại với Đức Mẹ. Họ khẩn cầu Mẹ bằng chuỗi Mân côi. Và thực sự chuỗi Mân côi đã đem lại cho các tâm hồn những hy vọng lành thánh.

Chuỗi Mân côi mở kho tàng trái Tim Đức Mẹ.

Trước đây, chuỗi Mân côi được truyền bá bởi các thánh, và Hội Thánh. Nay, chính Đức Mẹ lên tiếng.

Tại Fatima, khi hiện ra với ba trẻ, Phanxicô, Giacinta và Lucia, Đức Mẹ đã mang chuỗi Mân côi. Đức Mẹ cũng đã khuyên người ta hãy năng cầu nguyện kinh Mân côi.

Tại Fatima, Lộ Đức và những nơi hành hương, chuỗi Mân côi ví như những chuỗi hoa hồng của các trái tim không ngừng dâng lên Đức Mẹ. Còn Đức Mẹ, thì luôn mưa những hoa hồng thiêng xuống cho các người chân thành cầu khấn. Hoa hồng nói đây là những ơn phúc phần hồn phần xác. Ơn phúc đủ loại, nhất là ơn sám hối, ơn trở về với Chúa, ơn đổi mới cuộc đời, ơn đi sâu vào Phúc Âm, ơn biết đón nhận thánh ý Chúa để trở thành cộng tác viên đắc lực của Đức Mẹ đồng công cứu chuộc.

Các ơn Đức Mẹ ban qua chuỗi Mân côi phát xuất từ trái tim Đức Mẹ. Trái tim ấy đầy tình thương và cũng đã chịu nhiều đau đớn, để cùng với Chúa Giêsu cứu chuộc nhân loại bằng hy sinh trên thánh giá. Vì thế có thể nói, các ơn đó đến từ trên, và chảy vào trong nội tâm mỗi người. Với nhận thức đó, chúng ta hiểu ý nghĩa lời Đức Mẹ nói với Bernadette ở Lộ Đức: “Mẹ không hứa cho con hạnh phúc đời này, nhưng hạnh phúc đời sau”. Tuy nhiên, ngay ở đời này, những ai lần chuỗi Mân côi, cũng sẽ được Đức Mẹ thương ban ơn, cách này hay cách khác.

Hiện nay, cuộc sống đang đặt ra nhiều vấn đề nan giải. Kinh Mân côi sẽ giúp chúng ta tìm được lối thoát. Lối thoát sẽ từ trên trái tim Đức Mẹ mà xuống và từ trong nội tâm ta mà ra. Nội tâm ta cầu nguyện sám hối. Trái tim Đức Mẹ sẽ làm chứng một cách sống động lời thiên thần đã nói với Đức Mẹ xưa: “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37).

 

  1. Thánh Mẫu Mân Côi

Chuỗi Mân Côi là quà tặng quí báu, Thiên Chúa và Đức Mẹ trao cho chúng ta. Người ta gọi chuỗi Mân Côi là kinh nguyện của người bình dân. Thực vậy, cho tới thế kỷ XII, Hội Thánh chỉ dùng 150 thánh vịnh làm kinh nguyện chính thức. Tới khi bà thánh Birgitta được ơn Chúa soi sáng mới đặt ra chuỗi 150 Kinh Kính Mừng để thay thế cho 150 Thánh vịnh. Các mầu nhiệm Mân Côi còn được gọi là cuốn sách Phúc âm rút gọn của người bình dân, bởi vì sau này người ta thêm 15 mầu nhiệm vào kinh Mân côi. Cứ 10 kinh Kính mừng lại suy gẫm vê một mầu nhiệm mùa Vui, Thương hoặc Mừng.

Chuỗi Mân Côi rất cao quí vì chính nội dung của nó như chúng ta vừa đề cập tới. Người biết xử dụng sẽ gặp được hiệu quả phi thường. Ngay trong sự tích việc thành lập lòng sùng kính này đã đã ghi dấu bằng một phép lạ đặc biệt. Ngày kia trên đường đi Tây Ban Nha, hai thánh Đôminicô và Bernađo chẳng may bị sa vào tay quân cướp. Sau khi bóc lột tất cả, chúng bắt các Ngài phải làm nô lệ chèo thuyền. Một lần con thuyền bị bão đánh giữa khơi. Trong cơn nguy nan, thánh Đôminicô đã cầu xin Đức Mẹ và được Ngài hiện ra dạy phải lần chuỗi Mân Côi. Mọi người trong thuyền đều hứa sẽ thực hiện theo lời chỉ dạy của Mẹ. Bão tố liền tan biến.

Cũng chính thánh Đôminico, trong cuộc tranh đấu chống lại bè rối Albigeois năm126, một lần nữa được Đức Mẹ dạy cho biết phải dùng chuỗi Mân Côi làm khí giới. Thánh nhân đã dốc toàn lực phổ biến thực hành đạo đức này và được gặt hái được thành quả mĩ mãn. Bè rối Albigeois hoàn toàn bị tiêu diệt.

Năm 1511, lịch sử được chứng kiến một thành quả vĩ đại của Kinh Mân Côi mang lại. Chính biến cố lịch sử này là nguồn gốc lễ kính Thánh Mẫu Mân Côi, Khi ấy quân Hồi Xâm lăng Au Châu, tàn phá những nơi họ đi qua, tiêu diệt dân công giáo. Cùng với việc triệu tập đạo quân thánh giá từ hai nước Ý và Tây Ban Nha, Đức Giáo hoàng Piô V kêu gọi mọi người chạy đến với Kinh Mân côi. Cuộc chiến quá chênh lệch đã diễn ra tại vịnh Lepante, nhưng với quân số ít ỏi và khí giới tồi tàn, người công giáo đã thắng trận vẻ vang trước đoàn quân Hồi giáo đông đảo và trang bị hùng hậu, từ Roma, Đức Giáo hoàng đã thấy được cuộc chiến thắng này và nói với các vị trong giáo triều hãy tạ ơn Chúa. Hôm đó là ngày 07 tháng 10. Đức giáo hoàng đã thiết lập một lễ để ghi nhớ chiến thắng này.

Lịch sử còn ghi lại nhiều thành quả kỳ diệu khác nữa của Kinh Mân côi. Chẳng hạn Kinh Mân côi đã mang lại chiến thắng tại Vienna ngày 12 tháng 9 năm1683, hay đã chấm dứt bệnh dịch tại Milan... Chuỗi Mân côi vẫn còn là một phương thế cứu rỗi hữu hiệu của mỗi tín hữu. Khi hiện ra tại Lộ Đức hay tại Fatima, Đức Mẹ đều kêu gọi chúng ta hãy siêng năng lần chuỗi Mân côi.

Vậy khi mừng lễ Thánh mẫu Mân Côi, Giáo hội muốn chắc lại sức mạnh cứu rỗi vô song của Kinh mân côi và kêu gọi mọi người hãy năng lần chuỗi Mân Côi như phương thế hữu hiệu để cải thiện đời sống và xây dựng Nước trời.

 

  1. Suy niệm của Lm. Đỗ Xuân Quế

MAI KHÔI: BÔNG HỒNG ĐẸP, VIÊN NGỌC QUÍ

Mân côi, Văn côi, Môi khôi, Mai khôi, tất cả những chữ này đều có cùng một nghĩa là những bông hồng đẹp hay viên ngọc quí, tùy theo thói quen và ý thích, mỗi người mỗi nơi dùng một kiểu. Một số người hiện nay thích dùng chữ Mai khôi, vì theo họ, chữ này vẫn giữ được nguyên nghĩa là bông hồng đẹp, viên ngọc quí mà đọc nghe lại thấy thanh nhã và mới mẻ hơn.

Chuỗi Mai khôi là chuỗi gồm năm mươi chục hạt. Mỗi hạt là một kinh Kính mừng và sau mười hạt lại có thêm một hạt nữa để chỉ kinh Lạy Cha. Những kinh Kính mừng đó được coi như những bông hồng kết thành vòng hoa dâng kính Đức Mẹ. Một trăm năm mươi kinh Kính mừng là một trăm năm mươi bông hồng hay một trăm năm mươi thánh vịnh kính Đức Mẹ, vì chuỗi Mai khôi được coi như tập thánh vịnh về Đức Mẹ, cũng giống như một trăm năm mươi thánh vịnh để tôn vinh ca tụng và cầu xin cùng Chúa vậy.

Nguồn gốc chuỗi Mai khôi

Ngay từ thế kỷ XI, thời thánh Bê-na-đô, những người có lòng sùng kính Đức Mẹ vẫn đọc một chuỗi các kinh Kính mừng, vừa đọc vừa nghĩ đến những sự vui mừng của Đức Mẹ. Có thể nói đó là hình thức khởi đầu của chuỗi Mai khôi. Sau này, năm 1328 ngưòi ta tìm được một tập ghi chép các phép lạ của Đức Mẹ. Trong tập này có nói đến việc Đức Mẹ trao chuỗi Mai khôi cho thánh Đa Minh. Và từ đó trở đi, người ta cứ truyền tụng cho nhau làthánh Đa Minh đã lập ra chuỗi Mai khôi. Vì thế, trong dòng Đa Minh mới có tượng Đức Mẹ trao chuỗi Mai khôi cho thánh Đa Minh.

Thực ra, theo cha La-co-đe (Lacordaire), một tu sĩ dòng Đa Minh và một nhà giảng thuyết trứ danh tại nhà thờ Đức Bà Pa-ri (Paris) vào giữa thế kỷ XIX, thì năm 1209 ở miền Tu-lu-giơ (Toulouse), tình thế lúc bấy giờ rất nhiễu nhương: quân của quận Chúa Ray-mông (Raymond) theo bè rối An-bi-doa (Albigeois) đánh nhau với quân của quận chúa Xi-mông đờ Mông-pho (Simon de Montfort) theo công giáo. Thánh Đa Minh làm việc tông đồ ở miền Toulouse lúc bấy giờ. Người thấy rằng bao lâu chưa có hòa bình thì bấy lâu rất khó giảng giải để đưa các người theo bè rối về nẻo chính đường ngay. Vì thế, người mới cầu nguyện và xin ai nấy cầu nguyện cho hòa bình. Người được ơn soi sáng kiện toàn kinh Mai khôi đã có từ thế kỷ XIII, bằng cách cứ sau mỗi mười kinh thì dừng lại một chút, rồi thêm vào một câu hát vắn hay mấy lời lấy trong các sách Tin Mừng về cuộc đời Chúa Cứu Thế, cho thay đổi và đỡ nhàm chán. Ban đầu chỉ lấy những câu nói về các niềm vui, sau mới thêm những câu nói về các nỗi khổ và các điều mừng.

Từ thế kỷ XV trở đi, chuỗi lần hạt Mai khôi được tổ chức như chúng ta thấy ngày nay, nghĩa là chia làm ba chuỗi, mỗi chuỗi năm chục kinh suy ngắm về một số các mầu nhiệm liên quan đến các niềm vui, nỗi khổ và các điều mừng.

Hai tu sĩ dòng Đa Minh là linh mục A-lanh đờ la Rót-sơ (Alain de la Roche) người Pháp ở tỉnh Đu-ê (Douai), (sau được nâng lên hàng chân phước) năm 1470 và linh mục Gia-cóp Pơ-ren-gơ (Jacob Sprenger) người Đức ở tỉnh Kơn (Koeln) năm1475 đã lập ra các Hội Mai khôi. Từ thế kỷ XVI, các ĐGH chính thức giao cho dòng Đa Minh nhiệm vụ rao giảng về chuỗi Mai khôi và thành lập các hội Mai khôi.

Nguồn gốc lễ Mai khôi

Ngày Chúa nhật 7.10.1571, hải quân công giáo thắng hải quân Thổ nhĩ kỳ một trận thủy chiến oanh liệt ở vịnh Lơ-păng-tơ (Lepante) (giữa Co-rin-tô và Pa-trát). Tin chiến thắng được báo về Rô-ma vào Chúa nhật đầu tháng Mười, giữa lúc các hội viên Mai khôi đang rước kiệu trong thành phố. Để tạ ơn Đức Mẹ đã nghe lời cầu khẩn của các tín hữu, ĐGH Pi-ô V, ngày 5.3.1572 truyền mỗi năm phải làm một lễ kính Đức Bà chiến thắng. Ngày 1.4.1573, ĐGH Ghê-go-ri-ô đặt tên cho lễ này là lễ Mai khôi và truyền phải cử hành trong các nhà thờ và nhà nguyện của các Hội Mai khôi vào Chúa nhật đầu tháng Mười. Năm 1716, ĐGH Cơ-lê-măng (Clément) XI truyền cho toàn thể Hội thánh phải long trọng mừng lễ này. Đến năm 1913, lễ Mai khôi được ấn định vào ngày 7.10 mỗi năm.

Ý nghĩa của chuỗi Mai khôi và lễ Mai khôi

Trên đây là nguồn gốc của chuỗi Mai khôi và lễ Mai khôi, nhưng còn ý nghĩa của chuỗi và lễ thì thế nào? Chắc hẳn ai trong chúng ta cũng thừa biết lần chuỗi Mai khôi là đề tỏ lòng kính yêu và cầu xin cùng Đức Mẹ. Chúng ta tôn vinh Đức Mẹ và nhớ lại tình thương của Chúa đối với Hội thánh qua tay Đức Mẹ, trong những hoàn cảnh gần như tuyệt vọng. Từ những sự việc hiển hách của Chúa trong các hoàn cảnh này, chúng ta càng thêm xác tín lời của thần sứ trong bài Tin Mừng lễ Đức Mẹ Mai khôi: “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.”

Thiên Chúa làm được tất cả. Nhưng oái oăm thay! Nhiều khi Chúa không biểu lộ trực tiếp và ngay tức khắc quyền năng của Người cho chúng ta thấy. Bởi thế, nhiều lúc chúng ta hoài nghi, tỏ ra chán nản vì thấy nguyện vọng của mình chưa hay không được đáp ứng và xem ra Chúa như câm lặng xa vắng.

Giữa những hoàn cảnh éo le ở đời và giữa lúc phải đắm chìm trong đêm tối của hoài nghi, thất vọng, ước gì chúng ta nhớ lại những hoàn cảnh lịch sử gắn liền với chuỗi Mai khôi và lễ Mai khôi, để giữ vững niềm tin và đốt cháy lên ngọn lửa hy vọng.

 

  1. Canh tân đời sống, lần chuỗi Mân Côi

“HÃY CANH TÂN ĐỜI SỐNG & LẪN CHUỖI MÂN CÔI MỖI NGÀY”

CÂU HỎI GỢI Ý

1. Đức Maria có vai trò gì trong Chương trình Nhập thể và Cứu độ của Thiên Chúa?

2. Đức Maria và việc lần hạt Mân Côi.

3. Hãy học cùng Mẹ trên con đường theo Chúa Giêsu Kitô.

SUY TƯ GỢI Ý

1. Vai trò của Đức Maria trong Chương trình Nhập thể và Cứu độ của Thiên Chúa:

1.1 Bài Tin Mừng về Truyền Tin trong Phúc Am Lu-ca cho chúng ta thấy vai trò quan trọng của Đức Maria trong Chương trình Nhập thể và Cứu độ của Thiên Chúa. Như bao thiếu nữ Do Thái khác khi sắp đến tuổi lấy chồng, Maria cũng đã có chương trình riêng của mình. Người thanh niên mà nàng yêu thương và tính lấy làm chồng là Giu-se, thuộc chi tộc Đa-vít. Nhưng sau khi thiên sứ trình bày về kế hoạch của Thiên Chúa và được giải đáp thắc mắc một cách thỏa đáng, thì Maria đã mau mắn chấp thuận lời đề nghị của Thiên Chúa và phó thác cuộc đời mình cho Ngài: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.”

1.2 Bài đọc 1 của Sách Tông đồ Công vụ cho chúng ta thấy vị trí của Đức Maria giữa các Tông Đồ, tức giữa lòng Giáo hội sơ khai. Các vị chờ đợi Thánh Thần trong thanh vắng và cầu nguyện.

1.3 Bài đọc 2 của Thư Gá lát của Thánh Phaolô nói về việc Con Thiên Chúa sinh ra từ một phụ nữ theo đúng chương trình của Thiên Chúa để cứu chuộc mọi người và làm cho mọi người trở thành con Thiên Chúa, có quyền gọi Thiên Chúa là Cha (Abba).

2. Đức Maria và việc lần hạt Mân côi.

2.1 Một trăm năm mươi Thánh vịnh đã được thay thế bằng 150 kinh Kính Mừng: Miệng đọc lòng suy 15 Mầu Nhiệm Mân Côi: Năm Sự Vui, Năm Sự Thương và Năm Sự Mừng. Đó chính là bản tóm tắt cuộc đời của Chúa Giêsu Kitô và cũng là của Đức Maria, vì hơn ai hết, Đức Mẹ đã cùng với Con bước các chặng đường Vui-Thương-Mừng ấy với tinh thần của lời “XIN VÂNG = FIAT!” mà Mẹ đã tuyên xưng trước khi Ngôi Lời Thiên Chúa đầu thai làm người trong cung lòng Mẹ.

2.2 Khi chúng ta đọc sự tích về các cuộc Đức Mẹ hiện ra, dù ở Lộ Đức hay ở Fa-ti-ma, dù ở Gua-da-lu-pe hay ở Mễ Du, hay ở La Vang…. chúng ta đều thấy Đức Mẹ nhắn nhủ người tín hữu hãy canh tân đời sống và siêng năng lần hạt Mân Côi để làm đẹp lòng Thiên Chúa: “Ta là Đức Mẹ Mân Côi, ta đã đến để cảnh báo các tín hữu canh tân đời sống và xin ơn tha thứ tội lỗi của họ. Họ không được xúc phạm đến Thiên Chúa nữa, vì Ngài đã quá phiền muộn vì tội nhân loại. Loài người hãy lần chuỗi Mân Côi. Họ hãy tiếp tục lần chuỗi hàng ngày.” (Thông điệp Đức Mẹ gởi cho chị Lu-xi-a 13/10/1917).

2.3 Thánh Đa Minh là người cố công rất lớn trong việc quảng bá việc đọc kinh Mân Côi trong Giáo hội, để cầu xin Chúa bảo vệ Giáo hội trước sự tấn công của kẻ thù. Thánh Piô Năm Dấu Thánh chia sẻ: “Vũ khí của tôi là tràng hạt Mân Côi. Đức Mẹ không từ chối tôi điều gì khi tôi xin với Mẹ qua chuỗi Mân Côi. Muốn làm Đức Mẹ vui lòng và muốn được Đức Mẹ thương yêu hãy lần chuỗi Mân Côi”.

Còn cha Stefano Gobbi viết: “Chuỗi Mân Côi mang lại hòa bình cho bạn. Với lời Kinh Mân Côi, bạn sẽ có thể nhận được từ Thiên Chúa hồng ân vĩ đại nhất là canh tân đời sống, thu phục các linh hồn về với Chúa trong sự ăn năn tội, tình yêu và thánh ân.” Và “Chuỗi Mân Côi là lời kinh của tôi. Những lời kinh này dù khiêm nhường và mong manh cũng sẽ nên như xích sắt để khóa lại quyền lực tối tăm của thế giới, kẻ thù của thế giới và của các tín hữu”

3. Hãy học cùng Đức Mẹ trên con đường theo Chúa Giêsu Kitô.

Chỉ có một mình Thiên Chúa mới có thể cứu độ nhân loại. Chân lý ấy không bao giờ chúng ta được lãng quên! Đức Mẹ, dù là Mẹ Thiên Chúa cũng chỉ là tạo vật. Nhưng Mẹ là tạo vật hoàn hảo nhất của công trình Tạo Dựng của Thiên Chúa và Mẹ là môn đệ “gương mẫu” nhất của Đức Giêsu. Tuy thế, Mẹ cũng đã phải vất vả, khổ đau trên con đường theo Đức Giêsu. Vì thế mà Mẹ có đủ khả năng, kinh nghiệm hướng dẫn, chỉ bảo chúng ta nếu chúng ta muốn bước theo Mẹ trên con đường theo Chúa! Chúng ta hãy chạy đến với Mẹ để học cùng Mẹ!

Hơn nữa Thiên Chúa đã có ý đặt Đức Mẹ bên cạnh Chúa Giêsu và giữa Chúa Giêsu và chúng ta. Nếu nhờ có Chúa Giêsu mà Thiên Chúa trở nên gần gũi với con người hơn, thì cũng nhờ có Đức Mẹ mà chúng ta mạnh dạn và tin tưởng hơn khi dâng lời khẩn nguyện và tạ ơn lên Thiên Chúa.

NGUYỆN

Lạy Thiên Chúa là Cha, chúng con cảm tạ Cha đã ban Con Một Cha cho chúng con. Chúng con cũng cảm tạ Cha vì Cha đã chọn cho Con Một Cha một người Mẹ tuyệt vời là Đức Maria. Cha đã đổ tràn ân sủng của Cha trên người Nữ Tỳ đặc biệt này. Chúng con xin ngợi khen và chúc tụng Tình Thương và Quyền Năng của Cha! Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa đã sinh ra từ một người mẹ, đã lớn lên và trưởng thành bên cạnh Đức Maria và Thánh Giu-se, đã lên đường rao giảng Nước Trời với sự cộng tác của Mẹ, đã trao Mẹ cho thánh Gio-an trước giờ tắt thở. Chúng con cảm tạ và ngợi khen Chúa. Lạy Chúa Thánh Thần là Đấng đã xuống tràn đầy trên các Tông Đồ và Đức Maria, để khai sinh Hội Thánh là Cộng đoàn của Chúa Kitô Phục Sinh. Xin Chúa xuống trên tất cả chúng con, để chúng con nhận được ánh sáng, bình an và sức mạnh cần thiết cho cuộc lữ hành của chúng con.

 

  1. Kinh Mân Côi

Vào thế kỷ mười ba, bè rối Albigeois nổi lên ở miền nam nước Pháp, gây nhiều thiệt hại cho Giáo hội. Và theo truyền thuyết, chính Đức Mẹ đã hiện ra và truyền dạy thánh Đa Minh phép lần hạt Mân côi, như là một phương thế tuyệt diệu để cảm hóa bè rối. Và sự thật đã xảy ra đúng như thế. Chỉ sau một thời gian ngắn quảng bá việc lần chuỗi Mân côi, thánh Đa Minh đã dẫn đưa được 150.000 người theo bè rối trở về cùng Giáo hội. Và đó chính là nguồn gốc của kinh Mân Côi.

Tiếp đến, vào thế kỷ mười sáu, vua Thổ Nhĩ Kỳ đảm đạo quân Hồi giáo của mình xâm chiếm Âu Châu. Sau khi lấy được đảo Chypre và Creta, ông ngang nhiên tuyên bố sẽ cho ngựa ăn cỏ trong đền thờ thánh Phêrô. Trước sự tấn công như vũ bão, cũng như trước áp lực nặng nề ấy, các nước Âu châu đã phải liên kết với nhau. Đồng thời, Đức Giáo Hoàng đã truyền cho mọi người phải ăn chay, cầu nguyện và nhất là lần chuỗi Mân côi. Sau cùng, đạo quân Công giáo đã dành được chiến thắng tại vịnh Lépante. Để cám ơn Đức Mẹ và để kỷ niệm chiến thắng lịch sử này, Đức Thánh Cha Piô V đã thiết lập lễ kính Mẹ Mân Côi hôm nay. Và đó chính là nguồn gốc của lễ Mẹ Mân Côi.

Rồi từ đó cho đến bây giờ, kinh Mân côi đã trở nên một việc đạo đức quen thuộc của người Công giáo. Vậy tại sao chúng ta lại ưa thích kinh Mân côi? Phải chăng vì cỗ tràng hạt vừa nho nhỏ lại vừa xinh xắn? Phải chăng vì kinh Kính mừng là một lời kinh vùa dễ đọc, lại vừa dễ thuộc, để rồi chúng ta có thể lần chuỗi ở mọi nơi và trong mọi lúc? Phải chăng vì tình cảm của chúng ta thường dễ hướng tới người mẹ? Phải chăng qua dòng thời gian, Mẹ đã nhiều lần hiện ra khuyên nhủ chúng ta hãy siêng năng lần hạt và hứa ban nhiều ơn lành qua việc đạo đức ấy?

Tất cả những lý do trên đều đúng nhưng còn mang nặng tính chất tình cảm. Nếu suy nghĩ, chúng ta sẽ thấy được ý nghĩa sâu xa và nội dung phong phú của kinh Mân Côi, khiến chúng ta càng yêu thích việc lần hạt nhiều hơn nữa.

Thực vậy, là một sáng kiến đạo đức được Mẹ đưa ra, nên chuỗi Mân côi có một hình thức thật đơn sơ: một trăm năm mươi kinh Kính mừng, mười lăm kinh Lạy Cha và mười lăm sự việc được xoay quanh mười lăm đề tài suy gẫm cụ thế và dễ hiểu.

