Suy niệm tin mừng chúa nhật

CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT 1 MÙA CHAY NĂM C

  • In trang này
  • Lượt xem: 2,878
  • Ngày đăng: 28/02/2022 11:09:19

 

CHÚA NHẬT 1 MÙA CHAY C

Lời Chúa: Dnl 26,4-10; Rm 10,8-13; Lc 4,1-13

MỤC LỤC

1.Không chỉ nhờ cơm bánh.

(Trích trong ‘Manna’)

Suy Niệm

Làm người ở đời là chấp nhận thân phận cám dỗ.

Con người vừa mang trong mình khát vọng vươn tới Tuyệt Đối, vừa thấy mình luôn bị một mãnh lực kéo trì, nên đời người lúc nào cũng phải chiến đấu giằng co, chỉ một chút lơi lỏng yếu mềm là sa ngã.

Con người cao cả khi thắng được cám dỗ trong ngoài.

Lúc buông theo cái tôi dễ dãi tầm thường, tôi chẳng là tôi. Chỉ khi tôi vượt qua tôi, tôi mới thật là mình.

Tôi chỉ là tôi khi tôi vươn tới Chân, Thiện, Mỹ.

Trong mùa Chay, ta hãy để Thánh Thần dẫn vào hoang địa. Hãy cùng với Đức Giêsu sống trong cô tịch, cầu nguyện và ăn chay, để có khả năng nhận ra các cơn cám dỗ quen thuộc.

Biết mình bị cám dỗ thật là một ơn, vì ma quỷ chẳng phải là một con vật có đuôi lộ liễu.

Những cám dỗ của Đức Giêsu cũng là của tôi hôm nay.

Cám dỗ đầu tiên đánh thẳng vào điểm yếu của Ngài.

Sau một thời gian dài nhịn ăn, Ngài thấy đói. Cái đói làm tê liệt, và đụng đến bản năng sinh tồn. Điều duy nhất cần đối với người đói là tấm bánh. Đức Giêsu đã thắng được cơn cám dỗ này. Ngài không phủ nhận sự cần thiết của vật chất, nhưng con người không chỉ sống nhờ cơm bánh.

Lợi nhuận trong kinh tế là điều quan trọng, nhưng không được quên các giá trị văn hoá, luân lý, tôn giáo... Lắm khi cái đói vật chất vẫn chi phối chúng ta. Người ta dễ hiểu sai câu: "Có thực mới vực được đạo."

Chúng ta vẫn bị cồn cào bởi những thèm thuồng: chính đáng và không chính đáng, cá nhân và tập thể, nhưng đừng để mình thoả mãn cơn đói bằng mọi giá.

Cám dỗ thứ hai là một cám dỗ thô bạo và hấp dẫn: bái lạy ma quỷ để được quyền lực và vinh quang.

Có nhiều người nhẹ dạ đã tin vào lời hứa hão này. Bao đế quốc, bao nhà độc tài đã trôi đi trong dòng lịch sử.

Đức Giêsu chẳng muốn nhận quyền từ ai khác ngoài Cha. Chỉ Cha mới là Đấng duy nhất để Ngài thờ phụng.

Cơn cám dỗ thứ ba có vẻ đạo đức, kỳ thực lại là dấu hiệu của sự thiếu lòng tin.

Tôi đưa mình vào tình huống hiểm nghèo, để bắt Chúa hành động.

Nhảy xuống từ nóc Đền Thờ mà không chết, quả là ngoạn mục! Chúng ta vẫn thích Chúa làm chuyện ngoạn mục cho đời ta. Chúng ta không thích sống trong lòng tin êm ả, như đứa con biết rõ Cha thương mình, không đòi kiểm chứng.

Tiền bạc, của cải, sắc đẹp, khoái lạc, bằng cấp, tự do, quyền lực, uy tín, danh dự, chủng tộc, khoa học, kỹ thuật: tất cả những giá trị trên đều đáng quý. Nhưng nếu tôi tôn chúng lên hàng Tuyệt Đối viết hoa, và thờ chúng như một ngẫu tượng, thì tôi và thế giới sẽ như kim tự tháp lật ngược.

Ước gì Chúa giúp tôi tự cởi trói mình mỗi ngày, để tôi càng lúc càng tự do đến gần Đấng Tuyệt Đối.

Gợi Ý Chia Sẻ

Bạn có tin ma quỷ không? Ma quỷ là ai? Bạn có thấy sức cám dỗ của ma quỷ không?

Ma quỷ thường tấn công vào chỗ yếu của ta. Bạn có biết rõ những chỗ yếu của bạn không?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, bị cám dỗ là thân phận của con người, nhưng thắng được cám dỗ là nhờ ơn của Chúa.

Cuộc sống hôm nay cho chúng con bao cám dỗ ngọt ngào, làm khuấy động những thèm khát nơi chúng con.

Cám dỗ chiếm đoạt và sở hữu.

Cám dỗ thống trị bằng quyền uy hay tri thức.

Cám dỗ sống buông thả theo bản năng tự nhiên.

Cám dỗ nào cũng hứa cho chúng con ít nhiều hoan lạc, nhưng thật ra lại làm chúng con nghèo nàn vì tự giam mình trong cái tôi ích kỷ.

Xin cho chúng con thắng được các cơn cám dỗ nhờ tỉnh thức và cầu nguyện, nhờ chay tịnh và làm chủ bản thân.

Xin cho chúng con dám lội ngược dòng với thế gian, để đi vào con đường hẹp của Chúa, con đường nghèo khó khiêm nhu, con đường hy sinh phục vụ.

Ước gì chúng con được lớn lên trong tình yêu Chúa, sau những lần chiến đấu vất vả cam go. Và ngay cả khi yếu đuối ngã sa, xin cho chúng con can đảm đứng lên, vững tin vào lòng Chúa tín trung tha thứ. Amen.

 

2.Chỉ thờ phượng một mình Người

(Trích trong ‘Manna’)

Suy Niệm

Bị cám dỗ là điều chẳng mấy hay ho. Chúng ta ít khi muốn kể ra những cơn cám dỗ của mình. Dường như chỉ người yếu đuối mới dễ bị cám dỗ. Ấy thế mà Con Thiên Chúa lại bị cám dỗ như ta. Ngài muốn đồng hành với chúng ta trong từng cơn cám dỗ, trên đường về quê trời. Ngài đã mang lấy trọn vẹn phận người mong manh, Ngài đã chiến đấu và chiến thắng.

Mùa Chay là thời gian thuận tiện để chúng ta nhận diện cơn cám dỗ riêng của bản thân.

Có khi chúng ta tưởng Satan là chuyện bịa đặt, tưởng thế giới không bao giờ là thế gian, hay tưởng thân xác mình chẳng còn bằng xương thịt.

Phải nhận ra cơn cám dỗ dưới trăm ngàn bộ mặt, tuỳ người, tuỳ tuổi tác, tuỳ hoàn cảnh riêng tư. Nhưng mọi cơn cám dỗ đều khép kín con người, khiến ta không còn mở ra trước Thiên Chúa và tha nhân.

Cần nhìn sâu vào những cơn cám dỗ của Đức Giêsu để thấy đó vẫn là những cám dỗ muôn thuở.

Biến đá thành bánh để làm dịu cơn đói, chuyện đó đâu có gì xấu. Nhưng Đức Giêsu đã không muốn dùng quyền năng Cha ban để tự lo cho bao tử của mình.

Ngài cũng không phục lạy ma quỷ để được làm chủ cả thế gian với bao quyến rũ. Ngài cũng chẳng cần nhảy từ nóc Đền Thờ xuống để kiểm chứng tình yêu của Cha. Ngài không muốn cứu nhân loại bằng cách nhảy xuống, giữa tiếng vỗ tay của bao người đứng dưới.

Ngài muốn cứu con người bằng cách bị treo lên thập tự, giữa những tiếng nhục mạ cười chê.

Đức Giêsu thật là Con Thiên Chúa vì Ngài đã trung tín với Cha đến cùng.

Cuộc sống văn minh cho chúng ta nhiều cám dỗ hơn, ngọt ngào hơn, hấp dẫn hơn, tinh vi hơn.

Cơn cám dỗ nào cũng đặt chúng ta trước sự chọn lựa, và chọn lựa nào cũng đòi từ bỏ, hy sinh. Bởi vậy cơn cám dỗ lại có thể làm tôi lớn lên và cứng cáp hơn sau mỗi lần chiến thắng.

Ước gì tôi không bị mắc bẫy Satan nhờ noi gương Đức Giêsu trong ăn chay, cầu nguyện.

Gợi Ý Chia Sẻ

Đối với bạn, loại cám dỗ nào đáng sợ hơn cả? Bạn đã làm gì để thắng được loại cám dỗ đó? Qua báo chí, truyền hình... bạn thấy con người ở cuối thế kỷ 20 bị cám dỗ về những điều gì?

Cầu Nguyện

Lạy Ngôi Lời Thiên Chúa rất đáng mến, xin dạy con biết sống quảng đại, biết phụng sự Chúa cho xứng với uy linh Ngài, biết cho đi mà không tính toán, biết chiến đấu không ngại thương tích, biết làm việc không tìm an nghỉ, biết hiến thân mà không mong chờ phần thưởng nào ngoài việc biết mình đã chu toàn Thánh Ý Chúa. Amen.

 

3.Học hỏi Phúc Âm CN 1 Mùa Chay: Lc 4,1-13

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu S.J.

1. Đọc các trình thuật về việc Đức Giêsu chịu cám dỗ trong Phúc âm Mátthêu và Luca (Mt 4,1-11; Lc 4,1-13). Cho biết vài điểm giống nhau và  khác nhau.

2. Thành phố Giêrusalem và Đền thờ Giêrusalem có đóng một vai trò quan trọng trong Phúc âm Luca không? Hãy đọc các đoạn sau: Lc 2,38.41; 4,9; 9,31.51.53; 13,233-35; 17,11; 18,31; 19,11.28.41; 24,33.47.52.

3. Đức Giêsu đầy Thánh Thần (Lc 4,1; 3,22). Đức Maria, ông Gioan Tẩy giả, cụ ngôn sứ Simêon, bà Êlisabét, và ông Dacaria có được đầy Thánh Thần không?  Xin trích dẫn.

4. Khi cám dỗ Đức Giêsu, quỷ đã nói hai lần: Nếu ông là Con Thiên Chúa (các câu 3 và 9). Đức Giêsu có biết mình là Con Thiên Chúa không?

5. Có 3 cơn cám dỗ đến với Đức Giêsu? Cơn cám dỗ thứ nhất chủ yếu là gì?

6. Cơn cám dỗ thứ hai chủ yếu là gì?

7. Cơn cám dỗ thứ ba chủ yếu là gì?

8.  Để thắng được những cơn cám dỗ của quỷ, Đức Giêsu đã dùng những vũ khí nào?

9. Đọc Lc 4,13. Sau khi quỷ bị thua và bỏ đi, nó vẫn “chờ đợi thời cơ” tấn công trong tương lai. Bạn hãy kể đôi lần Đức Giêsu bị cám dỗ sau này.

CÂU HỎI SUY NIỆM.

Bạn có gặp những cơn cám dỗ tương tự như những cơn cám dỗ của Đức Giêsu không? Theo kinh nghiệm của bạn, để thắng các cơn cám dỗ thì cần vũ khí nào hơn cả?

PHẦN TRẢ LỜI

1. Cả hai trình thuật (Mt 4,1-11; Lc 4,1-13) cho thấy nhiều điểm giống nhau: Đức Giêsu đã bị quỷ dữ cám dỗ trong hoang địa, sau khi Ngài chịu phép rửa của Gioan Tẩy giả, và trước khi Ngài đi rao giảng. Ngài bị cám dỗ sau khi đã ăn chay 40 ngày, chính vì thế cơn cám dỗ đầu tiên ở cả hai trình thuật đều là cơn cám dỗ biến đá thành bánh để ăn cho đỡ đói. Ít nhất có một điểm khác biệt về vị trí của hai cơn cám dỗ sau: cơn cám dỗ thứ hai trong Mátthêu là cơn cám dỗ thứ ba trong Luca.

2. Thành phố và Đền thờ Giêrusalem đóng một vai trò quan trọng trong Tin Mừng Luca. Tin Mừng này  khởi đầu bằng việc ông Dacaria dâng hương trong Đền thờ Giêrusalem (Lc 1,9-10), và kết thúc bằng việc các môn đệ ở lại luôn trong Đền thờ (Lc 24,52-53). Đặc biệt Luca còn kể một cuộc hành trình dài lên Giêrusalem của Đức Giêsu (Lc 9,51 - 19,27). Đây là nơi Ngài chịu chết, hiện ra sau Phục sinh (Lc 24,33), và là khởi điểm cho sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho muôn dân (Lc 24,47).

3. Trong Tin Mừng Luca, Thánh Thần ngự xuống trên Đức Giêsu lúc Ngài chịu phép rửa (Lc 3,22). Ngài đầy Thánh Thần (Lc 4,1). Đức Maria (Lc 1,35), ông Gioan Tẩy giả (Lc 1,15), cụ ngôn sứ Simêon (Lc 2,25), bà Êlisabét (Lc 1,41), và ông Dacaria (Lc 1,67) cũng được đầy Thánh Thần.

4. Đức Giêsu có biết mình là Con Thiên Chúa vì trước đó, khi chịu phép rửa ở sông Gio-đan (Lc 4,1), Ngài đã nghe tiếng của Chúa Cha từ trời phán với Ngài: “Con là Con yêu dấu của Cha; Cha hài lòng về Con” (Lc 3,22).

5. Cơn cám dỗ thứ nhất là cơn cám dỗ tấn công vào điểm yếu của Đức Giêsu trong thời điểm hiện tại: Ngài đang đói sau thời gian dài ăn chay (Lc 4,2b-4). Cơn cám dỗ nầy thoạt nhìn có vẻ không nguy hiểm như hai cơn cám dỗ sau: chỉ là biến một hòn đá trước mặt thành cái bánh để ăn cho khỏi đói. Đức Giêsu, vì thật là Con Thiên Chúa, có thể làm phép lạ này, nhưng Ngài đã không muốn dùng quyền năng Cha ban cho mình để lo cho nhu cầu bản thân, dù đây là nhu cầu chính đáng. Cơm bánh cho thân xác là cần, nhưng con người còn có những nhu cầu khác quan trọng hơn. Đức Giêsu là Con, nên để Cha lo cho mình.

6. Cơn cám dỗ thứ hai là một cơn cám dỗ thô bạo: quỷ dám mời Đức Giêsu “bái lạy” nó, để nó cho Ngài mọi quyền hành và vinh hoa trên trần gian này. Nó dám bảo tất cả những thứ đó là của nó, và nó có quyền cho ai tùy ý (Lc 4,6-7). Đức Giêsu đã thắng cơn cám dỗ này khi nhắc lại lệnh truyền quan trọng ở sách Xuất hành 20,5. Ngài từ chối bái lạy quỷ và khẳng định chỉ thờ phượng một mình Thiên Chúa.

7. Trong cơn cám dỗ thứ ba, quỷ thách Đức Giêsu nhảy xuống từ trên nóc Đền Thờ Giêrusalem (Lc 4,9). Nó bảo: nếu ông thật là Con Thiên Chúa thì Thiên Chúa sẽ bảo vệ ông, sợ gì mà không nhảy. Quỷ còn trích dẫn Kinh Thánh để lôi kéo Ngài (Thánh vịnh 91,1-2). Đức Giêsu đáp lại cơn cám dỗ này bằng cách trích dẫn một đoạn Kinh Thánh khác trong sách Đệ nhị luật 6,16. Ngài coi hành vi nhảy xuống là hành vi “thách thức” Thiên Chúa, ép buộc Thiên Chúa phải cứu. Đó không phải là thái độ của người Con thảo, vì ai đã tin thì không cần thử thách Thiên Chúa.

8. Để thắng được những cám dỗ của quỷ, Đức Giêsu đã dùng những vũ khí sau: cầu nguyện, chay tịnh, sự trợ giúp của Thánh Thần, nhất là việc sử dụng Kinh Thánh để bẻ gẫy những âm mưu của quỷ.  Khi quỷ bóp méo Thánh vịnh 91 để phục vụ cho mưu đồ của nó, thì Đức Giêsu đã dùng một đoạn Kinh Thánh khác để bẻ lại nó.

9. Sau này Đức Giêsu còn gặp những cơn cám dỗ khác. Có cơn cám dỗ đến từ Phêrô (Mt 16,21-23).  Có cơn cám dỗ sợ chết đến từ chính bản thân mình khi Ngài phải đón nhận làm theo ý Cha (Lc 22, 29-44). Có cơn cám dỗ đến khi bị treo trên thập giá: Hãy cứu lấy mình nếu ông là Đấng Kitô của Thiên Chúa (Lc 23,35-39). Đức Giêsu đã thắng mọi cơn cám dỗ khi Ngài chỉ muốn làm theo ý Cha.

 

4.Đức Giêsu chịu quỷ cám dỗ

(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)

Cám dỗ là phần của cuộc sống chúng ta. Đối với người không có đức tin, cám dỗ không là vấn đề, vì họ không biểt tội phước gì cả. Muốn thì làm, vì họ không có luật lệ nào ràng buộc, chỉ có luật xã hội mà thôi. Vì thế cám dỗ không là một vấn đề quan trọng.

Đối với chúng ta, những kẻ tin, cám dỗ là một vấn đề hệ trọng vì nó liên can đến hạnh phúc của chúng ta.

Ngay từ khởi nguyên, cám dỗ đã xuất hiện, bà Evà đã nghe theo, và kéo chúng ta vào hố sâu tội lỗi. Trong suốt quyển Kinh Thánh, cám dỗ vẫn thường xuyên xuất hiện trong cuộc sống của dân Chúa. Dân Do thái bị cám dỗ trong sa mạc, đã kêu trách Thiên Chúa. Ông Gióp đã phải đương đầu với những cơn cám dỗ và thử thách, nhưng may thay, ông đã vững lòng tin và đã trở nên công chính. Êlia, vị tiên tri cứng rắn can cường đã phải bị cám dỗ đến nản lòng. Ông đã phải la lên: “Lạy Chúa, xin Chúa cất con đi vì con không tốt hơn cha ông của con. Con đã chiến đấu cho Chúa, nhưng giờ đây người ta còn muốn cất mạng sống con…” Các tiên tri cũng bị những cơn cám dỗ làm nản lòng vì sự cứng lòng của dân. Vua Đavít đã bị cám dỗ vì sắc đẹp của bà Bát Seva, vợ của tướng quân Urigia, và đã sa ngã. Các vua It-ra-en đã bị cám dỗ bỏ Chúa theo thần Baan…

Cám dỗ là một điều hiển nhiên trong cuộc sống chúng ta. Chính chúng ta trở thành cám dỗ cho chính mình, vì chúng ta mang nặng một khối tình dục trong chúng ta mà thánh Phaolô gọi là “xác thịt”. Ngài nói rằng, trong chúng ta vẫn có cuộc giằng co giữa xác thịt và tinh thần. “Tôi lại mang tính xác thịt, bị bán làm tôi tội lỗi…Điều tôi muốn làm thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi lại cứ làm”. Nơi khác Ngài nói: “Nếu anh em sống theo xác thịt, anh em sẽ phải chết, nhưng nếu nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi anh em, thì anh em sẽ được sống”… “Thật, tôi là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết nầy?” Như thế cuộc sống của chúng ta mãi mãi là một cuộc chiến liên lỉ. Chúng ta luôn bị đặt trước sự chọn lựa hằng ngày giữa cái tốt và cái xấu.

Mùa chay là mùa chiến đấu để giải thoát mình khỏi vòng kiềm tỏa của tội lỗi.

Chúa Giêsu đã làm người như chúng ta, cũng kinh nghiệm những cơn cám dỗ. Tên cám dỗ đã đến với Ngài với dáng vẻ thân tình, thông cảm cơn đói của Ngài sau bao nhiêu ngày chay tịnh: “Nếu ông là Con Thiên Chúa…Ông hãy biến hòn đá nầy thành bánh cho ông ăn” Điều nầy có nghĩa gì? Tức là ông có quyền, có mọi thứ để sống như ý muốn. Tại sao lại phải khổ nhọc chịu đói như thế? Hãy sống cho thỏa thích vì ông có quyền trên mọi sự. Ông là Con Thiên Chúa.

Nếu chúng ta ở trong hoàn cảnh của Chúa Giêsu, chúng ta sẽ làm gì? Chúng ta có can đảm từ chối lời mời gọi thân tình đó không? Chúng ta dám chịu đựng đến cùng để thi hành những gì Chúa muốn không? Hay là chúng ta nghĩ rằng, ăn uống thì có gì là xấu đâu! Giờ nầy là hết giờ chay tịnh rồi thì cứ thoải mái!

Chúa Giêsu biết những gì Ngài phải làm và Ngài luôn trung thành đến cùng. Quyền uy trong tay Ngài, không phải để thỏa mãn nhu cầu vật chất của bản thân Ngài mà là để chu toàn sứ mệnh đã được trao phó. Ngài chỉ sống theo Lời Chúa: “Con người không chỉ sống bằng cơm bánh”. Còn cái gì cao trọng hơn cơm bánh hay lợi lộc trần gian. Ngài có một chọn lựa dứt khoát. Ngài biết rõ những gì Ngài phải làm. Chúng ta vẫn bị cám dỗ là không dứt khoát, chúng ta muốn chọn cả đời nầy và đời sau.

Ma quỉ bảo Ngài biến những hòn đá nên bánh ăn cho đỡ đói. Ngài từ chối. Ngài sẽ biến không phải hòn đá trở nên bánh mà Ngài sẽ làm hơn thế nữa, là biến bánh thành thịt máu Ngài cho thế gian được sống. Ngài chỉ làm cho người khác mà không bao giờ làm gì cho mình. Đó là điều khác biệt giữa chúng ta và Ngài.

Ma quỉ tự cho mình là chủ tể mọi loài và bảo Ngài quì lạy hắn để được làm vua trần thế. Thật là một trò hề quái dị! Ma quỉ đòi chiếm quyền tối thượng của Chúa, Ngài mới là chủ tể đích thực. Ngài chỉ trả lời bằng một lời đã ghi trong Kinh Thánh: “Ngươi hãy thờ lạy một mình Thiên Chúa”.

Cám dỗ nầy là một cái bẫy mà nhiều người đã sa vào mà không hay. Chúng ta dễ quì lạy ma quỉ, chúng ta thờ tiền mà không hay. Nhiều người đã chối bỏ Chúa để chạy theo địa vị, danh vọng, tiền của. Ma quỉ không hiện ra tỏ tường nhưng ngụy trang dưới hình thức tiền bạc, danh vọng. Chúng ta tôn thờ ma quỉ mà không hay khi chúng ta không còn coi việc thờ phượng là quan trọng, mà chỉ chú ý làm sao có lợi nhuận nhiều, đem hết tâm lực củng cố nghề nghiệp, địa vị xã hội của mình, coi thường cả luật Chúa. Ma quỉ rất tinh vi. Chúng ta không sáng suốt, không cương quyết sẽ bị sa vào bẫy của nó thôi.

Chúa Giêsu buông bỏ mọi sự chỉ chú tâm chu toàn thánh ý Cha mà thôi.

Sau cùng ma quỉ đưa Ngài lên tháp Đền thờ và bảo Ngài nhảy xuống để được mọi người khen ngợi hoan hô. Lại một trò hề lố bịch nữa! Chúa Giêsu đâu cần quảng cáo! Khi Ngài làm phép lạ, Ngài lại căn dặn không cho ai biết. Sứ mệnh của Ngài không phải là để được tôn vinh mà để cho mọi người được cứu rỗi và tình yêu của Chúa Cha được tràn tuôn cho mọi người. Chúng ta có đủ khiêm nhượng như Ngài không? Hình như chúng ta thích quảng cáo, thích những cảnh rầm rộ đèn nhạc tưng bừng.

Chúng ta đo thành công bằng những cuộc lễ long trọng, đông người, những lễ nghi hoành tráng. Chúng ta tung tiền ra để phô trương mà quên đi cái chính yếu. Có mấy người đã theo đạo khi thấy đèn đuốc ngập trời trong những ngày lễ long trọng? Thánh Phalô bảo: “Đừng theo thói thế gian”.

Những cám dỗ của Chúa Giêsu là những bài học hết sức thực tế. Ngài cho chúng ta thấy con đường phải đi, “cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa…Anh em hãy để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thực sự sống công chính và thánh thiện”.

Mùa Chay thánh là lúc Chúa mời gọi chúng ta tiến bước theo Ngài để đi về cuộc sống mới “bén rễ sâu và xây dựng đời mình trên nền tảng là Đức Kitô Giêsu”, Đấng đã đến và đang chờ đợi chúng ta dấn thân bước theo Ngài. Ngài vẫn có mặt, vẫn gần gũi thân thương trong hình bánh nhỏ bé và đầy tình thương. Chúng ta hãy ăn lấy Ngài để được no đầy sức mạnh và tiến bước không ngừng trên con đường tình yêu Ngài đã đi.

 

5.Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn

CHỊU THỬ THÁCH VÀ CÁM DỖ

ĐỂ TÔI LUYỆN TÌNH YÊU CHÚA VÀ YÊU NGƯỜI

Thử thách và bị cám dỗ là những mối nguy hiểm cho tình yêu Chúa và tha nhân đối với chúng ta, nhưng cũng nhờ nó mà tình yêu của chúng ta được tôi luyện ngày một mạnh hơn trước mọi thử thách và cám dỗ. Thử thách giống một nốt nhạc đối vị làm nổi bật giai điệu thánh thót trầm hùng, làm cho bản nhạc hay hơn, sáng hơn và hào hùng hơn. Cho nên, Đức Giêsu hôm nay đã muốn chịu thử thách và cám dỗ là để làm cho tình yêu của Ngài đối với Chúa Cha và tha nhân nên mạnh mẻ hơn, quyết liệt và sắc son hơn. Qủa thế, suốt cuộc đời trần thế của Chúa Giêsu, Chúa gặp nhiều thách đố và cám dỗ từ khi sinh ra cho đến tận đồi Canvê nhưng tất cả từ tư tưởng, lời nói và việc làm của Chúa đều hướng tới mục đích trung tín hoàn tất ý muốn của Cha là đồng hành yêu thương cứu độ con người.

Cụ thể, hôm nay quỷ dữ cám dỗ Chúa, nài Chúa hãy dùng quyền năng thần linh của Chúa để thoả mãn cơn đói khát cơm bánh, Chúa Giêsu cho biết rằng “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra". Như vậy, cơm bánh là cái cần thiết cho thân xác còn Lời Chúa cần thiết hơn cho tâm hồn. Vì chưng, tâm hồn điều khiến thân xác, “Người tốt thì lấy ra cái tốt từ kho tàng tốt của lòng mình; kẻ xấu thì lấy ra cái xấu từ kho tàng xấu. Vì lòng có đầy, miệng mới nói ra” (Lc 6,45). Vì vậy Chúa dạy chúng ta hôm nay sống không chỉ nhờ cơm bánh mà sống dồi dào nhờ bởi việc bác ái, tình liên kết, công bằng và tình thương – và những thứ bánh này chỉ do Thiên Chúa ban cho chúng ta qua Lời Ngài. Cho nên, Thánh Phaolô trong bài đọc 2 khẳng định: “Lời Thiên Chúa ở gần bạn, ngay trên miệng, ngay trong lòng. Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giê-su là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ”.

Hôm nay Chúa Giêsu muốn đối đầu với thử thách và cám dỗ, thì tất nhiên Giáo Hội của Chúa và mỗi tín hữu trong Giáo Hội cũng phải kinh qua thử thách và cám dỗ nhưng phải chịu đựng thử thách và chống trả những cơn cám dỗ như Chúa. Giống Thầy Giêsu, chúng ta phải dùng thử thách làm dịp thử lửa tôi luyện một tình yêu lớn mạnh hơn hận thù, tình yêu mạnh hơn tội lỗi và tình yêu mạnh hơn sự ích kỷ, vô cảm và dững dưng.

Trước hết, quỷ cám dỗ Chúa, nài Chúa hãy dùng quyền năng thần linh của Chúa để thoả mãn một nhu cầu vật chất của Người là đói thì cần có của ăn. Nhưng Chúa Giêsu cho biết rằng “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh". Vì vậy Chúa dạy chúng ta hôm nay sống không chỉ nhờ cơm bánh mà sống nhờ bởi việc bác ái, tình liên kết, công bằng, hy sinh, phục vụ và tha thứ… Những thứ bánh này do Thiên Chúa ban cho, vì vậy, thiếu của ăn thiêng liêng thì đời sống vật chất có no đủ nhưng đời sống tinh thần thì cô độc, tội lỗi và mất giá trị. Thứ đến, quỷ dữ ngỏ ý muốn giúp Chúa, với điều kiện: “Nếu Ngài sấp mình thờ lạy tôi, tôi sẽ cho Ngài quyền bá chủ thế giới”. Công việc bác ái của chúng ta hôm nay cũng bị cám dỗ của sự kiêu ngạo, được danh để người ta tôn thờ mình. Đức Giêsu hôm nay quả quyết: “Ngươi sẽ chỉ tuân phục Thiên Chúa mà thôi”.

Lời Chúa trong thư Do thái rằng: “Người đã phải nên giống anh em mình về mọi phương diện, để trở thành một vị Thượng Tế nhân từ và trung tín trong việc thờ phượng Thiên Chúa, hầu đền tội cho dân. Vì bản thân Người đã trải qua thử thách và đau khổ, nên Người có thể cứu giúp những ai bị thử thách” (Dt 2,17-18). Suy nghĩ về điểm này, thánh Gioan Viannay phấn khởi kêu lên: “Chúng ta hạnh phúc thay! May mắn thay cho chúng ta có Thiên Chúa làm gương mẫu! Chúng ta nghèo khổ ư? Chúng ta có một Thiên Chúa sinh ra trong chuồng bò, nằm trong máng cỏ. Chúng ta bị khinh chê ư? Chúng ta có một Thiên Chúa đi trước chúng ta về điểm đó, Ngài đã từng bị đội mão gai, quấn áo đỏ để coi như một tên điên khùng. Chúng ta bị đối xử tồi tệ và đánh đập tàn nhẫn ư? Chúng ta có một Thiên Chúa, đứng trước ta, mình đầy vết thương, chết giữa những khổ hình mà ta không thể tưởng tượng ra. Chúng ta chịu bách hại sao? Này, sao mà dám phàn nàn khi ta có một Chúa chịu chết vì tay các lý hình. Cuối cùng, chúng ta đau khổ vì bị cám dỗ sao? Chúng ta có một Chúa Cứu Thế đáng yêu cũng bị quỷ cám dỗ, hai lần bị các thần dữ mang đi, và trong tất cả các khổ đau, quyến rũ và cám dỗ mà chúng ta gặp phải, chúng ta luôn có Chúa đi trước chúng ta, bảo đảm cho chúng ta toàn thắng miễn là chúng ta muốn nên giống Chúa”.

Vâng, phận người chênh vênh vì luôn bị cám dỗ, cám dỗ bên ngoài và cám dỗ bên trong. Dù nhiều phong ba nhưng phận người cao cả, dù nhiều xấu xa nhưng có thể vượt qua bằng khôn ngoan lựa chọn để sống cách tự do theo ý Chúa. Ước gì Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta nhận ra Chúa và tình thương của Ngài luôn ấp ủ ta, chúng ta hãy tỉnh thức để chiến đấu với những cơn cám dỗ và kiên trì chịu đựng những thách đố trong đời để chứng tỏ tình yêu của chúng ta dành cho Chúa và tha nhân vẫn sắt son khi bình an cũng như thư thách, khi thánh thiện cũng như lúc bị cám dỗ. Vậy, trong suốt Mùa Chay thánh này, chúng ta hãy mở mắt, mở miệng và mở lòng mình ra để sẵn sàng xin lỗi Chúa và thanh nhân, sẵn sàng hàn gắn, xoa dịu, ủi an, tha thứ, hy sinh và phục vụ hầu làm cho tình yêu Chúa và tha nhân ngày càng đậm đà chân thật như lòng Chúa ước mong.

 

6.Hai lối sống - ViKiNi

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

Lịch sử Việt Nam ghi lại các đời vua Chúa hầu hết ăn chơi hại dân, hại nước, còn các hiền tài thanh liêm lại bị hãm hại. Đó là lý do tại sao đất nước bị lạc hậu, chậm tiến, một ngàn năm bị đô hộ giặc Tàu, một trăm năm bị đô hộ giặc Tây.

Lối sống hại dân hại nước của bọn vua Chúa như Lê Uy Mục, Lê Tương Dựa. Uy Mục say mê tửu sắc, hung ác dữ tợn, giết các cận thần và giết cả bà nội. Dân gọi là quỷ vương. Tương Dực lên ngôi chơi bời xa xỉ, loạn dâm. Sứ Tàu bảo ông là tướng lợn. Lối sống tiền tài thanh liêm như Chu Văn An và Lê Quý Đôn đều bị hãm hại cách chức. Thầy Chu Văn An tính ngay thẳng, không màng danh lợi, thiên hạ khen ngài là bậc đạo học mô phạm. Khi vua mời dạy các thái tử trong triều, ông dâng sớ xin chém bảy kẻ gian thần nịnh hót, làm triều đình suy vi, đất nước nguy khốn. Vua không nghe, ông cởi áo quan chức về làng dạy học.

Lê Quý Đôn tính trung hậu, chân thành, làm quan bổng lộc bao nhiêu thường chia hết cho họ hàng, bạn bè nghèo khó, còn ông sống tiết kiệm, chỉ mặc áo vải, ăn cơm rau, khi làm khanh tướng, làm sứ giả sang Tàu ông vẫn học đến nửa đêm. Khi bị cách chức về trí sĩ, sống làm nhà cỏ tranh để ở và dạy học viết sách rất nhiều.

Tin Mừng hôm nay cũng đề cập đến hai lối sống đối kháng nhau như thế: một lối sống của Satan quỷ vương lừa đảo hại người, một lối sống của Đức Giêsu, Đấng Cứu thế, cứu muôn dân, muôn nước. So sánh hai lối sống đó Tin Mừng cho thấy:

Thứ nhất: Lối sống của quỷ vương là ăn nhậu, ăn chơi. Quỷ nói: “Hãy truyền cho hòn đá này ra bánh đi”. Ăn để sống là nhu cầu cần thiết tự nhiên của muôn loài, khi ăn đủ thì thôi. Nhưng sống để ăn là hạng người chỉ thờ cái bụng, tìm thú vui khoái lạc, ăn uống say sưa, chơi bời phóng túng, nghiện ngập xì ke ma túy, châm ngôn của chúng là đớp, hít, hút, mút như đứa con đi hoang, bán cả gia tài của cha, đi ăn chơi với bọn điếm (Lc. 15, 30), gây nên biết bao cảnh nhà tan, cửa nát, xã hội lây nhiễm bệnh tật Sida, mại dâm, trộm cướp, buôn lậu ma túy, tham ô, giết người.

Lối sống của Đức Giêsu là: “Sống nhờ lời do miệng Thiên Chúa phán ra”. Lời Thiên Chúa là lời sáng tạo vũ trụ, vậy nghe lời Thiên Chúa thì hãy phát triển giá trị tinh thần con người vào học hỏi tìm tòi văn hóa, xã hội và khoa học để hiểu biết vũ trụ để chăm sóc, cai quản và sáng chế giúp cho loài người và muôn vật sống tốt đẹp, thích hợp với chương trình Thiên Chúa đã sáng tạo. Lời Thiên Chúa là lời Thánh kinh, lời hằng sống giúp ta vươn lên tới đời sống hạnh phúc bất tử. Vậy hãy cầu nguyện, suy niệm, sống lời Chúa, chiêm ngắm những chân lý vinh quang phục sinh để được sống hạnh phúc muôn đời.

Thứ hai, lối sống của quỷ vương là tâng bốc ta lên ngôi cao, giàu sang, danh vọng, quyền thế. Vì thế “Quỷ đem Đức Giêsu lên một nơi cao, trong chốc lát chỉ cho Người thấy tất cả các nước thiên hạ. Rồi nó nói: Tôi sẽ ban cho ông toàn quyền cai trị, cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này… nếu ông thờ lạy tôi thì tất cả sẽ thuộc về ông”. Quỷ là đồ lừa bịp, tất cả là của Thiên Chúa dựng nên, nó dám lạm dụng tham ô lấy của Chúa làm như của nó để nhử ta, như kẻ câu cá mắc mồi vào lưỡi câu để nhử cá, cá đớp mồi là mắc hóc chết hết đời. Bả vinh hoa đã xúi bao nhiêu kẻ mắc vào kìm kẹp nô lệ cho quỷ. Quỷ là thứ bên ngoài thơn thớt nói cười mà trong nham hiểm giết người không dao. Kẻ thờ ma quỷ sẽ vào chốn cực hình nó ở. Kẻ thờ tiền của quyền thế sẽ như: “Vua Ngô ba mươi sáu lọng vàng, chết xuống âm phủ chẳng mang được gì”.

Lối sống của Đức Giêsu là “Ngươi hãy thờ lạy Thiên Chúa là Chúa ngươi và hãy thờ lậy một mình Ngài mà thôi”. Chỉ có Thiên Chúa là Chúa muôn loài vì Ngài đã tạo dựng muôn vật và ban ơn cho chúng tồn tại. Không còn gì hơn Ngài, vì thế Đức Giêsu dạy chúng ta phải tuyệt đối tôn thờ một mình Thiên Chúa, chúng ta hãy noi gương Đức Giêsu. Người đã không để Satan và dân chúng lôi kéo vào cạm bẫy làm vua dân Israel, mong chế ngự Đế quốc Rôma để cai trị muôn dân đời này. Người đã trả cho Xêda những gì trần tục và trả cho Thiên Chúa những thứ vinh quang. Người sống làm bác thợ mộc, công nhân khó nghèo, làm hiền sư không có chỗ nào gối đầu, làm tôi tớ đau khổ của Thiên Chúa, vác thập giá, nằm trơ trọi giang tay ra cho người ta đóng đinh, Người hoàn toàn giũ sạch bụi trần để kiên trung thờ lạy Thiên Chúa.

Thứ ba lối sống của quỷ vương là muốn đặt chúng ta lên đỉnh đền thờ, nơi loài người chỉ tôn vinh Thiên Chúa, quỷ muốn tôn vinh ta lên thay thế Thiên Chúa để ta rơi xuống hố sâu kiêu ngạo. Vì thế quỷ đem Đức Giêsu đặt trên đỉnh thờ Giêrusalem. Đây là cơn cám dỗ kinh tởm nhất, như nó đưa mình lên đòi bằng Thiên Chúa và đã bị Tổng lãnh thiên thần tống nó xuống hỏa ngục làm quỷ vương. Ngộ Không cũng thế, là khỉ mà đòi lên trời làm Tề Thiên Đại Thánh là bằng Trời, nên đã bị tướng nhà Trời tống xuống trần gian, bị núi đá đè con khỉ suốt 500 năm.

Lối sống của Đức Giêsu là không bao giờ dám thử thách Thiên Chúa, không bao giờ dám đòi Thiên Chúa phải làm phép lạ cứu mình như bọn biệt phái đòi Đức Giêsu làm dấu lạ trên trời. Đức Giêsu không đòi gì cho mình, hoàn toàn theo ý Thiên Chúa: “Lạy Cha xin đừng theo ý con, một theo ý Cha” theo ý Cha để uống chén đắng, để chết hi sinh dù bị nhục nhã đê tiện nhất. Để chống lại cám dỗ đặt mình trên đỉnh đền thờ, Người đã hạ mình xuống đáy vực thẳm trần gian để kéo ta khỏi đáy hố tử thần, lên nơi Người ở: “Hôm nay anh đã được ở với tôi trên thiên đàng” (Lc. 43).

Lạy Chúa, xin cho con hết lòng hết sức sống theo lối sống của Đức Giêsu, xin Người kéo con ra khỏi xiềng xích của Satan, để đưa con về với Người trên nơi vinh phúc trường sinh.

 

7.Cầu Nguyện

Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe tôi muốn chia sẻ một vài ý nghĩ đơn sơ về việc cầu nguyện trong sa mạc, trong thanh vắng, trong thinh lặng.

Nhìn vào thế giới ngày hôm nay chúng ta nhận thấy khắp nơi đề vang lên những âm thanh ồn ào, con người như chạy đua với vận tốc, vật lộn trong cuộc đấu tranh tìm chén cơm manh áo. Rất ít người biêt tìm lấy những giây phút thinh lặng để cầu nguyện, tâm sự với Chúa. Rất ít người biết quỳ gối trước nhà tạm trong những giây phút rảnh rỗi. Hành động của con người thời nay thì hời hợt bên ngoài, không thấm sâu vào tâm hồn, nó chỉ dừng lại trên bình diện tự nhiên.

Là người tín hữu, chúng ta phải biết đánh giá và làm việc theo tinh thần đức tin. Điều đó có nghĩa là chúng ta không được gác bỏ những công việc bổn phận thường ngày, nhưng hãy chu toàn một cách siêu nhiên, hãy làm những công việc ấy vì lòng yêu mến và gắn bó mật thiết với Chúa. Có như vậy thì những công việc nhỏ bé nhất cũng có được một giá trị trước mặt Thiên Chúa, bởi vì nó đã được Thiên Chúa chúc phúc, đồng thời nó sẽ đem lại những hiệu quả tốt đẹp như lời Chúa đã phán: Không có Thầy, các con không thể làm gì được. Nếu không có sự yêu mến và gắn bó với Chúa, thì những công việc chúng ta làm, kết quả bên ngoài có thể là rất tốt đẹp, nhưng kết quả bề trong, trước mặt Thiên Chúa chỉ là một con số không mà thôi.

Nhiều khi chúng ta nghĩ rằng Giáo Hội được đổi mới, được cứu độ nhờ vào những công việc rùm beng bề ngoài và mang nặng tính cách quảng cáo. Thế nhưng Thiên Chúa lại hành động một cách khác. Con người chúng ta có thể quay trở về với Chúa bằng những phương tiện siêu nhiên và chỉ có thể được cứu rỗi nhờ vào một đời sống kết hiệp mật thiết với Chúa. Chính vì thế mà chúng ta hiểu được việc Chúa Giêsu vào sa mạc để cầu nguyện trước khi bắt đầu sứ mạng rao giảng Tin Mừng của mình, cũng như hiểu được vì sao các đấng thánh, trước khi bắt đầu một công việc trọng đại, nhất là về phương diện tôn giáo, thường cấm phòng, tĩnh tâm, thường tìm lấy những giây phút thinh lặng để cầu nguyện với Chúa.

Để canh tân, để đổi mới trái đất này, Chúa Giêsu đã bắt đầu bằng việc cầu nguyện. Hơn thế nữa, Ngài còn dùng 30 năm dài để chuẩn bị cho 3 năm sứ vụ của Ngài. Trong khi đó chúng ta thường thích ra tay lèo lái hơn là tồn tâm dưỡng tịnh, chúng ta thường thích hoạt động hơn là cầu nguyện. Bởi đó, giữa sự huyên náo của cuộc đời, chúng ta hãy biết dành lấy cho mình một khoảng sa mạc, một nơi thanh vắng, một thoáng thinh lặng, để thực sự cầu nguyện và kết hiệp với Chúa.

 

8.Sống chiến đấu theo gương Đức Giêsu

Cuộc đời là một trận chiến. Dù muốn hay không con người cũng phải chiến đấu để tồn tại. Không chiến đấu đồng nghĩa tự đào thải mình. Trong Giáo Hội Công Giáo, người Kitô hữu chúng ta không ngừng được mời gọi sống chiến đấu theo gương của Đức Giêsu.

Tin Mừng Nhất Lãm đều kể rằng sau khi chịu phép rửa bên bờ sông Giođan, Đức Giêsu vào sa mạc để đương đầu với Satan. Thánh Marcô chỉ nói vắn tắt rằng, Đức Giêsu ở trong sa mạc 40 ngày và chịu Satan cám dỗ. Còn Thánh Matthêu và Luca lại kể rõ ba chước cám dỗ của Satan, nhưng theo thứ tự có khác nhau. Theo Thánh Luca, những chước cám dỗ của Satan phải được giải thích trong mối liên hệ chặt chẽ với cuộc tử nạn thập giá của Đức Giêsu. Các chước cám dỗ nhằm lôi kéo Đức Giêsu đi lệch đường lên thành Giêrusalem dẫn đến đỉnh đồi thập giá. Chính vì để nhấn mạnh ý nghĩa đỉnh đồi thập giá ở Giêrusalem mà Thánh Luca đã sắp xếp lại thứ tự các chước cám dỗ, để cho chước cám dỗ sau cùng xảy ra ở Giêrusalem là đích điểm của con đường Ngài đã dứt khoát chọn lựa ngay từ đầu sứ vụ Cứu Thế. Do đó, Thánh Luca sắp xếp cám dỗ thứ nhất là Satan thách đố Đức Giêsu biến sỏi đá thành cơm bánh ăn: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy làm cho đá này trở thành bánh đi!" (Lc 4, 3). Satan muốn xúi giục Chúa Giêsu vận dụng quyền năng Thiên Chúa trao cho Ngài để phục vụ bản thân mình trước đã. Nhưng Đức Giêsu đã từ chối. Ngài là Con Thiên Chúa không phải để phục vụ bản thân mình, nhưng để làm công việc Thiên Chúa trao cho Ngài. Sứ mạng của Ngài đến để phục vụ và làm theo Đấng đã sai Ngài. Satan muốn xúi Chúa Giêsu lấy mạng sống riêng của mình làm cứu cánh, chỉ có mạng sống là đáng quý, chỉ có bản thân là đáng trọng, không còn gì quý và cao cả hơn nữa.

Trong Cựu Ước, dân Israel khi ở trong sa mạc cũng đã bị cám dỗ như vậy. Khi hết lương thực, họ quên tất cả giá trị của cuộc giải phóng khỏi Ai Cập, tất cả niềm tự hào được trở thành niềm tự do. Trước nguy cơ chết đói, họ sẵn sàng đánh đổi tất cả: Thà làm nô lệ mà được ăn no hơn được tự do mà phải chết đói. Nhưng Thiên Chúa đã muốn cho họ thấy: còn có một cái gì đáng quý trọng hơn nữa, hơn cả mạng sống: "Người ta không sống nhờ cơm bánh mà thôi, mà còn nhờ Lời Chúa nữa" (Đnl 8, 3). Đức Giêsu dùng lời ấy để khẳng định rằng: mạng sống trần gian không phải là tất cả đâu. Ngài đã lãnh nhận cuộc sống làm người không phải để khư khư giữ lấy, nhưng là để cho đi, để hiến mình cho mọi người được sống.

Cám dỗ thứ hai là Satan hứa sẽ trao cho Đức Giêsu mọi quyền lực và vinh quang của các vương quốc trên trần gian này, nếu Đức Giêsu chịu thờ lạy nó. Satan muốn Đức Giêsu nhìn nhận rằng chỉ có quyền lực và vinh quang của mọi vương quốc trên trần gian này là đáng quý. Đức Giêsu muốn được hưởng thì cứ thờ lạy hắn là xong ngay. Để trả lời Satan, Chúa Giêsu phán: "Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Ngài thôi" (Đnl 6, 13).

Dân Israel khi xưa đã đúc bò vàng để thờ thay vì thờ phượng Thiên Chúa. Đó là tội bất trung của Israel đối với Thiên Chúa. Đức Giêsu dứt khoát trả lời Satan: Mi không phải là Thiên Chúa. Quyền lực và vinh quang trần gian không phải là tất cả. Chỉ có Thiên Chúa mới đáng thờ lạy, chỉ có Thiên Chúa mới có quyền lực và vinh quang thật để ban cho Ngài.

Cám dỗ thứ ba là Satan xúi giục Đức Giêsu thử thách quyền năng Thiên Chúa; vận dụng quyền năng Thiên Chúa để mở một con đường tắt mà hoàn thành sứ mạng, nếu Đức Giêsu nhảy từ đỉnh cao của đền thờ Giêrusalem xuống mà an toàn thì tất nhiên mọi người sẽ theo Ngài. Nên Ngài không theo đường tắt Satan đề nghị nhưng "Ngài hạ mình vâng phục cho đến nỗi bằng lòng chết và chết trên thập giá" để thực hiện công cuộc của Chúa Cha. Ngài nời gọi ai muốn theo Ngài thì hãy bỏ mình đi, vác thập giá của mình mà đi theo Ngài.

Dân Israel trong sa mạc khi thiếu nước uống, họ đã thử thách Thiên Chúa. Đức Giêsu đáp lại Satan: "Ngươi đừng thử thách Thiên Chúa của ngươi" (Đnl 6, 16). Đức Giêsu đã không thử thách Thiên Chúa nhưng hoàn toàn phó thác trọn vẹn cho Thiên Chúa khi Ngài đi vào con đường thập giá. Cuối cùng, Đức Giêsu đã chiến thắng hết mọi chước cám dỗ của Satan. Trong suốt thời gian Đức Giêsu rao giảng, ma quỷ tiếp tục thua hết keo này đến keo khác.

Đọc lại đoạn phúc âm này vào ngày Chúa Nhật đầu Mùa Chay, Giáo Hôi muốn mời gọi chúng ta suy nghĩ về cuộc sống Kitô hữu như một cuộc chiến đấu trong đó sứ mạng của chúng ta là phải chiến đấu với Satan. Đức Giêsu đã chiến thắng Satan, đã giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi và cho chúng ta được làm con Thiên Chúa. Nhưng chúng ta còn phải thể hiện bản chất Con Thiên Chúa ấy trong cuộc sống. Chúng ta phải đích thân chiến thắng Satan trong cuộc sống của chúng ta. Đức Giêsu đã chiến thắng để cho chúng ta có thể chiến thắng nhờ Thánh Thần Ngài ban cho, nhưng không thể miễn cho chúng ta khỏi chiến đấu. Mùa chay là thời kỳ tập luyện tích cực để chiến đấu với Satan.

Những cám dỗ mà Satan đã đem ra dụ dỗ Đức Giêsu vẫn là những cám dỗ muôn đời của con người. Chẳng hạn, cơm ăn, áo mặc, danh vọng, tiền của, quyền uy, thế lực. Có những người, để làm giàu cho bản thân mình đã đánh mất lương tâm, chà đạp mọi qui luật của đạo đức... Những cám dỗ ấy liên tục xảy ra trong cuộc sống chúng ta. Nếu chúng ta không cảnh giác, không được trang bị bằng ánh sáng và sức mạnh Lời Chúa, chúng ta sẽ ngã gục lúc nào không hay.

Càng có điều kiện để làm giàu, có điều kiện để thụ hưởng danh vọng và nắm giữ quyền lực, càng dễ bị Satan cám dỗ. Có của mà vẫn sống lương thiện, hưởng thụ danh vọng mà vẫn khiêm tốn, hiền hòa, nắm giữ uy quyền mà vẫn là người phục vụ chân thực...đó là một thử thách lớn, là một cuộc đấu tranh gay gắt. Những cơn cám dỗ đến với Đức Giêsu, các Lời Chúa đáp lại, và sự vượt thắng cám dỗ của Chúa vẫn là cái gì gần gũi với chúng ta ngày hôm nay, trong cả cuộc sống, nếu không muốn nói là từng giây phút, khi mà các nhu cầu tối thiểu còn là vấn đề quan trọng và cấp bách, khi mà lòng tham danh vọng và quyền bính vẫn làm cho nhiều người bước vào.

Muốn chống trả và chiến thắng Satan, cần phải có tinh thần từ bỏ. Đức Giêsu đã chiến thắng Thần Chết và tội lỗi. Chúng ta cũng có thể chiến thắng mọi cám dỗ và thử thách, nếu chúng ta biết dựa vào Thiên Chúa, biết dùng vũ khí mà Đức Giêsu đã trao cho chúng ta. Lời Chúa mà Thánh Luca ghi lại vẫn là lời nhắc nhở các tín hữu, đừng để sa vào các cơn cám dỗ, mà ngày nay không khác với ngày xưa. Hãy lấy chính Lời Chúa làm sức nâng đỡ, lời chỉ đạo, và hãy lấy gương Chúa làm tiêu chuẩn cho cuộc sống để đương đầu với những cơn thử thách bất cứ từ đâu tới.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con trang bị đầy con người chúng con bằng tâm tình của Chúa, biết vâng theo ý Chúa Cha, bằng sự gẫm suy và thực hành Lời Chúa, để chúng con luôn can đảm đứng về phía Chúa mà chiến đấu với những thế lực sự dữ, những khó khăn trong đời và chúng con ước mong cũng chiến thắng như Chúa. Amen.

 

9.Đức Giêsu bị cám dỗ – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

Đức Giêsu bị cám dỗ sau một thời gian dài không ăn trong hoang địa. Có lẽ sau khi Ngài chịu phép rửa ở sông Jordan với Yoan Tẩy Giả, Đức Giêsu đã ăn chay cầu nguyện để biết Thiên Chúa muốn Ngài làm gì, và phải làm như thế nào trong những tháng ngày sắp tới. Sau thời gian này, Đức Giêsu đã đi rao giảng, khởi đầu một giai đoạn mới trong đời Ngài.

Đức Giêsu là người. Ngài không biết tất cả. Ngài phải tìm ý Thiên Chúa liên lỉ qua cầu nguyện, bằng việc nhận định những gì xảy tới cho Ngài trong đời sống thường ngày (Lc.22, 42; Ga.4, 34). Ngài cầu nguyện để biết phải làm gì, phải chọn ai (Lc.6, 12-13). Trong cuộc sống, có lúc Ngài biết nhưng lúc khác Ngài lại xao xuyến dao động: Ngài đã loan báo cho các tông đồ rằng Ngài sẽ bị bắt bị giết và sau ba ngày Ngài sẽ sống lại (Lc.9, 22. 44-45;18, 31-34) nhưng ở trên thập giá Ngài lại bị cám dỗ Thiên Chúa bỏ Ngài: “Lạy Cha, lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con” (Mc.15, 34).

Đức Giêsu là người. Ngài còn bị cám dỗ như tất cả mọi người. Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu bị cám dỗ biến đá thành bánh (Lc.4, 3), bị cám dỗ có quyền hành (Lc.4, 6-7), bị cám dỗ nghi ngờ tình yêu Thiên Chúa (Lc.4, 9-10). “Đoạn trường ai có qua cầu mới hay”. Ai đã có kinh nghiệm đói, mới biết những cám dỗ này mãnh liệt như thế nào. Ai có kinh nghiệm về nghèo, mới thấy tiền bạc thu hút con người đến độ nào. Khi đói, người ta mong có đủ cơm ăn; khi có đủ cơm ăn áo mặc, người ta mong muốn có nhiều để bảo đảm tương lai và còn muốn ăn ngon mặc đẹp. Đây là những cám dỗ mà ai cũng gặp. Đức Giêsu một khi đã chia sẻ thân phận con người nên Ngài cũng bị cám dỗ về ăn, tuy nhiên Ngài không thể biến đá thành bánh như Ngài muốn, nếu không, Ngài không còn là người trọn vẹn nữa. Nhập thể, là chấp nhận giới hạn của con người.

Con người thấy mình có những khuynh chiều của thân xác và cũng có lý trí để nhận biết điều tốt và phải làm. Con người có những khuynh chiều thân xác như thèm ăn, đòi thỏa mãn thân xác, muốn được đề cao và quy tất cả về mình. Những khuynh chiều này cũng thuộc về tôi nhưng không hoàn toàn thuộc về tôi. Tôi có những nhu cầu thân xác, có những khuynh chiều thân xác, nhưng cũng không phải chỉ có vậy. Tôi còn cảm nhận nơi tôi có ao ước cái gì cao hơn, tươi đẹp hơn, tuyệt hơn. Tôi là thực tại gồm cả khuynh chiều thân xác cũng như lý trí hướng thiện. Khuynh chiều xấu có nơi tôi, nhưng nó chưa là tôi hoàn toàn; chỉ khi nào tôi đồng tình, chỉ khi nào tôi ưng thuận, nó mới hoàn toàn là tôi. Có nhiều lúc tôi ưng thuận với những khuynh chiều bất chính nơi tôi, và như vậy, tôi làm tôi thành xấu qua chính hành vi ưng thuận của tôi.

Đức Giêsu, theo ngôn từ của thư gởi tín hữu Do Thái, không bao giờ ưng thuận những điều sai quấy cho dù Ngài bị cám dỗ như tất cả bao người khác: “Ngài nên giống chúng ta mọi đàng trừ tội” (Dt.4, 15; 2, 17). Ngài bị cám dỗ như bao người, như mỗi người chúng ta, nhưng không bao giờ Ngài phạm tội, không bao giờ Ngài ưng thuận với những gì bất chính, với những khuynh chiều bất chính nơi thân xác Ngài. Đức Giêsu là người hoàn toàn, Ngài chịu thử thách trăm bề, bị cám dỗ như bất cứ ai trên đời, nhưng Ngài có một điều khác con người: Ngài không phạm tội. Đồng tình hay không đối với những khuynh chiều bất chính nơi mình, là hành vi tự do của mỗi người; đồng tình với những khuynh chiều xấu, là phạm tội. Phạm tội hay không, là tùy tự do của mỗi người, là do con người xử dụng tự do Thiên Chúa ban cho như thế nào. Phạm tội hay không, là tùy tự do con người, nó không thuộc bản chất con người.

Theo niềm tin Kitô hữu, có hai người không bao giờ dùng tự do Thiên Chúa ban để chống lại Thiên Chúa, không bao giờ hai vị này thuận theo những khuynh chiều bất chính nơi họ, đó là Đức Giêsu và Đức Maria. Đức Maria vô nhiễm nguyên tội và không phạm tội “riêng”. Mẹ là người tuyệt vời, nên đã được Thiên Chúa cho hưởng hạnh phúc trọn vẹn và vĩnh cửu với Ngài. Điều này được diễn tả qua tín điều: Đức Maria lên trời cả hồn lẫn xác. Đức Giêsu đã không bao giờ thuận tình với bất cứ cám dỗ làm điều xấu nào. Ngài thuộc trọn về Thiên Chúa đến độ người ta nói Ngài là con Thiên Chúa, Ngài là Thiên Chúa nhập thể.

Tin vào Đức Giêsu là tin vào Thiên Chúa. Thiên Chúa đã sinh ra Đức Giêsu, đã làm Đức Giêsu thuộc về Thiên Chúa hoàn toàn. Đức Giêsu đã thuộc về Thiên Chúa với thân xác của mình, cho dù người ta đã hủy hoại thân xác Ngài, nhưng không thể hủy hoại được Ngài. Thân xác Đức Giêsu là thân xác thánh ngang qua chính cuộc sống của Ngài. Mỗi con người đều được gọi để thành thánh, để thuộc về Thiên Chúa, trở nên người thành toàn, người tuyệt vời qua những chọn lựa sống của mình. Hơn bất cứ thời điểm nào, mùa chay giúp các Kitô hữu nhìn lại con người của mình với những khuynh chiều thân xác và tinh thần, để rồi nhận ra lời mời gọi nên thánh trong tất cả mọi hành vi của đời sống mình.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

1. Theo bạn, làm sao để dễ vượt thắng cám dỗ?

2. Bạn có nghĩ Đức Giêsu bị cám dỗ thật không? Tại sao bạn có quan điểm như vậy?

 

10.Bí quyết chiến thắng cám dỗ

(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)

Tin mừng Lc 4: 1-13: Thánh Augustinô khẳng định ma quỷ không thể làm gì khác ngoài việc mời mọc. Hành động hay không là vấn đề của người bị cám dỗ

1. Chúa Giêsu với những cám dỗ trong Hoang Địa

1.1. Cám dỗ thứ nhất

1.2. Cám dỗ thứ hai

1.3. Cám dỗ thứ ba

2. Còn cám dỗ đối với chúng ta như thế nào?

2.1. Ba cơn cám dỗ của Chúa Giêsu đối với chúng ta

2.1.1. Cám dỗ thứ nhất là nhu cầu sự sống

2.1.2. Cám dỗ thứ hai là nhu cầu phình to bản ngã

2.1.3. Cám dỗ thứ ba là nhu cầu thích quyền lực

2.2. Bậc thang nhu cầu của Maslow (Maslow's Hierarchy of Needs)

2.2.1. Nhu cầu cơ bản (basic needs)

2.2.2. Nhu cầu về an toàn (safety, security needs)

2.2.3. Nhu cầu về xã hội (social needs)

2.2.4. Nhu cầu về được quý trọng (esteem needs)

2.2.5. Nhu cầu được thể hiện mình/ khẳng định bản thân (self-actualizing needs)

3. Bí quyết chiến thắng cám dỗ

3.1. Chúa Giêsu đã thắng cơn cám dỗ như thế nào

3.1.1. Thái độ dứt khoát của Chúa Giêsu

3.1.2. Bí quyết chiến thắng cám dỗ của Đức Giêsu

3.2. Còn chúng ta...?

3.2.1. Không mon men đến dịp tội

3.2.2. Trước dịp tội hãy tránh cho xa

Tin Mừng Lc 4: 1-13: BÍ QUYẾT CHIẾN THẮNG CÁM DỖ

1. Chúa Giêsu với những cám dỗ trong Hoang Địa

Theo truyền thống, các học giả thường nhấn mạnh đến ba lãnh vực bị thử thách trong đời sống của Đức Giêsu. Cám dỗ “biến đá thành bánh” đánh vào các nhu cầu thể lý của Đức Giêsu. Cám dỗ “nhảy xuống từ nóc Đền Thờ” thử thách nhận thức của Đức Giêsu về sứ vụ Mêsia của Người. Cám dỗ “bái lạy quỷ dữ” được mô tả như một cuộc công kích tâm linh triệt để.

1.1. Cám dỗ thứ nhất

Một giải thích không đúng về cám dỗ thứ nhất là cho rằng Đức Giêsu sẽ thực sự mắc lỗi nếu "biến đá thành bánh" để thoả mãn nhu cầu bản thân. Thực ra tự bản chất, hành động này khồng xấu vì sau này trong sứ vụ của mình, Đức Giêsu đã từng làm phép lạ hoá bánh và cá ra nhiều. Do vậy, vấn đề đặt ra là: “làm thế nào mà lời đề nghị "biến đá thành bánh" lại có thể thực sự trở thành một cơn cám dỗ?” Câu trả lời của Đức Giêsu đã lật tẩy thực chất cuộc công kích của ma quỷ là muốn làm cho Đức Giêsu lìa xa sứ mệnh của Người. Dừng lại việc chay tịnh để biến "hòn đá thành chiếc bánh" là một việc không phải là xấu, nhưng nếu làm như thế, Đức Giêsu lại phải mất thêm thời gian để suy xét nghiêm túc về bản chất ơn gọi của Người. Đức Giêsu đã đập tan cơn cám dỗ này bằng cách chọn điều tối thiện hảo là làm theo ý Thiên Chúa Cha, nên để trả lời cho Satan, Đức Giêsu đã trưng dẫn lời Kinh Thánh: “người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh nhưng còn sống nhờ mọi lời miệng Đức Chúa phán ra”. Người luôn giữ thái độ lắng nghe trong tình thân với Thiên Chúa. Người ân cần lưu tâm đến công việc của Chúa Cha là Cha của Người (x. 2,49). Sự phục tùng biểu tỏ tình thân, chính tình thân này là mấu chốt giúp hiểu hai cơn cám dỗ còn lại.

1.2. Cám dỗ thứ hai

Thoạt nhìn, cơn cám dỗ thứ hai chẳng có gì đáng xem là cám dỗ: “Đức Giêsu mà lại phải sụp lạy ma quỷ ư?” Chẳng cần phải rườm rà hoa lá, chẳng cần ngụy trang, “cái bẫy” đã được phô ra rành rành. Tuy vậy, đối với Đức Giêsu, cám dỗ này đúng là có một hấp lực thực sự. Xây dựng một vương quốc trần gian để hất cẳng chính quyền của người Rôma, cám dỗ này đồng nghĩa với việc Đức Giêsu không thể chu toàn ơn gọi của mình. Nó cũng đồng nghĩa với việc Đức Giêsu sẽ phải dùng tới những phương thế trần gian để mang đến cho con người tự do, cũng có nghĩa là giành được vương miện mà chẳng cần phải trải qua khổ giá.

Câu trả lời được lấy ra từ Kinh Thánh của Đức Giêsu chứng tỏ đấy chính là điểm mấu chốt của cơn cám dỗ này. Chính mối tình thân với Chúa Cha chứ không phải kỹ năng trích dẫn Kinh Thánh điêu luyện của Đức Giêsu đã giúp Người chiến thắng quỷ dữ. Đức Giêsu quan tâm tới cả cách sống lẫn mục tiêu cuộc sống.

1.3. Cám dỗ thứ ba

Cám dỗ cuối cùng được hiểu rõ nhất khi được nhìn theo viễn cảnh lịch sử. Giả như Đức Giêsu cho dân chúng chứng kiến việc Người sống sót cách lạ lùng sau khi nhảy từ tháp cao của Đền Thờ xuống, thì tức khắc Người sẽ được coi là Đấng Mêsia, là vị thủ lãnh được Thiên Chúa xức dầu, là nhân vật mà dân Do Thái đang mong đợi, là người sẽ lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa vũ trang để chống lại ách thống trị Rôma.

Thánh Augustinô khẳng định ma quỷ không thể làm gì khác ngoài việc mời mọc. Hành động hay không là vấn đề của người bị cám dỗ (“gieo mình xuống”), nhưng Đức Giêsu biết nếu Người khởi sự sứ vụ của mình bằng một cú nhảy ngoạn mục từ nóc đền thờ xuống thì hoàn toàn đi ngược lại ý muốn của Thiên Chúa, vì làm như thế là thử thách Thiên Chúa. Đức Giêsu không chấp nhận giải pháp gọn nhẹ này. Người không cho phép bất cứ điều gì có thể làm tổn hại tới mối tình thân giữa Người với Thiên Chúa là Cha của Người.

2. Còn cám dỗ đối với chúng ta như thế nào?

2.1. Ba cơn cám dỗ của Chúa Giêsu đối với chúng ta

Tin Mừng hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu bị ma quỷ cám dỗ. Qua đó, chúng ta thấy được chiến thuật quỷ quyệt ngàn đời của ma quỷ: hắn luôn luôn bắt đầu tấn công con người ở khía cạnh thấp hèn nhất: sự tham ăn hay nói cách khác, sự tìm kiếm thỏa mãn xác thịt với những dục vọng đê tiện. Sau khi tấn công khía cạnh xác thịt đê hèn của con người. Một khi đã mù quáng trong những dục vọng đê tiện của thể xác, con người sẽ đánh mất mọi ý hướng, mọi ý chí tốt lành để chỉ biết ngụp lặn trong việc tìm kiếm danh vọng, chức quyền và của cải, tức là con người đi vào vòng nô lệ của những ước vọng hão huyền.

Trong ba cơn cám dỗ của Đức Giêsu, cũng như đối với chúng ta, những cơn cám dỗ luôn luôn dựa trên những nhu cầu và giá trị hết sức thực tế và chính đáng của đời sống con người.

2.1.1. Cám dỗ thứ nhất là nhu cầu sự sống

Cám dỗ thứ nhất là nhu cầu sự sống, sự an toàn bản thân, ăn uống, tình dục, sự thoải mái, giàu sang: sự sống là một giá trị rất lớn Thiên Chúa ban cho ta, ta có nhiệm vụ quí trọng và bảo vệ nó, nhưng không phải là với bất cứ giá nào. Ta cũng thấy có biết bao người vì muốn được an toàn bản thân, muốn bảo vệ nồi cơm hay sự thoải mái đang có của mình, của gia đình mình, mà sẵn sàng câm lặng trước bất công, sẵn sàng đồng lõa hoặc làm tay sai cho những thế lực bạo quyền… họ đã quí sự sống và nồi cơm, địa vị của họ hơn công lý.

2.1.2. Cám dỗ thứ hai là nhu cầu phình to bản ngã

Cám dỗ thứ hai là nhu cầu phình to bản ngã, muốn được nổi danh, được nể phục, được coi là quan trọng, được khen tặng, được thỏa mãn tự ái và tính kiêu ngạo: ai cũng cho "cái tôi" của mình là quan trọng, muốn mình là "cái rốn của vũ trụ", và không muốn bị ai xúc phạm. Trong một chừng mực nào đó, thì điều đó là tốt, nhờ đó mới phát sinh lòng tự trọng, giữ uy tín, muốn thăng tiến,

2.1.3. Cám dỗ thứ ba là nhu cầu thích quyền lực

Cám dỗ thứ ba là nhu cầu thích quyền lực, thích làm chủ để điều khiển, muốn mọi sự phải xẩy ra theo ý mình: đây cũng là một nhu cầu rất lớn trong tâm lý con người. Ai cũng thích người khác chiều ý mình, thích áp đặt ý mình lên người khác.

2.2. Bậc thang nhu cầu của Maslow (Maslow's Hierarchy of Needs)

Trên đây chính là những nhu cầu tự nhiên nhất của con người đã được Maslow đưa vào như một hệ thống trong bậc thang nhu cầu tự nhiên của con người như sau:

2.2.1. Nhu cầu cơ bản (basic needs)

Nhu cầu này còn được gọi là nhu cầu của cơ thể (body needs) hoặc nhu cầu sinh lý (physiological needs), bao gồm các nhu cầu cơ bản của con người như ăn, uống, ngủ, tình dục, các nhu cầu làm cho con người thoải mái,…đây là những nhu cầu cơ bản nhất và mạnh mẽ nhất của con người. Trong hình kim tự tháp, chúng ta thấy những nhu cầu này được xếp vào bậc thấp nhất: bậc cơ bản nhất.

Maslow cho rằng, những nhu cầu ở mức độ cao hơn sẽ không xuất hiện trừ khi những nhu cầu cơ bản này được thỏa mãn và những nhu cầu cơ bản này sẽ chế ngự, hối thúc, giục giã một người hành động khi nhu cầu cơ bản này chưa đạt được. Ông bà ta cũng đã sớm nhận ra điều này khi cho rằng: “có thực mới vực được đạo”, cần phải được ăn uống, đáp ứng nhu cầu cơ bản để có thể hoạt động, vươn tới nhu cầu cao hơn.

2.2.2. Nhu cầu về an toàn (safety, security needs)

Khi con người đã được đáp ứng các nhu cầu cơ bản, tức các nhu cầu này không còn điều khiển suy nghĩ và hành động của họ nữa, họ sẽ cần gì tiếp theo? Khi đó các nhu cầu về an toàn, an ninh sẽ bắt đầu được kích hoạt. Nhu cầu an toàn và an ninh này thể hiện trong cả thể chất lẫn tinh thần.

Con người mong muốn có sự bảo vệ cho sự sống còn của mình khỏi các nguy hiểm. Nhu cầu này sẽ trở thành động cơ hoạt động trong các trường hợp khẩn cấp, nguy khốn đến tính mạng như chiến tranh, thiên tai, gặp thú dữ…. nhu cầu này cũng thường được khẳng định thông qua các mong muốn về sự ổn định trong cuộc sống, được sống trong các khu phố an ninh, sống trong xã hội có pháp luật, có nhà cửa để ở,…Nhiều người tìm đến sự che chở bởi các niềm tin tôn giáo, triết học cũng là do nhu cầu an toàn này, đây chính là việc tìm kiếm sự an toàn về mặt tinh thần. Các chế độ bảo hiểm xã hội, các chế độ khi về hưu, các kế hoạch để dành tiết kiệm…cũng chính là thể hiện sự đáp ứng nhu cầu an toàn này.

2.2.3. Nhu cầu về xã hội (social needs)

Nhu cầu này còn được gọi là nhu cầu mong muốn thuộc về một bộ phận, một tổ chức nào đó (belonging needs) hoặc nhu cầu về tình cảm, tình yêu thương (needs of love). Nhu cầu này thể hiện qua quá trình giao tiếp như việc tìm kiếm, kết bạn, tìm người yêu, lập gia đình, tham gia một cộng đồng nào đó, đi làm việc, tham gia các câu lạc bộ, làm việc nhóm …nhu cầu này là một dấu vết của bản chất sống theo bầy đàn của loài người chúng ta từ buổi bình minh của nhân loại. Mặc dù, Maslow xếp nhu cầu này sau hai nhu cầu phía trên, nhưng ông nhấn mạnh rằng nếu nhu cầu này không được thoả mãn, đáp ứng, nó có thể gây ra các bệnh trầm trọng về tinh thần, về thần kinh. Nhiều nghiên cứu gần đây cũng cho thấy, những người sống cô độc thường hay mắc các bệnh về tiêu hóa, thần kinh, hô hấp hơn những người sống với gia đình. Chúng ta cũng biết rõ rằng: sự cô đơn có thể dễ dàng giết chết con người. Nhiều em ở độ tuổi mới lớn đã lựa chọn con đường từ bỏ thế gian này với lý do: “những người xung quanh, không có ai hiểu con!”.

2.2.4. Nhu cầu về được quý trọng (esteem needs)

Nhu cầu này còn được gọi là nhu cầu tự trọng (self esteem needs) vì nó thể hiện hai cấp độ: nhu cầu được người khác quý mến, nể trọng thông qua các thành quả của bản thân, và nhu cầu cảm nhận, quý trọng chính bản thân, danh tiếng của mình, có lòng tự trọng, sự tự tin vào khả năng của bản thân. Sự đáp ứng và đạt được nhu cầu này có thể khiến cho một đứa trẻ học tập tích cực hơn, một người trưởng thành cảm thấy tự do hơn.

Chúng ta thường thấy trong công việc hoặc cuộc sống, khi một người được khích lệ, tưởng thưởng về thành quả lao động của mình, họ sẵn sàng làm việc hăng say hơn, hiệu quả hơn. Nhu cầu này được xếp sau nhu cầu “thuộc về một tổ chức”, nhu cầu xã hội phía trên. Sau khi đã gia nhập một tổ chức, một đội nhóm, chúng ta luôn muốn được mọi người trong nhóm nể trọng, quý mến, đồng thời chúng ta cũng phấn đấu để cảm thấy mình có “vị trí” trong nhóm đó.

2.2.5. Nhu cầu được thể hiện mình/ khẳng định bản thân (self-actualizing needs)

Khi nghe về nhu cầu “thể hiện mình” chúng ta khoan vội gán cho nó ý nghĩa tiêu cực. Không phải ngẫu nhiên mà nhu cầu này được xếp đặt ở mức độ cao nhất. “Thể hiện mình” không đơn giản có nghĩa là nhuộm tóc lòe lẹt, hút thuốc phì phèo, “xổ nho” khắp nơi, nói năng khệnh khạng … Maslow mô tả nhu cầu này như sau: “self-actualization as a person’s need to be and do that which the person was “born to do”” (nhu cầu của một cá nhân mong muốn được là chính mình, được làm những cái mà mình “sinh ra để làm”). Nói một cách đơn giản hơn, đây chính là nhu cầu được sử dụng hết khả năng, tiềm năng của mình để tự khẳng định mình, để làm việc, đạt các thành quả trong xã hội.

3. Bí quyết chiến thắng cám dỗ

3.1. Chúa Giêsu đã thắng cơn cám dỗ như thế nào

3.1.1.Thái độ dứt khoát của Chúa Giêsu

Trước các đợt tấn công của Satan, Chúa Giêsu đã dứt khoát gạt bỏ cả ba kế hoạch hấp dẫn đó. Chúa không muốn chinh phục người ta bằng miếng ăn, bằng quyền năng thần thánh hay bằng vinh quang vật chất trần gian. Chúa đến trần gian là để thi hành sứ mạng cứu độ trần gian theo kế hoạch của Thiên Chúa Cha. Kế hoạch đó là Ngài phải mang lấy thân phận con người sống kiếp người nghèo khổ và phải đi đến tận cùng con đường gian khổ, đến cuộc tử nạn Thập Giá. Đó là kế hoạch kỳ diệu của Thiên Chúa Cha mà Chúa Giêsu phải thực hiện để đưa Ngài lên đến tột đỉnh vinh quang của cuộc chiến thắng phục sinh, nhờ đó mà loài người được cứu độ.

3.1.2. Bí quyết chiến thắng cám dỗ của Đức Giêsu

Bí quyết giúp Đức Giêsu chiến thắng không phải là khả năng thuộc lòng Kinh Thánh nhưng là sự luôn gắn bó mật thiết với Thiên Chúa Cha. Gắn bó thiết thân với Lời Chúa là tốt, nhưng ngay cả ma quỷ cũng có thể trích dẫn Kinh Thánh vanh vách. Không phải vốn kiến thức trổi vượt về Kinh Thánh, nhưng là mối tình thân của Đức Giêsu với Cha Người đã giúp Người nhận ra ý muốn của Thiên Chúa. Biện giải xác đáng về Kinh Thánh không gì khác hơn mối thân tình sống động với Thiên Chúa. Đức Giêsu đã chiến thắng quỷ không phải do Người đã trưng dẫn Kinh Thánh như những câu thần chú, nhưng vì Người đã và đang sống mối liên hệ thân tình với Cha Trên Trời là Đấng mà Kinh Thánh tỏ bày.

3.2. Còn chúng ta...?

Chắc chắn chúng ta cũng phải đi vào con đường của Đức Giêsu là luôn gắn bó mật thiết với Thiên Chúa và đồng thời cũng phải có một thái độ dứt khoát với những cám dỗ của Satan tức là không mon men đến dịp tội nhưng hãy tránh cho xa.

3.2.1. Không mon men đến dịp tội

Chúng ta sa chước cám dỗ vì lúc đầu chúng ta hay xem thường những lỗi nho nhỏ như một điếu thuốc, một ly rượu, một tư tưởng không tốt, một ước muốn tò mò...để rồi đến một lúc nào đó chúng ta phạm trọng tội mà chúng ta không ngờ như trường hợp của một tên sát nhân: "hắn là một tên sát nhân. Hắn đã giết một cảnh sát viên. Bây giờ hắn phải trả giá bằng hình phạt: người ta cột hắn vào ghế điện trong nhà tù.

Người ta buộc những miếng kim khí vào cái vòng trên đầu và vào bắp chân hắn. Một lát nữa, dòng điện cực mạnh sẽ chạy qua thân xác hắn, đủ gây nên sự mất ý thức và chết ngay lập tức. Viên chức phụ trách hỏi tên tử tội xem hắn có muốn nói lời gì cuối cùng không. Hắn buột miệng với một giọng điệu đau đớn cực độ: “đây, tất cả đã khởi đầu khi tôi ăn cắp một đồng 5 xu ở túi áo của mẹ tôi. Rồi tôi ăn cắp hai đồng 5 xu. Sau đó, tôi đã bắt đầu ăn cắp đồ vật ở trường học, ở tiệm tạp hóa, tiệm thuốc. Rồi, với hai thằng bạn, tôi bắt đầu tập luyện...và muốn kiếm được càng ngày càng nhiều hơn. Cuối cùng, chúng tôi quyết định cướp ngân hàng, và lần đó tôi đã bắn chết viên cảnh sát. Đó, tất cả bắt đầu với một đồng 5 xu”.

3.2.2. Trước dịp tội hãy tránh cho xa

Một công ty nọ cần tuyển tài xế với chế độ đãi ngộ rất cao.

Vượt qua vòng đầu, lọt lại chỉ còn có 3 người.

Chánh chủ khảo hỏi họ:

Bên vực thẳm có vàng, các anh lái xe qua đấy, nên chọn khoảng cách như thế nào?

- Người thứ nhất nói: 2 mét.

- Người thứ hai: 1 mét.

- Người thứ ba nói: tôi thì sẽ tránh càng xa càng tốt.

Kết quả, công ty đó đã chọn người thứ ba.

Chiến thuật để đừng bị mỏ vàng cám dỗ là tránh cho xa. Đào vi thượng sách, đó chính là diệu kế để thoát khỏi cơn cám dỗ. Tránh cho xa và dứt khoát ngay từ đầu, đó là điều Chúa Giêsu muốn chúng ta thực hiện khi đứng trước cơn cám dỗ như trong bài Tin Mừng hôm nay. Amen.

 

11.Chiến đấu chống lại cám dỗ với Chúa Giêsu

(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)

Có vô vàn cám dỗ hủy diệt cuộc đời

Con người dùng mồi bọc lưỡi câu để dụ cá và giật chúng lên khỏi nước để rồi kết liễu cuộc đời của chúng trên bàn ăn. Vô số cá tham mồi đã sa vào cám dỗ của con người và phải chết tức tưởi trước thời hạn.

Một số nhà nông hiện nay thường dùng những hóa chất có mùi hương đặc biệt có sức thu hút hàng ngàn con ruồi vàng đục trái và hủy diệt chúng ngay khi chúng vừa xáp tới hít phải mùi hương hấp dẫn nầy. Vô số ruồi đục trái phải chết tức thời cũng vì sa vào cám dỗ của người nông dân.

Những kẻ nghịch thù thường dùng gái đẹp và rượu ngon để làm mê muội lòng trí những ông vua đầy quyền lực hầu triệt hạ nhà vua và chấm dứt triều đại của ông. Thế là rất nhiều ông vua say đắm tửu sắc bị mắc vào cạm bẫy của kẻ thù và phải chết chìm trong vũng lầy êm ái.