Tuy hình thức đơn sơ, nhưng chuỗi Mân côi lại có được một nội dung phong phú. Thực vậy, kinh Lạy Cha và kinh Kính mừng là những kinh cao trọng nhất xuất phát từ Tin mừng. Còn những mầu nhiệm suy gẫm là những biến cố được rút tỉa từ cuộc đời của Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Chính vì thế, chúng ta có thể gọi kinh Mân côi là một cuốn Phúc âm được rút ngắn của người tín hữu.

Vậy chuỗi Mân côi đem lại những hậu quả nào?

Cha Lacordaire nói:

- Con đường bảo đảm nhất để về trời là con đường của các bà già, bởi vì các bà luôn có cỗ tràng hạt trong tay.

Chính Mẹ, khi hiện ra tại Phatima, cũng đã nói:

- Phanxicô sẽ được lên thiên đàng, nhưng phải lần hạt thật nhiều trước đã.

Nếu chúng ta đọc và sống kinh Mân côi, thì kinh Mân côi sẽ là một bảo đảm cho phần rỗi của chúng ta. Tuy nhiên, ngay từ bây giờ, kinh Mân côi còn đem lại cho chúng ta nhiều an ủi và khích lệ, nhất là trong những giờ phút chúng ta gặp phải khổ đau và buồn phiền.

Có một anh lính trở về từ thế giới ngục tù đã cho biết như sau: Chính chuỗi Mân côi đã giúp anh ta cầu nguyện và thánh hóa những khổ đau trong những tháng ngày đen tối ấy.

Rồi anh ta kể tiếp:

- Khi bị thương và nằm lại trên chiến trường, tôi đã lần hạt. Liền sau đó hai người bạn bên cạnh cũng muốn lần theo. Thế là tôi dứt cỗ tràng hạt làm ba mẩu, mỗi người một mẫu để cùng nhau lần chuỗi. Và mẫu chuỗi ấy, tôi vẫn còn lần nó cho đến bây giờ. Nó mãi mãi sẽ là một kỷ vật thân thương nhất trong cuộc đời của tôi.

Hãy dâng lên Mẹ những cánh hồng thiêng liêng, đó là những lời kinh Mân côi sốt sắng để xin Mẹ nâng đỡ và phù trợ cho chúng ta luôn mãi.

 

  1. Suy niệm của JKN

Câu hỏi gợi ý:

1. Đức Maria có mong muốn mình trở nên Mẹ của Đấng Cứu Thế không? Ngài muốn trở nên người thế nào? Hãy xét tính chất “vì Chúa, vì tha nhân, chứ không phải vì mình” trong sự lựa chọn của Đức Maria.

2. Hãy tự xét xem thái độ và cách suy nghĩ của mình giống như những phụ nữ Do Thái (muốn được làm mẹ Đấng Cứu Thế) hay giống như Đức Maria (chỉ muốn làm tôi tớ Thiên Chúa, sẵn sàng thực hiện những gì Ngài muốn)?

Suy niệm

1. Con người và lập trường phụng sự Thiên Chúa của Maria

Thời của Maria, người ta tin tưởng và mong chờ Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra là người Do Thái và sẽ trở nên một vị vua oai hùng, Ngài sẽ giải phóng cho dân Do Thái và sẽ trị vì cả thế giới. Vì thế, qua bao thế hệ, có biết bao phụ nữ mơ ước mình được diễm phúc làm mẹ Đấng Cứu Thế. Ôi, còn diễm phúc nào sánh bằng! Rất nhiều phụ nữ lấy chồng với niềm hy vọng được làm mẹ của một vị vua cao sang, để được hơn người, được hưởng vinh hoa phú quí cả đời.

Nhưng Maria lại là một thôn nữ bình dị, không mơ ước gì cao xa, không mộng tưởng trở nên bà này bà kia. Điều quan trọng đối với cô chính là làm sao sống đẹp lòng Thiên Chúa. Vì thế, cô muốn hiến trọn cuộc đời để phụng sự Ngài, trở nên nữ tỳ của Ngài. Chính vì thế, khi nghe sứ thần cho biết Thiên Chúa đã chọn cô làm mẹ của Đấng Cứu Thế, Đấng được “Thiên Chúa ban ngai vàng của vua Đa-vít cho”, cô đã không tỏ ra quá mừng rỡ như thể điều đó phù hợp với mong ước của mình bấy lâu nay. Trái lại, cô đã nghĩ ngay đến lựa chọn căn bản của mình là sống đồng trinh để tận hiến cuộc đời cho Thiên Chúa. Phản ứng tự phát của cô chứng tỏ điều ấy: cô thưa ngay với sứ thần: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!”. Việc cô đính hôn với Giu-se chỉ là để che mắt người thế gian vốn quan niệm hẹp hòi rằng những phụ nữ không có chồng hoặc con con cái là vô phúc. Tuy nhiên, khi biết đó là thánh ý của Thiên Chúa, cô đã dẹp ngay ý riêng của mình để tuân hành: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”.

2. Tại sao Đức Maria được chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế?

Điều đáng chúng ta suy nghĩ là Thiên Chúa không chọn làm Mẹ đấng Cứu Thế bất kỳ ai trong số những người mong muốn điều ấy, mà lại chọn người không hề nghĩ đến điều ấy. Những người mong ước được làm mẹ Ngài, nghĩ cho cùng, chỉ là muốn làm lớn “cái tôi” của mình. Điều quan trọng đối với họ chính là bản thân họ, chứ không phải là Đấng Cứu Thế. Đấng Cứu Thế chỉ là phương tiện để làm “cái tôi” của họ lớn lên. Còn Maria, điều quan trọng đối với cô là Thiên Chúa, là thánh ý của Ngài, chứ không phải là bản thân cô. Đối với cô, Thiên Chúa là tất cả, còn mình chỉ là số không: tất cả mọi tư tưởng, hành vi của cô đều qui hướng về Ngài.

Chính vì sự khiêm nhường, chỉ mong muốn làm tôi tớ Thiên Chúa, sẵn sàng làm tất cả những gì Ngài muốn, mà cô là người xứng đáng nhất để Ngài chọn làm Mẹ cho Con của Ngài, cũng là Đấng Cứu Thế.

3. Suy tư về khiêm nhường và quên mình

Thiên Chúa là Đấng quyền năng, toàn hảo, Ngài có thể làm được tất cả những gì Ngài muốn. Vì thế, khi cần chọn người cộng tác với Ngài, điều quan trọng đối với Ngài không phải là tài năng, đức độ, hay những giá trị mà loài người vẫn đề cao. Trước mặt Ngài, tất cả những nhân đức, tài năng, những việc phúc đức, những điều mà chúng ta thường lấy đó làm hãnh diện, đều chỉ là những con số 0. Hàng chục hay hàng trăm con số 0 đi với nhau vẫn chỉ bằng 0, vô giá trị. Trước mặt Ngài, chỉ có tình yêu, lòng khiêm nhượng, tinh thần tự hủy mới có giá trị và làm cho những ưu điểm hay việc tốt lành khác trở nên có giá trị. Chúng giống như con số 1 được đặt đằng trước dãy số 0 kia và làm cho những số 0 vô giá trị ấy trở nên đầy giá trị: mỗi số 0 ở đàng sau số 1 đều làm tăng lên gấp 10 giá trị của cả con số đứng trước nó.

Thử xét mà xem, trong tất cả các thụ tạo Thiên Chúa dựng nên, có ai thánh thiện, nhân đức, tốt lành, tài năng, đáng yêu đáng mến cho bằng Tổng Quản Thiên thần Lucifer? Ông là thiên thần sáng láng nhất, tốt đẹp nhất trong hàng ngũ thiên thần. Nhưng ông lại thiếu một điều rất căn bản và nền tảng, đó là tình yêu, lòng khiêm nhượng, tinh thần tự hủy. Ông đã coi “cái tôi” của ông quá lớn, lớn hơn cả Thiên Chúa, coi ý riêng của ông hơn cả ý Thiên Chúa. Chính vì thế, tất cả những ưu việt ông có đều thành vô giá trị, chẳng đem lại một lợi ích nào cho ông.

Nếu tình yêu, lòng khiêm nhượng, tinh thần tự hủy là con số 1, thì tính ích kỷ, kiêu ngạo, tự coi mình quan trọng hơn người là con số –1 (trừ một), có khả năng biến tất cả những số 0 sau nó thành số âm, nghĩa là biến những ưu điểm mình có trở thành sự ác, thành tai họa cho mình và cho người.

4. Hãy tự xét chính mình: mình thuộc hạng người nào?

Nếu trong thế giới các con số có số âm và số dương, thì trong thế giới con người, có con cái thế gian và con cái sự sáng, có những con người lắm tình thương nhưng cũng có những con người đầy ích kỷ. Trong Kinh Thánh, có rất nhiều câu nói lên sự phân loại này (xem Mt 5,45; 13,38; Lc 20,34; Ga 12,36; Rm 8,14; Ep 5,8; 5,11; 1Ga 3,10). Cả hai đều có thể có những đức tính và tài năng ưu việt. Nhưng họ khác nhau ở chỗ:

– một đằng có tình yêu, lòng khiêm nhượng, tinh thần tự hủy, nên tất cả những gì họ có, dù là tinh thần hay vật chất, đều nhằm phục vụ Thiên Chúa và tha nhân, không nhằm phục vụ “cái tôi” và lợi ích riêng của họ.

– đằng kia thì ích kỷ, kiêu ngạo, tự coi mình quan trọng hơn tất cả, nên tất cả những gì họ có họ làm, dù là tinh thần hay vật chất, dù là tốt hay xấu, đều nhằm mục đích cuối cùng là phục vụ “cái tôi” và lợi ích riêng của họ.

Phân biệt được ai là hạng người nào không phải là chuyện đơn giản. Vả lại, đó không phải là việc của chúng ta, mà là việc chỉ dành cho Thiên Chúa. Đức Giêsu đã yêu cầu chúng ta “Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán” (Mt 7,1), nhất là “đừng xét đoán theo bề ngoài” (Ga 7,24) hoặc “xét đoán theo kiểu người phàm” (Ga 8,15). Chúng ta rất dễ lầm, vì rất nhiều người có vẻ thuộc loại này, nhưng thật sự lại là loại kia.

Biết bao người bề ngoài rất tốt, có nhiều đức tính ưu việt hơn người, nhưng bề trong không phải như vậy. Trong Tin Mừng, Đức Giêsu đưa ra một điển hình cho hạng người này là các ngôn sứ giả: “Anh em hãy coi chừng các ngôn sứ giả, họ đội lốt chiên mà đến với anh em; nhưng bên trong, họ là sói dữ tham mồi” (Mt 7,15). Qua câu ấy, Ngài cho biết có những người bề ngoài rất tốt lành, thánh thiện, nhưng bề trong lại ích kỷ, chỉ nghĩ đến quyền lợi mình, và sẵn sàng hy sinh quyền lợi của Thiên Chúa và tha nhân cho quyền lợi của mình. Sự phân biệt chỉ có thể căn cứ vào bên trong, trong tư tưởng và ý hướng thầm kín của họ, mà chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể biết rõ. Về kỹ thuật và nghệ thuật làm ra vẻ tốt lành, ra vẻ khiêm nhường, yêu thương, thì “con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng” (Lc 16,8). Để che dấu cái xấu bên trong, người ta phải làm ra vẻ tốt bên ngoài.

Trong cuộc đời, chúng ta thấy nhan nhản những người xem ra rất sùng đạo, siêng năng các việc đạo, nhưng tâm hồn lại rất ích kỷ, chỉ biết nghĩ tới mình, quyền lợi mình. Hoặc nhiều người có vẻ thánh thiện như thiên thần, nhưng trong lòng lại kiêu ngạo không kém gì ma quỉ. Họ có thể làm rất nhiều việc lành phúc đức, hay làm ân làm phúc, nhưng không phải vì yêu thương mà vì muốn mọi người khen thưởng. Trái lại, có những người xem ra khô khan nguội lạnh, ít khoe mẽ, nhưng khi đụng chuyện mới biết họ là người tốt, sẵn sàng hy sinh cho người khác, không nghĩ tới bản thân hay quyền lợi riêng.

Cần biết về hai hạng người này để mỗi người tự xét lấy mình, xem mình đang thuộc loại người nào: ích kỷ hay yêu thương, kiêu căng hay khiêm nhường, coi bản thân hay coi Thiên Chúa và tha nhân là quan trọng. Nếu không hiểu cho tường tận điều này, nhiều khi ta lầm tưởng về chính mình. Ta tự đánh giá mình quá cao vì những đức tính ta có được, vì những việc tốt lành ta đã làm mà ai cũng biết. Nhưng chính thái độ tự đánh giá mình quá cao, tự mãn và coi thường kẻ khác đã khiến những tài năng, nhân đức ta có được trở thành những con số không vô giá trị trước mặt Thiên Chúa. Giống như con số 1.000 hay 1.000.000 mà mất đi số 1 đằng trước. Vì thế, chúng ta cần phải học hỏi nơi Mẹ Maria sự khiêm tốn: đừng ham trèo cao, đừng tự đưa mình lên. Chính thái độ quên mình, khiêm nhường trước Thiên Chúa và tha nhân mới làm ta trở nên cao cả.

Cầu nguyện

Lạy Cha, xin cho con bắt chước Mẹ Maria, không ham trèo cao hay ham được trở nên quan trọng hơn người, mà chỉ luôn mong muốn danh Cha cả sáng, mọi người chung quanh được hạnh phúc, đồng thời sẵn sàng xả thân làm điều ấy. Chỉ như thế, con mới thật sự có giá trị trước mặt Cha. Xin cho con biết qui hướng về Cha, lấy Cha làm mục đích, làm trung tâm chứ không phải lấy bản thân con. Xin cho con biết yêu thương để sống tinh thần tự hủy và khiêm nhượng. Nhờ đó con luôn làm đẹp lòng Cha.

 

  1. Lễ Đức Mẹ Mân Côi

Hôm nay Giáo Hội mừng lễ Đức Mẹ Mân Côi. Đây là một dịp để chúng ta suy niệm về Đức Mẹ và về một việc đạo đức rất phổ thông là việc lần chuỗi dâng kính Đức Mẹ.

Nhiều người trong chúng ta có một tràng chuỗi. Tràng chuỗi chúng ta không giống tràng chuỗi các nhà sư. Tràng chuỗi chúng ta có một lai lịch cổ xưa và nói được là thi vị hơn nhiều.

Vào thời Trung cổ, trong các nước Công giáo Tây Phương, người thanh niên, nhất là các thiếu nữ, có thói quen mang những tràng hoa trên đầu mà người ta gọi là chapel – nguồn gốc trong Pháp ngữ của danh từ chapeau là mũ và chapelet là tràng chuỗi.

Thánh Louis, vua nước Pháp, cấm các con, nhất là các nàng công chúa, không được mang tràng hoa trên đầu trong các ngày thứ sáu, để tưởng niệm đến mũ gai mà Chúa đội trong cuộc tử nạn.

Tràng hoa biến thành các chuỗi hoa, đội lên đầu Đức Mẹ để tỏ lòng tôn kính. Trong khi đó, ở tu viện, các tu sĩ mỗi ngày đọc đủ một trăm năm mươi Kinh Kính Mừng dâng kính Đức Mẹ, vừa đọc vừa bái quỳ.

Từ tập tục bên ngoài đội hoa, bên trong bái quỳ, người ta đi dần đến việc lần chuỗi dâng kính Đức Mẹ. Tràng chuỗi trở nên tràng chuỗi Mân Côi.

Việc đạo đức ấy đã được Đức Mẹ chấp thuận, khi Người hiện ra với thánh Đaminh vào thế kỷ XIII. Thời ấy, bè rối Albigeois đã lan tràn nhiều nơi và phá hoại Giáo Hội rất nhiều. Thánh Đaminh và dòng của ngài đã làm hết sức mà không sao cải hóa được những người theo bè rối ấy. Ngài cầu nguyện với Đức Mẹ và Đức Mẹ đã hiện ra dạy dùng tràng chuỗi Mân Côi làm khí giới thần hiệu để chinh phục bè rối ấy. Thánh Đaminh đã thành công nhờ tràng hạt Mân Côi.

Lễ Đức Mẹ Mân Côi mà chúng ta mừng hôm nay liên hệ đến một biến cố trong lịch sử Giáo Hội. Ngày 7 tháng 10 năm 1571, vua Hồi Giáo mang đại quân hướng về La Mã và thề hứa sẽ biến đền thờ thánh Phêrô thành một chuồng ngựa. Đạo binh Công Giáo đã ra nghênh chiến trong khi ở hậu phương giáo dân lần chuỗi Mân Côi cầu xin với Đức Mẹ. Người Công Giáo đã chiến thắng tại vịnh Lépante, Đức Giáo Hoàng Piô V đã thiết lập lễ kính Đức Mẹ Mân Côi này.

Đó là phần lịch sử, nhưng lịch sử thường gắn liền với đời sống. Sở dĩ tràng chuỗi Mân Côi đã được Giáo Hội chấp nhận và đã cổ võ là vì đó là một bản tóm lược Phúc Âm.

Lần chuỗi không phải là việc đọc một cách máy móc các kinh thường quen, mà là miệng đọc mà lòng suy, suy gẫm các mầu nhiệm căn bản của Chúa Giêsu và Đức Mẹ. Mầu nhiệm năm sự Vui để sống lại với Đức Mẹ cuộc đời thơ ấu của Chúa; mầu nhiệm năm sự Thương để đi theo Chúa trên đường tử nạn; mầu nhiệm năm sự Mừng để cùng Đức Mẹ sống qua những ngày cuối cùng của Chúa.

Vì thế mà Lacordaire đã gọi tràng chuỗi Mân Côi là một cuốn Phúc Âm tóm lược.

Vậy chúng ta hãy siêng năng lần hạt, vì chính Đức Mẹ cũng khuyến khích việc ấy trong những lần hiện ra ở Rue du Bac, Balê, ở Lộ Đức và Fatima.

Tại Rue du Bac ở Balê, Đức Mẹ nói cùng thánh nữ Catherine Labouret: Con hãy quan tâm đến việc lần chuỗi để tôn kính Mẹ.

Tại Lộ Đức, trong 18 lần hiện ra với Bernadetta, Đức Mẹ bao giờ cũng lần hạt và khuyên lần hạt. Mỗi lần ra hang đá, Bernadetta đến quỳ tại một chỗ nhất định. Cô nhìn lên hang đá, rút tràng chuỗi ra lần. Thế là trên bộng đá rực lên một bầu ánh sáng và trong bầu ánh sáng ấy, Đức Mẹ hiện ra.

Đức Mẹ cầm trong tay một tràng chuỗi bạc, hạt ngăn bằng vàng. Bernadetta nói: Đức Mẹ cũng lần hạt nhưng tất nhiên không đọc Kinh Kính Mừng mà chỉ cúi đầu, mấp máy đọc Kinh Sáng Danh kính Chúa Ba Ngôi.

Cách riêng, tại Fatima trong 6 lần hiện ra, Đức Mẹ đã khuyến khích lần hạt. Đức Mẹ dạy Phanxicô phải lần hạt mới được về thiên đàng. Đức Mẹ ban ba mệnh lệnh và một trong ba mệnh lệnh ấy là phải siêng năng lần hạt. Và Đức Mẹ tự xưng là Nữ Vương Mân Côi.

Tràng chuỗi Mân Côi là khí giới, là thuẫn đỡ trong đời sống. Chúng ta hãy dùng khí giới và thuẫn đỡ đó, để chống lại ma quỷ, nhất là để nhờ Đức Mẹ đưa ta đến với Chúa. “Ad Jesum per Mariam. Amen”.

 

  1. Mẹ đầy ơn phước – Veritas

(Trích dẫn từ ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Thời gian viên mãn đã đến, người trinh nữ, dấu chỉ của lời hứa được loan báo trước kia giỡ đây được chỉ định rõ ràng cho chúng ta biết và chúng ta biết rõ đó là Đức Maria, Đấng làm cho tâm hồn ta tràn đầy tin tưởng và niềm vui khi nghe đến tên Ngài. Cùng với thiên thần Gabriel, chúng ta cất lên lời chào: “Kính mừng Maria, hãy vui lên, Maria”. Qua lời chào của thiên thần, Thiên Chúa mời gọi Maria hãy vui lên vì thời giờ thực hiện lời hứa đã đến và làm sao Mẹ Maria không vui lên được, khi biết chính mình đã được chọn để thực hiện lời hứa, để làm dấu chỉ loan báo hoàng tử hòa bình sắp đến. Mỗi lần chúng ta chào chúa Mẹ Maria qua kinh Kính Mừng “Kính Mừng Maria đầy ơn phước” chúng ta tham dự vào niềm vui và niềm tri ân của Mẹ đối với Thiên Chúa.

Mẹ là Đấng đầy ơn phước, Đấng được Thiên Chúa chúc phúc. Mẹ thuộc hoàn toàn về người tôi tớ của Đức Giavê như được loan báo nơi sách tiên tri Isaia chương 42 câu 1: “Đây là tôi tớ Ta, Đấng Ta chọn và đẹp lòng Ta mọi đàng. Mẹ được đầy ơn phước vì Đấng sắp đến ngự nơi Mẹ là Con yêu dấu của Thiên Chúa”. Mẹ Maria được đầy tràn niềm vui. Mẹ là người đầu tiên được Thiên Chúa cho nếm trước niềm vui vì Thiên Chúa nhập thể. Nhờ Thiên Chúa mạc khải, Mẹ Maria hiểu được sứ mệnh của Mẹ như là dấu chỉ niềm hy vọng, dấu chỉ Thiên Chúa chu toàn lời hứa của Ngài cho Israel, và suốt đời Mẹ sẽ là bài ca chúc tụng lòng trung thành của Thiên Chúa, như Mẹ đã thốt lên nơi nhà ông Dacaria: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, Ngài là Đấng trung tín như lời đã hứa Abraham và con cháu ông”.

“Thiên Chúa ở cùng Bà”, Mẹ Maria đã từng suy niệm lời tiên tri loan báo trước về biến cố cứu rỗi sắp đến, nên giờ đây từng lời thiên thần nói ra cho Mẹ đều mang một ý nghĩa sâu xa. “Thiên Chúa ở cùng Bà”, giây phút quan trọng nhất của lịch sử đã đến, đó là lúc trinh nữ Maria hay tin và hiểu rõ thực tại Thiên Chúa ở cùng chúng ta, Emmanuel, một cách thật độc nhất vô nhị. Mẹ vui mừng gọi Thiên Chúa là Emmanuel, là Đấng ở cùng chúng ta. Mẹ vui mừng trước sự hiện diện của Thiên Chúa và chúng ta hiệp với Mẹ trong niềm vui và hết lòng cảm tạ Thiên Chúa.

“Hỡi Maria, đừng sợ”, kinh nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa nơi chính mình, không khỏi làm cho con người run sợ. Không phải Mẹ Maria cảm nghiệm Thiên Chúa hiện diện, nhưng Mẹ còn được mạc khải cho biết giờ đây, đến lúc lời hứa thành sự thật nơi Mẹ. Không bao giờ Mẹ Maria đã nghĩ đến việc cả thể này, Thiên Chúa mạc khải chính Ngài và ý định của Ngài cho Mẹ. Mẹ vui mừng lên như một niềm vui mừng đi kèm với sự run sợ, một sự run sợ thánh. Kinh nghiệm sống đời Kitô, chúng ta cũng thấy hai tâm tình này như Mẹ Maria, vừa vui và vừa sợ. Mẹ Maria nhờ ơn Chúa giúp đã thắng vượt cái sợ và phó thác tin tưởng hoàn toàn vào Chúa.

Xin Mẹ Maria giúp chúng ta được tham dự vào niềm vui của Mẹ, được trở thành dấu chỉ để Thiên Chúa thực hiện ơn cứu rỗi của Ngài nơi anh chị em chung quanh. Đặc biệt, trong ngày lễ của Mẹ hôm nay, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện lên Thiên Chúa Cha:

“Lạy Cha là Chúa tể trời đất, Chúng con chúc tụng Cha

Vì Cha đã không mạc khải cho những kẻ khôn ngoan, kiêu ngạo, nhưng cho những kẻ bé nhỏ khiêm tốn. Cha đã chọn Mẹ Maria để thực hiện lời hứa cứu rỗi chúng con.

Nhờ lời cầu khẩn của Mẹ Maria, đặc biệt trong ngày lễ của Mẹ hôm nay, và nhân danh Chúa Giêsu Kitô, Đấng Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng con”. Xin cho chúng con nhận ra sự hiện diện của Người và vui mừng tiếp rước Người đến ở với chúng con. Và lạy Mẹ Maria, chúng con kính mừng Mẹ, Đấng đầy ơn phước. Mẹ đã lãnh nhận mọi phúc lành của Thiên Chúa để giúp chúng con. Thiên Chúa ở cùng Mẹ; Ngài cũng đến ở với chúng con. Chúng con cũng sẽ cảm nghiệm được điều này như Mẹ, nếu chúng con biết sống trung thành với ơn gọi như Mẹ. Xin Mẹ cầu bầu cho chúng con được luôn sống trong niềm vui vì được Chúa hiện diện bên cạnh, và đặc biệt trong chính chúng con.

 

  1. Kinh Mân Côi

Ngày 10.3.1615 tại Glascow, một vị thừa sai nổi tiếng, đó là cha Ogilive bị hành quyết vì tội rao giảng Phúc Âm. Trong giây phút cuối cùng đứng trên đoạn đầu đài, nhìn thấy hàng ngàn người đến xem, ngài muốn để lại cho họ một kỷ niệm, nên đã lấy cỗ tràng hạt của mình mà ném vào đám đông. Xâu chuỗi rơi trúng một ông hoàng nước Hung Gia Lợi đang trên đường du học và đã có một đời sống không mấy tốt đẹp. Ông hoàng này đã thực sự xúc động khi nhận lấy xâu chuỗi, và cũng nhờ xâu chuỗi, ông đã từ bỏ được nếp sống tội lỗi, trở nên một người đạo đức và yêu mến kinh Mân Côi.

Từ câu chuyện trên, chúng ta hãy nhớ lại những mệnh lệnh của Mẹ tại Fatima. Đúng thế, vào năm 1917, Đức Mẹ đã hiện ra tại Fatima với 3 em nhỏ. Và qua 3 em nhỏ Mẹ đã truyền dạy chúng ta: Hãy tôn sùng trái tim Mẹ, hãy cải thiện đời sống và hãy siêng năng lần hạt Mân Côi. Nếu suy nghĩ một chút chúng ta sẽ thấy mệnh lệnh thứ ba bao gồm cả hai mệnh lệnh trên. Bởi vì nhờ việc siêng năng lần hạt, chúng ta biểu lộ được lòng tôn sùng kính mến đối với Mẹ, đồng thời nhờ việc siêng năng lần hạt, chúng ta sẽ tìm thấy những tiêu chuẩn hướng dẫn cho việc cải thiện đời sống để mỗi ngày một trở nên tốt lành thánh thiện hơn. Chính vì thế, Đức Thánh Cha Gioan XXIII đã gọi kinh Mân Côi là hơi thở của mọi tâm hồn, là bông hồng thiêng liêng dâng kính Mẹ, là việc đạo đức thích hợp cho mọi người ở mọi nơi và trong mọi lúc.

Và riêng chúng ta, nếu ngay từ bây giờ chúng ta siêng năng lần hạt, thì phần rỗi của chúng ta sẽ được bảo đảm chắc chắn như lời Mẹ đã nói về cậu bé Phanxicô tại Fatima như sau: Phanxicô sẽ được lên thiên đàng nhưng phải lần hạt thật nhiều trước đã.

Để kết thúc phần chia sẻ hôm nay, tôi xin kể lại một mẩu chuyện: Có một người nhà quê không biết chữ xin vào tu bậc trợ sĩ trong một nhà dòng. Được ít lâu, ông buồn phiền chán nản vì thấy mình không biết đọc sách để được hát kinh nhật tụng với mọi người. Ông cũng cố học nhưng vì đã có tuổi, nên học trước quên sau, chẳng chữ nào ra chữ nào. Sau một thời gian miệt mài, ông thấy rõ là mình bất lực nên bỏ học và chuyên tâm lần hạt. Ông thường xuyên phàn nàn với Đức Mẹ: “Vi không biết chữ, nên con chẳng ngợi khen Mẹ được nhiều hơn. Con không biết đọc sách nguyện như các thầy khác, thì Mẹ ráng chịu vậy”. Không chịu thua lòng đơn sơ thành thật của ông, Đức Mẹ đã hiện ra sáng láng đẹp đẽ với một chiếc áo choàng lộng lẫy, nhưng mới thêu được một nửa bằng những chữ vàng óng ánh: Kính mừng Maria... Ông đơn sơ hỏi: “Sao Mẹ mặc áo đẹp mà lại thêu dở dang như vậy?” Mẹ trả lời: “Đây là những kinh Kính Mừng con đọc hằng ngày để dâng kính Mẹ. Vì con mới đọc được có bằng ấy kinh, nên áo Mẹ còn dang dở như thế. Vậy con hãy cố đọc nhiều hơn nữa để chóng thêu xong tấm áo cho Mẹ. Khi nào xong, Mẹ sẽ đến để choàng cho con và dẫn con vào Nước Trời”. Nói xong Mẹ biến đi, để thầy dòng không biết chữ ở lại ngây ngất với những kinh Kính Mừng đã đọc.

Từ đó, chúng ta hãy thực hiện lệnh truyền của Mẹ bằng cách siêng năng lần chuỗi Mân Côi mỗi ngày, để dâng lên cho Mẹ những cánh hồng thiêng liêng, xin Mẹ sẽ nâng đở và phù trợ chúng ta luôn mãi.

 

  1. Hiệu quả của Kinh Mân Côi

Trong một vài phút ngắn ngủi này tôi xin trình bày về những ơn lành mà chuỗi Mân côi đã đem đến cho nhân loại.

Trường hợp thứ nhất đó là vào thế kỷ 13, bè rối Albigeois nổi lên ở miền Nam nước Pháp, thế nhưng với chuỗi Mân côi do Đức Mẹ truyền dạy, chỉ trong một thời gian ngắn, thánh Đaminh đã cảm hóa được 150.000 người theo bè rối trở về cùng Giáo Hội.

Trường hợp thứ hai đó là vào thế kỷ 16 ảnh hưởng của Tin lành trở nên mạnh mẽ và đe dọa toàn cõi Âu Châu. Nhưng dân thành Luxembourg vẫn nhất quyết trung thành với Giáo Hội. Hôm ấy toàn thể dân phố được mời tới nhà thờ để nghe giảng thuyết. Khi vị mục sư bước lên tòa giảng, thì một người giáo dân xướng kinh và tất cả nhà thờ đều lần hạt to tiếng cho đến lúc vị mục sư phải bước xuống tòa giảng và ra khỏi nhà thờ. Và như thế nhờ kinh Mân côi dân thành Luxembourg giữ vững niềm tin và sự trung thành với Giáo Hội.

Trường hợp thứ ba đó là vào thế kỷ 16, quân Thổ Nhĩ Kỳ đe dọa và xâm chiếm Âu Châu, nhưng nhờ kinh Mân côi, đoàn chiến binh Công giáo, tuy ô hợp, nhưng cũng đã dành được chiến thắng tại Lépante. Chính vì thế, để tạ ơn Đức Mẹ và ghi nhớ cuộc chiến thắng lịch sử này, Đức Thánh Cha Piô 5 đã thiết lập lễ Mân côi hôm nay.

Trường hợp thứ tư, đó là vào thế kỷ 20. Trước năm 1917, Bồ Đào Nha ở vào một tình trạng suy thoái một cách trầm trọng về phương diện tôn giáo. Gần hai thế kỷ, óc bè phái đã gây nên những chia rẽ và những cuộc nội chiến. Giáo Hội bị bách hại bởi những kẻ theo nhóm tam điểm. Nhà thờ bị phá hủy, các linh mục và tu sĩ bị bắt bớ, khắp nơi người ta tổ chức những đoàn hội chống lại Giáo Hội. Thế nhưng kể từ năm 1917, năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, Bồ Đào Nha đã đi vào một khúc quanh mới của lịch sử. Người ta tổ chức những đoàn hội chuyên lo lần hạt Mân côi, để xin Mẹ chấm dứt những xáo trộn và ban mọi ơn lành xuống cho đất nước. Và Bồ Đào Nha đã xứng đáng với tước hiệu quê hương của kinh Mân côi.

Cũng từ đó những sự đổi mới đã xảy ra. Tinh thần đạo đức thấm nhiễm vào các tổ chức xã hội. Ơn kêu gọi gia tăng, các tạp chí Công giáo phát triển và Giáo Hội bừng sống sau một thế kỷ tàn lụi. Chính các Đức giám mục Bồ Đào Nha, trong một bức thư chung đã xác quyết: Sở dĩ Bồ Đào Nha đã thay đổi tốt đẹp là do những lần Mẹ hiện ra tại Fatima và kinh Mân côi.

Nhìn vào hiện tại chúng ta thấy thế giới cũng đang trải qua những biến động và xáo trộn về kinh tế, chính trị và nhất là về tôn giáo. Mặc dù không có những cuộc bách hại gay gắt, mặc dù không có ảnh hưởng của các bè rối, nhưng có một đe dọa khác tệ hại hơn, đó là những học thuyết, những trào lưu tư tưởng, những thể chế chính trị chối bỏ Thiên Chúa, đả phá tôn giáo mỗi ngày một bành trướng, khiến cho một số người không nhỏ xa lìa đức tin. Để nhân loại được hòa bình, để thế giới được an vui, để Giáo Hội được phát triển, chúng ta không có một phương pháp nào hơn là phương pháp mà Mẹ đã truyền dạy, đó là hãy siêng năng chăm chỉ lần hạt Mân côi.

 

  1. Kinh Mân Côi và Phúc Âm

(Lc 11,15-26)

Kinh Mân Côi là một việc đạo đức xuất phát từ Phúc Âm. Đúng thế, trước hết là những lời kinh chúng ta đọc. Kinh lạy Cha là gì nếu không phải là lời kinh chính Chúa đã truyền dạy cho các môn đệ.

Còn kinh kính mừng là gì nếu không phải là lời chào của sứ thần Gabriel và của bà Elisabeth, đã được Phúc Âm ghi lại. Nhưng điều quan trọng hơn là những mầu nhiệm chúng ta suy gẫm, tóm lược toàn bộ Tin Mừng và cuộc đời của Chúa.

Có một thời người ta đã không lần hạt như ngày nay, thay vì 15 mầu nhiệm, người ta đã suy gẫm tới 150 mầu nhiệm, nghĩa là mỗi kinh kính mừng tượng trưng cho một mầu nhiệm, từ khi sứ thần Gabriel truyền tin cho đến ngày vinh quang của Mẹ Maria, cũng như cho đến ngày tận thế. Chắc hẳn như vậy cũng khí thái quá, làm cho kinh Mân Côi trở nên phức tạp và dài dòng.

Ngày nay chúng ta qui tụ lại thành 15 ngắm, tượng trưng cho 15 mầu nhiệm, 15 biến cố chính yếu của cuộc đời Chúa Giêsu và chúng ta có thể xác quyết: Kinh Mân Côi chính là một bản tóm lược Tin Mừng và cuộc đời của Chúa. Hay nói cách khác, đó chính là lịch sử ơn cứu độ được Thiên Chúa ươm mơ và thực hiện trong dòng thời gian. Với một nội dung như thế, kinh Mân Côi sẽ dẫn chúng ta đến với Tin Mừng, vì vậy kinh Mân Côi không phải chỉ là một lời kinh chúng ta đọc trợt trạt ngoài miệng, nhưng còn là một lời kinh để cho chúng ta suy gẫm, nhiều người hẳn đã rùng mình khiếp sợ. Nhưng thực sự đây là một việc làm hết sức đơn giản và dễ dàng. Chúng ta chỉ cần nghĩ đến những mầu nhiệm, mường tượng ra những biến cố, những hình ảnh như khi chúng ta đi chặng đàng thánh giá. Dĩ nhiên không đòi buộc chúng ta phải suy nghĩ từng chữ hay từng lời chúng ta đọc, mà chỉ cần tưởng nhớ đến những sự kiện mà mỗi ngắm đã gợi lên. Cũng không cần phải dừng lại lâu giờ nơi mỗi ngắm, vì đây không phải là một giờ nguyện ngắm, một giờ suy niệm theo đúng nghĩa của nó.

Tôi xin đưa ra một vài thí dụ, chẳng hạn chúng ta chỉ cần mường tượng ra Chúa Giêsu vai vác thập giá, lần từng bước tiến lên đỉnh đồi Canvê, đồng thời chúng ta hãy nghĩ tới thập giá cuộc đời chúng ta là những hy sinh, những gian khổ chúng ta gặp phải trong cuộc sống. Và như vậy cũng đã đủ lắm rồi.

Chúa Giêsu không phải là một ông chủ hà khắc, xét đoán dựa vào những kết quả đã thu lượm được. Trái lại, Ngài là một người Cha nhân từ, Ngài chỉ cần nhìn thấy thiện chí và sự cố gắng của mỗi người chúng ta. Như vậy không có nghĩa là bảo chúng ta không cần tiến tới sự trọn lành và thánh thiện.

Sau cùng, kinh Mân Côi còn là một lời kinh thích hợp với thời đại chúng ta. Trong đời sống không ai trong chúng ta lại chán cơm. Nếu chúng ta chán cơm thì đó là dấu chỉ chúng ta đau yếu hay sắp chết. Cũng vậy, trong đời sống siêu nhiên, chúng ta không ngừng lập lại lời kinh Lạy Cha và kinh kính mừng để lấy lại sức sống cho tâm hồn.

Bởi đó, hãy siêng năng lần chuỗi để nhờ đó chúng ta có đủ sức chịu đựng những khổ đau và thắng vượt được những cám dỗ trong cuộc sống.

 

  1. Kính Mừng Maria Đầy Ơn Phúc

(Suy niệm của Lm Px. Đào Trung Hiệu)

Kính mừng Maria đầy ơn phúc...

Lời kinh kính mừng ấy, tôi đã thuộc từ thuở mới lên năm. Nhưng ngày qua ngày, tôi có nhiều cảm nghiệm mới khác nhau về kinh Mân Côi. Nay nhìn lại, tôi cảm thấy mình trải qua một quá trình sống các mầu nhiệm Mân côi trong đời.

Từ lời cầu nguyện đơn giản...

Xin cảm ơn Mẹ Giáo hội, vì ngay từ thuở ấy, khi chưa biết chữ để đọc thánh vịnh, khi chưa biết dâng những lời nguyện tự phát, thì nhờ kinh Mân Côi tôi đã có thể tích cực tham gia cầu nguyện với cộng đoàn.

Kinh Mân Côi với tôi khi đó, như những lời cầu khẩn, vì tôi quan tâm hơn đến vế thứ hai của kinh: “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con...”. Khi chúc tụng Mẹ Maria như một Vị trung gian thần thế, tôi thân thưa với Mẹ những nhu cầu của tôi, và gửi gắm cho Mẹ những người tôi thân yêu.

Và thông qua lời gợi ý mỗi mầu nhiệm trong mẫu kinh Mân Côi tiếng Việt, tôi xin cho mình các nhân đức liên hệ. “Ta hãy xin cho được” lòng khiêm nhường, được biết yêu người, biết sống khó nghèo, biết tuân theo Ý Cha, và biết giữ nghĩa cùng Chúa... Xin cho biết sám hối thật lòng, biết kiên nhẫn và hi sinh vác thập giá theo chân Chúa... Xin được sống lại với Chúa, biết ái mộ những sự trên trời để sống yêu thương, trên hành trình theo Mẹ về Thiên quốc. Đôi khi trong lúc đọc kinh như vậy, tôi có những quyết tâm thể hiện các đức tính ấy bằng một hành vi cụ thể.

Qua những nỗ lực suy niệm...

Dần dà lớn lên, được tiếp cận với Phúc Âm và các sách suy niệm kinh Mân Côi, tôi đã trải qua một giai đoạn mới, với khả năng giới hạn của mình để “suy niệm và ghi nhớ trong lòng” những ý tưởng và tâm tình đa dạng chung quanh từng mầu nhiệm.

Đến lúc này tôi hiểu ra Đức Kitô mới là nhân vật trung tâm của 15 mầu nhiệm Mân Côi. Vâng, chính ngài thể hiện thánh ý Chúa Cha trong công cuộc cứu độ: đã hoàn toàn trở nên người phàm, đã ban ơn cứu độ cho Gioan Tẩy Giả và là hiến lễ dâng trong đền thờ.

Cũng chính ngài, Chiên Thiên Chúa gánh tội trần gian, đã tình nguyện uống trọn chén đắng Cha trao, đón nhận mọi nhục hình và được giương cao trên thập giá để “kéo mọi sự lên với Người” (Ga 12,32). Chính Ngài là “sự sống lại và là sự sống” (Xc Ga 11,25) để những ai tin vào ngài sẽ được sống, Ngài về trời để dọn chỗ cho chúng ta (Ga 14,2), và cử Thánh Thần đến để đưa các chúng ta vào chân lý toàn vẹn (Ga 16,13). Chính ngài ngự bên hữu Chúa Cha để ân thưởng cho tất cả những ai thuộc về ngài.

Và trong hành trình cứu độ của đức Kitô, không chỉ có đức Maria, tôi đã gặp nhiều nhân vật khác, bình thường hơn, gần gũi hơn, nên dễ rút ra nhiều mẫu gương cho những ai muốn theo Chúa.

+ Khi đó tôi chiêm ngắm Gabriel kẻ loan báo tin vui, tìm gặp niềm hân hoan của bà Elisabeth, sống những tâm tình của ba vua, của các mục đồng, của các cụ Siméon và Anna tại đền thờ...

+ Trên bước đường Chúa đi rao giảng, tôi ước ao được thành Gioan tiền hô, là gia nhân trong tiệc cưới Cana, lẩn vào đám đông nghe tiếng Chúa, chiêm ngưỡng Ngài trên núi cao, hay được đồng bàn với Thày...

+ Trong cuộc khổ nạn, tôi có dịp suy niệm về những yếu đuối của những người theo Chúa, của Giuđa, của Phêrô, về thái độ trốn tránh trách nhiệm của Philatô hay bóng dáng kiên cường của Đức Maria dưới chân Thập Giá...

+ Tôi cũng có dịp để chung chia niềm vui của Mađalêna và 11 tông đồ khi Chúa sống lại, được nghe lời Đức Giêsu căn dặn trước khi lên trời, sai đi làm chứng tá cho Ngài đến tận cùng trái đất; được quây quần bên đức Maria trong ngày Ngũ tuần, và đồng hành với Mẹ trong cuộc lữ hành đức tin của Giáo hội hôm nay.

Đến lời nguyện cầu cho một thế giới mới

Càng ngày tôi càng hiểu hơn về tính hiện sinh của Tin Mừng. Đức Giêsu vẫn là một: hôm qua, hôm nay và mãi đến muôn đời. Kinh Mân Côi tạo nên cho chúng tôi một không gian cần thiết giúp chúng tôi chiêm niệm chân dung Đức Kitô vẫn đang hiện diện trong cuộc đời. Từ đó, tôi hiểu ra tại sao: Đức Gioan XXIII thường dành từng “chục kinh” trong chuỗi năm mươi, để cầu nguyện cho một trong năm lục địa trên địa cầu.

Và thế là mỗi chục kinh, tôi cầu nguyện đặc biệt cho một giới nào đó trong xã hội. Chẳng hạn

Mùa vui, cầu nguyện: 1. cho lương dân được đón nhận tin mừng khi suy niệm về lễ truyền tin; 2. cho các bà mẹ qua biến cố thăm viếng; 3. cho tuổi thơ qua biến cố giáng sinh, 4. cho người già khi suy niệm về hai cụ Simêon, Anna, và 5. cho các nhà giáo dục...

Mùa sáng, cầu nguyện cho: 1. những người đấu tranh cho công lý, 2. những gia đình gặp thử thách, 3. cho việc rao giảng tin mừng, 4. Xin ơn biến đổi canh tân mỗi ngày, và 5. được hiệp thông vào sự sống của Chúa.

Mùa thương, cầu nguyện cho 1. những người khô khan, 2. các tội nhân, 3. những nhà lãnh đạo, 4. những ai đang đau khổ, và 5. cho các linh mục.

Và mùa mừng, cầu nguyện: 1. cho các anh em vô thần, 2. cho Giáo hội, 3. cho các tu sĩ. Trong hai biến cố liên quan đến việc vinh thăng của đức Maria, tôi cầu nguyện cho 4. sự tiến bộ của nhân loại và 5. cho hòa bình thế giới.

Cho ý Cha được thể hiện

Cho đến một ngày, tôi bỗng như gặp được một luồng sáng mới, để thấy được rằng điều cần phải có khi đọc kinh Mân Côi, quan trọng hơn mọi suy niệm và ý nguyện, chính là một thái độ “xin vâng” của đức Maria và tâm tình tụng ca Tình yêu của Thiên Chúa qua công cuộc cứu độ.

Vâng đúng vậy, nếu Đức Maria, là đại diện của nhân loại mới để đón nhận lời chúc tụng “đầy ơn sủng”, để trở thành cung điện đầu tiên cho Ngôi Lời mặc lấy xác phàm và “ở cùng” nhân loại, thì lời kinh kính mừng hôm nay, vẫn mãi là lời chúc tụng Thiên Chúa vẫn đang ở cùng nhân loại “mọi ngày cho đến tận thế”, và là lời tán tụng ân sủng Chúa trong cuộc đời qua đức Kitô, đã được ban “dồi dào hơn biết mấy” (Rm 5,15).

Nếu nhân loại lầm than vì sự bất tuân của Adam, thì nay nhân loại mới được khai sinh nhờ Adam mới là đức Giêsu, đấng “hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết” (Pl 2, 8). Cũng thế, nếu Eva là biểu tượng của bất tuân, thì lời Ave gửi đến Đức Maria, Đấng đã thưa “xin vâng”, sẽ là biểu tượng của những người Tin trong Tân ước. Đó là ý nghĩa của hai câu thánh thi quen thuộc được giáo hội sử dụng trong phụng vụ kinh chiều lễ kính Đức Mẹ:

“Chữ E-va Mẹ đảo vần,

Thành A-ve gửi bình an cho đời”.

Từ nay, lời kinh kính mừng “Ave Maria”, trở thành lời kinh của cả nhân loại và của từng con người, được cất lên từ cuộc sống hằng ngày của mình. Cùng với đức Maria, nhân loại đó đang hân hoan vì nhận ra tình thương cứu độ, vì khám phá ra lối thoát khỏi những nỗi tuyệt vọng để dám sống những mối phúc thật được công bố trong bài giảng trên núi.

Tâm tình “xin vâng” ấy sẽ thâu tóm tất cả mọi ý nguyện trong lời cầu xin cho “ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Tâm tình ấy sẽ đem đến cho người tín hữu nguồn sinh lực mới để cùng với đức Maria bước đến tận bên chân khổ giá, để đón nhận mọi nỗi vui buồn, âu lo và hi vọng của con người thời đại. Lời kinh ấy trở thành lời kinh của những người tin tưởng, hy vọng và yêu mến, để đảm nhận những trách vụ theo ơn gọi của mình góp phần dựng xây đất mới đang khi mong chờ trời mới.

_________

NB. Bài này viết đã lâu,

nay được bổ sung thêm vài dòng về Mùa Sáng

 

  1. Chuỗi Mân Côi và Thánh Đaminh - Robert Feeney

Bà Jane ở Aza thánh thiện đến nỗi chiếu sáng như những vì sao trên bầu trời ban đêm. Bà sinh năm 1140, sống ở một lâu đài tại Tây Ban Nha với chồng là Felix, một người được kính trọng với chức hiệp sĩ. Bà là một phụ nữ hay thương người, đầy lòng trắc ẩn với những người kém may mắn, và giúp đỡ vật chất cho người nghèo.

Bà Jane có 2 con trai là Mannes và Anthony, nhưng bà muốn con thêm nhiều con. Một hôm, bà tới tu viện Silos để cầu xin có thêm một con trai nữa, xin Dòng Silos cầu nguyện giúp bà. Một tu sĩ Dòng Đa Minh nói: “Này chị, lời cầu của chị đã được nghe và Thiên Chúa sẽ ban cho chị một người con trai. Người con đó sẽ là tôi tớ vĩ đại của Thiên Chúa và có thể làm nhiều điều phi thường cho Chúa Kitô và Giáo hội”.

Khi tạ ơn, bà Jane đặt tên cho con trai là Dominic (Đa Minh).

Trước khi sinh con, bà Jane đã có giấc mơ tiên tri linh cảm việc giảng thuyết mà thánh Đa Minh, trong hình con chó trắng đen, chạy đi với ngọn đuốc sáng ngậm ở miệng, thắp sáng khắp thế giới. Bà Jane sinh bé trai Đa Minh tại Calaroga, thuộc Old Castile, năm 1170. Khi Đa Minh được rửa tội tại nhà thờ xứ, mẹ đỡ đầu của ngài cũng thấy ánh sáng chói lọi, nhìn như ngôi sao, trên lông mày của bé Đa Minh. Lúc đó Đa Minh được tiền định là một luồng sáng, một người sẽ soi sáng những người ở trong bóng tối.