Cám dỗ có thiên hình vạn trạng

Cám dỗ diễn ra dưới nhiều dạng thức như tiền tài, danh vọng, địa vị chức quyền, lạc thú…

Cám dỗ có thể từ bên ngoài thâm nhập vào con người qua cả ngũ quan: thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác và xúc giác.

Cám dỗ cũng còn ẩn sâu từ cõi lòng và thôi thúc từ bên trong, đó là tham lam, ham muốn, kiêu căng, giận hờn… xui khiến người ta chìm vào tội lỗi.

Thông thường hơn, có những cám dỗ rất gần gũi với đời sống hằng ngày, đang vây bọc chung quanh chúng ta và chi phối, chế ngự cuộc đời chúng ta.

Nhà thơ Tú Xương có nêu tên vài cám dỗ rất thường tình nhưng cũng là những cám dỗ bất tận trong kiếp người, như:

“Một trà, một rượu, một đàn bà,

Ba cái lăng nhăng nó quấy ta…”

Ca dao Việt Nam cũng nói đến sự cám dỗ của thuốc lá khiến nhiều người không kháng cự nổi:

“Nhớ ai như nhớ thuốc lào,

đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên.”

Thế là con người phải luôn luôn đương đầu với vô vàn cám dỗ có nguy cơ hủy diệt nhân cách và phẩm chất của mình.

Cám dỗ không buông tha bất cứ ai

Cám dỗ không chừa bất cứ ai. Các môn đệ Chúa Giêsu ngày xưa cũng bị cám dỗ được làm lớn, (Mc 9,34) được ngồi bên tả bên hữu chiếc ngai vàng mà họ tưởng là Thầy Giêsu sẽ chiếm lấy.(Mc 10,37)

Ngay cả Chúa Giêsu cũng không thoát khỏi những cơn cám dỗ trong cuộc đời. Mặc dầu Người thực sự là Thiên Chúa nhưng vì Người cũng hoàn toàn là con người như chúng ta, nên "Người cũng phải chịu trăm chiều thử thách y như ta" (Do-thái 4,15).

Bài Tin Mừng hôm nay đề cập đến không phải một mà là đến ba cơn cám dỗ của Chúa Giêsu.

Cám dỗ thứ nhất là sử dụng quyền lực thần linh để biến đá thành cơm bánh (Lc 4,3).

Cám dỗ thứ hai là trở thành vua của thế giới, “toàn quyền cai trị các nước thiên hạ cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này” (Lc 4, 5-7). Cám dỗ nầy còn được lặp lại khi dân chúng muốn tôn Chúa Giêsu làm vua. (Gioan 6,15).

Cám dỗ thứ ba là dùng quyền phép để thu phục nhân tâm, chẳng hạn như đứng trên “nóc Đền Thờ Giê-ru-sa-lem rồi gieo mình xuống” an toàn, khiến cho mọi người khâm phục và tin theo (Lc 4, 9-11).

Dù bị cám dỗ về mọi mặt y như chúng ta, nhưng Chúa Giêsu không bao giờ thua trận. Người chiến thắng tất cả mọi thứ cám dỗ cách vẻ vang. Vũ khí Người sử dụng để chống lại các chước cám dỗ là lòng yêu mến Chúa Cha, luôn vâng phục Chúa Cha và cố công làm đẹp lòng Chúa Cha mọi đàng.

Cùng với Chúa Giêsu, chúng ta kiên quyết chống lại mọi cơn cám dỗ trong cuộc đời

Thân phận con người như lau sậy yếu đuối, bị lắc lư nghiêng ngả giữa muôn luồng gió cuộc đời. Đời sống con người chơi vơi như cánh bèo trên mặt nước, dễ dàng bị trôi dạt bởi sóng nước vây phủ tư bề.

Vì cám dỗ có thể đến từ mọi phía nên chúng ta phải luôn tỉnh táo để không bị chúng bất thần xông tới hủy diệt chúng ta.

Vì cám dỗ có tính cách trường kỳ, chỉ chấm dứt khi con người tắt thở nên chúng ta phải thường xuyên rèn luyện để có thể bền gan chiến đấu cho đến hơi thở cuối cùng.

Vì cám dỗ có thể hủy diệt những phẩm chất cao đẹp của con người và biến người ta thành nô lệ cho dục vọng đen tối, cho bản năng hư hèn, nên chúng ta không thể để cho mình thua trận.

Noi gương Chúa Giêsu, chúng ta hãy chọn làm theo ý Chúa hơn là theo ý mình, cố gắng làm đẹp lòng Chúa trong mọi sự, gắn bó với Chúa Giêsu, cầu nguyện với Chúa Giêsu để xin Người giúp chúng ta chiến thắng.

 

12.Cám dỗ trong đời sống con người

(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)

Khi bàn về thân phận con người, triết gia Platon nhận định rằng: “con người là một cỗ xe có hai ngựa kéo về hai hướng trái nghịch nhau”. Thử hình dung một con ngựa trắng kéo ta về hướng tốt, một con ngựa đen kéo về hướng xấu; và như thế, bản thân chúng ta bị giằng co xâu xé bởi hai thế lực đối kháng nhau!

Sự đối kháng nầy nhiều khi trở nên hết sức gay gắt và ác liệt đến độ thánh Phao-lô phải đau lòng than lên: “điều lành tôi muốn, tôi lại không làm; trong khi điều dữ tôi gớm ghét, tôi lại làm… Vô phúc thay con người tôi!” (Rm 7, 19.24).

Như thế, các chước cám dỗ không buông tha bất cứ ai và sẽ bám riết con người cho đến chết.

Ngay cả Chúa Giê-su cũng không thoát khỏi những cơn cám dỗ. Mặc dầu Người thực sự là Thiên Chúa nhưng đồng thời Người cũng hoàn toàn là con người như chúng ta, nên "Người cũng phải chịu trăm chiều thử thách y như ta" (Dt 4,15).

Bài Tin Mừng hôm nay đề cập đến không phải một mà là đến ba cơn cám dỗ của Chúa Giê-su.

Cám dỗ thứ nhất là sử dụng quyền lực thần linh để biến đá thành cơm bánh (Lc 4,3). Nếu Chúa Giê-su thực hiện điều nầy để cung cấp cho mọi người được dư đầy cơm bánh mà chẳng phải lao nhọc vất vả kiếm ăn thì hy vọng cả thế giới đều thần phục Người. Nhưng Chúa Giê-su bác ngay phương án nầy vì đó không phải là đường lối cứu chuộc của Thiên Chúa Cha.

Cám dỗ thứ hai là trở thành vua của thế giới, “toàn quyền cai trị các nước thiên hạ cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này…” (Lc 4, 5-7). Giả sử Chúa Giê-su chấp nhận phương án nầy thì hy vọng Người sẽ sớm chinh phục muôn dân nước về cho Thiên Chúa Cha. Nhưng Chúa Giê-su lập tực từ chối vì đó không phải là đường lối cứu độ của Thiên Chúa.

Cám dỗ thứ ba là dùng quyền lực thần thiêng để thu phục nhân tâm, chẳng hạn như đứng trên “nóc Đền Thờ Giê-ru-sa-lem rồi gieo mình xuống” an toàn, khiến cho mọi người khâm phục và tin theo (Lc 4, 9-11). Chúa Giê-su cũng từ khước phương án nầy, vì một niềm tin dựa trên phép lạ thì không có giá trị gì, và cũng không phù hợp với đường lối của Thiên Chúa Cha.

Ngoài ra, Thánh sử Luca cũng lưu ý rằng: sau ba cơn cám dỗ nói trên, Chúa Giê-su còn phải đương đầu với nhiều cơn cám dỗ khác trong đời. "Ma quỷ rút lui để chờ dịp khác” (Lc 4, 13)

Lần khác, Sa-tan còn dùng miệng lưỡi của người môn đệ thân tín là Phê-rô để cám dỗ Chúa đừng lên Giê-ru-sa-lem chịu khổ nạn. Ngay lúc ấy, Chúa Giê-su quát lại: “Sa-tan, hãy lui ra đằng sau, đừng gây cớ cho Ta vấp phạm” (Mt 16,23)

Ngay cả trong giờ hấp hối của Chúa Giê-su trên thập giá, Sa-tan cũng chưa chịu buông tha Người. Lần nầy Sa-tan dùng miệng lưỡi những kẻ qua lại để cám dỗ Người xuống khỏi thập giá: " Ông Ki-tô vua Ít-ra-en, cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi, để chúng ta thấy và tin." (Mc 15, 32)

Suốt cuộc đời dương thế, Chúa Giê-su đã anh dũng chiến đấu chống mọi cơn cám dỗ và Người đã chiến thắng rất vẻ vang. Không một cám dỗ, một thách thức nào có thể khiến Người lùi bước.

Xưa kia, Sa-tan tìm mọi cách cám dỗ Chúa Giê-su từ bỏ đường lối của Thiên Chúa Cha để đi theo đường lối khác, thì hôm nay, Sa-tan cũng luôn tìm mọi cách để lôi kéo chúng ta đi trệch ra khỏi đường lối Thiên Chúa. Tàu chạy theo đúng đường rầy sẽ được an toàn vô sự, nhưng nếu tàu chạy trật đường rầy, nó sẽ lao vào chỗ chết và gây ra tang tóc đau thương. Vì thế, ma quỷ luôn tìm mọi cách lôi kéo chúng ta đi trệch ra ngoài đường lối mà Đức Giê-su đã vạch ra cho chúng ta, để xô đẩy chúng ta vào cõi chết.

Mỗi người chúng ta như người leo núi đang chênh vênh giữa lưng chừng sườn núi cao. Tiếng Chúa luôn kêu gọi chúng ta leo lên cao để chung hưởng hạnh phúc thiên đàng với Chúa; trong khi đó, tiếng gọi của Sa-tan và xác thịt lôi kéo chúng ta xuống vực để phải trầm luân muôn đời.

Thắng được những cơn cám dỗ, thắng được bản năng hư hèn yếu đuối của mình thật khó biết bao! Danh tướng Napoléon là người từng chiến thắng vang dội ở Châu Âu cũng phải thú nhận rằng: "Chiến thắng cả Châu Âu không bằng chiến thắng chính bản thân mình".

Lạy Chúa Giê-su,

Xác thịt chúng con rất ươn hèn và yếu đuối. Xin Chúa cùng chiến đấu với chúng con và thông ban Thánh Thần trợ lực cho chúng con, để chúng con không lùi bước, không thua trận, không chìm đắm trong tội lỗi nhưng được chiến thắng vẻ vang và chung hưởng vinh quang với Chúa muôn đời.

 

13.Đời là cuộc chiến không ngừng

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)

Mùa chay khởi đầu với thứ tư lễ tro và kéo dài 40 ngày. Chúa Nhật thứ sáu mùa chay là Lễ Lá, khởi đầu tuần thánh tưởng niệm cuộc tử nạn phục sinh của Đức Giêsu. Mùa chay dọi lại cuộc hành trình của dân Chúa trong hoang địa 40 năm trước khi vào đất hứa, cũng như biến cố Đức Giêsu ăn chay cầu nguyện 40 ngày trước khi khởi đầu sứ mạng rao giảng công khai, và cụ thể chuẩn bị tâm hồn tín hữu hôm nay chuẩn bị đón mừng mầu nhiệm Đức Giêsu tử nạn phục sinh.

Thiên Chúa can thiệp trong lịch sử dân tộc Việt Nam

Bài đọc thứ nhất cho thấy người Do Thái mỗi năm trình diện trước nhan Chúa với hương hoa mình thu lượm được, và tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa Đấng can thiệp vào lịch sử dân tộc: Cha tôi là người Aram đã sống ở Aicập, bị hà hiếp và chúng tôi đã kêu lên Thiên Chúa, và Ngài đã giải phóng chúng tôi khỏi ách nô lệ… Thiên Chúa đã kiến tạo và dìu dắt dân Do Thái qua Abraham, Isaac và Môsê…

Người Việt Nam cho mình là con rồng cháu tiên, con cháu Lạc Long Quân và Âu Cơ, con cháu vua Hùng với bốn ngàn năm văn hiến…! Đó là cách nói của người Việt Nam về chính mình, nhưng dù nói cách nào chăng nữa thì cuối cùng, người Việt Nam vẫn là con Thiên Chúa, vẫn được Thiên Chúa tạo dựng, và Ngài đã làm một số người Việt Nam trở nên những bậc anh hùng, dám hiến dâng mạng sống để làm chứng Thiên Chúa đang hiện diện và hướng dẫn dân tộc Việt Nam.

Những gì dân tộc Việt Nam đang là đang có, đều là ân điển Thiên Chúa ban. Lịch sử dân Do Thái là lịch sử Thiên Chúa yêu thương tất cả loài người qua dân tộc Do Thái, cũng tương tự vậy lịch sử dân tộc Việt Nam là chuỗi những biến cố các anh hùng dân tộc đã thực hiện trong tình yêu của Chúa, qua các triều đại vua Hùng, qua bà Trưng bà Triệu, qua một ngàn năm sống dưới sự cai trị của người Tàu mà không bị đồng hóa hoặc tiêu diệt. Thiên Chúa hiện diện nơi lịch sử dân tộc Việt Nam với nét nhịn nhục, sự kiên cường và tính anh hùng bất khuất của người Việt Nam. Thiên Chúa yêu thương người Do Thái, và Ngài cũng yêu thương người Việt Nam không kém gì người Do Thái. Dân tộc Do Thái là mẫu, là hình ảnh, để giúp các dân tộc khác nhận ra tình yêu của Thiên Chúa nơi mỗi dân tộc.

Thiên Chúa yêu thương và gần gũi mọi người thuộc mọi dân tộc

Thiên Chúa nói với con người qua lương tâm của mỗi người, và Ngài đã nói với con người qua lịch sử dân Do Thái cũng như qua các ngôn sứ, và trong thời cuối cùng Ngài đã nói với con người qua chính Con Một của Ngài là Ngôi Lời nhập thể. “Lời rất gần ngươi, ngay nơi miệng và trong lòng ngươi”. Nếu ai muốn nghe tiếng Chúa, ắt có thể nghe được vì Thiên Chúa rất gần con người.

“Nếu ngoài miệng tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, và trong lòng tin rằng Thiên Chúa đã phục sinh Ngài từ cõi chết, thì được cứu”. Tin vào Đức Giêsu, thì được cứu, dù người đó là Do Thái hay Hylạp, nô lệ hay tự do, vì “tất cả những ai kêu cầu danh Thiên Chúa đều được cứu”.

Xin cho mỗi người nhận ra Thiên Chúa luôn yêu thương và đồng hành với từng người, và với dân tộc mình trong dòng lịch sử.

Đời là cuộc chiến

Đức Giêsu cũng không được miễn trừ khỏi cuộc chiến. Đã là người, ai cũng phải chiến đấu. Cuộc chiến thể lý, không phải ai cũng phải đương đầu; nhưng cuộc chiến thiêng liêng hay nội tâm thì ai cũng phải trải qua. Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu trải qua cuộc chiến của Ngài:

- Ngài đói, và có cám dỗ muốn ăn, muốn có gì để ăn, muốn biến đá thành bánh để ăn. Tại sao không biến đá thành bánh để ăn, khi tất cả để phục vụ con người, đặc biệt khi mình đói? Cám dỗ trở nên cực kỳ mãnh liệt khi ý tưởng “nếu không được ăn bây giờ thì mình sẽ mất sức và như vậy không biết mình còn có thể sống được nữa không”!

- Con người nếu để tự do, không biết cái gì xảy ra. Tại sao không dùng quyền lực để thống trị con người? Tại sao không làm vua và cưỡng bức tất cả mọi người phải được rửa tội, như vậy danh Chúa có cả sáng và dễ dàng hơn không? Tại sao lại cho con người tự do? Tại sao không dùng quyền lực để bắt người ta làm điều tốt?

- Nếu tôi nổi tiếng và được người ta kính phục, thì khi tôi giảng về Thiên Chúa người ta sẽ nghe, và Chúa sẽ được vinh danh hơn. Làm sao để lấy được lòng tin và kính phục của con người? Tôi có thể nhảy từ đỉnh đền thờ xuống, và giảng cho người ta một bài về Thiên Chúa, và người ta sẽ nghe lời tôi giảng! Nhưng nhảy xuống thì tan xương nát thịt. Tại sao Thiên Chúa không can thiệp? Tại sao Thiên Chúa không sai thiên thần đến đỡ chân tôi?

Đức Giêsu đã phải chiến đấu với ma qủy, với chính khuynh chiều thân xác của con người. Và Ngài đã thắng, Ngài chấp nhận chương trình Thiên Chúa về con người, Ngài chấp nhận luật lệ tự nhiên Thiên Chúa đã xếp đặt, Ngài không biến đá thành bánh, Ngài tôn trọng tự do của con người, Ngài không thách thức Thiên Chúa và đòi Thiên Chúa làm theo ý riêng mình. Con người ngày nay cũng có những cám dỗ tương tự như Ngài ngày xưa, có lẽ là:

Tại sao tôi không được phá thai khi đó chỉ là một tế bào trong thân xác tôi? Tại sao tôi không được cloning (sinh vô tính) khi tôi không có con, khi tôi muốn có người nối giòng? Tại sao con người không được làm những thí nghiệm về con người (tái tạo con người khi cho phôi và tinh trùng gặp nhau, xem nó phát triển như thế nào, và v.v… rồi có thể hủy những “thai nhi” như vậy)?

Tại sao tôi không được thỏa mãn mình khi người khác đồng ý, khi tôi có tiền và người khác cần tiền, v.v…?

Tại sao tôi không được coi những giá trị “đa số người đời thừa nhận” làm giá trị của tôi, chẳng hạn tiền bạc, địa vị, danh vọng…

Mỗi người trong cuộc sống thường ngày, phải chiến đấu với ma qủy, với chính mình, với thế gian và những giá trị của nó. Xin Chúa giúp, để mỗi người chúng ta vượt qua chính mình, để chúng ta trở nên giống Đức Giêsu, nên thánh mỗi ngày trong từng hành vi quyết định của chúng ta.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

1. Theo bạn, con người hôm nay bị cám dỗ về điều gì nhất? Làm sao để vượt qua?

2. Có gì lợi ngay ở đời này khi vượt qua chính mình, khi thắng được “cám dỗ”?

3. Dân tộc Do Thái có chỗ đứng đặc biệt trong chương trình của Thiên Chúa. Theo bạn, dân tộc Việt Nam có chỗ “đặc biệt” trong chương trình của Thiên Chúa không? Xin mời bạn chia sẻ chỗ đứng đặc biệt của dân tộc Việt Nam trong chương trình của Thiên Chúa, nếu bạn “thấy”!

 

14.Suy niệm của Lm. Nguyễn Hữu Thy

NHỮNG CÁM DỖ CỦA CHÚA GIÊSU - NHỮNG CÁM DỖ CỦA CHÚNG TA

Tương tự như trong cuộc sống tư riêng của mỗi người và trong cuộc sống gia đình, trong cuộc sống của một cộng đồng cũng có những ngày vui hay những thành công, nhưng đồng thời cũng có những hiểu lầm và những va chạm xích mích. Người ta có thể nói được rằng: Cuộc sống con người trong phạm vi cá nhân, phạm vi gia đình hay trong phạm vi xã hội, v.v... là một tấm thảm được đan dệt bằng đủ thứ màu sắc!

Thánh sử Luca tường thuật lại lịch sử những cám dỗ của Ðức Giêsu như là lịch sử của những cám dỗ của các cộng đoàn kitô hữu tiên khởi vào khoảng năm thứ 90 sau công nguyên. Vâng, sau sự thành lập buổi đầu với bao lạc quan hứng thú và được can thiệp trực tiếp bởi những điều thiêng dấu lạ, giờ đây tất cả họ phải tự đối mặt với những cám dỗ và những thử thách nặng nề. Sự bất kiên nhẫn, nãn chí và sợ hãi đã chụp xuống trên các cộng đoàn. Là Kitô hữu thuộc thế hệ thứ ba, họ đã vô vọng chờ đợi sự xuất hiện đầy uy quyền và có sức biến đổi mọi sự của Nước Thiên Chúa. Tình trạng cộng đoàn lúc bấy giờ hãy còn non trẻ, thiểu số và thiếu tổ chức, thêm vào đó còn bị khinh miệt và thường xuyên bị theo dõi bắt bớ, nên họ dã tự hỏi: Tương lai sẽ ra sao đây? Giữa tình trạng bất an sợ hãi như thế, thánh sử Luca đã tường thuật Tin Mừng của ngài. Tương tự như qua một tấm gương, thánh sử đã muốn cho các cộng đoàn nhận ra được cuộc sống của mình qua cuộc sống của Ðức Giêsu, hay nói cách khác: Những cám dỗ thử thách của họ hôm nay là những cám dỗ thử thách của Ðức Giêsu hôm qua. Họ phải ăn những thứ bánh nào: những thứ chính tay họ làm ra hay những thứ được trao ban? Họ phải sống cuộc sống nào: cuộc sống trước mắt do cơm bánh một mình hay cuộc sống dám can đảm hy vọng vào Thiên Chúa của Ðức Giêsu? Những ước muốn nào của cuộc sống xui khiến và khích động họ?

Ðó là những câu hỏi được đặt ra cho các cộng đoàn các kitô hữu của thánh Luca xưa và cho các cộng đoàn giáo xứ của chúng ta ngày nay. Và chỉ mỗi người trong chúng ta mới có thể trả lời được.

Cả sự cám dỗ thứ hai của Ðức Giêsu cũng là sự cám dỗ thường xuyên của cộng đoàn các tín hữu: Chúng ta phải vinh danh ai? Tâm hồn chúng ta lệ thuộc vào đâu? (x. Lc 12,22-32). Thiên Chúa hay thần linh của chúng ta là gì? Ai là Thiên Chúa của chúng ta?

Thật ra, những câu hỏi như thế nghe quá đường đột và thiếu nhã nhặn! Bởi vì chúng bộc lộ sự nghi ngờ là chúng ta - với tính cách là những kitô hữu sốt sắng và giáo xứ sống động - có lẽ chỉ phần nào đó, hay có lẽ chẳng bao giờ làm vinh danh Thiên Chúa và phục vụ cho Nước Trời, nhưng chỉ tìm danh dự và lợi ích riêng tư của chúng ta, hay chỉ tìm cách gây ảnh hưởng cá nhân, v.v...Thiên Chúa luôn nhân hậu và quảng đại. Người đã sáng tạo nên chúng ta và đã ban cho chúng ta tất cả mọi sự, để chúng ta điều khiển và hưởng dùng. Người đã ban cho chúng ta sáu ngày trong tuần để sống, chỉ còn lại một ngày - hay nói chính xác hơn: chỉ vào khoảng trên dưới một giờ đồng hồ - chúng ta cần phải tôn thờ Người. Vâng, mỗi tuần lễ Thiên Chúa đã ban cho tất cả chúng ta 167 giờ đồng hồ để sống, và chỉ một giờ chúng ta cần hy sinh để đến với Người, để cùng nhau tôn vinh Người, để cùng nhau cảm tạ ơn người! Chúng ta có sẵn sàng làm thoả mãn chút đòi hỏi cỏn con này của Thiên Chúa không? Ở đây, tôi xin được phép nêu lên một câu hỏi: Nếu thành thật mà nói, có khi nào chúng ta đã có ý tưởng làm vinh danh Thiên Chúa chưa?

Tuy nhiên tôi nghĩ rằng chúng ta không nên tránh né những câu hỏi đó, vì chúng giúp chúng ta kiểm điểm lại chính con người mình, trục quay của bao nhiêu thứ!

Cuối cùng, thánh sử Laca tường thuật sự cám dỗ thứ ba của Ðức Giêsu ở Giê-ru-sa-lem, còn nặng nề hơn. Ở đây có tính cách quyết định: "Hoặc được tất cả, hoặc ngã nón về không", hoặc Thiên Chúa Tạo Hóa hay các thứ bụt thần khác, hoặc chúng ta muốn nằm trong tay Thiên Chúa hay muốn Thiên Chúa nằm trong tay chúng ta!

Sự cám dỗ đó là: Chúng ta tin vào Chúa nào? Chúng ta còn có thể tin tưởng vào một Thiên Chúa Tạo Hóa thầm lặng, kín đáo và trước mắt người đời nhiều khi xem ra bất lực không? Một Thiên Chúa không luôn luôn làm thỏa mãn mọi chờ đợi và mong ước của chúng ta, một Thiên Chúa mà chính Ðức Giêsu trong cơn hấp hối đầy đau thương trên thập giá cũng đã vô vọng kêu lên: "Lạy Chúa, lạy Chúa, sao Chúa bỏ rơi con?"

Tuy nhiên, chúng ta cũng cần phải sống điều chúng ta hằng ngày cầu nguyện Thiên Chúa: "Xin cho ý Cha được thể hiện dưới đất cũng như trên trời!" Ðó cũng là điều chính Ðức Giêsu đã cầu nguyện trong vườn Cây Dầu trước khi chịu khổ nạn: "Lạy Cha, không phải ý con, nhưng là ý Cha phải được thể hiện!" và Ðức Giêsu không chỉ cầu nguyện bằng lời suông mà thôi, nhưng chính Người đã sống làm gương cho chúng ta trước! Và Người đã đạt được sự chiến thắng vinh quang của cuộc sống, cho Người và cho tất cả chúng ta!

Nói tóm lại, lịch sử những cám dỗ của Ðức Giêsu cũng là lịch sử của những cám dỗ của các cộng đoàn kitô hữu xưa kia và của các giáo xứ chúng ta ngày nay, cũng như sự cám dỗ của mỗi người trong chúng ta. Ðức Giêsu đã đứng vững được trước các cám dỗ của Người, bởi vì Người hoàn toàn đứng về phía Thiên Chúa, Người chiến đấu với Thiên Chúa và cho Thiên Chúa!

Còn chúng ta, chúng ta chiến đấu với ai và cho ai? Chúng ta có chiến đâu với Thiên Chúa và cho vinh danh Người hay chúng ta chiến đấu một mình và cho vinh danh cá nhân chúng ta?

Mùa chay thánh là dịp thuận tiện nhất, để chúng ta suy tư ngẫm nghĩ về điều đó và đồng thời để tìm ra được câu trả lời đúng đắn! Amen.

 

15.Ma qủi cám dỗ – Cố Lm Hồng Phúc

Bài Phúc Âm hôm nay đề cập đến cuộc tranh chấp giữa Chúa Giêsu và ma quỉ. Một cuộc tranh chấp sẽ còn kéo dài trong những ngày sắp tới và còn tiếp tục trong lịch sử Giáo hội cũng như trong cuộc sống mỗi người, cho đến ngày toàn thắng cuối cùng của Chúa.

Đã là một cuộc tranh chấp thì có hai đối thủ đương đầu: Chúa Giêsu và ma quỉ.

Người Công giáo chúng ta, ai cũng tin có ma quỉ, vì Thánh Kinh đã nói rõ ràng và trong đời sống, chúng ta nhận thấy hoạt động của nó. Tuy nhiên, ma quỉ - những thiên thần ngụy vốn rất khôn ngoan-, biết dấu đầu che đuôi, để làm cho một số người không tin rằng nó có. Cha Ravignan nói: “Cái khôn ngoan của ma quỉ ngày nay là làm cho người ta tin tưởng rằng nó không có, để dễ dàng hoạt động”.

Ma quỉ thuộc thế giới vô hình, chúng ta không nhìn thấy nhưng nhận thức sự hiện diện của nó qua các hoạt động. Ma quỉ thường hoạt động bằng 3 cách: ám ảnh, phá phách, và cám dỗ.

Trước hết, ma quỉ ám ảnh người ta, dùng nạn nhân như dụng cụ để nói năng hoạt động. Chúa Giêsu đã trừ quỉ nhiều lần (Mt 8, 16; Mc 1, 32; Lc 4, 41…). Chúa ban cho các tông đồ quyền năng ấy (Mt 10, 1 & Mc 3, 15). Giáo hội cũng thừa hưởng trong sứ vụ “trừ quỉ”.

Báo Express của Pháp ngày 22-4-1974, đăng tải một bài nói về những vị trừ quỉ, cho biết cả nước Pháp có 8 vị, những linh mục thánh thiện, khôn ngoan và can đảm được chỉ định để làm nghi thức trừ quỉ theo Phụng vụ khi cần đến. Một vị, Cha Henri Gesland, 66 tuổi, nói: “Tôi không cần xem phim Người trừ quỉ-Exorcist-đang làm xôn xao dư luận, vì sự thật mà tôi phải đương đầu còn hơn trong phim”.

Ma quỉ còn phá phách, nhất là những tâm hồn thánh thiện đạo đức. Thánh Gioan Vianney, Cha sở họ Ars, bị ma quỉ phá trong 35 năm và chỉ được buông tha một năm trước khi Ngài qua đời. Ở Việt Nam, câu chuyện chị Anna Diệu thuộc Dòng Mến Thánh Giá Thanh Hóa, nạn nhân của ma quỉ, được kiểm chứng và ghi trong cuốn “Le diable au Couvent” (Quỉ trong Tu viện) của Đức Cha De Cooman.

Nhất là ma quỉ hay cám dỗ chúng ta, xúi dục ta sa ngã phạm tội.

Bài Phúc Âm đề cập đến 3 đợt cám dỗ của ma quỉ. Chúa chấp nhận bị satan cám dỗ. Luca viết: “Thánh Thần đưa Ngài vào hoang địa để chịu ma quỉ cám dỗ”. Ma quỉ dùng ba tư tưởng để cám dỗ Chúa thì nó cũng dùng ba thứ mồi nhử để lôi kéo chúng ta, là tiền tài, danh vọng và sắc dục.

Cuộc đương đầu với ma quỉ còn kéo dài. Luca viết: “Ma quỉ rút lui để chờ dịp khác”, thì đối với chúng ta cũng vậy, một nhà tu đức viết: “Đó là cơm bữa hàng ngày”.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết cầu nguyện, ăn chay hãm mình, để bắt chước Chúa chống lại chước cám dỗ của tà thần.

“Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ” (Kinh Lạy Cha).

 

16.Cùng Chúa chiến thắng cám dỗ

(Suy niệm của Lm. Giuse Trần Đình Túc)

Chuyện xưa kể rằng: Vua nước Thục có tính tham lam. Huệ vương, vua nước Tần lại muốn xâm chiếm nước Thục. Nhưng vì khe núi hiểm trở, không thể đem quân sang đánh, Huệ vương sai lấy đá tạc hình một con trâu để gần địa giới nước Thục, mỗi ngày bỏ vàng sau đuôi trâu và phao tin đồn rằng: “Trâu đãi ra vàng”. Tiếng đồn ấy đến tai vua Thục. Ông liền sai xẻ núi lấp khe và cho năm lực sĩ vào rừng kéo con trâu đá về. Huệ vương nhờ đó sẵn lối đi, liền đem quân tiến đánh, cướp được nước Thục. Vua Thục vừa mất nước, vừa hại cả mình, vừa để lại trò cười cho thiên hạ.

Vua Thục chỉ vì tham chút lợi nhỏ giả tạo mà mất nước, và số vàng kia cũng quay trở lại vào tay quân thù. Thiên hạ cười chê nhà vua dại khờ vì đã chọn lựa sai.

Kính thưa quý ông bà anh chị em,

Cuộc sống luôn mở ra cho chúng ta những chọn lựa, thử thách. Tuy nhiên, với người này, gian nan thử thách có thể làm cho họ nhụt chí, thoái lui, hay vấp ngã ê chề; nhưng với người khác, có thể lại là dịp để họ lớn lên, trưởng thành và vững chắc hơn trước thách đố cuộc sống.

Cám dỗ gắn liền với phận người tự do. Bởi tự do chỉ thực sự có giá trị và ý nghĩa khi nó đi liền với chọn lựa. Những chọn lựa thật dứt khoát của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay có thể gợi lên một thái độ mới trước những thách đố của cuộc sống, đồng thời cho chúng ta cái nhìn chân xác hơn về bản chất của những cơn cám dỗ trong cuộc đời.

Bởi cám dỗ không đơn giản là xúi giục làm điều xấu, nhưng còn là những mánh khóe biến giả thành thật, thực thành ảo, là thủ đoạn tô hồng những khía cạnh chân thật, đánh bóng những nhu cầu giả tạo – thoạt nhìn – thật tốt đẹp và cần thiết, nhưng thật ra, đó chỉ là hình ảnh ảo, hoặc một cái nhìn rất phiến diện.

Cám dỗ thứ nhất ma quỷ đưa ra hôm nay là nhu cầu ăn uống, là đánh vào bản năng sinh tồn, đánh vào thân xác luôn đòi hỏi nâng niu, chiều chuộng. Đây quả là một nhu cầu thật thiết thân, nhưng chưa phải là nhu cầu cao nhất, càng không phải là nhu cầu độc nhất. Bởi cứ mải đánh bóng nhu cầu vật chất, nhiều người bị mờ mắt, không còn ý thức đến nhu cầu tinh thần, và nguy hiểm hơn, đánh mất phẩm giá của mình để rơi vào một hình thức nô lệ khác: nô lệ cho vật chất và cái bụng.

Cám dỗ thứ hai là một nhu cầu khác, cao hơn và hấp dẫn hơn nhu cầu ăn uống. Đó là cơn cám dỗ chính yếu của con rắn địa đàng trong bài đọc I hôm nay: “Chẳng chết chóc gì đâu! Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt hai người sẽ mở ra và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác”.

Ngày nay, đó là cơn cám dỗ nhắm vào bản năng đối kháng. Là tìm cách chạy trốn giới hạn cùng những thực tại phũ phàng để bay lên bằng ảo giác của bia bọt và thuốc kích thích,… Là thèm khát địa vị, quyền chức thế gian, nhắm vào khuynh hướng thích ngồi chiếu trên, để thống trị, áp đặt quyền lực trên người khác…

Bởi Thiên Chúa luôn có vẻ như vắng mặt, nên con người rất dễ chạy theo những vị thần giả hiệu, chúng có tên là tiện nghi, sắc đẹp, kiến thức, tài năng,…

Khát vọng vươn lên một cuộc sống tốt đẹp hơn là một khát vọng chính đáng. Nhưng mối nguy của nó ở chỗ điều kiện luôn đi kèm: phải thỏa hiệp với sự dữ. Nhiều người vì muốn thăng quan tiến chức mà phải chạy chọt, gian lận, sống luồn cúi, bất lương và vì thế, họ vô tình “bái lạy” ma quỷ mà không hề hay biết.

Cám dỗ thứ ba là cám dỗ xảo quyệt nhất. Vì nó không xui giục người ta bỏ Chúa, nhưng khuyến khích người ta chạy đến cầu xin với Ngài để được ban phép lạ. Thực ra, cầu xin không phải là chuyện xấu xa, và một đời sống đạo đức, gắn bó với Thiên Chúa là điều đáng khuyến khích.

Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã khước từ lời đề nghị của quỷ ma, vì xin không phải là thử, lại càng không phải là thách thức Thiên Chúa, đòi kiểm chứng bằng dấu lạ điềm thiêng. Đó là cơn cám dỗ tìm những pha ngoạn mục, kiếm những chuyện thần kỳ, muốn gặt hái những thành công lẫy lừng bằng những chuyện kinh thiên động địa.

Cơn cám dỗ này thúc đẩy người ta đổ xô đi tìm phép lạ, dùng quyền năng Thiên Chúa để trốn tránh khó khăn, nghịch cảnh. Thích phô trương màu mè, nhưng rất ngại nghe Lời Chúa, hoặc mượn danh nghĩa việc tông đồ để cầu danh trục lợi. Không ít người đã từ bỏ, không còn đặt niềm tin vào Thiên Chúa chỉ vì xin mà không được.

Như thế, Ác thần chẳng những dùng điều xấu xa, mà còn có thể lợi dụng việc đạo đức tốt lành để đẩy con người ra xa Thiên Chúa. Những cơn cám dỗ ma quỷ thật vô cùng tinh khôn và hiểm độc vì nó tiến từng bước: từ hạ thấp phẩm giá đến tước mất tự do của con người. Sau cùng là chối bỏ, khước từ Thiên Chúa. Cơn cám dỗ càng hiểm độc khi âm mưu nham hiểm được bọc trong lớp vỏ nhung lụa, ngọt ngào, hợp lý và đầy quyến rũ của những nhu cầu, quyền lực và uy tín.

Chúa Giêsu được Thánh Thần thúc đẩy đi vào sa mạc, vì 40 ngày chay tịnh đầy thử thách, không chỉ như giai đoạn thanh luyện, chuẩn bị cho sứ vụ sắp tới của Ngài, mà còn là một gặp gỡ, để đón nhận sức sống từ trời cao cho hạt mầm cứu độ đâm chồi nảy lộc giữa lòng thế giới. Ngài đi vào sa mạc không chỉ để đối đầu với thử thách mà còn để sống tâm tình con thảo với Chúa Cha.

Vì thế, sa mạc không chỉ là nơi hoang vu, thiếu thốn, nhiều cạm bẫy đáng sợ, mà còn có thể là chặng dừng quan trọng, là nơi gặp gỡ của những con tim. Con tim Thiên Chúa và con tim nhân loại.

Mùa Chay vì vậy, không chỉ là mùa của kiêng khem, khổ chế trong u sầu than vãn, mà còn là giờ của ân sủng, là thời gian Thiên Chúa yêu thương chúng ta.

Bởi những cơn cám dỗ và lời thách thức: “Nếu ông là con Thiên Chúa” trong Tin Mừng hôm nay vẫn có đó giữa đời thường, như gắn liền với thân phận đàn con lũ cháu của Ông Bà Nguyên Tổ.

Dù có khoác lớp áo mới hào nhoáng, hấp dẫn, tinh vi, hiện đại hơn, thì cũng là một chuỗi những cám dỗ của thuở đầu tạo dựng. Nếu lo sợ đi tìm một biện pháp giải trừ, tìm một phương cách để chống chọi hay tránh né vẫn thật sự chưa đủ. Điều cần thiết là một định hướng, một thái độ, một cách nhìn. Bởi một khi đã gạt Thiên Chúa ra khỏi những suy nghĩ của mình, chúng ta cũng rất dễ hào phóng mở lòng ra với cơm bánh, của cải và danh vọng. Vì thế, khi chọn bước vào cuộc chiến suốt 40 ngày sa mạc, Chúa Giêsu muốn chứng tỏ với thế gian rằng: Con người có thể thắng được những cám dỗ của thế lực tối tăm, nếu biết chọn đứng về Thiên Chúa và sống bằng sức sống của Ngài.

Chọn Thiên Chúa và thực thi thánh ý Ngài, là thông điệp mà Chúa nhật đầu Mùa chay hôm nay gửi đến chúng ta, như lời gọi mời một tư thế đứng thẳng, và để lại sau lưng những ươn lười, ngần ngại. Đứng thẳng lên để cùng với Chúa Giêsu đi tới trong cuộc hành trình Mùa chay: nói KHÔNG với cái xấu, cái thấp hèn; nói KHÔNG với lối sống buông thả, gian tà, nhu nhược.

Nhưng điều quan trọng hơn có lẽ là cách nhìn của mỗi chúng ta về những khó khăn, thách đố của đời thường. Bởi những thách đố của cuộc sống hôm nay có thể làm chúng ta lo sợ, tránh né, hoặc thỏa hiệp với tà tâm, bất chính, nhưng cũng có thể là cơ hội cần thiết giúp chúng ta lớn lên hơn, vững vàng hơn, để sống công chính và thẳng ngay trong tư thế đứng thẳng của những người con Thiên Chúa.

 

17.Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái

Chủ Ðề: Vào sa mạc

"Suốt bốn mươi ngày, Người được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa và chịu quỷ cám dỗ" (Lc 4,2)

I. Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến

Ai trong chúng ta cũng đều gặp những lúc gian nan khổ sở. Những lúc ấy chúng ta bị cám dỗ bỏ Chúa để tìm những nơi nương tựa khác. Ngày xưa dân Israel và chính Chúa Giêsu cũng bị cám dỗ như vậy. Nhưng Israel thì đã sa ngã, còn Chúa Giêsu thì chiến thắng cám dỗ. Tại sao?

Lời Chúa hôm nay sẽ cho chúng ta lời giải đáp.

Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta đừng noi gương dân Israel xưa, nhưng biết noi gương Chúa Giêsu.

II. Gợi ý sám hối

Chúng ta cứ sa đi ngã lại mãi trong tội. Phải chăng vì chúng ta chưa thực lòng sám hối?

Chúng ta có biết rằng phạm tội là để mình bị trói buộc trong xiềng xích của Satan không?

Chúng ta có ý thức rằng phạm tội là phụ bạc với tình yêu của Chúa Giêsu, Đấng đã chịu chết vì tội chúng ta không?

III. Lời Chúa

1. Bài đọc I: Đnl 26,4-10

Môsê dạy cho dân Do Thái biết phải có tâm tình gì khi họ dâng của đầu mùa lên Thiên Chúa: đó là tâm tình biết ơn.

Nhìn lại lịch sử, ban đầu tổ tiên họ chỉ là những kẻ phiêu bạt tứ cố vô thân sống nhờ đất Ai cập, làm nô lệ rất khổ sở cho dân Ai cập; Chúa đã thương giải thoát họ khỏi kiếp nô lệ ấy và đưa họ vào Đất hứa, một mảnh đất chảy sữa và mật, nhờ đó mà họ mới có cuộc sống sung túc. Vì thế, hàng năm họ phải biết ơn Ngài và lấy một phần hoa lợi của mình dâng lên Ngài.

2. Đáp ca: Tv 90

Đây là bài ca biểu lộ lòng cậy trông phó thác vào Thiên Chúa: Những ai biết nương tựa Đấng Tối Cao thì sẽ được Ngài che chở an toàn trong mọi tình huống.

3. Tin Mừng: Lc 4,1-13

Thánh Luca trình bày Chúa Giêsu như dân Israel mới. Vì thế, muốn hiểu hết ý đoạn Tin Mừng này, chúng ta phải nhớ lại giai đoạn Israel ở trong sa mạc (và như thế, đoạn Tin Mừng được coi như nối tiếp bài đọc I): sau khi dân Israel được Thiên Chúa cứu khỏi kiếp nô lệ Ai cập, họ đã đi trong sa mạc trong một thời gian dài và đã gặp nhiều cám dỗ:

a/ cám dỗ trở lại Ai cập để có bánh ăn;

b/ cám dỗ thờ tượng con bê vàng;

c/ cám dỗ thử thách Thiên Chúa.

Vì không nhớ tình thương của Chúa (như Bài đọc I khuyên) và không biết phó thác nơi Thiên Chúa, họ đã sa ngã trong tất cả các cám dỗ ấy.

Chúa Giêsu chính là Israel mới: Ngài cũng sống trong sa mạc một thời gian dài (40 ngày), cũng bị những loại cám dỗ như dân Israel ngày xưa, nhưng Ngài đã chiến thắng tất cả. Đó là nhờ Ngài luôn tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa.

4. Bài đọc II: Rm 10,8-13

Thánh Phaolô lặp lại điều mà Tv 90 (Đáp ca) tuyên xưng: "Mọi kẻ tin vào Ngài sẽ không thất vọng... Tất cả những ai kêu cầu danh Đức Chúa sẽ được cứu thoát".

IV. Gợi ý giảng

1. Định hướng Mùa Chay

Thời trước người ta sống Mùa Chay rất nhiệm nhặt: ăn chay kiêng thịt tất cả mọi ngày Thứ Sáu, hy sinh hãm mình rất nhiều trong suốt "mùa chay cả", từ bỏ tất cả mọi cuộc vui chơi v.v. Thời nay, hầu hết những điều trên đã được huỷ bỏ hoặc giảm nhẹ tới mức tối thiểu. Phải chăng Giáo Hội đang suy đồi?

Thực ra, căn bản vấn đề là ý thức. Nếu không ý thức ý nghĩa sâu xa thì cho dù tuân thủ rất nhiều hình thức nhiệm nhặt bên ngoài thì cũng vô ích. Các bài đọc hôm nay giúp chúng ta ý thức về ý nghĩa sâu sắc của cuộc sống người tín hữu:

Ý thức rằng tất cả mọi sự chúng ta đang hưởng đều là do Chúa ban, như lời Môsê nói với dân Israel trong bài đọc I "Người đã đưa chúng tôi vào đây, ban cho chúng tôi đất này, đất tràn trề sữa và mật. Và giờ đây, Lạy Chúa, này con xin dâng sản phẩm đầu mùa của đất đai mà Ngài đã ban cho con".

Ý thức về sự che chở hữu hiệu của Thiên Chúa đối với những ai biết tin tưởng nương tựa vào Ngài (Đáp ca: "Kẻ gắn bó cùng Ta sẽ được ơn giải thoát, người nhận biết danh Ta sẽ được phù trì")

Ý thức rằng điều quan trọng nhất trong đời không phải là cơm bánh mà là Lời Chúa (Bài Tin Mừng)

Nếu chúng ta thực sự ý thức những điều trên thì chúng ta sẽ không ngại thực hiện những việc ăn chay, kiêng thịt, hy sinh hãm mình, cầu nguyện và chiến đấu với các cám dỗ.

2. Những cám dỗ trong đời

Chuyện dân Israel bị cám dỗ 40 năm và chuyện Chúa Giêsu chịu cám dỗ 40 ngày xem ra chỉ là chuyện đời xưa, chẳng liên can gì đến chúng ta ngày nay. Thực ra ngày nay chúng ta cũng gặp những cám dỗ ấy, nhưng dưới những hình thức khác thôi:

Phải chăng chúng ta cũng bận tâm quá đáng đến việc ăn uống, sinh nhai?

Phải chăng chúng ta rất ham vinh hoa địa vị ở đời?

Phải chăng chúng ta không nỗ lực với hết khả năng mình mà cứ đòi Thiên Chúa làm phép lạ giúp mình?

3. Vào sa mạc

Vào sa mạc là việc cần thiết đầu tiên phải làm trong Mùa Chay. Bởi đó bài Tin Mừng Chúa Nhựt I Mùa Chay năm nào cũng nói về việc Chúa Giêsu vào sa mạc (Năm A: Mc; B: Mt; C: Lc).

a/ Ý nghĩa của sa mạc

Sa mạc là nơi a/ hoang vắng; b/ tĩnh lặng

Hoang vắng và tĩnh lặng thì buồn và chán. Tuy nhiên hoang vắng và tĩnh lặng lại sinh ra nhiều hiệu quả tốt:

Cảm nghiệm của những người đã từng ở sa mạc: thấy vũ trụ bao la và đẹp tuyệt vời (nhất là những lúc mặt trời mọc và lặn); thấy được quyền năng Thiên Chúa; thấy được con người thực của mình; cũng cảm được tình đồng loại tha thiết (rất hiếu khách khi thỉnh thoảng tình cờ gặp được một người giữa sa mạc)

Bởi thế Thiên Chúa thích đưa người ta vào sa mạc: Bài đọc I: Thiên Chúa để cho dân Do Thái ở sa mạc 40 năm sa mạc để họ cảm nghiệm tình thương của Ngài, đồng thời để thử thách xem họ có trung thành với tình thương ấy hay không; Bài Tin Mừng: Chúa Giêsu vào sa mạc 40 ngày để cầu nguyện và cũng chịu thử thách.

b/ Trong Mùa Chay chúng ta cũng vào sa mạc. Nhưng vào sa mạc để làm gì?

Mùa chay, một thời gian cầu nguyện: Theo bố cục của Tin Mừng Lc, trước khi đi rao giảng, Chúa Giêsu đã vào ở trong sa mạc và lưu lại đó 40 đêm ngày. Để làm chi? Không phải chỉ để ăn chay, mà còn làm một việc quan trọng hơn nhiều, đó là cầu nguyện xem Ngài sẽ thi hành sứ mạng Messia như thế nào.

Ngày nay chúng ta cũng có 40 ngày Mùa Chay, để noi gương Chúa Giêsu mà cầu nguyện.

Thực ra chúng ta phải cầu nguyện luôn. Nhưng thỉnh thoảng cần có một thời gian để cầu nguyện chuyên cần và sốt sắng hơn. Đó chính là thời gian này.

Mùa Chay, một thời gian chiến đấu: Chúa Giêsu sống trong sa mạc 40 ngày chiến đấu với những cơn cám dỗ của Satan.

Thực ra ma quỷ luôn cám dỗ chúng ta (1 Pr 5,8: "Ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mối để cắn xé"). Bình thường chúng ta không để ý cho nên dễ bị sa cám dỗ. Trong Mùa Chay, chúng ta hãy noi gương Chúa Giêsu, tích cực chiến đấu với những khuynh hướng xấu, những thói quen tội lỗi và những cám dỗ.

4. Cú nhẩy ngoạn mục (Lc 4,1-13)

Vua nước Thục có tính tham lam. Vua Huệ Vương nước Tần muốn xâm chiếm nước Thục nhưng vì khe núi hiểm trở, không thể đem quân sang đánh. Huệ Vương sai lấy đá tạc hình con trâu để gần địa giới nước Thục, mỗi ngày bỏ vàng sau đuôi con trâu và phao tin đồn rằng: "Trâu đãi ra vàng".

Tiếng đồn ấy đến tai vua Thục. Ông liền sai xẻ núi lấp khe và cho năm người lực sĩ vào rừng kéo con trâu về.

Huệ Vương sẵn lối đi, đem quân tiến đến cướp được nước Thục. Vua Thục vừa mất nước, vừa hại cả mình, để lại trò cười cho thiên hạ. Thế chẳng phải là tham chút lợi nhỏ mà để thiệt mất cái lợi to ư?

***

Vua Thục vì tham vàng mà mất nước, và số vàng kia cũng lọt vào tay quân thù. Thiên hạ cười chê ông dại khờ. Nhưng thật ra thì ai cũng đã hơn một lần khờ dại như ông. Ai cũng đã không ít lần bị cám dỗ giống ông, nếu không phải là vàng thì cũng là của cải, sắc dục, danh vọng, quyền uy.

Bị cám dỗ là thân phận của con người. Chúa Giêsu đã từng bị cám dỗ, vì Người muốn chia sẻ trọn vẹn kiếp người, Người muốn nên đồng số phận với con người, và Người đã thắng cơn cám dỗ để nêu gương cho con người.

Cám dỗ thứ nhất là cám dỗ về cái đói. Cơn cám dỗ về Manna (Xh 16) mà dân Chúa đã bị thử thách trong hoang địa: Đó cũng là thử thách từng ngày của mỗi người chúng ta. Nếu chúng ta chỉ tìm thoả mãn những khao khát của thể xác, những nỗi thèm thuồng vật chất đang cào cấu trong ta, thì chúng ta đã thất bại ngay trong cơn cám dỗ đầu tiên. "Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh" (Lc 4,4). Vâng, con người còn có những giá trị cao quí khác cần phát huy, đừng hạ thấp mình xuống mức độ sơ đẳng nhất của: cơm, áo, gạo, tiền.

Cám dỗ thứ hai là cám dỗ về quyền hành thế gian. Cám dỗ thờ ngẫu tượng, bò vàng (Xh 32,42) của dân Ítraen nơi hoang địa. Không chỉ hôm nay mà rất nhiều lần trong cuộc đời, Đức Gìêsu đã bị cám dỗ này tấn công. Dân chúng luôn kéo Người vào cơn cám dỗ trở nên một Đấng Cứu Thế mang tính chính trị, một vị vua trần gian đầy quyền lực vinh quang. Nhưng Người đã nhất mực khước từ. Người muốn trở nên "tôi tớ" của Thiên Chúa (Ga 13,1-20). Cơn cám dỗ về quyền hành cũng là cơn cám dỗ của tất cả mọi người. Ai trong chúng ta cũng muốn thống trị kẻ khác, muốn áp đặt ý kiến của mình trên anh em.

Đây cũng là cơn cám dỗ về sự nghi ngờ Thiên Chúa. Vì Người thường hay vắng mặt, nên chúng ta dễ chạy theo những vị thần giả hiệu, chúng có tên là của cải, sắc đẹp, kiến thức, tài năng... Chúa Giêsu nhắc cho chúng ta lời Kinh Thánh: "Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người" (Lc 4,8).

Cám dỗ thứ ba là cám dỗ đòi kiểm chứng, đòi xem những dấu lạ điềm thiêng (Xh 17), đòi thấy những cú nhảy đẹp mắt, những pha ngoạn mục: Đó là cơn cám dỗ trên nóc đền thờ Giêrusalem. Cũng chính nơi đây, Chúa Giêsu sẽ chịu một cơn thử thách hết sức nặng nề: đó là cơn cám dỗ muốn thoát cái chết. "Nếu có thể được xin tha cho con khỏi uống chén này" (Lc 22,42). Dường như Chúa Cha "đã bỏ rơi" Người. Cuối cùng thì Chúa Giêsu đã không dùng quyền năng của mình để trốn tránh thân phận con người phải chết. Người đã từ chối nhảy một cú đẹp mắt, cũng không xuống khỏi thập giá một cách ngoạn mục. Người tin tưởng vào tình yêu của Cha, Người tuyệt đối trung thành và trọn vẹn vâng theo ý Cha.

Chúa Giêsu đã chiến đấu với các cơn cám dỗ và Người đã hoàn toàn chiến thắng, để nêu gương cho chúng ta trong những cơn thử thách. Cám dỗ nào cũng ngọt ngào hấp dẫn, thử thách nào cũng đòi phải chọn lựa. Điều quan trọng là chúng ta có nhận ra cái đắng đót chua cay trong cái vỏ ngọt ngào hấp dẫn đó không! Chúng ta có dám chọn theo Chúa hơn là theo ma quỉ? Chọn yêu anh em hơn là yêu chính mình? Chọn điều thiện hơn là cái ác?

****

Lạy Chúa, chúng con sẽ trưởng thành hơn sau mỗi lần chiến thắng, sẽ kinh nghiệm nhiều hơn sau mỗi cơn thử thách. Nhưng xin Chúa đừng để chúng con thất vọng sau mỗi lần vấp ngã, đừng bao giờ để chúng con bỏ cuộc sau những lần thất bại.

Xin cho chúng con luôn tin tưởng chỗi dậy tiếp tục chiến đấu cho dù phải hy minh mạng sống, vì chính Chúa Giêsu đã sẵn lòng chịu chết để trung tín với Chúa Cha.

Xin ban thêm sức mạnh để chúng con chiến thắng các cơn cám dỗ nhờ ăn chay và cầu nguyện. Amen. (Thiên Phúc)

5. Cám dỗ của Chúa Giêsu và của chúng ta

Một cuốn phim đã gây xôn xao dư luận một thời, nhất là vào năm 1989, đó là phim "Cơn cám dỗ cuối cùng của Chúa" (The last temptation of Christ, phỏng theo quyển tiểu thuyết cùng tên, của nhà văn Hy lạp Nikos Kazantzakis). Cuốn phim (và quyển tiểu thuyết) mô tả lúc Chúa Giêsu bị đóng đinh trên thánh giá. Ngài đã ngất đi và thấy mình rời khỏi thánh giá, rời bỏ sứ mạng cứu thế để sống một cuộc sống bình thường. Ngài đi tìm lại nàng Mađalêna, cưới nàng làm vợ. Sau đó lại tìm đến với hai chị em Matta và Maria ở làng Bêtania và cũng cưới luôn hai chị em này làm vợ. Ngài có rất nhiều con và sống rất hạnh phúc...

Báo chí và các đài phát thanh đưa tin rằng khi cuốn phim được trình bày chiếu lần đấu, những người có đạo đã đập phá rạp chiếu bóng tan tành, đến nỗi lần chiếu sau phải chiếu ở một rạp đặc biệt cô lập bởi chung quanh toàn là nước để khỏi bị đập phá lần nữa. Nếu tác giả mà viết như thế về Hồi giáo thì chắc chắn ông cũng sẽ bị mang cùng một số phận với Salman Ruside, người đã bị giáo chủ Hồi giáo Khômêni kêu gọi tất cả mọi tín đồ Hồi giáo trên khắp thế giới hễ gặp mặt tác giả là có bổn phận phải giết ngay, lý do là Salman Rusdie đã viết một quyển sách có những điều bị cho là xúc phạm đến Hồi giáo, quyển sách mang tựa đề "Những vần thơ ác quỷ" (the satanic verses).

Thực ra, nếu chúng ta được đọc quyển "Cám dỗ cuối cùng của Chúa" của Nikos Kazantzakis, thì chúng ta sẽ thấy chẳng có gì xúc phạm cả. Tuy tác giả có nói Chúa Giêsu rời thập giá và cưới 3 người vợ, có nhiều con, nhưng đó chỉ là một cơn cám dỗ của Chúa thôi. Cuối cùng Chúa đã lắc đầu không theo cám dỗ đó. Ngài tỉnh dậy vẫn thấy mình đang bị treo trên thánh giá, và Ngài hô lên một tiếng kêu chiến thắng "Thế là đã hoàn tất", rồi Ngài tắt thở. Trong đoạn mở đầu, Nikos Kazantzakis cũng nói rõ quan điểm của ông khi viết quyển truyện này: Ông tin Chúa Giêsu vừa là Chúa vừa là người, và ông muốn nhìn Ngài dưới khía cạnh người. Ông muốn tưởng tượng những cám dỗ và những chiến đấu vô cùng ác liệt mà con người Giêsu đã phải đương đầu, và đã anh dũng chiến thắng như thế nào, để càng thấy rõ Chúa Giêsu là mẫu mực cho con người chúng ta hơn, để càng cảm phục Ngài hơn, và để con người chúng ta can đảm hơn trong khi chiến đấu với những cơn cám dỗ của chúng ta. Ông đã tâm sự rằng "Trong khi viết... tôi đã cảm động đến phát khóc. Tôi chưa bao giờ cảm thấy máu của Chúa rơi từng giọt vào tim tôi với sự ngọt ngào như vậy, với nỗi đớn đau như vậy".

Chúa Giêsu cũng là người như chúng ta. Mà hễ là người thì phải có tự do. Mà tự do nghĩa là có quyền lựa chọn. Mà đã nói lựa chọn thì tức là có thể chọn đúng và có thể chọn sai. Chính ở kẻ hở này mà cám dỗ len vào, nó xúi giục ta bỏ cái tốt để chọn cái xấu. Ai mà chọn cái xấu tức là sa ngã đầu hàng cám dỗ, còn ai vẫn cương quyết chọn cái tốt tức là kẻ chiến thắng, khi đó cám dỗ chẳng những không làm hại gì được người đó mà càng làm cho người đó thêm công nghiệp.

Chúa chịu cám dỗ vì chúng ta: Trước hết, Ngài chịu cám dỗ để nhắc chúng ta nhớ rằng chung quanh chúng ta và chính trong bản thân chúng ta luôn đầy dẫy cám dỗ, vì thế chúng ta cần phải đề cao cảnh giác; Thứ hai, Chúa chịu cám dỗ và đã chiến thắng cám dỗ để làm gương cho chúng ta noi theo khi chúng ta phải đương đầu với những cám dỗ của chúng ta: Cũng như Chúa Giêsu, chúng ta chỉ có thể thắng được cám dỗ nếu chúng ta không cậy dựa vào sự khôn ngoan của chúng ta, mà biết cậy dựa vào sự khôn ngoan của Lời Chúa; chúng ta chỉ thắng cám dỗ nếu chúng ta không chìu theo ý muốn riêng của mình mà luôn tìm làm theo ý muốn của Thiên Chúa.

6. Biết mình

Một Rabbi nổi tiếng kia muốn tìm hiểu tâm tư con người nên làm một thí nghiệm như sau. Ông gọi ba người tình cờ đi ngang qua và đặt cho họ một câu hỏi: "Giả như bạn lượm được một túi đầy vàng thì bạn sẽ làm sao?"

Người thứ nhất đáp: "Tôi sẽ trả lại cho người đánh rơi nó". Vị Rabbi nhận định: "Đồ ngốc!"

Người thứ hai đáp: "Tôi sẽ giữ lấy mà xài. Dại gì mà không xài của quý từ trời rơi xuống như thế". Rabbi kết: "Đồ khùng!".

Người thứ ba: "Tôi cũng chẳng biết tôi sẽ làm sao nữa, bởi vì nếu khi đó tôi không chống lại nổi cám dỗ của ma quỷ trong tôi thì sao? Tuy nhiên nếu khi đó có ơn Chúa khuyến khích thì tôi sẽ trả lại túi vàng cho người đánh mất". Rabbi khen: "Tuyệt lắm. Bạn mới thật là người khôn ngoan".

Tại sao vị Rabbi nói người thứ nhất là ngốc? Vì người này hoàn toàn không biết chính mình khi tưởng rằng mình đủ vững mạnh chiến thắng cám dỗ tham tiền. Chẳng ai đủ mạnh để không bị sa ngã bao giờ. Người ta không sa ngã vì người ta yếu đâu, mà sa ngã vì mình yếu mà tưởng mình mạnh.

Tại sao vị Rabbi nói người thứ hai là khùng? Vì người này chẳng cần biết đến lương tâm gì cả, vừa thấy tiền là không chút áy náy tính chiếm đoạt luôn. Đối với hạng người như thế, cám dỗ không phải là một mối nguy mà là một cơ hội để tìm tư lợi trên chính sự thiệt thòi của người khác.

Và tại sao vị Rabbi khen người thứ ba là khôn ngoan thật? Vì người này biết mình. Anh biết mình cũng yếu đuối như mọi người khác. Anh hy vọng mình sẽ chiến thắng cám dỗ tham lam. Nhưng anh ý thức rằng điều này sẽ rất khó nếu không được ơn Chúa giúp. (FM)

7. Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh

Chắc nhiều người trong chúng ta, nhất là các người trẻ, biết tên Chàng Ca Sĩ nổi tiếng thế giới Elvis Presley.

Chàng rất giàu: một mình có 8 chiếc xe hơi, 6 xe gắn máy, 2 máy bay, 16 máy truyền hình, một ngôi biệt thự rất rộng và nhiều tài khoản ngân hàng. Trên tất cả những thứ đó, chàng còn có, còn có biết bao đạo quân những người hâm mô coi chàng là thần tượng.

Thế nhưng Elvis Presley không cảm thấy hạnh phúc. Có lần chàng thú nhận: "Càng nhiều tiền thì càng nhức đầu". Mẹ chàng thì không mong gì hơn là con trai mình có giờ về thăm gia đình. Nhưng mong ước đơn giản như thế mà cũng không được.

Elvis Presley là một bằng chứng cho lời Chúa Giêsu nói: "Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh".

V. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, vì yêu thương, Thiên Chúa đã ban cho chúng ta mùa chay thánh này để thanh tẩy tâm hồn mà đón mừng đại lễ Vượt qua. Tin tưởng vào ơn trợ giúp của Chúa, chúng ta cùng khiêm tốn nguyện xin:

1. Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị mục tử / biết dùng mọi phương thế thích hợp / để giúp người tín hữu học hỏi và sống lời Chúa.

2. Tranh giành quyền lực gây ra biết bao thảm họa cho con người / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi người / biết lấy tinh thần bao dung mà đối xử với nhau.

3. Ai đặt niềm tin vào Thiên Chúa sẽ không phải thất vọng / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu / biết luôn tin tưởng vào tình thương / quyền năng / và sự quan phòng kỳ diệu của Chúa.

4. Mùa Chay thánh nhắc nhở chúng ta hãm mình ép xác / để thông phần vào cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết cố gắng sống trọn vẹn tinh thần khắc khổ của mùa Chay.

Chủ tế: Lạy Chúa, mùa Chay là thời gian thuận tiện để chúng con đổi mới đời sống. Xin Chúa cho chúng con là những kẻ tội lỗi, biết thành tâm sám hối vì những lỗi lầm đã phạm, đồng thời tích cực làm nhiều việc lành phúc đức để xứng đáng lãnh nhận ơn tha thứ của Chúa. Chúng con cầu xin

VI. Trong Thánh lễ

- Trước kinh Lạy Cha: Hôm nay khi đọc kinh Lạy Cha, chúng ta hãy đặc biệt chú ý tới lời cầu xin cuối cùng, thể hiện ước muốn của chúng ta trong Mùa Chay này: "Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ. Nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ".

- Sau kinh Lạy Cha: "Lạy Cha, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin giúp chúng con chiến đấu và chiến thắng mọi cám dỗ, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an...

VII. Giải tán

Chúng ta đã bắt đầu Mùa Chay. Đây là lúc thuận tiện để chúng ta sám hối và sống theo Tin Mừng. Và cũng vì thế cho nên đây cũng là thời gian cứu độ. Chúng ta hãy sống thời gian này một cách hết sức quảng đại. Chúc anh chị em được bình an.

 

18.Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật I Mùa Chay năm C này tập trung vào một chủ đề: Đức Tin.

Đnl 26: 4-10

Sách Đệ Nhị Luật mời gọi dân Do thái khi dâng của lễ đầu mùa lên cho Đức Chúa phải kèm theo lời tuyên xưng đức tin ngỏ hầu họ biết nhận ra rằng Đức Chúa không chỉ là Chủ Tể Lịch Sử, Đấng đã hướng dẫn vận mệnh của họ và đã dẫn dắt họ đến tận miền đất phì nhiêu này; nhưng cũng chính một mình Người chứ không một vị thần Ba-an nào, đã ban cho họ sản phẩm thiên nhiên một cách quảng đại.

Rm 10: 8-13

Trong thư gởi cho các tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô công bố rằng người ta không thể tin vào Thiên Chúa mà không tin vào Đức Ki-tô, bởi vì Thiên Chúa là tác giả ơn cứu độ được thực hiện ở nơi Đức Giê-su Ki-tô. Kinh Thánh đã loan báo ơn cứu độ phổ quát này: mọi người, người Do thái cũng như lương dân, đều được mời gọi dự phần vào ơn cứu độ này.

Lc 4: 1-13

Tin Mừng Lu-ca thuật lại câu chuyện Chúa Giê-su chịu các chước cám dỗ trong hoang địa. Chúa Giê-su, trung thành với kế hoạch của Chúa Cha, đã đẩy lùi Tên Cám Dỗ, bằng cách trích dẫn Kinh Thánh: “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”.

BÀI ĐỌC I (Đnl 26: 4-10)

Sách Đệ Nhị Luật là cuốn sách thứ năm và cuốn sách sau cùng của bộ Ngũ Thư. Nhan đề sách có nghĩa “luật thứ hai” (từ ngữ căn Hy ngữ: “deuteros”: thứ hai, và “nomos”: luật). Quả thật, sách này lập lại luật Mô-sê, nhưng được thích ứng vào hoàn cảnh dân chúng định cư lập nghiệp ở đất Ca-na-an. Về phương diện văn chương cũng như thần học, qua hư cấu, tác giả để cho ông Mô-sê nói thay cho mình.

1. Của lễ đầu mùa:

Của lễ đầu mùa là một nghĩa vụ được ghi nhận nhiều lần trong luật Mô-sê: “Của đầu mùa tốt nhất của đất đai ngươi, ngươi phải đem đến nhà Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi” (Xh 23: 19; 34: 22-26) hay “Khi các ngươi vào đất Ta ban cho các ngươi, và gặt lúa ở đó, thì phải đem đến cho tư tế một bó lúa, sản phẩm đầu mùa gặt hái của các ngươi” (Lv 23: 10).

2. Những thử thách dân Do thái đã kinh qua:

Ấy vậy, dân Ít-ra-en bị thử thách khi bắt chước dân bản địa, dân Ca-na-an, bằng cách tiến dâng của lễ của mình lên thần Ba-an, vị thần ban phì nhiều của dân bản địa, trên những nơi cao, và ca ngợi tấm lòng quảng đại của thần.

Ngôn sứ Hô-sê (thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên) lên án những thực hành này mà ngôn sứ sánh ví với tội ngoại tình của dân Chúa chọn: “Mẹ chúng quả thật đã làm điếm, kẻ mang thai chúng đã thất tiết rồi, vì nó đã nói: ‘Tôi đi theo các tình nhân của tôi, chính họ cho tôi bánh và nước, cho len, cho vải, cho dầu ăn, cho thức uống” (Hs 2: 7). Và vị ngôn sứ để cho Đức Chúa nói lên những lời trách cứ: “Nó đâu biết rằng chính Ta đã ban cho nó lúa mì, rượu mới và dầu tươi, cũng chính Ta đã tặng cho nó bạc vàng nhiều vô kể, vậy mà chúng đem chế tạo đồ dâng cúng thần Ba-an” (Hs 2: 10).

3. Lời tuyên tín:

Sách Đệ Nhị Luật thường vang dội giáo huấn của các ngôn sứ, nhất là các ngôn sứ đã chiến đấu chống lại những tội bội giáo của vương quốc Miền Bắc chẳng hạn như ngôn sứ Hô-sê. Vì thế, tác giả đòi hỏi dân Ít-ra-en phải đưa vào trong nghi lễ dâng của đầu mùa của mình lời tuyên xưng đức tin. Dân phải biết nhận ra rằng Đức Chúa không chỉ là Chủ Tể Lịch Sử, Ngài đã biến đổi số phận của họ; nhưng cũng chính Ngài, Chúa của thiên nhiên, đã ban tặng cho dân nguồn phú túc.

BÀI ĐỌC II (Rm 10: 8-13)

Thánh Phao-lô viết thư này gởi cho các tín hữu Rô-ma vào những ngày sau cùng của thánh nhân ở thành Cô-rin-tô vào mùa đông năm 56-57; vào lúc đó, thánh nhân nghĩ đến cuộc hành trình đến thành đô Rô-ma để viếng thăm cộng đoàn Ki-tô hữu Rô-ma trước khi đi loan báo Tin Mừng ở Tây Ban Nha. Dự định của ngài sẽ được thực hiện ngoài dự liệu của thánh nhân: ngài sẽ đến Rô-ma trong cảnh tù đày.

1. Tầm quan trọng của thư Rô-ma:

Thư gởi tín hữu Rô-ma là bức thư dài nhất trong các thư của thánh Phao-lô và quan trọng nhất về phương diện đạo lý. Chủ đề trọng tâm là vai trò đức tin trong đời sống người Ki-tô hữu. Đoạn văn mà chúng ta đọc được trích từ phân đoạn thống thiết ở đó thánh Phao-lô buồn bã gợi lên sự cứng tin của dân Ít-ra-en, đồng bào của ngài (từ ch. 9 đến ch. 11).

Làm thế nào dẫn đưa đồng bào huyết thống của mình đến đức tin, ngoài việc chỉ cho họ thấy rằng sứ điệp Tin Mừng đã được Kinh Thánh loan báo? Vì thế, thánh nhân sẽ dựa lời kêu gọi của mình trên một loạt những lời trích dẫn Kinh Thánh.

2. Ngôi vị hóa Lời Thiên Chúa:

Trước hết thánh Phao-lô trích dẫn một bản văn Đệ Nhị Luật: “Lời Thiên Chúa ở gần bạn, ngay trên miệng, ngay trong lòng” (Đnl 30: 14). Bản văn này nhằm chứng thực rằng bổn phận của người tín hữu là phải “yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết tâm hồn của mình” và thực thi mọi huấn lệnh Lề Luật. Lề Luật này không vượt quá sức mình; chính Thiên Chúa đến trợ giúp bằng cách nội tâm hóa Lời của Người, tức là, ghi khắc Lời Người vào trong tâm khảm của người tín hữu.

Đối với thánh Phao-lô, việc ngôi vị hóa Lời này xem ra như một linh cảm về Ngôi Lời nhập thể. Bản văn này thực sự sẽ cấu thành một trong những điểm tựa thần học về Ngôi Lời, cùng với vài đoạn văn của các sách minh triết Cựu Ước. Lời Thiên Chúa này được tiếp tục ở nơi sứ điệp Tin Mừng; đó cũng là một Lời; Lời hiện diện trong “lòng” người Ki-tô hữu, được bày tỏ ở nơi toàn bộ tâm tư tình cảm và luân lý. Người Ki-tô hữu phải công bố Lời hết sức mình, bằng cách tuyên xưng trên môi miệng mình Đức Giê-su là Chúa, cùng chung một tước hiệu với Đức Chúa, và quyền tối thượng của Ngài được bày tỏ một cách rực rỡ qua cuộc Phục Sinh của Ngài. Đó là niềm tin vào sự sống lại, đó là lời tuyên tín cốt yếu.

3. Đặt trọn niềm tin vào chỉ một mình Thiên Chúa:

Thánh Phao-lô tiếp tục chứng minh bằng cách trích dẫn một bản văn I-sai-a: “Mọi kẻ tin vào Người sẽ không phải thất vọng” (Is 9: 33); vị ngôn sứ ngỏ lời với các vị thủ lãnh vương quốc Giu-đa, vào thời điểm Giê-ru-sa-lem lâm vào cơn nguy khốn cùng cực nhất. Những vị lãnh tụ này chỉ biết nghĩ đến việc tìm kiếm sự trợ giúp từ phía quyền lực dân ngoại. Ngôn sứ I-sai-a cho họ hiểu rằng họ phải đặt trọn niềm tin vào chỉ một mình Đức Chúa.

4. Ơn cứu độ được ban cho hết mọi người:

 Không có bất kỳ một khác biệt nào giữa người Do thái và lương dân: ơn cứu độ được ban cho hết mọi người. Dân Ít-ra-en phải biết chấp nhận tính phổ quát của ơn cứu độ này, vốn đã được Kinh Thánh loan báo rồi. Thánh Phao-lô tiếp tục trích dẫn lời ngôn sứ Giô-en: “Tất cả những ai kêu cầu danh Đức Chúa sẽ được cứu thoát” (Ge 2: 32). Bản văn này gần với viễn cảnh cánh chung. Viễn cảnh này xem ra chỉ liên quan đến các tín hữu Ít-ra-en, nhưng nó toan tính ban cho những câu này một tầm mức phổ quát. Thánh Phao-lô không là người duy nhất bày tỏ điều này. Thánh Lu-ca trong sách Công vụ Tông Đồ đặt trên môi miệng thánh Phê-rô cùng một sấm ngôn này, ngay từ ngày lễ Ngũ Tuần (Cv 2: 17-21).

Chúng ta ghi nhận rằng thánh Phao-lô bắt đầu thời đại của mình khi gợi lên tước hiệu “Chúa” (“Kurios”) được ban cho Đức Giê-su: “Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giê-su là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ” (10: 9) và thánh nhân kết thúc thời đại này với cùng một tước hiệu xưa kia được dành riêng cho một mình Đức Chúa: “Tất cả những ai kêu cầu danh Đức Chúa sẽ được cứu thoát” (10: 13). Đây là phương pháp văn chương “đóng khung” hay “bao hàm” rất quen thuộc đối với thánh Phao-lô, qua phương pháp này thánh nhân công bố rằng người ta không còn có thể tin vào Thiên Chúa mà không tin vào Đức Ki-tô. Nét đặc trưng của Ki-tô giáo là liên kết mật thiết với con người của Chúa Ki-tô khi tuyên xưng Thần Tính của Ngài.

Lời tuyên tín này chắc chắn gây khó khăn cho những anh em đồng đạo của thánh nhân, thánh Phao-lô biết rất rõ điều này. Nhưng Kinh Thánh loan báo điều này rất rõ đến mức dân Ít-ra-en phải sáng suốt mà nhận ra. Đây là tất cả niềm hy vọng của thánh nhân.

TIN MỪNG (Lc 4: 1-13)

Câu chuyện Chúa Giê-su chịu cám dỗ trong hoang địa được cả ba Tin Mừng Nhất Lãm thuật lại, thánh Mác-cô tường thuật ngắn nhất, trong khi thánh Mát-thêu và thánh Lu-ca tường thuật dài hơn bằng cách kể ra những chước cám dỗ mà Chúa Giê-su kinh qua. Hai bài tường thuật của Mát-thêu và Lu-ca có thể được đặt đối xứng với nhau, nhờ đó nêu bật vài điểm khác biệt. Vào năm phụng vụ này, Năm C, chúng ta đọc câu chuyện theo Tin Mừng Lu-ca.

Câu chuyện Chúa Giê-su chịu cám dỗ được liên kết với câu chuyện Chúa Giê-su rút lui vào hoang địa, biến cố mà chúng ta phải khảo sát trước tiên.

1. Chúa Giê-su rút lui vào hoang địa (4: 1-2)

Sau khi Chúa Giê-su đón nhận phép rửa bởi Gioan Tẩy Giả, Ngài rời bỏ bờ sông Gio-đan để đi sâu vào hoang địa, đây là hoang địa Giu-đê, gần Biển Chết, nơi dòng sông Gio-đan đổ vào. Đây cốt yếu là tác động của Chúa Thánh Thần: “Đức Giê-su được đầy Thánh Thần”. Thánh Mát-thêu và thánh Mác-cô cũng nhận ra Chúa Thánh Thần là tác nhân tích cực của quyết định này, tuy nhiên thánh Lu-ca còn tinh tế hơn khi nói thêm: “Người được Chúa Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa”, tức là, Đức Giê-su tuân theo ý muốn của Chúa Thánh Thần, Đấng hằng ở trong Ngài. Chúng ta biết rằng thánh Lu-ca là thánh ký quan tâm nhất đến sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, cả trong sách Tin Mừng của mình lẫn trong sách Công Vụ Tông Đồ; ở đây thánh ký biết nêu lên mối bận lòng của mình một cách tinh tế.

A- A-đam mới:

Một nét đặc trưng khác của Tin Mừng Lu-ca, đó là thánh ký đặt câu chuyện Chúa Giê-su chịu cám dỗ ngay sau gia phả của Chúa Ki-tô trong đó thánh nhân không chỉ lên đến tổ phụ Áp-ra-ham như thánh Mát-thêu, nhưng đến tận nguyên tổ “A-đam là con Thiên Chúa” (Lc 3: 38). Như vậy, ngay sau khi nêu lên nguyên tổ A-đam, câu chuyện cám dỗ mới bắt đầu. Điều này muốn nói rằng Chúa Giê-su là A-đam mới; khi chiến thắng Ác Thần, Ngài trở thành thủ lãnh của nhân loại tái sinh.

B- Mô-sê mới:

Chúa Giê-su chuẩn bị sứ mạng của mình trong chiêm niệm, cầu nguyện và chay tịnh, những phương tiện mà những ai mong ước được kết hiệp với Thiên Chúa luôn luôn sử dụng. Ngài chuẩn bị suốt bốn mươi ngày đêm, như ông Mô-sê trong sa mạc Xi-nai, trước khi đón nhận hai bảng Thập Giới (Xh 24: 18 và Đnl 9: 9), cũng như ngôn sứ Ê-li-a, sau khi đã được thần lương bồi dưỡng, đi suốt bốn mươi ngày đêm tới núi Khô-rếp để gặp gỡ Thiên Chúa (1V 19: 8). Quả thật, trong tình tiết này Đức Giê-su xuất hiện như một Mô-sê mới. Như xưa kia, ông Mô-sê xuống núi với những lời Giao Ước, nền tảng của dân Ít-ra-en là dân Chúa chọn, Chúa Giê-su sẽ rời hoang địa để thiết lập một Giao Ước mới và hình thành nên một dân Thiên Chúa mới.

C- Dân Ít-ra-en mới:

Con số “bốn mươi” cũng gợi lên bốn mươi năm dân Do thái lữ hành trong hoang địa. Trong suốt những năm tháng đó họ đã kinh qua những chước cám dỗ, điều này gợi nhớ những chước cám dỗ của Chúa Giê-su. Tuy nhiên, trong khi dân Ít-ra-en thất bại, thì Chúa Giê-su lại chiến thắng. Vì thế, những cám dỗ mà Chúa Giê-su trải qua suốt bốn mươi ngày đêm trong hoang địa là một cách thức khẳng định sự liên đới của Ngài với dân Ngài. Chúa Giê-su tóm gọn ở nơi con người của Ngài lịch sử của dân tộc Ngài. Từ nay, Đức Giê-su hiện thân dân Ít-ra-en mới, dân được cung cấp mọi phương thế để chiến thắng mọi thế lực của sự dữ.

2. Ý nghĩa của những chước cám dỗ (4: 3-12)

Sự kiện Chúa Giê-su chịu cám dỗ được truyền thống chứng thực rất mạnh mẽ; tuy nhiên, không có ai được diễm phúc chứng kiến biến cố này. Vì thế, người ta phải giả sử rằng Chúa Giê-su đã kể lại sự kiện này cho các môn đệ Ngài. Người ta muốn định vị lời tâm sự này sau lời tuyên tín của thánh Phê-rô ở Xê-da-rê, khi Chúa Giê-su nhận ra rằng các Tông Đồ, thánh Phê-rô là người đầu tiên, vẫn cứ bám chặc vào một quan niệm sai lạc về Đấng Mê-si-a toàn thắng mà không kinh qua cuộc Thương Khó và Tử Nạn. Vì thế, Ngài trách cứ nặng lời với thánh Phê-rô mà chúng ta nghe như âm vang câu chuyện cám dỗ này: “Xa-tan! Lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mc 8: 33).