Thánh Đa Minh được trông mong nhiều, nhưng ngài không làm thất vọng. Ngài là một thanh niên thông minh, vui vẻ, có chiều cao trung bình, điển trai, diện mạo khá hồng hào, có tiếng nói ấm và vang. Ngài thừa hưởng ở người mẹ lòng súng kính Đức Mẹ, biết giá trị của việc kết hợp việc cầu nguyện bằng lời và bằng tâm linh, nghe biết những câu chuyện về cuộc đời Chúa Giêsu mà ngài biết đó là những mầu nhiệm, và ngài sẽ rao giảng.

Thánh Đa Minh tận hiến cho Thiên Chúa, trở thành linh mục và phục vụ 9 năm ở Osma, sống theo tu luật thánh Augustinô. Có lòng trắc ẩn trước nỗi đau khổ của người khác, ngài cầu nguyện và khóc thương những người tội lỗi và những người đau khổ. Ngài được nhiều người yêu mến và kính trọng.

Năm 1203, lúc 33 tuổi, ngài rời Osma đi thành phố Fanjeaux thuộc vùng Languedoc, miền Nam Pháp quốc, tại đây ngài giảng đạo gần 13 năm. Trong những hành trình tông đồ, ngài thường dừng lại để cầu nguyện ở Nguyện đường Maria ở Prouille, một làng nhỏ nằm giữa Fanjeaux và Montreal, không xa núi Pyrenees.

Công việc của ngài không hề dễ dàng. Lúc đó, Pháp quốc bị tà thuyết An-bi-gen đe dọa. Những người theo tà thuyết này cho rằng sự sống trên trái đất là công việc của ma quỷ. Niềm tin này sản sinh một nền văn hóa sự chết khủng khiếp. Những người theo tà thuyết này từ bỏ tính thánh thiện của hôn nhân và sự sinh sản con cái. Việc tự tử được khen ngợi vì nó chấm dứt vấn đề hiện hữu. Những người theo tà thuyết này hoàn toàn bác bỏ các giáo huấn của Giáo hội, kể cả mầu nhiệm Nhập thể.

Mọi thứ có vẻ không suôn sẻ, khi thánh Đa Minh cầu nguyện và khóc ở Nguyện đường Đức Maria năm 1208, ngài than thở với Đức Mẹ về việc thiếu kết quả của việc rao giảng cho những người theo tà thuyết An-bi-gen. Đang lúc đó thì Đức Mẹ hiện ra với ngài.

Đức Mẹ nói: “Đừng lo, đến nay con đã đạt được một ít kết quả như vậy nhờ sức lao động của con. Con phải dùng kết quả đó trên vùng đất khô cằn, chưa được tưới bằng sương hồng ân. Khi Thiên Chúa muốn canh tân bộ mặt trái đất, Ngài sẽ bắt đầu bằng cách cho mưa tuôn sự chào đón của thiên thần (rain of the Angelic Salutation). Hãy truyền bá Chuỗi Mân Côi gồm 150 câu chào của sứ thần và 15 kinh Lạy Cha, con sẽ bội thu”.

Thánh Đa Minh không có thời gian. Theo mệnh lệnh của Đức Mẹ, ngài bắt đầu truyền bá Chuỗi Mân Côi, bắt đầu từ Toulouse, một thành phố không xa Prouille. Theo ghi chép của thánh Louis Montfort, một nhà truyền giáo người Pháp hồi thế kỷ 18, thánh Đa Minh đã tới nhà thờ, nơi các thiên thần rung chuông mời gọi mọi người. Khi thánh Đa Minh rao giảng, Thiên Chúa đã hỗ trợ: Trái đất rung chuyển, mặt trời tối sầm, sấm chớp dữ dội. Hầu như cả dân thành Toulouse đều bỏ niềm tin lầm lạc và bắt đầu sống đời Kitô hữu.

Sau thành công tại Toulouse, thánh Đa Minh đi từ thành phố này tới thành phố khác ở Pháp quốc, Tây Ban Nha và Ý để truyền bá Kinh Mân Côi. Trên hành trình, ngài tỏ ra rất chịu đựng, đến nỗi những người đương thời diễn tả ngài là “vận động viên mạnh mẽ”. Sức chịu đựng của ngài gây ấn tượng. Bất cứ đi đâu ngài cũng rao giảng chân lý Phúc âm tập trung vào cuộc đời vui mừng, sầu thương, và vinh quang của Đức Kitô. Nói đến một mầu nhiệm và giảng một câu về đời sống của Chúa Giêsu, ngài mời người nghe lần một hạt trong chuỗi hạt – thường được dùng để đếm các lời cầu nguyện – rồi đọc kinh Lạy Cha và kinh Kính Mừng, các yếu tố của đức tin vẫn nhắm vào những người theo tà thuyết An-bi-gen. Chú ý những lời đầu tiên Đức Mẹ nói với ngài, và một lần Chúa Giêsu hiện ra hướng dẫn ngài khơi lòng người ta yêu mến cầu nguyện trước khi giảng thuyết chống lại tội lỗi, thánh Đa Minh và các linh mục khác đều đọc kinh Kính Mừng chung với giáo dân trước khi giảng thuyết để xin Ơn Chúa. Ngài giải thích rằng kinh Kính Mừng chứa đầy các ví dụ về cuộc sống hàng ngày.

Phương pháp đó tác dụng. Hầu như ở các thành phố ngài rao giảng, ngài đều thành lập Hội ái hữu Mân Côi (Confraternity of the Rosary). Thánh Montfort nói rằng các giáo huấn của thánh Đa Minh tạo sự nhiệt thành đến nỗi hoán cải được những người tội lỗi chai lỳ nhất. Thánh Montfort viết rằng một người đàn ông bị ma quỷ chiếm hữu đã kêu lớn tiếng rằng lời rao giảng của thánh Đa Minh đã làm hoảng sợ cả hỏa ngục. Chuỗi Mân Côi cũng được tin là tạo chiến thắng của đội quân Công giáo do Count Simon de Montfort dẫn đầu, trong trận Muret hồi tháng 9-1213 ở miền Nam Pháp quốc, gồm 800 binh sĩ chống lại vua Aragon và 40.000 quân của tà thuyết An-bi-gen.

Năm 1215, thánh Đa Minh thu hút 6 người bạn cùng làm việc tông đồ và cho họ mặc trang phục như ngài. Đó là một dòng tu đang hình thành với chương trình cầu nguyện, sống chung, và chương trình học tập với Alexander Stavensky, tiến sĩ thần học người Anh. Rao giảng, dạy dỗ, và làm việc để cứu các linh hồn là lý tưởng của thánh Đa Minh. Một người giàu có tên là Phêrô Siela đến xin theo thánh Đa Minh, giao cho ngài nhà cửa của mình ở gần Narbonne Gate tại Toulouse. Cũng trong năm 1215, thánh Đa Minh đi Rôma và quỳ trước mặt ĐGH Innocent III để xin phê chuẩn Dòng Anh Em Thuyết Giáo (OP – Order of Preachers). ĐGH hướng dẫn ngài dùng tu luật hiện có để sống theo. Thánh Đa Minh và các tu sĩ đồng ý chọn tu luật của thánh Augustinô. Ngày 22-12-1216 có tân giáo hoàng là ĐGH Honoriô III, ngài đã phê chuẩn và tuyên bố thánh Đa Minh là “ánh sáng thật của thế giới”.

Khi sinh thời, thánh Đa Minh đã chữa lành các bệnh nhân, phục sinh người chết, và biến lương thực ra nhiều (các phép lạ vẫn tiếp tục xảy ra cho đến sau khi ngài qua đời). Ngài khuyến khích người trẻ và trìu mến với những người mà ngài gặp. Dù ngài già theo thời gian, nhưng tâm hồn ngài vẫn trẻ trung và vui vẻ. Sau khi dòng được phê chuẩn 5 năm, thánh Đa Minh qua đời ngày 6-8-1221 tại Bologna, Ý. Ngay khi hấp hối, ngài vẫn an ủi người khác. Ngài nói: “Anh em đừng khóc. Tôi sẽ có ích hơn cho anh em dù tôi đi bất cứ nơi đâu, có ích hơn khi tôi sống trên đời này”.

Ước mơ từ lâu của chân phước Jane, mẹ của thánh Đa Minh, đã thành hiện thực: Con trai bà đã thắp lửa sáng khắp thế giới.

Thánh thi hay Chuỗi Mân Côi?

Trong thời thánh Đa Minh, Chuỗi Mân Côi được nhắc tới như “Thánh thi của Đức Maria”, và mãi tới thế kỷ 15 Chuỗi Mân Côi mới được sử dụng. Nhưng 100 năm sau khi thánh Đa Minh giới thiệu Chuỗi Mân Côi, người ta vẫn không hề nhớ tới.

Chữ ros có thể lấy từ tiếng Latin, nghĩa là “sương”, ám chỉ lời Đức Mẹ nói với thánh Đa Minh về “sương hồng ân” hoặc do tiếng Latin là rosarium, nghĩa là “triều thiên hoa hồng” – từ ngữ “Chuỗi Mân Côi” (Rosary) có sau khi Lm Alan de la Roche, Dòng Đa Minh, người Pháp, được thị kiến Chúa Giêsu, Mẹ Maria, và thánh Đa Minh khuyến khích ngài khôi phục Chuỗi Mân Côi.

Dạng Chuỗi Mân Côi như chúng ta thấy ngày nay cũng không có trong thời thánh Đa Minh. Việc thêm các mầu nhiệm đã mất nhiều thế kỷ để chỉnh sửa và xác định. Thánh GH Piô V, cũng là tu sĩ Dòng Đa Minh, đã làm điều này năm 1569. Ngày 16-10-2002, chân phước GH Gioan Phalô II đề nghị thêm 5 Mầu nhiệm Sự Sáng vào Chuỗi Mân Côi truyền thống. Gọi là “Mầu nhiệm Sự Sáng” vì gồm các mầu nhiệm trong sứ vụ công khai của Chúa Kitô từ khi chịu Phép Rửa tới Cuộc Khổ Nạn.

Tặng phẩm của scapular

Năm 1218, tại Rôma, Đức Mẹ hiện ra với một tu sĩ Dòng Đa Minh là Master Reginald, ở Orleans, là giáo sư nổi tiếng về giáo luật tại ĐH Paris trước khi gặp thánh Đa Minh và gia nhập dòng này. Các bài giảng thuyết của ngài đã thu hút nhiều người vào dòng. Lúc Đức Mẹ hiện ra, Reginald bị bệnh. Mỉm cười với ngài, Đức Mẹ xức dầu co ngài, chữa bệnh cho ngài, và giới thiệu với ngài một áo dòng trắng (scapular). Đức Mẹ nói: “Đây là áo dòng của con”.

Tại sao lần Chuỗi Mân Côi?

Thế kỷ 15, Lm Alan de la Roche, OP, bảo đảm Chuỗi Mân Côi là nguồn vô biên của các phúc lành:

1. Tội nhân được tha thứ.

2. Linh hồn nào khao khát sẽ được thỏa khát.

3. Ai khổ sầu sẽ tìm thấy hạnh phúc.

4. Ai bị cám dỗ sẽ được bình an.

5. Người nghèo được giúp đỡ.

6. Tu sĩ được canh tân.

7. Ai không hiểu biết sẽ được hướng dẫn.

Về Chuỗi Mân Côi, chân phước GH Gioan Phaolô II nói: “Lần Chuỗi Mân Côi là giao phó những gánh nặng cho Thánh Tâm Thương Xót của Chúa Kitô và Đức Mẹ”.

Robert Feeney - Chuyển ngữ: Trầm Thiên Thu

 

  1. Lời kinh tuyệt vời – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Phụng vụ bước vào tháng Mân côi. Suốt tháng này, lòng sùng kính của dân Chúa đối với Đức Mẹ mang một đặc điểm riêng.

Đó là cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi. Mọi tín hữu được cùng với Đức Mẹ trên từng cây số cuộc đời Chúa Giêsu và theo phong cách của Đức Mẹ là "lưu giữ và suy niệm trong lòng" qua từng lời kinh chuỗi hạt Mân côi.

Tràng hạt Mân côi là một hành trang và là phương tiện "bỏ túi", "đeo tay" "đeo cổ" gọn nhẹ. Lời kinh kỳ diệu này giúp thánh hóa bản thân, gia đình và xã hội. Kinh Mân côi không khác gì điện thoại di động hòa đời người vào mạng lưới sự sống thiêng liêng.

Chuỗi Mân Côi trong tiếng Latinh là "rosarium" nghĩa là "vườn hoa hồng". Tháng 10, lần hạt Mân côi, đoàn con cái hiếu thảo dâng biết bao hoa hồng lên Đức Mẹ. Bằng chuỗi Mân côi, Giáo hội trở thành một vườn hồng mênh mông, hương thơm sắc đẹp tiến dâng Mẹ hiền.

1. Kinh Mân côi đem lại nhiều ơn ích thiêng liêng

Chuỗi Mân côi thật cao quí, ai biết siêng năng lần hạt sẽ nhận được hiệu quả phi thường.

Vào thế kỷ 13, bè rối Albigeois nổi lên ở miền Nam nước Pháp. Với Chuỗi Mân côi do Đức Mẹ truyền dạy, chỉ trong một thời gian ngắn, thánh Đaminh đã cảm hóa được 150.000 người theo bè rối trở về cùng Giáo Hội.

Thế kỷ 16, ảnh hưởng của Tin lành mạnh mẽ và đe dọa toàn cõi Âu Châu. Dân thành Luxembourg vẫn trung thành với Giáo Hội. Hôm ấy toàn thể dân phố được mời tới nhà thờ để nghe giảng thuyết.

Khi vị mục sư bước lên tòa giảng, một người giáo dân xướng kinh và tất cả nhà thờ đều lần hạt to tiếng cho đến lúc vị mục sư phải bước xuống tòa giảng và ra khỏi nhà thờ. Nhờ kinh Mân côi, dân thành Luxembourg giữ vững niềm tin và trung thành với Giáo Hội.

Năm 1511, lịch sử được chứng kiến một thành quả vĩ đại của Kinh Mân côi mang lại. Chính biến cố lịch sử này là nguồn gốc lễ kính Thánh Mẫu Mân côi. Khi ấy quân Hồi xâm lăng Âu Châu, tàn phá những nơi họ đi qua, tiêu diệt dân Công giáo. Cùng với việc triệu tập đạo quân thánh giá từ hai nước Ý và Tây Ban Nha, Đức Giáo hoàng Piô V kêu gọi mọi người siêng năng lần chuỗi Mân côi.

Cuộc chiến quá chênh lệch đã diễn ra tại vịnh Lepante, nhưng với quân số ít ỏi và khí giới thô sơ, người Công giáo đã thắng trận vẻ vang trước đoàn quân Hồi giáo đông đảo và trang bị hùng hậu. Từ Roma, Đức Giáo hoàng nghe tin chiến thắng và nói với các vị trong giáo triều hãy tạ ơn Chúa. Hôm đó là ngày 07 tháng 10. Đức Giáo hoàng đã thiết lập lễ Mân côi để tạ ơn Đức Mẹ và ghi nhớ cuộc chiến thắng lịch sử này.

Trước năm 1917, Bồ Đào Nha ở vào một tình trạng suy thoái một cách trầm trọng về phương diện tôn giáo. Gần hai thế kỷ, óc bè phái đã gây nên những chia rẽ và những cuộc nội chiến. Giáo Hội bị bách hại bởi những kẻ theo nhóm tam điểm. Nhà thờ bị phá hủy, các linh mục và tu sĩ bị bắt bớ, khắp nơi người ta tổ chức những đoàn hội chống lại Giáo Hội. Thế nhưng kể từ năm 1917, năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, Bồ Đào Nha đã đi vào một khúc quanh mới của lịch sử. Người ta tổ chức những đoàn hội chuyên lo lần hạt Mân côi để xin Mẹ chấm dứt những xáo trộn và ban mọi ơn lành xuống cho đất nước. Bồ Đào Nha đã xứng đáng với tước hiệu quê hương của kinh Mân côi.

Lịch sử còn ghi lại nhiều thành quả kỳ diệu khác nữa của Kinh Mân côi. Chẳng hạn Kinh Mân côi đã mang lại chiến thắng tại Vienna ngày 12 tháng 9 năm1683, hay đã chấm dứt bệnh dịch tại Milan...

Chuỗi Mân côi vẫn còn là một phương thế cứu rỗi hữu hiệu của mỗi tín hữu. Khi hiện ra tại Lộ Đức hay tại Fatima, Đức Mẹ đều kêu gọi chúng ta hãy siêng năng lần chuỗi Mân côi.

Tạp chí Reader's Digest số ra tháng 4 năm 1991 có kể lại cuộc gặp gỡ kỳ thú giữa Mẹ Têrêxa Calcutta và một thương gia người Mỹ như sau:

Trên chuyến máy bay từ Chritiamy về Thanasity, thương gia trẻ tên là Jim Caiso ngồi kề bên Mẹ Têrêsa và một nữ tu khác. Jim Caiso nhận ra ngay khuôn mặt của người nữ tu thường được báo chí nhắc đến. Khi những người khách cuối cùng ngồi vào yên vị trên máy bay thì Jim thấy hai người nữ tu từ từ rút chuỗi ra khỏi áo và lâm râm cầu kinh. Tuy không phải là một người công giáo sùng đạo nhưng Jim cũng cảm thấy bị lôi cuốn bởi sự cầu kinh của hai người nữ tu. Khi máy bay đã lên cao, Mẹ Têrêsa quay nhìn người thanh niên và hỏi:

- Anh có thường lần chuỗi không?

Anh trả lời:

- Thưa không.

Anh vừa trả lời thì Mẹ cầm tay anh, trao cho anh tràng chuỗi rồi mỉm cười nói:

- Vậy thì hãy bắt đầu lần chuỗi đi.

Ra khỏi phi trường Jim vẫn còn cầm trên tay tràng chuỗi của Mẹ Têrêsa Calcutta. Anh kể lại cho vợ nghe cuộc gặp gỡ với Mẹ Têrêsa và kết luận như sau: "Anh có cảm tưởng như mình đã gặp một nữ tu đích thực của Chúa".

Chín tháng sau, Jim và vợ anh đến thăm một người đàn bà đã từng là bạn của hai người từ nhiều năm qua. Người đàn bà này bác sĩ cho biết bà đã bị ung thư tử cung. Theo các bác sĩ, đây là trường hợp đáng lo ngại. Nghe thế, Jim đưa tay vào túi quần, rút ra tràng chuỗi của Mẹ Têrêsa Calcutta và trao cho người bạn. Anh nói như sau:

- Chị cầm lấy cái này, nó sẽ giúp chị. Mặc dù không phải là người Công giáo, người bạn này vẫn mở rộng bàn tay ra và trân trọng đón nhận món quà quí giá ấy. Một năm sau gặp lại vợ chồng Jim, người đàn bà vui vẻ cho biết bà đã mang trong mình tràng chuỗi trong suốt năm qua và giờ đây trao lại cho Jim để may ra có thể còn giúp đỡ cho người khác. Trong thời gian đó, người chị vợ của Jim đang bị khủng hoảng sau cuộc ly dị, bà cũng muốn được mượn tràng chuỗi của Jim.

Sau này bà kể lại rằng:

- Hằng đêm, tôi đeo chuỗi vào người. Tôi rất cô đơn và sợ hãi, nhưng khi mang chuỗi vào người, tôi cảm thấy như đang cầm lấy một bàn tay thân yêu.Tràng chuỗi mầu nhiệm ấy không mấy chốc đã được trao từ tay người này đến người khác. Mỗi khi gặp khủng hoảng hay bệnh tật, người ta thường gọi điện thoại đến Jim để mượn cho bằng được tràng chuỗi ấy.

Jim suy nghĩ:

- phải chăng tràng chuỗi có một sức mạnh lạ lùng, hay đúng hơn, sức mạnh tinh thần được canh tân nơi tất cả những ai mượn tràng chuỗi ấy. Jim chỉ biết rằng, hễ có ai ngỏ ý mượn tràng chuỗi, anh luôn đáp trả một cách vui vẻ, và lần nào anh cũng căn dặn: "Khi nào không cần nữa cho tôi xin lại. Có thể sẽ có người khác cần đến".

Cuộc sống của Jim cũng thay đổi kể từ cuộc gặp gõ đó với Mẹ Têrêsa Calcutta. Khi Jim nhớ lại rằng: Mẹ Têrêsa mang tất cả hành lý của Mẹ trong cái xách tay nhỏ, anh cũng cảm thấy được thôi thúc để làm cho cuộc sống của anh được đơn giản hơn. Anh nói như sau:

- Tôi luôn cố gắng nhớ rằng: điều quan trọng trong cuộc sống không phải là tiền bạc, danh vọng mà chính là tình yêu chúng ta dành cho người khác.

2. Kinh Mân côi, một kho tàng quý giá của Giáo hội.

Chuỗi hạt Mân côi 200 hạt, 150 hạt, 50 hạt hay 10 hạt được dùng để đếm số Kinh Kính mừng là "...lời ca tụng Đức kitô không ngừng. Đức Kitô được nhắc đến trong mỗi Kinh Kính Mừng cũng là Đấng được trình bày trong chuỗi các mầu nhiệm: Người là Con Thiên Chúa và là Con Đức Trinh Nữ..." (ĐGH Phaolô VI, Rosamrum Virginis Mariae, số 18).

Chuỗi Mân côi lần lượt diễn tả:

- Mầu nhiệm Vui: đồng hành với mầu nhiệm Nhập thể và đời sống âm thầm của Chúa Giêsu.

- Mầu nhiệm Sáng: đồng hành với những mốc thời gian hoạt động đặc biệt có ý nghĩa trong cuộc đời công khai của Chúa Giêsu.

- Mầu nhiệm Thương: đồng hành với những đau khổ của cuộc khổ nạn Chúa Giêsu.

- Mầu nhiệm Mừng: đồng hành với vinh quang phục sinh của Đức Kitô.

Vì thế, Chuỗi Mân côi là kho tàng thiêng liêng quý giá của Giáo hội. Đức Chân Phước Gioan Phaolô II nói: " Chuỗi Mân côi là lời kinh tuyệt diệu, tuyệt diệu trong đơn sơ và trong sâu thẳm của nó...".

Đức Thánh Cha Lêô XIII là vị Giáo Hoàng của kinh Mân côi. Ngài đã ban hành 12 thông điệp nói về Kinh Mân côi. Ngài đã thiết lập tháng Mân côi và thêm vào kinh cầu Đức Bà câu: Nữ vương rất thánh Mân côi, cầu cho chúng con.

Đức Thánh Cha Piô X đã nhắn nhủ các gia đình Công giáo: "Khi gia đình được an vui hoà thuận, hãy lần chuỗi Mân côi để xin Mẹ ban cho sự an vui hoà thuận yêu thương. Khi gặp người chồng thiếu trách nhiệm, hãy chạy đến với Mẹ nhờ tràng chỗi Mân côi, để xin Mẹ cảm hoá. Khi vợ chồng xung khắc nhau, hãy lần chuỗi Mân côi, xin Mẹ tạo sự cảm thông".

Thánh Piô Năm Dấu Thánh chia sẻ: "Vũ khí của tôi là tràng hạt Mân côi. Đức Mẹ không từ chối tôi điều gì khi tôi xin với Mẹ qua chuỗi Mân côi. Muốn làm Đức Mẹ vui lòng và muốn được Đức Mẹ thương yêu hãy lần chuỗi Mân côi".

Cha Stefano Gobbi viết: "Chuỗi Mân côi mang lại hòa bình cho bạn. Với lời Kinh Mân côi, bạn sẽ có thể nhận được từ Thiên Chúa hồng ân vĩ đại nhất là canh tân đời sống, thu phục các linh hồn về với Chúa trong sự ăn năn tội, tình yêu và thánh ân". Và "Chuỗi Mân côi là lời kinh của tôi. Những lời kinh này dù khiêm nhường và mong manh cũng sẽ nên như xích sắt để khóa lại quyền lực tối tăm của thế giới, kẻ thù của thế giới và của các tín hữu".

Đức Thánh Cha Piô IX đã khuyên nhủ: hãy lần chuỗi mỗi buổi tối trong gia đình.

Đức Thánh Cha Piô X cũng nhắc bảo: Nếu các con muốn cho gia đình được bình an, thì hãy lần hạt mỗi buổi tối.

Đức Thánh Cha Piô XI viết:Chúng tôi khuyên các bậc làm cha làm mẹ hãy tập cho con cái mình thói quen lần chuỗi. Mỗi lần tiếp kiến các đôi vợ chồng trẻ, chúng tôi đều khuyên nhủ họ hãy siêng năng lần chuỗi. Ngay cả chúng tôi nữa, không ngày nào mà chúng tôi không lần chuỗi.