Bài học đầu tiên của việc Chúa Giê-su chịu các chước cám dỗ chắc chắn là bài học về sự liên đới của Ngài với nhân loại. Khi chấp nhận sống kiếp người, Chúa Giê-su đã muốn đảm nhận ở nơi bản thân mình những cảnh đời nô lệ, yếu đuối, đau khổ về phương diện luân lý cũng như thể chất. Vào lúc chịu phép rửa, tiếng phán từ trời đã nhắc nhở Ngài, không chỉ địa vị Con Thiên Chúa, nhưng còn ơn gọi làm Người Tôi Trung của Ngài. Chúa Giê-su biết Kinh Thánh đã loan báo những gì liên quan đến dung mạo người tôi trung này; Ngài biết con đường nào Ngài phải đi qua; Ngài chấp nhận, nhưng về phương diện phàm nhân, Ngài cảm thấy xao xuyến.

Trước khi bắt đầu sứ mạng của mình, Đức Giê-su bị tác động mạnh bởi nỗi sợ hãi và xao xuyến, và xuất hiện trước mắt Ngài những hình ảnh quyến rủ hơn, đó là chuyện thường tình. Tình tiết hoang địa đối xứng với tình tiết vườn Ô-liu. Nỗi cô độc của hoang địa tương ứng với nỗi cô độc của vườn Ô-liu; viễn cảnh về một sứ mạng gian nan tương ứng với viễn cảnh bi thảm hơn của cuộc Tử Nạn gần kề. Cơn cám dỗ đã có thể mặc lấy hình thức của cuộc tranh luận nội tâm, diễn ra suốt cuộc rút lui vào hoang địa này, như thánh Mác-cô và thánh Lu-ca gợi lên – điều này không có gì là không thật cả - đoạn đạt đến cực điểm, vì thể chất yếu nhược của Đức Giê-su sau khi đã chay tịnh lâu ngày.

Chính cực điểm này mà các thánh Lu-ca muốn mô tả, khi trình bày cuộc đối đầu mầu nhiệm của Đức Giê-su với những chước cám dỗ. Hình thức văn chương của bài tường thuật rất gần với loại chú giải kinh sư (“midrash”) và văn chương khải huyền Do thái. Ba chước cám dỗ nêu bật những thái độ mà Chúa Giê-su đã từ chối và đồng thời cũng là những chọn lựa mà Ngài đã tự nguyện thực hiện trong sự vâng phục ý định của Chúa Cha.

A- Đấng Cứu Thế liên đới với con người (4: 3-4):

Sau những ngày chay tịnh, Chúa Giê-su cảm thấy đói. Chính vào lúc đó, quỷ gợi lên cho Ngài biến đá hoang địa thành bánh để thử thách quyền năng của Đấng được gọi là “Con Thiên Chúa”, tước hiệu đã được công bố vào lúc Ngài chịu phép rửa bởi Gioan Tẩy Giả. Quỷ muốn hướng quyền năng này về những của cải thuộc trật tự vật chất. Trong cảnh thiếu thốn của hoang địa, tư tưởng đã có thể đến với Chúa Giê-su là sử dụng quyền năng của mình trên những sự vật vào những mục đích vị kỷ. Ngài đã bác bỏ điều đó. Đức Giê-su sẽ không bao giờ sử dụng quyền năng này vì mình nhưng vì tha nhân. Các phép lạ Ngài thực hiện sẽ là những dấu chỉ vén mở những của cải tinh thần mà Ngài đem đến cho con người một cách phong phú.

Xưa kia khi dân Do thái lâm vào hoàn cảnh đói trong hoang địa, họ đã nhận được ân ban bánh man-na. Khi đó ông Mô-sê đã cảnh giác họ coi chừng thói tham lam của cải vật chất: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh” (Đnl 8: 3). Cũng chính lời này, Chúa Giê-su đáp trả Xa-tan. Chúng ta lưu ý rằng trong câu trả lời này, Chúa Giê-su tự đồng hóa mình với loài người. Một ngày kia, Ngài cũng lâm vào cảnh đói. Các môn đệ đem thức ăn đến cho Ngài. Ngài sẽ trả lời: “Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết… Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy” (Ga 4: 32-33).

B- Đấng Cứu Thế thống trị (4: 5-8)

Quỷ đưa Ngài “lên cao”, chắc chắn đây là một trong những nơi siêu phàm, như trong các thị kiến của các sách khải huyền. Theo bước phát triển của những chước cám dỗ, quỷ không còn cám dỗ về của cải vật chất, nhưng về quyền lực thống trị: “Tôi sẽ cho ông quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này…”.

Chúa Giê-su biết rõ rằng dân Ngài đang sống trong niềm hy vọng về một Đấng Cứu Thế, Đấng ấy sẽ dành lại nền độc lập chính trị cho họ, phục hưng vị thế và quyền lực của họ. Trong những lúc trầm tư một mình, Chúa Giê-su đã có thể ước tính những lợi ích mà Đấng Mê-si-a giải phóng có thể đem đến cho dân Ngài, đáp ứng những ước vọng của họ. Như vậy, việc mở rộng triều đại Thiên Chúa thật là thuận lợi biết bao! Tuy nhiên, chủ nghĩa cứu thế này, Chúa Giê-su đã luôn luôn từ chối, Ngài lẫn tránh những ước mong của đám đông, khi giải thích rằng vương quốc của Ngài thuộc trật tự tinh thần. Việc Xa-tan đề nghị quyền thống trị thế giới phù hợp với não trạng của thời đại. Việc đồng hóa những quyền lực chính trị với những thế lực Ác Thần càng dễ dàng hơn, vì những quốc gia thống trị là những quốc gia thuộc thế giới ngoại giáo.

Trước lời đề nghị của quỷ: “Nếu ông bái lạy tôi, thì tất cả sẽ thuộc về ông”, Chúa Giê-su đáp trả bằng những lời mà ông Mô-sê đã nhắc nhở dân Do thái trong bối cảnh dân bị thử thách cúng tế thần Ba-an của dân Ca-na-an: “Chính Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, là Đấng anh em phải kính sợ; chính Người là Đấng anh em phải phụng thờ” (Đnl 6: 13). Chỉ sau khi đã trải qua Tử Nạn và Phục Sinh, Chúa Giê-su sẽ lãnh nhận quyền Chủ Tể hoàn vũ, Ngài sẽ nắm trọn chủ quyền này từ Cha Ngài chứ không từ ai khác.

C- Đấng Cứu Thế siêu phàm (4: 9-12)

Theo nhịp độ tăng dần của thánh Lu-ca, chước cám dỗ mạnh nhất mà Chúa Giê-su phải đương đầu và chế ngự, đó là muốn nâng đỡ công việc cứu thế của Ngài bằng những công việc phi thường.

Quỷ đặt Chúa Giê-su trên nóc Đền Thờ. Từ nóc Đền Thờ đến bức tường thành xung quanh khoảng bốn mươi mét. Quỷ nói với Ngài: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì đứng dậy mà gieo mình xuống đi”. Để thuyết phục Ngài, quỷ khôn khéo trích dẫn Tv 91: 11-12, theo đó người công chính được Đức Chúa cho các thiên sứ đến phù trợ. Khi trích dẫn Thánh Vịnh này, quỷ đề nghị với Chúa Giê-su một hành động khêu khích buộc Thiên Chúa phải can thiệp. Chúa Giê-su đáp lại rằng Ngài sẽ không xin Thiên Chúa bảo vệ che chở Ngài một cách ngông cuồng đến mức làm cho Ngài khác với mọi người. Kể từ lúc đó, Ngài làm cho hiểu rằng Ngài sẽ không tìm cách thoát khỏi cái chết.

Ở nơi cơn cám dỗ cuối cùng, chúng ta nhận ra lỗi phạm của Ít-ra-en trong hoang địa, khi họ đòi hỏi Thiên Chúa can thiệp bằng những lời này: “Có Đức Chúa ở giữa chúng ta hay không?” (Xh 17: 7). Còn Chúa Giê-su, Ngài mô phỏng lời trách cứ của ông Mô-sê trong sách Đệ Nhị Luật: “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi” (x. Đnl 6: 16) để từ chối bắt Thiên Chúa phải can thiệp. Ở đây Ngài không đòi Thiên Chúa dùng phép lạ để cứu mạng mình và cũng sẽ là như vậy khi Ngài bị đóng đinh trên thập giá khi mà những kẻ ác tâm thách đố Ngài: "Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn" (Lc 23: 35). Như vậy, cả ba lần, Chúa Giê-su bày tỏ sự vâng phục tuyệt đối với chương trình cứu độ của Thiên Chúa.

Khi so sánh bài trình thuật của thánh Lu-ca với bài trình thuật của thánh Mát-thêu, chúng ta nhận ra thánh Lu-ca đã đảo lộn trật tự giữa cơn cám dỗ thứ hai và cơn cám dỗ thứ ba của thánh Mát-thêu. Với trật tự đảo lộn này, thánh Lu-ca mới có thể kết thúc bài trình thuật của mình với việc kể ra Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, đây là một trong những đề tài chủ đạo của Tin Mừng Lu-ca. Quả thật, Tin Mừng Lu-ca bắt đầu với biến cố truyền tin loan báo cuộc sinh hạ của Gioan Tẩy Giả ở Đền Thờ Giê-ru-sa-lem và kết thúc với ghi nhận: “Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giê-ru-sa-lem, lòng đầy hoan hỷ, và hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa” (Lc 24: 52-53). Trong Tin Mừng của mình, thánh Lu-ca nhắc đi nhắc lại nhiều lần Đức Giê-su lên đường tiến về Giê-ru-sa-lem (Lc 9: 41-53; 17: 11; 19: 28), nhằm thiết lập một cuộc hành trình dài lên Thành Thánh, ở đó Chúa Giê-su sẽ hoàn tất chương trình cứu độ của mình. Thánh Lu-ca là thánh ký duy nhất bỏ qua những lần Đức Giê-su Phục Sinh xuất hiện ở Ga-li-lê để chỉ tập trung vào những lần Chúa Giê-su Phục Sinh xuất hiện ở Giê-ru-sa-lem.

3- Kết (4: 13)

Trái với “kết cục có hậu” của Mc 1: 13 và Mt 4: 11: “Thế rồi quỷ bỏ Người mà đi, và có các sứ thần tiến đến hầu hạ Người”, thánh ký Lu-ca hướng sự chú ý đến Tên Cám Dỗ: “Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi, chờ đợi thời cơ”. Sau khi đã tìm đủ mọi cách vô ích chống lại sứ mạng cứu thế của Chúa Giê-su, quỷ đã thua một trận, nhưng không phải là toàn bộ cuộc chiến, vì thế quỷ chờ đợi thời cơ. Quả thật, quỷ thường xuất hiện trong suốt cuộc đời công khai của Chúa chúng ta (x. ví dụ như Mc 12: 28), nhưng thời cơ thuận tiện nhất là cuộc Khổ Nạn: “Đây là giờ của các ông, là thời của quyền lực tối tăm” (Lc 22: 53), giờ mà quỷ sẽ lộ nguyên hình trong vai trò của Tên Cám Dỗ. Đức Giê-su sẽ báo trước điều này cho các môn đệ Ngài và nhiều lần đảm bảo với họ là Ngài sẽ chiến thắng (x. Ga 12: 31; 14: 30). Ở nơi cuộc Thương Khó, Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Ki-tô, quỷ sẽ dốc toàn lực một lần sau cùng.

Đức Ki-tô, Thiên Chúa thật và con người thật, tự nguyện nên giống chúng ta trong mọi sự ngoài trừ tội lỗi (x. Pl 2: 7; Dt 2: 7; 4: 15), vì thế Ngài chấp nhận chịu cám dỗ. Với tư cách là một con người, Ngài bị cám dỗ, và cũng với tư cách một con người, Ngài kháng cự như lời nhận định của thánh Giáo Phụ Am-rô-xi-ô: “Ngài đã không hành xử như Thiên Chúa, khi phát huy quyền năng của Ngài; giả như Ngài đã làm như vậy, làm thế nào chúng ta có thể noi gương Ngài được? Đúng hơn, như một con người, Ngài đã tận dụng những nguồn lực mà Ngài có chung với chúng ta” (Expositio Evangelii sec. Lucam, in loc.). Qua việc chiến thắng mọi chước cám dỗ, Đức Giê-su chỉ cho chúng ta phương thế đối phó với những mưu mô xảo quyệt của quỷ dữ.

 

19.Lại một cuộc phiêu lưu mới

(Suy niệm của Lm G. Nguyễn Cao Luật OP)

Các tác giả sách Tin Mừng vẫn thường nhấn mạnh mối tương quan giữa hai sự kiện Đức Giê-su chịu phép rửa và chịu cám dỗ trong hoang địa: tại sông Gio-đan, Thần Khí Thiên Chúa đã ngự xuống trên Người, dưới hình chim bồ câu; và sau đó, cũng Thần Khí đã dẫn Người vào hoang địa. Tác giả Lu-ca đã nhân cơ hội này để phác họa chân dung hai nhân vật trong thảm kịch sẽ đạt tới cao điểm vào "thời gian ấn định", tức là ngày thứ Sáu Tuần Thánh. Ngay từ lúc khởi đầu sứ vụ công khai, Đức Giê-su đã đối đầu với ma quỉ, tác viên chính trong cuộc Khổ Nạn. Trong trình thuật cám dỗ này, Đức Giê-su cũng cho thấy bằng cách nào Người minh chứng thân phận của Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa.

Vậy, theo Lu-ca, Đức Giê-su làm gì để chứng tỏ Người là Con Thiên Chúa? Người đã từ chối sử dụng sức mạnh như một thứ quyền lực có tính ma thuật và hướng đến những mục tiêu ích kỷ. Tiếp đến, Người so sánh vương quyền của Người với những yêu cầu chính trị của trần gian: vương quyền của Người chỉ qui phục Thiên Chúa, nhờ đó Người có tất cả quyền hành. Sau cùng, khi đuợc dẫn lên Giê-ru-sa-lem, Người đã từ chối đề nghị thử thách Chúa Cha: quỉ đã đề nghị Người xin Chúa Cha nâng đỡ cách đặc biệt để tỏ cho mọi người thấy tính cách chính thức của Người.

Như vậy, ý hướng của tác giả là muốn cho mọi Ki-tô hữu thấy Đức Giê-su là gương mẫu cho họ, bởi vì thử thách là điều vẫn xảy đến cho họ mỗi ngày.

Trình thuật Tin Mừng cuộc thử thách tại hoang địa là bản tóm lược về cuộc đời và con người Đức Giê-su. Bởi vì thử thách không phải là điều chỉ xảy ra một lần và trong khoảnh khắc: thử thách còn trở lại. Trong câu cuối cùng, bản văn ghi lại: "ma quỉ bỏ Người mà đi, chờ đợi thời cơ". Thời cơ đó chính là cuộc Khổ Nạn.

Như thế, trình thuật Tin Mừng hôm nay thực là một hình ảnh sống động về toàn bộ cuộc đời của Đức Ki-tô. Câu nói "cứu lấy mình đi" của đám lính khi Đức Giê-su chịu treo trên thập giá chỉ là lặp lại lời thách thức hôm nay: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì đứng dậy mà gieo mình xuống đi!"

Cuộc thử thách hôm nay cũng là việc lặp lại, theo chiều đối nghịch, lịch sử đầy thất bại của đoàn dân tuyển chọn. Bốn muơi ngày trong hoang địa... Bốn muơi năm. Vẫn luôn là cơn đó, vẫn luôn là ý định bắt Thiên Chúa phải phục vụ mình, vẫn luôn là quyến rũ đạt được thành công do ngẫu tượng, các quyền lực trần gian.

Thế nhưng, Đức Giê-su, theo cái nhìn chung, vẫn là Con Người. Tác giả Lu-ca đã nhấn mạnh điều này khi nói đến sự liên tục từ nguyên tổ A-đam đến Đức Ki-tô. Với Đức Giê-su, nhân loại lại lên đường để thể hiện ơn gọi của mình.

Cuối cùng, những cám dỗ trong cuộc thử thách của Đức Giê-su là hình ảnh về những vấn đề cơ bản vẫn được đặt ra trong suốt cuộc hành trình của nhân loại. Liệu con người có nghe được lời Thiên Chúa và chấp thuận cuộc sống tư cách làm con Thiên Chúa, như Đức Giê-su đã sống?

Những thử thách muôn thuở

Vào cuối bản văn Tin Mừng, tác giả ghi lại: "Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ..." như là quỉ không còn nghĩ ra được điều gì nữa để thử Đức Giê-su. Tại sao thế? Chẳng lẽ chỉ có ba cám dỗ, quỉ hết cách! Hay là ba cám dỗ này đã đủ để nói lên tất cả? Nên nhìn lại một chút để thấy rõ hơn:

* Cám dỗ thứ nhất: biến đá thành bánh. Quả là một thử thách lớn lao khi người ta bị rơi vào cảnh đói khát. Và cũng quả là một thử thách lớn khi muốn giải quyết những nhu cầu căn bản bằng chiếc đũa thần kỳ diệu, khi muốn chuyển sang CÓ trước khi LÀ. Đâu là cuộc sống đích thực của con người? Phải chăng chỉ nhờ cơm bánh hay những của cải thu được mà không phải làm gì? Đức Giê-su cho thấy rằng: "Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh!"

* Cám dỗ thứ hai: quyền lực và vinh quang. Điều này mọi người đều biết: ai lại không khao khát mình đứng trên, có quyền trên người khác? Khi một người bị kẻ khác đàn áp, trong công việc hay trong những điều khác, lập tức người ấy thường tìm cách thể hiện quyền của mình, có khi trên một con vật, một đứa trẻ hay trên những kẻ yếu thế hơn... Đây chỉ là một ví dụ.

* Cám dỗ thứ ba: uy quyền của Thiên Chúa trên chính mình. Đây là một cám dỗ ghê gớm, nó vẫn thường xuất hiện tại những khúc quanh trên hành trình đức tin. Người ta thường kêu lên: "Nếu Ngài là Thiên Chúa, hãy thực hiện điều này... hãy làm điều kia!"

Nếu Ngài không thực hiện, thì Ngài cũng chẳng phải là Thiên Chúa, vì Ngài tuân phục loài người.

Biết bao nhiêu lần, đàng sau những lời cầu nguyện, trong những ngõ ngách của tâm hồn, lại vẫn không ẩn giấu tham vọng muốn Thiên Chúa làm theo ý mình đó sao?

Đó là ba cám dỗ quỉ đã đưa ra để thử Đức Giê-su, và nó đã thất bại. Quỉ đã đưa ra những cám dỗ này như những "tuyệt chiêu" nhằm hạ thủ Đức Giê-su, nhưng Người đã dùng lời Thiên Chúa mà chế ngự. Rút cuộc quỉ đã phải tháo lui. Những người môn đệ của Đức Ki-tô có nghĩ rằng đây là những cám dỗ mạnh nhất mà họ phải đương đầu không? Họ có nghĩ rằng những cám dỗ ấy thu tóm tất cả khát vọng của con người về sự sở hữu và quyền lực không? Điều này tùy thuộc vào nhận thức và kinh nghiệm của mỗi người.

Ngược lại, chính tình yêu đem lại giá trị siêu việt, tình yêu thách thức với quyền lực, tình yêu là sự trông chờ Thiên Chúa.

Khi sống với tình yêu, con người sẽ thoát khỏi mọi cám dỗ, và sẵn sàng để gặp gỡ với Thiên Chúa, Đấng là Tình Yêu.

Tiến bước trong niềm vui

Toàn bộ cuộc sống Ki-tô hữu chúng ta tại trần gian này vẫn thường gặp những cám dỗ như thế: tôn thờ tiền bạc; phô trương quyền lực khi sử dụng nó làm phương hại đến người khác; lệ thuộc vào tôn giáo, coi tôn giáo như một phương tiện để thỏa mãn tham vọng cá nhân. Có biết bao thứ mặt nạ mà quỉ vẫn dùng để làm cho con người nghi ngờ về cuộc sống của mình. Có biết bao người cảm thấy khó khăn khi phải nói lên lời "không" trước những cám dỗ như thế. Họ nghĩ rằng thu tích của cải thì tốt hơn là chia sẻ, củng cố quyền hành thì tốt hơn là phục vụ, và sẵn sàng sử dụng những điều tốt lành thiêng liêng vào những mục đích phàm trần.

Khi thu tóm nơi mình những cám dỗ của dân Ít-ra-en và của toàn thể nhân loại, ngay trước khi thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng, Đức Giê-su cho chúng ta thấy Người hoàn toàn tín thác trong tay Chúa Cha, hoàn toàn tin tưởng vàolời Thiên Chúa.

Như vậy, thái độ cần phải có trong mùa Chay này là lòng tín thác vào Thiên Chúa. Sự tín thác này không giảm bớt tầm quan trọng trong những cuộc chiến và những sức mạnh đang đe dọa chúng ta. Chúng ta không thể chiến thắng được sự dữ nếu không tin tưởng vào Thiên Chúa. Chúng ta sẽ gục ngã trước sức mạnh của sự dữ nếu chúng ta chỉ dựa vào sức lực riêng của mình.

Ở đây chúng ta nhớ đến lời Đức Ki-tô nhắn nhủ các môn đệ: "Giống quỉ ấy chỉ trừ được bằng lời cầu nguyện thôi" (Mc 9,29). Cầu nguyện để duy trì cuộc tiếp xúc thường xuyên với Thiên Chúa, cầu nguyện để khổ chế.

Tiếp đến, noi gương Đức Giê-su, chúng ta sống đời chay tịnh đe chia sẻ cho những người đang đói, để thanh luyện chính mình, nhất là để sám hối và tiến bước trong niềm tin.

Như thế, một cuộc phiêu lưu mới lại bắt đầu!

 

20.Cám dỗ

Chuyện kể rằng có một ông hoàng kia rất đạo đức. Ngày nào ông cũng thức dậy lúc 5 giờ sáng để đọc kinh. Nhưng một hôm ông quên đọc kinh. Thấy vậy, tướng quỷ Satan đến đánh thức ông. Khi biết kẻ đánh thức mình là Satan, ông hòang ngạc nhiên. Quỷ liền nói: tôi là ai, điều đó không quan trọng. Việc đánh thức ngài là điều tốt. Ngài thấy không, ai làm việc lành cũng đều là người tốt cả. Ông hòang suy nghĩ: không bao giờ quỷ làm điều tốt cả. Ông nhân danh Chúa, bảo quỷ phải nói sự thật: lý do nào mà mi đánh thức ta?

Bấy giờ quỷ buộc phải nói thật: nếu ngài ngủ quên không đọc kinh sáng thì khi thức dậy, ngài sẽ hối hận và khiêm tốn sửa chữa để sống đạo tốt hơn. Còn ngày nào ngài cũng tỏ ra sốt sắng, thì ngài sẽ kiêu căng tự phụ cho mình là đạo đức đủ rồi. (Trích "Món Quà Giáng Sinh")

Cám dỗ là điều thường xảy ra trong cuộc sống chúng ta. Cám dỗ có thể do những tác động khách quan bên ngoài, nhưng có lúc cũng do chính chúng ta. Cám dỗ của ma quỷ thường rất tinh vi. Nếu chúng ta không khiêm tốn cầu nguyện thì thì chúng ta không nhận ra được đâu là bẫy cám dỗ của ma quỷ.

Chính Đức Giêsu ngày xưa mà còn bị 3 cám dỗ một lúc. Trước nhất ma quỷ cám dỗ Ngài dùng quyền phép mình để biến sỏi đá thành cơm bánh mà ăn trong lúc đói lả. nhưng ngài đã thắng vượt nhu cầu ăn uống này bằng sức mạnh của lời Chúa. Ma quỷ cũng cám dỗ Ngài về vinh hoa phú quý, giàu sang, uy quyền nhưng Ngài đã thắng vượt nó vì Ngài trung tín với Chúa Cha và đặt hết nìềm tin tưởng nơi Cha. Sau cùng, ma quỷ xui giục Ngài thử thách Thiên Chúa. Nhưng Đức giêsu đã dùng lời kinh thánh mà đánh thắng ma quỷ gian manh.

Đức Giêsu đã thắng vượt mọi chước cám dỗ của ma quỷ bằng lòng tin cậy mến vào Chúa Cha để nêu gương cho chúng ta trong việc sống đạo hôm nay. Chúa biết chúng ta thế nào cũng bị cám dỗ, nên Ngài đã cho các tông đồ ghi lại kinh nghiệm sống đức tin và cách chiến thắng cám dỗ của Ngài cho chúng ta noi gương bắt chước như lời trong thư gởi tín hữu Do Thái nói:"Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội. Bởi thế, ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần."(dt 4, 15-16)

Cuộc sống chúng ta hôm nay không thiếu những cạm bẫy, những cám dỗ của ma quỷ, của thế gian, và xác thịt. Ma quỷ thường lợi dụng phương tiện thế gian để bày ra đủ thứ chươc cám dỗ như phim ảnh, sách báo xấu, các tư tưởng sai lạc truyền bá khắp nơi khiến ai có xu hướng sống theo xác thịt sẽ dễ bị mắc lừa. Ngoài ra, thời đại tân tiến này, cái gì cũng có thể nhờ máy làm dùm. Đó cũng có thể là một cách cỗ võ con người tìm lối sống dễ dãi, kích thích tính ham hưởng thụ, lười biếng, thích nhàn hạ của con người. Chúa không cấm chúng ta sử dụng những phương tiện máy móc, nhưng Ngài muốn chúng ta tận dụng nó để có thêm thời giờ lo cho lình hồn, lo việc thờ phượng Chúa và giúp đỡ tha nhân chứ không chỉ tìm hưởng thụ cho thân xác mình.

Chúng ta là con cái Chúa, đã được chuộc bằng giá máu Con Một Chúa, hãy năng suy gẫm lời Chúa và xin Chúa Thánh Thần ở cùng chúng ta, giúp chúng ta sáng suốt chống lại mọi cám dỗ của ma quỷ, thế gian và xác thịt để chúng ta xứng đáng là con cái Chúa và giống Thầy Chí Thánh của mình.

 

21.Tín hữu bị cám dỗ cách riêng về điều gì?

(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)

Đức Giêsu khởi đầu cuộc rao giảng Tin Mừng về tình yêu thương xót và cứu độ của Thiên Chúa; rồi trong tư cách một người phàm, qua kinh nghiệm ‘cám dỗ’ nơi chính bản thân mình, Người cho thấy phải tiếp nhận Tin Mừng cứu độ đó như thế nào. Kinh nghiệm chiến đấu với cám đỗ này mang tính phổ quát, cách riêng có giá đối với Kitô mọi thời đại và trong mọi hoàn cảnh, không chỉ dưới khía cạnh luân lý nhưng nhất là trong thái độ tiếp nhận Tin Mừng. Càng là Kitô hữu, dầu là các linh mục - tu sĩ đã được tu luyện nhiều năm tháng, ai trong chúng ta cũng cần liên tục vượt thắng các cơn cám dỗ đánh trực tiếp vào niềm tin của mình.

Nói tới ‘cám dỗ’ thông thường ta nghĩ ngay tới điều gì đó cấm kỵ, thuộc lãnh vực luật lệ hay luân lý mà mọi người phải xa tránh; vì thế cho nên nhiều người cắt nghĩa trình thuật Đức Giêsu chịu cám dỗ như sau: Người bị ma quỉ cám đỗ về mê ăn uống, về tính khoe khoang hay tự tôn tự đại; nhất là sự hiện diện của ‘con quỷ’ lại càng làm cho vấn đề thêm vẻ ‘luân lý’. Đã sống trên đời thì phàm ai cũng bị ‘cám dỗ’ như thế thôi, chẳng cứ gì Đức Giêsu hay Kitô hữu; và như thế thì bài học của Đức Giêsu về chống trả cám đỗ càng ít giá trị khi mà ta muốn giới thiệu Người như ông thầy dạy luân lý (moralist). Điều này chắc chắn không đánh trúng trọng tâm, vì trước Người, đã có rất nhiều bậc thánh hiền thuộc nhiều tôn giáo và triết thuyết khác đã từng dạy và phổ biến những nền luân lý và đạo đức còn cao đẹp và cặn kẽ hơn, cũng như đưa ra các phương thế chế ngự hữu hiệu hơn nhiều. Họ không những giải thích bản chất của cám dỗ (tham, xâm, xi) mà còn dạy các phương pháp chế ngự vượt thắng (diệt dục, tự kỷ) rất căn cơ và bài bản. Nếu thế thì Kitô hữu chúng ta rút ra được điều gì qua bài học ‘chiến thắng cám đỗ’ của Đức Giêsu, khi mà Người không chỉ bị cám dỗ ‘luân lý’ về mê ăn uống, khoe khoang hay thống trị, mà sâu sắc hơn, Người đang cho thấy một kinh nghiệm chống trả thách thức đối với đức tin trong tư cách Kitô hữu?

Tôi thiết nghĩ mọi ‘tín hữu’ - bất luận thuộc tôn giáo nào (miễn là không thuộc hạng vô đạo) vẫn cho rằng đời mình được xây dựng trên niềm tin vào một đấng vô hình; có một điều họ cần làm, nhưng lại rất ít khi thực hiện, đó là duyệt xét xem mình thực sự mong đợi điều gì nơi đấng đó. Họ coi như chuyện đương nhiên, ‘niềm tin’ là chờ đợi Chúa (hoặc Trời, hoặc Phật, hoặc Thần Thánh) chu cấp cho cuộc sống mình được đầy no, sung túc; cao hơn thế nữa, để đời mình được thăng hoa trong thành đạt và danh vọng, được danh thơm tiếng tốt… và cao thượng hơn nữa là được đắc đạo, là đạt tới nhân đức thánh thiện, trọn lành. Niềm tin ‘kỳ vọng’ này hình như rất phổ biến nơi người ‘có đạo’ thuộc mọi tôn giáo, trong đó có cả Kitô hữu chúng ta. Điều được coi như tất yếu, như lẽ thường tình này thì hôm nay lại bị Lời Chúa liệt vào loại ‘cám dỗ’, mà Đức Kitô trước nhất, rồi tới mọi Kitô hữu chúng ta, phải thắng vượt. Trong tư cách một con người đặt niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa là Cha, Đức Giêsu đã nêu gương chiến đấu và chiến thắng cơn cám dỗ tinh vi này như thế nào? Thường tình ta sẽ nghĩ rằng, Thiên Chúa phải (truyền) biến những hòn đá thành lương thực để nuôi sống tôi… vì tôi đã tin vào Ngài, phải gìn giữ tôi “kẻo chân vấp phải đá”… vì tôi đã cậy trông nơi Ngài, phải ban cho tôi thành công, quyền lực, vinh quang, phúc lộc… vì tôi đã ”bái lạy, thờ phượng Ngài”.

Đối với Đức Giêsu, tin vào Thiên Chúa trước hết phải là lắng nghe, phó thác và qui về Thiên Chúa nhân ái cách trọn vẹn và vô điều kiện! Đặt bất cứ điều gì khác lên trên niềm tin phó thác tuyệt đối đó, cho dầu có là nhu cầu cuộc sống, là thăng tiến nhân bản, là trọn lành đạo đức…, thì đều bị coi là cám dỗ đối với đức tin. Trước lời cầu cứu khẩn thiết rất chính đáng của các môn đệ trong cơn bão táp: “Thầy ơi, chúng con chết đến nơi rồi!” (Mc 4:38), hay của Phê-rô trong lúc bị chìm xuống nước: “Thầy ơi, cứu con” (Mt 14:30) thì Đức Giêsu vẫn luôn quở trách các ông là đã ‘sa ngã’ vào cơn cám đỗ đức tin: “Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”

Vì thế, vào đầu mùa chay thánh, thời gian mà Hội Thánh mời gọi con cái mình duyệt xét và củng cố niềm tin vào một Thiên Chúa đã tự hiến, đã chết và phục sinh để cứu độ, bài tường thuật về các cám đỗ Đức Giêsu đã trải qua khi khởi sự cuộc rao giảng Tin Mừng về Chúa Cha nhân ái cứu độ thật có ý nghĩa và đánh rất trúng trọng tâm; trong số các điều cần chấn chỉnh trong Mùa Chay thánh này, các Kitô hữu chúng ta (ngay cả các linh mục, tu sĩ) cần phải đặt việc chấn chỉnh đức tin lên hàng đầu:

- Phải chăng tương quan giữa tôi với Thiên Chúa (của Đức Kitô) vẫn chủ yếu là cầu xin cho được no đủ, được che chở, được thăng tiến trong nhân đức, trong tông đồ…?

- Niềm tin và phó thác tuyệt đối vào một Thiên Chúa từ nhân và hay thương xót, đã cho Con Một Người xuống thế để sống và chết cho tôi, đang ở mức độ nào?

- Trong cuộc sống Tin Mừng của tôi, giữa cầu xin các ơn huệ và phó thác tin tưởng cho tình yêu nhân ái, điều nào nổi trội hơn?

Mùa chay là thời gian để tôi suy nghĩ và trả lời các vấn nạn trên, nếu tôi thật sự muốn chân thành hoán cải!

Lạy Chúa! Mùa Chay là thời gian hồng phúc, là thời gian thuận tiện để con tiến xa hơn trong niềm tin vào lòng Chúa yêu thương. Xin cho con hằng biết chiêm ngưỡng Đức Kitô Cứu Chúa tự hiến trên Thập Giá, để không bao giờ con rơi vào cám dỗ đặt tin tưởng vào tình Chúa yêu thương chỉ thông qua các ân huệ mình nhận được. Qua Mùa Chay thánh này, xin cho con có được niềm xác tín vững chắc như Phao-lô: “không gì có thể tách tôi ra khỏi tình yêu của đức Giêsu Kitô, cho dầu là…” A-men.

 

22.Hành trình cuộc đời – Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn

Khởi đầu sứ vụ rao giảng công khai, Chúa Giêsu được Thánh Thần đưa vào hoang địa để ở lại nơi đó bốn mươi ngày. Thế ra, để một hoạt động mang lại hiệu quả, hoạt động đó phải được xây dựng trên nền tảng tĩnh lặng. Chính trong tĩnh lặng mà con người có thể xác định đường đi nước bước và tiến tới việc chọn lựa chính xác mục tiêu.

Trước đây, mỗi lần đọc bài Phúc âm “Chúa Giêsu vào hoang địa chịu ma quỉ cám dỗ”, tôi đều nghĩ đến nỗi cảm thông sâu xa mà Đức Giêsu đã chia sẻ với nhân loại trong thân phận con người. Đời là một cuộc chiến đấu và chọn lựa. Trong kiếp người, Đức Giêsu cũng không ra khỏi thông lệ đó. Chắc hẳn Ngài không chỉ đơn thuần hiểu thấu nỗi đau khổ nơi thân xác lẫn tinh thần của kiếp nhân sinh, nhưng Ngài còn cảm được những khó khăn, yếu đuối, và gian nan trước bao cuộc chiến của con người với ma quỉ, xác thịt, và thế gian.

Đức Giêsu cũng trải qua cuộc chiến như ai. Ngài cũng chịu thử thách giống Ađam ngày xưa trong vườn Địa đàng. Ngài cũng đón nhịu cám dỗ như Dân Do thái trong hoang địa. Nhưng Ađam thì sa ngã, chạy theo những lôi cuốn của giác quan và quyền lực. Dân Do thái thì bất trung, dám thử thách và chống lại Thiên Chúa khi tôn thờ “cái bụng” và thần ngoại.

Riêng Đức Giêsu, Ngài đã chiến thắng và mang lại cho con người một niềm hy vọng tươi sáng và hướng đi huy hoàng: Chọn lựa và tin tưởng Thiên Chúa, con người sẽ chiến thắng Satan.

Để có thể làm nên cuộc chọn lựa chính xác và tin tưởng vững vàng những gì mình lựa chọn, tôi cần có sự tĩnh lặng tâm hồn. Nếu đời là một cuộc chiến và chọn lựa liên lỉ, tôi phải không ngừng tìm vào “hoang địa”, để nơi đó luôn xác định cho lối đi, đích tới và phương tiện tiến bước của đời mình.

Lần này, khi đọc lại bài Phúc âm “Chúa Giêsu chịu cám dỗ” qua lăng kính “đi vào tĩnh lặng để xác định một sự chọn lựa”, tôi đón nhận được từ Lời Chúa một nguồn sinh lực mới, làm phong phú cho hành trang đức tin, trên con đường hy vọng.

Chúa Giêsu đi vào hoang địa, nơi đó trong thinh lặng và nguyện cầu, Ngài xác định con đường mình sẽ đi: “con đường cứu độ nhân loại”. Đích tới của việc cứu độ đó không phải là mang lại cơm bánh cho con người. Đối với Đức Giêsu, cứu độ hay giải phóng không phải là việc cung cấp cho con người phúc lợi vật chất: “Người ta sống không chỉ nhờ bánh” (Lc 4:4). Đây chính là lầm lẫn của thần học gia Leonard Boff, khi quá chú tâm đến việc giải phóng con người khỏi cái nghèo thân xác mà quên mất nỗi tiều tuỵ bần cùng của tâm linh, một sự bần cùng mà chỉ có Chân Lý Yêu Thương mới giải phóng được mà thôi. “Chân Lý sẽ giải phóng con người.”

Nhưng chân lý đó ở đâu nếu không phải là từ Lời Chúa. Thế nên yếu tố mà Đức Giêsu chọn lựa để cứu độ con người chính là Lời: “Người ta sống không chỉ nhờ bánh, nhưng là nhờ vào mọi lời xuất từ miệng Thiên Chúa” (Mt 4:4). Mà Đức Giêsu chính là Lời của Thiên Chúa. Như thế, Ngài tự khẳng định: không ai khác, không một điều gì khác, ngoại trừ Ngài, chính là con đường cứu thoát duy nhất cho nhân loại.

Sau khi đã nhìn ra con đường giải thoát chân chính và duy nhất, Đức Giêsu đã làm thêm một cuộc chọn lựa khác: chọn lựa phương tiện. Đối với Ngài, phương tiện cứu độ không phải là phép lạ.

Nhảy từ trên đỉnh cao của đền thờ xuống mà không hề hấn gì thì quả là một phép lạ cả thể đấy chứ. Không chừng nhờ phép lạ như vậy mà nhiều người sẽ phục sát đất và tin nhận mình là Đấng Thiên Sai. Nhưng Chúa Giêsu không chọn phép lạ.

Ngày hôm nay, khoa học kỹ thuật tiến bộ đến nỗi đã phát minh không biết cơ man nào là “phép lạ”. Ví dụ, trước đây, khi một noãn cầu của người phụ nữ được thụ tinh, nhiều lắm là mười tháng sau, một đứa bé sẽ chào đời. Nhưng hiện nay, kỹ thuật khoa học có thể làm phép lạ giữ trứng thụ tinh đến 6, 7 năm sau mới cho mầm sống tiếp tục phát triển và chào đời. Bằng phép lạ cloning (sao người), khoa học có thể làm ra một thân xác không đầu để lấy các cơ phận, mà cung cấp cho những ai cần đến.

Trong hoang địa, Chúa Giêsu đã xác định phép lạ không phải là phương thế tuyệt hảo để cứu độ con người. Ngài thấy trước rằng khi thiếu niềm tin, khi mất chân lý, thì phép lạ hay bất cứ một sự thần thông biến hoá nào cũng không mang ơn cứu độ. Trái lại, chỉ gây ra tình trạng huỷ diệt nhân phẩm và làm tàn lụi sự sống con người.

Thế nên, phương thế cứu độ không phải là phép lạ, nhưng là niềm tin. Một niềm tin vững vàng vào Thiên Chúa chính là phương thế mang ơn cứu độ. Biết bao lần Chúa Giêsu chữa lành què quặt, đui mù, đau yếu, phung hủi… và Ngài chẳng bao giờ tuyên bố: “Phép lạ của Ta đã cứu chữa con” nhưng luôn là: “Lòng tin của con đã cứu chữa con.” Như thế niềm tin vào Chúa Giêsu chính là phương thế cứu độ bảo đảm nhất.

Đã có con đường và phương tiện di chuyển, nhưng đâu là cùng đích cho cuộc hành trình? Xin thưa: “Thiên Chúa”. Đức Giêsu chỉ rõ: “Ngươi phải bái lạy Thiên Chúa, và chỉ thờ phượng một mình Người” (Lc 4:8).

Trong thinh lặng và cầu nguyện của mùa Chay Thánh, người tín hữu được mời gọi nhìn lại hành trình cuộc đời. Thử hỏi, nẻo đường tôi đi có được soi sáng bởi Chân lý Tin mừng, hay chỉ là gian dối lọc lừa? Niềm tin trong tôi đang dẫm chân tại chỗ hay vững vàng tiến bước? Đích cùng của đời tôi chính là Thiên Chúa Tình Yêu, hay miếng cơm, xác thịt, đồng tiền, uy quyền, danh dự.

Có quyết tâm đi vào sa mạc lòng mình, với những hy sinh, cầu nguyện, bố thí, giúp đỡ đồng loại,

Có chân thành nhìn lại và trả lời với chính mình về con đường, phương tiện, và đích tới trong đời,

Có chọn lựa, tin tưởng, và phó thác hoàn toàn nơi Thiên Chúa,

Tôi mới mong có được một mùa Chay ý nghĩa và tràn đầy sức sống nội tâm, hứa hẹn một ngày Phục sinh vinh quang.

 

23.Bước vào Mùa Chay với Thánh Thần Tình Yêu

(Suy Niệm của Dã Quỳ)

Chúa Nhật hôm nay, người ta mừng lễ Tình Yêu (St.Valentin). Rất nhiều cửa hàng bày bán quà, hoa, Chocolat cho những đôi tình nhân và những người mừng lễ. Thế nhưng chúng ta, những Kitô hữu lại cử hành Chúa Nhật thứ nhất Mùa Chay, là mùa để sám hối cách rõ nét qua ăn chay, cầu nguyện và làm việc bác ái. Vậy lễ Tình yêu và Mùa Chay có đối lập với nhau không?

Thánh sử Luca đã kể lại cho chúng ta hành trình vào sa mạc của Chúa Giêsu:"Đức Giêsu được đầy Thánh Thần, từ sông Gio-đan trở về và được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa."(Lc 4,1). Với những chi tiết này, chúng ta nhận thấy rằng Chúa Giêsu được hướng dẫn bởi Tình Yêu của Thiên Chúa suốt dọc dài từng bước của Người trong sa mạc. Thế mà sau bốn mươi ngày ăn chay, cầu nguyện ấy:"Người chịu ma quỉ cám dỗ."(Lc 4,2) Những cơn cám dỗ này cũng rất phù hợp với hoàn cảnh cụ thể. Ma quỉ tinh khôn lợi dụng thời điểm và lời Kinh Thánh để cám dỗ Chúa. Thế nhưng, Chúa đã chiến thắng những cám dỗ của ma quỉ cũng với trích dẫn Kinh Thánh. Chắc chắn Người chiến thắng cách mạnh mẽ vì Người là Con Thiên Chúa và tràn đầy Thánh Thần.

Khuynh hướng tìm kiếm của ăn, tiền bạc, danh vọng, quyền lực cũng là những thử thách mà chính chúng ta, những chi thể của Chúa cũng luôn phải đương đầu trong cuộc sống! Khi để cho Thánh Thần hướng dẫn và thúc đẩy qua Lời Thiên Chúa để có thể chiến thắng được tên cám dỗ, Chúa Giêsu dạy chúng ta là những con cái của Người biết chọn lựa như thế nào trong cuộc sống hằng ngày mà xung quanh ta tràn ngập những cám dỗ.

Cuộc sống của ta không thể tránh được những thử thách từ cám dỗ. Vì chúng ta không thể mạnh mẽ và lớn lên mà không trải qua những thử thách. Cũng không thể có chiến thắng, có vương miện mà không có chiến đấu và đối diện với kẻ thù. Đức tin có trải qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn và xác tín vững mạnh. Thánh Phêrô cũng đã thấy trước và từng trải qua những cám dỗ, ngài khuyên chúng ta: "Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỉ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé. Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự, vì biết rằng toàn thể anh em trên trần gian đều trải qua cùng một loại thống khổ như thế."(1Pr 5,8-9)

Vậy chúng ta hãy theo Chúa Giêsu vào sa mạc tâm hồn của mình và ở đó với Chúa. Hãy nhìn vào những ngổn ngang bừa bãi đang chiếm ngự cuộc sống chúng ta và kiên trì sắp xếp lại tất cả. Hãy đem theo ước muốn chay tịnh và cầu nguyện, ăn năn và sám hối từ cõi lòng mình. Chúng ta cũng hãy mang theo mình những cám dỗ đã làm cho ta đau đớn ngày này sang ngày khác, và khuynh hướng đi tìm của cải, quyền lực, danh vọng, uy thế và sự thỏa mãn. Hãy suy niệm Lời Chúa và cậy dựa vào sức mạnh của Chúa để có thể chiến đấu như thánh Phaolô dạy "Anh em hãy tìm sức mạnh trong Chúa và trong uy lực toàn năng của Người. Hãy mang toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa để có thể đứng vững trước những mưu chước của ma quỉ....Hãy đội mũ chiến là ơn cứu độ và cầm gươm của Thần Khí ban cho, tức là Lời Thiên Chúa."(Ep 6,10.17)

Chúng ta hãy bước vào Mùa Chay năm nay với lòng tin tưởng. Bốn mươi ngày trước lễ Phục Sinh được trao tặng để chúng ta chỉnh đốn và thắt chặt lại mối tương quan tình yêu của ta với Thiên Chúa là Cha chúng ta trong cầu nguyện, qua ăn chay, sám hối, thay đổi lối sống và thực thi đức ái với tha nhân. Bước theo Chúa Giêsu Kitô sát kề hơn vì Người đã đi trước chúng ta trên hành trình làm người. Như Chúa Giêsu, chúng ta hãy đặt mình dưới sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần-Đấng là Tình Yêu và sự Thánh Thiện để rồi trong Chúa Giêsu và cùng với Thánh Thần, ta cũng vượt qua được những cơn cám dỗ và chiến thắng ma quỉ cách vững vàng.

Lạy Thiên Chúa-Cha chúng con, xin ban Chúa Thánh Thần để Người dẫn chúng con vào trong sa mạc Mùa Chay Thánh này. Xin lắng nghe những lời cầu nguyện chúng con dâng lên Cha: Lạy Cha chúng con ở trên trời...xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen.

 

24.Sự lựa chọn của Chúa Giêsu

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Ba Tin Mừng đều trình bày cơn cám dỗ như là trình bày phép rửa. Sự liên hệ là thời gian vì cả hai sự kiện gắn liền nhau "Bấy giờ Chúa Giêsu được Thần Khí dẫn vào samạc' (Mt) "và lập tức Thần Khí đẩy Ngài vào samạc' (Mc) "Chúa Giêsu đầy Thánh Thần, từ giã vùng sông Giođan" (Lc), Nhưng cùng một chủ đề: tuyên xưng Chúa Giêsu như là con Thiên Chúa đã nhận lấy thử thách. Cám dỗ ở chỗ bắt Chúa Giêsu chọn lựa giữa những gì có thể.

Ba nhãn quan về chính một sự kiện

Biết rằng Thánh Thần dẫn Chúa Giêsu vào samạc và ở đó 40 ngày chịu satan cám dỗ. Mc trình bày rất cô đọng, còn Mt và Lc đã sử dụng một truyền thống thuật dạy giáo lý sư phạm hơn; lặp lại, phương cách Thánh Kinh, đưa ra cảnh đối nghịch giữa tên cám dỗ và Chúa Giêsu; điều đó thể hiện một giai đoạn nhất định, sẵn sàng ghi lại trong một trình thuật và một cốt truyện về căn tính của Chúa Giêsu và nguồn gốc của Ngài trong lịch sử Israel.

Trình thuật trong ngữ cảnh của Luca

Trình thuật này tự nó hầu như đã đầy đủ: có ý nghĩa. Có một sự khởi đầu ('Chúa Giêsu được dẫn vào trong samạc và bị ma quỷ cám dỗ"). Cuộc gặp gỡ mở ra làm cho các nhân vật xuất hiện, tương ứng, vào cuối trình thuật, chia rẽ ("ma quỷ lìa bỏ Chúa Giêsu mà chờ dịp"). Nhưng trình thuật của chúng ta là thành phần của một lịch sử lâu dài: ghi chép trong một bản văn rộng lớn hơn. Phép rửa (3,21-22), tiếp theo là gia phả (3,23-35) dẫn vào hai khuân mặt tính của Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa và con người. Hai mặt tính này chắc chắn dẫn đến sự cám dỗ. Tiếng từ trời tuyên phán là Con Thiên Chúa, được ghi lại trong tiến trình lịch sử nhân loại bởi gia phả, Chúa Giêsu được dẫn vào samạc.

Đọc lại trình chúng ta thấy rõ. Ma quỷ lìa bỏ Chúa Giêsu để chờ dịp. Điều này muốn nói rằng, cuộc chạm trán giữa Chúa Giêsu và tên cám dỗ được nhắc đi nhắc lại. Nhưng chắc chắn kết thúc. Chiến thắng của Chúa Giêsu được thánh hiển bởi sự nhận biết ("danh tiếng Người đồn ra khắp vùng"), sẽ được hoàn tất khi thời gian tới; có nghĩa là khổ nạn bất chợt.

Một vở kịch ba hồi

Trình thuật diễn ra theo một trình tự rõ ràng. Trước hết, các diễn viên kịch được đưa vào. Bên này là Chúa Giêsu, bên kia là ma quỷ. Hai nhân vật không cần được giới thiệu. Chúa Giêsu được độc giả biết đến khi tin vào Ngài gửi đến trong Tin Mừng. Ma quỷ là thành phần của thế giới quen thuộc của người Dothái ở thế kỷ đầu. Rất thú vị, mô tả tên nó có nghĩa là một chương trình. "Satan" tiếng Dothái ("quỷ" tiếng Hylạp) chỉ tên đối phương. Đó là một nhân vật mà bản tính là đối đầu. Nó đối đầu với ai? Với Thiên Chúa trước tiên và trước hết mọi sự Chúa Giêsu đến để được Thiên Chúa tiên phán là Con.

HỒI THỨ NHẤT (V. 1-4)

Hồi thứ nhất có khung cảnh là samạc. Sự định vị này không rõ nét. Đối với con người trong Thánh Kinh, samạc tự nhiên gợi lên thời Xuất hành và đối diện thường xuyên, đau khổ giữa Thiên Chúa và dân Ngài. 40 ngày nhắc lại 40 năm trong samạc và 40 ngày Môsê ở trên núi. Chúa Giêsu ăn chay 40 ngày. Ở trong tình trạng cần thiết và mỏng giòn. Ma quỷ đặt ra cho Chúa Giêsu khi đưa ra sự thiếu điều cần thiết này: "Hãy truyền cho hòn đá này biến thành bánh". Như là một gợi ý quy kết một cái nhìn chính xác của Con Thiên Chúa. Thực vậy, đối với ma quỷ, tương đương với là Con Thiên Chúa.

Đứng vào cương vị quyền lực: "hãy truyền cho hòn đá này...". Tránh trật tự bình thường của bản tính muốn rằng những hòn đá chỉ là những hòn đá và bánh chỉ là bánh. Sự từ chối của Chúa Giêsu mạc khải cách là con của Ngài. Ngài đối đầu hai lần với ma quỷ.

- Ra lệnh: ngươi phải vâng lời: "có lời chép". Nó ẩn chứa sau một lối văn từ Sách Thánh để làm sáng tỏ thái độ.

- Được mời gọi trở lại cách đặc biệt, đồng nhất với con người "người ta sống không nguyên bởi bánh". Đó là cả một chương trình. Đối với Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, như lời Kinh Thánh, trở nên người vâng lời của Lời. Đó cũng chấp nhận làm cho cái đói dừng lại để chứng nhận một cái đói khác, để làm cho samạc chỉ còn là nơi mong muốn.

HỒI THỨ 2. (V 5-8).

Sự chuyển biến đột ngột ở đây. Từ cao xuống(trả lại) sự thống trị. Cái nhìn (ma quỉ) nó chỉ cho Đức Giêsu tất cả các nước là một cách chiếm hữu lập tức (trong chốc lát), và trong tổng thể(tôi sẽ cho ông tất cả quyền lực này). Là con theo ma quỉ đó là thử thách, một sự thống trị tuyệt đối trên các nước thế gian. Để thấy rõ mối liên quan cần phải đọc lại 2 sự cám dỗ.

Nếu ông là con Thiên Chúa (5,3)

Nếu ông thờ lạy tôi (5,7).

Ở đây, ma quỉ tự vạch trần. Con Thiên Chúa mà nó thách thức được mời gọi tôn thờ nó, có nghĩa là bắt phải theo một thần biến hoá và thờ tân lượng có bộ mặt các nước thế gian.

Đối diện với lời đề nghị này, Chúa Giêsu xắp đặt lại cái nào vào vị trí cái ấy. Đối với Satan, sự biến hoá của Thiên Chúa, nó nhắc lại rằng chỉ có một Chúa. Hơn nữa, trong khi nép mình một lần nữa vào sau Lời, Ngài đặt chính ma quỉ và vị trí của nó: "ngươi phải thờ lạy Thiên Chúa ". Nó dẫn Ngài lên cao để thử thách nước Người vềụ thực tại quyền lực Chúa Giêsu đặt ra sự khoảng cách căn bản giữa quyền lực thế gian và nước Thiên Chúa.

HỒI THỨ 3 (V 9-12).

Cuối cùng ma quỉ mang Chúa Giêsu lên nóc Đền thờ Giêrusalem. Sau cuộc cám dỗ lần thứ nhất và kinh tế, tiếp theo lần thứ hai về chính trị, và đây cám dỗ về tôn giáo. Như trước, Chúa Giêsu bị đặt dưới thực tại để chế ngự tốt nhất. Ở đây, cám dỗ gieo mình từ đền thờ xuống để chiếm được ngay lập tức và với sự giúp đỡ tuyệt vời, sự nhận biết của dân Dothái.

Ở đây ma quỉ còn biện minh rõ ràng về danh tính của nó, nó là kẻ chống đối Thiên Chúa. Nếu chúng ta đọc bản văn này, chúng ta có thể thấy lời đề nghị này rất (thô thiển). Trong thực tế, cám dỗ luôn là tế nhị vì rằng cám dỗ biết thể hiện sự thật bên ngoài. Ma quỷ đặt Chúa Giêsu vào một vị trí ngược lại với Ngài: mục tiêu tối hậu của nó là chỉ cho thấy rõ Đền thờ Giêrusalem để biết rõ hơn.

Khi đó, phải đặt sự cám dỗ vào đâu và tại sao Chúa Giêsu lại đẩy lùi cơn cám dỗ? Nếu Chúa Giêsu chịu thua tên cám dỗ, thì Ngài trở về với những niềm mong đợi của dân chúng, đi tìm một Messia huy hoàng và hiệu lực. Chúa Giêsu đã từ chối ít nhất hai kiểu trên. Trước hết chính vì Ngài mà Ngài phải chờ đợi thời gian thuận tiện, tiếp theo là con đường mà Ngài chọn bao hàm sự chôn vùi trong con người, sự kiên trì và sau cùng có nguy cơ thất bại. Thái độ của Chúa Giêsu thật rõ ràng: được mời gọi xác định căn tính tiên tri của mình. Ngài khẳng định cách từ chối của mình thật tuyệt vời lạ thường.

Phần kết:

Cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu và tên cám dỗ kết thúc bằng sự chiến thắng của Chúa Giêsu: "ma quỷ lìa bỏ Ngài mà chờ dịp". Để chúng ta hiểu rõ rằng cuộc đối đầu này báo trước dịp cám dỗ khác. Lc đưa cho chúng ta ít nhất là hai dấu hiệu. Trước hết Lc đảo ngược trật tự của những cơn cám dỗ khi đặt thử thách ở nóc Đền thơ vào cuối. Đó là một cách nhấn mạnh rằng giai đoạn cuối cùng của cuộc đối đầu sẽ diễn ra trong thành thánh. Tiếp theo khi thời khổ nạn đến, Lc viết: "Satan nhập vào Giuđa Iscariot" (Lc 22,3): đó là dấu hiệu "chờ dịp" hoàn thành.

Sử tính của cuộc cám dỗ

Hình như hiển nhiên rằng trình thuật này không phải được hiểu theo nghĩa đen. Bản văn Tin Mừng là một bố cục được soạn thảo rất công phu, trong bố cục đó từ Giáo Hội sơ khai rồi đến các sách Tin Mừng đã tổng hợp cái mà họ biết về căn tính của Chúa Giêsu, trải qua những cơn cám dỗ mà Ngài đã đẩy lui. Nhưng điều đó không muốn nói rằng đó là một cuộc sáng tạo từ hư không. Người ta có thể hình dung hai giả thuyết để phân tích tính lịch sử của cuộc cám dỗ. Cuộc cám dỗ thứ nhất cho rằng các tác giả Tin Mừng đã làm một cuộc sáng tạo văn học và thần học từ những cuộc cám dỗ rất thực tế mà Chúa Giêsu đã gặp phải trong đời sống công khai. Những người Dothái dùng ngôn ngữ của sự cám dỗ khi họ mời Chúa Giêsu xuống khỏi thập giá: "Nếu ông là Con Thiên Chúa thì hãy xuống khỏi thập giá và tự cứu mình đi" (Mt 27,40). Thánh Phêrô bị quở trách cũng chính những thuật ngữ mà tên cám dỗ: "Satan, hãy lui ra, ngươi làm cho Thầy vấp phạm" (Mt 16,23). Sau cùng, toàn bộ Tin Mừng, Chúa Giêsu tố cáo sự tìm kiếm tham lam về dấu chỉụ kỳ dị ở một số người Dothái.

Nhưng lời giải thích này có thể rất phù hợp với một giả thuyết khác ở khởi đầu đời sống công khai của Chúa Giêsu, một thời gian ẩn dật hay lựa chọn sẽ được đặt ra cho Chúa Giêsu. Sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa đánh dấu một bước ngoặt trong đời mình, Chúa Giêsu phải lựa chọn. Những con đường dễ dãi mở ra trước Ngài: nó dẫn Ngài đến một niềm mong đợi Đấng Thiên Sai huy hoàng, thu hút đám đông bằng những phép lạ và dấu chỉ. Kết thúc một thử thách làm cho trong sạch. Chúa Giêsu ấn định một con đường khó khăn, hưu quạnh bởi vì ngược dòng với những khao khát của quần chúng. Chúa Giêsu đã biết, từ đầu cho tới khi kết thúc có sự vứt bỏ và sự chết.

Mở ra chiều kích Kitô học

Điểm mạnh của các trình thuật Tin Mừng là các trình thuật có sức mạnh chuyển tiếp các tường thuật về những sự thật sâu xa của Chúa Giêsu. Toàn bộ các nghĩa mở rộng xoay quanh trình thuật cám dỗ trở về thời xuất hành. Thời ấy dân Israel, con Thiên Chúa, thất bại, Chúa Giêsu thành công. Ở đây Ngài xuất hiện như:

- Con người ("người ta sống không nguyên bởi bánh") Ngài từ chối là Con Thiên Chúa trong khi ẩn đi tính nhân loại, trong khi trốn chạy những gò bó tự nhiên, không chấp nhận sự lâu la chậm trễ, trong một hạn từ thời gian cấu tạo bên trong đó tỏ rõ tự nhiên gian truân của con người nhân loại.

- Người tin gặp gỡ Thiên Chúa của họ được mạc khải trong Sách Thánh Thiên Chúa mở ra cho họ con đường.

- Người con trời gọi đến Thiên Chúa của mình để thoả mãn những nhu cầu của con người (của cả,i kinh tế, quyèân lực chính trị).

- Người con gặp Cha mình trong khi nghe Lời ở đó con người tìm thấy lương thực nuôi mình. Là con, đối với Chúa Giêsu đó là hoàn toàn đi vào trong những chỉ thị của giao ước mạo hiểm của sự nhập thể đến tận cùng.

 

25.Chúa Nhật I Mùa Chay

Anh chị em thân mến.

Có lần tôi chứng kiến hai người đang ồn ào với nhau, có những tiếng la, những tiếng cười, cùng với những âm thanh của sự té ngã. Đó là hai người đang vật lộn với nhau. Nhưng lạ thật, hai người không đồng cân sức với nhau, càng ngạc nhiên hơn nữa, võ sĩ tí hon luôn là người thắng cuộc, vì cậu ta rất nhiệt tình, cậu dùng hết sức mình, bậm môi trợn mắt, cậu nhận hai vai của đối phương xuống, nắm tóc, ghì đầu, ngồi trên mình. Còn đối phương lại là một người cao to khỏe mạnh, nhưng lại bất lực chịu thất bại cùng với những tiếng van xin, đồng thời cũng hòa lẫn với tiếng cười vui vẽ. Đến một lúc, trận đấu kết thúc. Người thua cuộc phải mang người thắng cuộc đi tắm rửa. Khi đó tôi nhận thấy, dường như kẻ thắng cuộc chưa đồng ý lắm, nhưng người thua giờ đây có vẽ cương quyết hơn, đứng thẳng lên và bước đi, mang kẻ thắng cuộc trên đôi tay của mình.

Đó là một người cha và một đứa con nhỏ. Khi người cha chấp nhận, thì đứa con con cho dù nhỏ bé như thế nào đi nữa, cũng có thể làm được mọi việc, kể cả việc nắm tóc cha mình mà kéo xuống. Nhưng khi người cha cương quyết và đứng thẵng lên, thì nó đành chịu thua trở lại và không làm được gì.

Chúng ta vừa chứng kiến một cuộc vật lộn giữa Chúa Giêsu và ma quỷ. Ma quỷ biết rất rỏ về đối phương, nó đánh ngay vào những yếu điểm, những nhu cầu thiết yếu của con người là của ăn, nhưng đành thất bại. "Ngưới ta không chỉ sống bằng cơm bánh". Nó liền xuất chiêu lợi hại hơn, là danh vọng giàu sang, với điều kiện là tuân phục nó, chịu thua nó thì nó sẽ ban cho những gì mà nó vừa cho nhìn thấy. " Ngươi hãy thờ lạy Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và chỉ thờ phượng một mình Người mà thôi". Nhưng nó cũng đành thất bại. Giờ đây nó dùng chiêu ngoạn mục hơn là biểu diển tài năng cho mọi người nhìn thấy để thử thách Thiên Chúa. Nhưng nó cũng phải chịu cảnh tương tự như các lần khác vì đối thủ của nó quá cương quyết, không nhượng bộ, không cúi đầu cho nên nó không làm gì được. "Ngươi chớ thử thách Chúa là Thiên Chúa của ngươi".

Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta thường nghe câu: "có thực mới vực được đạo". Câu nói trên để biện hộ cho cuộc sống lười biếng, biện hộ cho một đời sống quá nghiêng về vật chất mà quên đi Thiên Chúa của mình. Chính vì thế khi có một việc làm nào có lợi thì họ sẵn sàng không đi dự thánh lễ chúa nhật, từ bỏ cả lương tâm, từ bỏ cả những lời khuyên răn, từ bỏ cả con người ngay chính mà Thiên Chúa đã dựng nên. Để đạt được mối lợi, họ bất chấp tất cả. Ma quỷ không cần cám dỗ, nhưng chính họ tự động tìm kiếm và van xin cho được những chiếc bánh từ những hòn đá ô trọc của trần gian. Còn hơn thế nữa họ tự động muốn trèo lên đỉnh cao của cuộc sống, chấp nhận cúi đầu trước mọi thế lực, miễn sao đạt được danh vọng giàu sang. Nếu không đạt được điều mong muốn, họ quay ra phiền trách Thiên Chúa, đôi khi gay gắt hơn, họ còn có thái độ thù hận và chối từ Thiên Chúa của mình.

Những cơn cám dỗ mà ngày xưa Con Thiên Chúa làm người đã chiến thắng, thì giờ đây những hậu duệ của Ngài, đã phải té ngã cách thảm hại. Ma quỷ không cần phải bỏ đi để chờ dịp nào khác nữa, nó chỉ cần xuất chiêu là chiến thắng.

Mỗi người trong chúng ta, giờ đây nhìn lại chính mình. Đã bao lần vì miếng ăn, vì đồng tiền, vì lợi lộc, vì danh dự bản thân mà chúng ta cũng bất chấp tất cả, bất chấp Thiên Chúa của mình là ai, không cần biết Ngài đã dạy chúng ta những gì. Cũng vì thế mà chúng ta không cần biết người chung quanh chúng ta như thế nào, cho nên chúng ta cứ dẫm bừa lên dư luận, chà đạp cả công lý, miễn sao con người ích kỷ của chúng ta được lợi là đủ. Đó là chúng ta đã thất bại trước những cơn cám dỗ của thời đại. Như vậy làm sao chúng ta có thể vượt qua được sa mạc trần gian nầy để đạt tới vinh quang mà vị Thầy Chí Thánh đã dẫn dắt.

Được bao nhiêu lần chúng ta can đãm từ chối những lợi lộc bất chánh, để làm cho con người của mình được vững mạnh hơn. Được bao nhiêu lần chúng ta biết lắng nghe và nhìn thấy được những gì Thiên Chúa muốn nói, muốn chỉ dạy để sẵn sàng vâng theo. Được như thế, là chúng ta nhìn thấy được những cạm bẫy của ma quỷ và luôn đứng thẳng, cương quyết, khi đó ma quỷ như đứa trẻ nhỏ sẽ không làm gì được.

Xin Chúa ban sức mạnh cho chúng ta để chiến thắng.

 

26.Tinh thần sa mạc.

Trước khi bắt đầu cuộc sống công khai, Chúa Giêsu đã vào trong sa mạc, và suốt 40 đêm ngày, Ngài đã ăn chay, cầu nguyện và chịu cám dỗ.

Và như chúng ta đã biết, sa mạc là một vùng đất bao la, hoang vắng, không cây cối, không nhà cửa, không người và cũng không vật. Chỗ nào cũng chỉ là bãi cát mênh mông. Chúa Giêsu đã cầu nguyện và ăn chay trong sa mạc như thế. Hết sức thanh vắng, hết sức khó nghèo. Với thái độ từ bỏ tối đa, với niềm tin cậy và phó thác tuyệt đối. Tinh thần sa mạc như thế là điều chúng ta cần phải thực hiện trong cuộc sống của chúng ta, để nhờ đó chúng ta xứng đáng lãnh nhận ơn sủng củac.

Hình như chúng ta cũng có được đôi chút kinh nghiệm về chuyện này. Chẳng hạn có những lúc chúng ta như bị đẩy vào một sa mạc tinh thần như khi chúng ta bị cô đơn. Có những lúc chúng ta tự tạo ra một sa mạc tinh thần như khi chúng ta sống nội tâm. Thời gian trong sa mạc tinh thần là những tháng ngày thuận tiện để suy nghĩ, cầu nguyện và trút bỏ cái tôi cũ kỹ. Mặc dù nhờ cầu nguyện và chay tịnh trong tinh thần sa mạc, chúng ta có thể tập được nhiều thói quen tốt, có thể uốn nắn sửa đổi lại nhiều khuyết điểm hay là có thể nghĩ tới Chúa nhiều hơn, thế nhưng chúng ta vẫn phải tỉnh thức. Bởi vì chính lúc ấy ma quỷ sẽ quan tâm đến chúng ta nhiều hơn.

Cơn cám dỗ dành cho chúng ta, tuy vẫn giống như các cám dỗ của Chúa Giêsu, nhưng sẽ được hiện đại hoá. Kẻ cám dỗ chúng ta không phải là quỷ dữ, mà rất có thể là chính lòng nhiệt thành của chúng ta. Nội dung của cám dỗ không phải là những gì phàm tục sống sượng, nhưng lại là những đề nghị có vẻ đạo đức. Mục đích đưa ra không thấy ghi trong 7 mối tội đầu, nhưng lại nằm trong cả một chương trình đạo đức lớn.

Chẳng hạn thay vì bị cám dỗ biến đá thành bánh, thì chúng ta sẽ được khuyến khích ham muốn một thứ quyền lực kinh tế nào đó, với hy vọng để mở rộng Nước Chúa. Thay vì bị cám dỗ quỳ lạy ma quỷ để nắm trọn quyền cai trị thế giới, thì chúng ta sẽ được khuyến khích thoả hiệp với một thế lực xã hội nào đó để có được một thứ quyền lực chính trị với hy vọng sẽ dễ bảo vệt và phát triển quyền lợi Giáo Hội. Thay vì bị cám dỗ nhảy từ đỉnh cao đền thờ xuống, mà không hề hấn gì nhờ quyền phép thiêng liêng, thì chúng ta sẽ được khuyến khích hăng say phô trương quyền lực thiêng liêng, với hy vọng xây dựng uy tín cho đạo của mình. Tất cả chỉ nhằm làm sáng danh Thiên Chúa của tôi và Giáo Hội của tôi.

Trong những trường hợp như vậy, nếu chúng ta không cầu nguyện và ăn chay trong tinh thần sa mạc như Chúa Giêsu đã làm, thì chúng ta sẽ không dễ dàng nhận ra đâu là những chước cám dỗ và đâu là những phương thế phải dùng để đối phó với những cám dỗ ấy.

 

27.Ra đi.

Cuộc đời là một chuyến đi không ngừng. Sinh ra là giã từ cái êm ấm của lòng mẹ để đi vào một thế giới xa lạ. Lớn lên là từ bỏ tuổi thơ để đi vào một cuộc đời đầy bấp bênh và thử thách. Khi về già, con người cảm thấy mình đứng vên bờ của vĩnh cửu, lại một lần ra đi dứt khoát.

Lịch sử ơn cứu độ, qua đó Thiên Chúa hướng dẫn chúng ta cũng được trình bày như một cuộc ra đi. Khởi đầu là cuộc ra đi của tổ phụ Abraham. Ông đã bỏ lại đàng sau tất cả để đi về phía trước với không biết bao nhiêu gian nan vất vả. Nhưng tiêu biểu hơn cả chính là cuộc ra đi của dân Do Thái. Bốn mươi năm trong sa mạc đã trở thành biểu tượng của không biết bao nhiêu thử thách mà bất cứ chuyến đi nào cũng đều gặp phải. Trong ký ức của dân Do Thái, bốn mươi năm sa mạc ấy không ngừng được ôn lại để ý thức hơn về những thanh luyện mà con người cần phải trải qua để sống tốt đẹp hơn.

Kinh nghiệm ấy Chúa Giêsu cũng muốn trai qua trong cuộc lữ hành trần thế của Ngài với 40 đêm ngày trong sa mạc. Rời bỏ khung cảnh êm đềm của làng Nagiarét, Chúa Giêsu bắt đầu cuộc hành trình dẫn tới cái chết và nhớ đó thực hiện công cuộc cứu chuộc nhân loại.

Trong cuộc hành trình đầy chông gai và thử thách này, Ngài cũng đã gặp phải thử thách và cám dỗ. Nếu dân Do Thái ngày xưa đã gục ngã một cách thảm hại, thì hôm nay Chúa Giêsu đã chiến thắng một cách vinh quang. Tất cả ba cơn cám dỗ đều quy về một điểm chung đó là quyền lực và danh vọng.

Đối lại với con đường ma quỷ đề ra, Chúa Giêsu đã chọn lấy con đường khiêm hạ của thập giá. Đối lại với con đường của quyền bính và danh vọng, Chúa Giêsu đã chọn con đường của vâng phục, và vâng phục cho đến chết. Sự chiến thắng của Chúa Giêsu là sự chiến thắng của lòng tin tưởng và phó thác, của sự khiêm nhường và vâng phục.

Với chúng ta cũng vậy, đời sống đức tin của chúng ta được định nghĩa như là một cuộc lữ hành. Cũng chào đời, lớn lên và ra đi không ngừng.

Thiết lập mùa chay, Giáo Hội muốn chúng ta sống lại kinh nghiệm sa mạc của Chúa Giêsu, bởi vì cuộc lữ hành trần gian của chúng ta không thể không đi qua sa mạc cát nóng. Thử thách và gian nan là chuyện không thể thiếu vắng.

Cùng với Chúa Giêsu, Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy vượt qua sa mạc cuộc đời với những thử thách ấy một cách can đảm và dứt khoát. Dứt khoát với nếp sống cũ với những sai lỗi và khuyết điểm, với những ích kỷ và nhỏ nhoi, với những thất vọng và buông xuôi.

Đồng thời hãy tin tưởng và phó thác nơi Thiên Chúa. Chúng ta không bước đi và chiến đấu một cách đơn độc lẻ loi, bởi vì có Chúa Giêsu cùng bước đi và cùng chiến đấu với chúng ta. Hơn thế nữa, Ngài chính là sức mạnh của chúng ta. Cùng bước đi với Chúa, chúng ta không còn phải lo lắng và sợ hãi chi nữa.

 

28.Cám dỗ

Mùa Chay của năm Phụng vụ 2019 đã bắt đầu. Mùa Chay là mùa Giáo hội muốn ta nhìn lại bản thân mình. Nhìn lại bản thân để thấy ta yếu đuối. Để rồi ta sẽ thấy mình cần Chúa như thế nào. Từ đó ta sẽ biết được Thiên Chúa yêu thương ta ra sao. Hãy xin Chúa Giêsu cho ta trong Mùa Chay này cũng như suốt cuộc đời xác tín điều ấy luôn.

Lời Chúa trong Tin mừng Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu chịu cám dỗ sau khi ăn chay 40 đêm ngày trong sa mạc. Do Chúa Thánh Thần thúc đẩy nên Người đã chịu cám dỗ đến 3 lần. Và cả 3 lần ma quỷ đều thất bại thảm hại.

Vì sao ma quỷ đã thất bại? Ma quỷ muốn Chúa Giêsu dùng chính quyền năng của mình mà phản bội Chúa Cha. Nó muốn chia lìa tình yêu của Người với Chúa Cha. Thế nhưng tình yêu của Chúa Giêsu dành cho Chúa Cha quá vững mạnh nên nó đành phải rút lui.

Ngay từ những ngày đầu tiên trong vườn địa đàng ma quỷ cũng đã dùng chính bài này mà cám dỗ tổ tông ta. Nó đã nói với người đàn bà: "Chẳng chết chóc gì đâu! Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác." (St 3, 4b - 5)

Vua Đavit vì cám dỗ sắc dục nên ông đã phạm tội cướp vợ của người anh em và đã giết người anh em là Uria (2Sm 11, 1 -27). Ông đã dùng chính quyền làm vua của mình mà hãm hại người khác. Ông quên rằng vì yêu thương mà ông đã được Thiên Chúa chọn làm vua chứ ông đâu có công cán gì. Như vậy, phạm tội này coi như ông đã phản bội lại tình yêu của Thiên Chúa.

Giuđa chỉ vì tiền và lợi ích riêng tư mà ông cũng đã phản bội lại tình yêu của Thầy mình. Ba năm trời theo Chúa Giêsu chắc là ông đã nhận biết bao tình thương mà Thầy dành cho. Thế nhưng ông đã trả ơn bằng việc bán Thầy với giá như một tên nô lệ. (30 đồng)

Không phải Chúa Giêsu chỉ bị cám dỗ hôm nay mà dường như suốt cả đời Người luôn bị nó theo đuổi. Cách đặc biệt nhất là vào những giây phút cuối đời của Người. Trong vườn Giêtsêmani, khi nghĩ đến cái chết đang cận kề Chúa Giêsu không khỏi sợ hãi và thấp thỏm. Người đã thân thưa cùng Chúa Cha đến 2 lần. Lần thứ nhất: " Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha " (Mt 26, 39b). Lần thứ hai: " Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha " (Mt 26, 42b). Đây chính là vũ khí lợi hại nhất mà Chúa Giêsu đã chiến thắng ma quỷ. Vũ khí ấy là luôn trông cậy và phó thác vào tình yêu của Chúa Cha.

Như thế, chủ yếu cám dỗ của ma quỷ là làm sao tách ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa Cha. Mỗi người ở mỗi hoàn cảnh đều có thể bị nó cám dỗ để chia cắt tình yêu của ta với Chúa. Khi ta ỷ lại vào sức mình, vào khả năng của mình... mà không biết cậy dựa vào tình yêu Chúa thì ta đang bị rơi vào tròng của ma quỷ đấy.

Dầu vậy, khi ý thức mình đang rơi vào tròng của nó ta hãy mau mắn và can đảm trở về trong vòng tay yêu thương của Thiên Chúa. Hãy luôn nhớ tình yêu của Thiên Chúa bao giờ cũng lớn hơn tội lỗi của ta.

 

29.Cơ hội – Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Mùa chay là mùa hồng ân mang lại sự hoan lạc và bình an. Chúng ta lại có cơ hội trở về với chính mình để sám hối ăn năn. Mỗi người sẽ rất vui khi chứng kiến cha mẹ, vợ chồng, anh chị em và mọi người thân cận trong gia đình dành nhiều thời giờ cầu nguyện, tham dự thánh lễ và lãnh nhận các Bí tích, nhất là Bí tích Hòa Giải và Thánh Thể. Những giọt nước mắt ăn năn sám hối và trở về là niềm vui lớn cho các thành viên trong gia đình, cộng đoàn và cả các thiên thần trên thiên đàng cũng vui mừng. Mùa chay như là trạm dừng để giúp cho chúng ta tìm lại được hướng đi, sửa lại những lỗi lầm và trau dồi thêm các nhân đức. Mầu tím mùa chay giúp chúng ta gợi nhớ thân phận tro bụi bọt bèo như mây trôi và gió thoảng. Bản chất của thân xác của chúng ta bởi tro bụi và một ngày nào đó cũng sẽ trở về bụi tro. Mùa Chay không chỉ là mùa của sự than van khóc lóc lỗi lầm, nhưng là cơ hội để chúng ta phấn đấu thắng vượt chính bản thân mình qua việc ăn chay, bố thí và cầu nguyện.

Tác giả Sách Đệ Nhị Luật đã nhắc nhở cho toàn dân về tình yêu của Thiên Chúa dành cho Dân Người. Ngài đã bao bọc chở che qua mọi giai đọan thăng trầm của lịch sử. Ngài đưa Dân vào miền đất Ai-cập sinh sống để trở thành một dân tộc vĩ đại. Khi bị người Ai-cập ngược đãi hành khổ, Thiên Chúa đã ra tay cứu vớt và dẫn đưa về miền Đất Hứa: Thiên Chúa đã dang cánh tay mạnh mẽ uy quyền, đã gây kinh hồn táng đởm và thực hiện những dấu lạ điềm thiêng, để đưa chúng tôi ra khỏi Ai-cập (Đnl 26, 8). Cảm nghiệm được tình thương yêu, ấp ủ và đùm bọc của Thiên Chúa, dân chúng đã có những nghi lễ dâng hoa qủa đầu mùa để cảm tạ tri ân: Và bây giờ, lạy Thiên Chúa, này con xin dâng sản phẩm đầu mùa của đất đai mà Ngài đã ban cho con (Đnl 26, 10). Tâm tình biết ơn của cha ông đã được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Lòng tri ân là tinh hoa của cuộc sống con người.

Bước vào Mùa Chay Thánh, chúng ta có cơ hội để học hỏi, suy gẫm và thực hành sống đạo. Trong bài Phúc âm, thánh Luca đã diễn tả sự kiện Chúa Giêsu vào hoang địa bốn mươi đêm ngày và chịu ma quỉ cám dỗ. Các cơn cám dỗ xem ra rất thực tế có thể đáp ứng các nhu cầu đang cần thiếu. Qua nhiều ngày ăn chay nhịn đói, ma quỉ cám dỗ Chúa Giêsu: Bấy giờ, quỷ nói với Người: "Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho hòn đá này hoá bánh đi! (Lc 4, 3). Dễ thôi! Chúa có dư đủ uy quyền để biến đổi đá thành bánh cũng như nước thành rượu. Việc biến đổi trong tầm tay nhưng Chúa đã không chiều theo ý của ma quỉ. Chúa Giêsu đã dùng lời trong Kinh Thánh để hướng tới một loại bánh khác cao trọng hơn, đó là bánh lời Chúa.

Thua keo này bày keo khác. Ma quỉ tìm cách độc hại hơn để cám dỗ: Rồi nó nói với Người: "Tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này, vì quyền hành ấy đã được trao cho tôi, và tôi muốn cho ai tuỳ ý. Vậy nếu ông bái lạy tôi, thì tất cả sẽ thuộc về ông." (Lc 4, 6-7). Thật dễ dàng, chỉ việc bái lạy ma quỉ thì được sở hữu tất cả vinh hoa lợi lộc. Chúa Giêsu nhận diện sự ma quái và ranh mãnh của cơn cám dỗ. Chúa dứt khoát dùng lời Chúa đế đáp trả rằng ngươi phải thờ lạy một mình Thiên Chúa mà thôi. Ma quỉ tước đoạt quyền cai trị và tự làm sở hữu chủ. Đây là cạm bẫy khá hấp dẫn. Đã có biết bao nhiêu người đời rơi vào những danh vọng hão huyền này. Các hoàng đế, vua chúa, nhà cầm quyền và các chế độ bạo quyền tham lam dành dật vinh hoa phú quí trần gian, tất cả cũng đã qua đi như cánh hoa phù du sáng nở tối tàn.