Đức Thánh Cha Piô XII khuyên nhủ các bạn trẻ: Hãy yêu mến Mẹ qua việc lần chuỗi Mân côi. Năm 1951 ngài đã ra thông điệp về Kinh Mân côi, và xin các tín hữu hãy lần chuỗi gấp đôi trong tháng Mân côi. Trong một lần tiếp kiến, ngài nói với một vị Giám mục:

- Hãy yêu cầu các linh mục của ngài cầu nguyện và hãy nói cho họ biết: Đức Thánh Cha vẫn lần chuỗi mỗi ngày.

Khi về già, trước lúc đi ngủ, dù là nửa đêm, ngài cũng vẫn lần chuỗi.

Đức Thánh Cha Gioan XXIII, ngay trong năm đầu của triều đại cũng đã ra một thông điệp về Kinh Mân côi.

Đức Chân Phước Gioan Phaolô II, ngay trong tuần lễ sau khi đắc cử Giáo Hoàng, đã nói với tất cả các tín hữu hiện diện tại quảng trường Thánh Phêrô khi đọc kinh Truyền Tin: "Chuỗi Mân côi là lời cầu nguyện mà tôi yêu thích nhất. Đó là lời kinh tuyệt vời. Tuyệt vời trong sự đơn giản và sâu sắc. Với lời kinh này chúng ta lập lại nhiều lần những lời mà Đức Trinh Nữ đã nghe sứ thần Gabriel và người chị họ Êlisabeth nói với Mẹ. Toàn thể Giáo Hội cùng liên kết với những lời kinh ấy".

Các Đức Thánh Cha đều khẳng định về sự tuyệt diệu của Kinh Mân côi và mong muốn mọi tín hữu hãy siêng năng lần chuỗi. Các tín hữu đã đáp trả lời mời gọi tha thiết ấy.

Đức Mẹ rất yêu mến những ai siêng năng đọc Kinh Kính Mừng. Qua kinh Mân côi, chúng ta lặp đi lặp lại không những một hai lần Kinh Kính Mừng, nhưng là đọc đi đọc lại cả một trăm năm mươi lần, như một trăm năm mươi đóa hoa hồng dâng kính Mẹ, như lời Đức Giáo Hoàng Piô V đã nói: "Đây là việc tôn kính Đức Trinh Nữ Maria bằng cách đọc một trăm năm mươi Kinh Kính Mừng, theo con số các thánh vịnh của Đavít, chia thành từng chục kinh một với một Kinh Lạy Cha, đồng thơi suy ngắm các mầu nhiệm về toàn thể cuộc đời của Chúa Giêsu Kitô.".

3. Kinh Mân côi, lời kinh gần gũi cuộc sống

Sau hai mươi lăm năm, tức là vào dịp mừng Ngân khánh Giáo Hoàng, trong Tông thư "Kinh Mân côi", một lần nữa, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ân cần nhắc lại kỷ niệm xưa mà nay đã trở thành xác tín: Kinh Mân côi là lời kinh kỳ diệu. Đơn giản trong hình thức, đơn sơ trong nội dung, nhưng không đơn thuần là một kinh dành cho giới bình dân như có thời người ta nghĩ, nhất là sau Vatican II khi Phụng Vụ tìm lại được vị thế đỉnh cao và trung tâm.

Kinh Mân côi là kinh hạt phổ quát cho hết mọi người, phổ cập cho mọi trình độ và phổ biến trong bất cứ hoàn cảnh nào.

Ngày nay nhiều người phàn nàn không có giờ đọc kinh vì phải lo học hành, lo làm ăn xuôi ngược. Chuỗi hạt Mân côi sẽ nuôi dưỡng đời sống nội tâm phong phú. Con người hôm nay mệt mỏi, lo âu, căng thẳng, vội vã. Chuỗi Mân côi làm lòng người lắng dịu, thanh thản bình an để chiêm ngắm cuộc đời Chúa Giêsu và ca ngợi Mẹ.

Đức Giáo hoàng Phaolô VI khích lệ: "Bản chất việc đọc kinh Mân côi đòi hỏi nhịp điệu phải chậm rãi và có thời gian thư thả, để người ta có thời gian suy gẫm sâu xa về các mầu nhiệm cuộc đời Chúa Giêsu được nhìn qua Trái Tim của Đấng gần gũi nhất với Chúa.".

Điều thuận lợi của chuỗi Mân côi là lần hạt ở đâu cũng được. Ta không buộc phải đọc 50 Kinh Mân côi một lần mà có thể đọc bao nhiêu tuỳ vào thời gian ta có. Ta cũng có thể vừa làm việc vừa đọc Kinh Mân côi, không nhất thiết phải có tràng hạt trên tay. Ta cũng có thể thì thầm bất cứ lúc nào: khi chờ xe bên đường, lúc đi học, khi giải trí, khi đau bệnh... thay vì đưa mắt nhìn chung quanh, thay vì nghe những chuyện không đâu, ta cũng có thể lần hạt. Dù bận bịu đến đâu ta cũng có thể lần hạt. Đó là cách cầu nguyện mà triết gia Jacques Maritain gọi là "chiêm niệm bên vệ đường".

Kinh Mân côi là một vũ khí, nhưng là vũ khí hòa bình luôn đem lại hiệu quả tích cực. Ai yếu đuối, Kinh Mân côi đem cho sức mạnh; ai tội lỗi, Kinh Mân côi dắt về ơn thánh; ai bất hạnh, Kinh Mân côi giúp bình tĩnh tìm ra hướng lối vươn lên; ai khô khan, Kinh Mân côi giúp khám phá ra những ánh lửa vẫn còn ẩn giấu trong những đám tro tưởng như nguội lạnh.

Kinh Mân côi là một kinh quý báu của Giáo hội và của mọi người, đó là kinh phổ biến, vừa dễ đọc vừa dễ cầu nguyện mà lại mang lại nhiều ích lợi cho linh hồn.

Lạy Mẹ Maria, xin dạy con biết yêu mến tràng Chuỗi Mân côi, siêng năng lần hạt trong mỗi ngày sống và xin Mẹ khẩn cầu cho con bên tòa Chúa. Amen.

 

  1. Chất Tin Mừng trong chuỗi Kinh Mân Côi

(Suy niệm của Lm. André Đỗ Xuân Quế)

Chuỗi kinh Mai Khôi chính là tràng hạt Mân Côi mà bình thường giáo dân nào cũng có và mang theo nơi mình, lại siêng năng đọc mỗi ngày nữa. Đó là thói quen rất tốt từ bao đời nay nơi nhiều người công giáo. Người ta đọc kinh lần hạt. Đây là hình thức cầu nguyện phổ thông và khá đơn giản, lại dễ thực hành. Rất ước mong hình thức này vẫn được duy trì trong khuôn khổ các việc đạo đức thông thường và lòng sùng kính cá nhân. Sau đây xin đề cập đến chất Tin Mừng và tính Giáo hội trong lòng sùng kính này cho phù hợp với Hiến chế Lumen gentium (Ánh sáng muôn dân) chương VIII, tông huấn Marialis cultus (Lòng sìng kính Đức Maria) của ĐGH Phao-lô VI và Rosarium Virginis Mariae (Chuỗi kinh Mai Khôi của Đúc Trinh Nữ Maria)) của ĐGH Gio-an Phao-lô II.

1. Nội dung hay chất Tin Mừng trong chuỗi kinh Mai Khôi.

Trước hết xin nói về nội dung hay chất Tin Mừng trong chuỗi kinh Mai Khôi. Thời đại này, Lời Chúa được nhấn mạnh và Tin Mừng được đề cao. Một nền đạo đức mới đặt nền tảng trên Lời Chúa đã ra đời để bổ túc cho nền đạo đức cũ vốn được xây dựng trên các thứ lòng sùng kính. Vào các giai đoạn lịch sử, Lời Chúa ít được biết đến và phụng vụ là một mảnh vườn khép kín đối với giáo dân thì người ta phải chạy đến các thứ lòng sùng kính để nuôi dưỡng lòng đạo đức của mình. Đó là điều tự nhiên và dễ hiểu. Nhưng bây giờ, tình thế đã thay đổi nên lòng đạo đức cũng phải có căn bản vững vàng hơn. Căn bản đó là Kinh thánh và Phụng vụ. Ngoài thánh lễ và các giờ kinh phụng vụ ra, chuỗi kinh Mai Khôi đáp ứng được đòi hỏi này, vì các kinh đọc trong đó lấy từ Kinh thánh, Phụng vu và các mầu nhiệm suy ngắm cũng là những mấu nhiệm về cuộc đời Chúa Cứu Thế rút ra từ các sách Tin Mừng.

Quả vậy. Kinh Kính Mừng là lời chào của thiên thần Gáp-ri-en đến báo tin cho Đức Mẹ, kinh Lạy Cha là kinh Chúa Giêsu dạy cho các Tông đồ và kinh Sáng danh là vinh tụng ca Giáo hội dùng để kết thúc mỗi thánh vịnh, khi đọc các giờ kinh phụng vụ. Còn các mầu nhiệm thì cũng là những biến cố vui mừng, sầu khổ, sáng láng trong cuộc đời Chúa Cứu Thế.

Năm sự vui là gì, nếu không phải là cuộc đời Chúa Giêsu ở giai đoạn thơ ấu, từ lúc thiên thần truyền tin cho Đức Mẹ cho tới khi Người tìm được Con Mình trong đền thờ. Những biến cố này đều được ghi trong các sách Tin Mừng Nhất Lãm.

Năm sự sáng là gì, nếu không phải là những biến cố đặc biệt liên quan đến Phép Rửa tại sông Gio-đan, đến phép lạ biến nước thành rượu ngon tại Ca-na, đến công cuộc rao giảng Tin Mừng và kêu gọi ăn năn sám hối, đến cuộc hiển dung trên núi Ta-bo và việc thành lập chức linh mục và bí tích Thánh Thể?

Năm sự thương là gì, nếu không phải là giai đoạn cuối cùng trong cuộc đời Chúa Cứu Thế, khi Người lên Giê-ru-sa-lem, bị điệu đến dinh tổng trấn Phi-la-tô, bị hành hình rồi bị treo trên thập giá.

Năm sự mừng là gì, nếu không phải là giai đoạn chót trong cuộc đời tại thế của Chúa Giêsu, từ khi Người sống lại, ban thần khí cho các Tông Đồ rồi lên trời, hẹn ngày lại đến trong vinh quang.

Như vậy chuỗi kinh Mai Khôi là một bản tóm tắt gọn gàng, dễ nhớ về những biến cố quan trọng trong cuộc đời Chúa Cứu Thế. Mỗi khi đọc một chục kinh Mai Khôi là chúng ta có dịp nhớ lại một mầu nhiệm và sống ý nghĩa của mầu nhiệm ấy. Lần chuỗi Mai Khôi là thực hành lời thánh Phao-lô khuyên tín hữu Phi-líp-phê: “Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Kitô Giêsu. Đức Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã làm cho mình hóa ra không, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Ngược lại, còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu.” (Pl 2,5-9)

Bốn câu trong chương 2 thư Phi-líp-phê tóm tắt được các mầu nhiệm vui mừng, sầu khổ trong cuộc đời Chúa Cứu Thế và khuyên nhủ tín hữu dựa vào đó mà có những tâm tình xứng hợp khi đối xử với nhau là từ bỏ độc quyền, hạ mình xuống, hy sinh, vâng phục để được vinh hiển trong ngày Chúa quang lâm.

Ngoài ra, chuỗi kinh Mai Khôi lại còn có nội dung Tin Mừng ở điểm này nữa là địa vị của Đức Mẹ mà chúng ta tôn kính, khi lần chuỗi Mai Khôi. Mai Khôi là những bông hồng đẹp được tượng trưng bằng các kinh Kính Mừng để tôn vinh Người. Đức Mẹ đã có mặt trong cuộc đời Chúa Cứu Thế từ những giây phút đầu cho đến những giây phút cuối. Sự có mặt của Người vừa kín đáo lại vừa bi thảm. Người có mặt đó nhưng lại hoàn toàn tùy thuộc vào Con của Mình, như trong tiệc cưới Ca-na hay trong cảnh cậu bé Giêsu ở lại trong đền thờ, nghe các bậc thầy Do thái và đặt ra các câu hỏi cho các ông, sau cuộc trẩy hội lên Giê-ru-sa-lem. Đức Mẹ là người đầu tiên đã suy nghĩ và họa lại những tâm tình của Chúa Giêsu trong đời sống của mình. Bây giờ Đức Mẹ lại giúp chúng ta chuyển hiện những tâm tình này vào đời sống. Vì vậy, ĐGH Lê-ô XIII trong thông điệp Adjutricem populi (Đấng Phù Trợ của dân) mới viết: “Một trong những lợi điểm chính của chuỗi Mai Khôi là tạo cho tín hữu một phương tiện đơn giản và dễ dàng để nuôi dưỡng lòng tin.”

2. Chuỗi kinh Mai Khôi mang tính Giáo Hội

Giáo Hội nhận chuỗi Mai Khôi là lời kinh của mình và không ngớt lời khen ngợi. Trong thông điệp Octobri mense (Tháng Mười), lại cũng ĐGH Lê-ô XIII viết: “Tất cả lòng sùng kính Đức Mẹ cô đọng lại trong chuỗi kinh Mai Khôi.”

Giáo Hội là một cộng đồng rộng lớn không biên giới bao gồm những người tin nhận Chúa Giêsu Kitô. Lời kinh nào muốn có tính Giáo Hội thì phải được Giáo Hội công nhận đã đành mà còn phải phổ cập nữa. Về điểm này, kinh Mai Khôi thật là phổ cập vì đó là kinh của mọi tín hữu, ai cũng đọc được, từ người trẻ cho đến người già, người thông thái cũng như người không có học hay ít học, người giầu hay người nghèo, người khỏe mạnh cũng như người đau yếu, khi vui cũng như lúc buồn, khi làm việc cũng như lúc nghỉ ngơi. Kinh này lại có thể đọc được ở bất cứ đâu hay trong hoàn cảnh nào, ở nhà thờ, ở nhà mình, ở ngoài đường, trong nơi yên lặng hay giữa chốn ồn ào náo động và nhất là đọc chung với nhau trong gia đình hay những khi có đông người công giáo họp nhau lại.

Tính Giáo Hội của kinh Mai Khôi lại càng tỏ hiện trong ba tổ chức được công nhận dưới đây;

# Hội Mai Khôi

Hội qui tụ những người tình nguyện suy ngắm các mầu nhiệm Mai Khôi mỗi tuần một lần.

Hội Mai Khôi vĩnh viễn

Hội này do linh mục Ricci thành lập năm 1629 và được linh mục Chardon sắp xếp, tổ chức lại ở Lyon năm 1858. Mục đích của Hội là dâng lời ca tụng liên lỉ, phân chia cho mỗi người mỗi tháng một lần suy ngắm toàn bộ chuỗi Mai Khôi vào ngày giờ được ấn định trước.

# Chuỗi Mai Khôi sống

Hội này được thành lập tại Lyon năm 1826 do cô Pauline Jaricot, chia cho mỗi người mỗi ngày đọc một chục kinh Mai Khôi và suy ngắm về một mầu nhiệm.

Kết luận

Trên đây là hai điểm đặc biệt về chuỗi Mai Khôi, tức chất Tin Mừng và tính Hội thánh được bao gồm trong đó. Chúng ta lần hạt với ý thức là mình đang làm một công việc có chất Tin Mừng, được Giáo Hội công nhận và nhiệt tình khuyến khích, một công việc thu tóm lại tất cả cuộc đời Chúa Cứu Thế.

Như vậy, lần chuỗi Mai Khôi theo thói quen, đọc mà không nghĩ đến các mầu nhiệm trong cuộc đời Chúa Cứu Thế, hoặc không đọc bao giờ hay đôi khi mới đọc đều là những điểm cần phải suy nghĩ lại để điều chỉnh cho phù họp với ý nghĩa và giá trị của chuỗi kinh Mai Khôi.

 

  1. Hiệu lực của Kinh Mân Côi – Lm. Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

Ý chính:

Câu chuyện Sứ thần Gáp-ri-en được Thiên Chúa sai đến truyền tin cho Trinh nữ Maria giúp chúng ta nhận biết tình thương và sự trung tín của Thiên Chúa trong việc thực hiện lời hứa cứu độ loài người. Thiên Chúa luôn đi bước trước bằng việc ban ơn cứu độ và muốn cho loài người đón nhận ơn ấy. Qua câu chuyện truyền tin hôm nay, thái độ lắng nghe Lời Chúa, tìm hiểu ý Chúa và mau mắn “Xin vâng” của Đức Maria chính là thái độ mà các tín hữu phải làm khi đọc kinh lần hạt trong tháng Mân Côi này

Chú thích:

- C 26-27:

* Bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng: Cách đây sáu tháng, ông Da-ca-ri-a đã được Sứ thần Gáp-ri-en hiện đến truyền tin khi ông đang thi hành chức vụ tư tế trong Đền thờ. Sứ thần hứa với ông rằng bà Ê-li-sa-bét vợ ông sẽ sinh cho ông một con trai. Sứ mệnh của nó là dọn đường cho Đấng Thiên Sai.. Quả vậy, bà Ê-li-sa-bét đã có thai trong lúc tuổi già. Bà đã ở trong nhà không tiếp xúc với ai suốt 5 tháng trời (x. Lc 1,5-25). Đến tháng thứ sáu thì Sứ thần Gáp-ri-en tiếp tục được sai đến truyền tin cho Trinh nữ Maria.

* Gáp-ri-en: Là một trong bảy Tổng lãnh thiên thần (x. Tb 12,15), trong đó ba vị được nêu rõ tên trong Cựu ước là: Mi-ka-en, Ra-pha-en, và Gáp-ri-en. Tên của các vị này có ý nghĩa phù hợp với sứ mệnh của mỗi vị như sau: Mi-ka-en nghĩa là “Ai bằng Thiên Chúa?” (Đn 10,13-21;12,1), Ra-pha-en nghĩa là “Thiên Chúa chữa lành” (Tb 3,17) và Gáp-ri-en nghĩa là “Anh hùng của Thiên Chúa” (x. Đn 8,16).

* Trinh nữ: hay thiếu nữ, là một cô gái chưa lấy chồng. Riêng về đức trinh khiết của Đức Maria đã được gián tiếp đề cập đến qua câu ngài thưa với Sứ thần: “Việc đó xảy ra thế nào được, vì tôi không biết đến người nam” (Lc 1,34). Theo lời tuyên sấm của Ngôn sứ I-sai-a thì: Việc một hài nhi do một bà mẹ đồng trinh thụ thai là dấu chỉ của Đấng Thiên Sai (x. Is 7,14).

* đã đính hôn: khi đính hôn, Giu-se và Maria đã được luật pháp công nhận là vợ chồng, và con cái sinh ra trong thời kỳ này là con chính thức. Tuy nhiên, theo phong tục Do thái thì việc kết hôn chỉ hoàn tất khi bên họ đàng trai tổ chức lễ cưới đón rước cô dâu về nhà chồng (x. Mt 1,18).

* thuộc nhà Đa-vít: chi tiết này thêm vào nhằm chứng minh Đức Giêsu chính là Đấng Cứu Thế, để ứng nghiệm lời các Ngôn sứ đã báo trước như: Người phát xuất từ gốc tổ phụ Giêsê là cha của vua Đa-vít (x.1 Sm 16,3.12); Người sẽ sinh ra tại Bê-lem là quê hương của vua Đa-vít (x. mk 5,1).

* Maria: hay mi-ry-am là tên gọi của nhiều thiếu nữ Do thái đương thời. Để phân biệt khi trùng tên, người ta thường thêm một biệt danh sau tên gọi. Chẳng hạn: Maria Mác-đa-la (x. Lc 8,2-3); Maria Bê-ta-ni-a (x. Lc 10,39); Maria mẹ Gia-cô-bê và Giô-xép (x. Mt 27,56); Maria vợ ông Cơ-lô-pát (x. Ga 19,25); Maria mẹ Gio-an (x. Cv 12,12) và Trinh nữ Maria thân mẫu Đức Giêsu (x. Ga 19,25).

- C 28-29:

* “mừng vui lên”: Đây không phải là kiểu chào thông thường của người Do thái, nhưng là lời chào trong những trường hợp đặc biệt, dành riêng cho những người được gặp Thiên Chúa (x Dcr 9,9).

* “đầy ân sủng”: một tước hiệu dành riêng cho Maria, một người trong sạch vẹn toàn. Ngài đã được chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế, nên đã được Thiên Chúa ban cho đặc ân vô nhiễm nguyên tội và được Chúa luôn ở cùng.

* “Bà bối rối và tự hỏi”: khác với thái độ “bối rối sợ hãi” của Dacaria (x. Lc 1,12), Maria chỉ ngạc nhiên và băn khoăn về ý nghĩa của Lời Chúa vừa được Sứ thần mặc khải (x. Lc 1,34 và 2,19).

- C 30-33:

* Này đây Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu: Sứ thần giải thích cho Maria biết về sứ mệnh làm mẹ của Hài nhi Giêsu. Giêsu nghĩa là “Cứu Chúa” (x. Mt 1,21) hay là “Đấng Cứu Thế” (x. Lc 2,11).

* “Con Đấng Tối Cao”: Đây là tước hiệu thường được áp dụng cho các vị vua dòng tộc Đa-vít. Sứ thần ám chỉ Đức Giêsu là Vua thuộc nhà Đa-vít. Người sẽ lên ngôi cai trị dân Ít-ra-en, và triều đại Người sẽ vững bền mãi mãi.

- C 34:

* so sánh thắc mắc của Maria với thắc mắc của Dacaria (x. Lc 1,18): Tuy cả hai cùng đưa ra câu hỏi, nhưng phát xuất từ hai tâm trạng khác nhau: câu hỏi của Dacaria biểu lộ sự hoài nghi về quyền năng Thiên Chúa, nên ông đã bị phạt câm, không nói được. sự cấm khẩu này là dấu chỉ cho ông thấy việc bà Ê-li-sa-bét vợ ông sẽ sinh con là điều chắc chắn sẽ xảy ra (x. Lc 1,20). còn lời thắc mắc của Maria thì biểu lộ lòng tin: Maria muốn tìm biết rõ thánh ý Chúa thế nào để xin vâng. do đó, Maria đã được Sứ thần ca tụng là đấng “đầy ân phúc hằng làm đẹp lòng Thiên Chúa” (x. Lc 1,30) và bà Ê-li-sa-bét cũng khen ngợi Maria là người “diễm phúc” vì đã tin Lời Chúa phán sẽ được thực hiện (x. Lc 1,45).

* “Việc ấy xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến người nam!”: “biết” theo nghĩa Thánh Kinh có nghĩa là “sự giao hợp vợ chồng”. Thắc mắc của Maria ở đây không chứng minh Maria đã khấn hay có ý khấn giữ mình đồng trinh, vì động từ “biết” ở đây thì hiện tại. Qua câu này, Maria chỉ thắc mắc là: làm sao thực hiện được việc thụ thai ngay bây giờ được, khi mà Maria mới chỉ đính hôn với Giu-se để nên vợ chồng về luật đời, chứ chưa được Giu-se tổ chức lễ cưới đón rước về nhà chồng như phong tục Do thái?

- C 35:

* Sứ thần giải thích cho Maria hiểu rằng: Vì được Chúa tuyển chọn để làm mẹ Đấng Thiên Sai, nên Maria sẽ được thụ thai cách đặc biệt nhờ quyền năng Thánh Thần, đúng như I-sai-a đã tuyên sấm về việc Đấng Cứu Thế sẽ do một trinh nữ thụ thai và sinh hạ (x. Is 7,14).

* “quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Bà”: Kiểu nói “rợp bóng” nhắc lại sự kiện xảy ra vào thời Xuất hành, khi dân Do thái đi trong hoang địa trên đường về Đất Hứa. Bấy giơ Đức Chúa luôn hiện diện ở giữa dân Người, qua hình ảnh của một cột mây rợp bóng che phủ nhà tạm và lều hội ngộ (x. Xh 40,34-38). Rợp bóng cũng ám chỉ sự bang trợ của Đức Chúa. Như chim phượng hoàng giang rộng đôi cánh để bao phủ che chở đàn chim con, thì Thiên Chúa cũng giang rộng tay hùng mạnh để bang trợ Ít-ra-en là con dân của Người (x. Tv 17,8).

* “Đấng thánh” sắp sinh ra sẽ là “thánh”: “Thánh” nghĩa là thuộc về Thiên Chúa. Hài nhi sắp sinh sẽ được hiến “thánh”, được dâng cho Thiên Chúa để chu toàn sứ mệnh cứu thế.