Ma quỉ không bao giờ chịu thua. Những nhu cầu vật chất không thuyết phục được, chúng lại giở quẻ mới để thách thức: Quỷ lại đem Đức Giêsu đến Giê-ru-sa-lem và đặt Người trên nóc Đền Thờ, rồi nói với Người: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì đứng đây mà gieo mình xuống đi!(Lc 4, 9). Đặt điều kiện, nếu…thì… rất thuyết phục. Khêu gợi sự tò mò và đánh vào lòng kiêu ngạo như xưa thần Lucifer muốn nên bằng Thiên Chúa. Ngày xưa tổ tiên Adong và Evà cũng đã bị sa chước cám dỗ vì những câu hỏi tò mò và gợi lòng tham sân si. Chúng ta lưỡng lự đôi đường chỉ vì luyến tiếc các dịp thỏa mãn bản năng đòi hỏi mà thôi. Chọn lựa thái độ dứt khoát với dịp tội luôn là cửa ngõ dẫn vào sự bình an thanh thản.

Khi một ngày mới mở ra, mỗi người đều có cơ hội làm việc thiện hay việc ác, làm sự lành hay sự dữ, vui hay buồn và có thể thành công hay thất bại. Tất cả tùy theo sự chọn lựa thái độ sống của chúng ta. Việc thiện, điều lành, niềm vui là những dấu hiệu tốt và tích cực. Thành công hay thất bại thì còn tùy thuộc rất nhiều yếu tố chung quanh, nhưng chúng ta vẫn có thể có thái độ lạc quan, vì thất bại là mẹ thành công. Sự quyết định chọn lựa đúng sẽ giúp chúng ta sống an vui và thư thái. Bất cứ việc gì xảy ra cũng đều có cơ hội: Cơ hội có thể tốt hoặc xấu và cũng như có dịp tốt hay dịp tội. Thái độ chọn lựa sẽ dẫn chúng ta đi vào những lối khác nhau có khi nghịch chiều. Có những cơ hội xấu dẫn ta đến cùng đường lạc lối. Khi gặp cơ hội tốt và dịp thuận lợi, việc làm của chúng ta sẽ sinh hoa trái tốt lành.

Người ta thường nói về dịp tội hay cơn cám dỗ, nếu chúng ta không tỉnh thức, ắt sẽ bị rơi vào bẫy sập của ma quỉ. Dịp tội là những cánh cửa đón mời chúng ta tò mò bước vào thế giới ảo. Cơ hội đến với mỗi người qua rất nhiều cách thế khác nhau. Cám dỗ đi vào lầm lạc có rất nhiều lối ngõ. Có những cơ hội lúc đầu xem ra rất đơn gian, nhưng kết cục đưa đến những hậu qủa khó lường. Kinh nghiệm cuộc đời cho chúng ta thấy có nhiều người đã hủy hoại cuộc đời, nên phóng lao đành phải theo lao. Cái xấu này níu kéo cái xấu kia. Cởi nút này lại thắt nút nọ. Đôi khi có người nghĩ rằng đã lỡ, cho lỡ luôn hay đời đã dang dở lỡ bước và dù bước lùi hay bước tới cũng vẫn dở dang. Khi bước vào cạm bẫy thì khó có thể rút chân ra. Trải qua thời gian, có biết bao cơ hội mà chúng ta đã sinh lợi trong gian dối. Nhiều khi chúng ta cũng đang say mê trong lầm lạc, nhưng không muốn nhìn nhận sai lầm. Vì ham danh lợi về của cải vật chất mà chúng ta đã quay lưng lại với sự thật và đức công bằng. Mỗi người hãy tự vấn lương tâm!

Sau ba lần cám dỗ thất bại, ma quỉ chờ dịp khác: Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi, chờ đợi thời cơ (Lc 4, 13). Cuộc đời của chúng ta cũng thế, cạm bẫy của sự dữ giăng giăng khắp nơi. Danh, lợi và thú là ba đầu mối của các cơn cám dỗ trong đời sống con người. Cạm bẫy về lợi lộc vật chất, ma túy và say mê trong đời sống thường ngày như: Bài bạc, hút sách, trai gái, nghiện ngập rượu chè, cá độ, tham nhũng, lừa đảo, bất công và các thứ trò chơi bạo lực hại mình và hại người. Cơ hội ban đầu của tất cả các dịp tội cũng chỉ là thử đỏ đen, thử thời vận và thử tìm cảm giác lạ, nói rằng thử thôi mà, không sao đâu! Các cơn cám dỗ lúc nào cũng nhẹ nhàng mời mọc, hấp dẫn, dịu ngọt và có thể đáp ứng ngay những nhu cầu đòi hỏi của ước muốn bản năng. Thời cơ xấu tạo nên dịp tội xấu. Nếu không đủ bản lãnh, chúng ta không nên thách thức, dây dưa và đối đầu với các cơn cám dỗ. Cám dỗ và dịp tội giống như cái lờ bắt cá có hom. Nguyên tắc của các bẫy sập là sự hấp dẫn của mồi nhử. Sập bẫy chui vào rọ rồi thì khó lòng tìm lối thoát ra.

Trong thơ của thánh Phaolô gởi cho tín hữu thành Rôma, Ngài viết: Vậy Kinh Thánh nói gì? Thưa: Lời Thiên Chúa ở gần bạn, ngay trên miệng, ngay trong lòng. Lời đó chính là lời chúng tôi rao giảng để khơi dậy đức tin (Rm 10, 8). Lời Chúa là kim chỉ nam giúp chúng ta thắng vượt tất cả các cơn cám dỗ. Lời Chúa có sức biến đổi tâm hồn và kiên thuẫn chở che. Tin, tuyên xưng và thực hành lời Chúa sẽ đem lại ơn cứu độ: Quả thế, có tin thật trong lòng, mới được nên công chính; có xưng ra ngoài miệng, mới được ơn cứu độ (Rm 10, 10).

Lạy Chúa, chúng con không thể tránh mọi cơn cám dỗ đang bủa vây chung quanh. Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con khỏi mọi sự dữ.

 

30.Cám dỗ - ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Cám dỗ là chuyện xưa như trái đất. Từ khi có con người, đã có cám dỗ. Hẳn ta không thể quên chuyện hai ông bà nguyên tổ sa chước cám dỗ của ma quỷ. Dân Do Thái, khi bị nô lệ dưới ách người Ai cập thì muốn được tự do. Nhưng khi lang thang 40 năm trong sa mạc, phải chịu đói khát, lại bị cám dỗ quay trở lại Ai cập để được no ấm. Nhưng có thể nói, 3 cơn cám dỗ mà Đức Giêsu phải đương đầu hôm nay gồm tóm tất cả mọi thứ cám dỗ mà ta thường gặp.

+ Cơn cám dỗ thứ nhất: thoả mãn tức khắc mọi nhu cầu.

Sau khi Đức Giêsu ăn chay 40 đêm ngày. Ma quỷ đề nghị Người biến đá thành bánh mà ăn. Thật là một đề nghị hợp lý. Đói thì phải ăn. Muốn ăn thì phải có bánh. Nhưng có bánh bằng cách nào mới là vấn đề. Không phải cứ có nhu cầu là phải thoả mãn ngay. Và nhất là không được dùng những cách không hợp đạo lý để thoả mãn những nhu cầu của mình. Cơm bánh tượng trưng cho những nhu cầu thiết yếu của con người. Nhu cầu của con người thì có nhiều và có khuynh hướng ngày càng gia tăng. Vì thế cơn cám dỗ thoả mãn nhu cầu ngày càng lớn.

+ Cơn cám dỗ thứ hai: muốn có quyền lực thống trị.

Ma quỷ biết Đức Giêsu muốn cứu độ loài người, nên đề nghị tặng Người tất cả các nước trên trần gian. Có lẽ nhiều người nghĩ rằng đề nghị của ma quỷ là hợp lý. Cứ có quyền thống trị trên hết mọi dân nước rồi nói gì người ta chẳng nghe. Chúa sẽ không phải mất công chịu đau khổ chịu chết. Chỉ cần quỳ xuống thờ lạy ma quỷ, vua quan dân chúng các nước sẽ răm rắp tuân theo. Thật là tiện lợi. Quyền lực là một cơn cám dỗ muôn đời của nhân loại. Từ ngàn xưa, vua chúa các nước đã không ngừng gây chiến để tranh giành quyền lực. Ngày nay, trong các cuộc chiến mới, người ta không còn giết nhau bằng gươm đao, súng đạn, nhưng bằng quyền lực kinh tế, khoa học, kỹ thuật. Tuy êm đềm nhưng cuộc chiến vô cùng khốc liệt. Cơn cám dỗ về quyền lực thống trị không những không suy giảm mà còn mãnh liệt hơn.

+ Cơn cám dỗ thứ ba: tìm những điều kỳ lạ.

Muốn những chuyện thần kỳ. Muốn làm được những việc kinh thiên động địa. Muốn có những thành công lẫy lừng. Cơn cám dỗ này thúc đẩy người ta đổ xô đi tìm phép lạ. Cơn cám dỗ xây tháp Ba ben từ ngàn xưa vẫn còn tiếp diễn.

Xuyên qua những cơn cám dỗ ấy ta thấy ma quỷ thật vô cùng tinh khôn và hiểm độc.

Với cơn cám dỗ thứ nhất, ma quỷ muốn xô đẩy con người làm nô lệ cho dục vọng. Xúi giục con người chỉ tìm thoả mãn những bản năng thấp hèn. Giới hạn con người vào sự sống xác thịt. Đức Giêsu đã vạch trần âm mưu của ma quỷ khi Người cho biết con người không chỉ có đời sống thể lý mà còn có đời sống tâm linh. Người nâng cao phẩm giá con người khi quyết tâm chống lại cơn cám dỗ thoả mãn những nhu cầu thân xác để chăm lo cho sự sống tâm linh.

Với cơn cám dỗ thứ hai, ma quỷ muốn biến con người thành nô lệ cho tham vọng, nô lệ cho ma quỷ. Vì ham hố chức quyền, vì mưu cầu danh vọng mà đánh mất tự do của mình, cam tâm làm nô lệ cho ma quỷ. Vì tham vọng mà đánh mất chính mình. Đức Giêsu vạch trần âm mưu đen tối của ma quỷ khi cương quyết chối từ danh vọng quyền thế. Người còn chỉ cho ta con đường duy nhất phải theo đó là thờ phượng Thiên Chúa. Chỉ có thờ phượng Thiên Chúa mới đem đến cho con người tự do đích thực, tự do trong tâm hồn, không bị nô lệ một tham vọng nào.

Với cơn cám dỗ thứ ba, ma quỷ đẩy con người vào nô lệ cho cuồng vọng. Điên cuồng đến chống lại Thiên Chúa. Dùng Thiên Chúa để phục vụ cho những ước vọng ngông cuồng của mình. Không đến với Chúa trong tâm tình của người con thảo đối với Cha hiền. Đức Giêsu đã vạch trần âm mưu của ma quỷ. Người chỉ cho ta con đường của người con hiếu thảo. Người con hiếu thảo tin cậy phó thác và luôn làm theo ý Cha, chứ không bao giờ dám thách thức Cha. Người con hiếu thảo vâng lệnh Cha sai bảo chứ không bao giờ dám sai bảo Cha.

Cám dỗ của ma quỷ hiểm độc vì nó tiến từng bước: Từ hạ thấp phẩm giá con người khi khiến con người làm nô lệ cho dục vọng đến cướp mất tự do của con người khi xúi giục con người nô lệ cho ma quỷ. Và sau cùng đi đến chỗ tận cùng là chối bỏ Thiên Chúa, không coi Thiên Chúa là cha. Cám dỗ càng hiểm độc vì ma quỷ đã khéo léo học những âm mưu thâm hiểm trong lớp vỏ nhung lụa, êm ái, hợp lý và đầy quyến rũ của những nhu cầu, quyền lực và uy tín.

Ngày nay, những cơn cám dỗ của ma quỷ vẫn như những chiếc bẫy giăng ra để trói buộc con người trong vòng nô lệ. Cám dỗ càng ngày càng tinh vi và càng ngọt ngào hơn nên càng hiểm độc hơn. Muốn chống trả được những cơn cám dỗ, ta phải bắt chước Đức Giêsu dùng những vũ khí sắc bén, đó là ăn chay cầu nguyện, thấm nhuần Lời Chúa và luôn sống tâm tình của người con thảo đối với Chúa.

Lạy Chúa, xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1. Bạn đã gặp nhiều cơn cám dỗ, bạn đã chống trả những cơn cám dỗ như thế nào?

2. Có những việc lúc đầu bạn thấy là tốt. Mãi sau này bạn mới biết là xấu. Bạn có nghĩ đó là âm mưu của ma quỷ không?

3. Bạn có ý thức rằng ma quỷ vẫn đang hoạt động mạnh mẽ trong thế giới ngày nay không?

4. Mùa Chay này, bạn sẽ làm gì để phòng chống âm mưu ma quỷ?

 

31.Nơi chốn – Lm. Vũ Đình Tường

Cuộc sống con người thay đổi luôn. Giờ chỗ này, lát chỗ nọ. Mỗi ngày ta thay đổi nhiều nơi chốn, thành tập quán, không quan tâm nữa. Ta để í đến nơi chốn nhiều hơn khi du lịch phố lạ, cảnh vật mới nhất là đến nơi phồn hoa, đô hội. Để tránh bị lạc ta để í kĩ hơn.

Mỗi nơi, mỗi chốn, có những cám dỗ khác nhau. Chỗ nhiều, chỗ ít, chỗ mạnh, chỗ yếu. Vì thế ma quỷ lợi dụng cảnh vật đưa Đức Kitô đến những nơi chốn khác nhau sau mỗi lần chúng thất bại. Ba địa điểm chúng chọn lựa gài bẫy cám dỗ là hoang địa, đỉnh núi và nóc đền thờ.

Trong hoang địa

Hoang địa là nơi thử sức, đo tài con người. Hoang địa hay sa mạc chứa nhiều hạt cát. Điều đáng lưu ý là sức người, ý chí, tư tưởng vĩ đại, ý nghĩ táo bạo đọ sức, thử lửa, so tài với hạt cát, hạt bụi. Theo bạn trí con người bền bỉ hơn hạt cát, hay nhẹ như cát sa mạc rì rào trôi theo chiều gió.

Điều chắc chắn là khi bình an vô sự con người tự thấy mình vĩ đại, to lớn, khoẻ phi thường có thể đội đá vá trời. Đôi tay lấp biển, dời được non. Lúc nguy nan, gặp thử thách con người cảm thấy mình nhỏ bé, yếu ớt, không đủ sức chống đỡ với ngoại cảnh. Trong cơn nguy khốn, con người thấy mình nhỏ như hạt cát sa mạc, bồng bềnh như bọt nước, nhẹ như sương mai, bập bùng như đèn trước gió. Cầu mong thực tế này giúp sống khiêm nhường, thứ tha và chấp nhận thiếu sót của mình và của anh em.

Sa mạc nơi tranh giành giữa sống và chết, dằn vặt với đói khát, thành công và thất bại. Đối diện với chính mình, có cát, gió làm chứng. Tính toán sơ hở đời đi đong. Ngày nóng cháy da, đêm lạnh thấu xương.

Sa mạc tâm linh cũng pha trộn giữa thành công và thất bại, giữa đau khổ và vinh quang, giữa sống và chết. Một trận chiến trường kì, chiến đấu với bản thân, chống lại cám dỗ vô hình. Chống lại cạm bẫy ma quỉ đưa ra để lường gạt. Chiến đấu chống lại cái tôi, tính ích kỉ, tham lam, tự kiêu, tự mãn.

Trận chiến sa mạc tâm hồn đòi phấn đấu mãnh liệt và liên tục vì sa mạc tâm hồn có lương tâm làm trọng tài, đòi sống công chính.

Đỉnh núi cao

Có người trèo cao không run chân. Có người nhìn vực sâu thấy chóng mặt. Có người nghĩ đến vực thẳm chân rã rời, tay mỏi, đầu óc quay cuồng. Trái lại người thích leo núi coi toàn cảnh thiên nhiên hùng vĩ, bao la ngút tầm con mắt, luôn mơ ước được lên cao hơn. Đỉnh núi một là khiếp sợ mà khuất phục. Hai là rạo rực muốn chiếm đoạt. Cả hai đều mở rộng cửa đón chào cơn cám dỗ. Sợ quá sẽ đầu hàng; ham quá lại chiếm đoạt. Đàng nào ma quỉ cũng có cơ hội lợi dụng gài bẫy cám dỗ.

Nóc đền thờ

Tại sao lại nóc đền thờ. Kẻ đến cầu nguyện vào trong đền thờ. Ai lại leo lên nóc đền thờ để cầu nguyện. Hành động leo nóc đền thờ tự nó đã là hành động xấu.

Cái túi lủng

Cả ba cách ma quỷ cám dỗ, bề ngoài khác nhau, nơi chốn khác nhau, đều có điểm chung đó là cái túi lủng.

Túi đầu tiên là bao tử. Nếu ông là Con Thiên Chúa hãy hoá đá ra bánh mà ăn.

Túi thứ hai là túi tiền. Ông sẽ được tất cả vinh hoa, phú quí trước mắt làm cơ nghiệp nếu ông quỳ lạy tôi.

Túi thứ ba là cái tôi. Ông nhảy xuống đi vì có Thiên Sứ gìn giữ ông.

Phản bác

Đức Kitô phản bác tất cả những ý kiến, đề nghị ma quỷ đề ra. Ngài làm trái lại tất cả những gì chúng ước mong. Chúng đề nghị đường lối nhàn hạ, dễ dàng. Chúa chọn đường lối riêng. Con đường Ngài chọn là con đường khắc phục sa mạc bản thân và tâm hồn. Ngoài cơm bánh ra người ta sống nhờ Lời Chúa. Ngươi phải thờ lạy Thiên Chúa và chỉ một mình Ngài. Ngươi chớ thử thách Thiên Chúa.

Đường nhàn hạ Chúa gọi là đường thênh thang là đường dẫn đến diệt vong, đường lối của ma quỉ. Chúa chọn con đường hẹp, hay cửa hẹp.

 

32.Lệnh xé lòng - Lm. Vũ Đình Tường

Lời khuyên kiêng ăn bớt uống trong mùa chay hàng năm hiện nay vượt rào nhà thờ biến thành một sản phẩm thương mại thịnh hành trong thời đại bụng phệ, béo tròn trục.

Các văn phòng giới thiệu hàng hóa với kĩ thuật quảng cáo tinh vi, dám chi những món tiền khổng lồ cho việc quảng cáo trên thương trường, chắc chắn làm công việc kêu gọi khoan ăn, bớt uống hiệu nghiệm hơn lời kêu gọi của các linh mục nơi toà giảng. Người ta không phải chỉ kêu gọi suông mà còn trưng ra các hình ảnh thành công việc làm của họ. Một số nơi khuyến dụ khách hàng còn ghi rõ giá cả. Mỡ đeo trên người càng teo bao nhiêu thì cái giá phải trả để làm teo mỡ càng mập ú bấy nhiêu.

Vấn đề hút sách cũng thế. Nhiều luật lệ mới ban hành cho thấy việc hút thuốc lá bị hạn chế khắp các nơi công cộng. Trên bao thuốc in hình rữa chân, thối tay, mặt thẹo, phổi teo gây nên bởi hút thuốc. Do vậy các linh mục có khuyên bớt hút thuốc vào mùa Chay kể như làm công việc thừa thãi.

Linh mục coi như thất nghiệp vì không cạnh tranh nổi lời kêu gọi hiệu nghiệm kiêng ăn, bớt uống, cữ hút bằng các nhà thương mại. Vẫn biết họ có mục đích riêng. Nhưng việc làm giống nhau.

NHƯỜNG VIỆC

Linh mục nhường việc kêu gọi khuyên ăn, bớt uống, giảm hút cho các trung tâm cai béo lo. Để chuẩn bị cho mùa Chay năm nay lời kêu gọi cần nhấn mạnh đến những điểm then chốt khác trong việc chuẩn bị tâm hồn, thống hối đón Chúa Phục Sinh. Đây không phải là điều mới lạ gì. Hơn 2000 năm trước tiên tri Joel 2,13 đã kêu gọi.

"Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng. Hãy trở về cùng Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em".

Còn Đức Kitô trong Mt. 6,17

"Còn anh em, khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm."

XÉ LÒNG

Hai chữ xé lòng là chủ đích của lời kêu gọi. Kitô hữu chú trọng vào đời sống nội tâm, thánh hoá cõi lòng, làm đẹp cõi lòng. Làm đẹp thân xác là việc làm của các nhà thương mại, của các chuyên viên thẩm mỹ. Làm đẹp cõi lòng là điều tiên tri Joel mời gọi, điều Chúa muốn.

Chay tịnh và bác ái bắt đầu từ nội tâm, trong lòng. Con người không có gì để cho Chúa và Chúa cũng chẳng mong gì nơi con người, ngoại trừ lòng mến. Chay tịnh thể hiện lòng mến; bác ái thể hiện tình thương. Hai việc đi đôi như bóng với hình, không thể tách rời. Tình yêu Thiên Chúa không để con người phải chết cho phép con người cộng tác với Chúa chữa lành thương tật nội tâm do tội lỗi gây nên. Thiên Chúa không cần chay tịnh; con người mới cần chay tịnh. Đức Kitô ăn chay vì Ngài nhận thân phận con người làm mẫu mực để con người bước theo.

TÌM SỰ SỐNG

Thực thi bác ái và chay tịnh mang lại phúc lợi ngay đời này đó là tâm hồn được bình an. Tâm tịnh thì lòng được vui, trí được sáng, linh hồn mến Chúa hơn và hẳn nhiên đời sống tươi hơn, đời không còn là bể khổ mà là nguồn vui. Đời đáng yêu, đáng quý. Người ta không thể yêu tha nhân nếu không yêu chính mình. Người ta quý sự sống tha nhân vì nhận biết giá trị của sự sống. Nhận biết này có được khi đặt sự sống lên trên tất cả tiền tài, danh vọng và tự mãn vì tất cả những thứ đó có nguồn gốc từ bụi tro. Người khôn sẽ không tích trữ những gì thuộc về bụi tro. Tích trữ càng nhiều tro than, đời càng bẩn thỉu, lem luốc.

ĐÁNH BÓNG KHUÔN MẶT

Chúa dậy " khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải dầu cho thơm". Tội làm con người khô héo. Ân sủng Chúa tưới mát tâm hồn, mang đến sự sống mới, đổi mới con người. Đổi mới nhiều ít tùy thuộc mức độ thực hành đức ái. Giữ chay càng kĩ; mặt càng trong sáng. Thực thi bác ái càng nhiều, tâm càng vui. Kitô hữu có khuôn mặt ủ dột, buồn đời, hận người vì thiếu ân sủng. Chúa muốn con người tốt đẹp, sống an vui, hân hoan cả hồn lẫn xác. Bất an nội tâm tạo nên khuôn mặt bánh bao chiều vì thiếu chay tịnh và bác ái. Tâm tịnh, lòng sẽ vui, đời thắm tươi, mặt mày sáng láng.

Khác với mọi tạo vật, tình yêu Chúa dựng nên con người có cả xác lẫn hồn. Khi hồn sa vào cạm bẫy ma quỷ, cả thân xác lẫn tâm hồn sống bất an, lo âu, sợ sệt. Xé lòng và thực thi bác ái giúp chữa lành vết thương nội tâm. Xé áo mà không xé lòng khó tránh khỏi cạm bẫy ma quỷ: không cần ơn Chúa để xé áo. Xé lòng đau đớn lắm nên cần nhiều ân sủng. Xé lòng chắc chắn có bình an nội tâm. Kiêng ăn bớt uống dành cho thân xác. Nội tâm bao gồm kiêng phê bình, tránh chỉ trích, cữ phàn nàn, kềm cơn giận, không thù oán, bỏ kiêu căng, giảm tật xấu, chê chốn gian tà, xa lánh nơi tội, từ giã bất công, chớ làm chứng gian và hạn chế tin đồn.

MÙA CHAY

Chúng ta bắt đầu mùa chay thánh qua câu chuyện Chúa ăn chay 40 đêm ngày trong xa mạc. Ma quỷ cám dỗ qua nhiều hình thức. Đức Kitô dùng Lời Chúa chống lại những cám dỗ. " Người ta không phải chỉ sống bởi cơm bánh nhưng nhờ vào Lời Chúa". Kitô hữu thánh thiện không tôn thờ danh vọng, của cải vật chất mà là tôn thờ một mình Thiên Chúa. "Ngươi phải thờ phượng một mình Ngài mà thôi."

Chớ tự phụ, ỷ tài, cậy mình thử thách Chúa, nhưng sống tâm tình tạ ơn. Để việc hy sinh, hãm mình, ép xác và bác ái đạt hiệu quả tối đa, ta cần kết hợp với Chúa. Lời Chúa là là đèn soi dẫn lối, chỉ đường, là sức mạnh nội tâm giúp chống trả các cám dỗ.

Chay tịnh và bác ái cần thực hiện chung với cầu nguyện, suy gẫm, đọc kinh và các việc đạo đức như đọc sách thiêng, hạnh các Thánh, Kinh thánh và năng lãnh nhận các Bí tích là những phương pháp hiệu nghiệm cho việc xé lòng.

 

33.Cú nhẩy ngoạn mục – Thiên Phúc

(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)

Vua nước Thục có tính tham lam. Vua Huệ Vương, nước Tần, muốn xâm chiếm nước Thục, nhưng vì khe núi hiểm trở, không thể đem quân sang đánh. Huệ Vương sai lấy đá tạc hình con trâu để gần địa giới nước Thục, mỗi ngày bỏ vàng sau đuôi con trâu và phao tin đồn rằng: “Trâu đãi ra vàng”.

Tiếng đồn ấy đến tai vua Thục. Ông liền sai xẻ núi lấp khe và cho năm người lực sĩ vào rừng kéo con trâu về.

Huệ Vương sẵn lối đi, đem quân tiến đến cướp được nước Thục. Vua Thục vừa mất nước, vừa hại cả mình, để lại trò cười cho thiên hạ. Thế chẳng phải là tham chút lợi nhỏ mà để thiệt mất cái lợi to ư?

Vua Thục vì tham vàng mà mất nước, và số vàng kia cũng lọt vào tay quân thù. Thiên hạ cười chê ông dại khờ. Nhưng thật ra thì ai cũng đã hơn một lần khờ dại như ông. Ai cũng đã không ít lần bị cám dỗ giống ông, nếu không phải là vàng thì cũng là của cải, sắc dục, danh vọng, quyền uy.

Bị cám dỗ là thân phận của con người. Đức Giêsu đã từng bị cám dỗ, vì Người muốn chia sẻ trọn vẹn kiếp người, Người muốn nên đồng số phận với con người, và Người đã thắng cơn cám dỗ để nêu gương cho con người.

Cám dỗ thứ nhất là cám dỗ về cái đói. Cơn cám dỗ về manna (Xh 16) mà dân Chúa đã bị thử thách trong hoang địa. Đó cũng là thử thách từng ngày của mỗi người chúng ta. Nếu chúng ta chỉ tìm thỏa mãn những khao khát của thể xác, những nỗi thèm thuồng vật chất đang cào cấu trong ta, thì chúng ta đã thất bại ngay trong cơn cám dỗ đầu tiên. “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh” (Lc 4,4). Vâng, con người còn có những giá trị cao quý khác cần phát huy, đừng hạ thấp mình xuống mức độ sơ đẳng nhất của: cơm, áo, gạo, tiền.

Cám dỗ thứ hai là cám dỗ về quyền hành thế gian. Cám dỗ thờ ngẫu tượng, bò vàng (Xh 32,42) của dân Israel nơi hoang địa. Không chỉ hôm nay mà rất nhiều lần trong cuộc đời, Đức Giêsu đã bị cám dỗ này tấn công. Dân chúng luôn kéo Người vào cơn cám dỗ trở nên một Đấng Cứu Thế mang tính chính trị, một vị vua trần gian đầy quyền lực vinh quang. Nhưng Người đã nhất mực khước từ. Người muốn trở nên “tôi tớ” của Thiên Chúa (Ga 13,1-20). Cơn cám dỗ về quyền hành cũng là cơn cám dỗ của tất cả mọi người. Ai trong chúng ta cũng muốn thống trị kẻ khác, muốn áp đặt ý kiến của mình trên anh em.

Đây cũng là cơn cám dỗ về sự nghi ngờ Thiên Chúa. Vì Người thường hay vắng mặt, nên chúng ta dễ chạy theo những vị thần giả hiệu, chúng có tên là của cải, sắc đẹp, kiến thức, tài năng… Đức Giêsu nhắc cho chúng ta lời Kinh Thánh: “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người” (Lc 4,8).

Cám dỗ thứ ba là cám dỗ đòi kiểm chứng, đòi xem những dấu lạ điềm thiêng (Xh 17), đòi thấy những cú nhẩy đẹp mắt, những pha ngoạn mục: Đó là cơn cám dỗ trên nóc đền thờ Giêrusalem. Cũng chính nơi đây, Đức Giêsu sẽ chịu một cơn thử thách hết sức nặng nề: đó là cơn cám dỗ muốn thoát cái chết: “Nếu có thể được, xin tha cho con khỏi uống chén này” (Lc 22,42). Dường như Chúa Cha “đã bỏ rơi” Người. Cuối cùng thì Đức Giêsu đã không dùng quyền năng của mình để trốn tránh thân phận con người phải chết. Người đã từ chối nhẩy một cú đẹp mắt, cũng không xuống khỏi thập giá một cách ngoạn mục. Người tin tưởng vào tình yêu của Cha, Người tuyệt đối trung thành và trọn vẹn vâng theo ý Cha.

Đức Giêsu đã chiến đấu với các cơn cám dỗ và Người đã hoàn toàn chiến thắng, để nêu gương cho chúng ta trong những cơn thử thách. Cám dỗ nào cũng ngọt ngào hấp dẫn; thử thách nào cũng đòi phải chọn lựa. Điều quan trọng là chúng ta có nhận ra cái đắng đót chua cay trong cái vỏ ngọt ngào hấp dẫn đó không! Chúng ta có dám chọn theo Chúa hơn là theo ma quỷ? Chọn yêu anh em hơn là yêu chính mình? Chọn điều thiện hơn là cái ác?

Lạy Chúa, chúng con sẽ trưởng thành hơn sau mỗi lần chiến thắng, sẽ kinh nghiệm nhiều hơn sau mỗi cơn thử thách. Nhưng xin Chúa đừng để chúng con thất vọng sau mỗi lần vấp ngã, đừng bao giờ chúng con bỏ cuộc sau những lần thất bại.

Xin cho chúng con luôn tin tưởng chỗi dậy, tiếp tục chiến đấu cho dù phải hy sinh mạng sống, vì chính Đức Giêsu đã sẵn lòng chịu chết để trung tín với Chúa Cha.

Xin ban thêm sức mạnh để chúng con chiến thắng các cơn cám dỗ nhờ ăn chay và cầu nguyện. Amen.

 

34.Lựa chọn - Thu Băng, CRM

Ma qủy đã cám dỗ Chúa sau 40 mươi ngày ăn chay bằng biến đá nên bánh, bằng gieo mình xuống vực sâu, và bằng vinh hoa phú qúy, nhưng Ngài đã dạy “Phải phục lệnh một Thiên Chúa mà tôi”. Thấy không làm gì nổi Ngài ma qủy bỏ đi và các Thiên Thần đến hầu hạ Ngài. (Mt.04:01-11).

Thánh Phaolô đã dạy:

- Anh em hãy giữ vững lấy khí giới của Thiên Chúa mà chiến thắng satan, ma qủy. Satan không phải là một huyền thoại, hoang đường, nhưng là một sức lực đầy quyền uy và hiện thực, luôn tìm cách mưu hại chúng ta như bài Iin Mừng hôm nay đã nói đến, chúng tấn công Chúa Giêsu, nhưng Ngài có dư thừa quyền năng để vượt qua mọi thử thách phi thường của ma qủy và Ngài đã dứt khoát xua duổi chúng đi:

- Hỡi satan, hãy cút đi. Dù cả hỏa ngục dấy lên, chúng bay cũng không thắng nổi.

Nhưng nhân loại qua giòng thời gian vẫn không thay đỗi, nên ma qủy ngày nay vẫn dùng chiêu cũ đó là đói khát, danh vọng và uy quyền để cám dỗ. Ba chiêu thức này đã làm biến đổi bao tâm hồn theo giòng lịch sử, mà thánh Phaolô đã nhắc nhở:

- Nó như con sư tử lượn quanh tìm mồi để cắn xé. Vì thê anh em hãy tỉnh thức và bước đi dưới sự soi dẫn của Thiên Chúa.

Từ thời Adong Eva hiện diện, con người luôn hướng về tội lỗi, nhưng từ ngày Chúa Giêsu vị Cứu Chúa, Con Người đã chiến thắng vị thủ lãnh trần gian và bị đánh bật ra ngoài. Chúa đã chiến thắng ma qủy, đã quyết liệt chiến đấu với mọi cơn cám dỗ để chúng ta noi theo và trung thành với Chúa.

Ồng chủ một nông trại thuê một thanh niên đến sở nhặt khoai Tây. Công việc không có gì nặng nhọc và vất vả. Chỉ cần phân loại các củ khoai to, nhỏ và cho vào càng xé. Sau một vài ngày làm việc, anh thanh niên đến gặp ông chủ và xin nghỉ việc. Ông chủ hỏi lý do thì anh trả lời:

- Công việc không có gì là nặng nhọc, nhưng điều làm tôi nhức óc đó là phải quyết định lựa chọn.

Lựa chọn và quyết định cả là một gánh nặng, vì không ai có thể thay thế cho mình được. Chúng ta cần người khác chỉ bảo, cần người khác góp ý, nhưng quyết định vẫn là ở mình. Thú vật không có lựa chọn mà chỉ làm theo bản năng. Con chim có thể làm tổ rất tinh vi, rất sắc sảo mà không cần học hỏi, không sợ sai lầm, trong khi đó con người vô cùng lầm lẫn, sai quấy, mặc dù học hỏi đầy đủ. Sai lầm, nghi ngờ, bất an là số phận của con người, con người phải quyết định chọn cái hay cái phải, điều tốt, Đó là điều làm cho chúng ta ray rứt, đau khổ. Vì vô phương, bất tòan nên cần sự trợ giúp của Chúa. “Con người là cái chi mà Chúa phải bận tâm?” (Thảnh Vịnh 8). Dưới con mắt của Chúa, con người lại là một giá trị vô song, là đối tượng của tình yêu độc nhất. “Con người không đáng một xu mà không rơi xuống đất ngòai thánh ý của Chúa”. Con người cần phải lựa chọn, lựa chọn thay đổi cả một đời người như thánh Phanxicô khó khăn, như cha Damiêng Kolbe, Nhưng có những quyết định làm cho người ta ray rứt như Giuda, Dằn vặt như Madalena.

 

35.Chiến đấu với ma quỷ – R. Veritas

Có một câu chuyện vui dân gian kể rằng: Có một người nọ bị quỷ hiện lên chận đường. Quỷ bắt anh ta phải làm một trong ba điều sau đây: một là uống rượu thật say – hai là đốt nhà của mình – ba là giết chết vợ mình.

Quá hoảng sợ, người đàn ông đành chọn uống rượu thật say vì anh ta cho đó là việc làm đỡ nguy hại nhất. Nào ngờ, khi say rượu, anh ta mất hết lý trí, nổi lửa đốt nhà mình. Bà vợ ra can ngăn, anh ta điên tiết giết luôn vợ mình. Rốt cuộc là anh ta đã làm cả ba việc mà tên quỷ đã đề ra.

Ma quỷ có rất nhiều mưu mô xảo kế, khi cám dỗ người nào, chúng vận dụng hết mọi thủ đoạn để hạ gục người đó. Vì thế, khi cám dỗ Chúa Giêsu, ma quỷ đã dùng chính Lời Thiên Chúa để dụ dỗ Người, nhưng Chúa Giêsu không rơi vào bẫy của ma quỷ. Trái lại, Ngài cũng đã dùng Lời của Thiên Chúa để cho ma quỷ phải bẽ mặt và bỏ đi.

Quả thật, satan là tên xảo trá. Hắn dùng ngay lời Chúa Cha vừa tuyên bố về Chúa Giêsu ở sông Giođan để cám dỗ Người. Hắn khích Người dùng quyền năng của Con Thiên Chúa để thỏa mãn những nhu cầu riêng tư, nhất là khi việc này xem ra không phương hại đến ai. Nhưng Chúa Giêsu không rơi vào bẫy của satan một cách dễ dàng như chúng tưởng. Tuy Người đang đói, nhưng cơn đói không là lý do thúc đẩy Người đi tìm thỏa mãn bằng mọi cách. Người trưng dẫn câu chuyện Thiên Chúa cho dân Israel ăn manna trong sa mạc, để cho tên quỷ biết rằng Thiên Chúa là Đấng nuôi sống con cái Ngài. Điều quan trọng không chỉ là cơm áo mà thôi. Chúa Giêsu trích dẫn lời sách Đệ Nhị Luật để đáp lại lời satan: “Người ta sống không phải chỉ nhờ cơm bánh”. Thất bại trong cám dỗ đầu tiên, satan lại bày ra mưu kế khác. Chúa Giêsu không chịu thua vì cái bụng thì hắn đánh vào cái đầu.

Tin Mừng theo thánh Luca kể tiếp như sau: “Quỷ đem Chúa Giêsu lên cao và chỉ Người thấy tất cả các nước thiên hạ, rồi nó nói với Người: “Tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh quang, lợi lộc của các nước này, vì quyền hành ấy đã được trao cho tôi và tôi muốn trao cho ai tùy ý. Vậy, nếu ông bái lạy tôi, thì tất cả sẽ thuộc về ông”. Satan thật ghê gớm, hắn biết Chúa Giêsu đã quyết định giữ trọn đời mình để thiết lập nước trời mới nơi trần thế, hầu đem lại hạnh phúc đời này và đời sau cho con người. Một lý tưởng thật tuyệt vời. Nhưng để thực hiện thì gian lao vất vả lắm, lại không biết có thành công hay không. Satan dụ dỗ Chúa Giêsu quy phục quyền bính của hắn. Đổi lại, hắn sẽ cho Người chinh phục cả thế gian một cách dễ dàng. Satan đã lầm to, Chúa Giêsu thật sự quyết tâm sống chết cho nước Thiên Chúa, nhưng nước này phải được thiết lập bằng việc thi hành thánh ý Thiên Chúa Cha chứ không bằng việc tuân phục một quyền lực nào khác. Để đáp lại satan, Chúa Giêsu nhắc lại rằng: “Thiên Chúa mới là Đấng nắm chủ quyền trên các dân tộc”, và Chúa Giêsu trích lời trong sách Đệ Nhị Luật để đáp lại: “Ngươi phải bái lạy Thiên Chúa là Chúa ngươi và phải thờ lạy một mình Người mà thôi”. Lần cuối cùng, satan quay lại tấn công trái tim Chúa Giêsu: “Nếu Thiên Chúa đã gọi ông là con thì hãy thử xem Người có thật lòng yêu thương che chở ông không hay Người sẽ bỏ mặc ông trong cảnh gian truân”.

Thánh Luca kể tiếp:

Quỷ đem Chúa Giêsu đến Giêrusalem và đặt Người lên nóc đền thờ rồi nói với Người: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì đến đây mà gieo mình xuống đi, vì đã có lời chép rằng: “Thiên Chúa sẽ truyền cho các thiên sứ lo cho bạn để luôn luôn gìn giữ bạn”. Lại còn chép rằng: “Thiên sứ sẽ ra tay nâng đỡ cho bạn khỏi vấp chân vào đá”. Đợt cám dỗ thứ ba này satan không chỉ trưng dẫn lời thánh vịnh 91 một lần, mà đến những hai lần để thuyết phục Chúa Giêsu nghe theo hắn. Song lập trường của Chúa Giêsu nào có xoay chuyển. Người tiếp tục dùng sách Đệ Nhị Luật thuật lại lời Thiên Chúa cảnh cáo sẽ tiêu diệt kẻ nào dám thách thức Ngài để đáp lại lời satan: “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi”.

Chúng ta vừa cùng có mặt bên Chúa Giêsu khi Người đối đầu với ba cơn cám dỗ của ma quỷ. Chúng ta đã thấy phần nào thủ đoạn tinh vi xảo quyệt của satan và cũng đã thấy lập trường kiên định của Chúa Giêsu khi Người chống lại hắn.

Tấm gương mà Chúa Giêsu vừa nêu sẽ giúp chúng ta có được thái độ vững vàng khi phải chiến đấu với mưu chước ma quỷ. Là những người sống lăn lộn giữa lòng đời, chúng ta thường xuyên phải đối phó với những cám dỗ của ma quỷ. Chúng thường tập trung vào ba lãnh vực: quyền lợi vật chất, tham vọng thống trị và nhu cầu tình cảm. Mưu mô xảo kế của satan thì thiên hình vạn trạng. Xã hội văn minh phát triển thì các cơn cám dỗ của satan phát triển theo. Chúng mặc đủ mọi hình thức, khi thì dịu dàng mời mọc, khi thì đe dọa hung hãn. Chúng thường tạo cho chúng ta cảm giác hợp lý, được phép khi đưa ra những lập luận có vẻ vô hại. Nhất là trong thời đại hôm nay, khi lợi thú cá nhân được đề cao quá mức và nhu cầu hưởng thụ của con người được kích thích đến mức tối đa. Cái bụng, cái đầu và con tim của chúng ta luôn luôn phải đối mặt với những lời rỉ tai hay những cuộc biểu dương ồ ạt của sự dữ.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa biết rõ con chỉ là những thụ tạo mỏng dòn, lại phải sống lăn lộn giữa bao cạm bẫy của satan. Ma quỷ thì tinh ranh xảo quyệt, còn con thì thường lơ là mất cảnh giác, xin Chúa luôn ở kề bên con mỗi khi con gặp cơn cám dỗ. Xin Chúa nhắc con nhớ rằng chỉ có thánh ý Chúa Cha mới là tiêu chuẩn tuyệt đối trong đời người Kitô.

 

36.Hành trình đi vào nước hứa

(Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng)

Mùa chay là thời gian người tín hữu kiểm điểm lại mối liên hệ trước mặt Chúa và xét lại mối tương quan giá trị của mỗi người: những gì là quan trọng trước mặt Chúa và quan trọng hơn trong cuộc sống người tín hữu. Mùa chay kéo dài 40 ngày, nhắc nhở cho ta 40 năm trường dân Chúa đi qua sa mạc để vào đất hứa. Thời gian 40 ngày còn nhắc nhở cho ta việc ăn chay đền tội 40 ngày của các ngôn sứ. Ðể sửa soạn cho giao ước Sinai, ông Môsê đã ăn chay 40 ngày đêm để nhận lãnh bia đá giao ước (Xh 34:28; Ðnl 9:9). Ngôn sứ Êlia đã ăn chay 40 ngày trên đường lên núi Khô-rếp (1V 19:8). Truyền thống Kitô giáo cho rằng ông Gioan Tiền hô cũng ăn chay 40 ngày trước khi ông xuất hiện từ hoang địa, rao giảng phép rửa sám hối dọn đường cho Ðấng cứu thế đến. Chính Chúa Giêsu cũng đã ăn chay 40 ngày trong hoang địa trước khi bắt đầu cuộc sống công khai (Mt 4:2; Mc 1:13; Lk 4:2).

Trước khi đi vào miền đất hứa, dân Chúa phải lang thang qua sa mạc 40 năm trường. Họ được nhắc nhở để ghi nhớ những kỳ công Chúa đã làm cho họ, giải thoát họ khỏi ách nô lệ bên Ai cập, và làm giao ước với họ trên núi Sinai. Trong sa mạc, họ gặp nhiều cám dỗ, thử thách, và thường họ sa ngã, vấp phạm. Họ kêu trách Chúa. Họ thách thức Chúa biểu lộ quyền năng để cứu họ. Họ chối bỏ Chúa để đi thờ các thần ngoại lai. Họ đúc bò vàng để thờ. Họ phản bội Chúa. Và mỗi lần họ ăn năn sám hối thì Chúa lại giang tay đón nhận họ trở về.

Phúc âm hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu được Thánh Thần đưa vào hoang địa bốn mươi ngày và chịu ma quỉ cám dỗ về ba phương diện: mê ăn, vinh hoa lợi lộc và kiêu ngạo (Lc 4:1-13). Theo phương diện là người, Chúa Giêsu cũng bị ma quỉ cám dỗ. Và Chúa đã toàn thắng cám dỗ nhờ việc ăn chay, cầu nguyện để được trung thành với sứ mệnh mà Thiên Chúa Cha trao phó.

Qua Bí tích Rửa tội, người tín hữu được trở nên dân tộc mới được chọn. Chúa Giêsu cũng đưa dẫn ta tới miền nước hứa, nước mà Chúa bảo ông Nicôđêmô chỉ có những người sinh lại bởi nước và Thánh Thần mới được vào (Ga 3:5), và nước mà Chúa đã hứa với người trộm lành (Lc 23:43). Tuy nhiên trước đó người ta phải trải qua sa mạc thế gian. Ta cũng phải chịu cám dỗ và thử thách. Theo quan niệm Kitô giáo, thì cám dỗ là mưu chước của ma quỉ. Chúa để cho cám dỗ xẩy đến với những người được kêu gọi. Khi những ước muốn và nguyện vọng của ta không được toại nguyện, ta phàn nàn, kêu trách Chúa. Cám dỗ là thước đo tự do lựa chọn của mỗi người.

Trước những cám dỗ thử thách, ta có thể lựa chọn hoặc ưng thuận hay chống trả. Nếu không có tự do lưạ chọn, thì loài người không có trách nhiệm. Cám dỗ thường là triệu chứng nói lên yếu điểm của mỗi người. Mỗi người có những yếu điểm khác nhau: có người ham danh, người ham lợi, người ham thú vui. Vì thế ma quỉ thường lợi dụng những yếu điểm của mỗi người để tấn công. Và ma quỉ còn dùng chiến thuật du kích để tấn công nữa, nghĩa là đối tượng mà ma quỉ dùng để cám dỗ không phải là trực tiếp, nhưng là gián tiếp. Vì thế ta phải tỉnh táo nhận định. Ðể có thể trung thành, ta phải kêu cầu danh Chúa như thánh Phaolô dạy tín hữu Rôma (Rm 10:13) và tuyên xưng đức tin vào Chúa như ông Môsê dạy dân chúng trong Cựu ước (Ðnl 26:5-10).

Mùa chay là mùa ăn năn đền tội, là thời gian ăn chay, kiêng thịt, hi sinh, hãm mình và lam việc lành phúc đức. Màu sắc phụng vụ trong mùa chay là màu tím tượng trưng cho tâm tình ăn năn, sám hối trong mùa chay. Lợi điểm của việc ăn chay là để không những giữ gìn sức khoẻ phần xác, nhưng còn để gia tăng sức mạnh thiêng liêng, hầu chống trả cám dỗ. Nếu người ta kiêng ăn uống chỉ nhằm giữ gìn sức khoẻ phần xác, để khỏi mập, khỏi cao máu, hay làm giảm chất béo cholestorol, thì việc kiêng ăn uống không có giá trị thiêng liêng, vì thiếu động lực tôn giáo thúc đẩy. Vì vậy muốn có giá trị thiêng liêng, người ta phải đưa động lực tôn giáo vào việc kiêng cữ đồ ăn thức uống. Thiết tưởng đời nay, người ta cũng cần xét lại việc kiêng cữ đồ ăn thức uống. Sống ở một vài xã hội hiện tại và hiện đại, người ta thấy thịt thà quá dư thừa. Vì thế được dịp ăn cá cũng là tốt cho sức khoẻ phần xác. Vả lại những người thích ăn cá thì việc kiêng thịt cũng không phải là viêc hãm mình đáng kể. Có những người kiêng thịt mà lại đi ăn tôm hùm chẳng hạn, thì chắc hẳn phải đặt lại vấn đề hãm mình vì tôm hùm vừa ngon lại vừa mắc tiền.

Ngoài luật đòi hỏi người tín hữu ăn chay kiêng thịt mà đời nay có tính cách đơn giản, Giáo hội mong muốn người tín hữu tự nguyện ăn chay kiêng thịt thêm nữa. Ngoài ra Giáo hội còn mong muốn tín hữu, không những kiêng thịt, mà còn kiêng miệng lưỡi, lỗ tai và con mắt để chỉ nói, chỉ nghe, chỉ nhìn xem những gì đáng nói, đáng nghe và đáng xem, những gì làm đẹp lòng Chúa. Trong mùa chay ta nhớ lại những thất bại, những yếu đuối, những lỗi lầm trong quá khứ và ăn chay đền tội để xin Chúa nhân lành tha thứ và để sửa soạn tâm hồn mừng lễ Phục sinh. Người tín hữu không ăn chay, không hi sinh, không hãm mình, không đền tội.. như là việc gì phải làm một cách bất đắc dĩ. Người tín hữu làm những việc trên và tất cả mọi việc vì lòng yêu mến Chúa. Và đó là sự khác việc lớn. Và khi người tín hữu làm mọi việc vì lòng yêu mến Chúa, tình yêu sẽ giúp biến đổi đời sống để đi vào cõi siêu việt.

Lời cầu nguyện xin cho được trung thành vói lời giao ước khi chịu Phép Rửa tội:

Lạy Chúa, cũng như dân trong Cựu ước

gặp nhiều cám dỗ trên đường đi về đất hứa,

con cũng chịu cám dỗ, thử thách về đức tin.

Xin ban cho con được trung thành

với lời giao ước con đã làm qua Bí tích Rửa tội.

Xin dạy con biết dùng việc ăn chay, cầu nguyện

hi sinh, hãm mình, bác ái trong mùa Chay thánh

để làm tăng cường sức mạnh thiêng liêng

hầu có thể chống trả cám dỗ. Amen.

 

37.Quỷ mang hình người

(Suy niệm của Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm)

Năm 1971, báo chí có đăng tải một câu chuyện là lạ có thật mà cũng khó tin như thế này: Ở Vineland bang New Jersey, một thanh niên 21 tuổi tên là Mike đã làm một nghi lễ tôn thờ Satan bằng cách bóp nát 2 con chuột cống trong 2 bàn tay của mình và lấy máu bôi lên áo rồi yêu cầu 2 người bạn của mình trói tay chân của anh ta lại rồi thảy xuống nước. Mike tha thiết thuyết phục 2 người bạn đẩy anh ta xuống hồ nước để nhìn xem anh ta vùng vẫy và chết như thế nào. Tại sao lại như vậy?

Thưa, Mike là một người thờ ma quỉ. Anh ta bị ám ảnh bởi tư tưởng quỉ quái này: là nếu anh bị sát hại, thì sẽ tái sinh thành vị tướng chỉ huy 40 đạo quân ma quỉ? Chúng ta nghe chuyện, cho anh chàng Mike này là mát là hâm là chạm điện, khi không lại thờ ma quỉ với tư tưởng quỉ quái! Nhưng chúng ta đừng quên tại Hoa Kỳ, một số người đang quay trở về thờ ma quỉ. Một khu phố ở San Francisco có ngôi đền thờ Satan, với hơn 10 ngàn người lui tới vái lạy…

Bộ mặt của ma quỉ: đen thui (đối với người da đen: quỉ màu trắng!), có sừng, có đuôi, gớm ghiếc mà vẫn có người thờ. Hành động thờ nó cũng ghê rợn, máu me, quái ác, vậy mà cũng có kẻ thực thi, đi theo. .. huống gì là ma quỉ khôn ngoan lắm, “ma nó quỉ lắm,” “quỉ nó ma lắm” (chỉ thua Đức Chúa Trời một chút!), nó không dại gì xuất đầu lộ diện nguyên hình xấu xí của nó, mà nó ẩn mình dưới nhiều bộ mặt đáng yêu, như thế thì sức mấy ta không tôn thờ. Trong Tây Du Ký, yêu quái xuất hiện như những nàng tiên cám dỗ Đường Tăng. Trong Thạch Sanh -  Lý Thông: yêu quái xuất hiện như chàng thanh niên giỏi giang tuấn tú, để cướp cho được công chúa mỹ miều. Và còn muôn vàn bộ mặt đáng yêu đáng quý khác như vàng bạc lấp lánh, quyền thế oai linh, danh vọng tột đỉnh, mà quỉ ma núp bóng, ẩn mình, che mặt để ta phải sụp lạy.

Trong muôn vàn bộ mặt đó, hôm nay chỉ nhắc đến một bộ mặt: đó là bộ mặt “người”: vì Mùa Chay, mùa nhắc chúng ta đến Phép Rửa mà Công Đồng đã ra lệnh phải làm nổi bật trong 40 ngày này.

Ma quỉ ẩn hình dưới dạng con người để nhân loại phải thờ lạy. Khi người ta không thờ lạy Thiên Chúa, thì người ta phải tìm một cái gì khác để lạy lục. Satan đã khôn ngoan tìm giúp ta: con người. Con người có 3 mặt: con người nói chung (nhân loại); con người là một người nào đó; con người là chính mình.

1.- Quỉ dưới bộ mặt con người nói chung: chúng ta thấy rõ lắm. Càng khoa học, càng tối tân, con người càng nghĩ rằng chính con người sẽ trả lời tất cả mọi đòi hỏi, thắc mắc của con người: máy tính điện tử do con người sáng tạo, mạnh như Deep Blue của hãng IBM sẽ trả lời hết các câu hỏi, kể cả câu hỏi “có Chúa không, có đời sau không?”

Điển hình cho việc thờ lạy loài người là bài xã luận sau lần đầu tiên con người phóng thành công vệ tinh Spoutnik lên không gian, đưa Gagarin vào quĩ đạo. Bài xã luận coi đây là ngày thứ 8 của công cuộc sáng tạo: “Chúng tôi đã hoàn tất công cuộc sáng tạo. Chúng tôi còn qua mặt công cuộc sáng tạo nữa. Vệ tinh chúng tôi phóng lên đang chạy vòng quanh trái đất, tuân theo ý muốn của con người. Từ nay không ai còn có thể nói được có một Thiên Chúa đã điều khiển vũ trụ trăng sao.”

Ta không bình luận bài xã luận đó. Nhưng nêu lên để cho ta thấy một điển hình muốn nâng con người lên hàng Thượng đế, có khi hơn cả Thượng Đế!

Các nhà khoa học ở Trường Đại học Tyne (Anh) tuyên bố họ đã sẵn sàng trong việc tạo tinh trùng từ tủy xương phụ nữ. Nghĩa là, trong tương lai gần, phụ nữ không cần tinh trùng của đàn ông để sinh con. Bước đột phá này sẽ mở đường cho những cặp “vợ chồng” đồng tính nữ có con một cách tự nhiên

Song song, các đôi “vợ chồng” đồng tính nam cũng hoàn toàn có hy vọng tạo con từ bản thân họ. Các nhà khoa học nói trên cũng đang nghiên cứu tạo trứng từ tủy xương của đàn ông. Trứng này sẽ được phối với tinh trùng của người bạn đời đồng tính rồi thuê tử cung của một phụ nữ để sinh con.

2.- Quỷ dưới dạng một con người nào đó: rõ ràng, cụ thể: người khác. Ta nói thờ lạy, chứ  không chỉ tôn kính, coi trọng. Thờ lạy là coi người khác đó chính là thần tượng của mình. Thần tượng chỉ huy (viễn khiển: remote control) tất cả lời nói, hành động của ta và ta làm gì nói gì cũng qui về người đó, vì người đó. Hitler của đệ nhị thế chiến, nay nhiều bạn trẻ còn muốn làm sống lại. Ngày nay cũng có những kẻ thờ lãnh tụ. Có thời Lý Tiểu Long là thần tượng của võ thuật phim ảnh, Marađona của bóng đá, Madonna của ca hát một thời, Brigitte Bardot minh tinh cũng từng là thần tượng lắm kẻ theo. Ở Việt-Nam ta có các ca sĩ mà ta kết làm thần tượng, minh tinh tài tử Hàn Quốc mà ta không thấy mặt là chịu không được: thế là hớt tóc cho giống, nhuộm tóc cùng màu, quần áo y chang, nói đúng từng chữ. Hình ảnh thần tượng ta phóng to đặt lên bàn…thờ, dán trong buồng ngủ để trước khi nằm nhìn thấy mà gặp trong mơ. Đi đường mang theo trong ví, có hình thần tượng để ngắm mà lấy sức mạnh…

3.- Quỷ là chính ta. Đây đích thị là kiêu ngạo, ta thờ lạy ta, ta tự hào về mình. Một trong bảy mối tội đầu và cũng là tội nguyên thuỷ như Adong và Eva nguyên tổ loài người.

Adong và Evà muốn biết tất cả (thiện, ác) như Thiên Chúa, muốn làm chủ mình, một mình. Về mặt này, ma quỉ tinh vi lắm, đến độ mình thờ mình mà không biết.

Một người học giỏi cậy mình thông minh. Một người có tài cậy mình tháo vát. Một anh giàu cậy mình lắm của. Một cô duyên dáng cậy mình dễ thương, một cô đẹp đẽ ỷ mình là Tây Thi, một người quyền thế coi mình là tất cả. Ta thấy lặp đi lặp lại chữ “mình.” Mình là nhất, tìm cho ra được một cái nhất nào đó để thờ mình. Nếu không đẹp, thì có duyên nhất; nếu không có duyên nhất, thì giàu nhất; nếu không giàu nhất thì đạo đức nhất; nếu không đạo đức nhất, thì ta đành đưa mình lên hàng khiêm nhường nhất. Mà mình là nhất thì Chúa phải nhì! Nhất vợ thì trời phải nhì.

Có con quỉ kia cám dỗ nhà vua. Nó thấy nhà vua ngủ dậy trễ, nó đến cám dỗ bằng cách lay nhà vua dậy để đọc kinh. Tại sao vậy? Bởi khi nhà vua dậy đúng giờ đọc kinh, thì tự hào tự cao, còn nhà vua dậy trễ, hối hận, xin tha, Chúa tha, là quỉ thua xa rồi. Chúa ghét kẻ kiêu ngạo, và yêu thương kẻ khiêm nhường. Mà nhiều khi ta nghĩ ta khiêm nhường nhất, lại chính lúc ta kiêu ngạo số một.

Quỉ cám dỗ để ta thờ ta mà ta không biết: nó núp bóng dưới một cái nhất nào đó của ta để ta dễ vênh vang...

Không biết Chúa Giêsu xưa được quỉ hiện ra dưới hình dạng nào để cám dỗ về của ăn, về giàu có, về quyền cao, chứ ngày nay, quỷ thường hiện hình dưới dạng con người để cám dỗ ta, dưới ba dạng người: người nói chung; một người cụ thể, và người đó chính là ta. Ta khó thoát đi đâu.

Tuy nhiên ta cũng có một vũ khí thắng quỉ: qui về Chúa.

Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Thiên Chúa, chứ không phải hình ảnh quỉ ma. Vì thế con người là nhất: đúng. Ngay từ đầu thuở sáng tạo, con người là nhất. Khi tổ tông phạm tội Chúa không bỏ mặc nhưng đã tái sáng tạo qua công trình cứu chuộc của Đức Giêsu. Sáng tạo đã kỳ diệu, tái tạo càng diệu kỳ hơn. Nếu sáng tạo con người là nhất thì tái tạo là nhất hơn nữa. Mà Chúa tái tạo, tái sinh ta qua Bí tích Thánh Tẩy (trong đêm vọng Phục sinh chúng ta long trọng cử hành hoặc nhớ lại). Vậy thì: Nếu quỉ cám dỗ tôi: Minh ơi, mày là nhất đó. thì tôi không ngần ngại gì mà không dĩ độc trị độc, tương kế tựu kế mà trả lời với quỉ rằng: “OK, sure, đúng thế, chính tao là nhất, là năm bơ oăn. Nhưng đó là do Chúa cho. Chúa làm người để người làm Chúa. Mà làm Chúa là nhất!”

Qua Phép Rửa tái sinh, ta được sinh lại làm con Chúa Cha, làm em Chúa Con, đồng thừa tự Nước Trời với Chúa Kitô (sunkleronomos).

Không phải chỉ hồn làm con Chúa, mà cả xác lẫn hồn đều được cứu, được làm con Chúa, được cùng đồng phục sinh với Chúa Kitô.

Ơn này lớn lao quá: Nếu vênh vang là công ta mà có, ta đã lọt bẫy quỷ ma. Nếu ta hướng về Chúa Cha mà cảm tạ, thì đó chính là vũ khí thắng ma quỷ. Chúa nhận ta làm con qua Phép Rửa tái sinh mà mùa chay là mùa nhắc ta nhớ lại vậy. Amen.

 

38.Tiến tới một tình yêu chân thật hơn, tinh tuyền hơn.

(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)

Thử thách là mối nguy cho tình yêu, nhưng cũng nhờ nó mà tình yêu mạnh hơn, vì trong cơn thử thách sự tự do của con người luôn luôn hướng đến tích cực. Thử thách giống một nốt nhạc đối vị làm nổi bật giai điệu thánh thót trầm hùng và sứ truyền cảm của bản hoà tấu. Đức Giêsu đã muốn chịu thử thách của cám dỗ. Suốt cuộc đời trần thế của Người, Chúa gặp thử thách, nó là đối vị với ý định bên trong của Người. Tất cả con người Chúa hướng tới mục đích hoàn tất ý muốn của Cha. Chúa đã muốn đối đầu với thử thách trong tư thế lãnh đạo Giáo Hội. Chúa đã chịu thử thách, tất nhiên Giáo Hội của Chúa và mỗi tín hữu thành phần Giáo Hội cũng phải qua cầu thử thách và phải phản ứng như Chúa. Giống Thày, tín hữu phải dùng thử thách làm dịp thử lửa tôi luyện một tình yêu lớn mạnh hơn, nghĩa là thực hiện một sự gia nhập vững bền hơn vào thánh ý của Cha qua trung gian Đức Kitô.

Thử thách có những hình thức chính yếu nào?

1) Trước hết, là từ chối thân phận làm người với tất cả thực chất của nó. Ma quỷ cám dỗ Chúa, nài Chúa hãy dùng quyền năng thần linh của Chúa để thoả mãn một nhu cầu vật chất của Người là đói thì cần có của ăn. Biết bao phen chúng ta chẳng nghe thấy người ta nói: Thiên Chúa đáng lẽ phải làm thế này thế nọ để thiết lập sự bình đẳng, để mọi người có cơm ăn áo mặc, để khỏi lao động vất vả, v.v… Thiên Chúa trả lời rằng nhân loại được ban cho một trí tuệ, một ý chí, một thân thể để tuỳ tiện sử dụng. Thảm trạng con người là ở chỗ khác. Hoạt động làm cho người ta quên mất rằng con người không chỉ sống bằng lương thực vật chất. Đức Giêsu không muốn bỏ thân phận làm người của Chúa cho nên Chúa từ khước biến đá thành bánh ăn. Tuy nhiên Chúa nói thêm rằng con người cũng sống bởi bác ái, tình liên kết, công bằng và tình thương – và thứ bánh này do Thiên Chúa ban cho, thiếu của ăn thiêng liêng thì của ăn nuôi xác cũng sẽ thiếu, hoặc sẽ hư đi.

2) Hình thái khác của thử thách là muốn liên hiệp Thiên Chúa với những tính toán mờ ám. Ma quỷ ngỏ ý muốn giúp Chúa, với điều kiện: “Nếu Ngài sấp mình thờ lạy tôi, tôi sẽ cho Ngài quyền bá chủ thế giới”. Đây là chước cám dỗ thường xảy ra.

Những luận điệu nào bàn kế cho Giáo Hội: “Nếu chịu liên minh với thế gian, Giáo Hội sẽ thu phục được thế gian?”. Giọng lưỡi nào xui chúng ta: “Nếu bạn khôn khéo điều đình thu xếp với Sự Thật, với bổn phận, v.v… bạn sẽ làm được điều này điều nọ?” –Nhưng mệnh lệnh của Đức Giêsu là: “Ngươi sẽ chỉ tuân phục Thiên Chúa mà thôi”

3) Một xu hướng nữa là muốn thay thế những phương tiện của Thiên Chúa bằng những phương tiện khác thường. Chủ trương cứu độ của Đức Kitô, tức là Tin Mừng về một thế giới tốt hơn, lan truyền bằng nhưng phương tiện người ta mệnh danh là “nghèo nàn”, trong đó có nhục nhã, đau khổ và chết. Con người nhất là con người có nhiều kiến thức, luôn luôn có khuynh hướng lựa chọn những phương tiện có nhiều uy thế. Chẳng hạn, uy thế của một triết lý nào đó mà trùm lấp Phúc Âm thì kéo theo một rủi ro lớn, có thể thay đổi ý nghĩa và tinh thần Phúc Âm, cho dẫu những người chất phác thán phục hết sức trước “thắng lợi” của nó. Một mệnh lệnh khác của Chúa Giêsu là: “Ngươi chớ cám dỗ Thiên Chúa là Chúa ngươi”, nghĩa là chớ lợi dụng quyền năng Thiên Chúa vào những việc gì ở ngoài công cuộc của Người.

 

39.Chúa ăn chay và bị cám dỗ

(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’ – Radio Veritas Asia)

Có một nhà thần bí nọ trở về thành phố sau một thời gian dài sống trong sa mạc, bạn bè và người thân vây xung quanh rối rít hỏi thăm và xin ông tả lại cho họ nghe về kinh nghiệm mà ông đã có về Thiên Chúa. Ai cũng hỏi: "Thiên Chúa ra sao?". Nhưng làm sao ông có thể diễn tả kinh nghiệm của tâm hồn bằng lời nói được. Bị gạn hỏi mãi, sau cùng ông đưa ra cho họ một công thức thật mơ hồ và bất toàn, với hy vọng khiến cho ai đó không được thỏa mãn, với câu hỏi "quyết định tìm vào sa mạc sống kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa" như mình. Mọi người mừng rỡ ghi chép công thức ấy và biến nó trở thành một văn bản thánh. Họ buộc mọi người phải thuộc bản văn đó như Kinh Tin Kính, và không nề quản hy sinh gian khó vượt trùng dương để loan báo cho các dân, các nước công thức ấy. Và có người trong bọn đã hy sinh cả mạng sống cho công tác loan truyền này nữa. Nhưng không ai tìm được cho mình kinh nghiệm sống về việc gặp gỡ Thiên Chúa cả. Đó là điều khiến cho nhà thần bí nọ vô cùng buồn sầu và hối hận, và ông đã thầm nghĩ rằng: Thà đừng nói gì cả có phải hay hơn không?".

Anh chị em thân mến!

Thiên Chúa không phải là một văn bản, mà là một bản vị, một nhân vật sống động có các liên hệ thân tình với loài người. Đó là sứ điệp mà các bài đọc Chúa Nhật I Mùa Chay hôm nay đề cập đến.

Sách Đệ Nhị Luật (26,4-10) là bản văn đúc kết niềm tin của dân Do Thái vào Thiên Chúa mà học giả Beinha Fuegat gọi là kinh tin kính lịch sử của Israel. Nó diễn tả kinh nghiệm của cuộc gặp gỡ giữa dân Do Thái và Thiên Chúa trong thời khai sinh ra lịch sử của họ. Trong cuộc Xuất hành khỏi Ai Cập, vào khoảng năm 1250 (trước tây lịch) dân Do Thái mới ý thức được họ là một dân tộc bao gồm 12 chi họ khác nhau, dưới sự lãnh đạo của Môisê, họ cảm nhận được các mối dây liên hệ với nhau. Cho tới lúc đó, họ chỉ có một ý thức dân tộc mờ nhạt, biết mình thuộc về chi họ này, chi họ kia, giữa dòng giống Do Thái và sống riêng rẽ nhau. Nhưng họ chưa có ý thức quốc gia, nghĩa là chưa có ý thức về mình như là một dân tộc có chủ quyền, có tổ chức, có ý thức về mình như là một dân tộc có chủ quyền, có tổ chức, có đất nước và một mệnh lệnh chung. Nhờ có biến cố Xuất Hành, người Do Thái mới ý thức được rằng: Họ là một dân tộc thực sự, và Giavê Thiên Chúa của cha ông tổ tiên họ trước hết là Đấng đã giải phóng họ khỏi kiếp sống nô lệ ở Ai Cập.

Kinh nghiệm về Thiên Chúa giải phóng ấy được cô đọng lại trong một công thức tuyên xưng lòng tin của họ vào Thiên Chúa. Hình ảnh Giavê Thiên Chúa như là Đấng Tạo Hóa chỉ có về sau này, khi Israel suy tư về nguồn gốc con người và vũ trụ vạn vật, hay nói cách khác những gì được nhắc đến trong kinh tin kính trên đây của sách "Đệ Nhị Luật" đều là kết quả các kinh nghiệm của cuộc gặp gỡ sống động của dân Do Thái với Thiên Chúa. Chúng được làm khung trong bối cảnh của lễ nghi phụng tự dâng tiến lên Thiên Chúa các hoa trái đầu mùa. Khi cử hành các lễ nghi phụng tự là dân Do Thái sống trở lại kinh nhgiệm gặp gỡ Thiên Chúa trong suốt dòng lịch sử dài của họ kể từ thời các tổ phụ. Các biến cố ấy giờ đây được trở thành nền tảng niềm tin của họ.

Phụng vụ là cách thế nhắc nhớ dân Do Thái biết các điều kỳ diệu Thiên Chúa đã làm để giải phóng và cứu thoát, hướng dẫn che chở họ trong dòng lịch sử. Chính vì thế, tiếng Do Thái dùng để dâng lễ vật đầu mùa gọi là lễ "tưởng nhớ". Sự kiện toàn dân mang lễ vật đầu mùa tiến đến với Thiên Chúa là diễn tả cách đáp trả liên lỉ lời kêu mời của Thiên Chúa.

Đây là cách thế mà dân Do Thái xưng tụng Thiên Chúa là Đấng đã tạo dựng nên họ, chọn lựa họ, giải phóng họ khỏi Ai Cập và đưa họ vào miền đất hứa, nơi họ đang sinh sống. Đối với Israel thì Thiên Chúa tạo Hóa là Thiên Chúa của biến cố Xuất Hành, Đấng trao ban cho họ miền đất hứa và sẽ gửi Đấng Cứu Thế đến. Bàn tay tạo dựng của Ngài cũng là bàn tay và cánh tay của Đấng quyền uy giải phóng họ khỏi kiếp sống tôi đòi bên Ai Cập, và hướng dẫn chở che họ trong 40 năm lang thang trong sa mạc để tiến về miền đất hứa. Bàn tay ấy giờ đây cũng giang ra đón nhận những hoa trái đầu mùa mà dân Do Thái tiến dâng lên Ngài. Những hoa trái nảy sinh từ lòng đất mà Thiên Chúa đã hứa ban cho tổ phụ Abraham và dòng dõi ông là chính họ.

Việc cử hành phụng vụ như thế trở thành thời điểm, trong đó các hành động riêng rẽ của Thiên Chúa đã chiếm hữu, sắp xếp, thống nhất trở lại cho có thứ tự lớp lang và giải thích như là các hành động cứu độ, chứ không phải chỉ là lịch sử các biến cố tầm thường, vô nghĩa.

Qua trình thuật Chúa Giêsu bị cám dỗ trong sa mạc (Lc 4,1-13) thánh sử Luca muốn cho chúng ta thấy Chúa Giêsu khai mào một cuộc xuất hành mới là giải phóng loài người khỏi ách thống trị của Satan, của sự dữ, của tội lỗi, các chước cám dỗ của chúng, và cái chết như là hậu quả cay đắng cuối cùng của vòng xích oan nghiệp ấy. So sánh với tường thuật cám dỗ của Phúc Âm thánh Mathhêu, chúng ta thấy tường thuật của thánh Luca có ba đặc điểm sau đây:

1. Vai trò của Thánh Thần trong cuộc đời Chúa Giêsu. Tất cả mọi thời điểm quan trọng trong cuộc đời Chúa Giêsu đều được ghi dấu bởi sự hiện diện của Chúa Thánh Thần. Đối với thánh sử trong kinh nghiệm Phục Sinh và trong lịch sử của Giáo Hội, Chúa Thánh Thần không phải là sức mạnh như diễn tả trong Kinh Thánh Cựu Ước, mà là một bản vị, là Đấng hướng dẫn cuộc đời Chúa Giêsu và hoạt động trong lòng thế giới. Chính Ngài đã dẫn đưa Chúa Giêsu vào sa mạc và trợ lực Chúa Giêsu trong cơn thử thách nơi sa mạc. Chúa Giêsu đã bị cám dỗ từ bỏ con đường khổ giá mà Thiên Chúa Cha đã vạch ra, để đi theo một con đường khác hấp dẫn hơn, ngoạn mục hơn và dễ dàng hơn.

Chúa Giêsu phải chọn con đường nào đây? Dùng quyền năng cứu thế của mình thỏa mãn các nhu cầu vật chất và hiện sinh, như biến đá sỏi thành bánh mà ăn, chứ không cần phải lao nhọc vất vả hay sống theo luật công bằng hoặc tinh thần liên đới chia sẻ làm gì; hay là dùng các phép lạ cả thể để lôi kéo tín đồ cho nó mau lẹ và kết quả, chứ tội gì mà phải khổ nhọc rao giảng gieo vãi hạt giống vào tâm hồn con người và thôi thúc họ đối chiếu cuộc sống hằng ngày với giáo huấn sự thật làm gì. Hoặc dùng bạo lực và mọi thứ sức ép vật chất và tinh thần để lôi kéo đông đảo môn đệ và tín đồ. Đủ mọi thứ cám dỗ, nhưng Chúa Giêsu đã chọn lựa con đường khổ đau. Đối với thánh Luca thì chiến thắng của Chúa Giêsu trên các chước cám dỗ trước ngày công khai loan báo Tin Mừng nước trời, báo trước cho biết chiến thắng sau cùng của Chúa Giêsu khi chịu chết treo trên Thập Giá.

2. Đặc điểm thứ hai trong trình thuật Phúc Âm của thánh Luca là vai trò quan trọng của thành Giêrusalem. Toàn Phúc Âm thánh Luca trình bày cuộc đời Chúa Giêsu như là một cuộc lữ hành tiến về Giêrusalem, nơi Chúa Giêsu sẽ thực hiện công trình cứu chuộc trần gian qua cuộc tử nạn, cái chết và sự Phục Sinh của Ngài. Do đó, thánh sử Luca đặt cám dỗ thứ ba trong bối cảnh thành Giêrusalem, nơi ơn cứu độ được thành toàn. Do đó không có chương ngại nào kể cả các chước cám dỗ mà ma quỉ được phép cản trở hành trình ấy của Chúa Giêsu.

3. Sa mạc: trong sa mạc của cuộc Xuất Hành xưa kia, dân Do Thái đã lẩm bẩm kêu trách Thiên Chúa. Họ đã ngã thua trước cám dỗ và khước từ Thiên Chúa là Đấng giải phóng minh. "Lẩm bẩm" là từ Kinh Thánh Cựu Ước dùng để diễn tả thái độ chống lại Thiên Chúa, phản đối Ngài. Họ muốn gợi ý cho Thiên Chúa phải hành động thế nào để giải phóng mình. Trong sa mạc, Chúa Giêsu đã không nhượng bộ mà nghe theo lời ma quỉ cám dỗ, hay theo cách thế nó đề nghị. Mặc dù đói khát và khổ sở, Chúa Giêsu vẫn luôn vững tin vào lòng yêu thương quan phòng ấp ủ của Thiên Chúa Cha, mà không đòi yêu sách là phải trông thấy các dấu chỉ cụ thể của tình yêu thương quan phòng ấp ủ, như diễn tả bằng lương thực, của cải giàu sang, chức quyền và thành công trong đời.

Trong thư gởi tín hữu Rôma (Rm 10,8-13), thánh Phaolô tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu Kitô Phục Sinh mà khẳng định với chúng ta rằng: "Mọi người đều có thể đạt được ơn cứu độ". Điều kiện duy nhất là tin nhận Chúa Giêsu Kitô, là sống Tin Mừng cứu độ của Ngài mỗi ngày trong đời. Hãy để cho lòng tin vào Chúa Giêsu đâm rễ sâu trong tâm trí chúng ta. Hãy biết nghiền gẫm Lời Chúa. Hãy để cho Lời Chúa thánh thót nhỏ giọt trong con tim, trong tâm trí chúng ta và uống lấy Lời ấy. Hãy dành cho Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Lời Nhập Thể của Thiên Chúa một chỗ nhất trong tâm trí chúng ta và hãy thực thi giáo huấn của Chúa trong đời.

Một khi đã thấm nhuần Tin Mừng của Chúa, chúng ta hãy tuyên xưng lòng tin vào Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh, và đem hết nghị lục rao truyền Chúa Kitô và Lời Ngài cho mọi người khác. Và cách tuyên xưng lòng tin hữu hiệu nhất, trước hết và bây giờ cũng là gương sống cụ thể của chúng ta.

 

40.Một cuộc lữ hành đức tin

(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’ – Radio Veritas Asia)

Đời là một cuộc ra đi không ngừng. Sinh ra là giã từ cái ấm êm của lòng mẹ để đi vào thế giới xa lạ. Lớn lên là từ bỏ tuổi thơ đầy mơ mộng để đi vào cuộc đời với không biết bao nhiêu bấp bênh và thử thách. Khi tuổi về già đến, con người lại thấy mình đứng bên bờ của vĩnh cửu, lại một lần ra đi vĩnh viễn, dứt khoát. Cuộc đời không bao giờ là một dòng sông êm ả, chúng ta không ngừng phải trải qua không biết bao nhiêu đổi thay. Lần vào cuộc ra đi không ngừng ấy, cuộc sống đức tin của chúng ta cũng được định nghĩa như là một cuộc lữ hành. Khởi đầu cuộc sống đức tin cũng là một sự chào đời để lớn lên và ra đi không ngừng. Lịch sử ơn cứu độ, qua đó Thiên Chúa hướng dẫn cuộc lữ hành của chúng ta cũng được trình bày như một cuộc ra đi.

Ở khởi đầu là cuộc ra đi của tổ phụ Abraham, đó là cuộc ra đi mẫu mực. Abraham đã bỏ lại đàng sau tất cả để đi về phía trước với không biết bao nhiêu bấp bênh và thử thách. Nhưng điển hình nhất trong các cuộc ra đi của lịch sử cứu độ chính là cuộc ra đi của dân Israel... Bốn mươi năm lang thang trong sa mạc đã trở thành biểu tượng của không biết bao nhiêu thử thách mà bất cứ một cuộc lữ hành nào cũng đều phải có.

Trong ký ức tập thể của người Do Thái, 40 năm sa mạc ấy không ngừng được ôn lại để ý thức hơn về những thanh luyện mà con người cần phải trải qua, để sống tốt đẹp hơn, để sống tiến bộ hơn, để sống xứng đáng với nhân phẩm của con người hơn. Kinh nghiệm 40 ngày sa mạc ấy, Chúa Giêsu cũng muốn trải qua trong cuộc lữ hành trần gian của Ngài. Rời bỏ khung cảnh êm đềm của làng Nagiarét, Chúa Giêsu bắt đầu cuộc hành trình dẫn đến cái chết và nhờ đó, thực hiện được công cuộc cứu rỗi nhân loại. Trong cuộc hành trình đầy chông gai và thử thách ấy, Chúa Giêsu cũng muốn sống lại kinh nghiệm của 40 năm sa mạc. Ngài đã chịu thử thách. Nhưng nếu dân Do Thái đã bắt đầu gục ngã một cách thảm thương, thì Chúa Giêsu lại chiến thắng. Chiến thắng một cách vinh quang. Tựu trung, ba cơn cám dỗ mà Ngài đã chịu đựng đều quy về một mối đó là quyền lực và danh vọng. Đối lại với con đường dễ dãi mà ma quỷ đề ra, Chúa Giêsu đã chọn lấy con đường của thập giá. Đối lại với con đường của quyền bính và danh vọng, Chúa Giêsu đã chọn lấy con đường của khiêm hạ và vâng phục, và vâng phục cho đến chết. Sự chiến thắng của Chúa Giêsu là chiến thắng của lòng tin tưởng phó thác trên sự tự phụ mù quáng. Sự chiến thắng của Chúa Giêsu là chiến thắng của tự do trên những quyền lực tăm tối trong tâm hồn con người.

Nếu cuộc hành trình của dân Do Thái là một hành trình tiến về vùng đất tự do, thì cuộc hành trình của Chúa Giêsu là cuộc hành trình tiến về tự do của tâm hồn. Nếu người Do Thái qua cuộc hành trình đã trở thành một dân tộc tự do, thì Chúa Giêsu qua cuộc hành trình để trở thành mẫu mực cho con người tự do, và qua cuộc thử thách trong sa mạc Chúa Giêsu muốn cho chúng ta thấy rằng cuộc hành trình tiến về tự do nào cũng đòi hỏi hy sinh, chiến thắng và thanh luyện.

Thiết lập Mùa Chay, Giáo Hội muốn cho chúng ta sống lại kinh nghiệm sa mạc của Chúa Giêsu. Cuộc lữ hành trần gian của chúng ta không thể không đi xuyên qua những vùng sa mạc khô cằn, nóng cháy. Thử thách, gian lao là chuyện không thể thiếu được trong cuộc lữ hành. Cùng với Chúa Giêsu, Giáo Hội mời gọi chúng ta vượt qua sa mạc của những thử thách ấy một cách can đảm và dứt khoát. Dứt khoát với nếp sống cũ khiến chúng ta lê lết trong ích kỷ nhỏ nhoi, dứt khoát với nếp sống cũ đầy dẫy những thất vọng buông xuôi. Cùng với Chúa Giêsu, Giáo Hội mời gọi chúng ta phó thác tin tưởng hoàn toàn nơi Thiên Chúa. Chúng ta không chiến đấu và hành trình một cách lẻ loi, Chúa Giêsu đang đồng hành với chúng ta. Chúng ta không chiến đấu bằng sức mạnh và khí giới riêng của chúng ta, chúng ta có Chúa làm sức mạnh cho chúng ta.