- C 36-37:

* kìa Bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với Bà, tuy đã già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: Để cho Maria thấy quyền năng cao cả của Thiên Chúa, Sứ thần đã báo cho Maria biết tin về bà chị họ Ê-li-sa-bét: tuy đã cao niên và hiếm hoi, thế mà cũng đã được Thiên Chúa cho thụ thai con trai, đến nay thai nhi đã được sáu tháng rồi.

- C 38:

* “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa”: khi tự nhận là “nữ tỳ của Chúa”, Maria đã biểu lộ một nhân đức khiêm nhường và một lòng tin yêu sâu xa đối với Thiên Chúa.

* “Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời Sứ thần nói”: Qua câu này, Maria đại diện nhân loại để đón nhận ơn cứu độ do Thiên Chúa ban. Thực vậy, ngay sau lời thưa “xin vâng” này, Thánh Thần đã tác động làm cho Trinh nữ Maria thụ thai mà không cần phải tri giao vợ chồng (x. Lc 1,34). Rồi Ngôi Lời “đã xuống thế làm người”, nhập vào bào thai ấy để thành Đấng “Em-ma-nu-en”, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (x. Mt 1,23). Như vậy, Đức Giêsu chỉ có một Ngôi là “Ngôi Con” hay “Ngôi Lời” Thiên Chúa, nhưng lại có hai bản tính là Thiên Chúa và người phàm.

4. Câu hỏi:

- Gio-an Tẩy Giả hơn Đức Giêsu bao nhiêu tuổi?

Thánh kinh kể tên 3 vị Tổng lãnh thiên thần là những vị nào? Tên gọi của mỗi vị có nghĩa thế nào?

- Câu nói nào của Đức Maria cho thấy ngài là thiếu nữ đồng trinh? Tại sao phải nhấn mạnh đến sự kiện đồng trinh trong việc Đức Maria thụ thai Hài Nhi Cứu Thế Giêsu?

- Việc kết hôn giữa thánh Giu-se và Đức Maria làm cho hai người nên vợ chồng thật hay chỉ là vợ chồng giả để che mắt người đời?

Tin Mừng muốn ám chỉ gì khi viết Giu-se “thuộc nhà Đa-vít”?

* Hãy kể ra một số tên gọi Maria trong Tin Mừng kèm theo tên phụ. Thêm tên phụ sau tên gọi như vậy nhằm mục đích gì?

* Khi chào kèm tước hiệu “đầy ân sủng” của Sứ thần nhằm ám chỉ đặc ân nào trong 4 đặc ân Thiên Chúa ban cho Đức Maria? 8-Tên gọi Giêsu mà Sứ thần ra lệnh cho Maria đặt cho con trẻ mang ý nghĩa thế nào?

* Tước hiệu “Con Đấng Tối Cao” được gán cho Hài nhi Giêsu nghĩa là gì?

* Thắc mắc của ông Da-ca-ri-a trong Đền thờ (x Lc 1,18) và thắc mắc của Maria trong Tin Mừng hôm nay có giống nhau không? Ông Da-ca-ri-a và Đức Maria đã gặp sự cố gì sau lời thắc mắc?

** Khi nói “quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Bà”, Sứ thần muốn ám chỉ điều gì?

** Mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể xảy ra vào lúc nào trong biến cố Truyền tin?

II. SỐNG LỜI CHÚA

1. Lời Chúa: Bấy giờ Bà Maria nói: ”Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa... Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả. Danh Người thật chí thánh chí tôn!” (Lc 1,46.49).

2. Câu chuyện:

Đức tin của Phun-tơn Ao-dơ-lơ (fulton Oursler):

Vào một buổi chiều đông lạnh giá, Phun-tơn, một người đã mất đức tin và bỏ không đến nhà thờ nhiều năm, đang trong tâm trạng tuyệt vọng vì gặp nhiều vấn đề khó khăn nan giải. khi đi qua đại lộ nhà thờ chính toà của thành phố Nữu Ước, tự nhiên ông cảm thấy có một sức mạnh vô hình cuốn hút ông vào trong nhà thờ và đến quỳ trước tượng Đức Mẹ. Sau một hồi im lặng, tự nhiên Phun-tơn cầu nguyện như sau: “Lạy Mẹ Maria, có thể chỉ một giây lát nữa thôi là con lại thay đổi ý nghĩ lúc này để tiếp tục bài bác chế diễu việc đạo đức con đang làm và quay trở lại con đường vô tín của con. Nhưng bây giờ con cảm thấy tâm hồn thật bình an, dù con đang gặp rất nhiều khó khăn. Xin Mẹ giúp con thêm đức tin”. Ngay lúc đó Phun-tơn cảm thấy một điều gì đó kỳ diệu vừa xảy ra nơi ông và biến ông trở thành một người mới: Ông đã có đức tin! Từ đó, ông luôn kết hiệp với Mẹ Maria để làm chứng cho Chúa bằng một cuộc sống khiêm nhường, cậy trông phó thác và đầy vị tha bác ái.

3. Suy niệm:

- Thiên Chúa đã ban cho loài người chúng ta một Đấng Cứu Độ duy nhất là Chúa Giêsu. Nhưng bên cạnh Đức Giêsu, Thiên Chúa còn ban cho chúng ta một bà mẹ hiền đầy tình thương và tích cực cộng tác với Đức Giêsu trong công cuộc cứu độ loài người là Thánh Mẫu Maria. Thực vậy, Mẹ Maria luôn yêu thương và cầu bầu cho những ai đang gặp khốn khó như Mẹ đã dạy các người giúp việc hãy làm theo lời Đức Giêsu tại tiệc cưới thành Ca-na (x Ga 2,1-11). Mẹ đã được chính Chúa Giêsu trăn trối làm Mẹ của Hội Thánh mà tông đồ Gio-an là đại diện, trước khi Chúa tắt thở trên thập giá (x Ga 19,26-27); Mẹ cũng thi hành nhiệm vụ của một bà mẹ hiền khi hiệp cùng Hội Thánh sơ khai cầu xin Chúa Thánh Thần hiện xuống sau khi Chúa Giêsu lên trời (x Cv 1,14).

- Trong lịch sử Hội Thánh, mỗi khi con thuyền Hội Thánh gặp cơn phong ba có nguy cơ bị chìm đắm, chúng ta lại thấy có bàn tay trợ giúp của Mẹ Maria. Vào thế kỷ 12, thánh Đa-minh đã được Đức Mẹ hiện ra ban cho phép lần hạt Mân Côi, như một thứ vũ khí thiêng liêng nên đã chặn đứng được làn sóng lạc giáo An-bi-doa ở Miền Nam nước Pháp đang đe dọa tiêu diệt Hội Thánh. Rồi dưới triều đại Đức Thánh Cha Piô V, cũng nhờ phép lần hạt Mân Côi mà Hội Thánh một lần nữa lại tránh được làn sóng xâm lược của đạo quân Hồi Hồi tại vịnh Lê-păng vào đầu thế kỷ 16. Ngày nay, Đức Maria trở thành sứ giả được Thiên Chúa sai đến đã hiện ra tại nhiều nơi trên thế giới vào nhiều thời điểm khác nhau, để nhắc nhở Hội Thánh đi đúng đường lối của Chúa Giêsu và giúp các tín hữu cải thiện đời sống, đón nhận ơn cứu độ do Chúa Giêsu đem đến. Ta có thể kể ra một số địa danh Mẹ đã hiện ra như: Lộ Đức (Pháp), Pha-ti-ma (Bồ Đào Nha), La Vang (Việt Nam), Mễ du (Nam Tư)...

- Thực ra, việc biến đổi lòng những kẻ tội lỗi và vô tín để họ quay về nhận biết tôn thờ Thiên Chúa, và việc xóa bỏ các tệ nạn xã hội như ma túy, cờ bạc, đĩ điếm, cướp giật...trong đời sống mỗi người sẽ khó lòng thực hiện thành công nếu chỉ dựa vào khả năng giới hạn của chúng ta. Nhưng điều tưởng chừng không thể thực hiện ấy lại không khó chút nào đối với Thiên Chúa, vì: “Không có gì mà Chúa không làm được” (Lc 1,37). Vậy để việc tông đồ truyền giáo đạt được kết quả thì các tín hữu chúng ta cần noi gương Mẹ Maria để sống kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu (x Ga 15,5). Rồi cùng với Đức Mẹ, chúng ta sống đức Tin bằng việc thực thi đức Cậy và đức Mến noi gương Mẹ khi xưa. Chắc chắn nhờ ơn Chúa giúp và sự phù trợ của Mẹ Maria, chúng ta cũng sẽ làm được những việc lạ lùng vượt quá khả năng của mình. Vì bấy giờ chúng ta làm với ơn Chúa giúp như thánh Phao-lô viết: ”Tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2 cr 12,10).

4. Thảo luận:

* Qua câu chuyện trên, ta thấy Thánh Mẫu Maria có vai trò nào trong việc ăn năn trở lại của ông Phun-tơn?

Ngày nay các tín hữu chúng ta cần cậy nhờ vào sự phù trợ đắc lực của Mẹ Maria trong hành trình sống đức Tin thế nào?

5. Nguyện cầu:

Lạy Chúa, Mỗi lần gặp phải những khó khăn hoạn nạn xảy tới, chúng con thường chỉ biết kêu trời trách đất, hoặc tệ hơn lại tìm đến với mê tín dị đoan như coi bói toán, cầu cơ, tin đồng cốt... để tìm sự giúp đỡ an ủi, đang khi lẽ ra chúng con phải cậy vào ơn Chúa trợ giúp và sự phù trợ của Mẹ Maria, như Mẹ đã cầu bầu cho đôi tân hôn tại tiệc cưới thành Ca-na xưa. Xin Chúa giúp chúng con biết nghe lời Mẹ dạy là hãy lắng nghe Lời Chúa Giêsu, tìm hiểu ý Chúa muốn và mau mắn xin vâng như các người giúp việc trong tiệc cưới xưa đã làm.

X. Hiệp cùng Mẹ Maria. – Đ. Xin Chúa nhậm lời chúng con.

 

  1. Lễ Đức Mẹ Mân Côi

(Suy niệm của Lm. Phaolô Nguyễn Nguyên)

Trong muôn loài muôn vật Thiên Chúa dựng nên. Chúng ta thấy, không có một tạo vật nào được giáo hội dành nhiều ưu ái cho bằng Mẹ Maria. Nói đến Mẹ, giáo hội luôn dành cho Mẹ muôn vàn tước hiệu, tước hiệu nào cũng cao quí, cũng đặc biệt. Hôm nay, chúng ta mừng kính Mẹ Maria với tước hiệu Mẹ Mân côi. Sở dĩ có ngày lễ hôm nay vì có liên hệ đến một biến cố trong lịch sử Giáo Hội. Ngày 7-10-1571, vua Hồi Giáo mang đại quân hướng về La Mã và thề hứa sẽ biến đền thờ Thánh Phêrô thành một chuồng ngựa. Đạo binh Công giáo đã ra nghênh chiến trong khi ở hậu phương giáo dân lần chuỗi Mân Côi cầu xin với Đức Mẹ. Và đúng như lời “xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Đức Mẹ mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhậm lời” đã ứng nghiệm, với quân số ít ỏi và khí giới tồi tàn, người công giáo đã thắng trận vẻ vang trước đoàn quân Hồi giáo đông đảo và trang bị hùng hậu. Để ghi ơn Đức Mẹ, ĐGH Piô V đã thiết lập lễ kính Đức Mẹ Mân Côi. Tuy nhiên, ngày nay Giáo hội không kêu gọi chúng ta nhớ lại một biến cố xa xưa cho bằng mời gọi chúng ta khám phá ra vị trí của Đức Maria trong mầu nhiệm cứu rỗi và nhắc nhở về vai trò của Kinh Mân Côi trong đời sống của người tín hữu kitô chúng ta.

Thật vậy, khi chương trình sáng tạo đầu tiên của Thiên Chúa bị tội lỗi con người làm cho đổ vỡ, thì nay Thiên Chúa thay thế bằng một chương trình mới, khởi đi từ một cuộc gặp gỡ và trao đổi giữa thần sứ Gabriel với cô thôn nữ Maria. Như bao cô gái nhà quê khác, Maria cũng từng ấp ủ những mộng ước, những dự phóng thật bình thường cho đời mình. Nhưng Thiên Chúa đã xen vào, đã khuấy động đời cô và đã làm thay đổi tất cả. Với lời thưa “Xin vâng” thật đơn sơ cô đã trở thành Mẹ của Đấng Cứu Thế, và trở nên người đầy ân phúc. Đầy ân phúc không chỉ vì Chúa đã chọn Mẹ, nhưng còn vì Mẹ đã luôn chọn đứng về phía Thiên Chúa, lấy Ý Chúa làm ý của mình, luôn cố gắng để cho chương trình của Ngài thành hiện thực. Mẹ đẹp lòng Chúa không vì những thành đạt vĩ đại, mà chỉ đơn giản là xin vâng với tất cả con người bé mọn của kiếp làm người mà Mẹ được Chúa ban. Nhờ đó, Mẹ trở nên như mẫu gương, như người hướng dẫn và như sự nối kết những tâm hồn thành tâm kiếm tìm, lắng nghe và thực thi Thánh Ý của Thiên Chúa.

Do đó, mừng lễ Mân Côi hôm nay, mỗi người trong chúng ta hướng nhìn lên Mẹ Maria, để noi theo Mẹ, chúng ta biết lắng nghe và tuân hành thánh ý Chúa, để như Mẹ, chúng ta vượt qua được những gian nan, thách đố, những lo âu, khắc khoải của dòng đời, để sống tốt lành thánh thiện, sống tươi vui và tử tế với nhau hơn. Muốn được như vậy, giáo hội mời gọi chúng ta hãy đến với Mẹ, hãy siêng năng lần chuỗi Mân Côi như là phương thế hữu hiệu để cải thiện đời sống và xây dựng Nước trời.

Vì lễ Mẹ Mân Côi không còn là mừng về một chiến thắng quân sự nào, mà chính là mừng về một chiến thắng lớn lao hơn. Đó là chiến thắng của ơn thánh trên tội lỗi, mà muốn có chiến thắng thì không thể xao lãng việc lần hạt Mân Côi; và nếu yêu mến lần hạt Mân Côi, sẽ có ngày bước vào chiến thắng. Cho nên, ai yếu đuối, Kinh Mân Côi đem cho sức mạnh; ai tội lỗi, Kinh Mân Côi dắt về ơn thánh; ai bất hạnh, Kinh Mân Côi giúp bình tĩnh tìm ra hướng lối vươn lên; ai khô khan, Kinh Mân Côi giúp khám phá ra những ánh lửa vẫn còn ẩn giấu trong những đám tro tưởng như nguội lạnh. Ước gì mỗi người chúng ta hãy thử một lần để nhận ra được giá trị của kinh Mân côi, để khi gặp những khúc quanh, gánh nặng, khổ đau, những lúc mây mù giăng kín cuộc đời, chúng ta biết chạy đến kêu xin Mẹ: “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con khi nay và trong giờ lâm tử”. Amen.

 

  1. Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà

HỌC SỐNG KHIÊM NHƯỜNG VỚI CHÚA QUA KINH MÂN CÔI

Để cho kinh Mân Côi thực sự là một phương thế giúp ta nên thánh, cần phải suy niệm trong lòng, cần phải chiêm ngắm và noi theo gương lành của Chúa Giêsu và Mẹ Maria được gợi lên trong Kinh Mân Côi.

Trong những lần hiện ra, Mẹ Maria thường cầm tràng hạt trên tay. Khi hiện ra với ba trẻ ở Fatima, Mẹ còn lần hạt với ba trẻ tại đó. Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II cũng như nhiều vị giáo hoàng khác rất siêng năng lần hạt và kêu gọi tín hữu năm châu sốt sắng lần hạt hằng ngày. Như thế, Mẹ Maria cũng như Hội Thánh luôn khuyến khích chúng ta lần hạt vì Kinh Mân Côi là một phương thế giúp cho người ta nên thánh. Nhưng để cho kinh Mân Côi thực sự là một phương thế giúp ta nên thánh, thì chỉ đọc suông ngoài miệng không đủ, mà cần phải suy niệm trong lòng, cần phải chiêm ngắm và noi theo gương lành của Chúa Giêsu và Mẹ Maria được gợi lên trong Kinh Mân Côi.

Giờ đây, chúng ta cùng chiêm ngắm lòng khiêm nhường sâu thẳm của Ngôi Hai Thiên Chúa qua Kinh Mân Côi. Gương khiêm nhường của Ngôi Hai Thiên Chúa nổi bật trong những phần suy gẫm sau đây: - Gẫm thứ nhất năm sự vui: Ngay khi Thiên thần truyền tin cho Đức Mẹ, Thiên Chúa Ngôi Hai là Đấng cao sang quyền phép đã chấp nhận hóa thân thành một phôi thai nhỏ, chỉ bằng hạt cát thôi, nằm trong tử cung của Mẹ Maria để chờ ngày được sinh ra làm người. Một Thiên Chúa cao sang là Chúa Tể trời đất mà lại hạ mình đến thế thì tôi là ai mà dám nhắc mình lên cao! - Gẫm thứ ba năm sự vui: Khi Đức Mẹ sinh Chúa Giêsu trong hang đá, Thiên Chúa Ngôi Hai là Vua Trời đầy quyền uy phép tắc hiển trị trên các tầng trời đã chấp nhận chọn hang bò lừa làm nơi nương náu, chọn máng súc vật làm nôi để đến ở cùng nhân loại. Hạ mình và khiêm nhường như vậy là hết mức, không thể hạ mình sâu hơn được nữa. - Gẫm thứ nhất trong năm sự sáng: Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Gio-đan; Chúa Giêsu là Thiên Chúa hoàn toàn vô tội, ngàn trùng chí thánh, vậy mà Người chấp nhận hòa mình với những người tội lỗi bên bờ sông Gio-đan, xếp hàng đứng chung với những người tội lỗi, những tay đâm thuê chém mướn, những cô gái điếm, những gã côn đồ… để chờ đến phiên mình bước xuống dòng sông Gio-đan, cúi mình xuống để cho Gioan làm phép rửa cho. Đấng không hề biết tội là gì lại khiêm nhường cúi mình nhận tội, còn tôi thì cứ cho mình vô tội và tìm mọi cách trút tội lên đầu người khác. - Và đặc biệt là trong năm sự thương, chúng ta thấy nổi lên hình ảnh Chúa Giêsu quá đỗi khiêm nhường khi Người tự xóa mình đi, trở thành tên tử tội, để cho người ta hành hạ Người đủ cách cho đến chết.

- Chúa Giêsu chịu đánh đòn: Chúa tốt lành thánh thiện vô cùng nhưng lại bị đưa ra tòa xét xử như một tên gian phi, bị vu cáo, bị khạc nhổ vào mặt, bị đánh đòn tan nát thân mình mà vẫn khiêm nhường chịu đựng chẳng hé môi kêu trách hay phản kháng. - Chúa Giêsu chịu đội mão gai. Thay vì đội mão triều thiên vinh hiển của các bậc vua chúa cao sang, Chúa Giêsu chịu đội vòng gai nhọn đâm sâu vào đầu, để cho người ta sỉ nhục nhạo cười mà không hận thù hay oán trách. Khiêm nhường hạ mình đến thế thật là hết mức. - Chúa Giêsu vác thập giá: Là Chúa Tể trời đất, lẽ ra Chúa Giêsu bắt mọi người quy phục mình, nhưng trái lại, trên chặng đường thương khó, Chúa để cho quân lính chế ngự Người, bắt Người vác thập giá lảo đảo tiến lên pháp trường theo lệnh truyền và những lời quát tháo của những tên lính hung hăng. Chúa Tể trời đất đã khiêm nhường chịu thua hết thảy mọi người và để mặc cho người ta hành hạ. - Chúa chết trên thập giá: Cuối cùng, tuy là Chúa Tể càn khôn, Chúa chịu để cho quân lính lột áo ra, đóng đinh tay chân Người vào thập giá và bị treo thân trên thập giá giữa hai tên đạo tặc, chia chung án chết với những kẻ côn đồ. Dù bị hành hạ đến mức nào đi nữa, Chúa Giêsu vẫn khiêm nhường chịu mọi nhục hình cho đến chết.

Kiêu ngạo là đầu mối, là nguồn mạch phát sinh nhiều tội lỗi, là một trong bảy mối tội đầu; còn khiêm nhường là nhân đức cao vời và là liều thuốc thần diệu cứu con người khỏi kiêu căng tự mãn. Ước chi mỗi lần đọc Kinh Mân Côi, chúng ta biết nhìn ngắm tấm gương khiêm nhường sâu thẳm của Chúa Giêsu, học sống khiêm nhường như Chúa để nhờ đó, chúng ta triệt bỏ được tính kiêu căng và làm cho đời sống mình trở nên cao đẹp và giống Chúa hơn.

 

  1. Lễ Đức Mẹ Mân Côi – Lm. Ignatiô Hồ Thông

Trong ngày lễ kính trọng thể Đức Mẹ Mân Côi, Phụng Vụ Lời Chúa nêu bật Tình Mẫu Tử của Đức Maria. Chính ở nơi Tình Mẫu Tử của Đức Maria mà Chúa Cha đã trao phó “Con Một làm người” của Ngài cho Mẹ để Mẹ nuôi dưỡng và săn sóc. Và cũng chính nơi Tình Mẫu Tử nầy mà Đức Giêsu đã trao phó cho người mẹ tuyệt vời của Ngài ân cần săn sóc Thân Thể Mầu Nhiệm của Ngài, tức Giáo Hội mà Ngài đã mang nặng đẻ đau trên thập giá (Ga 19: 25-37).

Mỗi lần chúng ta lần tràng chuỗi Mân Côi là mỗi lần chúng ta chiêm ngắm Tình Mẫu Tử tuyệt vời nầy ở nơi niềm vui thầm lặng nhưng sâu thẩm của Mẹ khi đón nhận Người Con mà Thiên Chúa trao ban cho Mẹ (Năm Sự Vui), ở nơi sự kết hợp của tình Mẹ với Con trên con đường khổ nạn (Năm Sự Thương), và ở nơi niềm vui vỡ òa của Mẹ khi Mẹ gặp lại Con Mẹ phục sinh để từ nay sự sống đã chiến thắng sự chết, vận mệnh của con người đã sang trang (Năm Sự Mừng).

Cv 1: 12-14

Sau khi chứng kiến Đức Giêsu lên trời, các Tông Đồ theo lời căn dặn của Thầy trở về nhà ở Giê-ru-sa-lem: “Các ngài đã đồng tâm nhất trí chuyên cần cầu nguyện, cùng với các phụ nữ và Đức Maria thân mẫu của Đức Giêsu”. Ngay từ những bước khởi đầu của Giáo Hội tiên khởi, Đức Maria đã ở bên và che chở Giáo Hội với trọn tấm lòng từ mẫu.

Gl 4: 4-7

Khi viết: “Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà”, thánh Phao-lô nhấn mạnh Con Thiên Chúa đã thực sự đảm nhận trọn vẹn thân phận con người. Lời nầy được đọc trong ánh sáng của Tin Mừng Truyền Tin hôm nay mặc khải rằng Con Thiên Chúa không sinh ra bởi bất kỳ một người đàn bà nào, nhưng là một người đàn bà được tuyển chọn, một Tình Mẫu Tử được viết hoa, kiệt tác của công trình sáng tạo người nữ.

Lc 1: 26-38

Tin Mừng là bài tường thuật biến cố Truyền Tin. Nơi Thiên Chúa chuẩn bị để Con của Ngài đến ở giữa dân Ngài là cung lòng thanh sạch và rạng ngời vinh hiển của Đức Trinh Nữ Maria, Đền Thờ đẹp nhất, được Thiên Chúa sủng ái nhất.

BÀI ĐỌC I Cv 1: 12-14

Đoạn trích sách Công Vụ Tông Đồ nầy được định vị trong bối cảnh các Tông Đồ, sau khi chứng kiến việc Đức Giêsu khuất dạng trong đám mây trời, liền trở về Giê-ru-sa-lem. Các ông tề tựu một nơi và chuyên tâm cầu nguyện trong khi chờ đợi Chúa Thánh Thần ngự đến như lời căn dặn của Thầy mình trước khi từ giả các ông: “Phần Thầy, Thầy sẽ gởi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống” (Lc 24: 49).

1. Trở về nhà, các ông lên lầu trên.

Căn phòng được định vị ở lầu trên. Lầu trên thường là căn phòng chính trong nhà Do thái, chắc hẳn đây là phòng Tiệc Ly, nơi các ông đã dùng bữa ăn cuối cùng với Đức Giêsu. Như vậy nơi mà Đức Giêsu cử hành thánh lễ đầu tiên với các ông trước khi Ngài bước vào con đường Tử Nạn, cũng là nơi các ông chờ đợi để đón nhận Chúa Thánh Thần, Đấng đưa các ông vào trong sự thật công trình cứu độ của Thầy mình.