Nguyện xin Thánh Thể Chúa Giêsu mà chúng ta sắp rước lấy trong thánh lễ hôm nay, trở thành sức mạnh và can đảm để giúp chúng ta tiếp tục tiến bước trong cuộc lữ hành.

 

41.Noi gương Chúa Giêsu để chiến đấu với ba thù

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Lễ Tro, với nghi thức truyền thống bỏ Tro lên đầu, khai mạc Mùa Chay Thánh. Ba việc phải làm là: ăn chay, cầu nguyện và bố thí, vì nó diễn tả ba mối tương quan giữa đương sự với Thiên Chúa và với anh em. Với Thiên Chúa là cầu nguyện, với tha nhân là bố thí và với chính mình là ăn chay. Ba tương quan này đồng hành với nhau và thể hiện cùng một lúc trong đời sống thường nhật của người kitô hữu.

Để sống tốt Mùa Chay Năm Thánh, và đặc biệt cảm nghiệm được Lòng Thương Xót Chúa. Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi chúng ta chuyên chăm lắng nghe Lời Chúa, dành ​​“24 giờ cho Chúa”. Đức Thánh Cha muốn xóa bỏ sự thờ ơ trong Năm Thánh Lòng Thương Xót này khi viết: “Chúng ta đừng sa vào thái độ thờ ơ lãnh đạm … đừng rơi vào trong thói quen đánh mất cảm xúc…” (x.Misericordiae Vultus số 15).

Lễ Tro vừa qua, ngài nhắc nhớ các tín hữu: “Mùa chay là thời điểm thuận tiện để cắt tỉa sự giả dối, tinh thần trần tục và dửng dưng; cần thanh tẩy tâm hồn và cuộc sống để tìm lại căn tính Kitô, nghĩa là tình yêu thương phục vụ, không phải tính ích kỷ lạm dụng” (Bài giảng Lễ Tro 2016).

Thật thế, Mùa Chay là thời gian thuận tiện để thay đổi hướng đi, lấy lại khả năng phản ứng trước thực tại sự dữ luôn thách thức chúng ta. Đây là thời gian hoán cải trở về với tình yêu của Thiên Chúa và tha nhân, canh tân cá nhân và cộng đoàn, sống thái độ sự nhưng không và lòng thương xót của Chúa.

Tin Mừng Chúa nhật I Mùa Chay trình bày cho chúng ta biến cố “Chúa Giêsu…được Thánh Thần đưa vào hoang địa ở đó suốt bốn mươi ngày, và chịu ma quỷ cám dỗ” (Lc 4,1-2). Theo Luca thì chính Chúa Thánh Thần là Ðấng dẫn đưa Chúa Giêsu vào hoang địa để chịu ma quỷ cám dỗ (x. Lc 4,1-13). Đời sống người Kitô hữu chúng ta được hướng dẫn bởi cùng một Chúa Thánh Thần, đã được lãnh nhận trong Bí tích Rửa Tội và Thêm Sức, được mời gọi đương đầu với cuộc chiến đấu hằng ngày của đức tin, nhờ ân sủng của Chúa Kitô nâng đỡ. Chúng ta cùng xem Chúa Giêsu bị cám dỗ thế nào và Người đã chiến thắng tên cám dỗ ra làm sao.

Tên cám dỗ tìm cách kéo Chúa Giêsu ra khỏi kế hoạch của Chúa Cha, khỏi con đường hiến tế và tình yêu để đảm nhận một con đường dễ dàng hơn của thành công và quyền lực. Cả Chúa Giêsu và Satan đều trích dẫn Kinh Thánh. Thực ra, để kéo Chúa Giêsu ra khỏi con đường thập giá, quỷ đã bày ra trước mắt Chúa Giêsu một niềm hy vọng sai lạc về Ðấng Messia: sung túc về kinh tế, trong lời xúi giục hóa đá thành bánh; một kiểu biểu diễn và phép lạ, với ý tưởng gieo mình xuống từ nóc đền thờ Giêrusalem và để Thiên Thần cứu mình; và cuối cùng là đánh đổi quyền lực và sự thống trị với việc thờ phượng Satan. Các chiêu ma quỷ dùng để cám dỗ Ađam và Evà (x. St 3,1-7), nó cũng dùng để cám dỗ Chúa Giêsu và chúng ta ngày hôm nay nữa.

Cám dỗ thứ nhất: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy truyền cho đá này biến thành bánh” (Lc 4,3) Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Từ « nếu » của Satan gợi lên sự không tin như khi cám dỗ Ađam và Evà (x. St 3,1-7). Chúa Giêsu có thể hoàn tất các phép lạ là lẽ đương nhiên. Nhưng, cuộc đối đầu với Satan ở đây là rơi vào bẫy chết nó đề nghị Chúa Giêsu làm một phép lạ theo ý mình. Cám dỗ nằm ở chỗ: dùng sức mạnh của mình để làm phép lạ, nhưng với tư cách là Con Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã không làm thế, Người trích dẫn sách Đệ Nhị Luật “Có lời chép rằng: Người ta không phải chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn bằng lời Chúa nữa” (Đnl 8,3).

Quyền lực là để phụng sự Thiên Chúa Cha và phục vụ anh em. Cách nào đó, tất cả chúng ta đều bị cám dỗ tương tự. Chúng ta có ơn huệ, nhưng sống ích kỷ, không phù hợp với kế hoạch của Thiên Chúa. Điều quan trọng đối với chúng ta không phải là của ăn vật chất, ý riêng mình, nhưng là vâng theo ý Chúa tình yêu và tìm kiếm thánh ý Người …

Cám dỗ thứ hai: liên quan đến sứ mệnh của Chúa Giêsu. Ma quỷ cung cấp cho Người một phương thế đơn giản để hoàn thành Nước Chúa. Nó chỉ cho Ngài thấy tất cả các nước thế gian cũng như vinh quang của nước ấy và nói: “Tôi sẽ cho ông hết thảy quyền hành và vinh quang của các nước này, vì tất cả đó là của tôi và tôi muốn cho ai tuỳ ý. Vậy nếu ông sấp mình thờ lạy tôi, thì mọi sự ấy sẽ thuộc về ông! " (Lc 4). Với chiêu cám dỗ này, Chúa Giêsu phán: "Có lời chép rằng: Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa ngươi và chỉ phụng thờ một mình Người thôi" (Đnl 6,16).

Cám dỗ thứ ba: Nó vừa nghe Chúa Giêsu trích dẫn Kinh Thánh, nó cũng làm như vậy: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy gieo mình xuống, vì có lời chép rằng: "Chúa sẽ truyền cho Thiên Thần gìn giữ ông!" Và còn thêm rằng: "Các vị đó sẽ giơ tay nâng đỡ ông khỏi vấp phải đá " (Tv 91,11). Tất nhiên, chúng ta có thể tự hỏi, cám dỗ ở đâu khi mà Satan khơi lên niềm tin vào Thiên Chúa và trích dẫn Kinh Thánh?

Với chiêu cám dỗ này, Chúa Giêsu thấy ngay lập tức và chiến đấu với nó bằng đoạn khác của Kinh Thánh: “Ngươi đừng thử thách Chúa, là Thiên Chúa ngươi” (Đnl 6,16). Trong thực tế, những điều ma quỷ yêu cầu Chúa, không gì khác hơn ngoài việc nhằm cám dỗ Chúa, buộc Chúa Cha phải làm một phép lạ. Điều này có nghĩa là bắt Thiên Chúa phải phục vụ chúng ta khi mà chúng ta là kẻ phục vụ!

Rõ ràng, mục đích không biện minh cho phương tiện! Mục đích của Chúa Giêsu là mang đến cho chúng ta Triều đại Nước Thiên Chúa, nhưng không theo kiểu thế gian, Nước Chúa không thuộc về thế gian. Cám dỗ này liên quan đến điểm trên, vì để đi đến cùng đích của chúng ta là tốt, nhưng đôi khi dùng những phương tiện, có thể chôn vùi hay cắt đứt sự sống… thế giới hôm nay, có quá nhiều tà thần chiếm vị trí trung tâm, khiến Thiên Chúa bị đẩy ra ngoài… cần biết các tà thần trong ta để chiến đấu, cần có Chúa Thánh Thần. Với ơn Chúa giúp, có Chúa Thánh Thần dẫn dắt chúng ta bước vào trận chiến thiêng liêng này, cuộc chiến mới hòng chiến thắng.

Lạy Mẹ Maria, xin trợ giúp chúng con. Amen.

 

42.Đấu trí

(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)

Đấu trí cũng là một dạng đấu lý, dùng các lý lẽ để đối đáp với nhau, lý luận lẫn nhau. Người lý luận cần nhanh trí, lý luận sâu sắc và rạch ròi. Tuy nhiên, phải biết người biết ta, chứ đừng dại mà lấy trứng chọi với đá, và thật khốn cho ai dám giơ chân đá lại mũi nhọn (x. Cv 26:14).

Ngu dốt thì bị khinh, thông minh thì bị ghét. Thế nhưng lĩnh vực nào cũng vẫn cần lý trí. Ngay cả tâm linh cũng vẫn cần có lý trí, nếu tin mà không cân nhắc thì có thể bị mù quáng, tin lệch lạc, hóa thành mê tín dị đoan, thậm chí có thể có nguy cơ phản đức tin. Thánh tiến sĩ Teresa Avila kết luận: “Tất cả tội lỗi đều do thiếu đức tin mà ra”. Ngược lại, nếu có đức tin đúng đắn, người đó thật hạnh phúc, vì “chính đức tin hoàn thành tất cả mọi sự” (Thánh Don Bosco). Đó là tin tưởng phó thác cho Thiên Chúa, hoàn toàn để cho Ngài quan phòng theo sự tiền định của Ngài, và đó cũng chính là cách tín thác vào lòng thương xót của Thiên Chúa.

Kinh Thánh cho biết rằng sau khi tư tế nhận của lễ đầu mùa do dân Chúa tiến dâng và đem đặt trước bàn thờ Thiên Chúa, dân chúng liền thân thưa: “Người Ai-cập đã ngược đãi, hành hạ chúng tôi và đặt ách nô lệ trên vai chúng tôi. Bấy giờ chúng tôi đã kêu lên cùng Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông chúng tôi; Người đã nghe tiếng chúng tôi, đã thấy cảnh khổ cực, lầm than, áp bức chúng tôi phải chịu. Đức Chúa đã dang cánh tay mạnh mẽ uy quyền, đã gây kinh hồn táng đởm và thực hiện những dấu lạ điềm thiêng, để đưa chúng tôi ra khỏi Ai-cập. Người đã đưa chúng tôi vào đây, ban cho chúng tôi đất này, đất tràn trề sữa và mật. Và bây giờ, lạy Đức Chúa, này con xin dâng sản phẩm đầu mùa của đất đai mà Ngài đã ban cho con” (Đnl 26:6-10).

Dân chúng đã có những lúc bất tín và nổi loạn, nhưng khi họ biết mình sai lầm và thành tâm sám hối, Thiên Chúa lại sẵn sàng tha thứ. Không chỉ vậy, Ngài còn ban cho những điều tốt lành rất bất ngờ ngoài sức tưởng tượng của con người. Thật vậy, Thiên Chúa là Đấng luôn giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, dù chúng ta bất xứng (x. Ge 2:13; Ep 2:4).

Chắc hẳn ai trong chúng ta cũng đã từng hơn một lần cảm thấy thất vọng – thất vọng về chính mình, thậm chí có lúc muốn buông xuôi. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng là đừng bao giờ tuyệt vọng (x. 2 Cr 4:8). Bởi vì Kinh Thánh đã xác định: “Dù cha mẹ có bỏ con thì vẫn còn Thiên Chúa đón nhận” (Tv 26:10). Chắc chắn như vậy. Vả lại, đối với Thiên Chúa, tất cả đều là “chuyện nhỏ” (x. Mt 19:26; Lc 1:37; Mc 10:27), Ngài chỉ muốn chúng ta hợp tác với Ngài bằng cách thật lòng ăn năn: “Dù tội đỏ như son cũng ra trắng như tuyết, có thẫm tựa vải điều cũng hoá trắng như bông” (Is 1:18). Gương các thánh cho chúng ta thấy rằng nhiều tội nhân đã trở thành thánh nhân nhờ biết sám hối. Quả thật, Lòng Chúa Thương Xót vô cùng lớn lao và kỳ diệu!

Tác giả Thánh Vịnh mời gọi: “Hỡi ai nương tựa Đấng Tối Cao và núp bóng Đấng quyền năng tuyệt đối, hãy thưa với Chúa rằng: Lạy Thiên Chúa, Ngài là nơi con náu ẩn, là đồn luỹ chở che, con tin tưởng vào Ngài” (Tv 91:1-2).

Sẽ chẳng bao giờ chúng ta có thể tìm được nơi nào an toàn vĩnh viễn ngoài Thiên Chúa. Tác giả Thánh Vịnh dẫn chứng: “Bạn sẽ không gặp điều ác hại, và tai ương không bén mảng tới nhà, bởi chưng Người truyền cho thiên sứ giữ gìn bạn trên khắp nẻo đường, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng cho bạn khỏi vấp chân vào đá. Bạn có thể giẫm lên hùm thiêng rắn độc, đạp nát đầu sư tử khủng long” (Tv 91:10-13). Vấn đề quan trọng hơn đó là chính Thiên Chúa đã xác nhận: “Kẻ gắn bó cùng Ta sẽ được ơn giải thoát, người nhận biết danh Ta sẽ được sức phù trì. Khi kêu đến Ta, Ta liền đáp lại; lúc ngặt nghèo, có Ta ở kề bên” (Tv 91:14-15). Đặc biệt là Ngài còn ban cho chúng ta có nhiều thứ khác nữa.

Không bao giờ chúng ta có thể diễn tả hết ý về Thiên Chúa, về lòng thương xót của Ngài. Còn Kinh Thánh nói gì? Thánh Phaolô cho biết: “Lời Thiên Chúa ở gần bạn, ngay trên miệng, ngay trong lòng. Lời đó chính là lời chúng tôi rao giảng để khơi dậy đức tin. Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, bạn sẽ được cứu độ” (Rm 10:8-9).

Có đầy mới tràn, trong lòng thế nào thì thể hiện như vậy, không thể che giấu mãi. Thời gian sẽ chứng tỏ lòng ai thế nào. Tốt hay xấu sẽ như cây kim trong bọc, nó sẽ có ngày lòi ra – “lòi” ra ngay trong cách nói chuyện. Chúng ta giấu giếm với nhau mà còn khó khăn lắm, chắc chắn chúng ta không thể giấu giếm Thiên Chúa, vì “Thiên Chúa thấu suốt mọi sự” (Sbn 28:9; Gđt 8:14; Et 5:1; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 12:4-6).

Thánh Phaolô minh định: “Quả thế, có tin thật trong lòng mới được nên công chính; có xưng ra ngoài miệng mới được ơn cứu độ. Kinh Thánh nói: Mọi kẻ tin vào Người sẽ không phải thất vọng. Như vậy, không có sự khác biệt giữa người Do-thái và người Hy-lạp, vì tất cả đều có cùng một Chúa, là Đấng quảng đại đối với tất cả những ai kêu cầu Người. Vì: Tất cả những ai kêu cầu danh Đức Chúa sẽ được cứu thoát” (Rm 10:10-13). Niềm tin đó phải là niềm tin thật lòng, không thể giả vờ để “che mắt thiên hạ”. Niềm tín đó cũng luôn được tôi luyện qua cuộc sống thường nhật, mọi nơi và mọi lúc. Thật vậy, “đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn” (Gc 1:3), và “đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2:17 và 26).

Đó là triết lý sống, là cuộc đấu trí giữa chúng ta với cuộc sống trên hành trình lữ thứ trần gian này. Cuộc đấu trí đó có thật chứ không mơ hồ hoặc giả tạo. Đấu trí với ai? Với ba “người quen”, mệnh danh là ba thù: Ma quỷ, thế gian, và xác thịt. Có lẽ cuộc đấu trí gay go nhất là đấu trí với xác thịt, người quen nhất – tức là đấu trí với chính mình. Thật vậy, “chiến thắng một đạo quân còn dễ hơn chiến thắng chính mình” (Đại đế Napoléon).

Trình thuật Lc 4:1-13 nói về “cuộc đấu trí” giữa Chúa Giêsu và ma quỷ. Đó là chước cám dỗ, là cái bẫy mà ma quỷ “gài” để Ngài vào sập bẫy. Nhưng thụ tạo không thể đối đầu với Tạo Hóa, cái ác không thể tiêu diệt cái thiện.

Thánh Luca cho biết rằng Đức Giêsu được đầy Thánh Thần, rồi Ngài từ sông Gio-đan trở về. Suốt bốn mươi ngày, Ngài được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa và chịu quỷ cám dỗ. Trong những ngày ấy, Ngài không ăn gì cả, và khi hết thời gian đó, Ngài thấy đói. Bấy giờ, quỷ nói đặt vấn đề với Ngài rằng nếu Ngài là Con Thiên Chúa thì biến hòn đá thành bánh. Nhãi ranh mà chảnh, đừng thấy dụ được ông bà Nguyên Tổ ăn táo thơm rồi tưởng mình “ngon” nha! Đức Giêsu nói ngay: “Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh”.

Thua keo này nó bày keo khác. Sau đó, nó đem Đức Giêsu lên cao, rồi nó chỉ cho Ngài thấy tất cả các nước thiên hạ và nói nó sẽ cho Ngài toàn quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này, vì quyền hành ấy đã được trao cho nó, và nó muốn cho ai tuỳ ý. Nó dụ Ngài bái lạy nó rồi nó cho Ngài tất cả. Đúng là “cóc muốn bằng bò” mà. Đức Giêsu thản nhiên nói: “Đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”.

Quỷ vẫn chưa tâm phục, khẩu phục. Nó lại đem Đức Giêsu đến Giêrusalem và đặt Ngài trên nóc Đền Thờ, rồi vênh vang tự đắc nói rằng nếu Ngài là Con Thiên Chúa thì đứng trên cao đó mà gieo mình xuống. Nó lý luận là có lời chép rằng Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ gìn giữ Ngài, Thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng Ngài khỏi vấp chân vào đá. Đúng là… ma quỷ. Ranh mãnh hết sức! Thế nhưng Đức Giêsu lại nói ngay: “Đã có lời rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi”.

Ba – Không. Thua trắng. Hết cách xoay xở, hết bí kíp cám dỗ Chúa Giêsu. Nó đành lủi thủi bỏ đi vì không thể đấy trí với Chúa Giêsu, thế nhưng nó vẫn mưu tính để tìm thời cơ khác. Ma quỷ thật!

Cuộc sống có nhiều chước cám dỗ, tập trung vào ba điểm: Vật chất, danh vọng, cái tôi. Vật chất liên quan tiền bạc và tài sản – một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp, nhưng miếng ăn có thể là vinh hay nhục, thế mà chiến tranh xảy ra cũng chỉ vì người ta tranh giành miếng ăn. Danh vọng liên quan chức tước, địa vị, quyền hành – có danh tiếng để phục vụ chứ không phải để kiêu ngạo, ảo tưởng, nhưng người ta được voi rồi đòi tiên, thích “hành” người khác mà thôi. Cái tôi liên quan tự ái, cho mình là nhất, thích được khen, ghét bị chê. Cái tôi thật đáng ghét! – Danh nhân Pascal nhận xét tinh tế lắm.

Ba thứ đó như những gọng kìm, chúng kẹp chặt chúng ta, làm cho chúng ta không thóat ra được. Từ bỏ chính mình thật là khó, nhưng phải làm đúng như vậy thì chúng ta mới khả dĩ nên hoàn thiện như Cha trên trời (Mt 5:48) và nhân từ như Chúa Cha (Lc 6:36), nhờ đó mà được cứu độ!

Lạy Thiên Chúa, xin giúp con nhận biết chính con để không ảo tưởng, không kiêu ngạo, không mưu mô. Xin ban cho con sự sống thật nhờ Thánh Thể, nhờ Lời Chúa, biết tránh xa bả phù vân, biết tôn thờ một Thiên Chúa Ba Ngôi, và luôn tín thác vào lòng thương xót của Ngài trong mọi hoàn cảnh. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

 

43.Hãy chọn Chúa – Lm. Jos Tạ Duy Tuyền.

Danh - Lợi - Thú, đó là ba ham muốn chi phối toàn bộ đời sống con người. Đó cũng chính là ba nguyên nhân gây nên biết bao khổ đau cho nhân thế. Kẻ được người thua cũng đều có thể phải đau khổ vì nó, đều cảm nghiệm rằng những bất hạnh mà mình đang phải gánh chịu đều vì tiền, vì lạc thú, vì quyền lực. Nhìn vào xã hội, ở nơi này nơi kia đang xảy ra những bất hoà, tranh chấp, có khi giết hại lẫn nhau và làm khổ cuộc đời nhau cũng chỉ vì tiền, vì tình và vì quyền. Ngay trong gia đình cũng có thể bị đảo lộn những nề nếp gia phong bởi quá tôn thờ nó. Con cái bỏ cha mẹ, cha mẹ từ chối con cái. Vợ kết án chồng, chồng ruồng bỏ vợ..Anh em bạn hữu bất hoà với nhau cũng chì vì tình, vì tiền và vì quyền. Vì nó mà người ta chà đạp lên nhau, người ta làm khổ nhau và làm hại lẫn nhau.

Thực vậy, có những kẻ vì tiền mà mê muội. Có những người vì tình mà hoá dại. Có những người vì quyền mà đánh mất tính người. Nhưng có lễ cái cám dỗ nguy hiểm nhất của đời người chính là đồng tiền. Vì nhiều người cho rằng: "có tiền là có tất cả".

Vì tham lam đồng tiền mà họ sẵn sàng đánh đổi tất cả: danh dự, phẩm giá và tình làng nghĩa xóm, tình cha nghĩa mẹ, tình nghĩa vợ chồng cũng không bằng ma lực đồng tiền. Vì "Còn tiền còn bạc còn đệ tử - Hết tiền hết gạo hết ông tôi". Có biết bao kẻ đã bạc tình, bạc nghĩa chỉ vì đặt đồng tiền lên trên mọi mối quan hệ giữa người với người. Đồng tiền là đối tượng duy nhất để tôn thờ, vì thế dân gian mới có câu: "Ông tiền, ông Phật, ông Tiên - ba ông đứng lại, ông tiền cao hơn".

Ngày xưa, có người nước Tề thích vàng đến nỗi mê vàng. Sáng sớm thay áo quần đi ra chợ. Tới hàng đổi tiền, thì liền chộp vội một khối vàng rồi chay đi. Người ta bắt anh ta lại và hỏi:

+ Tại sao giữa đám đông mà anh lại dám cướp vàng của kẻ khác như thế?

Anh ta trả lời:

+ Lúc thấy vàng, tôi đâu còn thấy ai nữa. Trước mắt tôi chỉ có vàng mà thôi.

Đồng tiền liền khúc ruột nên họ sẵn sàng mạo hiểm lao vào, bất chấp đó là hiểm nguy, là lửa cháy có thể tiêu huỷ cả tính mạng. Vì tiền họ sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn mánh mung, cho dù phải chà đạp lên người khác bằng những phương thế bóc lột và bất công, tham nhũng miễn sao vơ vét, vun quén về cho đầy túi tham của mình.

Bài phúc âm hôm nay, thánh Mattheu miêu tả đến những cám dỗ mà ma quỷ đã bày ra cho Chúa Gie6su. Nó cám dỗ Chúa Giêsu vì nó biết Chúa Giêsu sau 40 ngày nhịn ăn nên rất đói, rất cần đến nhu cầu ăn uống. Nó đã khơi dậy nơi Chúa sự quay lưng lại với Chúa Cha. Từ khước sống vâng phục thánh ý Chúa để được thoả mãn cái bụng của mình. Nó hướng mở cho Chúa một tương lai đầy hứa hẹn không chỉ có của ăn dư đầy từ những hòn đất, hòn đá cũng biết thành của ăn. Từ sỏi đá cũng thành cơm mà vượt xa hơn nữa là nắm gọn trong tay cả và dân thiên hạ. Có kẻ hầu người hạ. Có cơ hội hưởng dùng mọi vinh hoa phú quý trần gian. Năm xưa trong vườn địa đàng nó đã thắng ông bà nguyên tổ, khi nó đưa ra những lời dụ dỗ đầy ngọt ngào, đầy hấp dẫn này, nhưng hôm nay màn trình diễn này đã hoàn toàn thất bại bởi Người Con duy nhất của Thiên Chúa là Đức Giê su. Ngài không những đã khước từ những lời mời mọc của ma quỷ mà còn cho ma qủy nhận ra rằng không có gì hiện hữu ở trần gian này đáng giá hơn con người, đến nỗi phải cúi mình mà thờ lạy nó. Chỉ có Thiên Chúa mới xứng đáng cho con người tôn thờ. Và chỉ khi nào sống và thực hiện ý Chúa mới làm cho con người trở nên cao đẹp hơn mọi loài trên trần gian.

Những cám dỗ mà ma quỷ tuy thất bại với Chúa Giêsu nhưng nó vẫn dùng những chiêu thức đó để tấn công con người hôm nay. Trước tiên nó gieo vào lòng ta mối nghi ngờ Thiên Chúa, về lòng thương xót và sự quan phòng của Thiên Chúa. Nó mở ra cho chúng ta một so sánh, tính toán thiệt thua và cuối cùng là đưa ra một con mồi để quyến rũ là: danh vọng, tiền tài, lạc thú. Kết quả là nhiều người vì ham tiến, ham sắc, ham lợi lộc đã trở thành tay sai cho ma quỷ. Từ một chàng thanh niên nhà quê hiền lành chất phác bỗng biến thành một con người lòng mang dạ sói, sẵn sàng giết hại đồng loại. Từ một cô gái đoan trang mực thước rồi bỗng một hôm lại trở thành một tú bà chuyên nghiệp của lầu xanh.

Thực vậy, dưới sức nặng và sự lôi kéo của sự dữ, mỗi người chúng ta đều phải trải qua kinh nghiệm của thánh Phaolo: "việc thiện tôi muốn thì tôi lại không làm. Điều ác tôi không muốn nhưng tôi lại làm. Ở khởi đầu mùa chay, khi cho chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu chiến thắngị ma quỷ cám dỗ, Giáo hội mời gọi chúng ta ý thức về thân phận tội lỗi của mình và sức mạnh của sự dữ luôn rình rập để lôi kéo chúng ta xa rời Thiên Chúa, đi trong tối tăm của đam mê lầm lạc. Ý thức thân phận yếu hèn để ta luôn biết trông cậy vào ơn Chúa giúp chúng ta vượt qua thử thách của đam mê danh lợi thú. Đồng thời, biết theo gương Chúa, chúng ta hãy tỉnh thức trong từng giờ từng phút, trong từng biến cố buồn vui của cuộc sống, luôn biết chọn lựa giá trị vĩnh cửu hơn là những giá trị mong manh của đời này. Hãy chọn Chúa và thợ phượng Chúa hơn là chọn danh lợi thú và làm nô lệ cho những đam mê thấp hèn. Xin Chúa là Đấng đã chiến thắng cám dỗ giúp chúng ta học nơi Chúa để sống quy phục Thiên Chúa và thực thi theo thánh ý Ngài. Amen.

 

44.Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Thói phô trương, huênh hoang đã trở thành một nhu cầu, một thói quen trong cuộc sống của họ đến mức không khoe những việc mình làm thì không thể nào chịu được. Việc nhỏ họ cũng khoe. Việc lớn càng khiến họ đánh bóng tên tuổi mình. Dường như khoe khoang phô trương là cách họ thỏa mãn tính tự cao tự đại của họ.

Có anh chàng tính hay khoe khoang. Một hôm, may được cái áo mới, liền đem ra mặc, rồi đứng hóng ở cửa, đợi có ai đi qua để người ta khen. Đứng mãi từ sáng đến chiều chả thấy ai hỏi cả, anh ta tức lắm.

Đang tức tối, chợt thấy một anh, tính cũng hay khoe, tất tưởi chạy đến hỏi to:

- Bác có thấy con lợn cưới của tôi chạy qua đây không?

Anh kia liền giơ ngay vạt áo ra, bảo:

- Từ lúc tôi mặc cái áo mới này, tôi chẳng thấy con lợn nào chạy qua đây cả!

Đây là truyện cười “Lợn cưới áo mới” trong kho tàng văn học Việt Nam. Cha ông ta muốn mượn tình huống hài hước, khoe khoang của hai người đàn ông để phản ánh và chế giễu những người có lối sống khoe của một cách quá trớn, khoe không có điểm dừng và không khéo léo. Hai anh khoe của chạm trán nhau, họ rất tự nhiên bộc lộ bản tính của mình nhưng dẫu thế nào cũng không giấu được thói khoe của, khoác lác đến nực cười, đến lố bịch. Câu chuyện là một bài học đầy ý nghĩa cho chúng ta trong cuộc sống.

Khởi đầu Mùa Chay Chúa Giê-su cũng nhắc chúng ta cần phải có tâm tình khiêm nhường trong các hành vi đạo đức. Làm việc đạo đức không phải để khoe khoang mình sốt sắng hơn người khác. Việc đạo đức của mình không phải để dạy người khác hay để đánh bóng tên tuổi mình. Việc đạo đức chúng ta làm là vì mến Chúa và mong muốn hoàn thiện mình mỗi ngày một tốt hơn.

Xin cho mùa chay thánh được sinh hoa kết trái tốt trong đời sống của chúng ta nhờ những việc lành phúc đức mà chúng ta làm vì lòng yêu mến Chúa. Xin Chúa giúp chúng ta hoàn thiện mình mỗi ngày tốt hơn qua việc hy sinh chay tịnh, cầu nguyện và bác ái. Amen.

 

45.Đừng tự mãn - Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Thông thường những thất bại lớn nhất của con người đều do tính tự cao tự đại sinh ra. Vì tưởng mình giỏi mà không lượng được sức của mình. Vì tưởng mình giỏi nên không cần sự giúp đỡ của đồng loại. Thế nên, người kiêu căng thường thất bại vì thiếu kinh nghiệm và thiếu sự hỗ trợ của tha nhân.

Có ai đó nói rằng: "Sự tự mãn (tự cho mình đầy đủ) làm cho mình hư. Sự kiêu căng (tự cho mình giỏi) làm mình trở thành ngu. Chuyện kể rằng: Có đứa con nhà giàu không coi ai ra gì, thích đứng trên cây tè xuống đầu người đi đường, ai cũng ngại nhà ấy mạnh tiền của chẳng dám nói gì. Một hôm có đoàn quan quân đi qua dưới gốc cây, tay kia tè ngay vào viên quan văn đi đầu, viên quan này gật gù khen giỏi, rồi đi tiếp. Lúc sau viên quan võ đi qua, tay kia vẫn tiếp tục tái diễn trò ấy, nhưng không ngờ viên quan võ nóng tính bèn rút kiếm ra chém phăng đầu đứa chơi xấu. Người đời thường cười tên ngu dốt và thán phục mưu sâu của viên quan văn, nhưng cái chết thì vẫn dành cho kẻ cao ngạo. Những người làm nông ở Việt Nam thường dùng biểu tượng cây lúa để đề cao tính khiêm nhường: khi cây mọc càng cao, càng trổ bông trĩu hạt chín vàng thì cây càng cúi thấp để tránh gió đồng ập đến.

Những người Do Thái họ vẫn cho mình là dòng giống được tuyển chọn. Họ tự cao tự đại. Họ nghĩ rằng mình luôn đứng trên thiên hạ. Chính thái độ kiêu căng đó đã khiến họ không có khả năng đón nhận Đấng Messia. Chính thái độ tự cao đã khiến họ từng bách hại các ngôn sứ và cũng từng giết Đấng Messia. Sự tự cao, thói kiêu căng càng thể hiện rõ nét hơn trong đời sống của những người biệt phái và Pha-ri-sêu. Sự tự cao đến mức huênh hoang, giả hình. Họ thích được khen tặng. Họ thích người khác chú ý. Họ muốn mình là trung tâm của mọi người nên họ hành động đôi khi ngớ ngẩn, trẻ con . . .

Thiên Chúa ưa thích những tâm hồn khiêm tốn chân thành. Ngài lật đổ những ai quyền thế, kiêu căng nhưng nâng cao kẻ khiêm nhường. Ngài cần tấm lòng con người hơn là những nghi lễ mà thiếu tấm lòng dành cho Chúa. Ngài cần tấm lòng hoà giải hơn mọi lễ vật dâng trên bàn thờ.

Ở đời người ta vẫn nói “trèo cao té đau”. Kinh nghiệm nơi những người thích trèo cao thường với không tới, đôi khi vì quá hiếu chiến mà té đau. Kẻ kiêu căng, ngạo mạn thường mắc nhiều lầm lỗi. Kẻ khiêm tốn mới là người khôn ngoan. Kẻ nâng mình lên sẽ bị hạ xuống. Người hạ mình xuống sẽ được kính yêu.

Mùa chay mời gọi chúng ta hãy sửa đổi lại cách sống của chúng ta. Nếu có còn một chút núi đồi kiêu căng, hãy can đảm san bằng. Nếu có còn một chút vỏ bọc giả hình, hãy tháo cởi để sống thành thật trước mặt Thiên Chúa và tha nhân. Hãy sửa tấm lòng chứ đừng chỉ sửa cung cách bên ngoài. Điều quan yếu là lòng chúng ta có gần Chúa hãy đã xa Chúa bởi vô vàn lầm lỗi. Xin Chúa giúp chúng ta đừng bao giờ sống giả dối nhưng luôn sống chân thành với Chúa và với nhau. Amen.

 

46.Chúa cần tấm lòng thành – Lm Jos Tạ Duy Tuyền

Đôi khi qùy trước mặt Chúa, chúng ta chẳng biết nói gì, thưa gì với Chúa. Thông thường khi gặp hoạn nạn, khi gặp khó khăn chúng ta dễ tâm sự với Chúa, hay đúng hơn là chúng ta còn có chuyện để nói với Chúa, còn bình thường thì chẳng biết nói gì với Chúa, nếu không mượn những lời kinh thuộc lòng thì có lẽ chúng ta cũng chỉ tới với Chúa, độ dăm ba phút rồi mau chóng chào Chúa ra về.

Đức HồngY FX Nguyễn Văn Thuận, Ngài đã kể câu chuyện như sau:

Có một người nông dân tên là Jim, hằng ngày vác cuốc đi làm ngang qua nhà thờ, cậu đều vào nhà thờ rồi đi ra. Sự kiện được lập đi lập lại nhiều lần, đến nỗi nhiều người thắc mắc, không hiểu Jim vào nhà thờ nói gì với Chúa mà mau lẹ thế. Họ mới hỏi Jim: Anh vào nhà thờ cầu nguyện sao lại nhanh thế? Anh đã nói gì với Chúa?

Jim đã trả lời: Tôi chỉ vào nhà thờ làm dấu rồi nói với Chúa. "Lạy Chúa, có Jim đây" rồi tôi đi ra.

Sự kiện được tiếp diễn cho đến khi cậu Jim đã thành ông lão, nằm kiệt quệ trên giường bệnh. Lúc đó hàng xóm láng giềng đến thăm hỏi ông và họ ngạc nhiên khi thấy bên giường ông luôn có một cái bàn, một cái ghế và một ly nước. Họ hỏi ông: Nhà không có khách, sao ông vẫn để một ly nước. Ông nói: "Ngày xưa khi còn trẻ hằng ngày tôi vẫn đến với Chúa và nói với Chúa: Lạy Chúa, Jim đây. Cho tới bây giờ, tôi đã già không còn có thể đến với Chúa được nữa, nên Chúa vẫn hằng ngày đến với tôi và nói: Jim ơi, có Chúa đây".

Thực vậy, cầu nguyện không phải là mình nói thật nhiều với Chúa, hay là tìm những lời thật hay, thật văn chương để nói với Chúa, nhưng điều quan yếu là biết dành một thời gian cho Chúa. Khi chúng ta đón nhận một món quà, không phải vì nó có một giá trị vật chất to lớn mà mình vui, nhưng là vượt lên trên món qùa là cả tấm lòng người cho dành cho mình. Món quà tuy nhỏ nhưng người cho với cả tấm lòng yêu mến thì cao qúy hơn những tặng phẩm cao sang mắc tiền mà thiếu tấm lòng chân thành. Vì quà tặng chỉ là tượng trưng cho tấm lòng người cho. Đó là một sự quan tâm, một tình yêu mà người cho dành cho chúng ta. Việc chúng ta cầu nguyện với Chúa cũng thế. Điều quan yếu không phải là cầu nguyện như thế nào, hay bao nhiêu lần trong ngày mà là tấm lòng chúng ta dành cho Chúa như thế nào? Cầu nguyện vì tình yêu, vì lòng yêu mến Chúa hay đó chỉ là thói quen, làm cho qua lần chiếu lượt, hời hợt cho xong.

Hôm nay Chúa muốn chúng ta làm các việc đạo đức: ăn chay, cầu nguyện, làm việc lành phúc đức phải phát xuất từ tấm lòng chân thành chứ không phải là những hình thức bên ngoài. Chúa đả phá thái độ phô trương, giả hình của nhóm biệt phái. Họ ăn chay, họ cầu nguyện, họ làm việc lành nhằm mục đích phô trương thân thế của mình. Họ làm những việc này vì bản thân họ chứ không phải vì lòng yêu mến Chúa và tha nhân. Họ làm việc lành vì muốn khoe khoang sự giầu có của mình. Họ cầu nguyện vì muốn được người khác khen ngợi. Họ ăn chay chỉ nhằm che mắt thiên hạ về đời sống thiếu đạo đức của mình.

Thiên Chúa là Đấng thấu suốt mọi sự. Ngài có thể nhìn thấu tâm can của con người. Ngài cần tấm lòng chứ không cần lễ vật. Ngài đã từng đề cao đồng tiền bà góa nghèo mà xem thường của bố thí dư thừa nơi người giầu. Ngài đã từng nhìn đến lễ vật chân thành của Abel và bỏ qua lễ vật chiếu lệ của Cain.

Phải chăng Ngài cũng đang chờ đợi nơi lòng thành của chúng ta? Ngài không cần chúng ta mang danh là người ky-tô hữu mà thiếu đời sống đạo. Ngài càng buồn hơn khi chúng ta mang danh là người ky-tô hữu nhưng vẫn gian tham, trộm cắp, vẫn gian dâm, chồng nọ vợ kia... Ngài cần chúng ta đến dâng lễ vật với tấm lòng hòa bình, vì khi ngươi dâng lễ vật mà chợt nhận ra mình có bất hòa với anh em, thì hãy để của lễ lại trên bàn thờ mà về làm hòa với anh em trước đã. Ngài không muốn chúng ta đến nhà thờ mỗi ngày mà lòng chúng ta lại xa Chúa. Ngài không cần chúng ta ăn chay với hình thức bên ngoài mà cần phải chay tịnh về tâm hồn luôn khước từ những ước muốn bất chính, những ham muốn tầm thường. Ăn chay có ích gì khi mà tâm trí chúng ta vẫn nuôi dưỡng những tư tưởng bất chính? Ăn chay càng không có ích khi chúng ta vẫn để tính xác thịt lôi kéo chúng ta vào đường tội lỗi.

Ước gì mỗi người chúng ta bước vào mùa chay với tầm lòng chân thành ước muốn sửa đổi bản thân. Ước gì những hình thức đạo đức bên ngoài như: ăn chay, cầu nguyện, việc lành luôn là hành vi được phát xuất từ lòng thành dâng cho Chúa. Xin đừng làm những việc đạo đức chiếu lệ cho qua. Điều này chẳng thêm ơn ích gì trước mặt Chúa. Đôi khi còn mang tội vì giả hình và gian dối. Xìn đừng đến với Chúa mà thiếu lòng hoán cải, thiếu ước muốn hoàn thiện. Điều này sẽ làm chúng ta ngày càng xa cách Chúa. Nguyện xin Chúa giúp chúng ta luôn có một tấm lòng chân thành với Chúa để mỗi lời kinh, mỗi việc làm của chúng ta luôn đẹp lòng Chúa. Amen.

 

47.Làm sao thắng được cám dỗ

(Suy niệm của Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

Chúng ta hay nói đến từ “cám dỗ”. Vậy cám dỗ là gì? Hiểu một cách đơn giản cám dỗ tức là nó khêu gợi lòng ham muốn của chúng ta và dẫn chúng ta sa ngã chiều theo nó.

Có một bạn trẻ nói với tôi rằng: “Con không có ý định xem phim ảnh khiêu dâm nhưng khi đang lướt mạng thì một quảng cáo bất ngờ xuất hiện. Như một phản xạ, con cứ thế mở ra, riết rồi nghiền lúc nào không hay”. Và người khác thì tâm sự rằng:

“Một nữ đồng nghiệp xinh đẹp bắt đầu tán tỉnh tôi. Một ngày nọ, cô ấy rủ tôi đi khách sạn để ‘vui vẻ với nhau’. Tôi biết rõ cô ấy muốn gì”, nhưng tôi đã thắng vượt cám dỗ. Tôi đã không đến điểm hẹn.

Cám dỗ là sự thật luôn xen vào cuộc sống con người. Dù ít dù nhiều thì đã là người luôn phải đứng trước cám dỗ. Điều đáng buồn là cám dỗ đã chiến thắng rất nhiều người chiều theo nó để được thỏa mãn ham muốn cá nhân.

Gần đây nhất là vụ cô gái giao gà chiều 30 tết bị 5 người đàn ông đã bắt giữ 3 ngày để hiếp dâm và giết chết. Họ là những người đã không chiến thắng được sắc dục để rồi chỉ tìm thoả mãn thú tính mà làm những chuyện không còn là một con người.

Đúng như người xưa vẫn nói: Người chết vì tiền, chim chết vì mồi!. Tất cả đều là vì lòng tham gây họa, vì dục vọng mà làm những chuyện đê hèn còn thua loài súc sanh.

Con người hơn loài vật là biết thiện và ác và nhất là có đủ lý trí để suy xét và ý chí để chế ngự bản thân. Nếu con người không chiến thắng được chính mình mà chỉ để sống theo bản năng thì đâu hơn loài vật tầm thường. Thế nên, làm người phải thắng được chính mình là thắng được cám dỗ. Đừng vì nuông chiều xác thịt mà làm những chuyện thất đức hại người. Hãy biết kìm chế bản thân thì sẽ thắng được cám dỗ.

Hôm nay, Chúa Giê-su cho ta phương thế thắng được cám dỗ chính là đặt Chúa và lề luật làm trung tâm đời sống chúng ta. Phúc âm kể rằng ma quỷ đã đến cám dỗ Chúa Giê-su. Nó cám dỗ Chúa Giê-su vì nó biết Chúa Giêsu sau 40 ngày nhịn ăn nên rất đói, rất cần đến nhu cầu ăn uống. Nó đã khơi dậy nơi Chúa sự quay lưng lại với Chúa Cha để được thoả mãn cái bụng của mình. Nó hướng mở cho Chúa một tương lai đầy hứa hẹn không chỉ có của ăn dư đầy từ những hòn đất, hòn đá cũng biến thành của ăn. Từ sỏi đá cũng thành cơm mà vượt xa hơn nữa là nắm gọn trong tay cả và dân thiên hạ. Có kẻ hầu người hạ. Có cơ hội hưởng dùng mọi vinh hoa phú quý trần gian. Năm xưa trong vườn địa đàng nó đã thắng ông bà nguyên tổ, khi nó đưa ra những lời dụ dỗ đầy ngọt ngào, đầy hấp dẫn này, nhưng hôm nay màn trình diễn này đã hoàn toàn thất bại bởi Người Con duy nhất của Thiên Chúa là Đức Giê su. Ngài không những đã khước từ những lời mời mọc của ma quỷ mà còn cho ma qủy nhận ra rằng không có gì hiện hữu ở trần gian này đáng để con người phải cúi mình mà thờ lạy nó. Chỉ có một mình Thiên Chúa mới xứng đáng cho con người cúi mình tôn thờ. Và chỉ khi nào sống và thực hiện ý Chúa mới làm cho con người trở nên cao đẹp hơn mọi loài trên trần gian.

Cuộc sống chúng ta luôn đối diện với cám dỗ. Trước tiên nó gieo vào lòng ta mối nghi ngờ Thiên Chúa, về lòng thương xót và sự quan phòng của Thiên Chúa. Nó mở ra cho chúng ta một so sánh, tính toán thiệt thua và cuối cùng là đưa ra một con mồi để quyến rũ là: danh vọng, tiền tài, lạc thú. Kết quả là nhiều người vì ham tiền, ham sắc, ham lợi lộc đã trở thành tay sai cho ma quỷ. Từ một chàng thanh niên nhà quê hiền lành chất phác bỗng biến thành một con người lòng mang dạ sói, sẵn sàng giết hại đồng loại. Từ một cô gái đoan trang mực thước rồi bỗng một hôm lại trở thành một tú bà chuyên nghiệp của lầu xanh.

Ở khởi đầu mùa chay, khi cho chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu chiến thắng ma quỷ cám dỗ, Giáo hội mời gọi chúng ta ý thức về thân phận yếu hèn của mình mà trông cậy vào ơn Chúa để vượt thắng cám dỗ. Đồng thời, biết theo gương Chúa, chúng ta hãy tỉnh thức trong từng giờ từng phút, luôn biết chọn lựa giá trị vĩnh cửu hơn là những giá trị mong manh của đời này. Hãy chọn Chúa và thờ phượng Chúa hơn là chọn danh lợi thú trần gian. Xin Chúa là Đấng đã chiến thắng cám dỗ giúp chúng ta học nơi Chúa để sống quy phục Thiên Chúa và thực thi theo thánh ý Ngài. Amen.

 

48.Khúc khải hoàn của niềm tin và của tình yêu

(Suy niệm của Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc)

Tin mừng Lc 4: 1-13: Tin mừng hôm nay ghi lại việc Chúa Giêsu chịu cám dỗ. Việc Người chịu cám dỗ không phải là chuyện tình cờ, hay là chuyện có sắp đặt trước để dạy con người bài học về sự chiến thắng cám dỗ.

Mùa Chay (Carême), từ ngữ này phái sinh từ tiếng Latin Quadragesimus nghĩa là 40 ngày. Mùa chay khởi đầu từ thứ tư Lễ Tro và kéo dài đến Phục sinh trong vòng 40 ngày, tưởng nhớ đến Chúa Giêsu ăn chay 40 ngày trong sa mạc trước khi bắt đầu đời sống công khai của Người. Đối với Kitô hữu Mùa Chay không chỉ đơn giản là thời gian sám hối và hãm mình hy sinh khó khăn. Đó chỉ là một mặt, mùa Chay còn có những mặt tích cực khác: khám phá những giá trị đích thực của nhân tính, những giá trị mang đến sự cao quí và hạnh phúc của con người. Sự khám phá này chúng ta được mời gọi hãy thực hiện dưới sự hướng dẫn của chính Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta sẽ vui lòng chấp nhận theo Người vào trong sa mạc, nơi chúng ta sẽ gặp Người.

I. Tìm Hiểu Lời Chúa

1. Bài đọc I: Đnl 26, 4-10

Của Đầu Mùa Tiến Dâng Cho Chúa

Môsê nhắc nhở dân Israel, dân được tuyển chọn: họ phải luôn nhớ đến những điều thiện hảo mà Thiên Chúa không ngừng thực hiện cho họ trong suốt lịch sử, đặc biệt nhớ đến việc Thiên Chúa đã giải phóng họ khỏi Ai Cập và đưa dân vượt qua sa mạc vào đất hứa.

Mỗi năm, dân Israel dâng lên Thiên Chúa trong một nghi lễ long trọng những của đầu mùa của họ. Họ còn thực hiện những cử chỉ theo qui định lễ tiết để tuyên xưng đức tin đích thực của mình.

Để gìn giữ những giá trị của mình, sự dâng tiến phải như một ý thức mới về tất cả những gì Thiên Chúa đã làm để giải phóng Israel ra khỏi kiếp nô lệ Ai Cập.

Những cử chỉ tôn giáo của chúng ta ngày nay có phải là những biểu lộ của một đức tin đích thực không? Những gì Kitô hữu thể hiện trong đời sống phụng vụ có thực sự giúp mọi người ca tụng, tôn thờ và tạ ơn Thiên Chúa không?

2. Bài đọc II: Rm 10, 8-3

Ơn Cứu Độ Bởi Đức Tin

Trong trích đoạn thư gửi tín hữu Roma này, Thánh Phaolô khẳng định rằng chỉ bởi chính đức tin mà chúng ta được công chính hóa và được cứu độ.

Thánh Tông Đồ khởi đầu bằng việc nhắc lại điều chủ yếu của đức tin là tuyên xưng ngoài môi miệng và trong tâm hồn màu nhiệm Đức Giêsu Kitô chết và phục sinh để giải thoát và ban ơn cứu độ cho con người.

Nhưng để đức tin thực sự là nguồn mạch của sự sống thì cần phải thấm sâu vào trong tâm khảm và cần phải được thể hiện cụ thể qua những quyết định, những hành động và những tình cảm của con người.

Kitô hữu là những nhân chứng của đức tin, vậy thì những cử chỉ, tâm tình tôn giáo phải thực sự xuất phát từ đức tin của mình, nếu không chỉ là hình thức và gây thiệt hại cho bản thân, cho người khác và cho Giáo Hội.

3. Tin mừng: Lc 4, 1-13

Chúa Giêsu Chịu Cám Dỗ Trong Sa Mạc

Tin mừng ghi lại khởi đầu sứ vụ công khai, Đức Giêsu đã chịu cám dỗ trong sa mạc và Người đã chiến thắng bằng sự qui hướng về Chúa Cha và yêu mến thực hiện ý Chúa Cha.

Phải chăng việc Đức Giêsu chịu cám dỗ trong sa mạc là chuyện sảy ra tình cờ? Hoàn toàn không phải thế. Khi đã mặc lấy thân xác, mang lấy nhân tính, Đức Giêsu thực sự là một con người đón nhận mọi giới hạn, mọi điều kiện của nhân tính ngoài trừ tội lỗi. Do đó, việc Người chịu cám dỗ là tất nhiên, tuy nhiên, Người không bị khuất phục nhưng đã chiến thắng vẻ vang, mở đường cho mọi người cũng sẽ chiến thắng cám dỗ và tội lỗi.

Ba chước cám dỗ được trình bày trong Tin mừng cho thấy cuộc chiến đấu liên tục và âm thầm của Chúa Giêsu trong sa mạc. Người đến để loan báo và thiết lập Nước Trời khiến cho thù địch của Thiên Chúa tìm mọi cách để chống lại. Việc Chúa Giêsu chịu cám dỗ còn nói lên cuộc chiến đấu không khoan nhượng chống lại ma quỉ, tội lỗi và sự chết giữa Thiên Chúa và ma quỉ, giữa thiện và ác. Cuộc chiến này cũng sảy nơi Kitô hữu, những người cùng theo Đức Giêsu Kitô.

Mỗi người Kitô hữu cũng gặp thấy những cơn cám dỗ Đức Giêsu đã chịu nơi chính cuộc sống thường ngày của mình: những cám dỗ về vật chất, về danh vọng quyền lực, về tình dục xác thịt luôn là điều muôn thửơ. Nhìn lên Chúa để lấy được sức mạnh chiến đấu và chiến thắng cám dỗ. Chiến thắng bằng lời Chúa và bằng lòng yêu mến Chúa chân thành để chỉ ước muốn những gì Chúa muốn.

II. Gợi Ý Suy Niệm

1. Mùa chay, mùa giúp tái khám phá những giá trị của nhân tính: Mùa chay là thời gian giúp cho người tín hữu cử hành màu nhiệm Vượt Qua bằng việc tưởng niệm bí tích Thánh Tẩy và việc sám hối. Những việc này nhắc nhở mỗi người tín hữu về phẩn giá ơn gọi của mình, ơn gọi làm con cái Chúa nhờ màu nhiệm Vượt Qua của Đức Giêsu Kitô. Nhắc nhở mọi người về phẩm giá làm người, con người được Thiên Chúa yêu thương tạo dựng và cứu độ. Do đó, mùa chay không chỉ đơn thuần là sám hối ăn năn. Đàng rằng sám hối là một việc quan trọng mà Giáo Hội mời gọi phải thực hiện trong thời gian Thánh này, tuy nhiên sám hối không phải là cùng đích đơn giản đó chỉ là một phương thế. Điều quan trọng của mùa chay đó là kinh nghiệm của cá nhân cũng như của cộng đoàn về tình yêu của Thiên Chúa. Kinh nghiêm này giúp khám phá ra những giá trị của nhân tính. Thiên Chúa đã mặc lấy thân phận mỏng dòn phải chết của con người để nâng loài người lên. Đã nhận lấy nhân tính để con người được thông phần vào bản tính Thiên Chúa. Với màu nhiệm Vượt Qua, nhân tính con người đã vươn lên nhưng giá trị mới, đã có thể đối thoại với Thiên Chúa và nhất là đã đựơc trở nên Con Thiên Chúa.

Vậy phải ý thức được phẩm giá cao quí của mình, của ơn gọi Kitô hữu để sống đúng. Chúng ta được tạo dựng và được cứu độ bởi Thiên Chúa cho nên, phải sống sao cho ra sống, cho đáng sống. Sống thế nào cho đúng với tầm vóc là người vinh dự được Chúa yêu thương cứu độ nhất là phải sống thế nào cho xứng đánglà người Con của Chúa. Mùa chay Giáo Hội mời gọi tưởng nhớ đến bí tích Thanh tẩy và việc sám hối là để chúng ta xem lại tư cách làm người, tư cách làm con Chúa đã sống như thế nào?

2. Cám dỗ giúp nhìn lại bản chất con người: Tin mừng hôm nay ghi lại việc Chúa Giêsu chịu cám dỗ. Việc Người chịu cám dỗ không phải là chuyện tình cờ, hay là chuyện có sắp đặt trước để dạy con người bài học về sự chiến thắng cám dỗ. Chúa không bao giờ dùng cách thế giả tạo đó. Nhưng ở đây việc Chúa Giêsu chịu cám dỗ chứng tỏ rằng Người thực sự là một con người. Người trở nên con người giống chúng ta mọi điều ngoại trừ tội lỗi. Mà đã là con người thì chắn chắn có những giới hạn, những mỏng dòn của kiếp người và như thế tất nhiên cũng sẽ bị ma quỉ lợi dụng vào đó để tấn công. Nhìn vào các cơn cám dỗ Chúa Giêsu phải chịu và cách thế Người chiến thắng cám dỗ giúp cho chúng ta nhìn lại bản chất con người của mình rất là yếu đuối, dễ sa ngã, dễ phạm tội. Những gì Chúa Giêsu chịu cũng chính là những cám dỗ đang diễn ra hàng ngày, hàng giờ nơi mỗi người: tiền tài vật chất, danh vọng quyền lực; đời sống thụ hưởng xa hoa …

Bản chất con người là như thế dễ nghiêng ngã bởi cám dỗ, nhưng không vì thế mà chịu thua, chịu đầu hàng trước mọi cơn cám dỗ. Chúa Giêsu đã đi bước trước, đã chiến thắng và mở ra cho chúng ta phương thế để chiến thắng cán dỗ. Đó là yêu mến thực hiện ý Chúa Cha, là chấp nhận với tình yêu số phận mà Chúa Cha đã chọn. Với mỗi người làm được điều đó cần phải nỗ lực cầu nguyện, hy sinh hãm mình và sống đời bác ái.

3. Chiến thắng cám dỗ làm thăng tiến cuộc đời: Chính Chúa Thánh Thần hướng dẫn Chúa Giêsu vào sa mạc để chịu cám dỗ. Do đó, bị cám dỗ không phải là điều xấu mà ngã gục trước cám dỗ mới là xấu. Chống lại cám dỗ cách anh dũng như Chúa Giêsu trong sa mạc là dịp để tỏ bày lòng con thảo với Thiên Chúa là Cha và là cơ hội để trưởng thành hơn trong đức tin. Qua việc vượt thắng những cám dỗ chúng ta sẽ trưởng thành lên rất nhiều cũng như có được nhiều kinh nghiệm quí báu trong đời sống đức tin. Nhờ việc can đảm chiến đấu với cám dỗ mới thấy được sức con người có giới hạn, chiến thắng được là nhờ ơn Chúa để rồi biết sống khiêm nhu và tín thác vào Chúa hơn. Mỗi lần vượt qua cám dỗ là mỗi lần tiến đến gần Chúa hơn, sống thánh đức hơn. Tuy nhiên, điều này không cho phép chúng ta liều mình đứng trước cơn cám dỗ để có thể vươn lên. Và nếu có lâm phải cơn cám dỗ cũng không nên bối rối lo âu thái quá mà cần bình tĩnh, Chúa Giêsu còn bị cám dỗ huống hồ là người môn đệ của Chúa. Cũng qua việc chiến đấu chống lại cám dỗ bằng ơn Chúa giúp cho chúng ta khi dùng những phương thế siêu nhiên như cầu nguyện, suy gẫm Lời Chúa, năng rước Mình Máu Thánh Chúa, nhờ đó, giúp chúng ta gắn bó với Chúa hơn, yêu mến Ngài nhiều hơn.

Cám dỗ tự thân nó là xấu vì bắt nguồn từ ma quỉ, không phải tự nơi con người nên bị cám dỗ không là xấu. Nhưng khi để cho chúng ta tự do chiến đấu chống lại cám dỗ Thiên Chúa cũng muốn dùng nó như phương thế để tôi luyện con người, để giúp con người một khi chiến thắng được cám dỗ sẽ trưởng thành hơn, sẽ gắn bó với Chúa hơn và thực sự được thăng tiến cuộc đời. Lửa thử vàng, gian nan thử lòng người là vậy.

III. Lời Cầu Chung

* Lời Mở: Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu đã mạc lấy nhân tính hèn yếu của chúng ta, đã chấp nhận chịu cám dỗ và đã chiến thắng mở đường cho con người chiến đấu và chiến thắng cám dỗ của ma quỉ. Trong tâm tình cảm phục ngợi khen chúng ta cùng dâng lời cầu xin.

Chúng ta cùng cầu nguyện cho toàn thể Giáo Hội, những vị mục tử cũng như mọi thành phần dân Chúa trong mùa chay thánh này biết theo chân Chúa Giêsu đi vào trong sa mạc của lòng mình, để kết hợp với Người trong thinh lặng và cầu nguyện; để lắng nghe tiếng Chúa, nhờ đó, sống mùa chay này có ý nghĩa hơn, hiệu quả hơn.

Chúng ta cùng cầu nguyện cho những anh chị em đang lâm vào cảnh khó khăn, bất hạnh, những người đang chìm đắm trong đam mê dục vọng, đang quay cuồng trong những cám dỗ của tệ nạn. Xin Chúa soi sáng cho họ tìm được ánh sáng của Chúa, sức mạnh của Chúa để vượt qua những cám dỗ ấy.

Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta ngay từ đầu mùa chay thánh này luôn nỗ lực canh tân hoán cải đời sống để gắn bó hơn với màu nhiệm Vượt qua của Chúa Giêsu, nhờ đó, sống đúng với phẩm giá làm người, làm Kitô hữu và làm con Chúa.

* Kết Nguyện: Lạy Thiên Chúa hàng sống và quyền năng! Chúa đã ban cho chúng con những ngày chay thánh qua Giáo Hội như một ân huệ. Xin hướng dẫn chúng con dõi bước theo Chúa Giêsu Kitô để hoán cải cuộc sống theo lời dạy bảo và gương sáng của Người. Người là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.

 

49.Sống là chiến đấu.

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’ – Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc)

Tin mừng Lc 4: 1-13: Có niềm tin hay không, có sống đạo hay không, dường như ai cũng ý thức được rằng cuộc đời là một trận chiến. Giáo Hội không ngừng mời gọi các kitô hữu chúng ta sống lại cuộc chiến đấu của Chúa Giêsu trong sa mạc.

Trong chuyến viếng thăm Giáo Hội tại Lituani vào tháng 9 năm 1993, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đến cầu nguyện tại một ngọn đồi nổi tiếng của nước nầy, thường được mệnh danh là “Ngọn đồi Thập Giá”.

Ngọn đồi này nằm tại một ngôi làng hẻo lánh. Qua suốt dòng lịch sử của dân tộc, cứ mỗi lần có một người dân trong làng ngã gục ngoài mặt trận thì toàn dân trong làng tập trung lại để tưởng niệm và dựng lên một cây thập giá. Dưới thời Nga Hoàng cũng như dưới thời Liên Xô đã có không biết bao nhiêu người dân làng ngã gục để bảo vệ nền độc lập của xứ sở. Binh lính và công an đã làm mọi cách để triệt hạ thập giá khỏi ngọn đồi. Trong ba thế kỷ liền, ngọn đồi thập gái đã không ngừng bị san bằng bởi những bàn tay vô đạo. Nhưng cứ đêm đến, người dân trong làng lại lẳng lặng dựng lên những cây thập giá khác. Cuộc chiến của thập giá cứ tiếp diễn như thế cho đến khi tự do được thực sự vãn hồi. Ngày nay khách hành hương tìm đến ngọn đồi thập giá nầy để nhận ra biểu trưng của một niềm tin sắt đá, của khát vọng tự do, và cuối cùng, của chiến thắng.

Có niềm tin hay không, có sống đạo hay không, dường như ai cũng có ý thức được rằng cuộc đời là một trận chiến. Giáo Hội không ngừng mời gọi các Kitô hữu chúng ta sống lại cuộc chiến đấu của Chúa Giêsu trong sa mạc. Mời gọi chúng ta sống lại kinh nghiệm chiến đấu của Chúa Giêsu, Giáo Hội muốn nhắc nhở chúng ta rằng cuộc sống niềm tin Kitô là một cuộc chiến đầu trường kỳ.

Các sách Tin Mừng Nhất Lãm đều kể rằng sau khi được tấn phong bên bờ sông Giođan, Chúa Giêsu vào sa mạc đương đầu với Satan. Thánh Marcô chỉ nói vắn tắt rằng, Chúa Giêsu ở trong sa mạc 40 ngày và chịu Satan cám dỗ. Còn thánh Matthêu và Luca lại kể rõ ba chước cám dỗ của Satan, nhưng theo thứ tự hơi khác nhau. Theo thánh Luca, những chước cám dỗ của Satan phải được giải thích trong mối liên hệ chặt chẽ với cuộc tử nạn thập giá của Chúa Giêsu. Các chước cám dỗ nhằm lôi kéo Chúa Giêsu đi trệch đường lên thành Giêrusalem dẫn đến đỉnh đồi thập giá. Chính vì để nhấn mạnh ý nghĩa của đỉnh đồi thập giá ở Giêrusalem mà thánh Luca đã sắp xếp lại thứ tự các chước cám dỗ, để cho chước cám dỗ sau cùng xảy ra ở Giêrusalem là đích điểm của con đường Ngài đã dứt khoát chọn lựa ngay từ đầu sứ vụ Cứu Thế.

Do đó, Thánh Luca sắp xếp cám dỗ thứ nhất là Satan thách đố Chúa Giêsu biến sỏi đá thành cơm bánh ăn: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy làm cho đá nầy trở thành bánh đi!” Ý đồ của Satan là xúi Chúa Giêsu vận dụng quyền năng Thiên Chúa trao cho Ngài để phục vụ bản thân mình trước đã. Nhưng Chúa Giêsu đã từ chối. Ngài là Con Thiên Chúa không phải để phục vụ bản thân mình, nhưng để làm công việc Thiên Chúa trao cho Ngài. Ngài đến để phục vụ và làm theo ý Đấng đã sai Ngài. Satan muốn xúi Chúa Giêsu lấy mạng sống riêng của mình làm cứu cánh, chỉ có mạng sống là đáng quý, chỉ có bản thân là đáng trọng, không còn gì quý và cao cả hơn nữa.

Dân Israel khi ở trong sa mạc cũng đã bị cám dỗ như vậy. Khi họ hết lương thực, họ quên tất cả giá trị của cuộc giải phóng khỏi Ai Cập, tất cả niềm tự hào được trở thành người tự do. Trước nguy cơ chết đói, họ sẵn sàng đánh đổi tất cả: Thà làm nô lệ mà được ăn no hơn được tự do mà phải chết đói. Nhưng Thiên Chúa đã muốn cho họ thấy: còn có một cái gì đáng quý trọng hơn nữa, hơn cả mạng sống: “Người ta không sống nhờ cơm bánh mà thôi, mà còn nhờ Lời Chúa nữa” (Đnl 8,3). Chúa Giêsu dùng lời ấy để khẳng định rằng: mạng sống trần gian không phải là tất cả đâu. Ngài đã lãnh nhận cuộc sống làm người không phải để khư khư giữ lấy, nhưng là để cho đi, để hiến mình cho mọi người được sống.

Cám dỗ thứ hai là Satan hứa sẽ trao cho Chúa Giêsu mọi quyền lực và vinh quang của các vương quốc trên trần gian nầy, nếu Chúa Giêsu chịu thờ lạy nó. Cái “xạo” của Satan là ở chỗ nó cho rằng nó là bá chủ mọi vương quốc trần gian và có quyền ban quyền lực và vinh quang cho Chúa Giêsu. Satan muốn Chúa Giêsu nhìn nhận rằng: chỉ có quyền lực và vinh quang của mọi vương quốc trên trần gian này là đáng quý. Chúa Giêsu muốn được hưởng thì cứ thờ lạy là xong ngay. Để trả lời Satan, Chúa Giêsu phán: “Mi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa của mi, và mi chỉ phải thờ phượng một mình Ngài mà thôi” Đnl 6,13). Sau nầy, Philatô sẽ phải công khai nhìn nhận rằng: Chúa Giêsu chẳng hề có dụng ý tranh cướp quyền lực và vinh quang của Đế quốc Rôma.

Dân Israel khi xưa đã đúc bò vàng để thờ thay vì thờ phượng Thiên Chúa. Đó là tội bất trung của Israel đối với Thiên Chúa. Chúa Giêsu dứt khoát trả lời Satan: Mi không phải là Thiên Chúa. Quyền lực và vinh quang trên trần gian không phải là tất cả. Chỉ có Thiên Chúa mới đáng thờ lạy, chỉ có Thiên Chúa mới có quyền lực và vinh quang thật để ban cho Ngài.

Cám dỗ thứ ba là Satan xúi Chúa Giêsu thử thách quyền năng Thiên Chúa; vận dụng quyền năng Thiên Chúa để mở một con đường tắt mà hoà thành sứ mạng; nếu Chúa Giêsu nhảy từ đỉnh cao của đền thờ Giêrusalem xuống mà an toàn thì tất nhiên mọi người sẽ theo Ngài. Chúa Giêsu không theo đường tắt Satan đề nghị. “Ngài hạ mình vâng phục cho đến nỗi bằng lòng chết và chết trên thập giá” để thực hiện công cuộc của Chúa Cha. Ngài mời gọi ai muốn theo Ngài thì hãy bỏ mình đi, vác thập giá của mình mà đi theo Ngài.

Dân Israel trong sa mạc khi thiếu nước uống, họ đã thử thách Thiên Chúa. Chúa Giêsu đáp lại Satan: “Ngươi đừng thử thách Thiên Chúa của ngươi” (Đnl 6,16). Chúa Giêsu đã không thử thách Thiên Chúa nhưng hoàn toàn tin tưởng và phó thác trọn vẹn cho Thiên Chúa khi Ngài đi vào con đường tuyệt vọng nhất – con đường thập giá.

Chúa Giêsu đã chiến thắng hết mọi chước cám dỗ của Satan. Trong suốt thời gian Chúa Giêsu rao giảng, ma quỷ tiếp tục thua dài hết keo này đến keo khác. Nó không còn chước nào để cám dỗ Ngài nữa. Cuối cùng Satan nhập vào Giuđa Iscariôt (một trong mười hai môn đệ) để nộp Ngài. Trong cuộc giao chiến này, Satan sẽ cướp được mạng sống của Chúa Giêsu. Nếu quả thật không có gì khác ngoài cuộc sống trần gian thì Satan đã thắng rồi. Nhưng chính lúc cướp được mạng sống của Chúa Giêsu, Satan đã đại bại, bởi vì Thiên Chúa đã cho Đức Giêsu từ trong cõi chết sống lại và đặt Ngài làm Chúa, khiến cho mọi loài trên trời dưới đất khi nghe Danh Giêsu thì phải quỳ gối mà tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, để làm vinh danh Thiên Chúa Cha. Đây là cuộc chiến thắng dứt khoát và vĩnh viễn.

Đọc lại đoạn Phúc âm này vào ngày Chúa Nhật đầu Mùa Chay, Giáo Hội muốn mời gọi chúng ta suy nghĩ về cuộc sống Kitô hữu như một cuộc chiến đấu với Satan. Chúa Giêsu đã chiến thắng Satan, làm con Thiên Chúa. Nhưng chúng ta còn phải thể hiện bản chất con Thiên Chúa ấy trong cuộc sống. Chúng ta phải đích thân chiến thắng Satan trong cuộc sống của chúng ta. Chúa Giêsu đã chiến thắng để cho chúng ta có thể chiến thắng nhờ Thánh Thần Ngài ban cho, nhưng không hề miễn cho chúng ta khỏi chiến đấu. Mùa Chay là thời kỳ tập luyện tích cực để chiến đấu với Satan.

Những cám dỗ mà Satan đã đem ra dụ dỗ Đức Giêsu vẫn là những cám dỗ muôn đời của con người.

Cơm ăn, áo mặc, danh vọng, tiền của, quyền uy, thế lực. Có những người, để làm giàu cho bản thân mình đã tán tận lương tâm, chà đạp mọi quy luật của đạo đức… Có những người, vì danh vọng, vì quyền lực, đã sẵn sàng sinh sát anh em đồng bào mình… Những cám dỗ ấy liên tục xảy ra trong cuộc sống chúng ta. Nếu chúng ta không cảnh giác, không được trang bị bằng ánh sáng và sức mạnh Lời Chúa, chúng ta sẽ ngã gục lúc này không hay!

Càng có điều kiện để làm giàu, có điều kiện để thụ hưởng danh vọng và nắm giữ quyền lực, càng dễ bị Satan cám dỗ. Có của mà vẫn sống lương thiện, hưởng thụ danh vọng mà vẫn khiêm tốn, hiền hoà, nắm giữ uy quyền mà vẫn là người phục vụ chân thực… đó là một thử thách lớn, là một cuộc đấu tranh gay gắt. Những cơn cám dỗ đến với Chúa Giêsu, các Lời Chúa đáp lại, và sự vượt thắng cám dỗ của Chúa vẫn là cái gì gần gũi với chúng ta ngày hôm nay, trong cả cuộc sống, nếu không muốn nói là từng giây phút, khi mà các nhu cầu tối thiểu còn là vấn đề quan trọng và cấp bách, khi mà lòng tham quyền bính và bả vinh hoa vẫn làm cho nhiều người mong bước vào.

Muốn chống trả và chiến thắng Satan, cần phải có tinh thần từ bỏ và tấm lòng siêu thoát. Chúa Giêsu đã chiến thắng Thần Chết và tội lỗi. Chúng ta cũng có thể chiến thắng mọi cám dỗ và thử thách, nếu chúng ta biết dựa vào Thiên Chúa, biết dùng vũ khí vạn năng mà Chúa Giêsu đã trao cho chúng ta. Lời Chúa mà thánh Luca ghi lại vẫn là lời nhắc nhở các tín hữu, đừng để sa vào các cơn cám dỗ, mà ngày nay không khác với ngày xưa, nếu không muốn nói là còn lộ liễu hơn. Hãy lấy chính Lời Chúa làm sức nâng đỡ, lời chỉ đạo, và hãy lấy tâm gương Chúa làm tiêu chuẩn cho cuộc sống để đương đầu với những cơn thử thách bất cứ từ đâu tới.

 

50.Chống lại cám dỗ - McCarthy

Suy Niệm 1. CHƯỚC CÁM DỖ CỦA ĐỨC GIÊSU

Một số người cho rằng thật khó mà tin rằng Đức Giêsu có thể bị cám dỗ. Mặc dù có bản chất thần thánh, nhưng Người cũng có một bản chất của con người. Ngoài ra, tự thân chước cám dỗ không phải là một tội lỗi. Có phải ma quỷ đã thực sự hiện ra với Người không? Chúng ta không biết. Điều chính yếu là những chước cám dỗ của Người đều có thật, giống như chúng ta vậy, mặc dù quỷ sứ không hiện ra với chúng ta trong hình dạng của một con người. Nhưng những chước cám dỗ của Người chứa đựng cái gì?

Chước cám dỗ đầu tiên là biến hòn đá thành bánh. Ngoài ý nghĩa rõ rệt, chữ “bánh” có thể mang ý nghĩa là những thứ vật chất nói chung. Ma quỷ đang nói với Đức Giêsu là hãy sử dụng những quyền năng đặc biệt của Người, để mang lại cho con người tất cả những thứ vật chất mà có thể họ mong muốn. Nhưng Đức Giêsu biết rằng tự thân những thứ vật chất đó sẽ không bao giờ thoả mãn được con người. Công việc chính của Người là nuôi dưỡng tâm trí và tấm lòng con người bằng lời của Thiên Chúa.

Đây là chước cám dỗ mang lại cho con người những điều họ mong muốn, hơn là những nhu cầu của họ. Chước cám dỗ chính là thoả mãn đám đông, bằng cách cho họ những gì sẽ thoả mãn các mong muốn nhất thời của họ, khi họ không biết điều gì mình thực sự cần đến.

Chúng ta có những nhu cầu và những khát vọng lớn lao hơn. Tâm hồn con người thực sự khát khao cái gì? Chắc hẳn rằng đó không phải là cơm bánh. Cơm bánh là cái mà cơ thể thèm khát. Sau phép lạ ban bánh và cá, ngày hôm sau, dân chúng trở về với mong muốn sao cho có thêm bánh nữa. Nhưng Đức Giêsu đã từ chối ban thêm bánh cho họ. Người nói “Các ngươi đừng lạm việc vì của ăn không thể tồn tại được, nhưng hãy làm việc để tìm kiếm lương thực kéo dài cho đến cuộc sống đời đời”.

Đối với một vị thầy về mặt thiêng liêng, thì tinh thần chiếm vị trí ưu tiên vượt lên trên lương thực của cơ thể. Khi đặt ưu tiên cho những nhu cầu thân xác, điều đó có nghĩa là giảm giá trị con người, là đối xử với họ không hơn gì một con vật. Chúng ta cũng bị cám dỗ chỉ sống cho những thứ vật chất mà thôi. Không phải là chúng ta khước từ đời sống thiêng liêng, nhưng chúng ta bỏ qua đời sống đó.

Chước cám dỗ thứ hai là tạo dựng một vương quốc chính trị, là việc dẫn đến quyền lực hơn là tình yêu. Quyền lực tạo ra một sự thay thế dễ dàng cho công việc khó khăn mà có thể tình yêu đòi buộc. Người ta dễ dàng muốn làm chủ người khác, hơn là yêu thương họ, dễ dàng thống trị người khác, hơn là trở thành người phục vụ họ. Đức Giêsu không đến để cai trị, nhưng để phục vụ. Người không hề nại vào quyền lực thần thánh của Người, nhưng đã tự huỷ mình ra không, và trở thành người tôi tớ đầy yêu thương đối với tất cả mọi người. Chúng ta luôn luôn bị cám dỗ thay thế tình yêu bằng quyền lực.

Chước cám dỗ thứ ba cốt ở việc làm được một điều gì đó kỳ lạ (tự gieo mình xuống khỏi Đền Thờ) nhằm khơi gợi lòng tin –giống như một ảo thuật gia có thể khơi gợi được lòng tin, qua nghệ thuật làm một số chuyện mang tính cách quảng cáo phô trương. Ý tưởng này nghe thật hấp dẫn. Một kiểu quảng cáo như vậy sẽ làm cho mọi người đồn thổi về Người tại Giêrusalem. Nhưng lối gây giật gân lại đưa đến vinh quang cho bản thân mình, hơn là vinh quang cho Thiên Chúa. Đức Giêsu khước từ việc gieo mình này. Người không muốn tìm kiếm những kẻ ái mộ mình. Người mong muốn có những kẻ đi theo Người, nghĩa là những kẻ muốn bắt chước lối sống của Người.

Trong suốt sứ vụ của Người, Đức Giêsu đã khước từ việc ban cho dân chúng những kiểu dấu lạ, ngay cả khi người ta ép buộc Người phải làm như vậy. Những loại dấu lạ này không có ích lợi gì cả, không đòi hỏi điều gì tốt đẹp nhất nơi chúng ta, mà chỉ hạ thập giá trị của lòng tin. Lòng tin không phải là ma thuật. Sự thánh thiện không hệ tại ở việc cố gắng ép buộc Thiên Chúa phải làm theo ý muốn của chúng ta, nhưng là nỗ lực bắt buộc chính bản thân mình phải làm theo thánh ý Thiên Chúa.

Các chước cám dỗ là đòn tấn công trên tất cả những yếu tố cơ bản đối với sứ vụ của Đức Giêsu. Vâng, Người đến để thiết lập một vương quốc, nhưng không phải là loại vương quốc mà Satan đề nghị. Và Người đã khước từ chước cám dỗ đạt được vương quốc bằng phương tiện trần thế.

Cả ba chước cám dỗ cuối cùng đều quy hướng về cùng một điều: đặt những thứ vật chất và vinh quang bản thân lên trước hết, kế đó, mới đến các điều thiêng liêng và Thiên Chúa. Nói chung, đây là những chước cám dỗ chủ yếu trong Giáo Hội của Người, và nơi mỗi người chúng ta là các thành viên trong Giáo Hội. Chúng ta phải luôn hướng mắt về Đấng đã khước từ biến những hòn đá thành bánh, tự gieo mình xuống khỏi nóc Đền Thờ, và cai trị bằng quyền lực.

Kinh nghiệm này đã giúp cho Đức Giêsu tự thấu hiểu sứ vụ của Người là gì, và làm thế nào để hoàn tất sứ vụ đó. Và một khi đã biết được sứ vụ của mình là gì, thì Người quyết định hoàn toàn tận hiến cho sứ vụ đó.

Chước cám dỗ không phải là những thứ chỉ xảy ra một lần mà thôi, không bao giờ chúng kết thúc, mà có thể trở lại một lần khi có cơ hội. Trong suốt cuộc đời của Đức Giêsu, chước cám dỗ vẫn tiếp tục xảy ra, bởi vì ma quỷ vẫn cứ tìm mọi cách để xói mòn sứ vụ của Người, mặc dù là vô hiệu. Ngay cả khi Người đã bị treo trên thánh giá, chúng ta vẫn nghe thấy tiếng vang vọng của chước cám dỗ thứ hai “Nếu ông ta là Đấng Mêsia, thì ông ta hãy xuống khỏi thánh giá, rồi chúng ta sẽ tin ông ấy”.

Tất cả những ai đang đấu tranh để sống một cuộc sống tốt đẹp, đều có thể ghi lòng tạc dạ điều này: Việc chống trả lại chước cám dỗ không hề dễ dàng đối với Đức Giêsu, cũng không dễ dàng đối với chúng ta. Nhưng nơi Đức Giêsu, chúng ta có được một người anh, Đấng biết được rằng chúng ta đang phải chiến đấu với cái gì. Người tha thứ cho chúng ta, và nâng chúng ta lên, khi chúng ta vấp ngã. Người ban cho chúng ta khả năng tuân theo lời của Thiên Chúa, tin tưởng nơi Người và chỉ thờ phượng một mình Người mà thôi.

Suy Niệm 2. KHÔNG CHỈ BẰNG CƠM BÁNH

Con người không chỉ sống bằng cơm bánh. Cơm bánh chỉ là một trong những thức ăn chủ yếu của cuộc sống –cuộc sống thân thể. Để nuôi dưỡng một con người, không giống như vỗ béo một con vật. Cơ thể của chúng ta cần có lương thực. Những linh hồn của chúng ta cũng vậy. Linh hồn của chúng ta đang khao khát lương thực nuôi dưỡng. Câu chuyện về Elvis Presley minh hoạ hùng hồn cho chân lý này.

Elvis trở nên rất giàu có. Ông ta sở hữu 8 xe hơn, 6 xe máy, 2 máy bay, 16 T.V., một toà lâu đài rộng lớn, và nhiều tài khoản ngân hàng. Vượt lên trên tất cả những thứ đó, anh ta còn là thần tượng của nhiều người hâm mộ. Tuy nhiên, anh không hề có hạnh phúc. Giữa tất cả sự giàu có và thành công của mình, anh ta đã phải trải qua tình trạng bất ổn về tinh thần, và thường than phiền về nỗi cô đơn, buồn chán.

Anh giãi bày tâm sự với một phóng viên “Tiền bạc gây ra nhiều chuyện nhức đầu”.

Mẹ của anh rất lo lắng cho anh. Không bao giờ bà muốn anh bị những chuyện đó. Bà chỉ đơn giản mong muốn anh trở về nhà, mua một cửa hàng bán vật dụng trong nhà, cưới vợ và có con.

Càng ngày, anh càng trở nên sợ hãi và trầm cảm. Năm lên 22 tuổi, anh nhận thấy là không còn thế giới nào để chinh phục nữa. Tình trạng bất ổn này có thể là một cơ hội. Đây là một lời nhắc nhở rõ ràng rằng “con người không chỉ sống nguyên bằng bánh”, nghĩa là chỉ sống bằng những thứ vật chất mà thôi.

Thông điệp này vang lên lớn tiếng và rõ rệt trong bài Tin Mừng hôm nay. Đây là một thông điệp quan trọng, và có lẽ thích hợp với ngày nay hơn bao giờ hết. Mặc dù chúng ta có thể nhận thấy được lẽ phải của bức thông điệp này, nhưng trên thực tế, thật không dễ dàng thực hiện. Chúng ta không chỉ sống bằng cơm bánh –ít nhất là không, nếu chúng ta mong muốn được sống dồi dào, và hoàn toàn được nuôi dưỡng với tư cách là con người và con cái của Thiên Chúa. Vậy chúng ta còn cần đến điều gì khác nữa. Chúng ta cần đến Lời Chúa.

Bạn hãy thử tưởng tượng cảnh cha mẹ nuôi dưỡng con cái của họ, mà không bao giờ nói một lời nào với con trẻ, không hề hướng dẫn, khích lệ, xác nhận, an ủi. Không bao giờ họ nói một lời để truyền đạt sự bình an và đón nhận, hoặc tình yêu thương và niềm vui. Cơ thể của con trẻ có thể được nuôi dưỡng, nhưng tâm trí và linh hồn của chúng bị trống rỗng. Chúng ta là con cái của Thiên Chúa. Chúng ta cần được nghe Lời của Người.

Nếu chỉ có cơm bánh, không phải lúc nào cũng sẽ đảm bảo được sự sống còn, ngay cả về mặt thể lý. Thi sĩ Irina Ratushinkaya đã sống một thời gian trong nhà tù cộng sản ở Ngài (với tư cách là tù nhân chính trị). bà nói “Nhiều người phụ nữ có nhiều thức ăn hơn tôi, tuy nhiên, họ vẫn bị chết”. Điều gì đã giữ cho bà còn sống được. Chắc hẳn là nhờ đức tin Kitô giáo của bà.

Không phải chỉ có cơ thể con người mới đói khát. Tâm hồn và tinh thần con người cũng biết đói khát nữa. Chúng ta sẽ không được nuôi dưỡng đầy đủ, cho đến khi chúng ta thừa nhận sự đói khát của tâm hồn và tinh thần.

Đức Giêsu thách đố chúng ta hướng tới những nỗi khát khao sâu xa hơn và những nhu cầu lớn lao hơn của chúng ta. Tâm hồn thực sự khát khao điều gì? Thưa rằng tâm hồn khát khao lương thực không thể hư nát –Lời Chúa. Lời Chúa có sức mạnh nuôi dưỡng chúng ta. Lời Chúa nuôi dưỡng chúng ta bằng tấm bánh của cuộc sống có ý nghĩa, tấm bánh của niềm hy vọng, và vượt lên trên tất cả, đó là tấm bánh của tình yêu.

CÂU CHUYỆN KHÁC.

Đức Giêsu đã trải qua 40 ngày trong sa mạc, trong sự suy niệm và cầu nguyện. Sa mạc có thể là một nơi khắc nghiệt, nhưng đó lại là một chỗ lý tưởng để suy niệm và cầu nguyện.

Kinh nghiệm sa mạc đến vào giây phút quan trọng trong cuộc đời của Đức Giêsu, thời gian của sự thức tỉnh lớn lao. Không thể nào gọi là cường điệu, khi nói về tầm quan trọng của sa mạc đối với Đức Giêsu. Thật vậy, càng ngày, Người càng yêu thích sự cô tịch, và có thói quen tìm đến với sa mạc, vào những lúc khó khăn trong cuộc đời của Người. Khi dân chúng và các sự kiện tìm cách vây bọc lấy Người, thì Người sẽ lẻn vào nơi hoang vắng, để tự phục hồi và lại hiến thân cho Chúa Cha. Hiện tại, Người đang đào sâu cảm nhiệm sa mạc đầu tiên này.

Chúng ta cũng cần có một nơi yên tĩnh để suy niệm và cầu nguyện. Thông thường, chúng ta hay sống một cách điên rồ và thiếu mất đời sống thiêng liêng, cứ để mặc cho những ước muốn ngu xuẩn đưa dẫn, và những thói quen ích kỷ đầu độc. Chúng ta bị những tiếng ồn ào và những sinh hoạt liên tục vây hãm. Chúng ta đặt sai những thứ tự ưu tiên. Chúng ta không thể hoặc không muốn sự cô tịch, không muốn được yên tĩnh, không muốn cảnh tĩnh mịch. Và chúng ta lại thắc mắc tại sao mình không có hạnh phúc tại sao mình cảm thấy không dễ dàng gì trong việc tiếp cận với người khác, và tại sao mình không thể nào cầu nguyện được.

Chúng ta cần đến sự cố tích. Khi ở một mình, chúng ta bắt đầu đứng trên đôi chân của mình, trước mặt Thiên Chúa và thế giới, và hoàn toàn chấp nhận chịu trách nhiệm đối với cuộc sống của bản thân. Các ẩn sĩ đi vào sa mạc, không phải để tự để tự đánh mất, nhưng là để tìm được chính mình. Trong sự cổ tích, chúng ta gặp gỡ những trò quỷ quái của chúng ta, những đam mê, thú tính, cơn tức giận, nhu cầu được nhìn nhận và được tán thành của chúng ta.

Và chúng ta không đi vào nơi hoang vắng để tránh khỏi người khác, mà để tìm thấy họ trong Thiên Chúa. “Chỉ khi ở nơi cô tịch và thinh lặng, tôi mới có thể tìm thấy sự tử tế mà nhờ đó, tôi có được khả năng để yêu mến các anh chị em tôi” (Thomas Merton).

 

51.Chiến đấu với cám dỗ

(Trích trong ‘Tin Mừng Chúa Nhật’)

Chúng ta đã từng thấy có một số cột mốc lớn trong cuộc đời Chúa Giêsu, và đây là cột mốc lớn hơn hết. Trong Đền Thờ, khi được mười hai tuổi, Ngài đã nhận thức rằng Thiên Chúa là Cha Người theo một ý nghĩa đặc biệt. Khi Gioan xuất hiện, Ngài cảm kích giờ của Ngài đã điểm, trong lễ rửa Thiên Chúa đã tỏ ra việc chuẩn y. Bây giờ Chúa Giêsu sắp bắt đầu chiến dịch của Ngài. Muốn bắt đầu một chiến dịch, người ta phải chọn nhưng phương sách sẽ dùng. Câu chuyện cám dỗ cho chúng ta thấy Chúa Giêsu đã dứt khoát chọn lựa phương cách Ngài sẽ sử dụng để đem con người trở về cùng Thiên Chúa. Nó cho ta thấy Chúa Giêsu từ bỏ con đường vinh quang quyền thế, chấp nhận con đường thập giá khổ đau. Trước khi đi vào chi tiết câu chuyện, có hai điểm cần lưu ý:

1. Đây là một câu chuyện thánh, vì nó không thể phát xuất từ bất cứ một nguồn nào khác ngoài chính Chúa Giêsu. Vào một lúc nào đó, có lẽ chính Chúa Giêsu đã thuật lại cho các môn đệ về kinh nghiệm sâu thẳm đó của linh hồn Ngài.

2. Cũng vào dịp này hẳn Ngài đã ý thức được những quyền năng đặc biệt của Ngài. Những cám dỗ đó chỉ có thể xảy đến cho một người có đủ quyền năng làm những sự lạ lùng. Chúng ta không bị cám dỗ khiến đá thành bánh hoặc nhảy từ nóc Đền Thờ, vì lẽ rất đơn giản là chúng ta không thể nào thực hiện được những việc như vậy. Các cám dỗ đó chỉ có thể xảy đến cho ai có sẵn quyền năng độc nhất và phải quyết định cách thức sử dụng quyền năng đó.

Trước hết chúng ta thử hình dung khung cảnh đó, khung cảnh của sa mạc hoang vu. Phần đất có người ở của xứ Giuđê là vùng cao nguyên trung tâm cái xương sống cho miền Nam đất Paléttin. Từ đó ra Biển Chết có một vùng sa mạc ghê rợn, chiều dài 56 cây số và rộng 24 cây số, có tên là sa mạc Jehsimmon, nghĩa là “sự tàn phá”. Các núi đồi như những đống cát bụi, những đá vôi trông như phồng lên và tróc ra, những tảng đá lớn trơ trọi gồ ghề, mặt đất kêu rền dưới vó ngựa. Nắng ở đó nóng như một lò lửa mênh mông, và có một sườn núi dốc dựng đứng cao khoảng 400 mét, đổ xuống tận Biển Chết. Chính tại đó, nơi hoang tàn ghê gớm đó, Chúa Giêsu chịu cám dỗ.

Không nên nghĩ rằng ba đợt cám dỗ đó đã diễn ra theo trình tự và lớp lang như một tấn tuồng. Chúng ta phải nhớ rằng Chúa Giêsu tự ý lui vào nơi vắng vẻ đó và suốt bốn mươi ngày Ngài vật lộn với vấn đề làm thế nào để chinh phục nhân loại về với Thiên Chúa. Đó là một trận chiến lâu dài và là một cuộc chiến không ngưng nghỉ cho tới cây thập giá, và câu chuyện này chấm dứt với lời tuyên bố của ma quỷ “tạm” lìa bỏ Ngài.

1. Cám dỗ thứ nhất khiến đá thành bánh.

Vùng này không phải là một sa mạc cát, khắp đó đây rải rác những hòn đá vôi rất giống những ổ bánh mì nhỏ. Ma quỷ nói với Chúa Giêsu rằng: “Nếu ông muốn dân chúng theo ông thì ông hãy dùng quyền năng lạ lùng để ban cho họ những nhu cầu vật chất đi”. Ma quỷ xui Chúa Giêsu nên đút lót dân chúng để họ theo Ngài, Ngài trả lời bằng một câu trích ở Đệ nhị luật 8,3, Ngài nói: “Người ta không bao giờ tìm được sự sống trong của cải vật chất”. Nhiệm vụ của Kitô giáo không phải là tạo ra những tình trạng mới, mặc dầu uy tín và tiếng nói của Hội Thánh phải hỗ trợ cho mọi cố gắng cải thiện đời sống con người. Nhiệm vụ của Hội Thánh là kiến tạo con người mới. Và khi đã có con người mới hẳn sẽ phát sinh các tình trạng mới.

2. Trong chước cám dỗ thứ nhì, Chúa Giêsu thấy mình đứng trên một đỉnh núi cao, từ đó mắt Ngài có thể thấy được tất cả các nước văn minh.

Ma quỷ nói: “Hãy thờ lạy ta thì tất cả sẽ là của ngươi”. Đó là một chước cám dỗ để thoả hiệp, để hoà đồng. Ma quỷ nói: “Ta đã nắm được dân chúng trong tay ta rồi, ngươi chớ nên đặt tiêu chuẩn của ngươi quá cao. Hãy ký kết một thoả hiệp với ta, chỉ cần hoà đồng thích nghi một chút với điều ác thôi thì loài người sẽ theo ngươi” Chúa Giêsu trả lời: “Thiên Chúa là Thiên Chúa, phải là phải, trái là trái. Trong cuộc tranh chiến với tội ác không thể có thoả hiệp”. Một lần nữa Chúa Giêsu lại trích dẫn Đệ nhị luật 6,13.10,20. Một sự cám dỗ thường dễ vướng phải là việc tìm cách chinh phục lòng người bằng cách thoả hiệp với các tiêu chuẩn của đời này. Có người phát biểu rất đúng rằng khuynh hướng của thế gian là nhìn mọi sự trong màu sắc mơ hồ không rõ rệt, nhưng Kitô hữu phải nhìn mọi sự cách trắng ra trắng, đen ra đen. Carlyle nói: “Kitô hữu phải nóng cháy trong niềm tin vào sự vô cùng xinh đẹp của sự thánh khiết và vô cùng xấu xa của tội lội”.

3. Trong cơn cám dỗ thứ ba, Chúa Giêsu thấy mình đứng ở nóc Đền Thờ là chỗ cổng Salômôn và cổng vua giáp nhau.

Chỗ này cao 1.500 mét, dốc thẳng xuống thung lũng Kêdron bên dưới. Đây là chước cám dỗ muốn khích động dân chúng. Chúa Giêsu phán: “Không, ngươi không được quyền thử nghiệm quyền năng Thiên Chúa” (Đnl 6,16) Chúa Giêsu hiểu rằng nếu Ngài làm theo ma quỷ thì dân chúng sẽ phải sửng sốt thán phục Ngài, và chắc chắn ảnh hưởng đó không lâu bền được. Con đường phục vụ và chịu khó dẫn đến thập giá là con đường rất khó đi, nhưng sau thập giá sẽ có vinh quang của mão triều thiên.

“Chúa trở nên giống như ta, là anh em Ngài, về mọi phương diện, để làm Thầy Thượng Tế nhân từ, trung thực trước mặt Thiên Chúa, chuộc tội cho mọi người. Vì Chúa từng chịu khổ khi đương đầu với các cơn cám dỗ, nên Ngài có thể giải cứu những người đang bị màng lưới cám dỗ vây bọc” (Dt 3,17-18). Suy nghĩ về điểm này, thánh Gioan Viannay phấn khởi kêu lên: “Chúng ta hạnh phúc thay! May mắn thay cho chúng ta có Thiên Chúa làm gương mẫu! Chúng ta nghèo khổ ư? Chúng ta có một Thiên Chúa sinh ra trong chuồng bò, nằm trong máng cỏ. Chúng ta bị khinh chê ư? Chúng ta có một Thiên Chúa đi trước chúng ta về điểm đó, Ngài đã từng bị đội mão gai, quấn áo đỏ để coi như một tên điên khùng. Chúng ta bị đối xử tồi tệ và đánh đập tàn nhẫn ư? Chúng ta có một Thiên Chúa, đứng trước ta, mình đầy vết thương, chết giữa những khổ hình mà ta không thể tưởng tượng ra. Chúng ta chịu bách hại sao? Này, sao mà dám phàn nàn khi ta có một Chúa chịu chết vì tay các lý hình. Cuối cùng, chúng ta đau khổ vì bị cám dỗ sao? Chúng ta có một Chúa Cứu Thế đáng yêu cũng bị ma quỷ cám dỗ, hai lần bị các thần dữ mang đi này, và trong tất cả các khổ đau, quyến rũ và cám dỗ mà chúng ta gặp phải, chúng ta luôn có Chúa đi trước chúng ta, bảo đảm cho chúng ta toàn thắng miễn là chúng ta muốn thật” (Curé d’Ars).

Như thế Chúa dạy không ai tránh khỏi cám dỗ, Chúa chỉ cách thắng vượt, khuyến khích ta tin cậy vào lòng thương xót, vì chính Ngài cũng bị cám dỗ như ta.

 

52.Chú giải mục vụ của Hugues Cousin

CHÚA GIÊSU CHỊU CÁM DỖ

Trong khi đem bản gia phả vào đây, Luca có nguy cơ phá vỡ mối liên kết nền tảng mà truyền thống đã thiết lập giữa phép rửa và cơn cám dỗ. Như thế ông nhắc lại cảnh này khi nói tới việc Chúa Giêsu đến từ bờ sông Giođan và ông bày tỏ mối dây liên kết giữa bản gia phả và sự hiển linh sau khi chịu phép rửa, chính trong tư cách là Con Thiên Chúa và đầy tràn Thần Khí thánh mà Chúa Giêsu sắp chịu thử thách. Người được dẫn vào sa mạc, địa điểm mơ hồ này nơi mà, theo Kinh Thánh, con người có thể có kinh nghiệm về sức mạnh của tà thần hay đi vào mối hiệp thông với Thiên Chúa hằng sống.

Luca mượn từ tài liệu “Nguồn các lời” một sắc thái Kitô giáo về Chúa Kitô được cấu trúc bằng ba lời trích dẫn mà ông chọn lựa cẩn thận từ sách Đệ nhị luật, để minh hoạ một kinh nghiệm căn bản của Chúa Giêsu. Trường hợp duy nhất trong văn chương Tin Mừng: ở đây Chúa Giêsu chỉ tuyên bố những trích dẫn từ Cựu Ước! Con Thiên Chúa phải trải qua ba thử thách mà dân Isaia đã chịu trong cuộc xuất hành và họ đã sa ngã; khi lợi dụng những bài học của Đệ nhị luật nhắc nhở ta canh chừng khỏi tái phạm những lầm lỗi tương tự. Chúa Giêsu chiến thắng địch thủ. Có vẻ như truyền thống trình bày ba giai đoạn theo trật tự như thấy trong Matthêu: bánh (chỉ tìm của cải vật chất), chóp đỉnh Đền Thờ (thử thách Chúa để đòi hỏi những dấu chỉ Mêsia gây sửng sốt), vương quốc trần gian (thoả hiệp với cái ác để bảo đảm quyền lực Mêsia). Luca sẽ đảo lộn cám dỗ thứ hai và thứ ba, để cám dỗ sau cùng –cám dỗ quan trọng nhất- là thử Thiên Chúa được diễn ra tại Giêrusalem.

Đối thủ của Thiên Chúa –được gọi là ma quỷ bốn lần trong bản văn này- đã ghi nhận được lời tuyên bố từ trời. Biết rằng Chúa Giêsu là Đấng Mêsia, nó thử ngăn trở vai trò của Người trong lịch sử cứu độ, khi bằng cách này hay cách khác mời mọc Ngài thực hiện một Công vụ Mêsia lừng lẫy. Độc giả đừng lầm lẫn về sứ mạng đích thực của Con Thiên Chúa, Chúa Giêsu hoàn tất lời Thiên Chúa: Ngài từ chỗ làm phép lạ để có lợi cho cá nhân Ngài (x. Đnl 6,13 được trích ở câu 8), cũng như dùng quyền năng Con Thiên Chúa của mình để tự bảo vệ… và quyến rũ người Do Thái bằng những phép lạ có tính cách lừa bịp (x. Đnl 6,16 được trích dẫn ở câu 12). Thấy tên quỷ trích Thánh Vịnh 91,11-12, độc giả cũng có thể nghĩ đến các đối thủ Do Thái chống lại niềm tin Kitô giáo, khi họ dựa vào một số bản văn Kinh Thánh nói về Đấng Mêsia hoàng vương để từ chối Đấng bị đóng đinh đã sống lại.

Như vậy cả ba lần, sự trung thành của Chúa Giêsu đối với Thiên Chúa và đối với chương trình cứu độ đã bị thử thách. Thử thách chót chính là … thử Chúa bắt Chúa phải ra tay. Đó là lỗi của Israel trong sa mạc, khi họ đòi một phép lạ bằng những lời này; “Chúa có ở với chúng ta hay không?” (Xh 17,7). Còn Chúa Giêsu, Ngài từ chối bắt Thiên Chúa phải can thiệp; Ngài không đòi phép lạ để cứu mạng mình. Ngài cũng sẽ không xin điều đó khi Ngài ở trên thập giá (23,35).

Bởi vì Luca đã thấy rõ cuộc khổ nạn. Trái với kết cuộc có hậu của Mt 4.11, khi Satan bỏ đi, Chúa Giêsu được các sứ thần phục vụ (x. Mc 1,13), tác giả Luca lại hướng chú ý về ma quỷ. Khi chống lại một cách vô ích quan niệm của Chúa Giêsu về sứ mệnh Mêsia của Ngài, quỷ đã thua một trận đánh, nhưng không phải là toàn bộ cuộc chiến và nói rời xa Ngài cho đến giờ H –giờ khổ nạn, mà dưới mắt của Luca nó là nhân vật chính và giấu mặt (22,3.31.53). Đối với Luca, những cơn cám dỗ đó là thử thách đầu tiên của một cuộc chiến sẽ kết thúc trên thập giá… và ở ngoài ngôi mộ Phục Sinh!

Sự chống đối giữa ma quỷ và Con Thiên Chúa là một thực tại: nó sẽ đưa Ngài đến cái chết. Khi thuật lại giáo huấn này về Đức Giêsu, Luca biết rằng ông diễn tả bằng hình ảnh. Chẳng hạn, phải chăng ông đã không loại bỏ ngọn núi rất cao từ đó người ta có thấy tất cả các nước trong thiên hạ –một cách diễn tả quen thuộc của Do Thái giáo, nhưng có thể người h luật pháp lại không hiểu nổi? Ông viết “trong giây lát” (c.5): bản âm không gian được thay thế bằng một ghi chú về thời gian!

Người ta sẽ hỏi đâu là nền tảng lịch sử của cảnh khai mạc này mà Luca đã có được? Bên cạnh một biến cố đúng thời gian, ta phải kể đến việc Chúa Giêsu sống ẩn dật trong một nơi không rõ ràng gọi là sa mạc, sau khi chịu phép rửa, với một thực tại kép: các cơn cám dỗ dĩ nhiên rồi, đặc biệt là cơn cám dỗ về một sự vụ Mêsia trần tục, những cám dỗ ấy là một chiều kích thường xuyên trong sứ vụ của Đức Giêsu; nhưng cũng cả việc Chúa Giêsu từ chối thuận theo cám dỗ nữa. Có những dấu vết chính xác về các cám dỗ ấy trong một tác phẩm của Luca (Lc 10,25; 11,6tt; 22,42…), và đã trở thành hiển nhiên: Chúa Giêsu là một Mêsia bị lột trần và đau khổ. Các môn đệ là chứng nhân và sứ mạng mà Ngài đã lãnh nhận. Các độc giả của Luca phải hiểu rằng không dễ dàng để hiểu Ngài.

Một lần nữa, thử thách theo đuổi suốt cuộc đời Chúa Giêsu không phải là tội. Như tất cả mọi người, Con Thiên Chúa đã kinh nghiệm câu châm ngôn này của Kinh Thánh: “Con ơi! Nếu con muốn phụng sự Chúa, con hãy chuẩn bị tâm hồn để chịu thử thách” (Ch 2,1).

 

53.Chú giải của Noel Quesson

Sau khi chịu phép rửa, Đức Giêsu được đầy Thánh Thần. Từ sông Giođan trở về và được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa.

Đức Giêsu vừa thay đổi cuộc sống. Đối với Người đó là một khúc quanh quyết định. Cách đây chỉ có vài ngày, Người vẫn còn là anh thợ mộc thôn làng, ở Nadarét. Người vừa nhận phép rửa ở sông Giođan "nhận chức" tác vụ làm ngôn sứ. Người được tràn đầy Thánh Thần? Trước khi bắt đầu tác vụ, Người cảm thấy cần phải một mình lui vào hoang địa. Người muốn cầu nguyện, suy nghĩ chọn những phương thế sẽ sử dụng để hoàn thành công trình của mình.

Không có một công trình lớn lao nào của con người, hay cuộc sống thiêng liêng thực sự nào, mà không cần thời gian suy nghĩ, cô tịch và im lặng nội tâm. Trong Mùa Chay đang bắt đầu, tôi có dành mỗi ngày vài phút, hay mỗi tuần vài khắc đồng hồ cho việc này? Để cầu nguyện suy nghĩ, và thấy rõ hơn không?

Tôi dùng tưởng tượng, ngắm nhìn Đức Giêsu đang rời làng mạc đông dân cư, đi sâu vào những vùng đất sỏi đá không người, không cây cỏ, không nước. Người bước đi bước tới. Lạy Chúa, còn con có dám đi theo Chúa không, để có một thời gian trong "hoang địa"?

Tại đây Chúa bị cám dỗ trong 40 ngày.

Theo Luca, cơn "cám dỗ" mà Đức Giêsu đương đầu, kéo dài trong suốt thời gian 40 ngày. Người ở nơi hoang địa. Thời gian cầu nguyện, cũng là thời gian "thử thách". Chữ này nhấn mạnh đến khía cạnh tích cực của cơn cám dỗ. Tự thử thách chính mình đó là xem mình có thể làm được những gì và "đưa ra bằng chứng về chính mình". Trắc nghiệm một cỗ máy, đó là thử xem giá trị thực sự của nó. Sự “thử thách", theo nghĩa này, là một điều rất tốt. Một mối tình được thử thách, đó là mối tình luôn bền vững và hiện giờ ta vẫn có thể chắc chắn về sự bền vững đó. Khi bảo chúng ta xin Thiên Chúa "đừng để chúng con xa trước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ" Đức Giêsu không muốn nói là chúng ta sẽ không bị cám dỗ, nhưng ta phải chiến thắng cám dỗ, không bị nó đè bẹp, bị bại trận, thì sự dữ ngự trị. Nhờ khắc khổ, Đức Giêsu đã có kinh nghiệm về lợi ích của thử thách. Vì thử thách có thể làm tình yêu lớn lên: Những cám dỗ Người chịu, sẽ làm nổi bật giá trị lòng "trung tín" của Người đối với Chúa Cha.

Trong những ngày ấy, Người không ăn gì và khi hết thời gian đó thì Người thấy đói.

Tôi ngưng một lát để chiêm ngắm cảnh này: Đức Giêsu đang đau khổ vì đói! Bao tử co thắt - chóng mặt, nhức đầu.

Đa số các tôn giáo lớn, đều có việc thực hành "chay tịnh" tự nguyện như thế! Nền văn minh hiện đại của chúng ta, có lẽ là nền văn minh duy nhất trong lịch sử, khước từ kinh nghiệm tôn giáo phổ quát này. Ta thường nói, cần phải hưởng thụ. Tại sao phải nín nhịn? Khi một người ít buông thả trong phạm vi tình dục hay ăn uống, họ có nguy cơ mất đi một điều cốt yếu: "Sự tự chủ”. Lúc đó, con người trở thành một sinh vật rất mềm yếu, không ý chí, nô lệ cho những bản năng sơ đẳng nhất. Ở đây, Đức Giêsu đưa ra cho chúng ta hình ảnh một con người mạnh, có thể quên mình, “ăn chay" tự nguyện. Tôi có biết từ bỏ, hy sinh trong Mùa Chay này không?

1. Cơn cám dỗ thứ nhất.

Bấy giờ quỷ nói với Người: "Nếu ông là con Thiên Chúa thì truyền cho hòn đá này hoá bánh đi".

Cơn cám dỗ vì cái đói, đã là sự thử thách của Israel trong hoang địa. Nhưng cơn cám dỗ để thoả mãn cái đói của chúng ta, là sự thử thách của mọi người. Chúng ta biết rõ những khao khát thể xác của mình. Thiên Chúa đã đặt chúng trong ta, nhưng chúng ta có thể dễ "lệch lạc", trở thành độc tài yêu sách. Xã hội tiêu thụ quanh ta lại càng tăng thêm quyền lực cho chúng: "Hãy mua món ragu, mì sợi Ý. Thế giới phương Tây, nói chung, quá dư thừa thực phẩm. Những y sĩ thường cảnh giác điều đó.

Đức Giêsu đáp lại: "Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơn bánh".

“Con người". Lạy Chúa Giêsu, con thích nghe lời này từ miệng Chúa. Con người, đó là nỗi đam mê của Chúa. Chúa đã đến trong nhân loại để phát huy giá trị của con người trong mọi chiều kích. Chúa lặp lại cho chúng con hôm nay: Hỡi con người, đừng sống chỉ nhờ cơm bánh! Đừng hạ thấp mình xuống mức độ sơ đẳng nhất. Người không có nhu cầu nào khác hơn là ăn, uống hút xách... sao?

Trong Mùa Chay này, chúng ta có biết phát triển những giá trị tâm linh của mình không? Chúng ta có biết cầu nguyện đón thận những thiếu sót khắc khổ, giúp mình thêm sinh khí không?

2. Cám dỗ thứ hai.

Quỷ đem Đức Giêsu lên cao và trong giây lát chỉ cho Người thấy tất cả các nước thiên hạ. Rồi nó nói với Người: "Tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này, vì quyền hành ấy đã được giao cho tôi, và tôi muốn cho ai tuỳ ý. Vậy nếu ông bái lạy tôi, thì tất cả sẽ thuộc về ông".

Rõ ràng, trình thuật này không phải là một "phóng sự" của một nhà báo mô tả hay quay phim một biến cố. Đây là một trang thần học tóm kết và tổng hợp cách tượng trưng "tất cả những hình thức cám dỗ" (Lu ca sẽ nói rõ điều đó khi kết thúc trình thuật của ông) mà Đức Giêsu đã gặp “thực sự” suốt cuộc đời của Ngài. Chẳng hạn, rõ ràng là cơn cám dỗ thứ hai này, cám dỗ để được "quyền hành thế gian", đã không ngớt tấn công Đức Giêsu. Hằng ngày, Ngài đã phải đẩy lui cơn cám dỗ "cứu thế nhất thời" mà người đương thời đã muốn lôi kéo Người bước vào: Một Đấng cứu thế có tính chính trị, một ông "vua của thế gian" này theo kiểu vua Đavít cầm đầu, cùng với Nhóm quá khích để chống lại quyền hành và vinh quang, chống lại quân Rôma xâm lược (Ga 6,15). Ngay từ ngày đầu tiên này, tại hoang địa, cho tới hơi thở cuối cùng, Đức Giêsu đã khước từ vương quyền để làm người "nghèo hèn" "người tôi tớ" (Ga 13,1-20). Đức Giêsu đã có thể trở nên giàu có và quyền thế nhưng Người đã chấp nhận "yếu đuối" (1 Cr 1,27), khi chọn thập giá là “điều ô nhục đối với người Do Thái, là sự điên rồ đối với dân ngoại". Cơn cám dỗ về "quyền hành" cũng là cơn cám dỗ của chúng ta: Muốn thống trị áp đặt, và lợi dụng.

Đức Giêsu đáp lại: "Đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi". (Đnl 6,13)

Chống lại những cuộc tấn công của xatan, Đức Giêsu trả lời 3 lần bằng Kinh Thánh (Đnl 8,3-6,13-6,16), vì đó cũng chính là những cơn cám dỗ mà dân Chúa đã gặp nơi hoang địa trong "40 năm", và giờ đây Đức Giêsu cũng đang sống lại trong bản thân Người: Đó là cơn cám dỗ về mana (Xh 16), cám dỗ thờ ngẫu thần và con bò vàng (Xh 32-42), cám dỗ làm những dấu lạ (Xh 17). Cơn cám dỗ của Israel cũng là cơn cám dỗ của Đức Giêsu, của toàn thể nhân loại, của chúng ta. Nghi ngờ Thiên Chúa, vì người không tỏ hiện, để tin những gì khác".

Câu trả lời của Đức Giêsu là "không có gì hơn Thiên Chúa". Lạy Chúa Giêsu, theo chân Chúa, con không muốn thờ lạy và tin tưởng ở tiền bạc, lạc thú, quyền hành, "những ý thức hệ chính trị", những tiến bộ hay thời trang. Con chỉ phục bái “trước mặt Chúa". Cái tạm thời không phải là xấu. Nhưng biến nó trở nên "tuyệt đối", là một ảo tưởng bi thảm. Đức Giêsu là Đấng giải thoát chúng ta khỏi những “thần giả hiệu” đang gạt gẫm chúng ta.

3. Cơn cám dỗ thứ ba.

Quỷ đem Đức Giêsu đến Giêrusalem và đặt Người lên nóc đền thờ rồi nói với Người: “Nếu ông là con Thiên Chúa thì đứng dậy, mà gieo mình xuống đi! Vì có lời phép rằng: Thiên Chúa sẽ tay đỡ, tay nâng cho bạn khỏi vấp chân vào đá". (Tv 91,11-12)

Đó là cơn cám dỗ lớn và liên tục mà người ta đã đặt ra trước Đức Giêsu suốt đời sống công khai của Người: hãy làm phép lạ đi - Hãy cho chúng tôi một dấu chỉ trên trời. Hãy chứng minh rằng ông là Thiên Chúa. Hãy biểu lộ quyền hành của ông bằng phép lạ, chứng minh rằng ông là Đấng Cứu 'Thế chúng tôi đang mong đợi. Hãy bước xuống khỏi thập giá đi? (Lc 11,29-11,16-21,7; Ga 91,28-6,30-12,37; Mt 27,42-43). Còn chúng ta, chúng ta cũng luôn đòi hỏi những điều đó với Chúa sao?

Luca đã đặt cơn cám dỗ này, cám dỗ nơi đền thờ Giêrusalem xuống hàng thứ ba (còn đối với Matthêu, đó là cám dỗ thứ hai 4,5). Làm như thế, Luca mới nhấn mạnh đến sự tiệm tiến. Thực vậy, chính tại Giêrusalem, Đức Giêsu đã trải qua cơn thử thách lớn nhất của Người. Đó là cơn cám dỗ bi thiết, muốn cho Người khỏi phải chết: "Nếu có thể được, xin tha cho con khỏi uống chén này" (Lc 22,42). Đức Giêsu đã không được thiên thần "bảo vệ". Đó là cơn cám dỗ bi thảm nhất: trong đau khổ; mất niềm tin nơi Chúa Cha. Đức Giêsu đã không được bảo vệ, chân của Người đã vấp phải đá đường. Người đã không bao giờ dùng quyền năng thần linh của mình để tránh sức mạnh ghê gớm của "thân phận con người phải chết”. Người đã khước từ những phương tiện "ngoạn mục" để thi hành xứ vụ của mình, mà chỉ chọn những "phương tiện hạn hẹp". Chính nhờ thái độ Dâng lời tuyệt đối Chúa Cha, đến nỗi có cảm tưởng bị "Chúa Cha bỏ rơi" (Mt 27,48), mà người chứng tỏ mình là Con Một của Cha. Người sẽ được ' "'cứu khỏi chết" nhờ sự phục sinh của mình, nhưng chỉ sau khi đã sống trọn tình thương "cho đến tận cùng". Do đó, chúng ta chớ ngạc nhiên khi đến lượt mình cũng cảm thấy cơn cám dỗ bi thảm này: Đó là cơn cám dỗ nặng nhất, khi nghĩ rằng “Chúa bỏ rơi ta", cám dỗ của khuynh hướng vô thần "nếu có một Thiên Chúa tốt lành, thì tôi đâu có gặp thử thách như vậy! "

Chúa Giêsu đáp lại: Đã có lời rằng: ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi.

Chúng ta cũng thường "thử thách Thiên Chúa". Đôi khi chúng ta buộc Chúa phải theo ý muốn của ta: "Nếu Chúa hiện hữu, nếu con thật là con của Chúa, Chúa phải cho con lành bệnh, hay thoát khỏi một cơn thử thách nào đó hay thành công ở một kỳ thi nào đó. Nếu Chúa không làm như thế, thì Chúa đâu có còn quan tâm tới con nữa, và Chúa đâu còn hiện hữu gì với con". Chúng ta biết rằng, vấn đề sự dữ trong thế gian là nguyên nhân của phần lớn những cuộc khủng hoảng tâm linh và dẫn đến nhiều trường hợp bỏ Đức tin.

Nhưng chúng ta cũng tin rằng, Đức Giêsu đang "ở cùng chúng ta". Đức Giêsu là người đầu tiền đã thắng cơn cám dỗ này, và dù có bị "đóng đinh trên cây gỗ”, vẫn một lòng trung thành với Chúa Cha.

Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi, chờ đợi thời cơ.

Như vậy những cơn cám dỗ này, chỉ là khởi đầu. Đức Giêsu sẽ còn bị cám dỗ nữa. Và có thể nói, xatan đã hẹn tại Giêrusalem. Nơi đó sẽ diễn ra trận đụng độ thực sự khi Đức Giêsu bước vào cuộc thương khó (Lc 22,3).

 

54.Trong sa mạc - R. Gutzwiller

Do Thần trí Thiên Chúa thúc đẩy, Chúa Giêsu đi vào sa mạc. Sự sung mãn tinh thần cùng với việc đối thoại thân mật với Chúa Cha chiếm hữu Ngài mãnh liệt đến độ Ngài không còn tưởng nghĩ đến những nhu cầu vật chất nữa, dường như Ngài xuất thần, sống trong một thế giới khác.

Rồi bốn mươi ngày trong trạng thái xuất thần ấy qua đi, nhường chỗ cho những nhu cầu của con người, khiến Ngài cảm thấy cơn đói mãnh liệt. Tiếp theo ánh sáng từ trên cao là những u ám dưới đất; sau sự tràn đầy Thiên Chúa đến cơn cám dỗ của Satan vây bọc.

Càng là bậc thần bí chiêm niệm, càng là Đấng thánh thiện, thì lại càng hay bị Satan bủa vây, công hãm; những vị sống ở mức độ thánh thiện cao thì đồng thời cũng có nguy cơ liều mình sa xuống vực thẳm. Chúa Giêsu đã được nâng cao hơn ai hết: cho nên không ai bị Satan cám dỗ bằng Ngài.

Đây Ngài sắp bị kẻ địch mở ba mũi dùi tấn công:

Cám dỗ thứ nhất muốn nói đến cách sử dụng sai lầm quyền năng Thiên Chúa để phục vụ cho một lợi ích thế trần. Chúa Giêsu cũng có thể làm giảm cơn đói đang hoành hành nơi bản thân Ngài, điều đó có thể lắm chứ! Thế nhưng Ngài đã trả lời: ‘Người ta sống, không phải chỉ bằng cơm bánh’.

Tinh thần hay cơm bánh, linh hồn hay thân thể, đâu là điều quan trọng đối với Ngài? Từng thứ một luân phiên xuất hiện trước mặt Ngài… Phần đa số nhân loại đều ao ước cả hai, nhưng lại đặt trật tự sai lạc: tiên vàn là những gì liên quan đến thân xác, no nê, tiện nghi đầy đủ, rồi sau đó, hay may mắn lắm là song song với nó, mới đến những yếu tố tinh thần và thiêng liêng.

Hơn nữa, nhiều người còn bị cái chủ hướng chỉ coi trọng vật chất. Những người này hoàn toàn chối bỏ tinh thần và linh hồn. Duy chỉ còn tiện nghi vật chất là cứu cánh cho đời họ: ‘Cơm bánh và vui chơi’. Ngày nay xu hướng đó có một tầm ảnh hưởng đặc biệt, vì coi kinh tế như là động lực mang tính cách quyết định, những cái còn lại chỉ là phụ trội mà thôi.

Ngược lại, Chúa Giêsu xác quyết chỉ tinh thần mới có giá trị tuyệt đối. Bởi vì Thiên Chúa quan trọng hơn thế gian nhiều. Do đó, tiên vàn phải lo tìm kiếm nước của Người và mọi sự khác sẽ đến sau. Trời quan trọng hơn đất, nên kẻ nào chỉ loay hoay với những sự dưới đất là những người vụng về, không biết đâu là chính yếu và đâu là tuỳ phụ. Sự vĩnh cửu đáng giá hơn thời gian, nên kẻ nào liều mạng sống mình để chiếm được những cái chóng qua đời này, thì kể là đã đặt tất cả mọi sự trên một địa bàn sai lạc.

Lời Chúa Giêsu trưng dẫn lấy từ đoạn ở sách Đệ nhị luật, trong đó nói về thứ bánh Thiên Chúa ban cho dân khi còn ở trong sa mạc, nhưng đồng thời cũng nhấn mạnh là Lời Sáng tạo và Thần trí Thiên Chúa trọng hơn bội phần, đáng giá hơn thứ bánh do phép lạ Thiên Chúa làm và càng hơn thứ bánh ta dùng thường ngày gấp ngàn vạn lần.

Chúa Giêsu không chỉ khinh rẻ thân xác và những nhu cầu thể xác. Chúng ta sẽ thấy Ngài chữa lành bệnh tật, làm phép lạ hoá bánh ra nhiều, phục sinh kẻ chết. Xem đó thì biết Ngài không phải là anh trí thức một chiều, chỉ chu chu chăm chắm vào những điều thiêng liêng sáng láng, Ngài cũng chẳng phải là kẻ ngông cuồng không nhận biết Thiên Chúa. Nhưng Ngài muốn là tinh thần và Lời của Thiên Chúa phải được đặt vào đúng chỗ của nó, bởi vì thân thể chỉ có được ý nghĩa đúng đắn và những nhu cầu vật chất cũng chỉ thoả mãn một cách chính đáng khi tất cả đều diễn tiến theo một trật tự hợp với Thánh ý Thiên Chúa, hợp với luật của Người.

Chúa Giêsu cũng sẽ sử dụng quyền năng lạ lùng của Ngài theo lời, theo ý của Thiên Chúa chứ không theo sở thích của lòng mình, lại càng không theo ý muốn của mình, hay sự thúc đẩy của thân xác. Sứ vụ của Ngài là loan báo Nước Thiên Chúa. Xu hướng coi trọng vật chất vẫn còn xung khắc với Kitô giáo.

Cám dỗ thứ hai liên quan đến sự ham hố quyền hành. Satan chỉ cho Chúa thấy ‘hết các nước thiên hạ’ và nói thêm: ‘Tôi hiến cho Ngài uy quyền đó hết thảy và vinh quang của các nước ấy, vì nó đã được phú thác cho tôi, và tôi muốn hiến cho ai tuỳ ý tôi’. Lời gì mà lạ lùng thế! Tuy nhiên chính Chúa Giêsu đã gọi Satan là ‘Thủ lĩnh thế gian này’. Quyền lực tự nó đâu phải là cái gì xấu xa, nhưng có một chú quỉ quyền thế chỉ lo quyến rũ những kẻ ham danh và mê thống trị. Kẻ đó không còn lo tìm Đấng toàn năng, cũng chẳng tìm Thánh ý Thiên Chúa Tối Cao, Đấng mọi quyền hành đều phải phụng sự Ngài.

Trái lại, họ coi quyền hành của họ là sự thiện tuyệt đối và sử dụng tuỳ theo sở thích của họ. Kiêu ngạo, dương dương tự đắc quá lố như vậy tất sẽ đi đến chỗ lầm đường lạc lối. Sách Khải huyền gọi quyền thế là ‘con mãnh thú vực sâu…’. Nói đúng ra, đối với những người có địa vị, cám dỗ này còn nguy hiểm hơn cám dỗ coi vật chất là số một, dù cám dỗ này cũng đã thật thô bỉ. Cám dỗ về ham quyền được nguỵ trang bằng những dáng vẻ đạo đức bề ngoài, vì nó khuyến khích việc mở rộng nước Chúa nhờ những phương tiện bên ngoài của chính trị, võ khí, tổ chức này tổ chức nọ, tiền bạc… Thậm chí có những việc khởi đầu hoàn toàn với ý hướng ngay thẳng, thế rồi dần dà cũng đi đến chỗ coi trọng quyền thế; tham quyền thì cố vị, và rốt cuộc sa vào mưu mô của ma quỷ.

‘Vậy nếu ông bái xuống lạy tôi, thì mọi sự ấy sẽ là của ông’. Khi bái lạy quyền thế thì người ta cũng thờ lạy Satan. Khi ham quyền và những lợi lộc do đó mà ra, thì người ta đã đang tâm hiến mình làm nô lệ cho quyền thế.

Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đã trả lời: ‘Ngươi phải bái lạy Chúa, Thiên Chúa của ngươi, và chỉ thờ phượng một mình Người’ Đấng Tối Cao là Đấng độc nhất mà mọi sự phải quy phục. Đấng toàn năng là Vị Duy Nhất sở hữu và ban phát quyền năng chính đáng. Mọi thứ quyền hành không phụng sự Thiên Chúa là một sự lạm dụng và phục vụ cho Satan, cho dầu nó có vẻ huy hoàng rực rỡ mấy chăng nữa. Ham quyền quá đáng trao nộp chúng ta vào tay ma quỷ. Nhưng Chúa Giêsu đã đến để thiết lập Nước Thiên Chúa thì đồng thời Ngài cũng phá tan vương quốc của kẻ thù.

Trong cái chết của Chúa Giêsu, quyền lực âm phủ mở tiệc ăn mừng; nhưng trên thực tế, nó đã bị bẻ gãy và tỏ ra mình yếu kém ngay tại đó. Trót cuộc sống Chúa Giêsu là một sự phục vụ Thiên Chúa, chứ không phải phụng sự Satan. ‘Ngươi phải thờ phượng một mình Thiên Chúa’. Kẻ nào thờ lạy bất cứ cái gì khác phải kể là đã phản bội Thiên Chúa.

Cám dỗ thứ ba nói đến việc lạm dụng phép lạ với mục đích thoả mãn tính hiếu kỳ.

Satan đưa Chúa Giêsu, trong Thần trí, lên chóp đỉnh đền thờ. ‘Nếu Ngài là Con Thiên Chúa, thì hãy gieo mình xuống’. Chú quỷ còn trưng dẫn Kinh Thánh nữa: ‘Vì Người đã truyền cho các thiên thần gìn giữ ông; và các vị đó sẽ giơ tay nâng đỡ ông khỏi vấp chân vào đá’.

Chúa Giêsu đã khởi đầu cuộc sống công khai của mình trong đơn sơ và ẩn mặt, vì Ngài đã xen lẫn vào đám dân chúng, và những người tội lỗi bên bờ sông Giođan. Giờ đây, cám dỗ có ý muốn làm cho mọi chuyện xảy ra ngược lại: Ngài sẽ làm một phép lạ từ trời trước mặt quần chúng, tỏ ra mình đặc biệt phi thường. Dân chúng đang khát khao được nhìn, được thấy. Họ muốn thấy Ngài xuất hiện trên chín tầng mây chứ không phải như một người trong họ, như bao nhiêu người khác.

Trong lãnh vực tôn giáo, phép lạ vẫn luôn mang theo một sự lôi kéo mới mẻ. Người ta từ chối không muốn phụng sự Thiên Chúa trong những khó khăn của cuộc sống thường nhật và không muốn theo Thánh ý Người trong cuộc sống bình thường. Họ muốn có những chuyện lạ lùng bên ngoài, bên trong cũng được. Nhất là cảm nghiệm trong việc cầu nguyện thần bí.

Những chuyện Đức Mẹ hiện ra. Vị này vị nọ được in năm dấu Thánh, có sức lôi kéo họ đi hành hương bất chấp xa xôi vất vả và họ coi là có giá trị hơn là chấp nhận Lời Chúa và Thánh ý Người bằng niềm tin cùng với tấm lòng đơn sơ chân thành. Thánh ý mà Chúa tỏ bày qua những hy sinh trong chức nghiệp bổn phận trong gia đình, những thánh giá hằng ngày mà ít ai để ý, cũng chẳng ai tỏ vẻ khâm phục.

Chúa Giêsu không coi rẻ phép lạ đâu. Chính Ngài sẽ thực hiện những phép lạ, nhưng không phải để thoả mãn những thèm khát của đại chúng hoặc để cho tôn giáo có tính chất ngoại lệ đặc biệt, một chỉ để vâng phục Thánh ý Thiên Chúa, Cha của Ngài trên trời, và do đó chứng mình rằng mình nhận lãnh sứ vụ từ nơi Chúa Cha. Tất cả những gì ngoài mục đích đó đều được coi là thử thách Cha Ngài, là có ý bắt Thiên Chúa làm những phép lạ không cần thiết, cũng không theo lệnh, chẳng theo ý của Người.

Vì đó, Chúa Giêsu trả lời: ‘Ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa của ngươi’.

Đó là cám dỗ chống lại Thiên Chúa cao trọng, chống lại Thần trí, ý muốn và quyền năng của Người. Chúa Giêsu lướt thắng Satan nhờ Thiên Chúa và phá tan mưu chước bằng cách chạy đến Thiên Chúa. Cũng thế, con người không thể đứng vững trước những cơn thử thách nhờ vào sức riêng của mình được. Đứng giữa Thiên Chúa và ma quỷ, con người chỉ có thể vượt thắng được ma quỷ nhờ sự trợ lực của Thiên Chúa. Không thể có chuyện trung lập hay lẩn tránh. Người ta chỉ có thể xa lánh Satan khi quay hướng về Thiên Chúa, làm như vậy thì người ta cũng xa tránh được mưu chước cám dỗ của Satan.

Bây giờ đây, thời gian chuẩn bị cho cuộc đời công khai của Chúa Giêsu đã chấm dứt. Được Thiên Chúa uỷ phái, nhưng Ngài lại ở giữa loài người. Sinh bởi Thiên Chúa, tuy nhiên cũng là con loài người, Ngài được đầy tràn Thần khí Thiên Chúa và sẽ chiến đấu với Thần trí Satan. Thánh ý Thiên Chúa cũng là lề luật của Ngài, nước Thiên Chúa là bổn phận của Ngài, tất cả những gì thuộc về ma quỷ là thù địch của Ngài. Ngài sẽ xây dựng nước Thiên Chúa và sẽ huỷ diệt vương quốc của Satan.

Sau phần mở đầu uy hùng và bi tráng này, thái độ mâu thuẫn giữa sức lực trên cao và quyền năng dưới thế sắp bắt đầu công cuộc hành động của Ngài trên dân chúng.

 

55.Phương cách ma quỉ dùng để cám dỗ ta - JKN

Câu hỏi gợi ý:

1. Khi câu cá, để câu được nhiều cá, ta phải dùng những thứ mồi thật ngon, những thứ mà cá ưa thích nhất. Để cám dỗ ta một cách hữu hiệu, ma quỉ dùng những loại mồi nào? Có phải là chính những nhu cầu cấp thiết nhất của ta, những điều ta ham muốn nhất không?

2. Khi bị cám dỗ ta thường phải lựa chọn giữa điều tốt và điều xấu, hay giữa điều thật tốt và điều ít tốt hơn?

3. Bạn có nghĩ rằng bị cám dỗ là một dịp tốt để ta chứng tỏ và củng cố tình yêu của ta đối với Thiên Chúa và tha nhân không?

Suy tư gợi ý:

1. Ma quỉ dùng chính những nhu cầu cấp thiết nhất của ta để cám dỗ ta

Đức Giêsu là con người, nên có những nhu cầu tự nhiên về tâm linh, tâm lý và thể lý y như mọi người. Thoả mãn những nhu cầu tự nhiên, tự bản chất, là điều chính đáng, vì chính Thiên Chúa đã dựng nên con người có những nhu cầu tự nhiên đó. Chẳng hạn, về thể chất, ăn khi đói, uống khi khát là điều chính đáng. Về tâm lý, mong được mọi người yêu thương, kính phục cũng là điều chính đáng. Nhưng có những trường hợp thoả mãn những nhu cầu tự nhiên ấy lại trở thành tội lỗi, sai trái, hay ít nhất là làm ta bớt hoàn hảo, kém giá trị. Đó là khi để thoả mãn những nhu cầu tự nhiên ấy, người ta phải lỗi một bổn phận quan trọng hơn, hoặc phải làm một điều trái đạo, đi ngược với lương tâm hay những nguyên tắc đạo đức…

Ma quỷ thường dùng những nhu cầu chính đáng nhất của con người để cám dỗ họ, đưa họ vào con đường tội lỗi. Thật vậy, biết bao người đã vì miếng ăn, vì những nhu cầu rất chính đáng về vật chất hay tinh thần, mà phải bán rẻ lương tâm, chấp nhận làm những điều sai trái hay tội lỗi.

Khi Đức Giêsu đã nhịn đói nhiều ngày, giả như Ngài có làm phép lạ để biến đá thành bánh mà ăn thì tự bản thân việc ấy chẳng có gì là xấu hay sai trái, mà còn là một việc chính đáng nữa. Vì con người có bổn phận phải lo cho sức khoẻ hay bảo vệ mạng sống mình. Nhưng nếu Ngài đã quyết định ăn lại vào một thời điểm nào đó, nhưng chỉ vì đói mà Ngài lại chiều theo cơn cám dỗ để ăn sớm hơn, thì Ngài đã lỗi với chính quyết định của mình. Nếu làm thế, Ngài tỏ ra thiếu tự chủ và chưa phải là người hoàn hảo. Nhưng trong thực tế, Ngài đã không chiều theo cơn cám dỗ.

2. Giữa hai điều tốt, ma quỉ cám dỗ ta chọn điều ít tốt hơn

Nếu phải lựa chọn giữa một điều tốt và một điều xấu, thì sự lựa chọn tương đối dễ dàng, vì sự việc quá rõ ràng. Khi ta mới bắt đầu bước vào đời sống tu thân, ta thường phải lựa chọn kiểu này. Nhưng khi đã tiến triển trên con đường tu thân, nhiều khi ma quỷ cám dỗ ta một cách rất tế nhị. Nó khiến ta phải chọn lựa một trong hai điều tốt, và ta phải cân nhắc để làm điều tốt hơn, có giá trị lớn hơn. Chính cách lựa chọn này chứng tỏ ta yêu mến Thiên Chúa, quí trọng sự thiện tới mức nào. Nếu ta chiều theo cơn cám dỗ chọn cái ít giá trị hơn, cái ít tốt hơn, điều đó chứng tỏ ta thiếu quảng đại và còn nhiều ích kỷ.

Chẳng hạn, có những trường hợp ta phải chọn lựa giữa sự an toàn của bản thân ta với sự an toàn của cả gia đình. Giữa sự tồn tại và phát triển của Giáo Hội ta với sự tồn tại và phát triển của cả đất nước. Giữa hạnh phúc của gia đình ta với hạnh phúc của cả xã hội. Giữa chất lượng với số lượng. Giữa sự sự tốt đẹp có thực bên trong và hình thức giả dối bên ngoài. Giữa ý muốn tốt lành của ta với ý muốn của Thiên Chúa. Giữa việc của Thiên Chúa với chính Thiên Chúa… Tất cả những đối tượng phải lựa chọn đều là điều tốt, nhưng nhiều khi ta không thể chọn cả hai, mà chỉ có thể chọn một trong hai. Chỉ khi ấy, cách lựa chọn của ta mới chứng minh được ta quí trọng cái nào hơn, và ta sẵn sàng hy sinh cái nào cho cái nào. Trước sự lựa chọn này, ta thường bị cám dỗ đặt nặng cái riêng hơn cái chung, bản thân ta hơn cả gia đình, gia đình ta hơn cả xã hội, Giáo Hội ta hơn cả thế giới, cái bên ngoài hơn cái bên trong, số lượng hơn chất lượng, ý riêng ta hơn ý Thiên Chúa…

Rất nhiều khi sự lựa chọn sai lầm của ta trở thành một tội ác. Chẳng hạn có nhiều người đã trở thành phản quốc chỉ vì thương gia đình mình hơn thương cả quốc gia, nên đã hy sinh quyền lợi của cả quốc gia cho quyền lợi của gia đình mình. Có những chức sắc tôn giáo đặt nặng sự phát triển của các giáo hữu trong địa hạt mình hơn cả sự tồn tại và phát triển của cả đất nước. Có những vị lãnh đạo quốc gia coi sự phát triển của đất nước mình trọng hơn sự an nguy của cả thế giới…

3. Ma quỷ cám dỗ ta chấp nhận điều xấu để thực hiện điều tốt

Cám dỗ thứ hai của Đức Giêsu là cám dỗ về quyền lực và vinh hoa phú quý. Quyền lực tự bản thân nó là một điều tốt, thậm chí rất cần thiết để phục vụ tha nhân một cách hữu hiệu và qui mô. Tuy nhiên, quyền lực vẫn là con dao hai lưỡi, nó cũng có thể khiến ta hại tha nhân một cách hữu hiệu và trầm trọng hơn. Vinh hoa phú quý tự bản thân cũng là những điều tốt, đáng ao ước, vì nó làm cho đời sống con người hạnh phúc hơn, sống xứng với phẩm giá con người hơn. Thánh Kinh vẫn coi sự giàu sang phú quý là những ơn lành Chúa ban để ân thưởng những người tốt lành (x. Đnl 8,18; 1V 3,13; 2Sb 1,12). Nhưng vinh hoa phú quí có thể làm ta mờ mắt, khiến ta chấp nhận tội ác để đạt nó cho bằng được.

Nếu người ta đạt được quyền lực hay vinh hoa phú quý một cách chính đáng do tài năng và đức độ của mình, thì quyền lực hay vinh hoa phú quý ấy quả là điều tốt lành rất đáng mong ước. Nhưng chính vì nhiều người mong ước nó, nên ma quỷ đã dùng nó làm bẫy để giết linh hồn những ai quá ham nó.

Khi ma quỷ cám dỗ Đức Giêsu lần thứ hai, nó hứa sẽ ban cho Ngài quyền lực và vinh hoa phú quý, với điều kiện là phải bái lạy, tùng phục nó. Ma quỷ vẫn dùng chiến thuật này đối với những kẻ giầu tham vọng, muốn nắm giữ quyền lực và ham sống giàu sang phú quý, ở ngoài đời cũng như trong Giáo Hội. Nhiều người sẵn sàng bán lương tâm của mình để có địa vị cao sang ngoài xã hội hay trong Giáo Hội. Trong những chế độ độc tài, nhiều chức sắc tôn giáo đã đồng ý thực hiện một yêu cầu nào đó của nhà cầm quyền, bất chấp điều đó đi ngược lại lương tâm mình, để được họ ban cho những điều kiện thăng tiến bản thân, hầu dễ dàng ngoi lên những địa vị cao trong tôn giáo mình. Có khi điều kiện ấy chỉ là chấp nhận im lặng, làm ngơ, bỏ qua, không lên tiếng, không phản ứng gì để kẻ có quyền có thể tự do thao túng, làm hại công ích hay đi ngược lại quyền lợi người dân. Như vậy, rất nhiều khi ma quỷ dùng những khát vọng chính đáng của con người để cám dỗ con người.

4. Ma quỷ cám dỗ ta tập trung vào «cái tôi» của mình

Lần cám dỗ thứ nhất và thứ ba, ma quỷ nói với Đức Giêsu: «Nếu ông là Con Thiên Chúa… thì…». Ma quỉ muốn lợi dụng nhu cầu thể hiện hay xác định bản thân mình (affirmation de soi), nhu cầu biểu lộ «cái tôi» của mình để cám dỗ con người. Đây là nhu cầu rất tự nhiên, tốt đẹp và cần thiết để con người vui sống và có hứng thú thăng tiến bản thân, đồng thời làm cho cuộc đời mình có ý nghĩa. Nhưng khi vượt quá giới hạn hợp lý, con người trở thành khoe khoang, kiêu căng, tự mãn, đáng ghét, do muốn đưa «cái tôi» của mình lên và hạ thấp «cái tôi» của người khác xuống. Con người đã từng gây bao tội ác, bao phức tạp, bao đau khổ cho mình và cho người chính vì sa chước cám dỗ về nhu cầu xác định «cái tôi» này. Như vậy, ma quỷ dùng chính nhu cầu tâm lý quan trọng nhất của con người để cám dỗ con người chỉ tập trung vào chính mình hầu xa rời Thiên Chúa và tha nhân.

Để câu một con cá, để nhử một con thú vào bẫy, ta phải chọn mồi đúng với nhu cầu và sở thích của con vật mà ta muốn bẫy. Cũng vậy, để làm ta sa bẫy, ma quỉ cũng dùng chính những gì ta cần, ta ham muốn, thường là những gì rất tốt đẹp, rất có giá trị. Vì thế, chúng ta cần phải cảnh giác với chính những nhu cầu, sở thích của mình, nhất là những tham vọng hay những gì mà ta mong muốn hay ưa thích nhất. Khi ta đặt nặng những nhu cầu, sở thích hay tham vọng của ta hơn thánh ý của Thiên Chúa, hơn những chuẩn mực đạo đức, là ma quỉ sẽ dùng chính những thứ đó để dẫn ta xa rời Thiên Chúa, và dần dà đưa ta vào con đường tội lỗi. Vậy, hãy tỉnh thức và đề phòng!

CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, khi ma quỷ cám dỗ, nó cũng dùng chính lời Kinh Thánh để làm con lầm tưởng điều nó muốn con làm là điều tốt, là hợp với thánh ý của Cha. Nó luôn luôn dùng điều tốt để nhử con, và dùng những cách nguỵ biện để giải thích lời của Cha, hầu đưa con vào bẫy của nó. Xin giúp con khôn ngoan, tỉnh thức và thêm sức mạnh cho con khi bị cám dỗ. Nhưng cũng cho con nhìn thấy khía cạnh tích cực của cám dỗ. Chính Cha cho phép ma quỉ cám dỗ con trong mức độ con có thể chiến thắng, để con có dịp chứng tỏ và củng cố tình yêu của con đối với Cha và đối với tha nhân

 

56.Satan

Qua báo chí cũng như qua những câu chuyện thường ngày, chúng ta thấy xã hội loài người đầy dẫy những tội ác và bất công, nào là tham nhũng hối lộ, nào là cướp của giết người, nào là cao bồi du đãng, nào là rượu chè cờ bạc, nào là xì ke ma tuý, nào là ly dị phá thai…

Nếu hỏi tại sao lại có tình trạng bi đát ấy, người ta sẽ không ngần ngại đưa ra những lý do về xã hội, về kinh tế, về giáo dục…Tuy nhiên, có người lại bảo đó là kết quả những việc làm của ma quỷ.

Nghe qua câu trả lời này chúng ta mỉm cười, vì ma quỉ hiện giờ là một cái gì xa lạ đối với não trạng và sự suy tư của con người thời nay. Vậy thì ma quỉ là như thế nào?

Nói tới ma quỉ hay Satan chúng ta liên tưởng tới những hình vẽ, những bức tượng thời Trung cổ, vừa có sừng lại vừa có đuôi, vừa đen đủi lại vừa xấu xa, luôn ám hại chúng ta. Nó có thể dùng một chiếc đũa thần làm cho chúng ta trở nên xinh đẹp, hay biến chúng ta trở thành một nhà triệu phú, miễn là chúng ta bán linh hồn cho nó, miễn là chúng ta thờ lạy nó.

Đối với chúng ta ngày nay, những hình ảnh đó không còn thích hợp nữa. Ma quỉ dần dần mất đi vai trò và sự quan trọng trong cuộc sống. Phải chăng đó cũng là điều nó mong muốn? Chính trong sự lãng quên này mà nó ra tay hành động, làm đảo lộn trật tự và bậc thang giá trị.

Người xưa người ta thường khuyên nhủ:

- Ai không để tâm tới Thiên Chúa, thì ít nữa đừng làm lợi cho ma quỉ.

Thế nhưng, con người thời nay đã thay đổi câu nói trên:

- Ai không để tâm tới ma quỉ thì ít nữa đừng làm lợi cho Thiên Chúa.

Trong Phúc âm thì khác, Chúa Giêsu đã đặt nặng vấn đề ma quỉ, Ngài gọi nó là chủ của trần gian. Hơn thế nữa, qua đoạn Tin Mừng hôm nay, mặc dù không thể sa ngã, nhưng Ngài đã để cho ma quỉ cám dỗ, nhờ đó Ngài chia sẻ thân phận yếu đưới với con người, và vạch trần chiến thuật tinh vi của ma quỷ.

Cám dỗ thứ nhất, đó là nhu cầu vật chất. Ma quỉ lợi dụng cái đói tự nhiên để cám dỗ Chúa, bởi vì bụng đói thì đầu gối phải bò, có thực mới vực được đạo…Nó cũng hứa “cơm áo gạo tiền” cùng với những tiện nghi vật chất cho chúng ta, để rồi chúng ta quên mất lý tưởng theo đuổi và chối bỏ đức tin của mình.

Cám dỗ thứ hai, đó là lòng thèm muốn vinh quang. Nhiều người dễ dàng rơi vào chiếc bẫy của nó. Vì một chút địa vị, vì một chút quyền bính mà người ta sẽ dễ dàng bán Chúa như Giuđa và chối Chúa như Phêrô,

Cám dỗ thứ ba, đó là tham vọng thống trị. Đối với nhiều người thời nay thì tiền bạc và chức quyền vẫn là những cám dỗ thường xuyên, họ có thể đánh đổi tất cả miễn sao được thoả mãn những ước vọng kể trên.

Còn một điều nữa chúng ta cũng cần phải lưu ý: Ma quỉ thời nay không còn mặc lấy một bộ dạng xấu xa như người ta vốn thường tưởng tượng vào thời Trung cổ. Nhưng có thể là một nhân vật tầm vóc, với một bộ áo quần sang trọng nhưng lại chủ trương một lập trường, một quan điểm thật nguy hại, gây chia rẽ và đổ vỡ.

Có thể là những tác phẩm đồ sộ được in ấn một cách mỹ thuật và đẹp mắt nhưng lại chất chứa những điều khả dĩ làm lung lạc đức tin và hoen ố tâm hồn.

Bổn phận của chúng ta là phải vạch trần bộ mặt của ma quỷ. Bởi vì ma quỉ đang ở giữa chúng ta, ẩn núp dưới những chiêu bài chính trị, dưới những tờ bích chương, dưới những hình ảnh quảng cáo, dưới những chương trình truyền thanh truyền hình gây độc hại cho tâm hồn.

Vì thế, hãy tin tưởng vào Chúa và hãy tỉnh thức để xa tránh những mưu chước của ma quỷ, nhờ đó mà chúng ta mới có thể bảo vệ vẻ trong trắng của tâm hồn.

 

57.Nhận biết

Lần kia, một vị thầy ước muốn được thoáng nhìn thấy tâm hồn của con người và trắc nghiệm những nhận định của họ về chính bản thân mình. Ông mời ba người đi qua đường vào nhà ông. Quay sang người đầu tiên, ông nói “Giả thử anh nhìn thấy một cái túi đựng đầy những đồng tiền vàng, thì anh sẽ làm gì với cái túi đó?”

Người đàn ông trả lời: “Tôi sẽ trả cái túi đó ngay cho người chủ của nó, tất nhiên là tôi phải biết được ai là chủ nhân”.

Vị thầy kêu lên: “Thật là điên rồ?”. Thế rồi ông đặt cùng một câu hỏi cho người thứ hai.

Người đó đáp “Tôi sẽ không trả lại cái túi đó cho người chủ của nó, mà bỏ ngay vào túi của tôi. Tôi không quá ngu xuẩn đến nỗi để mặc cho thứ của cải từ trời rơi xuống đó trượt khỏi tay tôi như vậy đâu “.

Vị thầy kêu lên: “Đồ vô loại!”. Thế rồi ông đặt cùng một câu hỏi cho người thứ ba.

Người đó đáp “Thưa thầy, làm sao tôi có thể biết được là tôi sẽ làm gì trong trường hợp này? Liệu tôi có khuất phục được khuynh hướng xấu xa chăng? Hoặc sự dữ sẽ nhanh chóng chế ngự tôi, và khiến tôi cứ lấy đi thứ tài sản thuộc về người khác? Tôi không biết nữa. Nhưng nếu có ơn Chúa ban sức mạnh cho tôi chống lại khuynh hướng xấu, thì tôi sẽ trả số tiền đó lại cho người chủ của nó”. Vị thầy kêu lên: “Những lời nói của anh thật là hay. Quả thật anh là một con người khôn ngoan”.

Vị thầy cho rằng người đàn ông đầu tiên là điên rồ. Tại sao? Bởi vì anh ta hoàn toàn thiếu sự nhận biết bản thân mình. Anh ta dám cho rằng mình có đủ sức mạnh, để kháng cự lại chước cám dỗ giữ lại món tiền. Không ai biết chắc chắn rằng mình không thể sa ngã được. Người ta không sa ngã bởi vì yếu đuối, nhưng lại sa ngã là do họ nghĩ rằng mình mạnh mẽ.

Vị thầy gọi người đàn ông thứ hai là hạng vô loại, bởi vì anh ta có ý định giữ lại tài sản không phải thuộc về mình, mà lương tâm không hề day dứt chút nào. Đối với một con người như vậy, chước cám dỗ là một cơ hội để làm cho mình giàu có lên, bằng tài sản của người khác.

Vị thầy khen ngợi người đàn ông thứ ba là một con người vừa tốt bụng, vừa khôn ngoan. Đó là vì anh nhận biết rằng mình yếu đuối giống như tất cả mọi người khác. Anh hy vọng rằng khi đương đầu với chước cám dỗ giữ lại số tiền, thì anh sẽ có sức mạnh để làm được điều đúng đắn. Nhưng anh biết rằng để làm được như vậy, anh cần phải có ơn Chúa giúp, và anh chuẩn bị để tìm kiếm sự giúp đỡ đó.

Tất cả chúng ta đều yếu đuối và dễ sa ngã. Đây có thể là một sự thật gây bối rối, nhưng trong khi liều lĩnh, chúng ta lại không biết đến điều này. Vấn đề lớn trong thời đại của chúng ta là chúng ta đã thất bại trong việc nhận biết chính mình, trong việc nhận ra sự dữ và đối phó với sự dữ ở ngay trong con người mình. Tuy nhiên, khi nhận biết và chấp nhận sự thật thấp hèn này, thì chúng ta có được một niềm an ủi và sự tự do.

Chúng ta phải đấu tranh chống lại sự dữ nơi những người khác và nơi xã hội. Nhưng cuộc đấu tranh gay go nhất là chống lại sự dữ phát xuất từ ngay bên trong con người của chúng ta. Bản chất của chúng ta là có những xung đột nội tâm cứ thúc giục chúng ta, làm cho chúng ta luôn luôn có thể thực hiện được điều tốt lành, nhưng điều đó không bao giờ là dễ dàng cả. Chiến thắng gay go nhất chính là chiến thắng chính bản thân mình.

Chước cám dỗ của Đức Giêsu không phải là đóng kịch, mà là sự thật. Những cám dỗ của Đức Giêsu là những chước cám dỗ của các Kitô hữu thuộc tất cả mọi thời đại: sống chỉ vì vật chất; tìm kiếm vinh quang cho bản thân mình, hơn là vinh quang cho Thiên Chúa; và từ bỏ việc thờ phượng Thiên Chúa, để tôn thờ quyền lực và sự nổi tiếng theo thế gian.

Chiến thắng của Đức Giêsu vượt lên trên Satan không phải là chiến thắng một lần cho tất cả. Người đã chiến thắng một cuộc chiến đấu, chứ không phải là một cuộc chiến tranh. Còn có những lần tấn công khác mà chúng ta cần phải cự tuyệt. Một số người cho rằng mình sẽ đạt được một cấp độ, khi họ vượt ra ngoài chước cám dỗ. Đức Giêsu không bao giờ đạt được một cấp độ, các thánh cũng vậy. Thiên Chúa ở với chúng ta trong những cuộc đấu tranh của chúng ta, giúp đỡ chúng ta chế ngự nó.

Thánh Augustinô nói: “Chính thông qua chước cám dỗ, mà chúng ta nhận biết được bản thân mình. Chúng ta không thể chiến thắng đạt được triều thiên của mình, trừ phi chúng ta vượt qua được chước cám dỗ đó, và chúng ta không thể vượt qua được, trừ phi chúng ta đi vào cuộc chiến đấu, và không có cuộc chiến đấu, trừ phi chúng ta có một kẻ thù và những chước cám dỗ mà kẻ thù đó mang lại.

 

58.Cám d

Một số người cho rằng thật khó mà tin rằng Đức Giêsu có thể bị cám dỗ. Mặc dù có bản chất thần thánh, nhưng Người cũng có một bản chất của con người. Ngoài ra, tự thân chước cám dỗ không phải là một tội lỗi. Có phải ma quỷ đã thực sự hiện ra với Người không? Chúng ta không biết. Điều chính yếu là những chước cám dỗ của Người đều có thật, giống như chúng ta vậy, mặc dù quỉ sứ không hiện ra với chúng ta trong hình dạng của một con người. Nhưng những chước cám dỗ của Người chứa đựng cái gì?

Chước cám dỗ đầu tiên là biến hòn đá thành bánh. Ngoài ý nghĩa rõ rệt, chữ “bánh” có thể mang ý nghĩa là những thứ vật chất nói chung. Ma quỉ đang nói với Đức Giêsu là hãy sử dụng những quyền năng đặc biệt của Người, để mang lại cho con người tất cả những thứ vật chất mà có thể họ mong muốn. Nhưng Đức Giêsu biết rằng tự thân những thứ vật chất đó sẽ không bao giờ thoả mãn được con người. Công việc chính của Người là nuôi dưỡng tâm trí và tấm lòng con người bằng lời của Thiên Chúa. Đây là chước cám dỗ mang lại cho con người những điều họ mong muốn, hơn là những nhu cầu của họ. Chước cám dỗ chính là thoả mãn đám đông, bằng cách cho họ những gì sẽ thoả mãn các mong muốn nhất thời của họ, khi họ không biết điều gì mình thực sự cần đến.

Chúng ta có những nhu cầu và những khát vọng lớn lao hơn. Tâm hồn con người thực sự khát khao cái gì? Chắc hẳn rằng đó không phải là cơm bánh. Cơm bánh là cái mà cơ thể thèm khát. Sau phép lạ ban bánh và cá, ngày hôm sau, dân chúng trở về với mong muốn sao cho có thêm bánh nữa. Nhưng Đức Giêsu đã từ chối ban thêm bánh cho họ. Người nói “Các ngươi đừng làm việc vì của ăn không thể tồn tại được, nhưng hãy làm việc để tìm kiếm lương thực kéo dài cho đến cuộc sống đời đời”.

Đối với một vị thầy về mặt thiêng liêng, thì tinh thần chiếm vị trí ưu tiên vượt lên trên lương thực của cơ thể. Khi đặt ưu tiên cho những nhu cầu thân xác, điều đó có nghĩa là giảm giá trị con người, là đối xử với họ không hơn gì một con vật. Chúng ta cũng bị cám dỗ chỉ sống cho những thứ vật chất mà thôi. Không phải là chúng ta khước từ đời sống thiêng liêng, nhưng chúng ta bỏ qua đời sống đó.

Chước cám dỗ thứ hai là tạo dựng một vương quốc chính trị, là việc dẫn đến quyền lực hơn là tình yêu. Quyền lực tạo ra một sự thay thế dễ dàng cho công việc khó khăn mà có thể tình yêu đòi buộc. Người ta dễ dàng muốn làm chủ người khác, hơn là yêu thương họ, dễ dàng thống trị người khác, hơn là trở thành người phục vụ họ. Đức Giêsu không đến để cai trị, nhưng để phục vụ. Người không hề nại vào quyền lực thần thánh của Người, nhưng đã tự huỷ mình ra không, và trở thành người tôi tớ đầy yêu thương đối với tất cả mọi người. Chúng ta luôn luôn bị cám dỗ thay thế tình yêu bằng quyền lực.

Chước cám dỗ thứ ba cốt ở việc làm được một điều gì đó kỳ lạ (tự gieo mình xuống khỏi đền thờ), nhằm khơi gợi lòng tin – giống như một ảo thuật gia có thể khơi gợi được lòng tin, qua nghệ thuật làm một số chuyện mang tính cách quảng cáo phô trương. Ý tưởng này nghe thật hấp dẫn. Một kiểu quảng cáo như vậy sẽ làm cho mọi người đồn thổi về Người tại Giêrusalem. Nhưng lối gây giật gân lại đưa đến vinh quang cho bản thân mình, hơn là vinh quang cho Thiên Chúa. Đức Giêsu khước từ việc gieo mình này. Người không muốn tìm kiếm những kẻ ái mộ mình. Người mong muốn có những kẻ đi theo Người, nghĩa là những kẻ muốn bắt chước lối sống của Người.

Trong suốt sứ vụ của Người, Đức Giêsu đã khước từ việc ban cho dân chúng những kiểu dấu lạ, ngay cả khi người ta ép buộc Người phải làm như vậy. Những loại dấu lạ này không có ích lợi gì cả, không đòi hỏi điều gì tốt đẹp nhất nơi chúng ta, mà chỉ hạ thấp giá trị của lòng tin. Lòng tin không phải là ma thuật. Sự thánh thiện không hệ tại ở việc cố gắng ép buộc Thiên Chúa phải làm theo ý muốn của chúng ta, nhưng là nỗ lực bắt buộc chính bản thân mình phải làm theo thánh ý Thiên Chúa.

Các chước cám dỗ là đòn tấn công trên tất cả những yếu tố cơ bản đối với sứ vụ của Đức Giêsu. Vâng, Người đến để thiết lập một vương quốc, nhưng không phải là loại vương quốc mà Satan đề nghị. Và Người đã khước từ chước cám dỗ đạt được vương quốc bằng phương tiện trần thế. Cả ba chước cám dỗ cuối cùng đều qui về cùng một điều: đặt những thứ vật chất và vinh quang bản thân lên trước hết, kế đó, mới đến các điều thiêng liêng và Thiên Chúa. Nói chung, đây là những chước cám dỗ chủ yếu trong Giáo Hội của Người, và nơi mỗi người chúng ta là các thành viên trong Giáo Hội. Chúng ta phải luôn hướng mắt về Đấng đã khước từ biến những hòn đá thành bánh, tự gieo mình xuống khỏi nóc Đền thờ, và cai trị bằng quyền lực.

Kinh nghiệm này đã giúp cho Đức Giêsu tự thấu hiểu sứ vụ của Người là gì, và làm thế nào để hoàn tất sứ vụ đó. Và một khi đã biết được sứ vụ của mình là gì, thì Người quyết định hoàn toàn tận hiến cho sứ vụ đó.

Chước cám dỗ không phải là những thứ chỉ xảy ra một lần mà thôi, không bao giờ chúng kết thúc, mà có thể trở lại mỗi khi có cơ hội. Trong suốt cuộc đời của Đức Giêsu, chước cám dỗ vẫn tiếp tục xảy ra, bởi vì ma quỉ vẫn cứ tìm mọi cách để xói mòn sứ vụ của Người, mặc dù là vô hiệu. Ngay cả khi Người đã bị treo trên thánh giá, chúng ta vẫn nghe thấy tiếng vang vọng của chước cám dỗ thứ hai “Nếu ông ta là Đấng Mêsia, thì ông ta hãy xuống khỏi thánh giá, rồi chúng ta sẽ tin ông ấy”.

Tất cả những ai đang đấu tranh để sống một cuộc sống tốt đẹp, đều có thể ghi lòng tạc dạ điều này: Việc chống trả lại chước cám dỗ không hề dễ dàng đối với Đức Giêsu, cũng không dễ dàng đối với chúng ta. Nhưng nơi Đức Giêsu, chúng ta có được một người anh, Đấng biết được rằng chúng ta đang phải chiến đấu với cái gì. Người tha thứ cho chúng ta, và nâng chúng ta lên, khi chúng ta vấp ngã. Người ban cho chúng ta khả năng tuân theo Lời của Thiên Chúa, tin tưởng nơi Người và chỉ thờ phượng một mình Người mà thôi.

 

59.Cơm bánh

Con người không chỉ sống bằng cơm bánh. Cơm bánh chỉ là một trong những thức ăn chủ yếu của cuộc sống – cuộc sống của thân thể. Để nuôi dưỡng một con người, không giống như vỗ béo một con vật. Cơ thể của chúng ta cần có lương thực. Linh hồn của chúng ta cũng vậy. Linh hồn chúng ta đang khát khao lương thược nuôi dưỡng. Câu chuyện về Elvis Presley minh hoạ hùng hồn cho chân lý này.

Elvis trở nên rất giàu có. Ông ta sở hữu 8 xe hơi, 6 xe máy, 2 máy bay, 16 tivi, một toà lâu đài rộng lớn và nhiều tài khoản ngân hàng. Vượt lên trên tất cả những thứ đó, anh ta còn là thần tượng của nhiều người hâm mộ. Tuy nhiên, anh không hề hạnh phúc. Giữa tất cả sự giàu có và thành công của mình, anh ta đã phải trải qua tình trạng bất ổn về tinh thần, và thường than phiền về nỗi cô đơn, buồn chán.

Anh giãi bày tâm sự với một phóng viên “Tiền bạc gây ra nhiều chuyện nhức đầu”.

Mẹ của anh rất lo lắng cho anh. Không bao giờ bà muốn anh bị những chuyện đó. Bà chỉ đơn giản mong muốn anh trở về nhà, mua một cửa hàng bán vật dụng trong nhà, cưới vợ và có con.

Càng ngày, anh càng trở nên sợ hãi và trầm cảm. Năm lên 22 tuổi, anh nhận thấy là không còn thế giới nào để chinh phục nữa. Tình trạng bất ổn này có thể là một cơ hội. Đây là một lời nhắc nhở rõ ràng rằng “con người không chỉ sống nguyên bằng bánh”, nghĩa là chỉ sống bằng những thứ vật chất mà thôi.

Thông điệp này vang lên lớn tiếng và rõ rệt trong bài Tin Mừng hôm nay. Đây là một thông điệp quan trọng, và có lẽ thích hợp với ngày nay hơn bao giờ hết. Mặc dù chúng ta có thể nhận thấy được lẽ phải của bức thông điệp này, nhưng trên thực tế, thật không dễ dàng thực hiện. Chúng ta không chỉ sống bằng cơm bánh – ít nhất là không, nếu chúng ta mong muốn được sống dồi dào, và hoàn toàn được nuôi dưỡng với tư cách là con người và con cái của Thiên Chúa. Vậy chúng ta còn cần đến điều gì khác nữa. Chúng ta cần đến Lời Chúa.