2. Tất cả mười một Tông Đồ đều hiện diện ở đó:

Việc kể tên mười một Tông Đồ dâng hiến một nét đặc thù đáng chú ý. Trong các sách Tin Mừng, thánh Phê-rô và thánh An-rê được nêu tên trước tiên. Ở đây lại là thánh Phê-rô và thánh Gioan. Sách Công Vụ giới thiệu hai vị Tông Đồ nầy như hai trụ cột của Giáo Hội tiên khởi, thường xuyên hoạt động cùng nhau.

3. Chuyên tâm cầu nguyện:

“Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, siêng năng cầu nguyện”. Thánh Lu-ca thường nhấn mạnh các tín hữu tiên khởi đồng tâm nhất trí và siêng năng cầu nguyện. Các Tông Đồ làm Tuần Cửu Nhật giữa biến cố Thăng Thiên và biến cố Hiện Xuống.

4. Mấy người phụ nữ, và Đức Maria, Thân Mẫu của Đức Giêsu:

Trong số những người phụ nữ tề tựu với các Tông Đồ, chỉ một mình Đức Mẹ được nêu tên, trong mối liên hệ với Đức Giêsu: “Đức Maria, Thân Mẫu của Đức Giêsu”. Đây là lần cuối cùng trong Tân Ước kể ra Đức Trinh Nữ. Sau biến cố nầy, Mẹ sẽ không còn xuất hiện nữa, người ta không còn nói gì về Mẹ. Sự hiện diện của Mẹ ở đây, giữa các Tông Đồ, là một dấu chỉ mang một tầm mức vĩ đại. Mẹ đã ban cho nhân loại thân thể hữu hình của Đức Kitô dưới quyền năng của Chúa Thánh Thần vào lúc Truyền Tin; Mẹ cũng có mặt ở đây vào lúc sinh hạ thân thể mầu nhiệm của Đức Giêsu, tức Giáo Hội, cũng dưới tác động của Chúa Thánh Thần vào ngày lễ Hiện Xuống.

Chúng ta có thể phỏng đoán rằng những người phụ nữ ở bên cạnh Đức Maria cũng chính là những người phụ nữ đã ở bên cạnh Đức Mẹ gần bên Thập Giá. Sự hiện diện của những người phụ nữ nầy gợi nhớ hoạt cảnh trên thập giá ở đó Đức Giêsu đã trao gởi Giáo Hội của Ngài cho Mẹ Ngài làm Mẹ của Giáo Hội Ngài khi nói với Mẹ Ngài: “Thưa Bà, đây là con của Bà” và khi nói với người môn đệ Chúa yêu: “Đây là mẹ của con” (Ga 19: 26-27).

5. Anh em của Đức Giêsu.

Cùng có mặt với các Tông Đồ là “anh em” của Đức Giêsu, nghĩa là những anh em họ của Ngài. Ngôn ngữ Do thái cũng như ngôn ngữ Hy-lạp đều không có đặc ngữ để chỉ mức độ bà con thân thuộc nầy. Cựu Ước sử dụng cùng một từ “anh em” để chỉ mối liên hệ bà con họ hàng rộng lớn hơn: chú cháu (St 13: 8; 14: 14; 14: 16) hay bà con gần (G 19: 13-17) hoặc thậm chí bà con họ hàng xa (cf. Lv 10: 1). Trong Tin Mừng của mình, thánh Mác-cô kể ra bốn người anh em họ của Đức Giêsu: ông Gia-cô-bê, Giô-xết, Giu-đa và Si-môn (Mc 6: 3).

Sự hiện diện của những bà con thân thuộc của Đức Giêsu ở phòng Tiệc Ly vào lúc nầy chứng thực thái độ của họ đã thay đổi đối với Đức Giêsu. Trước đây, thánh Gioan nói “Anh em Người không tin vào Người” (Ga 7: 5); thậm chí họ không hiểu chút gì về sứ mạng của Ngài và cố tìm cách ngăn cản Ngài thi hành sứ mạng của mình nữa (x. Mt 12: 46; Mc 3: 31-35; Lc 8: 19-21).

Họ thay đổi thái độ lúc nào? Các bản văn Tân Ước không cho chúng ta bất kỳ một thông tin nào. Chắc chắn họ sắp lãnh nhận Chúa Thánh Thần như các Tông Đồ và họ sẽ cho thấy niềm tin tích cực của họ. Thánh Gia-cô-bê hậu sẽ là vị lãnh tụ của Giáo Hội Giê-ru-sa-lem và được phúc tử đạo vào năm 62. Người kế vị thánh nhân, một ông Si-môn hay Si-mê-on nào đó, bị đóng đinh vào thời Trajan, cũng là bà con họ hàng của Chúa. Như vậy, những người bà con nghi kỵ xưa kia đều đã là những chứng nhân bằng máu.

BÀI ĐỌC II Gl 4: 4-7

Các Kitô hữu Ga-lát bị những người Kitô hữu gốc Do thái làm lung lạc. Những người Kitô hữu gốc Do thái nầy muốn đưa vào trong Kitô giáo những nghi thức Do thái được cho là luôn luôn có giá trị, như phép cắt bì. Vì thế, thánh Phao-lô chứng minh cho thấy Luật Cũ là sự nô lệ, Luật mới là sự tự do. Thánh nhân sánh ví Luật Mô-sê với thời kỳ người thừa kế “phải ở dưới quyền những người giám hộ và quản lý, cho đến khi mãn hạn người cha đã định” (Gl 4: 2). Tuy nhiên, vai trò của Luật là tạm thời. Với Đức Giêsu, kế hoạch của Thiên Chúa đã đến hồi viên mãn, chúng ta không còn phải sống dưới chế độ của Lề Luật nữa, nhưng trong sự tự do của những người làm con cái Thiên Chúa, mà đã là con thì cũng đã là người thừa kế.

1. Con Thiên Chúa làm con của loài người (4: 4-5)

“Khi thời gian đến hồi viên mãn”: thánh Phao-lô so sánh sự bảo hộ của lề luật (Gl 4: 2) với thời điểm khi Thiên Chúa can thiệp vào trong lịch sử để thực hiện công trình cứu độ qua Con của Ngài là Đức Giêsu. Sự tự do của con người đã đạt được nhờ Đức Kitô. “Thiên Chúa đã sai Con mình tới”: động từ “sai” phát triển trong Giáo Hội tiên khởi một nét nghĩa tôn giáo đặc thù: sai ai vào việc phục vụ Nước Trời là ban cho người đó đầy đủ uy quyền ở nơi Thiên Chúa. Ở đây cuộc sống tiền hữu của Chúa Con không được nói đến một cách minh nhiên, nhưng mặc nhiên. “Sinh làm con một người đàn bà”: động từ “sinh” được dùng ở thể quá khứ để chỉ một “tình trạng hay một hành động đã xảy ra trong quá khứ và hoàn tất trong quá khứ”, nhằm nhấn mạnh rằng Đức Giêsu đã đảm nhận trọn vẹn thân phận làm người cho sứ mạng của Ngài. Cách nói nầy bắt nguồn từ Cựu Ước (G 14: 1; 15: 14; 25: 4). Được sinh ra như vậy, Đức Giêsu chịu phục tòng lề luật “để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử”.

2. Để con người trở thành con Thiên Chúa (4: 6-7).

“Để chứng thực anh em là con cái”. Giới từ “hoti” bắt đầu với câu này có thể hiểu theo hai cách: “vì” (kết quả) hay "nên" (nguyên nhân). Nếu chúng ta hiểu “vì anh em là con cái”, điều này sẽ là nền tảng cho việc Thiên Chúa sai Thánh Thần đến với người Kitô hữu một cách nhưng không. Tuy nhiên, Rm 8: 14-17 xem ra gợi ý rằng ân ban Thánh Thần cấu thành chức năng làm con cái Thiên Chúa của người Kitô hữu; vì thế nhiều nhà chú giải thích hiểu giới từ nầy theo nghĩa "nên anh em là con cái" ("để chứng thực…") hơn.

Thánh Thần của Con”: Thánh Thần cũng là đối tượng sứ mạng từ Chúa Cha; ở nơi khác, Thánh Thần chính là ân ban của Chúa Con Phục Sinh. Thánh Thần của Chúa Con Phục Sinh là một nguyên lý năng động của chức năng làm con Thiên Chúa. Nhờ Ngài, người Kitô hữu mới có thể gọi Thiên Chúa “Áp-ba, Cha ơi!” với trọn niềm xác tín. Không có Thánh Thần người Kitô hữu sẽ không thể thốt lên tiếng kêu đầy trìu mến thân thương nầy. Vì thế, thánh Phao-lô kết luận: “Anh em không còn là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa”.

TIN MỪNG Lc 1: 26-38.

Hoạt cảnh “truyền tin cho Đức Maria” nầy (1: 26-38) hình thành nên một bức tranh bộ đôi với hoạt cảnh “truyền tin cho ông Da-ca-ri-a” trước đó (1: 5-25). Nhờ kỷ thuật song đối nầy, thánh Lu-ca nêu bật hai thời kỳ: Cựu Ước và Tân Ước, hai nhân vật tinh hoa của hai thời kỳ: ông Da-ca-ri-a, vị tư tế ở Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, và Đức Maria, cô thôn nữ ở miền quê hẻo lánh làng Na-da-rét, và đặc biệt hai hài nhi của họ: Gioan Tẩy giả và Đức Giêsu.

1. Khung cảnh truyền tin.

Câu mở đầu “Bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng” đóng chức năng như nhịp cầu nối của hai hoạt cảnh truyền tin, chúng ta rời bỏ đền thờ Giê-ru-sa-lem, thành đô của Do thái giáo, thuộc miền Giu-đê được xem là thuần chủng và thấy mình ở trong một ngôi nhà dân giả, thuộc làng quê Na-da-rét nhỏ bé, khiêm hạ, của miền Ga-li-lê, được gọi “miền đất của dân ngoại”. Thay vì một đôi vợ chồng tư tế đã cao tuổi, biểu tượng của những truyền thống Ít-ra-en cổ kính và trung tín, bây giờ chúng ta gặp cô Maria, đã đính hôn với chàng Giu-se, hướng đến cuộc sống hôn nhân của mình.

Hoạt cảnh truyền tin trước đó đã xảy ra trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, nơi cực thánh nhất của việc Thiên Chúa hiện diện giữa dân Ngài. Chính ở nơi cực thánh nầy mà Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho tư tế Da-ca-ri-a, nhưng cốt để hướng đến một nơi khác còn thánh thiêng hơn, nơi Thiên Chúa chọn để ở giữa dân Ngài, đó là cung lòng của Đức Trinh Nữ Maria.

Vì thế, ngay từ khởi đầu Tin Mừng của mình, thánh Lu-ca cho chúng ta thấy có một sự hoán chuyển vai trò: Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, nơi Thiên Chúa ngự giữa dân Ngài sẽ được thay thế bởi cung lòng của Đức Trinh Nữ, nơi Thiên Chúa chọn cho Con của Ngài đến ở giữa dân Ngài.

2. Lời chào của sứ thần:

Sứ thần vào nhà và chào Đức Maria: “Hãy vui lên, hỡi bà đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng bà”.

“Hãy vui lên” là cách thức chào hỏi thông thường của người Hy lạp, tuy nhiên, “Hãy vui lên” cũng thuộc về diễn ngữ của các ngôn sứ, đặc biệt trong viễn cảnh thời Mê-si-a: “Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỷ! Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với Ngươi” (Dcr 9: 9); hay: “Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Xi-on…Đức Vua của Ít-ra-en đang ngự giữa ngươi” (Xp3: 14-15). Niềm vui thời Mê-si-a nầy, chính là niềm vui mà “sứ thần Thiên Chúa” sẽ loan báo cho các mục đồng trong hoạt cảnh Giáng Sinh: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân…” (Lc 2: 10). Như vậy lời mời gọi “hãy vui lên” được ngỏ lời với Đức Maria là nhằm hướng lòng Đức Mẹ về thời đại Mê-si-a và chuẩn bị Đức Mẹ trước sứ điệp gây sửng sốt sau đó.

“Hỡi bà đầy ân sủng”. Đức Maria được gọi là người đầy ân sủng hay được Thiên Chúa yêu thương đặc biệt không chỉ vì Mẹ được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của Đức Giêsu, Con của Ngài. Suy tư thần học còn thấy ở đây lòng sủng ái đặc biệt mà Thiên Chúa dành riêng cho Mẹ, “ơn vô nhiễm nguyên tội” (“được gìn giữ khỏi mọi vết nhơ tội lỗi, kể cả tội tông truyền”).

“Thiên Chúa ở cùng bà”. Lời nói trấn an nầy thường thường được gặp thấy trong Cựu Ước. Nó được ngỏ lời với những nhân vật run sợ và e ngại trước sứ mạng mà Thiên Chúa giao phó cho họ, như Thiên Chúa đã phán với ông Mô-sê như thế trong hoạt cảnh “bụi cây bốc cháy” (Xh 3: 12). Tổng quát hơn, xuyên suốt lịch sử, Đức Chúa lập lại lời nầy cho dân Ngài chọn. Lời nầy cũng chính là định nghĩa Giao Ước. Vào giây phút nầy, Đức Maria cô động mười tám thế kỷ của việc Thiên Chúa tuyển chọn ở nơi mình. Mẹ đưa vận mệnh của dân Chúa chọn vào vận mệnh của riêng Mẹ. Mẹ là “Thiếu Nữ Xi-on” tuyệt vời. Thiên Chúa ở với Mẹ.

3. Sứ điệp về Đức Giêsu.

Cũng như ông Da-ca-ri-a, nghe những lời chào ấy, Đức Maria hoảng sợ. Sứ thần trấn an Mẹ, đoạn xác định mặc khải của mình.

a. Mẹ của Đấng Kitô (Mê-si-a).

Tên của Hài Nhi, Giêsu, nghĩa là “Đức Chúa là Đấng Cứu Độ”. Ơn cứu độ được Thiên Chúa hứa từ ngàn xưa sẽ được thực hiện qua con trẻ của Đức Maria. Người sẽ được gọi là “Con Đấng Tối Cao” hay “Con Thiên Chúa”. Tước hiệu “Con Thiên Chúa” xảy ra chỉ ba lần trong Cựu Ước, mỗi lần đều quy chiếu đến vị vua thuộc dòng dõi Đa-vít (2Sm 7: 14; Tv 2: 7; Tv 89: 27-28). Vì thế, cũng như bà Ê-li-sa-bét, Đức Maria sẽ được thụ thai và sinh hạ một con trai, tuy nhiên, con trẻ của Đức Maria là Đấng Mê-si-a, Đấng mà ở nơi Ngài lời hứa cho vua Đa-vít được thành tựu. Trong bối cảnh nầy, tước hiệu “Con Thiên Chúa” không có nghĩa nào khác hơn là một tước hiệu dành cho một hậu duệ của vua Đa-vít, nhưng tước hiệu nầy chuẩn bị mặc khải tiếp theo sau.

b. Mẹ của Con Thiên Chúa.

Một vấn đề được đặt ra mà Đức Maria đã thẳng thắng nêu lên: “Làm sao có chuyện ấy được, vì tôi không biết đến chuyện vợ chồng?”. Lời thắc mắc nầy cho thấy rằng Mẹ ý thức Lời Thiên Chúa mà sứ thần truyền đạt cho Mẹ được ứng nghiệm ngay từ bây giờ. Vì thế, Mẹ tin vào Lời Chúa nhưng Mẹ muốn niềm tin của mình được soi sáng. “Biết” là động từ kinh thánh được dùng để chỉ chuyện vợ chồng như “ông A-đam biết bà E-và. Bà đã thụ thai và sinh hạ…” (St 4: 1). Đức Maria chưa chung sống với vị hôn phu của mình. Vấn nạn Đức Maria nêu lên trùng khớp với bản văn của thánh Mát-thêu: “Trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai…” (Mt 1: 18).

Vấn nạn nầy giúp sứ thần khai triển mặc khải của mình: “Thần Khí sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ phủ bóng trên bà, vì thế hài nhi sắp sinh ra sẽ được gọi là Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa”. Sứ thần muốn Mẹ nhớ lại vai trò của Thần Khí theo Kinh Thánh: “Thần Khí là quyền năng Thiên Chúa ban sự sống”. Vào lúc bắt đầu công trình Tạo Dựng, “Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước” (St 1: 2). Qua đó, sứ thần ngầm loan báo một công trình tạo dựng mới mà Đức Maria được mời gọi dự phần vào.

Để Đức Maria có thể thấu hiểu rằng đây là công trình của Thiên Chúa chứ không là công trình của phàm nhân, sứ thần nói thêm: “Quyền năng Đấng Tối Cao phủ bóng trên bà”. Động từ “phủ bóng” là động từ Kinh Thánh, như xưa kia, trong hoang địa “đám mây phủ bóng trên Lều Hội Ngộ, và vinh quang Đức Chúa đầy tràn Nhà Tạm” (Xh 40: 34). Thật ý nghĩa biết bao, cũng chính thánh Lu-ca sử dụng động từ nầy để mô tả biến cố Biến Hình: “Bỗng có một đám mây phủ bóng…và từ đám mây có tiếng nói rằng: Đây là Con Ta…” (Lc 9: 34). Do đó, sứ thần khẳng định: “Vì thế Hài Nhi sắp sinh ra sẽ được gọi là Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa”. Ở đây, sứ thần xác định rõ ràng hơn mặc khải của mình:“Con Thiên Chúa” không là một tước hiệu được dành cho Đấng Mê-si-a thuộc dòng dõi Đa-vít, nhưng là chân tính thần linh của Hài Nhi, Con của Đức Maria.

4. Sứ điệp về Đức Maria.

Đức Maria không xin dấu lạ. Chính sứ thần tự mình đề nghị ban cho Mẹ một dấu lạ: “Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi mà cũng đã thụ thai: một người vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng”, điều mà về phương diện con người không thể được. Vì thế, sứ thần chấm dứt bởi cùng những lời mà Thiên Chúa đã ngỏ lời với tổ phụ Áp-ra-ham, trước sự ngạc nhiên của ông, vì vợ ông, bà lão Sa-ra có thể sinh cho ông một cậu con trai: “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (St 18: 14).

Đây là một trong số những chủ đề xuyên suốt Tin Mừng và sách Công Vụ: “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”. Trong hoạt cảnh trước đó, dù bà Ê-li-sa-bét son sẽ, cũng không thể ngăn cản mục đích của Thiên Chúa. Cũng như vậy đối với bà Sa-ra (St 11: 30), bà Rê-bê-ca (St 25: 21), bà Ra-ken (St 29: 31) và mẹ của ông Sam-son (Tl 13: 2). Với Đức Maria, Mẹ của Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, chúng ta gặp thấy điều gì đó thậm chí còn kỳ diệu hơn nữa. Chính Thánh Thần Thiên Chúa thực hiện một công trình sáng tạo mới nơi cung lòng của Đức Nữ Trinh.

“Phủ bóng trên bà” nhắc lại Lều Hội Ngộ, nơi vinh quang Thiên Chúa cư ngụ ở giữa dân Ngài. Đức Maria được vây phủ bởi vinh quang rạng ngời của Ngài, và Thần khí của tình yêu Thiên Chúa thổi hơi sự sống vào trong cung lòng Mẹ. Sự sống nầy là hoa trái của tình yêu Thiên Chúa đối với Đức Maria và lời đáp trả tròn đầy của Mẹ. Chính từ mối hiệp thông thánh thiện nầy mà hài nhi được thụ thai trong cung lòng Mẹ.

Không có gì có thể ngăn cản #kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa. Tuy nhiên, tình yêu tự nó không thể nào bị ép buộc được. Thiên Chúa trao ban cho Mẹ tình yêu đặc biệt của Ngài. Tất cả những gì Thiên Chúa đòi hỏi ở nơi Mẹ, chính là tin vào tình yêu của Ngài. Đức Ma-ria tự nhận mình là “nữ tì của Thiên Chúa”. Mẹ mở rộng tấm lòng mình để đón nhận tình yêu nầy với lời“Xin Vâng” tròn đầy: "Vâng, tôi đây là nữ tì của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần truyền". Chính vì thế, qua Mẹ Thiên Chúa có thể thực hiện dự định yêu thương của Ngài cho nhân loại.

Nơi Thiên Chúa chọn để Con của Ngài đến với nhân loại là con người của Đức Maria, thanh sạch và rạng ngời vinh hiển của Chúa Thánh Thần, Đấng phủ bóng trên Mẹ. Vì thế, cung lòng của Đức Nữ Trinh là Lều Hội Ngộ, là Đền Thờ đẹp nhất, là nơi cực thánh của Thiên Chúa làm người và ở cùng chúng ta.

 

  1. Lễ Đức Mẹ Mân Côi – Lm. Fx. Hồ Văn Uyển

Cv 1,12-14; Gl 4,4-7; Lc 1,26-38

“Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa,

xin Người thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói”.

Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,

Ngày xưa, ông bà chúng ta thường nói rằng: “Lấy vợ xem tông; Lấy chồng xem giống.” Việc dựng vợ gã chồng đối với con người rất hệ trọng. Vì đó là yếu tố quyết định sự tồn vong của một dòng tộc. Cho nên các bậc cha mẹ xem xét rất kỹ trước khi quyết định cho con cái mình nên vợ nên chồng với người của dòng tộc kia. Ở đây thật là khập khiễn, nếu so sánh cách hành xử của con người như vừa nói với việc Thiên Chúa tuyển chọn cho Con mình một người Mẹ. Song một khía cạnh nào đó, chúng ta thấy việc “chọn mặt gửi vàng” của Thiên Chúa cũng như nơi con người chúng ta rất quan trọng. Vì thế, khi cho Con Một của mình nhập thể trong trần thế, Thiên Chúa đã tuyển chọn cho Người một người Mẹ thật xứng đáng. Và dĩ nhiên, người Mẹ ấy không phải là một pho tượng đã được nắn đúc, gọt dũa sẵn sàng như chúng ta ca tụng sau nầy, mà người mẹ ấy là một con người như bao nhiều người khác, trừ tội nguyên tổ. Song Mẹ đã vượt qua chính mình khi thưa hai tiếng “Xin Vâng”, để nhập cuộc vào trong công trình cứu độ của Con mình ngay từ giây phút đó. Kể từ ngày đó, Đức Maria đã sống hành trình đức tin của mình. Xin vâng rồi không phải để đó mà phải Sống, phải bỏ ý riêng của mình để sống cho sứ mạng mình xin vâng. Đây chính là bài học cho đời sống đạo của chúng ta hôm nay.

Kính thưa anh chị em, kể từ ngày Mẹ nói xin vâng, bao biến cố đã xảy đến trong cuộc đời Mẹ, những biến cố đi ngược lại ý muốn và sức chịu đựng của một con người bình thường. Mẹ đã đón nhận tất cả với tin yêu và phó thác.

Trước hết là với thánh Giuse, người thân, người bạn đời trăm năm của Mẹ. Khi biết Đức Maria mang thai trước khi hai người về chung sống, Giuse đau khổ lắm, chắc cũng nhiều đêm trằn trọc không ngủ. Dẫu không muốn tố giác Đức Maria, vì Giuse vẫn yêu Mẹ và ngài lại là người công chính, song Giuse đã định tâm chia tay với Đức Maria cách kín đáo và nhẹ nhàn. Đức Maria cũng đau khổ lắm khi nhìn thái độ của Giuse, nhưng Mẹ không thể giải thích được. Mẹ đành phó thác cho Chúa.

Đến việc sinh con, tâm lý chung của người nữ lần đầu làm mẹ là: hạnh phúc, vui mừng và lo sợ lẫn lộn. Hạnh phúc vì được làm mẹ; vui mừng vì gia đình có thêm một thành viên mới; lo lắng chuẩn bị chu đáo những thứ cần thiết nhất cho bản thân và đặc biệt cho người con sắp chào đời; sợ vì không biết người con sẽ ra đời hình hài thế nào đây… Còn đối với Đức Maria thật đau khổ, sinh con ra trong một cái hang súc vật bò lừa, không một mãnh áo che thân, không một cục than sưởi ấm giữa đêm đông băng giá. Có người mẹ, người cha nào mà không tủi cho thân phận mình trong hoàn cảnh đó! Mẹ đã đón nhận với tất cả.

Vẫn chưa yên, kẻ sát nhân và khát máu, vua Hêrôđê, đang tìm hại con trẻ Giêsu. Mới có mấy ngày, không than không lửa, mẹ yếu con non, vậy mà phải vất vả vượt dặm đường xa trong sa mạc, lưu lạc ở đất khách quê người để bảo vệ sự an toàn cho con. Đó, Mẹ đang ôm trong tay mình Con Thiên Chúa. Mẹ nghĩ sao khi phải lao đao như vậy? Đau khổ lắm. Mẹ vẫn chịu.