Bạn hãy thử tưởng tượng cảnh cha mẹ nuôi dưỡng con cái của họ, mà không bao giờ nói một lời nào với con trẻ, không hề hướng dẫn, khích lệ, xác nhận, an ủi. Không bao giờ họ nói một lời để truyền đạt sự bình an và đón nhận, hoặc tình yêu thương và niềm vui. Cơ thể của con trẻ có thể được nuôi dưỡng, nhưng tâm trí và linh hồn của chúng bị trống rỗng. Chúng ta là con cái của Thiên Chúa. Chúng ta cần được nghe Lời của Người.

Nếu chỉ có cơm bánh, không phải lúc nào cũng sẽ đảm bảo được sự sống còn, ngay cả về mặt thể lý. Thi sĩ Irina Ratushikaya đã sống một thời gian trong nhà tù cộng sản ở Nga (với tư cách là tù nhân chính trị). Bà nói “Nhiều người phụ nữ có nhiều thức ăn hơn tôi, tuy nhiên, họ vẫn bị chết”. Điều gì đã giữ cho bà còn sống được? Chắc hẳn là nhờ đức tin Kitô giáo của bà.

Không phải chỉ có cơ thể con người mới đói khát. Tâm hồn và tinh thần con người cũng biết đói khát nữa. Chúng ta sẽ không được nuôi dưỡng đầy đủ, cho đến khi chúng ta thừa nhận sự đói khát của tâm hồn và tinh thần.

Đức Giêsu thách đố chúng ta hướng tới những nỗi khát khao sâu xa hơn và những nhu cầu lớn lao hơn của chúng ta. Tâm hồn thực sự khát khao điều gì? Thưa rằng tâm hồn khát khao loại lương thực không thể hư nát – Lời Chúa. Lời Chúa có sức mạnh nuôi dưỡng chúng ta. Lời Chúa nuôi dưỡng chúng ta bằng tấm bánh của cuộc sống có ý nghĩa, tấm bánh của niềm hy vọng, và vượt lên trên tất cả, đó là tấm bánh của tình yêu.

 

60.Cám d

Thánh Grêgôriô Giáo Hoàng đã viết như sau: Hết mọi ngày trong năm, lòng đạo đức của người tín hữu được diễn tả bằng nhiều hình thức khác nhau, nhưng không hình thức nào quan trọng cho bằng lễ Phục sinh. Bởi vì chính từ sự Phục sinh mà xuất phát tính cách thánh thiện của các lễ khác. Với tất cả nguồn ân sủng vũ trụ đã nhận được đều do bởi cây thập giá của Chúa. Lẽ cố nhiên đó, mừng ngày lễ Phục sinh và để tham dự vào các mầu nhiệm của Chúa, chúng ta chuẩn bị bằng 40 ngày ăn chay quả là một việc chính đáng. Không riêng gì các Giám mục, linh mục, các phó tế có nhiệm vụ thanh tẩy mình khỏi tội lỗi mà cả toàn thể Giáo Hội. Tất cả mọi người vì là đền thờ của Thiên Chúa phải được tráng lệ trong từng hòn đá huy hoàng, trong từng góc một. Hiểu như thế chúng ta mới ý thức được tính cách nghiêm cẩn và khổ hạnh trong suốt thời gian mùa chay mà chúng ta khai mạc từ thứ tư lễ tro.

Mùa chay là thời kỳ đi bộ, phải vất vả nhọc nhằn mà mục đích là hy sinh chịu khó thanh tẩy để tham dự vào chặng đường khổ nạn của Chúa Kitô. Những hy sinh khổ hạnh trong mùa chay được diễn tả trong hai bài đọc và trong bài Phúc âm của thánh lễ Chúa nhật I Mùa chay. Cuộc đi bộ, cuộc hành trình trong 40 ngày của mùa chay được ví như là cuộc hành trình gian lao đau khổ của dân Do thái trong những năm bị nô lệ bên Ai Cập, bị dân bản xứ hành hạ mạt sát tàn nhẫn.

Trong thời gian nô lệ, dân Do thái đã kêu gào Thiên Chúa nhìn lại số phận đau thương của họ. Quả thật, Chúa đã đến giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai Cập và dẫn vào một xứ sở phồn thịnh, nơi đó sữa và mật ong trôi chảy dồi dào.

Quan điểm trên đây thánh Phaolô trình bày lại theo lối văn linh động của ngài bằng quan niệm đức tin, và thực ra đức tin cũng là một lời cầu khẩn lên Thiên Chúa. Chỉ Ngài mới có quyền năng cứu thoát chúng ta khỏi vòng nô lệ tội lỗi.

Quan niệm đức tin còn tiếp diễn trong bài Phúc âm của Chúa nhật I Mùa chay được thánh Luca diễn tả: Được tràn đầy Chúa Thánh Thần, Chúa Giêsu từ sông Giocđan trở về, sau đó Chúa Thánh Thần đưa Ngài đến hoang địa, tại đây Chúa bị cám dỗ trong vòng 40 ngày, nghĩa là Chúa bị ma quỉ quấy phá sau khi đã chịu phép rửa của thánh Gioan, tức là sau khi Chúa Giêsu đã được Chúa Cha long trọng tuyên bố: “Đây là Con Ta yêu dấu”.

Satan biết rằng, Chúa Giêsu Con Thiên Chúa có quyền năng có thể thực thi những dấu chỉ lớn lao, do đó Satan đến cám dỗ Chúa hãy hành động theo uy quyền của một vị cứu thế theo nghĩa trần gian oai phong lẫm liệt. Hai lần Satan xúi giục Chúa theo danh nghĩa: “Nếu ông là Con Thiên Chúa…” Các loại cám dỗ ỷ vào uy thế Thiên Chúa này còn theo mãi cho đến ngày Chúa chịu tử nạn. Chúa đã bị treo trên thập giá rồi mà ma quỉ còn dùng miệng dân chúng để thử thách Chúa một lần sau cùng: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, là người được Thiên Chúa lựa chọn thì hãy tự cứu mình đi”.

Ma quỉ cám dỗ Chúa đi ra ngoài chương trình của Thiên Chúa Cha đã tiền định. Nó xúi giục Ngài là một vị cứu thế theo quan điểm của một người trần gian được người ta hoan hô, chứ không theo ý định của Thiên Chúa. Do đó mà Chúa Giêsu đã trả lời cho ma quỉ khi Ngài nhắc đến lời Kinh Thánh có chép rằng, hãy minh chứng cho thế giới và toàn thể nhân loại biết sở dĩ Chúa xuống trần gian là để thực thi thánh ý của Thiên Chúa Cha, và sau đó Ngài đã chiến thắng ma quỉ là Ngài đã tin vào lời của Thiên Chúa Cha.

Cơn cám dỗ của Chúa Giêsu cũng là tiêu biểu cho sự cám dỗ ngàn đời của mỗi người Kitô hữu chúng ta trên trần gian này. Ma quỉ xúi giục chúng ta chọn nếp sống tiện nghi, dễ dàng thực thi những gì theo ý muốn riêng tư của mình, chứ không phải sống theo lề luật là thực thi thánh ý của Thiên Chúa.

Trong mùa chay này, chúng ta có nhiệm vụ thanh luyện chính mình để xứng đáng được tham dự vào các mầu nhiệm của Chúa Phục sinh. Xin Chúa hướng dẫn chúng ta trong cuộc hành trình biến đổi này.

 

61.Cám d

Cách đây vài năm, ngay tại giữa thủ đô Paris của nước Pháp, xuất hiện một Đan viện dòng Trapis, một dòng tu có nếp sống khắc khổ nghiêm ngặt. Người ta không khỏi ngạc nhiên tự hỏi: Tại sao một dòng tu vốn có truyền thống rất lâu đời lại chọn những địa điểm xa cách thành thị để lập những Đan viện, nhờ đó các Đan sĩ hưởng được bầu khí thanh tịnh thoát tục, nối tiếp tinh thần của các ẩn sĩ ngày xưa trong sa mạc hoặc trong rừng vắng, nay lại hiện diện giữa chốn đô thị rực rỡ ánh sáng văn minh, sôi động nhịp sống chính trị, kinh tế và văn hoá này? Phải chăng dòng tu nay đã thay đổi đường hướng cho hợp thời, hợp hoàn cảnh?

Vị viện phụ của Đan viện nói trên đã trả lời như sau:

Dòng vẫn trung thành với truyền thống đan tu và thoát tục của mình trong việc lập một Đan viện ngay giữa chốn phồn hoa đô hội này, bởi vì tại những địa điểm ồn ào, náo nhiệt như vậy chúng tôi khám phá ra một bộ mặt mới của hoang mạc, của rừng rú, của thử thách để nêu một chứng từ, để cất lên một tiếng kêu thức tỉnh.

Nếu như ngày nay Đức Giêsu cần một hoang địa để chay tịnh, cầu nguyện và chịu thử thách, Người có lẽ không phải nhọc công đi đâu xa, nhưng có thể đến bất kỳ một trung tâm thành phố nào trong xã hội cực kỳ văn minh tiến bộ của thời đại chúng ta. Bởi lẽ theo truyền thống Thánh Kinh, hoang địa là địa điểm của thử thách, của sàng lọc, thanh luyện như dân Israel xưa phải vượt qua hoang địa trước khi được vào đất hứa.

Phải chăng xã hội hiện đại của chúng ta hôm nay lại không đầy dẫy tình chất thách đố cam go, sàng lọc và thanh luyện dữ dội như bất kỳ một hoang địa nào thời xưa. Đây là nơi chạm trán của tứ chiếng anh hùng, của đủ mọi bộ mặt, mọi tâm dạ, mọi thủ thuật, mọi mánh lới, mọi chiêu bài, mọi chủ nghĩa, mọi ý thức hệ, mọi thiên thần và mọi gã quỉ ma vương. Đây là nơi vàng thau lẫn lộn, chân tình và dối trá, trung nghĩa và dua nịnh, can trường và hèn nhát, ánh sáng và bóng tối, thánh thiện và tội lỗi, yêu thương và thù hận.

Cũng theo truyền thống Thánh Kinh, hoang địa là thế giới của thú dữ, của rắn rết, bọ cạp, là vùng đất chết nơi con người không thể sinh sống, tồn tại. Phải chăng thế giới văn minh hiện nay của chúng ta lại không đầy dẫy những loài thú ăn thịt người, những loài giống rắn hổ mang, những dòng bọ cạp hiểm độc nguỵ trang dưới bộ mặt con người xinh đẹp, sang trọng, học thức, đạo đức, nhân nghĩa? Phải chăng xã hội thừa mứa tiện nghi vật chất của chúng ta hiện nay lại không là một vùng đất chết khi không còn tình người, không còn trái tim trắc ẩn, không còn lòng nhân ái vị tha, không còn tình cảm chia sẻ đùm bọc mà chỉ toàn là lợi dụng, trao đổi, mua bán, vụ lợi, thực dụng, lạnh lùng và sơ cứng?

Phải chăng xã hội văn minh phồn hoa đô hội của chúng ta hiện nay lại không phải là một bãi tha ma khi mà mọi giá trị tinh thần, mọi truyền thống đạo đức đều bị chôn vùi dưới nấm mồ của chủ nghĩa sùng bái vật chất, chủ nghĩa thụ hưởng, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa vô thần?

Phải chăng xã hội vốn tự hào là đỉnh cao trí tuệ, với khoa học kỹ thuật hùng hậu lại không đang biến thành cõi rừng rú nơi bạo lực được cổ xuý, hận thù được cấp dưỡng, hành vi sát nhân được trả lương, tuyên dương, dù nạn nhân là những trẻ em vô tội, những bào thai chưa kịp nhìn thấy mặt cha mẹ, nơi người nghèo bị khinh miệt, người già yếu tật nguyền bị bạc đãi lãng quên, người thiểu số bị tước bỏ quyền lợi về kinh tế, chính trị?

Nếu như ngày nay Đức Giêsu bước vào hoang địa mới của xã hội loài người hiện đại để bắt đầu cuộc tịnh chay và cầu nguyện, Người có lẽ sẽ không còn gặp những thử thách quá đơn giản và kinh điển về thói mê ăn, tính háo danh và lòng tham lam của cải, thay vào đó Người có lẽ phải đối đầu với trăm ngàn tình huống, trường phái phức tạp tinh vi hơn nhiều. Đó là vấn đề miếng cơm manh áo hằng ngày giữa một thị trường kinh tế toàn cầu hoá, không có đất sống cho tôm tép, cho con sâu chú kiến, mà chỉ có hạng kình ngư cá mập, hùm beo làm mưa làm gió. Đó là nỗi cám dỗ khó chống cưỡng, muốn làm giàu cách nào dễ dãi nhất, ít vất vả nhất, nhanh chóng nhất, dù có thể là vô luân nhất, dơ bẩn nhất như buôn lậu vũ khí, ma tuý, buôn người và rửa tiền.

Có thể trong bối cảnh hoang địa đời mới này, Đức Giêsu sẽ phải dấn thân vào một cuộc chiến đấu cam go và phức tạp gấp trăm ngàn lần hơn và cũng sẽ kéo dài trăm ngàn lần hơn. Có thể Đức Giêsu sẽ phải chật vật trăm ngàn lần hơn khi đối đầu với một Satan trong một bối cảnh xã hội văn minh, kỹ thuật cao, tinh xảo cực kỳ hôm nay. Và có thể Người sẽ phải cô đơn một mình chống lại Maphia trăm ngàn lần bi đát hơn, vì không dễ tìm ra ai đó trong cõi hoang mạc rừng rú của xã hội hôm nay để đóng vai thiên thần đến động viên tiếp sức thêm cho Người.

Rồi có thể trong cuộc chiến với Satan thời đại khoa học điện tử hôm nay, Đức Giêsu sẽ không còn một giây phút rảnh rang để thở, để cầu nguyện, để thân thưa cùng Thiên Chúa Cha, để nhớ lấy một câu Kinh Thánh mà củng cố đức tin cho mình, vì ma quỉ không còn nghỉ giữa hiệp đấu để chờ đợi cuộc tấn công khác như xưa nữa, mà tranh thủ liên tục cả ngày lẫn đêm, luôn cả dịp hưu lễ.

Có thể trong cuộc chiến đấu này, cuối cùng rồi Đức Giêsu sẽ chiến thắng Satan như Người đã từng chiến thắng và sẽ mãi mãi chiến thắng, song còn những kẻ muốn thực sự theo bước Người vào cuộc chiến đó trong bối cảnh của thế giới, của xã hội hôm nay thì chiến thắng vẫn còn là một ẩn số, một thách đố. Vì thế, chúng ta cần phải giữ vững niềm tin của mình vào Chúa Kitô mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng đức tin qua kinh tin kính.

 

62.Cám d

Đoạn Tin Mừng kể việc Chúa Giêsu bị cám dỗ và chiến thắng Satan. Giáo Hội cho chúng ta nghe đọc đoạn Tin Mừng này để mời gọi chúng ta nhìn ngắm hình ảnh Chúa Giêsu như kiểu mẫu và bảo đảm cho chúng ta trong cuộc chiến đấu với Satan và những cám dỗ của nó.

Chiến thuật hay phương thế ma quỉ sử dụng để lôi kéo, xúi giục, thúc đẩy người ta phạm tội là cám dỗ. Chúng không kiêng nể ai hay không buông tha ai, vì thế không ai thoát khỏi cám dỗ của chúng. Bản chất của cơn cám dỗ là sự quyến rũ. Bất cứ cơn cám dỗ nào cũng đều mang một bộ mặt quyến rũ giả tạo, một sự hứa hẹn hão huyền, và một vị ngọt ngào lừa phỉnh. Thế nhưng những tính cách giả tạo, hão huyền và lừa phỉnh đã được che đậy tài tình bởi bàn tay bậc thầy là ma quỉ và cơn cám dỗ vẫn thành công như lần đầu nó đã thành công.

Thực vậy, ma quỷ đã thành công khi cám dỗ ông bà nguyên tổ bằng trái cấm. Trái cấm bao gồm nhiều vẻ quyến rũ: cung cấp cho thị giác một hình ảnh mê hoặc, tuyệt diệu, cung cấp cho thính giác những lời bảo đảm, thoả mãn, cung cấp cho khứu giác mùi vị mời mọc, quyến rũ, cung cấp cho xúc giác sự êm dịu, thích thú, nhất là khi đã biết và có trái cấm trong tay, rồi khi đưa lên ăn, lại có thêm sự tham gia và đồng tình của vị giác. Đến lúc này thì cái bẫy sập xuống, bộ mặt thật của cơn cám dỗ lộ ra nguyên hình và con người đã mở mắt nhìn ra sự thật.

Điều đáng buồn là qua cái nhìn ấy, con người nhận ra chính mình lại là nạn nhân tự nguyện, mình đã ngã vì chính sự yếu đuối cũng như sự dại dột của mình. Ông Richard Wumbrand đã diễn tả điều này rất đúng bằng hình ảnh như sau: chúng ta như những cô gái vừa đến độ xuân thì. Người yêu cô thật lòng, muốn chia sẻ cuộc đời với cô và kẻ sở khanh lừa phỉnh, chỉ muốn qua đêm để hại đời cô, cùng dùng chung một ngôn ngữ, cùng chia chung một động từ, đó là “Anh yêu em”. Nếu chỉ để ý đến những cái hào nhoáng bên ngoài hay những lời nói ngon ngọt và không có sự tỉnh táo cần thiết để phân biệt thì chắc chắn thảm hoạ sẽ xảy đến.

Đàng khác, bên cạnh sự lừa đảo tinh vi của cơn cám dỗ và sự khôn ngoan quỉ quyệt của kẻ đứng sau cơn cám dỗ ấy, phải kể đến sự áo tưởng và vụng dại của con người. Chơi dao có ngày đứt tay; đùa với lửa có ngày gây nên hoả hoạn. Con người biết đó là những bài học và đã có biết bao nhiêu thí dụ “xương máu” để chứng minh. Thế nhưng vẫn còn không ít người sa lầy ngay trên bánh xe của người đi trước. Biết rõ đó là trái cấm, biết rõ đó là ma tuý, biết rõ đó là cơn cám dỗ, thế mà vẫn liều lĩnh mon men đến gần, hay chần chừ vì ảo tưởng: không sao đâu. Vì thế các nhà đạo đức cho rằng: tránh xa những dịp tội là tốt nhất, và nếu có phải giáp mặt thì không nên trao đổi hay thoả hiệp gì cả.

Ma quỉ biết rất rõ những gì chúng ta cần, chúng ta thích, chúng ta ham mê, nếu không tỉnh táo, chắc chắn chúng ta sẽ bị sa bẫy cám dỗ của chúng vì chính những nhu cầu và sở thích của mình. Tương tự như khi chúng ta muốn bẫy một con vật, chúng ta phải tìm hiểu xem con vật cần gì, muốn gì, thích gì, tìm gì. Sau đó chúng ta đặt thứ mồi đó vào bẫy, và con vật nào dại dột sẽ sa bẫy. Nếu chúng ta không biết con vật cần gì, thích gì thì chúng ta sẽ không thể bẫy được con vật ấy vì đã để vào bẫy những thứ không thích hợp. Chẳng hạn như khi câu cá, nếu chúng ta không biết rằng cá thích ăn giun hay trùng mà cứ để vào lưỡi câu thịt bò hay thức ăn khác thì rất ít khi câu được cá. Vì vậy, để đề phòng cám dỗ, chúng ta nên đề phòng chính những nhu cầu và ham muốn của chúng ta. Những người nào giảm thiểu nhu cầu của mình tới mức tối đa và tập luyện không ham muốn ước vọng nhu cầu gì cả thì ít khi bị cám dỗ, và nếu có bị cám dỗ thì cũng thắng được dễ dàng.

Chúng ta thấy ma quỷ đã lợi dụng ngay nhu cầu căn bản nhất của con người là ăn uống để cám dỗ Chúa Giêsu. Ngài nhịn ăn đã 40 ngày, nên nhu cầu ăn uống lúc đó thật là khẩn thiết và chính đáng. Nhưng Chúa đã làm chủ được nhu cầu thể xác và không sa chước cám dỗ. Tiếp đến, ma quỉ nhằm vào những gì mà tất cả mọi người đều ham muốn, thậm chí đam mê, đó là sự giàu sang, quyền bính, địa vị, danh vọng. Hễ đã là người thì ai cũng thích cái tôi của mình được đề cao, được tôn vinh, được triển nở, được thăng tiến. Rất nhiều người đã nhượng bộ ma quỉ để có một đời sống dễ dãi, giàu có, sang trọng, uy quyền. Nhưng Chúa Giêsu đã không để những ham muốn đó làm chủ, nên đã không sa bẫy của chúng. Rồi ma quỉ lại nhằm vào khuynh hướng thích khoe khoang, nhất là sự khoe khoang đó lại không đúng sự thật. Nhiều khi chỉ cần một câu nói thách thức hay chạm tự ái là người ta làm theo thách thức đó. Một số bạn trẻ rơi vào xì ke, ma tuý cũng chỉ vì một lời thách thức hay khiêu khích gì đó. Đối với Chúa Giêsu, Ngài đã làm chủ tính khoe khoang. Ngài không bị mắc bẫy.

Có thể nói ai trong chúng ta cũng đều có kinh nghiệm về việc cám dỗ. Chúng ta đã bị cám dỗ nhiều lần. Có lần chúng ta đã vượt qua được, và nhiều lần chúng ta đã bị vấp ngã. Đó chính là thân phận của con người yếu hèn và bất toàn. Vì vậy điều quan trọng là chúng ta phải luôn đề cao cảnh giác trước những quyến rũ, hấp dẫn của cám dỗ. Không nên quá tự tin vào khả năng của mình mà không cầu nguyện cùng Chúa. Mỗi khi bị cám dỗ chúng ta càng phải cầu nguyện nhiều để xin ơn Chúa trợ giúp. Và nếu chẳng may vấp ngã, chúng ta phải năn năn sám hối ngay.

 

63.Tỉnh thức và cầu nguyện

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

Phụng vụ Giáo hội đã bước vào Mùa Chay Thánh. Mùa Chay trải dài 40 ngày.

Thời gian này nhắc lại 40 năm của dân Israel trong sa mạc trước khi đến Đất Hứa, 40 ngày ngôn sứ Êlia ở trên núi Horeb, 40 ngày Chúa Giêsu ăn chay cầu nguyện trong hoang địa. Thời gian 40 ngày là con số tượng trưng nói lên thời gian thử thách và thanh luyện. Trên con đường về Nước Trời, chúng ta trải qua những thử thách và thanh luyện. Thời gian 40 ngày chay tịnh thật quí giá để mỗi người nhìn lại bản thân, đánh giá lại chính mình để sám hối canh tân.

Hàng năm, Phúc Âm Chúa Nhật I Mùa Chay đều nói về cám dỗ. Chúa Giêsu vào hoang địa. Sau bốn mươi đêm ngày ăn chay và cầu nguyện, Satan xuất hiện và cám dỗ. Chúa Giêsu đã chiến thắng Satan.

Làm người ở đời là chấp nhận thân phận chịu cám dỗ. Thánh Kinh đã ghi nhận, từ buổi đầu sáng tạo đã có cám dỗ. Thụ tạo đầu tiên trong hàng các thiên thần đối diện với cám dỗ là Lucifer, một thiên thần sáng láng đã không vượt qua được cơn cám dỗ, và đã trở thành Satan tăm tối. Tiếp đến, thụ tạo đầu tiên trong con người là Adong và Evà cũng đã nếm mùi cám dỗ. Nguyên Tổ đã gục ngã trước cám dỗ cho nên đau khổ sự chết đã tràn vào thế gian.Trong hành trình về Đất Hứa, dân Israel đi trong sa mạc và đã gặp nhiều cám dỗ: cám dỗ trở lại Ai cập để có bánh ăn; cám dỗ thờ tượng con bê vàng; cám dỗ thử thách Thiên Chúa. Vua Đavit sa ngã trước cám dỗ sắc dục nên đã phạm tội cướp vợ của Uria và đã giết chết người anh em này. Giuđa Iscariốt chỉ vì tham tiền nên đã phản bội Thầy và bán Thầy giá 30 đồng bạc bằng nụ hôn giả dối...Các chước cám dỗ của Satan đều chung quy về ba mục tiêu: danh, lợi, thú.

Thánh Gioan Kim Khẩu đã quả quyết: "Trên đời này không ai mà không bị cám dỗ". Người Việt Nam cũng thường nói "Con người ta, già cái lợi cái răng, nhưng ba cái lăng nhăng không già". Như vậy cám dỗ là một cái gì hết sức mạnh mẽ, hết sức lôi cuốn, và rất khó chống cự.

Chúa Giêsu đã chiến thắng mọi cám dỗ của Satan bằng quyền năng Thánh Thần, bằng sức mạnh Lời Chúa, bằng đời sống chay tịnh cầu nguyện và luôn tín thác vào Chúa Cha.

Cả ba Phúc Âm đều đề cập đến một chi tiết rất thú vị, đó là Chúa Giêsu không đi vào hoang địa một mình mà đi cùng với Chúa Thánh Thần.

- "Bấy giờ Đức Giêsu được Thần Khí dẫn vào hoang địa, để chịu quỷ cám dỗ" (Mt 4,1)

- "Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa. Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người" (Mc 1,12-13).

- "Đức Giêsu được đầy Thánh Thần, từ sông Giođan trở về. Suốt bốn mươi ngày, Người được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa và chịu quỷ cám dỗ" (Lc 4,1-2).

Thánh Thần hướng dẫn Chúa Giêsu vào hoang địa để chịu ma quỷ cám dỗ. Đây là một hành động hết sức khó hiểu và nghịch lý. Vì Thánh Thần sao lại có thể làm như thế cho Chúa Giêsu? Thế nhưng, cũng qua việc Chúa Giêsu chịu cám dỗ, mỗi khi chúng ta bị ma quỷ cám dỗ cũng có thể nói được là "Thánh Thần đã dẫn chúng ta đến chỗ để bị cám dỗ", để qua đó, chúng ta có thể tránh khỏi sa chước cám dỗ.

Khi vào hoang địa, khi bị ma quỷ cám dỗ, Chúa Giêsu cần đến sự nâng đỡ của Chúa Thánh Thần. Người đã dựa vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần và Lời của Thiên Chúa để đối đáp với ma quỷ và đã chiến thắng.

Khi chúng ta lâm vào những cuộc thử thách, phải đối diện với những mưu chước của Satan, rất cần ơn Chúa Thánh Thần trợ lực. Chúa Giêsu mà còn cần đến Chúa Thánh Thần nữa, thì huống hồ là chúng ta.

Cần phải cầu nguyện (Lc 22,40; Cv 2,42; LGTC #2612,2742). Nhờ cầu nguyện, Chúa Giêsu đã không cô đơn một mình, nhưng "được Thánh Thần hướng dẫn" (Mt 4,1). Nhờ cầu nguyện chúng ta được liên kết với sức mạnh của Thánh Thần và với Các Thánh trên trời.Vai trò của Chúa Thánh Thần thật quan trọng trong đời sống của chúng ta. Những lúc bị cám dỗ, những khi sống trong cô đơn, buồn chán và thất vọng...hãy cậy trông và khẩn cầu với Chúa Thánh Thần xin ơn phù trợ. Chính Chúa Giêsu đã hứa: "Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần mà Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy các con mọi điều" (Ga 14,26).

Lời Chúa là sức mạnh tâm linh, là lẽ sống thần linh và là lời ban sự sống. Đọc và suy gẫm Thánh Kinh sẽ đem lại cho chúng ta sức mạnh để chiến thắng tội lỗi. Gương của Chúa Giêsu được Tin Mừng Thánh Luca kể rõ: mỗi lần ma qủy đưa ra một chước cám dỗ thì Chúa Giêsu lại lấy một lời của Kinh Thánh mà đẩy lui chước cám dỗ ấy:

- Có lời chép rằng: người ta không sống bằng cơm bánh mà còn bằng lời của Thiên Chúa nữa.(Lc 4,5)

- Có lời chép rằng:ngươi phải thờ lạy Chuá là Thiên Chúa ngươi và chỉ phụng thờ một mình Người.(Lc 4,8)

- Có lời chép rằng: ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi.(Lc 4, 11).

"Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi, chờ đợi thời cơ". Satan tạm lánh vào bóng tối, khi có thời cơ thuận tiện sẽ quay lại tiếp tục tấn công. Có lần, Satan dùng miệng lưỡi của Phêrô để cám dỗ Chúa đừng lên Giêrusalem chịu khổ nạn. Chúa quay lại quát nạt: "Satan, hãy lui ra đằng sau, đừng gây cớ cho Ta vấp phạm". Thời cơ quỷ chờ đợi chính là lúc Chúa Giêsu trải qua cuộc Khổ Nạn. Trong vườn Giêtsêmani, khi đối diện với cái chết đang cận kề, Chúa Giêsu không khỏi sợ hãi đến nổi "mồ hôi đổ ra như máu". Người đã thân thưa cùng Chúa Cha đến hai lần: " Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha " (Mt 26, 39b); " Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha " (Mt 26, 42b). Cao điểm là khi Chúa bị treo trên thập giá, Satan dùng miệng lưỡi kẻ qua người lại để cám dỗ Chúa xuống khỏi thập giá: "Ông Kitô vua Israel, cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi để chúng ta thấy và tin". Trong suốt cuộc đời dương thế, Chúa Giêsu đã phải chiến đấu chống lại nhiều cơn cám dỗ. Người thực sự là Thiên Chúa nhưng đồng thời Người cũng hoàn toàn là con người nên "Người cũng phải chịu trăm chiều thử thách y như ta" (Dt 4,15). Chúa Giêsu đã chiến thắng tất cả. Không một cám dỗ, không một thách thức nào có thể khiến Người lùi bước.

Chuá Giêsu đã từng căn dặn các Tông Đồ: "Hãy tỉnh thức". Tỉnh thức để nhận ra mưu mô của ma quỷ, tỉnh thức trước những lôi cuốn của thế gian, tỉnh thức trước những yếu đuối của con người xác thịt.

Chúng ta đang sống trong một xã hội có quá nhiều cám dỗ. Một xã hội đầy dẫy các tệ nạn, có nhiều lối sống buông thả. Đó là môi trường là cơ hội thuận tiện cho ma quỷ ẩn núp và tấn công. Cám dỗ ngày càng nhiều và ngày càng tinh vi dưới muôn hình dáng vẻ. Vì thế, lời dặn dò của Chúa Giêsu ngày càng khẩn thiết: "Hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ". Cơn cám dỗ độc hại nhất mà con người cần phải luôn tỉnh thức canh phòng và trường kỳ chiến đấu bằng mọi cách, chính là lòng ích kỷ, quan niệm sống hẹp hòi, thiển cận của chính mình, chỉ biết có mình mà quên kẻ khác, chỉ biết thu vén lợi ích cho riêng mình mà quên quyền lợi kẻ khác.

Để tỉnh thức và cầu nguyện, chúng ta cần sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần và ánh sáng soi dẫn của Lời Chúa.

Sau khi chịu phép Rửa Tội để trở nên một Kitô hữu, chúng ta dấn thân vào đời với nhiều thử thách của niềm tin, phải chịu nhiều cám dỗ của phận người lữ thứ. Nếu chúng ta tin rằng "Thiên Chúa đã tuôn đổ đầy tràn ơn Thánh Thần xuống trên chúng ta, nhờ Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng ta" (Tt 3,6) thì hãy vững tâm và tin tưởng tuyệt đối vào quyền năng của Chúa Thánh Thần. Ngài sẽ không bao giờ xa rời chúng ta đâu! Điều quan trọng là chúng ta có thành tâm để cầu xin và nhờ cậy Ngài, hay là không thôi!

Hãy tin tưởng và trông cậy vào Chúa Thánh Thần. Bảy hồng ân của Chúa Thánh Thần luôn trao ban cho người: ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết, ơn nhận thức, ơn chỉ bảo, ơn dũng mạnh, ơn thánh thiện và ơn kính sợ Thiên Chúa. Hãy mở rộng tâm hồn đón nhận ơn Chúa Thánh Thần và hăng hái cộng tác với chương trình của Ngài, nhờ đó "Hoa trái của Thần Thần là bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ" (Gl 5,22-23) sẽ tràn đầy trong tâm hồn và đời sống của chúng ta.

Việc gặp gỡ Chúa Thánh Thần rất dễ dàng. Chỉ cần hồi tâm lại, ý thức Ngài đang hiện diện ngay trong bản thân mình, và muốn được tan hòa vào trong Ngài. Chúa Thánh Thần sẽ mở tung cánh cửa ích kỷ. Ngài sẽ phá tan cánh cửa hẹp hòi. Ngài sẽ ban thêm sức mạnh. Ngài sẽ quét sạch mọi lớp bụi bặm rêu phong. Ngài sẽ đổ tràn vào hồn chúng ta nguồn sống mới giúp chúng ta chiến thắng mọi cám dỗ và hăng hái lên đường.

Thánh Phaolô cảm nghiệm sâu xa ơn ban của Thánh Thần và đã khuyên nhủ: "Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện" (Ep 4,22-24); "Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta" (Rm 5,5); "Thiên Chúa đã chẳng ban cho chúng ta một thần khí làm cho chúng ta trở nên nhút nhát, nhưng là một Thần Khí khiến chúng ta được đầy sức mạnh, tình thương, và biết tự chủ" (2Tm 1,7).

Chúa Giêsu đã dùng lời Thánh Kinh để thắng Satan. Muốn vượt thắng mọi cám dỗ, chúng ta phải yêu mến Lời Chúa, đọc Lời Chúa và sống Lời Chúa. Sứ điệp Đại Hội Dân Chúa năm 2010 mời gọi: "Hội Thánh tại Việt Nam sẽ đẩy mạnh việc phổ biến và học hỏi Lời Chúa bằng những phương thế khác nhau, để Lời Chúa thực sự trở thành của ăn nuôi dưỡng tâm hồn, kim chỉ nam và ánh sáng soi dẫn mọi quyết định và chọn lựa của các tín hữu" (Số 3).

Mùa Chay là thời gian đặc biệt để ngưới tín hữu xét mình, để sám hối canh tân bản thân dưới ánh sáng Lời Chúa và ơn soi sáng của Chúa Thánh Linh theo gương Chúa Giêsu, nhờ đó mà sống đẹp lòng Thiên Chúa mỗi ngày.

 

64.Phương thế chiến thắng cám dỗ

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

Tin mừng Lc 4: 1-13: Tông huấn mời gọi các tín hữu phải biết tỉnh thức và phân định, không phải để khám phá xem ta có thể kiếm lợi thêm được những gì ở đời này, nhưng để biết được một điều đến từ Chúa Thánh Thần hay đến từ tinh thần thế gian hoặc tinh thần ma quỷ?

Tông huấn Hãy Vui mừng và Hân hoan - Gaudete et Exsultate, về ơn gọi nên thánh trong thế giới hôm nay, được Đức Giáo Hoàng Phanxicô ban hành vào đúng ngày lễ trọng kính thánh Giuse 19.3.2018 và sau đó được giới thiệu rộng rãi với mọi người trong cuộc họp báo vào ngày lễ Truyền tin 9.4.2018. Đây là tông huấn thứ ba của Đức Giáo Hoàng Phanxicô, sau hai tông huấn Niềm vui Tin mừng (Evangelii Gaudium, 24.11.2013) và Niềm vui Yêu thương (Amoris Laetitia, 19.3.2016). Tông huấn này có 5 chương với chương mở đầu là lời mời gọi nên thánh dành cho tất cả mọi bậc sống, trong đó Đức Thánh Cha cảnh báo về một vài sự hiểu lầm liên quan đến con đường nên thánh.

Theo Đức Thánh Cha Phanxicô, việc nên thánh không phải là cái gì đó cao siêu, khác thường, nhưng được thực hiện trong cuộc sống bình thường, với tất cả những giới hạn và yếu hèn của con người. Ngài cũng đã chỉ ra rất nhiều con đường nên thánh và nhiều mẫu gương thánh thiện trong cuộc sống thường nhật.[1]

Tuy nhiên, con đường nên thánh không hề dễ tí nào, nó được nhắc đến như một cuộc chiến lâu dài chống lại ma quỷ, thủ lãnh của sự dữ, với những chướng ngại do ma quỷ đặt ra.“Đời sống Kitô hữu là một cuộc chiến đấu trường kỳ. Nó đòi hỏi sức mạnh và can đảm để kháng cự những cám dỗ của ma quỷ và để loan báo Tin mừng. Cuộc chiến đấu này cao đẹp bởi vì nó cho phép chúng ta vui mừng mỗi lần Thiên Chúa chiến thắng trong cuộc đời của ta”.[2]

Để có thể chiến thắng trong trận chiến này, Tông huấn mời gọi các tín hữu phải biết tỉnh thức và phân định, không phải để khám phá xem ta có thể kiếm lợi thêm được những gì ở đời này, nhưng để biết được một điều đến từ Chúa Thánh Thần hay đến từ tinh thần thế gian hoặc tinh thần ma quỷ?[3]

1. Ma quỷ là có thật

Đối với Đức Giáo hoàng Phanxicô, ma quỷ không phải là một nhân vật huyền thoại nhưng có thật. “Hãy coi chừng ma quỷ! Ma quỷ có đó! Nó hành động trong bóng tối, thao túng tâm trí và ăn mòn con tim. Ma quỷ đang hiện diện đó! ngay cả trong thế kỷ XXI này. Anh chị em đừng ngây thơ.”[6].“Thật chính xác để tin chắc rằng quyền lực ác độc này đang hiện diện giữa chúng ta, nó cho chúng ta hiểu được sự dữ đôi khi lại có sức tàn phá đến như thế”. Và “chúng ta không nên nghĩ ma quỷ như một huyền thoại, một biểu tượng, một vai diễn, một nhân vật được phóng đại hay một ý tưởng. Sai lầm này khiến chúng ta mất cảnh giác, bất cẩn, không đề phòng và kết cuộc dễ bị tấn công hơn.”[7]

Thật vậy, ma quỷ là có thật, và chúng ta đang chứng kiến sự hủy hoại đến mức kinh khủng của nó đang diễn ra từng ngày trong thế giới hôm nay. “Đã quá đủ khi mở tờ tạp chí, chúng ta thấy sự dữ đang hiện diện xung quanh chúng ta, “thần dữ” đang hoạt động tích cực”.[8] Truyền thống Kinh thánh và Giáo lý Hội thánh Công giáo cho chúng ta thấy sự hiện diện rõ ràng và những hoạt động đầy mưu mô của ma quỷ trong thế gian.[9] “Ma quỷ không nhất thiết phải chiếm hữu chúng ta, nó đầu độc chúng ta bằng nọc độc của hận thù, ghen ghét, thất vọng và trụy lạc”.[10] Khi chúng ta khước từ mọi thứ bảo vệ mình, ma quỷ sẽ tấn công để phá hủy cuộc sống cá nhân, gia đình và cộng đoàn của chúng ta. “Chúng như sư tử gầm thét rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1Pr 5,8).[11]

2. Cám dỗ của ma quỷ

Trong bài giảng sáng thứ sáu ngày 13/10/2016, Đức Giáo hoàng Phanxicô nói đến các hành động cám dỗ của ma quỷ, rất ngọt ngào và quyến rũ; nó xâm nhập vào linh hồn con người rất nhẹ nhàng: “gõ cửa, xin phép, bấm chuông, rất lịch sự”; nó bước vào trong thinh lặng, bắt đầu trở thành một phần của đời sống. Với ý tưởng và những thúc đẩy của nó, nó giúp con người sống tốt hơn, và từ đó, bước vào đời sống, tận bên trong, bắt đầu thay đổi họ, nhưng âm thầm không gây ra tiếng ồn. Ma quỷ từ từ thay đổi những tiêu chuẩn của chúng ta, đưa chúng ta đến tình trạng thế tục; nó ngụy trang theo cách hành động của chúng ta và hầu như chúng ta không thể nhận ra điều đó.[13] Ma quỷ xứng đáng với tên gọi “là cha đẻ của sự gian dối.”

Ma quỷ không bao giờ biến mất vĩnh viễn, cho đến ngày tận thế, nó luôn tìm mọi cách để chống lại chúng ta. Mục tiêu của nó là làm cho chúng ta mất niềm hy vọng, hằng ngày gieo hạt giống bi quan và cay đắng trong tâm hồn chúng ta; nó cũng là kẻ gieo cỏ lùng để tạo nên sự chia rẽ. “Có một cám dỗ mà quỷ rất thích: cám dỗ chống sự hiệp nhất […] tạo ra chiến tranh nội bộ, một loại chiến tranh dân sự và tinh thần”… Satan là tên khuyến dụ, người đặt bẫy và người quyến rũ: “Nó khéo léo, trình bày mọi chuyện theo kiểu những chuyện này là tốt, nhưng chủ ý của nó là muốn hủy hoại tất cả.”[14]

Hành động của ma quỷ thể hiện chủ yếu trong “tinh thần bại hoại”, đó là một loại chất độc tồn tại nơi con người cốt yếu để làm u mê các giác quan thiêng liêng. Tinh thần bại hoại được diễn tả trong sự uể oải và buồn bã; trong tăm tối của cái nhìn thiêng liêng, không còn khả năng để thấy sự dữ cũng như không thể chống lại nó. Hay nói cách khác, tinh thần bại hoại là sự trì trệ và thất bại không thể tránh được trong cuộc chiến hướng đến sự thánh thiện.“Sự hủ bại tinh thần còn tồi tệ hơn việc một người sa ngã phạm tội, vì đó là một thứ thoải mái và tự mãn mù lòa, chuyện gì cũng coi như có thể chấp nhận được: lừa dối, phỉ báng, ích kỷ và các hình thức tìm mình khác rất tinh vi, vì “chính Satan cũng đội lốt thiên thần sáng láng!”[15]. Không còn nghi ngờ gì nữa vì cuộc sống chúng ta phải đối mặt với cám dỗ của ma quỷ và trong nhiều trường hợp chúng ta ngập ngừng trước những thử thách. Lời Chúa rõ ràng mời gọi ta “hãy đứng vững trước những mưu chước của ma quỷ” (Ep 6,11) và “dập tắt mọi tên lửa của Ác Thần” (Ep 6,16).[16]

Chúng ta đang sống trong một thế giới chất đầy những khủng hoảng về đời sống đức tin và luân lý, cùng với những học thuyết lọc lừa, dối trá, khiến lắm người ngây ngất trong lầm lạc, đặc biệt “nhiều người trẻ có những nỗi lo sợ và có cảm tưởng mình phải sống khác với những gì trong thực tế, vì thế họ thấy cần phải thích ứng với kiểu mẫu giả tạo, sửa sang hình ảnh của mình, nấp sau những mặt nạ và căn tính giả tạo”.[49]Đối mặt với những cám dỗ của “chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa duy linh, khép mình trong vỏ sò, nghiện ngập, cố chấp, rập khuôn, giáo điều, sống trong quá khứ, bi quan, nấp dưới các luật lệ và quy tắc”[50]; đối mặt với “một cảm thức hoang mang, đôi khi bạo lực, gây phân tán và suy nhược; tính chất tiêu cực và bi lụy; tính tự mãn sinh ra từ chủ nghĩa tiêu thụ; xu hướng cá nhân chủ nghĩa; và tất cả những hình thức linh đạo thay thế chẳng liên quan gì tới Thiên Chúa và đang chi phối khung cảnh tôn giáo hiện nay”[51].

3. Phương thế chiến thắng cám dỗ.

Sách Giáo lý Hội thánh bảo đảm rằng: “Sức mạnh của satan không phải là vô hạn. Nó chỉ là một thụ tạo, có sức mạnh vì là thuần linh nhưng vẫn là thụ tạo: nó không thể ngăn chặn công trình xây dựng Vương Triều của Thiên Chúa.”[12]

Đức Giáo hoàng Phanxicô muốn mọi kitô hữu phải biết phân định và bảo vệ tâm hồn mình để phân biệt đâu là những gì đến từ Thiên Chúa và đâu là những gì xuất phát từ các tiên tri giả. Thật vậy, phân định là phương tiện nhằm giúp họ tìm ra những cách thế vốn có để đáp trả Thiên Chúa và lớn lên giữa các giới hạn của họ.[52]

Để đạt được điều đó điều cần thiết nơi mỗi người tín hữu là biết ở lại trong Chúa Giêsu bằng cách mở cửa lòng mình cho Ngài. Nhất là noi gương Chúa Giêsu, chúng ta phải biết chống cự lại những cơn cám dỗ. Muốn chống lại, phải có những phương thế để có thể chiến thắng.

a. Lời Chúa.

Ma qủy cám dỗ Chúa Giêsu từ những điều thường nhất là cơm bánh hàng ngày. Chúa nhịn ăn 40 đêm ngày, đói thì cần ăn, đó là điều rất đổi bình thường.Ma qủy lợi dụng điều đó để cám dỗ, sau đó mới cám dỗ những những điều mạnh hơn là thử thách Thiên Chúa và chống lại Ngài. Chúa Giêsu dùng Lời Chúa để chiến thắng.

Gương của Chúa Giêsu được Tin Mừng Thánh Luca kể rõ: mỗi lần ma qủy đưa ra một chước cám dỗ thì Ngài lại lấy một lời của Kinh Thánh mà đẩy lui chước cám dỗ ấy:

- Có lời chép rằng: người ta không sống bằng cơm bánh mà còn bằng lời của Thiên Chúa nữa.(Lc 4,5)

- Có lời chép rằng:ngươi phải thờ lạy Chuá là Thiên Chúa ngươi và chỉ phụng thờ một mình Người.(Lc 4,8)

- Có lời chép rằng: ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi.(Lc 4, 11).

“Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi, chờ đợi thời cơ". Satan tạm lánh vào bóng tối, khi có thời cơ thuận tiện sẽ quay lại tiếp tục tấn công. Có lần, Satan dùng miệng lưỡi của Phêrô để cám dỗ Chúa đừng lên Giêrusalem chịu khổ nạn. Chúa quay lại quát nạt: “Satan, hãy lui ra đằng sau, đừng gây cớ cho Ta vấp phạm”. Thời cơ ma quỷ chờ đợi chính là lúc Chúa Giêsu trải qua cuộc Khổ Nạn. Trong vườn Giêtsêmani, khi đối diện với cái chết đang cận kề, Chúa Giêsu không khỏi sợ hãi đến nổi “mồ hôi đổ ra như máu”. Người đã thân thưa cùng Chúa Cha đến hai lần: “ Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha ” (Mt 26, 39b); “ Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha ” (Mt 26, 42b). Cao điểm là khi Chúa bị treo trên thập giá, Satan dùng miệng lưỡi kẻ qua người lại để cám dỗ Chúa xuống khỏi thập giá: “Ông Kitô vua Israel, cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi để chúng ta thấy và tin”. Trong suốt cuộc đời dương thế, Chúa Giêsu đã phải chiến đấu chống lại nhiều cơn cám dỗ. Người thực sự là Thiên Chúa nhưng đồng thời Người cũng hoàn toàn là con người nên "Người cũng phải chịu trăm chiều thử thách y như ta" (Dt 4,15). Chúa Giêsu đã chiến thắng tất cả. Không một cám dỗ, không một thách thức nào có thể khiến Người lùi bước.

Lời Chúa là sức mạnh tâm linh, là lẽ sống thần linh và là lời ban sự sống. Đọc và suy gẫm Lời Chúa sẽ đem lại cho chúng ta sức mạnh để chiến thắng tội lỗi.

b. Ăn chay cầu nguyện.

Ăn chay cầu nguyện giúp con người chế ngự bản thân.Tội lỗi của con người là do không biết chế ngự bản thân. Ăn chay cầu nguyện giúp chúng ta biết thanh luyện con người mình, chế ngự bản thân, hãm dẹp dục vọng. 40 ngày Mùa Chay nhắc nhớ về 40 ngày đêm chay tịnh của Chúa Giêsu trong hoang địa, nhắc lại 40 năm dân Do thái lưu đày trong sa mạc chuẩn bị về Đất hứa. Mùa Chay là mùa tập luyện chiến đấu thiêng liêng, giúp chúng ta trở nên người thiện chiến, biết chế ngự và làm chủ bản thân.

Cầu nguyện là nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Khi vào hoang địa, khi bị ma quỷ cám dỗ, Chúa Giêsu cần đến sự nâng đỡ của Chúa Thánh Thần. Người đã dựa vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần và đã chiến thắng cám dỗ.

Khi chúng ta lâm vào những cuộc thử thách, phải đối diện với những mưu chước của ma quỷ, rất cần ơn Chúa Thánh Thần trợ lực. Chúa Giêsu mà còn cần đến Chúa Thánh Thần nữa, thì huống hồ là chúng ta!

Cần phải cầu nguyện (Lc 22,40; Cv 2,42; GLGH #2612,2742). Nhờ cầu nguyện, Chúa Giêsu đã không cô đơn một mình, nhưng “được Thánh Thần hướng dẫn” (Mt 4,1). Nhờ cầu nguyện, chúng ta được liên kết với sức mạnh của Thánh Thần và với Các Thánh trên trời.Vai trò của Chúa Thánh Thần thật quan trọng trong đời sống của chúng ta. Những lúc bị cám dỗ, những khi sống trong cô đơn, buồn chán và thất vọng…hãy cậy trông và khẩn cầu với Chúa Thánh Thần xin ơn phù trợ. Chính Chúa Giêsu đã hứa: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần mà Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy các con mọi điều” (Ga 14,26).

Chúng ta đang sống trong một xã hội có quá nhiều cám dỗ. Một xã hội đầy dẫy các tệ nạn và có nhiều lối sống buông thả. Đó là môi trường là cơ hội thuận tiện cho ma quỷ ẩn núp và tấn công. Cám dỗ ngày càng nhiều và ngày càng tinh vi dưới muôn hình dáng vẻ. Vì thế, lời dặn dò của Chúa Giêsu ngày càng khẩn thiết: "Hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ". Cơn cám dỗ độc hại nhất mà con người cần phải luôn tỉnh thức canh phòng và trường kỳ chiến đấu bằng mọi cách, chính là lòng ích kỷ, quan niệm sống hẹp hòi, thiển cận của chính mình, chỉ biết có mình mà quên kẻ khác, chỉ biết thu vén lợi ích cho riêng mình mà quên quyền lợi kẻ khác.

Để tỉnh thức và cầu nguyện, chúng ta cần sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần và ánh sáng soi dẫn của Lời Chúa, thực thi những việc đạo đức của Mùa Chay.

Chúa Giêsu đã từng căn dặn các Tông Đồ: "Hãy tỉnh thức". Tỉnh thức để nhận ra mưu mô của ma quỷ, tỉnh thức trước những lôi cuốn của thế gian, tỉnh thức trước những yếu đuối của con người xác thịt.

Mùa Chay là thời gian đặc biệt để sám hối canh tân bản thân dưới ánh sáng Lời Chúa và thực hành ăn chay cầu nguyện theo gương Chúa Giêsu, nhờ đó mỗi người chúng ta sống đẹp lòng Thiên Chúa hàng ngày.

****

[1] Tông huấn Gaudete et Exsultate, số 7 và 14

[2] Sđd, số 158

[3] Sđd, số 166 và 174

[4] Sđd, số 1

[5] Giáo Hoàng Phanxicô, Udienza Generale, Vatican 13/4/2011.

[6] x.Giáo Hoàng Phanxicô, Ma quỷ có thực. Bài giảng ngày 11/4/ 2014.

[7] Tông huấn Gaudete et Exsultate, số 160

[8] Giáo Hoàng Phanxicô, Udienza Generale, 6/12/2013

[9] x.GLCG số 391-395

[10] Tông huấn Gaudete et Exsultate, số 160

[11] Sđd, số 161

[12] GLCG số 395

[13] Giáo Hoàng Phanxicô, Tỉnh thức để chống lại sự trần tục, Vatican 13/10/2017.

[14] Gelsomino Del Guercio, Đức Giáo hoàng nghĩ gì về ma quỷ, 28/10/2017

[15]Tông huấn Gaudete et Exsultate, số 165

[16] Sđd, số 162

[49] Giáo Hoàng Phanxicô, Thông Điệp Ngày Quốc Tế Giới Trẻ Thế Giới lần thứ 33. G. Trần Đức Anh OP chuyển ngữ.

[50] Tông huấn Gaudete et Exsultate, số 134.

[51] Sđd, số 111

[52] Tông huấn Amoris Laetitia, số 305

 

65.Con Thiên Chúa và đối thủ của Thiên Chúa

(Suy niệm và chú giải của Lm. FX. Vũ Phan Long, OFM)

1.- Ngữ cảnh

Các chương Lc 1,5–4,13 giới thiệu song song Đức Giêsu và Gioan Tẩy Giả. Mục đích của những chương này là nối kết “những sự việc đã được thực hiện giữa chúng ta” (1,1) với lịch sử của Israel: trong việc chuẩn bị, trong cuộc chào đời và trong những hoạt động công khai đầu tiên của Gioan và Đức Giêsu, rõ ràng là Thiên Chúa đã nhớ đến các lời hứa, đã lắng nghe lời cầu nguyện của con cái Ngài và đã quyết định can thiệp để cứu giúp họ quá mức họ mong chờ. Lô-gích hoàn tất–vượt quá, chúng ta có thể tìm thấy lại trong phần tường thuật hoạt động của Đức Giêsu tại Galilê (Lc 4,14–9,50).

Trong thời gian hoạt động công khai, Đức Giêsu có phải đối đầu với các sức mạnh ma quỷ, là những sức mạnh vẫn hành hạ loài người để biến họ thành nô lệ. Đức Giêsu đến là để cứu loài người khỏi những sức mạnh ấy (x. Lc 4,33; 8,26-39). Người cũng thông ban cho Nhóm Mười Hai quyền giải thoát loài người khỏi các sức mạnh ấy. Các đối thủ của Người kết tội Người là liên minh với Satan, nên mới được hắn ban cho quyền trên các quỷ (11,14-23). Trong khi các đối thủ Người thì cho rằng qua Người, đối thủ của Thiên Chúa đang hoạt động, Đức Giêsu lại quả quyết rằng đàng sau Người, có quyền năng của Thiên Chúa. Tương quan thực hữu của Đức Giêsu với Satan là thế nào, ta thấy ngay ở đầu hoạt động của Đức Giêsu, trong các cám dỗ. Trong những bản văn trước, tác giả liên tục cho thấy bản chất của tương quan của Đức Giêsu với Thiên Chúa. Tương quan này đạt tới đỉnh cao trong lời tuyên bố của Thiên Chúa: “Con là Con yêu dấu của Cha” (3,22). Cả trong các cám dỗ, vấn đề cũng vẫn là tương quan này. Tương quan này bị thử thách rồi được xác nhận xuyên qua sự từ khước của kẻ ở trong thế đối lập tận căn với Thiên Chúa.

Cả ma quỷ và Đức Giêsu đều trích Kinh Thánh (chẳng hạn Satan dùng Tv 91,11-12 ở Lc 4,10-11), nhưng hắn không tỏ ra được là “kẻ mạnh hơn” (3,16;11,22). Như vậy, vào lúc khởi đầu sứ mạng, Đức Giêsu được giới thiệu như là “Đấng mạnh hơn” ra sức duy trì chương trình của Chúa Cha và vâng theo Kinh Thánh.

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành năm phần:

1) Mở (4,1-2a);

2) Cám dỗ thứ nhất (4,2b-4);

3) Cám dỗ thứ hai (4,5-8);

4) Cám dỗ thứ ba (4,9-12);

5) Kết (4,13).

3.- Vài điểm chú giải

- được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa (1): Tác giả Lc cho thấy là kinh nghiệm của Đức Giêsu trong hoang địa đã xảy ra dưới sự bảo hộ của Thánh Thần. En tô pneumati có thể hiểu là “bởi Thánh Thần” (en = hypo = bởi, x. Mt 4,1) hay là “dưới ảnh hưởng” (en = trong).

- hoang địa (1): Đây là nơi gặp gỡ Thiên Chúa (x. Hs 2,14-15), nhưng cũng là nơi trú ẩn của dã thú và ma quỷ (x. Lv 16,10; Is 13,21; 34,14; Tb 8,3).

- bốn mươi ngày (2): Chi tiết này lấy từ Mc 1,13, có thể nhắc đến Đnl 8,2 (trong khi Mt 4,1 là “bốn mươi ngày và bốn mươi đêm”, hẳn là lấy từ Đnl 9,9; Xh 24,18; 34,28; x. 1 V 19,8).

- quỷ (2): Tác giả Lc thay thế danh xưng Satan của Mc 1,13 bằng “quỷ”, diabolos (‘thần dữ”). Satan là một danh-ngữ Híp-ri có nghĩa là “đối thủ, kẻ kết tội, người truy tố”, được Bản LXX dịch là diabolos, “kẻ vu khống”. Lc không gọi quỷ là “tên cám dỗ” (ho peirazôn) như Mt 4,3, để cho thấy là ngài muốn coi nó là kẻ đối lập, kẻ thách đố Đức Giêsu.

- Nếu ông là Con Thiên Chúa (3): Quỷ nhắc đến cảnh phép rửa (3,22).

- Đã có lời chép rằng (4): Gegraptai, “đã được viết”, là công thức đúc sẵn để đưa vào một câu trích Cựu Ước.

- Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh (4): Câu trích Đnl 8,3 giống với Bản LXX hơn.

- quỷ đem Đức Giêsu lên cao (5): Lc bỏ chi tiết “núi”, vì trong TM của ngài, “núi” là một nơi để cầu nguyện và nhận mạc khải của Thiên Chúa.

- Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi (8): Câu trích Đnl 6,13 này trong dạng giống với Thủ bản A của Bản LXX, Thủ bản B viết là “ngươi phải kính sợ” (gần với bản Hípri hơn).

- đến Giêrusalem (9): Đỉnh cao của các cám dỗ trong Tin Mừng III nằm ở Thành định mệnh của Đức Giêsu.

- Thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng (11): Tv 91,11 theo Bản LXX.

- Ngươi chớ thử thách Đức Chúa (12): Đnl 6,16 trích theo Bản LXX.

4.- Ý nghĩa của bản văn

Một số người trong chúng ta cảm thấy ngỡ ngàng khi biết là Đức Giêsu cũng có những ngờ vực như chúng ta, Người cũng gặp những khó khăn trong khi thi hành sứ mạng, Người chỉ dần dà khám phá ra được chương trình của Cha Người về Người. Chúng ta sợ kéo Người xuống với bình diện chúng ta, thế nhưng Thiên Chúa không hề lạc hướng do sự bần khốn của chúng ta. Đúng hơn phải nói rằng Người còn nhận lấy sự bần khốn của chúng ta làm của Người, và bằng cách trở nên người phàm, đứng chung hàng với người phàm (x. 3,1), Người đã đánh bại tội lỗi.

* Mở (1-2a)

Tác giả Lc cho thấy là sau phép rửa, Đức Giêsu đầy Thánh Thần. “Người được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa suốt bốn mươi ngày, và chịu quỷ dữ cám dỗ” (Lc 4,1-2a).

Qua các cám dỗ, ta thấy tất cả tính vững chãi và rõ ràng chắc chắn của tương quan của Đức Giêsu với Thiên Chúa. Trong cuộc đối đầu này, ta cũng thấy rõ ràng là Đức Giêsu hoàn toàn đứng về phía Thiên Chúa.

* Cám dỗ thứ nhất (2b-4)

Cám dỗ thứ nhất kết thúc với câu trích Đnl 8,3: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh”. Đức Giêsu bị thách đố sử dụng quyền lực của Người là Con Thiên Chúa mà giải quyết những khó khăn mà mọi con người đều trải nghiệm, mà phục vụ lợi ích riêng tư, tìm kiếm lương thực cho mình ngoài kế hoạch của Chúa Cha. Đnl 8,1-6 nhắc đến kinh nghiệm Israel càm ràm chống lại Môsê và Aharon vì nhớ cơm bánh Ai Cập (Xh 16; Ds 11,7-8). Họ đã được Thiên Chúa ban manna và chim cút, nhưng đã bị trách mắng. Còn Đức Giêsu dứt khoát loại trừ thách đố của quỷ và nhắc tới lời Đnl mang tính khuyến thiện tóm tắt biến cố Xuất Hành.

Thử thách liên hệ đến tương quan đúng đắn với Thiên Chúa có thể đến từ nhiều phía. Trong cám dỗ thứ nhất, thử thách đến từ những nhu cầu sống còn của con người, rồi từ quyền lực và từ sự uy hùng của con người và cuối cùng từ một tương quan sai lạc với Thiên Chúa. Thử thách đầu tiên bắt đầu với cái đói của Đức Giêsu. Tên cám dỗ đề nghị Người sử dụng quyền lực của Người để loại trừ cái đói. Trong cái đói, sự sống bị đe dọa. Muốn sống, con người cần cơm bánh. Không có cơm bánh, trước sau rồi cuộc sống của con người cũng phải kết thúc. Con người cần phải và có thể sử dụng cái gì để bảo vệ sự sống mình? Phải chăng sự sống này, một sự sống cần cơm bánh và lệ thuộc cơm bánh, là một giá trị tuyệt đối, biện minh cho mọi nỗ lực? Phải chăng người ta có thể tập trung tất cả các phương tiện và tất cả sức chú ý mà thỏa mãn các nhu cầu cơ bản? Đức Giêsu tuyên bố rằng người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh. Người có một sự sống cao hơn sự sống lệ thuộc cơm bánh: sự sống này hệ tại dây liên kết vô điều kiện và hoàn toàn tin tưởng với Thiên Chúa. Sau này Đức Giêsu sẽ nói với các môn đệ: “Đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn […]. Hãy lo tìm Nước của Người, còn các thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Lc 12,22.31). Phải dành chỗ đầu cho việc quay hướng về Thiên Chúa và tin tưởng vào quyền năng nhân ái của Ngài, chứ không được thay thế những điều ấy bằng nỗ lực đảm bảo cho sự sống mình bằng cơm bánh. Mối quan tâm đầu tiên luôn luôn phải là Thiên Chúa và dây liên kết với Ngài.

* Cám dỗ thứ hai (5-8)

Cám dỗ thứ hai kết thúc với câu trích Đnl 6,13: “Chính Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, là Đấng anh em phải phụng thờ”. Đnl 6,10-15 nhắc tới kinh nghiệm của Israel lang thang trong hoang địa và bị thu hút bởi nền phụng tự Canaan (Đnl 12,30-31) và họ thường xuyên được Môsê nhắc nhở đừng chạy theo các thần ngoại hoặc các quyền lực ngoại (Xh 23,23-33). Đức Giêsu bị thách đố chấp nhận quyền thống trị trên cách nước thế gian từ một kẻ khác Thiên Chúa. Thử thách này không nhắm minh nhiên đến Người như là Chúa Con, nhưng thách thức Người nhận biết một kẻ khác thay vì Chúa Cha như là chủ và Chúa của Người. Câu trả lời của Người trích trực tiếp một lời Môsê nói với con cái Israel, và vẫn rút từ một bài tóm mang tính khuyến thiện về một biến cố trong Xuất Hành. Đức Giêsu dứt khoát loại bỏ thách đố tôn thờ bất cứ thứ gì ngoài Yhwh, Đức Chúa, Cha của Người.

Có thể nói cám dỗ thứ hai bắt đầu từ đối cực của các khả năng loài người. Cám dỗ này không nhắm tới con người đang chiến đấu để có sự cần thiết tối thiểu cho cuộc sống, nhưng nhắm tới khả năng con người nhìn xa hơn chính bản thân và sự sống của mình, và khao khát được làm chủ thế giới. Ở đây điều được nhắm tới là sự hấp dẫn của quyền lực, của quyền bá chủ tối đa. Nếu tìm quyền lực vì chính nó, người ta phải trả giá. Việc hoàn toàn chỉ tìm kiếm quyền lực không phù hợp với việc nhìn nhận quyền chủ tể của Thiên Chúa. Khẳng định ý chí thống trị của mình là đối lập lại với Thiên Chúa là Chúa Tể. Tìm kiếm và vui hưởng quyền lực là phụng sự Satan. Đức Giêsu đưa việc thờ phượng Thiên Chúa ra mà đối lập với việc phụng sự này. Chỉ Thiên Chúa mới là Chúa Tể và ý muốn của Ngài có giá trị hơn tất cả mọi sự. Nhìn nhận Thiên Chúa như là Chúa Tể tuyệt đối là có nền tảng để tương quan đúng đắn với Ngài.

* Cám dỗ thứ ba (9-12)

Cám dỗ thứ ba kết thúc với câu trích Đnl 6,16: “Anh em đừng thách thức Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em”. Đnl 6,16 nhắc đến kinh nghiệm Xuất Hành của Israel khi họ thử thách Đức Chúa (Yhwh) tại Mátxa và Mơriva mà đòi có nước uống (Xh 17,1-7). Yhwh đã trả lời bằng cách bảo Môsê đập tảng đá cho nước chảy ra; nhưng Môsê đã khiển trách dân đã thử thách Thiên Chúa. Đức Giêsu bị thách đố trong tư cách Con Thiên Chúa dùng quyền lực Người để tỏ bày bản thân cách lẫy lừng cho người đương thời và như thế phù hợp với các ý tưởng dân gian về một lãnh tụ được phái đến từ trời cao. Đức Giêsu lại dùng một chỉ thị khác của Môsê mà trả lời, cho hiểu rằng không một ai có thể xin Thiên Chúa can thiệp chỉ để thỏa mãn chuyện ngẫu hứng của mình.

Có thể diễn tả cám dỗ thứ ba thế này: “Bởi vì ngươi đẩy sự sống và quyền lực con người ra sau và đặt Thiên Chúa ở trên mọi sự, thì hãy tỏ ra hợp tình hợp lý mà sống điều này. Ngài đã hứa bảo vệ ngươi: vậy thì hãy thử nghiệm sự che chở này đi!”. Nhưng chính hành vi được đề nghị này cũng là một hình thái khác của quyền lực cho riêng mình. Chúng ta phải tin tưởng hoàn toàn vào sự trợ giúp và che chở của Thiên Chúa, chứ không được đưa sự che chở của Ngài ra mà thử thách, chúng ta không được đẩy mình vào thế hiểm nghèo theo ý mình. Tương quan đúng đắn với Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta làm trong mức khả năng cho phép và để cho Thiên Chúa làm những gì Ngài muốn làm cho chúng ta. Tin tưởng vào Thiên Chúa không có nghĩa là lười biếng và thiếu suy xét cho hợp lý. Chúng ta phải sử dụng cách hợp lý và theo cách tốt nhất tất cả các khả năng Thiên Chúa đã ban cho. Cùng với sự tin tưởng, là trách nhiệm trước mặt Thiên Chúa.

* Kết (13)

Câu kết cho thấy quỷ đã thất bại trong dịp này, nhưng nó chưa chịu thua. Nó chờ dịp khác. Đức Giêsu đã hiểu như thế và đã lưu ý các môn đệ: “Simôn, Simôn ơi, kìa Satan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo” (Lc 22,31). Và quỷ đã trở lại khi nhập vào Giuđa để xúi y bán Thầy (22,3), khi Đức Giêsu bị chao đảo trong chí hướng hiến thân (22,42), khi các thượng tế và lãnh binh đến bắt Người (22,53), khi các thủ lãnh và lính tráng chế nhạo thách thức Người trên Đồi Sọ (23,35-39). Nhưng Đức Giêsu tiếp tục dứt khoát tiến bước theo thánh ý Chúa Cha.

+ Kết luận

Đức Giêsu rất cương quyết và trung thành sống dây liên kết với Thiên Chúa. Không một cám dỗ nào có thể làm cho Người bị lung lạc, mà chỉ có thể làm cho chúng ta thấy Người bình thản và dứt khoát ở về phía Thiên Chúa và chứng tỏ Người là Con yêu dấu của Chúa Cha. Bằng sự vững chắc và cương quyết ấy, Người tiếp tục con đường đã theo và chỉ cho chúng ta cũng như làm cho chúng ta có thể đi vào quan hệ đúng đắn với Thiên Chúa.

Có thể nói ba xen cám dỗ có chủ đề chung là sửa chữa một cách hiểu sai sứ mạng của Đức Giêsu như là Con Thiên Chúa. Dây liên kết ba xen ấy là một chuỗi các câu trích lấy từ sách Đnl nhắc lại ba biến cố Xuất Hành trong đó con cái Israel trong hoang địa đã bị thử thách và đã thất bại. Đức Giêsu được minh nhiên so sánh với họ: tại chỗ Israel đã thất bại, Đức Giêsu đã thành công. Trong mỗi xen, ma quỷ bị Đức Giêsu đánh bại bằng cách trích Kinh Thánh. Tác giả Lc không ghi lại một lời nào khác của Đức Giêsu. Như thế, Người được phác vẽ ra như là Đấng chiến thắng nhờ được võ trang bằng Lời Thiên Chúa (x. Ep 6,17).

5.- Gợi ý suy niệm

1. Trong lời mời gọi hoán cải, Gioan khẳng định rằng ơn cứu độ không mưa từ trời xuống cho chúng ta. Chúng ta phải chủ ý thực hiện một cuộc hoán cải quyết liệt và hữu hiệu mà quay về với Thiên Chúa. Ngài muốn chúng ta hoán cải và Ngài giúp chúng ta thực hiện, nhưng chúng ta phải chủ động bắt tay vào. Lối xử sự của chúng ta đối với Thiên Chúa sẽ cứ bị méo mó đủ cách. Nhiều thực tại khác lôi kéo sự chú ý của chúng ta, tỏ ra quan trọng và có giá trị hơn chính Thiên Chúa. Cám dỗ và thử thách vẫn có đó, nên ta cần phải lấy lập trường và quyết định. Đức Giêsu nêu gương cho chúng ta: vì Người luôn ở về phía Thiên Chúa, nên Người có thể trả lời cách yên hàn, chắc chắn và đàng hoàng. Người diễn tả ra cách đơn giản, tuyệt đối rõ ràng, điều gì có giá trị.

2. Bị thử thách không phải là một điều xấu: Đức Giêsu vừa được Thánh Thần hướng dẫn vừa chịu quỷ cám dỗ. Điều xấu là để mình sa chước cám dỗ. Nếu kiên trì chiến đấu và đạt chiến thắng như Đức Kitô đã làm trong hoang địa, ta đã có dịp diễn tả lòng hiếu thảo của mình đối với Chúa Cha. Dĩ nhiên không nên tự phụ mình thừa sức chiến thắng cám dỗ bằng cách đi tìm cám dỗ! Còn khi cám dỗ đến, chúng ta bắt chước Đức Giêsu dùng những phương tiện siêu nhiên có được mà chiến đấu: Lời Chúa, cầu nguyện, Thánh Thể…

3. Chúng ta bị cám dỗ khi chỉ rút vào trong mình, và đầy người khác ra ngoài; khi chúng ta dùng các tài năng để chỉ thỏa mãn chính mình; khi chúng ta xác tín rằng chúng ta phải lo cho chính mình, chứ không quan tâm đến người khác. Đức Giêsu đã sử dụng quyền của Người cho kẻ khác. Phải luôn nhìn nhận quyền chúa tể của Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh. Nhưng sự nhìn nhận này thường xuyên bị đe dọa bởi việc đi tìm quyền lực: “Tôi có khả năng quyết định. Lời tôi nói và ý tôi muốn là dứt khoát và phải được tuân theo. Tôi có quyền xếp đặt các con người và các sự việc!” Đức Giêsu nhìn nhận quyền bính trong thế giới loài người. Tuy nhiên các quyền bính này không được coi như có quyền thống trị trên người khác, trái lại phải được sống như một công việc phục vụ (x. Lc 3,12-14; 22,24-27).

4. Trong cuộc sống này, chúng ta không thể mong được miễn giảm một cuộc chiến đấu gian khổ. Tuy nhiên, chúng ta được biết Tin Mừng này: có một Đấng mà tên cám dỗ không làm hại được; có Đấng tuyệt đối sống trung thành với Thiên Chúa. Cho dù chúng ta không chống lại được thử thách và cứ té ngã liên tục, sự kiện có một Đấng vẫn đứng vững và trung thành với Thiên Chúa phải thổi vào lòng chúng ta niềm vui và sự can đảm. Đức Giêsu đã không cần bằng chứng để tin vào tình yêu của Chúa Cha. Thế nhưng có những Kitô hữu tin rằng Thiên Chúa chỉ yêu thương họ khi mọi chuyện xuôi chảy với họ, còn khi có những trục trặc, họ bắt đầu ngờ vực. Còn Đức Giêsu, ngay trên thập giá, khi những con mắt trần gian thấy dường như Người bị Thiên Chúa nguyền rủa, Người vẫn tin vào tình yêu của Chúa Cha.

5. Đức Giêsu nói “không” với quỷ, nhưng cũng phải nói “không” với chính mình, bởi vì con đường Người theo kềm hãm các khát vọng và những đòi hỏi của bản tính tự nhiên. Các phản ứng của Người trước đau khổ, những tủi nhục, những thất bại, thì cũng giống như mọi người. Người không thể phạm tội, nhưng Người có thể chọn con đường chung của mọi người, là sự thoải mái. Vinh quang không phải là một tội, mà còn là một quyền Người có thể dùng. Sự rút lui của quỷ chứng tỏ đây không những là một chiến thắng của chủ trương Mêsia khiêm nhường và phục vụ như tôi tớ, mà còn là một chiến thắng riêng của Đức Giêsu. Người đã không muốn bước theo một nẻo đường tiện nghi thoải mái, không muốn hưởng trước một thành công; nhưng Người đã tôn trọng con đường đã được chọn cho Người dù phải hy sinh, thiệt thòi. Khi rời khỏi hoang địa, không những Người được thánh hiến mà còn có đầy đủ tư cách Mêsia.

 

66.Chiến đấu

Thánh lễ hôm nay các con thấy có gì đặc biệt nào? Phải rồi, cha mặc lễ phục màu tím, thầy cũng đeo dây tím, các bạn lễ sinh cũng mang khăn tím. Vậy là chúng ta đã vào một mùa phụng vụ mới, mùa gì nào? Đúng rồi, mùa chay. Hôm nay là Chúa nhật I mùa chay. Mùa chay là thời gian thuận tiện để chúng ta theo gương Đức Kitô tập luyện chiến đấu chống lại ma quỉ. Bài Tin Mừng hôm nay cho biết Chúa Giêsu ba lần bị ma quỉ cám dỗ và cả ba lần Ngài đã chiến thắng thật vẻ vang.

Lần thứ nhất, sau khi Chúa Giêsu ăn chay cầu nguyện, không ăn gì cả suốt 40 ngày, Ngài đói meo, lúc đó ma quỉ tới cám dỗ Ngài: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì truyền cho hòn đá này biến thành bánh đi”. Ma quỉ muốn Ngài dùng quyền phép để dễ dãi thoả mãn cơn đói của riêng mình, chẳng cần phải vất vả làm việc. Chúa Giêsu phản công làm sao? Người đã dùng một câu trong sách thánh: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh”.

Lần thứ hai, quỉ cho Chúa Giêsu thấy tất cả các nước trên thế gian, mọi thú vui và giàu sang, rồi nó dám lếu láo nói với Chúa: “Nếu ông thờ lạy tôi, tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị các nước đó”. Sức mấy mà Chúa Giêsu chịu thờ lạy nó, Người quả quyết: “Ngươi phải thờ lạy Thiên Chúa và chỉ phụng thờ một mình Người”. Đây cũng lại là một câu trích trong sách thánh.

Lần thứ ba, quỉ đưa Chúa Giêsu lên nóc đền thờ Giêrusalem, nó dụ dỗ Chúa Giêsu: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy gieo mình xuống đi… vì Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ gìn giữ ông”. Ma quỉ cám dỗ Chúa Giêsu thử thách Thiên Chúa, đồng thời biểu diễn phép lạ để mọi người thấy phải lác mắt thán phục. Chúa Giêsu mắng nó: “Ngươi chớ thử thách Thiên Chúa là Chúa của ngươi”. Lại một lần nữa Người chiến thắng ma quỉ bằng một câu trích trong sách thánh. Cả ba lần ma quỉ đều thua, thế là chúng phải rút lui.

Các con thấy đó, Chúa Giêsu mà còn bị ma quỉ cám dỗ huống hồ gì là chúng ta. Mọi người chúng ta đều bị ma quỉ cám dỗ. Các con bị cám dỗ, thầy cũng bị cám dỗ và chính cha mẹ các con cũng bị cám dỗ nữa.

Vậy theo các con cám dỗ là gì? À giỏi lắm, các con có thể hiểu nôm Ngài như thế: cám dỗ là những lời rủ rê chúng ta làm điều xấu, xúi giục chúng ta phạm tội. Thế thì ma quỉ cám dỗ chúng ta bằng cách nào? Phải chăng nó hiện ra thành một thằng quỉ đen thùi lùi, có đuôi dài, trên đầu có hai cái sừng để cám dỗ chúng ta? Không đâu! Trước hết nó có thể cám dỗ chúng ta qua những người khác. Đó có thể là những bạn xấu, khi họ rủ rê ta làm điều sai trái. Đó cũng có thể là những người xấu khi họ muốn lợi dụng chúng ta, làm hại chúng ta. Thầy nghe nói, có những bọn xấu, chúng đến tận các cổng trường, cho các em học sinh tiền bạc bánh kẹo, dụ dỗ các em học sinh hút thuốc hay dùng thuốc gây nghiện để rồi biến những em học sinh thành những kẻ nghiện ma tuý, phải mua hàng của chúng. Trong những trường hợp như thế này, các con phải làm sao? Phải chạy à? Đúng rồi, khi có người đề nghị các con điều gì các con không biết đúng hay sai, các con hãy chạy ngay lại thầy cô, cha mẹ để hỏi xem có được làm như thế hay không. Bọn xấu nghe nói các con đi hỏi cha mẹ thầy cô thì nó lỉnh đi liền.

Ngoài ra ma quỉ cũng có thể trực tiếp cám dỗ chúng con, nó bỏ nhỏ vào tai chúng con, nó xúi giục trong tâm trí chúng con, nên chúng con rất khó nhận ra chúng. Chẳng hạn bạn Rong, trên đường đi lễ, ngang qua chỗ trò chơi điện tử, ma quỉ nói nhỏ vào tai: còn sớm mà, vào đây coi một tí rồi ra ngay. Thế rồi Rong bước vào, nó lại rủ rê: chơi 15 phút thôi. Rong mê mải chơi và quên mất thời gian, thế là không đi lễ. Về nhà má hỏi đi đâu về trễ. Nghe ma quỉ xúi giục Rong lại nói dối má: con đi lễ và học giáo lý mới về.

Các con thấy đó, ma quỉ rất xảo trá, khi cám dỗ bao giờ ma quỉ cũng bày ra những hình ảnh hay đưa ra những lời dụ dỗ thật hấp dẫn, làm cho ta khoái, làm cho ta thích. Hơn thế nữa, ma quỉ rất lì lợm, cám dỗ một lần không được nó sẽ trở lại cám dỗ cách khác, cám dỗ nữa, cám dỗ hoài, cho đến khi ta chiều theo ý nó. Nó cũng lại rất ranh ma, quỉ quyệt chẳng bao giờ nó cám dỗ các con phạm tội nặng ngay, nhưng ban đầu nó xúi hãy bỏ qua việc này việc nọ, hay nó chỉ xúi phạm những tội nhẹ, một khi phạm tội nhẹ quen rồi, nó sẽ cám dỗ ta phạm tội nặng mấy hồi. Thế nên, các con đừng bao giờ dại dột nghe lời dụ dỗ của nó mà phạm tội, dù là phạm tội nhẹ, đừng giống như chú vịt trời trong câu chuyện sau đây:

Có một đàn vịt trời bay về phương nam để trú đông. Vào một buổi chiều cả đàn đáp xuống một nông trại, thấy vịt nhà đang ăn bắp, chúng ùa theo vào ăn ké. Hôm sau chúng lại tiếp tục cuộc hành trình. Thế nhưng có một chú vịt con, vì được một bữa ăn ngon nên không muốn bay theo đàn, nó tự nhủ để mai mốt bay theo cũng chưa muộn. Thế rồi, ngày qua ngày, chú vẫn ở lì với đàn vịt nhà để được ăn ngon mà chẳng phải vất vả gì. Mùa xuân về, đàn vịt trời bay qua. Các bạn cũ kêu gọi nó: “Hãy theo chúng tôi. Được bay lượn trên bầu trời rộng lớn, được chu du khắp mọi nơi, thích lắm!” Chú vịt trời ráng sức đập cánh bay lên, thế nhưng, những bữa ăn no nê làm nó mập ú, và đôi cánh lâu nay không bay trở nên yếu ớt nên nó chỉ bay là đà đến ngọn cây rồi té cái bịch xuống đất, nó không bay theo đàn được nữa. Thế là dần dần quen đi, nó cam lòng sống lẹt bẹt dưới đất với lũ vịt nhà.