Con đến tuổi hoa niên, tuổi 12, tuổi năng động, tuổi đuổi bướm bắt chim, gia đình được trở về nguyên quán. Mọi người mừng mừng tủi tủi gặp lại nhau, tay bắt mặt mừng sau những năm tháng nghìn trùng xa cách. Rồi ai cũng phải lo bổn phận của mình trong cuộc sống đời thường, đặc biệt trong bổn phận tôn giáo. Chắc mẹ vui mừng và hãnh diện lắm vì lần đầu tiên con trai của mình đi làm bổn phận: hành hương về thành thánh theo luật Mô-sê. Nhưng điều trớ triêu đã xảy ra: mẹ con lạc mất nhau. Hỏi còn gì đau khổ hơn đối với người mẹ cho bằng việc lạc mất con. Sau ba ngày mới tìm gặp lại con. Ba ngày sống trong tâm trạng đau khổ và lo lắng chắc chúng ta cũng đã hiểu nỗi lòng của Mẹ. Mẹ vẫn tin vào Thiên Chúa.

Rồi những ngày Con bước vào đời, lên đường thi hành sứ mạng của mình: loan báo Tin Vui Cứu Độ cho mọi người. Kinh Thánh không cho chúng ta biết rõ Mẹ có theo Chúa Giêsu khi Ngài đi rao giảng hay không, nhưng có điều chắc chắn: Mẹ luôn theo dõi từng nhịp bước Con đi, luôn lắng nghe những điều Con nói và biết những việc Con mình làm. Mẹ biết sứ mạng của Con mình. Phần dân chúng kẻ thì khen, người thì chê, phần thì theo, nhóm thì chống, đặc biệt, lòng Mẹ rối bời và đau khổ vô ngần khi người ta bảo với Mẹ: Con Mẹ bị điên, phải đi tìm đưa về. Mẹ phải nói sao để cho người ta hiểu được sứ vụ mà Con Mẹ đang thi hành đây. Mẹ cũng dâng cho Thiên Chúa.

Và chuyện gì đến đã đến, trong hành trình rao giảng của Chúa Giêsu, chắc Mẹ cũng biết và hiểu rất rõ những thế lực đã chống đối Con mình rất mãnh liệt. Mẹ vẫn biết có những kẻ muốn thủ tiêu Con mình vì Con mình dám nói sự thật. Đó là sứ mạng của Ngài mà, Mẹ nói làm sao được. Và khi sự chống đối đã lên đến cực độ, người ta đã tìm cách và bắt Con Mẹ. Mẹ đã chứng kiến thân hình tiều tuỵ của con: bị đánh đập rách nát bầm tím tả tơi. Còn đâu thân hình cân đối vạm vỡ của con ngày trước nữa! Rồi Mẹ lại lê từng bước chân tiều tuỵ của mình để theo con lên đỉnh Núi Sọ. Ở đây Mẹ lại phải chứng kiến cảnh Con bị đóng đinh một cách tàn nhẫn vào cây thập giá rồi treo cao lơ lửng giữa trời và đất. Con Mẹ có làm gì nên tội đâu mà phải chết một cách tủi nhục như tên tử tội! Rồi Mẹ chứng kiến những giây phút trút hơi thở của con mình. Mẹ Maria cũng giống như bao người mẹ trần gian nào, nhưng thử hỏi có người mẹ trần gian nào đã phải chịu đựng nỗi đau như Ngài không? Mẹ của Con Thiên Chúa đó.

Và đó chính là nguyên nhân của những nét đẹp nơi Mẹ, mà ngày nay chúng ta ca tụng. Nhờ chấp nhận thánh ý Thiên Chúa và sống trọn vẹn hai tiếng “Xin vâng” mà Đức Mẹ được Thiên Chúa chúc phúc.

Mừng lễ Mẹ Mân côi là dịp nhắc chúng ta nhớ lại lời thưa xin vâng của Mẹ để giúp chúng ta vừa ca tụng Mẹ, vừa học nơi Mẹ hành trình đức tin cho đời sống đạo của chúng ta. Thiên Chúa cũng chọn mỗi chúng ta và trao cho chúng ta sứ vụ loan báo Tin mừng trong bối cảnh xã hội nầy. Ước gì mỗi chúng ta cũng thưa xin vâng như Mẹ và sống trọn vẹn như Mẹ để ThiênChúa cũng chúc lành và thưởng cho chúng ta được hưởng hạnh phúc Nước trời. Amen.

 

  1. Lễ Đức Mẹ Mân Côi

(Suy niệm của Lm Giuse Phan Văn Quyền)

Vào thời cổ đại, giải thưởng cho các cuộc thi đấu thể thao, không phải là huy chương vàng, bạc, đồng như hiện nay, mà là một vòng nguyệt quế, hay một vòng hoa tươi, được choàng vào cổ người chiến thắng.

Trong lịch sử Hội Thánh, tràng chuỗi Mân côi, vừa là khí cụ để chiến đấu, vừa là vòng hoa dành cho người chiến thắng.

Lịch sử cho thấy nhiều người đã dựa vào chuỗi Mân côi như một nguồn sức mạnh cậy trông.

+ Năm 1571, vua Thổ nhỉ kỳ theo Hồi giáo là Salim II (1566-1574) xướng xuất một cuộc thánh chiến với tham vọng bình địa giáo đô Rôma. Trước tình hình ấy, Đức Thánh Cha Pi-ô V đã khẩn thiết kêu gọi người tín hữu hãy cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi, với hy vọng Chúa sẽ cứu, nhờ sự cầu bầu của Đức Mẹ. Đồng thời Ngài cũng lập một đội chiến thuyền, mà mỗi chiến sĩ được trang bị thêm một vũ khí tinh thần là tràng chuỗi Mân côi. Chính nhờ sức mạnh của niềm tin, với sự hỗ trợ nâng đỡ chở che của Đức Mẹ, Chúa đã cho đoàn quân công giáo chi?n thắng thủy binh thiện chiến của người Thổ nhỉ kỳ tại vịnh Lepante, vào ngày 7.10.1571, xóa tan cuồng vọng của những kẻ hiếu chiến.

Khi được tin chiến thắng vua Salim II, ĐTC Piô V tuyên bố: Không phải vũ lực, không phải võ khí, không phải vua tướng giúp chúng ta thắng trận, mà chính Đức Mẹ và tràng chuỗi Mân côi đã giúp chúng ta chiến thắng vẻ vang.

Chiến thắng này là cơ sở để Đức Thánh Cha thiết lập lễ Đức Mẹ Mân côi, đề cao chuỗi Mân côi như một nguồn hy vọng: Thiên Chúa và Mẹ Maria luôn bên cạnh chúng ta.

+ Năm 1629, trước cơn dịch tả nguy hiểm lan rộng trên nước Ý, tu sĩ Timoteo Ricci đã lập ra Chuỗi Mân côi liên tiếp. Thầy tính rằng mỗi năm có 8.760 giờ. Căn cứ vào đó, thầy làm ra 8.760 tấm vé; mỗi vé ghi tháng, ngày, giờ; rồi cho rút thăm. Ai được vé nào thì cam kết đọc chuỗi Mân côi vào tháng, ngày, giờ đó. Mục đích có ý xin ơn chết lành cho người hấp hối, xin ơn trở lại cho người tội lỗi, xin ơn bình an cho các dân tộc.

Từ sáng kiến đó, phong trào Chuỗi Mân côi liên tiếp được thành lập và lan rộng. Năm 1657, Đức Thánh Cha Alexandre VII chấp nhận phong trào đạo đức này và ban cho nhiều ân xá.

Nói chung, khi gặp những khó khăn nguy hiểm, cả trong đạo lẫn ngoài đời, người ta đã chạy lại với Đức Mẹ. Họ khẩn cầu Mẹ bằng chuỗi Mân côi, và chuỗi Mân côi đã đem lại cho các tâm hồn những hy vọng lành thánh.

Hiện nay cuộc sống đang đặt ra nhiều vấn đề nan giải, đang đối diện với những thách đố mới, tại sao một lần nữa chúng ta không chạy đến Kinh Mân côi, với cùng một đức tin như những người đã đi trước?

Thánh Pi-ô năm dấu viết: Vũ khí của tôi là tràng chuỗi Mân côi. Đức Mẹ không từ chối tôi điều gì, khi tôi xin Mẹ qua chuỗi Mân côi. Muốn làm vui lòng Đức Mẹ, muốn được Đức Mẹ thương yêu, hãy lần chuỗi Mân côi.

Kính thưa quý ông bà và anh chị em! Điều kiện để được hưởng trọn vẹn tình thương của Đức Mẹ là: ăn năn đền tội và cải thiện đời sống, tôn sùng yêu mến trái tim Mẹ, siêng năng lần chuỗi Mân côi.

Trong tháng Mân Côi này mỗi người chúng ta đáp lại lời mời gọi của Mẹ siêng năng lần hạt Mân Côi. Vì tràng chuỗi mân côi là như sợi dây tơ hồng, mối dây tình ái, kết chặt chúng ta gắn bó keo sơn với Đức Mẹ, giúp chúng ta noi gương Đức Mẹ mà sống đẹp lòng Chúa và phục vụ tha nhân, giúp chúng ta yêu mến Chúa và mọi người bằng trái tim của Đức Mẹ.

Đức Mẹ nói với Bernadette tại Lộ Đức: " Mẹ không hứa cho con hạnh phúc đời này, nhưng hạnh phúc đời sau ". Tuy nhiên những ai lần chuỗi Mân côi, cũng sẽ được Đức Mẹ thương ban ơn, cách này hay cách khác. Ơn phúc đủ loại, nhất là ơn sám hối, ơn trở về với Chúa, ơn đổi mới cuộc đời, ơn đi sâu vào Tin mừng, ơn biết đón nhận thánh ý Chúa để trở thành cộng tác viên đắc lực của Đức Mẹ.

Qua tràng chuỗi Mân Côi Mẹ luôn hiện diện với chúng ta như xưa Mẹ đã từng hiện diện:

Sự hiện diện của Đức Mẹ nơi gia đình Gia-ca-ri-a đã khiến bà I-sa-ve tràn trào ơn Chúa Thánh thần, đem lại niềm hoan lạc vô bờ cho thai nhi Gioan tẩy giả.

Sự hiện diện của Đức Mẹ tại tiệc cưới Ca-na đã làm đôi tân hôn và mọi người dự tiệc được trọn vẹn niềm vui, và khiến Chúa Giêsu ra tay làm phép lạ đầu tiên.

Sự hiện diện của Đức mẹ dưới chân thập giá đã làm ấm lòng chúa Giêsu để an tâm về với Chúa Cha, sau khi trối phó thánh Gioan là Giáo hội cho Đức Mẹ.

Sự hiện diện của đức Mẹ tại nhà Tiệc ly, đã giúp các Tông đồ lấy lại tinh thần, sinh khí và sốt sắng cầu nguyện để lãnh nhận Chúa Thánh Thần.

Hôm nay Đức Mẹ tiếp tục hiện diện giữa chúng ta và trong mỗi người chúng ta.

Những lúc rệu rã một mõi vì cuộc sống lam lũ bon chen trần thế, những khi tối tăm thử thách bao phủ ánh tương lai, những lúc nặng trĩu u buồn quá khứ, những lúc mất mát hụt hẫng không biết cậy dựa vào ai …

Hãy chạy đến với Đức mẹ, hãy cầm lấy tràng chuỗi mân Côi và cầu nguyện, hãy thầm thỉ thì thầm lời kinh Kính mừng Maria....

Với tấm lòng từ bi nhân hậu của một hiền mẫu, chắc chắn Đức Mẹ sẽ là nguồn an ủi, nâng đỡ, khích lệ và niềm vui sống cho chúng ta.

Lạy Mẹ, khi con yếu đuối lỡ lầm va vấp, xin Mẹ thương giơ tay nâng đỡ dìu dắt; khi con cô đơn lạc lỏng, xin mẹ đồng hành bên con và che chở giữ gìn; khi con khổ đau bất hạnh, xin mẹ thương ra tay cứu giúp; vì Mẹ là niềm an ủi và hạnh phúc của con.

Lạy Đức Mẹ Maria, con xin nhắc lại lời mà triệu triệu trái tim hằng ấp ủ, lời mà triệu triệu đôi môi hằng tung hô hằng ngày trên khắp thế giới: Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là ke #có tội, khi này và trong giờ lâm tử. Amen.

 

  1. Lễ Mân Côi tại TàPao – 13/10/2012

(Lm GB. Hoàng Văn Khanh - Tổng đại diện GP Phan Thiết. Thứ bảy 13/10/2012)

LỄ MÂN CÔI TẠI TRUNG TÂM THÁNH MẪU TÀPAO - Dịp Khai mạc Năm Đức Tin 2012-2013

Dẫn nhập: Thế kỷ 13, lạc giáo Albigeois với thuyết định mệnh lan tràn khắp Tây phương, gây suy đồi trầm trọng về luân lý và tôn giáo. Để chống phá lạc thuyết, Đức Mẹ đã truyền cho thánh Đaminh cổ vũ toàn thể Giáo hội cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi. Thế kỷ 16, quân đội Hồi giáo xâm lăng thành đô Vatican của Giáo hội Công giáo. Đức Giáo Hoàng kêu gọi mọi tín hữu lần chuỗi Mân Côi xin Đức Mẹ cứu giúp. Tại vịnh Lépante, Hồi giáo thất trận vào ngày 7.10.1571. Để bày tỏ lòng biết ơn Đức Maria, Hội thánh thiết lập lễ Mân Côi hằng năm trên toàn thể Giáo hội. Những lần hiện ra ở Lộ Đức với Bernadetta, nhất là với ba trẻ tại Fatima, Đức Maria đều kêu gọi lần chuỗi Mân côi cầu nguyện cho hòa bình thế giới. Chuỗi Mân côi trở thành phương thế cầu nguyện đơn sơ nhưng thật tuyệt hảo mà Giáo hội, qua các triều đại Giáo hoàng, đều nhiệt tình cổ vũ như phương thế kết hợp với CG và nối kết với Mẹ Maria trong đời Kitô hữu. Chuỗi Mân côi quả là kinh nguyện nuôi dưỡng lòng tin Kitô hữu qua mọi thời.

Hôm nay, tại trung tâm thánh mẫu Tàpao, chúng ta long trọng mừng lễ Mẹ Mân côi trong ngày khai mạc Năm Đức Tin. Chúng ta dâng năm đức tin cho Đức Mẹ, xin Mẹ giúp chúng ta hưởng ứng lời kêu gọi của Đức Thánh Cha để trong năm đức tin này, nhờ Mẹ chuyển cầu, chúng ta biết duyệt lại đức tin của mình, đào sâu đức tin, tuyên xưng đức tin cách trọn vẹn cùng với toàn thể Hội thánh và ra sức làm chứng cho đức tin bằng việc loan báo Tin mừng mà Đức Giêsu và Giáo hội gửi gắm cho chúng ta.

Chia sẻ Tin mừng Lc 1, 26-38

Trang Tin mừng thuật lại việc sứ thần Gabriel truyền tin cho Đức Maria việc Thiên Chúa đề nghị Đức Maria cưu mang và sinh hạ Đấng Thiên sai cứu thế mà các ngôn sứ, cụ thể Sophonia đã từng loan báo. Với tất cả niềm tin và phó thác, khiêm nhường và vâng phục, Đức Maria đã thưa lời Xin Vâng. Từ phút giây lịch sử đó, Ngôi Lời Thiên Chúa đã nhập thể trong cung lòng Mẹ và làm người để thực hiện chương trình cứu độ nhân loại. Trang Tin mừng giới thiệu cho chúng ta những dáng đứng tuyệt hảo của Đức Maria như mẫu gương đức tin của Kitô hữu: Maria cầu nguyện – Maria lắng nghe và đáp lại Lời Chúa – Maria làm mẹ sinh Chúa Giêsu cho nhân loại – Maria toàn hiến trọn vẹn cho Thiên Chúa. Trong lễ khai mạc Năm Đức Tin tại Trung tâm Thánh Mẫu Tà pao hôm nay, xin phép chia sẻ với quý khách hành hương đôi tâm tình nhỏ bé về Đức Maria, thầy dạy và mẫu gương của đức tin Kitô hữu.

1. Liên kết mật thiết với Chúa Giêsu.

Kitô giáo không phải một học thuyết hay một triết lý tôn giáo, nhưng là Đạo mạc khải, tức đạo bởi trời, do chính Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, nhập thể làm người truyền rao cho Giáo hội do Người thiết lập. Đức tin Kitô giáo không phải tri thức suông, nhưng là ân huệ Chúa ban, đồng thời là hành vi đáp trả của con người đón nhận mọi chân lý Người mạc khải. Vì thế, niềm tin Kitô giáo không dừng lại ở những hình thức bên ngoài như kinh lễ, thuộc giáo lý, tuân giữ những luật căn bản…, nhưng hệ tại việc liên kết gắn bó với Đức Giêsu Kitô và dấn bước theo Người. Cốt lõi đức tin là sự gặp gỡ Đức Kitô, nhờ đó điều chỉnh và định hướng cuộc sống cho phù hợp với ý Chúa, từ đó có thể thi hành cách hữu hiệu sứ mệnh loan báo Tin mừng mà Đức Kitô trao phó.

Hơn ai hết, Đức Maria luôn gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu từ khi cưu mang Người trong cung lòng do quyền phép Chúa Thánh Thần, sinh hạ, bảo bọc, dưỡng nuôi, giáo dục trong suốt quảng đời thơ ấu và ẩn dật của Chúa Giêsu nơi làng quê Nadarét. Sau đó, Mẹ hằng theo sát con trên hành trình rao giảng, nhất là trên con đường thập giá và cuối cùng đứng kề bên thập giá hiệp thông sự khổ nạn của con và đón nhận lời trăn trối của Đức Giêsu làm mẹ của toàn nhân loại, của Giáo hội và của riêng mỗi người chúng ta. Mẹ liên kết với Đức Kitô phục sinh bằng sự cầu nguyện và giúp các tông đồ đón nhận Chúa Thánh Thần hiện xuống. Liên kết bằng niềm tin trọn vẹn, lòng yêu mến thiết tha và sự hiệp thông tròn đầy. Đức Giêsu đã từng dạy các môn đệ hãy ở lại trong tình yêu của Thầy… Thầy là cây nho, chúng con là nhành. Nhành nào kết hiệp cùng cây sẽ sinh hoa trái. Mẹ là thầy dạy và là mẫu gương cho sự liên kết gắn bó ấy.

Chuỗi Mân côi giúp tín hữu thực hiện sự liên kết mật thiết với Chúa Giêsu theo gương của Mẹ. Thật vậy, những chân lý mầu nhiệm cuộc đời của Chúa Giêsu được ghi lại trong các sách Tin mừng mà chuỗi Mân côi là bản tóm gọn. Năm Sự Vui diễn lại mầu nhiệm Nhập thể. Năm Sự Sáng nói lên cuộc đời công khai rao giảng. Năm Sự Thương đưa ta vào cuộc thương khó tử nạn và Năm Sự Mừng suy niệm về sự phục sinh vinh hiển của Đức Kitô. Mỗi khi lần chuỗi, ta được mời gọi suy niệm các mầu nhiệm cuộc đời Chúa Giêsu, đưa ta vào hiệp thông với Người, ở lại trong tình yêu của Người, được nên một với Người để đón nhận hồng ân cứu độ Người trao ban qua sự chuyển cầu của Đức Maria.

2. Trổ sinh hoa trái thần khí

Sứ điệp đầu tiên của Đức Giêsu được các Tin mừng ghi lại: Hãy hoán cải. Trong suốt hành trình rao giảng, Chúa Giêsu luôn nhắc lại lời mời gọi này. Hoán cải là quá trình thay đổi tận căn từ tư tưởng, ước muốn, đến hành động và bản thân để canh tân đời sống dưới tác động của Chúa Thánh Thần, như thánh Phaolô đã từng dặn dò trong thư Rôma: Những ai sống theo xác thịt thì hướng về những gì là xác thịt…còn những ai sống theo Thần Khí thì hướng về những gì thuộc Thần Khí. Mà những sự do xác thịt gây ra là sự chết…, còn những gì thuộc Thần Khí sẽ sinh hoa trái Thần Khí. Đời sống Kitô hữu phải luôn hoán cải, canh tân, tăng triển dưới tác động của Chúa Thánh Thần để trổ sinh hoa trái Thần khí là các nhân đức. Những nhân đức chính yếu là Tin Cậy Mến cùng với sự vâng lời, khiêm nhường, công bằng và tiết độ. Đức Maria là mẫu mực các nhân đức ấy. Nơi Mẹ toát ra cách tuyệt hảo lòng tin cậy mến, sự khiêm nhường, khó nghèo, vâng phục, trinh khiết. Mẹ hằng gắn kết mật thiết với Chúa bằng tin yêu phó thác và luôn bước đi trong đường lối của Người, do đó Mẹ có một tương quan tốt đẹp hoàn hảo đối với mọi người từ lời nói, cách cư xử, hành động…Mẹ thật đáng yêu và Mẹ yêu thương hết tình và hết mình. Kinh Mân côi không những là sách Tin mừng tóm gọn, mà còn giới thiệu cho ta các nhân đức của người làm con Chúa, mà Đức Maria là mẫu mực. Kinh Mân côi vì thế còn được gọi là bản tóm lược nền luân lý Kitô giáo. Lần chuỗi Mân côi, ta vừa nối kết với cuộc đời của Đức Giêsu, ta vừa chiêm ngưỡng Đức Maria, vừa học tập với Mẹ các nhân đức, nhờ đó thêm lòng yêu Chúa, yêu Mẹ và tạo mối tương quan thân tình hiệp thông với mọi người.

3. Cầu nguyện với Mẹ và như Mẹ.

Đức tin mời gọi cầu nguyện: lex orandi lex credendi. Cầu nguyện là phương thế kết hiệp với Chúa và tìm biết thánh ý Người. Tin mừng thuật lại Chúa Giêsu luôn cầu nguyện với Chúa Cha, từ sáng sớm tinh mơ đến lúc chiều tà… Người dạy các môn đệ siêng năng và bền tâm cầu nguyện. Đức Mẹ hằng chuyên chăm cầu nguyện từ khi còn bé thơ, cho đến khi trưởng thành, khi thiên thần truyền tin, khi thăm viếng chị họ Elisabét, khi các mục đồng và ba đạo sĩ đến kính thờ Hài nhi…khi đem Con trốn sang Aicập…khi sống dưới mái nhà Nadarét …khi theo dõi con trên đường rao giảng…khi theo sát vết chân con vác thập giá, khi đứng bên con giờ khổ nạn…cũng như khi Đức Kitô đã phục sinh lên trời… Mẹ cầu nguyện trong từng giây phút cuộc đời, vui buồn, hoan lạc hay gian khổ… Chính nhờ cầu nguyện mà Mẹ đáp lời Xin vâng…, nhờ cầu nguyện mà Mẹ luôn dâng hiến cuộc đời cho Chúa và hiệp thông với con trong công trình cứu độ…. Mẹ đã từng dạy trẻ Giêsu cầu nguyện, Mẹ cũng đã dạy và cùng với các Tông đồ cầu nguyện để đón nhận Thánh Thần. Mẹ làm gương và dạy ta cầu nguyện bằng kinh Mân côi để liên kết với Chúa Giêsu, tín thác vào quyền năng và tình thương của Chúa. Kinh Mân côi là cách cầu nguyện bình dân, phổ thông, ai cũng làm được …từ người trí thức địa vị đến người ít học bình dân…từ trẻ em đến người lớn, già cả, người bệnh cũng như khỏe mạnh… lại mang đến nhiều hiệu quả tốt lành cho đời sống đức tin nhờ sự chuyển cầu của Đức Mẹ. Chính vì thế mà Giáo hội, qua các triều đại Giáo hoàng, kêu gọi tín hữu hãy siêng năng cầu nguyện bằng lần chuỗi Mân côi, như phương thế nên thánh, và như khí giới giúp chiến thắng ba thù.

Kết luận: “Hãy siêng năng lần chuỗi mân Côi”. Lời Mẹ vẫn luôn vang vọng như mời gọi tha thiết. Chuỗi Mân côi là phương thế thánh hóa bản thân, vũ khí chống lại các cám dỗ của ma quỷ và quyến rủ bất chính của thế gian, và là lời kinh ngọt ngào đưa ta vào vòng tay che chở của từ mẫu Maria. Cha ông ta từ bao đời trước đây đã hết lòng sống niềm tin vững vàng đến dám hiến mạng sống bảo vệ đức tin nhờ vào tràng chuỗi Mân côi. Xin cho tất cả chúng ta biết thực hành sứ điệp Mẹ truyền: Hoán cải đời sống, yêu mến Mẫu tâm và siêng năng lần chuỗi Mân côi.

Bài cùng chuyên mục:

Bài viết mới
Câu chuyện chiều thứ 7