Trở lại trường hợp bạn Rong trên kia, nếu Rong không chịu sửa lỗi, cứ nói dối mà trốn học, trốn lễ để chơi điện tử, rồi sẽ đến một ngày khi không có tiền, ma quỉ xúi giục ăn cắp của má một ít, của ba một ít, ngày này qua ngày khác… Thế là ăn cắp quen tay, lớn lên Rong có thể ăn cắp nhiều hơn, rồi đi ăn trộm, ăn cướp…

Các con thấy đó, kẻ thù của chúng ta đúng là lũ ranh ma quỉ quyệt, vậy làm sao chúng ta chống lại được chúng? Tuy ma quỉ gian tà giảo quyệt, nhưng chúng ta không sợ ma quỉ. Chúng con biết tại sao không? Tại vì chúng ta có Chúa. Chúa mạnh hơn ma quỉ, Chúa giỏi hơn ma quỉ. Có Chúa ở phe ta thì ma quỉ không làm gì chúng ta được. Vậy muốn thắng được ma quỉ các con phải có Chúa Giêsu và phải trang bị khí giới của Chúa Giêsu. Khí giới của Chúa Giêsu là gì? Đó là cầu nguyện, ăn chay hãm mình, đó là Lời Chúa trong sách thánh. Vậy muốn sắm cho được khí giới của Chúa Giêsu, trước hết các con hãy siêng năng sớm tối đọc kinh cầu nguyện; biết hy sinh hãm mình, nghĩa là biết chăm làm, chăm học, không làm biếng. Thứ đến là phải chăm chỉ học giáo lý, trong thánh lễ thì chăm chú nghe giảng để được biết về Chúa biết về những điều Ngài dạy. Để có Chúa thì phải làm sao? Phải năng lãnh nhận các bí tích nhất là bí tích giải tội và Thánh Thể. Mỗi khi tham dự thánh lễ, lãnh nhận Mình Thánh Chúa là các con được lãnh nhận chính Chúa Giêsu, chính Ngài chiến đấu trong các con, tiếp thêm sức mạnh cho các con. Ước chi trong mùa chay này, các con biết luôn tin tưởng bám chặt vào Chúa, được vậy ma quỉ sẽ chẳng thể làm gì hại các con, bởi vì Chúa sẽ luôn trợ giúp và bảo vệ các con như lời Kinh Thánh mà thánh Phaolô lập lại trong bài đọc 2 hôm nay: “Ai đặt niềm tin vào Chúa, sẽ không phải thất vọng” và “Ai kêu cầu danh Chúa, sẽ được cứu thoát”.

 

67.Chú giải của Fiches Dominicales

TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN BÀNG HÀNH ĐỘNG

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI

1. Liên hệ chặt chẽ với phép rửa của Đức Giêsu

Sau trình thuật về phép rửa, lúc tiếng nói từ trời tuyên bố: "Con là Con Cha. Hôm nay Cha đã sinh ra Con", Luca đưa vào bản gia phả của Người, nhắc lại tổ tiên nhân loại của Đức Giêsu cho tới "Adam, con Thiên Chúa". Cũng trong mối liên lạc chặt chẽ với quang cảnh phép rửa là với bản gia phả mà thánh sử định vị cho giai đoạn cám dỗ: Đức Giêsu "đầy Thánh Thần" rời bỏ "bờ sông, Giođan"; người "được Thánh Thần hướng dẫn vào hoang địa" - Đây là nơi mơ hồ, nơi mà theo Kinh Thánh, con người bị thần dữ thử thách hoặc đi vào kết hiệp với Thiên Chúa hằng sống "trong 40 ngày"

Người sẽ bị "ma quỉ thử thách" với tư cách là Con Thiên Chúa. Ma quỉ hỏi với Người: "Nếu ông là Con Thiên Chúa hãy truyền cho hòn đá này trở nên bánh. Nếu ông là con Thiên chúa, hãy nhảy xuống đất".

2. Thử thách đầu tiên trong cuộc chiến toàn thắng.

Cũng như bản văn của Mátthêu - tuy thứ tự có khác – bản văn của Luca kết cấu chung quanh 3 cuộc cám dỗ. Ba cuộc cám dỗ, chính Tin Mừng xác định rõ ràng ở phần kết, đã “múc cạn” mọi hình thức cám dỗ": những cơn cám dỗ mà Đức Giêsu sẽ phải đương đầu suốt dọc tác vụ của Người cho đến khi chết, những cơn cám dỗ mà các môn đệ và mọi thành phần trong cộng đoàn của các ngài sẽ gặp. Ba cơn cám dỗ, cũng như ba lời trích dẫn đã ghi chú cặn kẽ, đã được khéo léo lựa chọn từ sách Thứ Luật (trích trong bài đọc 1 và thánh Phaolô trích dẫn trong bài đọc 2), chính là những cơn cám dỗ mà dân Israel đã phải đương đầu, trong suốt 40 năm sa mạc. Có điều họ đã sa ngã. Nay đến phiên Đức Giêsu phải đương đầu với những cơn cám dỗ ấy, suốt 40 ngày trong sa mạc: Ba lần, địch thù thử thách lòng trung tín của người Con đối với Thiên Chúa và với chương trình cứu độ của Người; trong cả 3 lần, Đức Giêsu đã chiến thắng.

Hugues Cousin nhận xét: "Đây là trường hợp độc nhất trong văn chương Tin Mừng. Đức Giêsu chỉ nói những lời tích từ Cựu ước, Con Thiên Chúa phải trải qua 3 cuộc thử thách mà xưa kia dân Israel trong chuyến Xuất Hành đã đương đầu và đã sa ngã đã sa ngã; rút được kinh nghiệm từ những bài học trong sạch thứ Luật, cảnh giác để khỏi tái diễn những lỗi lầm tương tự. Đức Giêsu đã chiến thắng đối thủ" ("Tin Mừng theo thánh Luca", Centurion, trg 62).

+ Cơn cám dỗ đầu tiên, giống như Mátthêu, là cơn cám dỗ về Sở Hữu, cơn cám dỗ chỉ tìm lợi lộc vật chất, cơn cám dỗ của một chủ nghĩa Mêsia thiển cận: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy biến hòn đá này thành bánh đi".

Lần đầu tiên trích dẫn sách Thứ Luật 8,3 - đoạn nói về manna - Đức Giêsu trả lời ngay tức khắc: "Người ta sống không nguyên bởi bánh". Người từ chối làm phép lạ vì lợi lộc riêng tư. Là "Con" thật sự, Người nhận tất cả từ Thiên Chúa, Cha của Người và chỉ từ Chúa Cha mà thôi; nên Người phó thác tất cả cho Thiên Chúa, Cha của Người và chỉ phó thác cho Chúa Cha mà thôi. Roland chú giải: "Con là kẻ nhận được sự hiện hữu, sự sống không từ chính mình, nhưng từ một kẻ khác, từ Cha của mình. Con là kẻ hiểu biết trong niềm vui và niềm biết ơn rằng mình sống nhờ Cha. Người không phải là kẻ ra lệnh để có bánh; chính Chúa, Thiên Chúa của Người sẽ ban lương thực cùng với Lề Luật. Con không ra lệnh, Người khẩn cầu: "Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày" (Tin Mừng theo thánh Luca. Phân tích tu từ", Cerf, quyển 3, trg 50).

+ Cơn cám dỗ thứ hai, khác với trình thuật của Mátthêu, là cơn cám dỗ về QUYỀN LỰC; cơn cám dỗ về một chủ nghĩa Mêsia theo tham vọng loài người, dù phải trả giá bằng sự thoả hiệp. "Nếu ông thờ lạy tôi, quỉ đoán chắc, ông sẽ có tất cả" ("Mọi quyền lực và vinh quang của các vương quốc ấy”).

Lần thứ hai trích dẫn sách Thứ luật 6, 1 3 - đoạn nói về con bò vàng - Đức Giêsu trả lời ngay: "Đã chép rằng: Người chỉ được thờ lạy Chúa, Thiên Chúa của ngươi mà thôi". Người từ chối không tôn kính thủ lãnh trần gian để hành xử vương quyền phổ quát. Là Con thật sự, Người sẽ nắm giữ vương quyền từ Thiên Chúa, Cha của Người, và chỉ từ Cha người mà thôi, theo con đường Cha đã chọn: con đường khiêm nhường, nghèo hèn, thánh giá. R. Meynet chú giải: "Đức Giêsu sẽ nhận được các vương quốc trần gian, Người sẽ là Đức Kitô, Vua, vì Người đã từ chối vương quyền xấu xa của ma quỉ, vì Người đã tự nguyện trở nên tôi tớ của Thiên Chúa và của nhân loại" (Sđd).

+ Cơn cám dỗ thứ ba Luca đã cho diễn ra ở Giêrusalem, báo trước thử thách quyết liệt sau này, đó là cơn cám dỗ MA THUẬT, cơn cám dỗ thử thách Thiên Chúa, đi tìm những dấu chỉ kinh thiên động địa của Đấng Mêsia. Ma quỉ dùng Tv 90, cố cám dỗ một lần cuối: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy gieo mình xuống; Có lời chép rằng: người đã ra lính cho các thiên thần gìn giữ ông".

Lần cuối cùng trích dẫn sách Thứ Luật 6,16 - đoạn nói về Massa, nơi dân Do Thái đã buộc Chúa phải cho họ nước uống - Đức Giêsu đáp tức khắc: "Đã chép rằng: "Ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa của ngươi". Người từ chối sử dụng quyền làm Con Thiên Chúa để bảo vệ mình; và mê hoặc người Do Thái bằng những điều kỳ diệu. Người từ chối buộc Thiên Chúa phải can thiệp. Người không đòi phép lạ để cứu mạng sống mình; người chẳng đòi hỏi cả khi Người bị treo trên thánh giá. R. Meynet nói tiếp: "Người tin chắc rằng: Thiên Chúa sẽ cứu Người, Người không có quyền kiểm chứng xem Chúa Cha có trung tín không; Thiên Chúa chẳng cần phải chứng tỏ cho mọi người thấy Thiên Chúa có cứu Người" (sđd).

3. Sẽ hoàn tất trên thánh giá

Nếu, như nói ở trên, Luca hoán đổi vị trí 2 cơn cám dỗ sau, đó là vì muốn thiết lập một thứ tự tiệm tiến cho tới cơn cám dỗ thứ ba: Tại Giêrusalem, nơi có cuộc đụng đầu quyết liệt và nơi hoàn thành quyển sách đầu tiên của ngài. Đây là khúc nhạc mở đầu loan báo cuộc thử thách lớn lao trong khổ nạn.

Hôm nay, đối thủ đành chịu khuất phục, nó rút lui "chờ giờ phút đã định". Lúc ấy, nó sẽ xuất hiện, ra những đòn cuối cùng tấn công Đấng Chịu Đóng đinh qua miệng các sĩ quan, quân lính và cả người trộm dữ nữa.

“Nếu ông là Đức Kitô, hãy cứu mình và cứu chúng tôi với!, một kẻ cùng chịu đóng đinh với Người lên tiếng, thách thức.

Trong lúc thất bại ê chề trước mặt mọi người, Đức Giêsu: vẫn vững vàng trong thử thách; vẫn gần bó với thánh giá giữa các người bạn cùng đau khổ. Người phó thác trọn vẹn cho Chúa Cha cội nguồn sứ mạng của Người. Và người trộm lành đã sinh ra trong ánh sáng nên đã không nguyền rủa.

Quân lính chế nhạo: "Nếu ông là Vua dân Do Thái, hãy tự cứu mình đi".

Trong lúc công cuộc của Người tưởng như vĩnh viễn lụi tàn, Đức Giêsu vẫn kiên vững trong thử thách, vẫn lặng lẽ. Đấng Mêsia - Vua chịu đóng đinh và bất lực cầu khẩn một mình với Chúa Cha "Lạy Cha, con dâng phó hồn con trong tay Cha" (Tv 30.6). Thái độ của Người trước cái chết đã khiến viên sĩ quan Rôma phải thốt lên những lời đầy hứa hẹn: "Quả thật ông này là người công chính".

Thủ lãnh trong dân châm chọc: "ông ta đã cứu được người khác: hãy tự cứu mình đi, nếu ông ta là Đấng Mêsia của Thiên Chúa, "Đấng được tuyển chọn".

Trong khi tất cả mọi người quấy rối, Đức Giêsu vẫn kiên vững trong thử thách, tha thứ cho các đao phủ. Và sự đau khổ cũng như cái chết của Người, được đảm nhận trong tình yêu, đã sinh hoa kết quả: Có người đã tách ra khỏi các thành viên của hội đồng, đó là Giuse người Arimathia.

Có người sẽ hỏi, đâu là gốc rễ lịch sử của đoạn văn mà Mátthêu và Luca thuật lại. H. Cousin trả lời: "Bên cạnh một biến cố xác thực, cuộc tĩnh tâm của Đức Giêsu trong hoang địa sau khi chịu phép rửa, ta phải xét đến 2 thực tại: những cơn cám dỗ chắc chắn phải có, đặc biệt là cơn cám dỗ về chủ nghĩa Mêsia trần tục, vì chúng vẫn tồn tại trong suốt sứ vụ của Đức Giêsu; và Người vẫn kiên trì chống trả không bao giờ chịu lùi bước nhượng bộ. Những dấu vết hiển nhiên tồn tại trong suốt Tin Mừng Luca (10, 25; 11, 6 và kế tiếp; 22, 42...) càng cho ta thấy rõ rằng: Đức Giêsu là một Đấng Mêsia nghèo nàn và đau khổ. Các môn đệ làm chứng Người luôn trung tín với Thiên Chúa, với sứ mệnh mà Người đã lãnh nhận. Luca đã làm cho độc giả hiểu ràng Đức Giêsu đã phải chọn lựa một hình thức thi hành sứ mệnh, một cách thế hiện hữu và không phải dễ dàng để đi đến cùng chọn lựa ấy" (Sđd, trg 63-64).

BÀI ĐỌC THÊM

1. Cơn cám dỗ của Đức Giêsu trong hoang địa: một pha gây cấn

(H. Denis trong "100 từ ngữ diễn tả đức tin", DDA, trg 111- 112).

Mùa Chay khai mạc - vào Chúa nhật đầu tiên - đưa ta đến trước một cảnh lạ lùng, thậm chí đáng lo ngại: cơn cám dỗ Đức Giêsu trong hoang địa.

Ta muốn nói như Phêrô khi nghe loan báo cuộc khổ nạn: "Không! Thầy không phải chịu như thế. Đôi khi ta cố xoay xở, nhưng đó không phải là linh đạo tối ưu khi giải thích sự vật" như sau: Thực ra, Đức Giêsu không thực sự bị cám dỗ, Người đã chấp nhận bị cám dỗ "vì ta", để dạy ta biết phải chống lại các cơn cám dỗ như thế nào. Nhưng giá phải trả cho lối giải thích này rất nặng. Làm như Đức Giêsu "giả vờ" không bằng. Rồi sẽ suy ra người giả vở làm người, giả vờ học hành, giả vờ đói giả vờ đau khổ, giả và chết.

Nếu ta muốn chấp nhận Đức Kitô có nhân tính thực sự, ta phải tìm hiểu xem bằng cách nào Đức Giêsu đã thực sự bị cám dỗ ra khỏi con đường thẳng tắp của sứ mệnh của Người, và Người đã chống trả thế nào.

Cơn cám dỗ về bánh để nuôi dân no đủ vốn là cơn cám dỗ của mọi lãnh tụ, có tôn giáo hay không. Đức Giêsu đã chống cự. Nếu có lần Người chấp nhận hoá bánh ra nhiều, đó cũng chỉ nhằm giúp người ta có đủ sức nghe lời phát xuất từ miệng Thiên Chúa và để họ tìm được một thứ lương thực khác: "Này là Mình Ta, sẽ bị nộp vì các con". Cơn cám dỗ về phép lạ, về những điều kỳ diệu cũng đã bị đẩy lui. Phải chăng đó đã là dấu chỉ của một Đức Giêsu chỉ chữa bệnh vì Nước Trời? "Phúc cho ai không thấy mà tin".

Cơn cám dỗ về quyền lực trên trần gian cũng tinh vi không kém. nhưng Đức Giêsu biết rằng Satan ẩn nấp trong mọi thứ vinh quang không qui về Chúa Cha. Vinh quang của Đức Kitô là vinh quang của sự hiến mình. Điều ấy sẽ được thực hiện trên thánh giá, trong khó nghèo tột độ, khi mọi sự hoàn tất.

2. Những cạm bẫy tương tự trải dài suốt lộ trình của ta

(F. Deleclos, trong ‘hãy cầm lấy Lời Chúa mà ăn’ Centurion-Duculot, trg 193-194).

Thật tốt nếu ta vui vẻ để "Chúa Thánh Thần dẫn vào hoang địa". Đó là cơ hội sống động cho ta khám phá hoặc tái khám phá ra những cạm bẫy thường xuyên giăng dưới bước chân người Do Thái, những cạm bẫy mà Đức Kitô đã gặp, cũng là những cạm bẫy trải dài suốt hành trình và suốt lịch sử đời ta. Ta hãy học cách vạch trần những cơn cám dỗ để khỏi bị lệch hướng xa đường giao ước, xa đường sứ mạng của ta.

Những cạm bẫy của Thần Dữ toả ra hào quang duyên dáng và lôi cuốn, mời mọc tinh vi và đáng sợ, cộng với trí thông minh và sự kiên nhẫn của "Địch thủ của triều đại Thiên Chúa".

Đó là cơn cám dỗ dùng Lời Chúa phục vụ mọi ham thích của ta về sở hữu, về hiểu biết, về quyền lực, là những nguồn không bao giờ cạn “của mọi loài hình cám dỗ" luôn quấy phá các tín hữu và các Giáo Hội.

Đó là những ham hố quá đáng đi tìm điều lạ lùng, săn đuổi các cuộc hiện ra, các phép lạ, làm lệch hướng những đòi hỏi khẩn cấp của Tin Mừng.

Đó là cầu nguyện sốt sắng bên ngoài để phiền nhiễu Thiên Chúa, mong rút tỉa được đặc ân tránh khỏi thử thách, khổ đau.

Cạm bẫy còn là những an thân giả tạo, những bảo đảm hão huyền mà ta mải mê tìm kiếm trong một mớ chồng chất những lễ nghi trống rỗng vô nghĩa vô hồn.

Cơn cám dỗ tinh vi cuốn ta vào đủ mọi thứ hy sinh đến từ tinh thần thống trị, lòng ham thích sức mạnh và say mê quyền lực Thiên đường các ngẫu tượng.

Làm cách nào trả lời 3 cuộc cám dỗ tiêu biểu nếu không phải là 3 câu trả lời bằng ăn chay, cầu nguyện và chia sẻ. Gặp gỡ Chúa để Lời chân lý và sự sống đổ đầy vào trái tim ta và vọt ra từ môi miệng ta. Khước từ những phồn vinh muốn chôn vùi ta và khám phá thấy trong sự tiết độ những giá trị vững bền. Tình liên đới làm phát sinh và nuôi dưỡng lòng quảng đại huynh đệ đối với biết bao kẻ đói khát sự công chính và bình an, những người bị loại trừ khỏi tình yêu và lòng kính trọng, những người bị áp bức ở mọi nơi, đám đông mênh mông những người bị đóng đinh nơi đó Đấng giải phóng, Đấng Phục sinh hằng sống đang náu ẩn trong vô danh.

 

68.Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt

CÁM DỖ TRONG SA MẠC

1. Phần dẫn nhập của trình thuật này (cc.1-2) có vẻ chi tiết hơn Mt. Lc thêm hai chỉ dẫn quan trọng: Chúa Giêsu “tràn đầy Thánh Thần” (x.Cv 6,5; 7,55; 11,24 - với động từ “tràn đầy":Lc 1,15.41.67; Cv 2,4; 4,8; 31,9; 17,13,9.52) và Chúa Giêsu “bỏ bờ sông Giodan”. Hai chi tiết này chứng tỏ ý hướng muốn nối kết chặt chẽ cám dỗ với cuộc thần hiện sau phép rửa. Lc muốn cho ta hiểu rằng gia phả Chúa Giêsu chỉ là một “cái ngoặc đơn” mà thôi. Bắt đầu kế tiếp (4,14), Lc lần nữa nhắc lại việc Chúa Giêsu vừa lãnh nhận Chúa Thánh Thần: việc Ngài giảng dạy cũng được nối kết với cuộc thần hiện ở sông Giodan. Chính trong địa vị làm Con Thiên Chúa tràn đầy Thánh Thần mà Chúa Giêsu bắt đầu sứ mạng rao giảng của Ngài.

Lc không nói như Mc và Mt là Chúa Giêsu được Thánh Thần dẫn “vào sa mạc": Chúa Giêsu băng qua sa mạc dưới sự thúc đẩy mạnh mẽ của Chúa Thánh Thần là Đấng hình như không cho phép Ngài dừng bước. Lời xác định “trong suốt 40 ngày” ăn khớp với động từ êgeto (được dẫn đưa): dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, Chúa Giêsu đã đi suốt 40 ngày trong sa mạc. Người ta có thể thấy ở đây ảnh hưởng của câu Đệ Nhị Luật 8,2 mà Lc đã theo sát trong bản dịch 70 (câu này nằm ngay trước Đnl 8,3 mà Chúa Giêsu mượn làm câu trả lời đầu tiên): “Hãy nhớ con đường mà Thiên Chúa ngươi đã dẫn ngươi đi (êgagen se)(bản Talmud: suốt 40 năm) trong sa mạc để hạ ngươi xuống và để thử thách ngươi khi đọc Mt, người ta có cảm tưởng cơn cám dỗ xảy đến cho Chúa Giêsu sau 40 ngày, còn Lc lại theo Mc, trình bày cơn cám dỗ kéo dài suốt cả thời gian trong sa mạc. Ba chước cám dỗ do ma quỉ do Lc kể lại hình như chỉ là những hình thức tiêu biểu nhất, đặc biệt nhất của các chước cám dỗ đủ loại Chúa Giêsu phải chịu đựng suốt 40 ngày: chúng đánh dấu cao điểm tấn công của ma quỉ.

2. Về cám dỗ thứ nhất, có một hiệu đính quan trọng, được xem là của Lc, là việc thay đổi “những viên đá này, những chiếc bánh từ số nhiều sang số ít. Do mối ưu tư tả thực, Lc đã chọn kiểu nói số ít, có vẻ tự nhiên hơn. Làm như vậy, ông khiến ta bớt nghĩ đến Manna là ý tưởng tiềm ẩn nơi trình thuật của Mt: ông này, để gợi lại hình ảnh Manna che phủ mặt đất trong sa mạc, đã tự nhiên nói đến nhiều viên đá biến được thành bánh; còn hình như Lc không muốn nhấn mạnh đến ảnh Giêsu - Israel. Viết cho những người không phải là Do thái, ông dẹp bớt những gì làm họ ngỡ ngàng.

Sau lời đề nghị “hãy truyền cho những hòn đá này biến thành bánh có thể dễ dàng xác định thêm “để ông có thể ăn”. Một xác tín kiểu đó, nếu lôi kéo chú ý đến sự thoả mãn riêng tư của Chúa Giêsu, thì cũng để cho người ta liên tưởng tới cám dỗ Evà (St 3,6) và tới những cám dỗ Kitô hữu năng gặp. Nhung Lc, mặc dầu vừa nhắc đến Adam vài câu trước đó (3,38) và là người thường ưa quảng diễn dài dòng, đã không muốn gợi những liên tưởng đó. Vì thật ra, việc thoả mãn cơn đói chỉ là chuyện thứ yếu; điều tác giả muốn nhắm ở đây là chính quyền lực lạ lùng của Đấng vừa mới được tuyên bố là Con Thiên Chúa khi Ngài chịu phép rửa. Chính trong ý nghĩa này mà ta phải hiểu lời ngoắt ngoéo thâm hiểm của ma quỉ: “Nếu ông là Con Thiên Chúa”. Cũng như trong trình thuật Mt, ở đây chắc chắn ma quỉ không chút nghi ngờ gì. Sau khi đã chứng kiến tất cả những dấu chỉ lạ lùng xung quanh ngày Giáng sinh và ngày thơ ấu của Chúa Giêsu, sau khi đã thấy rõ Ngài không thể phạm tội cho đến lúc bấy giờ, và có lẽ cũng đã thấy được biến cố thần hiện ở sông Giodan (nếu biến cố này được biểu lộ ra bên ngoài) thì chắc chắn ma quỉ phải biết rõ ràng con người đang đứng trước mặt nó là Đấng Thiên sai của Israel, là Con Thiên Chúa. Vì thế chữ “nếu” của câu “nếu ông là Con Thiên Chúa” không phải là một từ ngữ nói đến điều kiện (như trong câu: “Nếu ngày mai trời tốt, tôi sẽ đi chơi) nhung là chữ “nếu” diễn tả lý do. Lời cám dỗ của ma quỉ có thể viết ra như thế này: vì ông là Đấng Thiên sai, hãy dùng quyền lực Thiên sai của ông để làm những điều lạ lùng có lợi cho ông.

Thứ tự các cám dỗ thứ hai và thứ ba nơi Mt bị Lc đảo ngược. Để biết thứ tự nguyên thuỷ, phải nghiên cứu các câu trả lời của Chúa Giêsu. những câu trả lời ấy được rút ra từ sách Đệ Nhị luật, nhưng Mt đã đảo ngược thứ tự trình bày, nghĩa là Đnl 8,3 rồi đến 6,16; 6,13. Song cũng chính Đnl đã đảo lộn thứ tự lịch sử của các biến cố thời Xuất hành: Đnl 8,3 lấy lại Xac 16 (phép lạ Manna); Đnl 6,16 thì nhắc lại Xac 17,1-7 (phép lạ nước uống); cuối cùng Đnl 6,13 tương ứng với Xac 23,32-34 (nhất là giai thoại con bò vàng). Khi đảo lộn thứ tự của Đnl, Mt lập lại thứ tự lịch sử những cám dỗ của Israel thời Xuất hành. Sự song đối giữa những cám dỗ của Chúa Giêsu và của Israel thời xuất hành. Sự song đối giữa những cám dỗ của Chúa Giêsu và của Israel phải được coi là hình thức nguyên thuỷ của trình thuật. Vậy là Lc đã thay đổi cách phối trí, lý do trước hết là để trình thuật được kết thúc ở Girusalem, như tất cả phúc âm của ông.

3. Cám dỗ thứ hai (cc.5-8) là đoạn mà Lc đã thay đổi nhiều nhất. Ông không muốn nhắc đến “một ngọn núi cao” (Mt) vì đối với Lc, ngọn núi là nơi tuyệt đối dành riêng cho việc thông giao với Thiên Chúa nhờ cầu nguyện và thần hiện, chứ không phải là nơi để cám dỗ hoặc ngay cả giảng dạy (bài giảng trên núi được ông trình bày như là đã xảy ra trên một khoảng đất bằng phẳng so sánh Lc 6,17 và Mt 5,1). Vậy, thay vì nói đến một đoạn núi cao từ đó người ta có thể thấy toàn trái đất “trong nháy mắt”. Lc biết rõ rằng không có một ngọn núi nào mà từ đó có thể thấy được cả toàn cầu, song vì muốn có vẻ thực, ông đã thay thế một chỉ dẫn địa dư mơ hồ bằng một ý niệm thời gian, để cho thấy đây là một thị kiến hoàn toàn ảo ảnh, một thị kiến rất nhanh (không đầy nháy mắt), có tính cách siêu nhiên.

Điểm thêm vào quan trọng nhất phải kể là nơi lời giải thích của câu 6. Nơi Mt, đó chỉ là một vấn đề sở hữu: “Hết mọi cái đó, tôi hiến cho ông” (Mt 4,9). Còn Lc trước tiên chú ý đến quyền lực, quyền bính, esousia (là ý tưởng ông quen dùng: 12,11; 20,20; 22,53; 23,7; Cv 20,18): ma quỉ hứa ban một quyền lực chính trị trên mọi dân nước. Do thái giáo thời gần đó (Is 24,21-23; 27,1) và nhất là trong văn chương khải huyền (Đnl 7,2) đã xác tín rằng các quyền lực ma quỉ, thù nghịch với Thiên Chúa, đang điều khiển các vương quốc trần gian, để ngược đãi dân Tc chọn. Các vương quốc này thờ ngẫu tượng và áp bức Israel, vì dân tin Tc thật. Người ta thấy ma quỉ ẩn núp dưới các bụt thần. Các nước thế gian bày tỏ lòng trung thành với ma quỉ qua việc thờ ngẫu tượng. Tư tưởng này cũng được các tác giả Thiên Chúa chia sẻ (Kh 13,2). Thánh Gioan gọi ma quỉ bằng một tên đầy ý nghĩa: “Đầu mục thế gian” (Ga 12, 31; 14,30; 16,11). Phaolô còn gán cho nó tước hiệu lạ lùng: “thần đời này” (2Co 4,4). Cũng như Lc và Ga, Phaolô nhìn thấy trong hành động của những người đóng đinh Chúa Giêsu (1Co 2,8) sự xúi giục của “đầu mục của đời tạm này”.

Thế gian, nghĩa là thời đại này, âiôn houtos, là lãnh địa của ma quỉ, nên dĩ nhiên quyền lực thế gian tuỳ thuộc nó. Nhưng phải nhận rằng quyền ấy “đã được trao cho” nó: thể thụ động diễn tả hành động hay sự cho phép của Thiên Chúa, chủ thể tối cao (so sánh Ga 19,10); đến thời sau hết, Ngài sẽ tiêu diệt các quyền lực, dân nước đã nổi lên chống lại ngài. Tạm thời, ma quỉ sử dụng quyền lực chính trị đó, và cám dỗ nói ở đây là một cám dỗ về quyền lực, dân nước đã nổi lên chống lại Ngài. Tạm thời, ma quỉ sử dụng quyền lực chính trị đó, và cám dỗ nói ở đây là một cám dỗ về quyền lực chính trị. Nhưng khác với Mt 4,9, lời hứa của câu 7 không nhằm sự chiếm hữu các vương quốc, nhưng là sự thừa hưởng một uy quyền (exousia) tuyệt đối trên tất cả các vương quốc ấy.

4. Về cám dỗ thứ ba (cc. 9-12), Lc thêm hai xác định trong lời của ma quỉ để đi sát với câu trích dẫn Tv 91 hơn. Cũng như trong cám dỗ trước, Lc rõ ràng chú trọng đến ma quỉ và những lời của nó hơn. Trái lại ông làm yếu câu trả lời của Chúa Giêsu bằng cách mở đề: “Đã có nói rằng” thay vì như Mt: “Lại có viết là”, kiểu đối đáp ăn miếng trả miếng với lập luận của ma quỉ.

5. Phần kết luận (c.13) chứa đựng nhiều âm điệu đặc biệt của Lc, làm cho đoạn văn này mang một chiều hướng thần học thật độc đáo.

Phần đầu của câu kết luận ("sau khi dùng hết mọi hình thức cám dỗ") nói đến cám dỗ, peirasmos (ở số ít). Trong Lc, peirasmos luôn ám chỉ cám dỗ theo nghĩa luân lý: 8,13; 11,4; 22,40; 22,46. Cũng tiếng ấy ở số nhiều, peirasmoi lại ám chỉ những thử thách với nghĩa tổng quát hơn nghĩa thuần luân lý: 22,28; Cv 20,19. Lc sẽ còn nói đến những “thử thách” (peirasmoi nơi 22,28) của Chúa Giêsu, nhưng không nhắc đến chữ “cám dỗ” (peirasmos) khi bàn về các môn đệ nữa; đặc biệt ông không ghi lại sự can thiệp bậy bạ của Phêrô tại Késaree của Philip (Mc 8,32-33; Mt 16,22-23) nơi Pharô bị gọi là quỉ cám dỗ Chúa Giêsu. Vậy dưới cái nhìn của Lc, việc Chúa Giêsu chiến thắng ma quỉ trong sa mạc có tính cách quyết định. Thực sự ma quỉ đã “dùng hết mọi phương chước cám dỗ”, và khi nó tái xuất giang hồ, thì không còn là để “cám dỗ” Chúa Giêsu nữa, song là tìm cách giết Ngài. Những nhận xét này cho thấy ý nghĩa của câu 13; trong tư tưởng của Lc, các chước cám dỗ Chúa Giêsu chịu thực sự đã xong rồi, sẽ không còn cám dỗ nào khác. Những thử thách Ngài gặp sau đó không còn đặt lại vấn đề lòng trung tín của Ngài đối với Thiên Chúa và với sứ mạng Ngài đã được Chúa Cha trao phó.

Phần thứ hai của câu kết luận xác quyết cách giải thích này. Lc đã viết: “Ma quỉ bỏ Ngài một thời gian” (Achri cairou) (Bj: au temps marqué, Nguyễn thế Thuấn: đợi dịp). Thành ngữ này chỉ gặp lại một lần trong nơi khác của Tân Ước, Cv 13,11: Elymas, vì muốn gây trở ngại cho Phaolô, đã bị mù không thấy ánh sáng mặt trời “một thời gian”. Như thế, khi loan báo ngày trở lại bất ngờ của ma quỉ, Lc đã minh nhiên trình bày nó như một vai trong cuộc khổ nạn. Thật thế, câu chuyện khổ nạn bắt đầu bằng sự phản bội của Giuda, nhưng ngay từ đầu đoạn văn này, ở 22,3, Lc ghi chú một câu đầy ý nghĩa: “Satan đã nhập vào Giuda”. Đó là việc tái xuất hiện của tên cám dỗ, mở màn cho một thử thách cam go nhất. Và ta cũng thấy, khi đứng trước những địch thủ tới bắt mình, Chúa Giêsu đã nói: “Này là giờ các ông, là thời của quyền lực (exousia) tối tăm (22,53).

6. Việc thay đổi thứ tự cám dỗ 2 và 3 có ý nghĩa nào?

Câu trả lời thứ nhất hệ tại chỗ nhấn mạnh sự quan tâm về địa lý của Lc. Lc muốn kết thúc trình thuật những cám dỗ tại Giêrusalem, vì trước tiên đối với ông, Giêrusalem là một địa điểm có tính cách thần học (Conzelmann). Lời giải thích này đúng nhưng chưa đủ.

Đối với Lc, Giêrusalem tự bản chất là nơi mà các lời loan báo về cuộc khổ nạn và vinh quang của Đấng Cứu thế phải được hoàn tất. Thực vậy sau cuộc cám dỗ, đoạn văn đầu tiên nói đến Giêrusalem trong tương quan với Chúa Giêsu nằm trong giai thoại biến hình; suốt cuộc biến hình này Môisen và Elia đã đàm đạo với Chúa Giêsu về việc “ra đi (oxodos) Ngài sắp hoàn tất tại Giêrusalem” (9,31). “Việc ra đi” đó ám chỉ toàn thể mầu nhiệm vượt qua: tử nạn và phục sinh. Từ giai thoại biến hình này trở đi, Lc tăng thêm những lần nhắc đến Giêrusalem như là nơi mà Chúa Giêsu sẽ lên, nơi mà Ngài sắp hoàn thành sứ mệnh. Người ta thấy cũng một ý tưởng ấy trong hai giai thoại của Phúc âm thời thơ ấu Chúa Giêsu: giai thoại “dâng con trẻ trong đền thờ” với lời tiên tri đầu tiên của Simeon loan báo cuộc tử nạn (2,34-35) và giai thoại “lạc mất, tìm lại con trẻ sau ba ngày” với một lời nói bí nhiệm chỉ hiểu được về sau (2, 41-50); đây là giai thoại tiên trưng cuộc vượt qua cuối cùng của Chúa Giêsu khi Ngài “trở về nhà Cha” và chỉ được các tông đồ tìm gặp lại sau ba ngày.

Văn mạch này cho phép ta phỏng đoán lý do tại sao Lc đã muốn trình thuật các cám dỗ đạt tới cao điểm ở Giêrusalem. Thưa vì không có gì thích hợp cho bằng việc chọn thành ấy làm nơi chấm dứt cám dỗ, nơi ma quỉ từ biệt Chúa Giêsu, nơi y sẽ tái xuất không phải để “cám dỗ” Ngài nữa mà là để gây ra cuộc thử thách cuối cùng. Đó cũng là điều giải thích tại sao Lc đã lưu tâm đến ma quỉ trong tất cả trình thuật này: ông lợi dụng trình thuật để trình bày tên đối thủ, đã một lần thất trận trong sa mạc, tưởng mình sẽ chiến thắng tại Giêrusalem trong ngày thứ sáu tuần thánh.

KẾT LUẬN

Trong trình thuật những cám dỗ, Lc nhấn mạnh đến hai điểm: khuôn mặt của ma quỉ và tương quan của biến cố này với biến cố tử nạn. Trong lúc các câu trả lời của Chúa Giêsu ngắn hơn hoặc ít quan trọng hơn so với nơi Mt, thì ở Lc, những lời cám dỗ của tên ma quỉ có vẻ thực hơn (cám dỗ 1) dài dòng hơn (cám dỗ 2) và ăn khớp với lời trích dẫn Thánh kinh hơn (cám dỗ 3). Cuối cùng đoạn kết luận của trình thuật còn nói đến ma quỉ chứ không phải Chúa Giêsu (khác với Mt). Lc nối kết các cám dỗ với cuộc khổ nạn và với Giêrusalem, nơi hoàn thành những lời tiên tri loan báo về đau khổ và vinh quang của Đấng Cứu thế. Cuộc khổ nạn và thành Giêrusalem đã được nhắc đến trong Tin mừng thời thơ ấu (2,34-35. 41-45). Rồi tiếp đến, phần đặc biệt nhất của phúc âm thứ ba lại trình bày việc Chúa Giêsu lên Giêrusalem (9,51-18,9). Khi lặp đi lặp lại Chúa Giêsu lên Gierusalem (9,51; 9,53; 13,22-33; 17,11; 18,31; 19,11-28), Lc nhấn mạnh Giêrusalem sẽ là nơi xảy ra “cuộc ra đi” ()9,31 và cuộc “siêu thăng” của Ngài (9,51). Vì vậy người ta có thể nói rằng: trong lúc các trình thuật của Mt chỉ nhìn về quá khứ của dân Israel để minh chứng sự thể hiện chương trình của Thiên Chúa, thì các trình thuật của Lc hình như lại qui hướng hơn về những biến cố chính yếu làm thành nền tảng thực sự của nhiệm cục mới: tử nạn, phục sinh, hiện xuống.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1. Chính nhờ Thánh Thần hướng dẫn mà Chúa Giêsu vào sa mạc để chịu cám dỗ. Qua việc đó ta thấy rằng bị cám dỗ không phải là một điều xấu. Chính Chúa Giêsu cũng đã biết qua cơn cám dỗ. Điều xấu là ngã gục trước cám dỗ ấy. Chống lại cám dỗ một cách anh dũng như Chúa Giêsu trong sa mạc chính là cho mình có dịp biểu lộ tình con thảo hiếu với Chúa Cha. Dĩ nhiên chúng ta không được liều mình đứng trước cám dỗ (điều ấy chỉ mình Chúa Giêsu mới có thể làm được vì Ngài là Con Thiên Chúa và sự đối đầu với ma quỉ ngay từ đầu sứ mệnh Cứu thế là một phần trong chương trình của Thiên Chúa). Liều mình đứng trước cám dỗ khi không cần thiết là điều làm Chúa Giêsu - đã không muốn làm khi ma quỉ xúi Ngài gieo mình từ nóc đền thờ xuống. Vì như vậy là thách thức Thiên Chúa. Nhưng khi hoàn toàn ngoài ý muốn mà chúng ta bị đặt trong những hoàn cảnh phải chịu cám dỗ thì không có gì phải hoảng hốt. Hãy nhớ rằng với tư cách là môn đệ của Đấng đã bị cám dỗ trong sa mạc, chúng ta đương nhiên phải trải qua cám dỗ, lúc ấy hãy làm như Chúa Giêsu: lợi dụng những phương thế siêu nhiên có sẵn: tăng sức mạnh lời Chúa, năng cầu nguyện (như Chúa Giêsu trong vườn cây dầu) nuôi dưỡng mình bằng thịt và máu của Đấng đã từng chiến thắng Satan.

2. Sứ vụ của Chúa Giêsu khai mào bằng việc chiến thắng ma quỉ: Ngài vượt lên trên nó. Thời cứu độ Chúa Giêsu khai mở là thời đánh dấu khởi đầu ngày tàn của ma quỉ: “Ta đã thấy satan từ trời rơi xuống như một tia chớp” (Lc 10,18). Ở đâu mà Chúa Giêsu ra tay hành động, ở đó ma quỉ bị bó buộc phải nhường bước, rút lui. Bây giờ cũng vậy, khi cơn cám dỗ đến độ mạnh chúng ta có cảm tưởng rằng ma quỉ thật toàn năng; tốt nhất hãy nhớ lại rằng nó chỉ là một kẻ chiến bại, một tù binh được tự do tạm thời chờ ngày tận thế, một viên tướng đã thất trận ngay từ đầu.

3. Xưa cũng như nay, các cám dỗ của ma quỉ đều giống nhau: chúng luôn luôn nhắm tách rời chúng ta khỏi Thiên Chúa bằng ý chí quyền lực, bằng thái độ từ chối tin tưởng vào sự quan phòng của Cha trên trời, bằng khuynh hướng lợi dụng sự che chở và lòng tha thứ của Ngài. Những phương thế chiến thắng các cám dỗ này cũng luôn giống nhau, đó là những phương thế chính Chúa Giêsu đã dùng: khiêm nhượng tuân phục thánh ý Chúa Cha, chấp nhận với tình yêu số phận của Chúa Cha dọn sẵn cho ta (số phận không phải là không có thánh giá, nhưng chắc chắn sẽ đưa chúng ta đến vinh quang sau cùng) từ chối khiêu khích Thiên Chúa can thiệp cách đặc biệt có lợi cho ta.

4. Ma quỉ luôn hứa ban quyền thống trị thế giới cho Kitô hữu hôm nay cũng như mọi thời, nhưng với điều kiện là tôn thờ và phục tùng nó. Một cách cụ thể, nó ban cho những phương tiện làm giàu mau chóng bằng cách lấy của người lân cận, những phương thế chiếm đoạt các chức vị lợi lộc bằng âm mưu loại trừ người xứng đáng hơn, những dịp hưởng lạc thú bằng cách bất trung trong đời sống lứa đôi... Ma quỉ không bao giờ cho đi mà không đòi lại gấp trăm, trái lại với Thiên Chúa là Đấng ân thưởng gấp trăm cho ai bố thí một ly nước lã vì danh Ngài. Xét cho cùng, đời sống Kitô hữu là một chọn lựa giữa Thiên Chúa và ma quỉ, giữa việc thờ phượng ma quỉ với Chúa Cha. Không ai có thể làm tôi hai chủ (Mt 6,24). Thờ phượng ma quỉ thì có thể được lợi trong chốc lát, nhưng sớm muộn gì cũng đưa tới thất vọng, cay đắng, cái chết đời đời. Thờ phượng Thiên Chúa thì phải từ bỏ chính mình, nhưng rồi cũng sẽ được bình an, thoả mãn nội tâm và được sống vĩnh cửu.

 

69.Suy niệm của Lm. Đan Vinh

ĂN CHAY CẦU NGUYỆN ĐỂ CHIẾN THẮNG MA QUỶ CÁM DỖ

Tin mừng Lc 4: 1-13: Tin mừng thuật lại việc Thánh Thần hướng dẫn Đức Giê-su vào sa mạc ăn chay cầu nguyện bốn mươi ngày và bị ma quỷ cám dỗ. Người đã dùng Lời Thánh Kinh để chiến thắng ba lần cám dỗ của ma quỷ về thú vui nhục dục, về quyền lợi vật chất và về lòng ham danh vọng chức quyền.

I. HỌC LỜI CHÚA

Ý CHÍNH: Đức Giêsu chiến thắng ma quỷ cám dỗ

Tin mừng thuật lại việc Thánh Thần hướng dẫn Đức Giê-su vào sa mạc ăn chay cầu nguyện bốn mươi ngày và bị ma quỷ cám dỗ. Người đã dùng Lời Thánh Kinh để chiến thắng ba lần cám dỗ của ma quỷ về thú vui nhục dục, về quyền lợi vật chất và về lòng ham danh vọng chức quyền.

CHÚ THÍCH:

- C 1-2: + Được Thánh Thần dẫn đi vào hoang địa: Thánh Lu-ca hay nói tới tác động của Thánh Thần trong cuộc đời Đức Giê-su (x. Lc 1,35; 3,16.22). Hoang địa là vùng sa mạc Giu-đa, một giải đất rộng nằm giữa vùng núi gần thành Giê-ri-cô. + Bốn mươi ngày: Con số bốn mươi này gợi lại bốn mươi năm dân Ít-ra-en đi trong sa mạc. + Chịu quỷ cám dỗ: Trong tiếng Do thái, cám dỗ nghĩa là thử thách, giống như một cuộc thi cử. Đứng trước cơn cám dỗ, ta phải lựa chọn giữa sự thiện và sự ác, ánh sáng và bóng tối, sự sống và sự chết. + Người không ăn gì cả, và khi hết thời gian đó thì Người thấy đói: Nhịn ăn là một trong những hình thức chay tịnh của dân Do thái.

- C 3-4: + “Nếu ông là Con Thiên Chúa”: Quỷ đã nhắc lại lời Chúa Cha phán sau khi Đức Giê-su chịu phép Rửa: “Này là Con Ta yêu dấu” (x Lc 3,22). + Truyền cho hòn đá này hóa bánh đi!: Đây là cơn cám dỗ về của ăn. Quỷ đã nhận ra điểm yếu của Đức Giê-su là bị đói sau thời gian dài ăn chay, nên nó xúi Người làm phép lạ biến đá thành bánh để thỏa mãn nhu cầu của bản thân! Đây là sự cám dỗ chiều theo các đam mê lạc thú xác thịt. + “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh”: Đức Giê-su dùng câu nói của Mô-sê dạy dỗ dân Ít-ra-en ngày xưa để chống trả cơn cám dỗ này của ma quỷ (x. Đnl 8,3).

- C 5-8: + Quỷ đem Đức Giê-su lên cao: Có lẽ đây là một vị trí cao hơn mặt đất, như thường ghi trong các Khải huyền Do thái. + Trong giây lát, chỉ cho Người thấy tất cả các nước thiên hạ: Câu này cho thấy cơn cám dỗ chỉ xảy ra trong tâm trí của Đức Giê-su. + Nó nói với Người: “Tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này.”..: Ma quỷ đề nghị chia sẻ quyền cai trị để biến Đức Giê-su thành vị Mê-si-a trần thế theo kiểu vua Đa-vít ngày xưa. Người sẽ liên kết với nhóm Do thái cực đoan để chiếm lại quyền hành và vinh quang, đánh đuổi quân Rô-ma đang cai trị ra khỏi đất nước (x. Ga 6,15). Điều mong ước này không nằm trong chương trình cứu độ và không phải là sứ vụ của Đức Giê-su (x. Lc 10,22). + Đã có lời chép: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”: Bái lạy là thái độ của loài thụ tạo phục tùng Đấng Tạo Hóa (x. Mt 2,5; 8,2). Dân Do thái khi xưa đã sa ngã phạm tội khi tôn thờ bò vàng, nên đã bị phạt (x. Xh 32,1.31-35). Còn nay Đức Giê-su nhắc lại điều luật Mô-sê truyền cho dân Do thái chỉ được tôn thờ một mình Thiên Chúa mà thôi (x. Đnl 6,13).

- C 9-13: + Quỷ đem Đức Giê-su đến Giê-ru-sa-lem: Lu-ca kết thúc bản tường thuật các cơn cám dỗ tại thủ đô Giê-ru-sa-lem. + Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì đứng dậy mà gieo mình xuống đi”: Sau này trong cuộc khổ nạn tại Giê-ru-sa-lem, các đầu mục Do thái, bọn lính canh và tên gian phi cũng lặp lại cơn cám dỗ này: “Hãy bước xuống khỏi thập giá để chúng ta thấy mà tin” (x. Mt 27,42b-44). + “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi”: Thử thách Thiên Chúa có hai nghĩa: một là như xưa ma quỷ đã cám dỗ dân Do thái lẩm bẩm kêu trách và phản đối Đức Chúa, Đấng đã giải phóng họ thoát khỏi ách nô lệ cho dân Ai cập, đang khi lẽ ra họ phải tạ ơn và phó thác cậy trông nơi Người. Hai là quỷ cám dỗ Đức Giê-su lợi dụng lòng tốt của Thiên Chúa để tìm kiếm lợi lộc cho bản thân. Tội này cũng giống tội “trông cậy quá lẽ”, nghĩa là đòi Chúa phải làm phép lạ để thỏa mãn đòi hỏi theo ý riêng mình. + Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi chờ đợi thời cơ: Thời cơ là cuộc thương khó của Đức Giê-su tại Giê-ru-sa-lem (x. Lc 22,3). Trong vườn cây Dầu, Người đã bị ma quỷ cám dỗ từ chối uống chén đắng đau khổ, nhưng Người đã chiến thắng cơn cám dỗ đó bằng lời cầu xin với Chúa Cha: “Tuy vậy, xin đừng làm theo ý Con, mà xin theo ý Cha” (Lc 22,42). Trên cây thập giá, Người bị ma quỷ cám dỗ nghĩ mình đã bị Chúa Cha bỏ rơi! (x. Mt 27,46), nhưng Người đã chiến thắng nó qua lời cầu nguyện phó thác hòan tòan vào sự quan phòng của Chúa Cha: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46).

CÂU HỎI:

1) Cám dỗ là gì? Khi chỉ bị ma quỷ cám dỗ làm điều xấu trong tâm trí thì đã có tội chưa? 2) Đức Giê-su đã dùng phương thế nào để chống lại ma quỷ khi bị chúng cám dỗ? 3) Tội “thử thách Thiên Chúa” có đồng nghĩa với tội “trông cậy quá lẽ” không? Hãy nêu một vài ví dụ cụ thể để minh họa về tội “trông cậy quá lẽ” hay tội “thử thách Thiên Chúa”.

II. SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: “Đức Giê-su được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa bốn mươi ngày và chịu quỷ cám dỗ” (Lc 4,1b).

2. CÂU CHUYỆN:

1) Chước cám dỗ hiểm độc của ma quỷ:

Ngày xưa có một thanh niên tính tình hiền lành, luôn cư xử hiếu thảo với cha mẹ, và rất yêu thương vợ mình. Một hôm, một con quỷ đã hiện ra và cám dỗ anh ta phạm tội. Quỷ cho anh được quyền chọn làm một trong ba điều xấu: Một là chửi mắng cha mẹ. Hai là giết chết cô vợ thân yêu. Ba là uống rượu. Bấy giờ chàng thanh niên liền suy nghĩ: Chửi mắng cha mẹ là bất hiếu, nên ta quyết không làm. Giết chết người vợ thân ỵêu là bất nghĩa, ta cũng không thể làm được. Chỉ có uống rượu là ta có thể làm được thôi, vì uống rượu đâu phải quá xấu! Thế là anh ta chọn uống rượu. Quỷ liền sai người cung cấp cho anh ta đủ các thứ rượu ngon trên đời. Lúc đầu chàng thanh niên còn uống hạn chế mỗi bữa một ly nhỏ, nên không có điều gì xảy ra. Nhưng dần dần việc uống rượu trở thành thói quen, mỗi bữa anh ta phải tăng “đô” lên và uống gấp nhiều lần mới thấy “phê”. Cuối cùng, anh đã trở thành một tên bợm nhậu: lúc nào cũng say xỉn! Một hôm, anh ta say đến nỗi không biết trời trăng gì nữa. Trong cơn say, anh ta đập bể tất cả chén bát và vất đồ đạc trong nhà ra đường. Bị cha mẹ ngăn cản rầy la, anh ta liền to tiếng cãi lại và buông ra những lời thô tục xúc phạm đến cha mẹ. Cô vợ thấy chồng vô lễ và bất hiếu như vậy liền chạy tới khuyên can liền bị anh đâm một nhát dao khiến cô ngã lăn ra chết.

Thế là từ việc uống rượu tưởng chừng vô hại lúc đầu, về sau đã thành nguyên nhân dẫn đến hai tội ác lớn lao là tội bất hiếu khi con nói lời xúc phạm nặng nề đến cha mẹ, và tội bất nghĩa khi ra tay giết chết chính người vợ thân yêu của mình.

2) Tội nhân bị kết án tử hình chỉ bắt đầu từ tội ăn căp vặt:

Một tên cướp nhà băng và giết một cảnh sát viên cuối cùng đã phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Sáng sớm hôm ấy tại nhà tù Sing Sing nổi tiếng, tên tử tội đã bị cột trong tư thế ngồi trên chiếc ghế điện. Người ta mang những miếng kim khí cột chặt vào cái vòng trên đầu hắn ta và vào hai bắp chân của hắn. Chỉ một lát nữa thôi, khi công tắc được bật lên là một dòng điện cực mạnh sẽ làm hắn mất ý thức và bị chết ngay. Viên chức phụ trách thi hành án đã cho tử tội được gặp linh mục trước khi bị hành hình và hắn đã nói lời tâm sự như sau:

”Hôm nay tôi sắp bị tử hình. Đây là hậu quả của các tội lớn lao của tôi mà bắt đầu chỉ là tội ăn cắp vặt một đồng năm xu của mẹ tôi. Sau đó do lớn lên không được dạy dỗ nên tôi đã liên tiếp phạm thêm nhiều tội khác: Từ ăn cắp các thứ đồ vặt vãnh đến tội ăn cướp tiệm vàng. Số tiền bất chính cướp được cũng tan biến nhanh chỉ sau một thời gian ngụp lặn trong các thói hư như bài bạc, rượu chè, trai gái, hút chích ma túy… nên khi hết tiền tôi lại phải tiếp tục đi ăn cướp. Nhất là sau làm quen biết hai thằng bạn mới ở tù ra và kết hợp với nhau thành một băng cướp. Lần kia chúng tôi đã lên một kế hoạch lớn là đột nhập vào ngân hàng. Hôm đó khi bị bảo vệ phát hiện truy bắt, tôi đã bắn chết một nhân viên bảo vệ rồi tôi cũng đã bị bắt ra tòa lãnh án tử hình. Như vậy tội cướp của giết người và bị tử hình hôm nay ban đầu chỉ là tội ăn cắp vặt đồng năm xu của bà mẹ. Sau đó đã tăng lên thành ăn cướp nhà băng và chống lại giết người thi hành công vụ và cuối cùng là bị xử tử hôm nay”.

3) Sức cuốn hút mạnh mẽ của vàng bạc:

Ngày xưa, có người ở nước Tề rất ham thích vàng bạc đến độ biến thành đam mê vàng. Một hôm anh đi ngang qua tiệm cầm đồ, anh thấy có người mang thỏi vàng đến bán liền động lòng tham, anh chạy lại cướp một thỏi vàng bỏ chạy. Người ta hè nhau đuổi theo bắt lại. Sau khi bắt được họ đã tra hỏi:

- Tại sao ngay giữa ban ngày ban mặt chỗ đông người mà mi dám ra tay cướp giật như thế?

Anh ta trả lời:

- Lúc trông thấy vàng, thì tôi không còn tự chủ và không nhìn thấy sự vật chung quanh nữa. Trước mặt tôi, chỉ thấy có thỏi vàng mà tôi quyết chiếm đoạt cho bằng được.

Câu chuyện trên cho thấy sức hút mạnh mẽ của vàng bạc. Chính lòng tham của cải bất chính khiến nhiều người sẵn sàng bất chấp nguy hiểm, tìm cách chiếm đoạt bằng được, dù phải dùng các thủ đoạn xấu xa gian ác, ngay cả phải đâm chém giết người cũng không chùn tay.

4) Làm gì để chiến thắng ma quỉ?

Một buổi chiều nọ cha bề trên đi bách bộ trong khuôn viên tu viện, thì thấy một thày đang chăm chỉ tưới nước bón phân cho vườn rau của tu viện rất vất vả, liền lên tiếng hỏi:

- Hôm nay từ sáng đến giờ thầy đã làm được những việc gì rồi?

- Thưa cha, cũng như mọi khi, con luôn chăm chỉ làm việc bổn phận mà nếu không có ơn Chúa giúp, chắc con không sao làm được: Bổn phận hằng ngày của con là: phải canh chừng hai con chim ưng, chăn giữ hai con dê, quan sát hai con chim diều hâu, chiến thắng một con cá sấu, trị được một con gấu và phục vụ chăm sóc một bệnh nhân.

- Con nói gì lạ thế? Cha bề trên cười hỏi lại, trong tu viện tìm đâu ra những con vật đó?

- Thưa cha bề trên, đúng thật như thế đấy ạ. Này nhá:

Hai con chim ưng là đôi mắt con, con phải giữ chúng luôn trong sáng, không để nó xem những hình ảnh xấu xa.

Hai con nai là đôi chân mà con phải cho chúng luôn bước đi trên nẻo chính đường ngay.

Hai chim diều hâu là đôi bàn tay mà con bắt chúng chu toàn các công việc lao động hằng ngày.

Con cá sấu là cái lưỡi của con, con phải tránh thốt ra những lời kết án chỉ trích anh em.

Con gấu chính là trái tim mà con phải yêu thương mọi người, không ích kỷ hoăc sĩ diện hão.

Còn bệnh nhân là chính con đây, con phải chăm sóc bằng cách xa lánh dịp tội, và năng cầu nguyện để được kết hiệp mật thiết với Chúa và phục vụ anh em.

3. THẢO LUẬN:

1) Ma quỷ đã tấn công vào chỗ yếu của Đức Giê-su là bị đói sau khi nhịn ăn bốn mươi ngày. Còn chỗ yếu của bạn hiện nay là gì?

2) Để chống lại cơn cám dỗ của ma quỷ cách hữu hiệu, bạn cần sử dụng các phương thế nào noi gương Đức Giê-su như trong Tin Mừng hôm nay?

4. SUY NIỆM:

1. Mỗi người đều bị cám dỗ:

Dân Do thái ngày xưa đã nhiều lần bị cám dỗ trong thời gian lưu lạc 40 năm trong hoang địa muốn được “ngồi bên nồi thịt và được ăn bánh thỏa thuê” (x. Xh 16,2tt). Các môn đệ Chúa Giêsu ngày xưa cũng bị cám dỗ muốn được làm lớn hơn anh em (Mc 9,34), được ngồi bên tả bên hữu Thầy Giêsu (Mc 10,37). Ngay chính Đức Giê-su cũng không thoát khỏi những cơn cám dỗ. Dù là Thiên Chúa nhưng Người cũng là con người giống như chúng ta, nên "Người cũng phải chịu trăm chiều thử thách như chúng ta" (Dt 4,15).

2. Đức Giêu bị ma quỉ thử thách cám dỗ.

Tin Mừng Lu-ca thuật lại câu chuyện trước khi ra giảng đạo Đức Giêsu đã ăn chay cầu nguyện 40 ngày trong sa mạc. Sau thời gian đó Người cảm thấy đói và ma quỉ đã đến cám dỗ Người về ba phương diện như sau:

a) VỀ THÚ VUI: Ma quỉ xúi giục Đức Giêsu thỏa mãn sự đói khát cơm bánh vật chất và các đam mê lạc thú. Nhưng Người đã chiến thắng cơn cám dỗ này bằng lời khẳng định:”Người ta không chỉ sống nhờ cơm bánh, nhưng còn sống bằng những lời do miệng Thiên Chúa phán ra”.

b) VỀ LỢI LỘC: Ma quỉ hứa ban lợi lộc và quyền lực vinh quang cho Đức Giêsu nếu Người chịu tôn thờ nó. Nhưng Người chỉ nhận quyền lực từ Thiên Chúa (x. Lc 1,32b), chỉ công nhận một mình Chúa Cha là Thiên Chúa duy nhất phải tôn thờ (x. Lc 4,8).

c) VỀ DANH VỌNG: Ma quỉ cám dỗ Đức Giêsu tìm hư danh bằng cách xúi giục Ngài nhảy từ nóc Đền thờ để được ca tụng, vì sẽ được sự can thiệp kịp thời của Thiên Chúa (x. Lc 4,10-11). Đức Giêsu đã không chấp nhận thái độ thử thách quyền năng của Thiên Chúa bằng lời Kinh thánh:”Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi” (Đnl 6,16).

Dù bị cám dỗ về mọi mặt, nhưng Đức Giê-su đã chiến thắng các cơn cám dỗ của ma quỉ. Vũ khí Người sử dụng để chống lại các chước cám dỗ là lòng yêu mến Chúa Cha, luôn vâng phục thánh ý Cha và quyết tâm làm vui lòng Cha.

3. Kế hoạch cám dỗ của ma quỉ:

Ma quỉ rất khôn ngoan, chúng có những cách lừa đảo rất tinh vi khi gây ra ảo tưởng để đánh lừa nhằm đưa người ta vào bẫy không thể thối lui được.

Cám dỗ gồm ba thành phần: người bị cám dỗ là mỗi người chúng ta, kẻ chủ động cám dỗ là ma quỉ, trung gian cám dỗ là người hay hoàn cảnh chung quanh. Như vậy chúng ta có ba kẻ thù là ma quỷ, thế gian và xác thịt,

Phương cách cám dỗ của ma quỉ rất xảo quyệt. Nó không bao giờ dụ dỗ người ta phạm ngay tội nặng, mà bắt đầu bằng phạm các tôi nhẹ. Chúng không bao giờ cám dỗ một lần rồi thôi, mà luôn làm đi làm lại nhiều lần, cho đến khi ta chiều theo. Chúng không cám dỗ trực tiếp mà thường qua các trung gian như dùng bà E-và để cám dỗ ông A-đam, dùng phim ảnh sách báo xấu để cám dỗ loài người chúng ta hôm nay…

4. Phương thế chiến thắng ma quỉ cám dỗ:

Muốn chiến thắng ma quỉ cám dỗ chúng ta cần dùng các phương thế như sau:

- Kết hiệp với Đức Giê-su: Đức Giêsu đã nói với ông Phê-rô: ”Si-mon, Si-mon ơi. Kìa Xa-tan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo. Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin» (Lc 22,31). Loài người yếu đuối dễ sa ngã phạm tội nếu không được Chúa ban ơn trợ giúp như lời Đức Giê-su: “Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5).

- Tỉnh thức cầu nguyên: Đức Giê-su dạy các môn đệ: “Anh em hãy canh thức và cầu nguyện để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối” (Mt 26,41). Trong kinh Lạy Cha của Đức Giê-su có câu: ”Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ” (Mt 6,13). Người dạy môn đệ phải trừ quỉ băng sự cầu nguyện và ăn chay: "Loại quỉ đó không thể trừ được, nếu không cầu nguyện và ăn chay" (Mc 9,29).

- Quyết tâm chiến đấu: Chiến đấu bằng sự khiêm hạ bỏ đi ý riêng mình để vâng theo thánh ý Thiên Chúa; Bằng cách sống siêu thoát, coi thường của cải vật chất và không ham danh vọng chức quyền trần gian; Năng hãm mình ăn chay để làm chủ bản thân và có lối sống tiết độ.

Trong Mùa Chay này, noi gương Đức Giê-su, chúng ta hãy vâng theo ơn Thánh Thần hướng dẫn đi vào sa mạc tâm hồn, tham dự các buổi tĩnh tâm mùa chay. Hãy cùng với Đức Giê-su giữ sự thinh lặng, siêng năng cầu nguyện và hãm mình, để gia tăng nội lực thiêng liêng. Bớt ăn tiêu để quảng đại chia sẻ bác ái và tích cực góp phần xây dựng các công trình của Hội Thánh. Nhờ việc chuyên cần học sống lời Chúa và đón nhận được ơn Thánh Thần, chúng ta chắc chắn sẽ chiến thắng các cơn cám dỗ của ma quỷ và ngày một nên tốt lành hơn.

5. NGUYỆN CẦU:

Lạy Chúa Giêsu. Xin cho chúng con chiến thắng được các cơn cám dỗ của ma quỷ nhờ ơn Thánh Thần, nhờ biết tỉnh thức và cầu nguyện luôn, nhờ sự chay tịnh và luôn làm chủ bản thân. Xin cho chúng con dám lội ngược dòng để đi con đường hẹp và leo dốc của Chúa: Con đường nghèo khó khiêm nhu và hy sinh phục vu tha nhân như Chúa. Ước gì sau những lần chiến đấu vất vả cam go, chúng con sẽ được lớn lên trong tình yêu mến Chúa. Và ngay cả khi chúng con lỡ sa ngã phạm tội, xin cho chúng con biết lập tức trỗi dậy với lòng cậy trông vào lòng thương xót bao dung của Chúa và quay về làm hòa với Chúa nhờ bí tích hòa giải.

X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhận lời chúng con.

 

70.Vượt qua thử thách – Lm. Đan Vinh

1. LỜI CHÚA: "Đức Giê-su được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa bốn mươi ngày và chịu quỷ cám dỗ" (Lc 4,1b).

2. CÂU CHUYỆN: SA CHƯỚC CÁM DỖ

Ngày xưa có một thanh niên tính tình hiền lành, luôn ăn ở hiếu thảo với cha mẹ, và rất yêu thương vợ mình. Một hôm, một con quỷ đã hiện ra và cám dỗ anh ta phạm tội. Quỷ cho anh được quyền chọn làm một trong ba điều xấu: Một là chửi mắng cha mẹ. Hai là giết chết cô vợ thân yêu. Ba là uống rượu. Bấy giờ chàng thanh niên liền suy nghĩ như sau: Chửi mắng cha mẹ là bất hiếu, nên ta quyết không làm. Giết chết người vợ thân ỵêu là bất nghĩa, ta cũng không thể làm được. Chỉ có uống rượu là ta có thể làm được thôi, vì uống rượu đâu phải là điều quá xấu xa! Thế là anh ta chọn uống rượu. Quỷ liền sai người cung cấp cho anh ta đủ các thứ rượu ngon trên đời. Lúc đầu chàng thanh niên còn uống hạn chế mỗi bữa một ly nhỏ, nên không có điều gì xảy ra. Nhưng dần dần việc uống rượu trở thành thói quen, mỗi bữa anh ta phải tăng "đô" lên và uống gấp nhiều lần mới thấy "phê". Cuối cùng, anh đã trở thành một tên bợm nhậu: lúc nào cũng say xỉn! Một hôm, anh ta say đến nỗi không biết trời trăng gì nữa. Trong cơn say, anh ta đập bể tất cả chén bát và vất mọi thứ đồ đạc trong nhà ra đường. Bị cha mẹ ngăn cản rầy la, anh ta liền to tiếng cãi lại và buông ra những lời thô tục xúc phạm đến cha mẹ. Cô vợ thấy chồng vô lễ và bất hiếu như vậy liền chạy tới khuyên can liền bị anh đâm một nhát dao khiến cô ngã lăn ra chết. Thế là từ việc uống rượu tưởng chừng vô hại lúc đầu, về sau đã trở nên nguyên nhân dẫn đến hai tội ác lớn lao là bất hiếu xúc phạm cha mẹ, và bất nghĩa giết người vợ thân yêu của mình.

3. SUY NIỆM:

- Con người "nhân vô thập toàn" và dễ sa ngã phạm tội là do hậu quả của tội tổ tông truyền lại, như thánh Phao-lô đã có lần thú nhận: "Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác không muốn, tôi lại cứ làm" (Rm 7,19). Ngoài ra con người còn bị ma quỷ cám dỗ xúi giục phạm tội như nó đã cám dỗ con cháu No-e phạm nhiều tội đáng bị trừng phạt. Dân Ít-ra-en tuy đã được Đức Chúa cứu khỏi ách nô lệ cho dân Ai cập, thế mà cuối cùng cũng đã nghe theo ma quỷ cám dỗ để nói lời xúc phạm đến Đức Chúa và tỏ thái độ vô ơn đối với Mô-sê.

- Nhưng may thay, loài người có Đức Giê-su, Đấng đã nêu gương chiến thắng ma quỷ khi bị nó cám dỗ trong sa mạc. Sự chiến thắng của Người là nguồn động viên và khích lệ các tín hữu chúng ta trong việc chiến đấu và chiến thắng ma quỷ cám dỗ. Trong Mùa Chay này, noi gương Đức Giê-su, chúng ta hãy vâng theo ơn Thánh Thần hướng dẫn đi vào sa mạc tâm hồn. Hãy cùng với Đức Giê-su giữ sự thinh lặng, siêng năng cầu nguyện và hãm mình chay tịnh, để dễ nhận biết các cơn cám dỗ của ma quỷ. Rồi nhờ việc chuyên cần học sống lời Chúa và ơn Thánh Thần trợ giúp, chúng ta sẽ chiến thắng các cơn cám dỗ của ma quỷ.

- Ngày nay ma quỷ cũng thường cám dỗ chúng ta về ba phương diện là: THÚ VUI, LỢI LỘC và DANH VỌNG như sau:

* Về THÚ VUI: Ma quỷ xúi giục Đức Giê-su thỏa mãn cơn đói khát cơm bánh vật chất và ham mê các đam mê lạc thú bất chính. Ngày nay chúng ta cũng thường cảm thấy cồn cào ruột gan và thèm muốn được "ngồi bên nồi thịt và được ăn bánh thỏa thuê".... như dân Ít-ra-en trong sa mạc khi xưa (x. Xh 16,2tt). Nhưng Đức Giê-su đã chiến thắng cơn cám dỗ này. Người không phủ nhận sự cần thiết của cơm bánh vật chất khi nói: "Người ta không chỉ sống nhờ cơm bánh", mà còn khẳng định: Lời Chúa cũng cần thiết không kém để nuôi dưỡng đức tin. người tín hữu không được vì lợi nhuận tiền tài vật chất mà bỏ rơi bổn phận ưu tiên tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, và phó thác nhu cầu cuộc sống trong tay Chúa quan phòng (x. Mt 6,33).

* Về LỢI LỘC: Ma quỷ hứa ban lợi lộc và quyền lực vinh quang cho Đức Giê-su nếu Người chịu tôn thờ nó. Có nhiều người nhẹ dạ đã tin vào lời hứa hão huyền của ma quỷ và đã bán linh hồn mình cho ma quỷ để làm tay sai cho nó. Trong lịch sử thế giới, bao nhà độc tài quyền thế, bao đế quốc hùng mạnh đã xuất hiện và đã lần lượt bị diệt vong. Còn Đức Giê-su chỉ nhận quyền lực từ nơi Chúa Cha (x. Lc 1,32b). Chỉ công nhận một mình Chúa Cha là Thiên Chúa duy nhất đáng tôn thờ (x. Lc 4,8). Chỉ Chúa Cha mới ban quyền cai trị cho Chúa Con là Đức Giê-su, và quyền lực ấy sẽ kéo dài mãi mãi, như lời sứ thần Gáp-ri-en: "Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận" (Lc 1,33).

* Về DANH VỌNG: Ma quỷ cám dỗ Đức Giê-su tìm kiếm hư danh, bằng cách xúi Người nhảy từ nóc Đền thờ xuống, vì chắc Thiên Chúa sẽ can thiệp kịp thời cứu Người khỏi té ngã (x. Lc 4,10-11). Đó chính là tội "trông cậy quá lẽ", tội "thử thách Thiên Chúa" do mê tín dị đòan. Đây là tội tự đặt mình vào tình huống hiểm nghèo và buộc Thiên Chúa phải ra tay can thiệp làm phép lạ để cứu mình khỏi chết. Đức Giê-su đã không chấp nhận thái độ thử thách quyền năng Thiên Chúa như thế khi trưng dẫn lời Kinh thánh: "Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi" (x Đnl 6,16). Người muốn chúng ta phải có một đức tin đơn sơ phó thác, như đứa con thơ nép mình trong vòng tay cha mẹ và không bao giờ nghi ngờ và đòi hỏi cha mẹ phải chứng minh tình thương ấy.

4. THẢO LUẬN: 1) Ma quỷ đã tấn công vào chỗ yếu của Đức Giê-su là bị đói sau khi nhịn ăn bốn mươi ngày. Còn chỗ yếu của bạn hiện nay là gì?

2) Để chống lại cơn cám dỗ của ma quỷ cách hữu hiệu, bạn cần sử dụng các phương thế nào noi gương Đức Giê-su trong Tin Mừng hôm nay?

5. NGUYỆN CẦU:

- Lạy Chúa Giêsu. Bị cám dỗ là thân phận của con người. Nhưng chúng con chỉ thắng được cơn cám dỗ khi biết cậy nhờ vào ơn trợ giúp của Chúa. Cuộc sống hôm nay cho chúng con bao điều cám dỗ ngọt ngào, làm khuấy động những dục vọng thầm kín trong chúng con như: Muốn chiếm đoạt của cải người khác cách bất chính và muốn thống trị tha nhân, muốn được sống buông thả theo tính xác thịt tự nhiên. Cám dỗ nào cũng hứa cho chúng con được hoan lạc hạnh phúc đang khi thực ra chúng chỉ mang lại những âu sầu thất vọng.

- Lạy Chúa. Xin cho chúng con chiến thắng được các cơn cám dỗ của ma quỷ nhờ ơn Thánh Thần, nhờ biết tỉnh thức và cầu nguyện luôn, nhờ sự chay tịnh và luôn làm chủ bản thân. Xin cho chúng con dám lội ngược dòng để đi con đường hẹp và leo dốc của Chúa: Con đường nghèo khó khiêm nhu và hy sinh phục vu tha nhân noi gương Chúa xưạ. Ước gì sau những lần chiến đấu vất vả cam go, chúng con sẽ được lớn lên trong tình yêu Chúa. Và ngay cả khi chúng con lỡ sa ngã phạm tội, xin cho chúng con biết trỗi dậy cậy trông vào lòng khoan dung của Chúa và mau mắn quay về làm hòa với Chúa nhờ bí tích giải tội.

X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhận lời chúng con.

 

71.Chúa Giêsu bị cám dỗ

(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)

Mùa chay trong năm đức tin có một ý nghĩa thật sâu xa và độc đáo. Sâu xa bởi vì năm đức tin giúp các Kitô hữu tái khám phá lòng tin của mình, làm cho đức tin của mình sáng hơn, đẹp hơn. Độc đáo vì trong năm đức tin, mùa chay sẽ giúp người Kitô hữu hiểu về Chúa, về những lời của Người nói và những phép lạ Người làm. Hôn nay, nơi sa mạc hoang vắng Chúa Giêsu để ma quỉ cám dỗ...

Vâng, vì là con người như mọi người ngoại trừ tội lỗi, Chúa Giêsu cũng bị cám dỗ. Đây là một điều rất hợp lý khi Chúa Giêsu bị đặt trước thử thách phải chọn lựa! Chúa Giêsu được Thần khí Thiên Chúa thúc đẩy, thôi thúc, Ngài đã vào sa mạc để ăn chay, cầu nguyện và để ma quỉ cám dỗ. Thời Chúa Giêsu, từ Giêrusalem theo hướng mặt trời đi chừng nửa giờ đồng hồ là tới sa mạc Giuđa...Từ bờ sông Giorđăng đi bộ một vài phút là chúng ta đã tới sa mạc. Trong sa mạc, Chúa Giêsu bị đặt trước tình huống phải chọn lựa. Chúa Giêsu đã dùng phương thế nào để chiến thắng sự dữ, chiến thắng cái ác vv...? Chúa Giêsu đã bị ma quỉ cám dỗ để Ngài chia sẻ với con người, cảm thông với con người. Tuy nhiên, khác với con người, Ngài đã chiến thắng cám dỗ để nêu gương cho con người, nêu gương cho mọi người.

Ma quỉ đã đánh đúng tâm lý của con người, chúng đã thừa cơ hội Chúa Giêsu ăn chay, do đó, chúng dùng cái đói để cám dỗ Ngài. Cái đói vẫn là một nhu cầu khẩn thiết của con người. Bởi vì, dân Do Thái khi xưa trong sa mạc về đất hứa, họ đã đói, đã khát, nên kêu trách Chúa...Nhưng Chúa đã ban cho họ được no thỏa ấm lòng khi ban cho họ manna và chim cút, nước từ tảng đá vọt ra vv...Ngày nay, chúng ta vẫn đang bị cám dỗ về vật chất, tiền bạc...Cám dỗ này đang dày vò nhiều người và làm tiêu hao nhiều người. Tuy nhiên, nếu chúng ta không tỉnh thức, chúng ta dễ rơi vào mù quáng chỉ coi cơm bánh là chính yếu. Chúa đã nói "Người ta sống chỉ nhờ cơm bánh mà con bởi lời Thiên Chúa phán ra" (Lc 4, 4). Cám dỗ thứ hai, ma quỉ dùng quyền hành, danh vọng để dụ dỗ Chúa Giêsu bởi vì trần gian này, ai mà chẳng thích danh vọng, uy quyền. Môsê lên núi nhận thập giới của Thiên Chúa, Dân Israen dưới núi, đợi lâm họ đã thờ ngẫu tượng bò vàng. Dân chúng luôn luôn bị cám dỗ lôi cuốn Chúa Giêsu trở thành một vị Vua chính trị đầy đủ quyền thế như mọi vị Vua thế trần. Tuy nhiên, Chúa đã nhất quyết khước từ mọi thứ vinh quang mau qua của trần gian để trở thành tôi tớ phục vụ mọi người. Cơn cám dỗ này vẫn thường xuyên xúi giục con người. Chúa đã thẳng thừng phán: "Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của Ngươi, và phải thờ phượng một mình Người" (Lc 4, 8). Cơn cám dỗ thứ ba là ma quỉ khích Chúa Giêsu để kiểm chứng lòng khiêm nhường của Người. Chúa đã không chiều theo chúng để tỏ vẻ huyênh hoang của mình. Ngài cũng bị cám dỗ thoát khỏi, trốn chạy cái chết vì cảm thấy Chúa Cha bỏ rơi mình. Tuy nhiên, Chúa đã không làm theo ý mình:không nhảy từ trên cao xuống hay không nhảy khỏi cây thập giá. Ngài đã hoàn toàn trung thành, vâng phục và làm theo ý Đức Chúa Cha.

Sa mạc là nơi cát bụi mênh mông, nắng khô cỏ cháy. Sa mạc là nơi bày ra trước mắt chúng ta muôn ngàn ảo ảnh của cuộc đời. Tuy nhiên, Thánh Thần sẽ giúp chúng ta nhận ra đâu là ý nghĩa đích thực của đời người, đâu là ảo ảnh phù vân.

Chúa Giêsu đã đương đầu với những cám dỗ trong sa mạc, đã chiến đấu với những cơn cám dỗ ấy một cách anh hùng và làm gương cho chúng ta trong những cơn thử thách. Trên đỉnh núi Sinai, Thiên Chúa đã xuất hiện giữa ánh sáng chói lòa và lên tiếng. Ngài đã ký một giao ước đầy yêu thương với con người. Trong sa mạc mênh mông của miền Giuđa, Chúa đã dìm mình trong chay tịnh, cầu nguyện, Ngài đã hoàn toàn chiến thắng ma quỉ, chiến thắng sự dữ để đem lại sự an bình và mối giao hảo bất khả phân ly giữa Ngài và con người.

Mùa chay là mùa sám hối, ăn năn. Mùa chay là mùa trở lại với Chúa bằng chay tịnh, cầu nguyện và bố thí. Do đó, Giáo Hội mời gọi chúng ta trong năm đức tin này là hãy trở về với Chúa, quay về với đức tin tinh tuyền ngày chúng ta lãnh nhận bí tích rửa tội.

Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con Thần khí để Thần khí đưa chúng con vào sa mạc nội tâm sâu kín của tâm hồn chúng con để chúng con nhờ Thần khí Thiên Chúa mạnh mẽ, can đảm, dứt khoát cắt đứt tội lỗi và sống an bình. Amen.

 

72.Hai mặt của một cơn cám dỗ

(Suy niệm của Lm. Phêrô Phan Văn Lợi)

Đức Hồng Y Phanxicô Xavie có kể lại một câu chuyện về mẹ của ngài trong một diễn văn nhân lễ mở tay mừng tân chức như sau: "Cách đây khá lâu có hai linh mục đến thăm mẹ già của tôi tại Úc châu và hỏi bà: "Bà cố có muốn Đức Cha Thuận làm hồng y không?" Bà cụ (nay đã 98 tuổi) trả lời: "Không! Tôi dâng con tôi cho Chúa là để tế lễ Người, như thế là đủ! Tôi chẳng cần con tôi làm hồng y đâu" - "Nhưng lên hồng y sẽ làm vinh danh Chúa hơn!" - "Thế hai cha không làm vinh danh Chúa à?" · Mới đây, sau khi Đức Cha Thuận được tấn phong hồng y thực thụ, một trong hai linh mục hôm nọ cùng một vị khác lại gặp bà cụ và hỏi: "Nay Đức Cha Thuận đã lên hồng y rồi, bà cố có vui không?" - "Dạ vui chớ!" - "Sao hôm nọ, bà cố đã trả lời là không muốn con bà làm hồng y!" - "Nay tôi vui vì đó là ơn Chúa cho. Có chức quyền to ở trần đời dễ làm bậy lắm! Còn chức quyền to trong Giáo Hội thì phải lo mà chu toàn theo ý Chúa" - "Vậy bây giờ Đức Cha đã lên hồng y, bà cố cầu nguyện gì cho đức Hồng y?" - "Tôi chỉ cầu nguyện cho con tôi sống đẹp lòng Chúa!" - "Thế thôi à?" - "Vâng, sống đẹp lòng Chúa, đó là điều duy nhất tôi luôn cầu nguyện cho con tôi!".

1. Tin vào Thiên Chúa, bản chất cuộc sống kitô hữu.

Cám dỗ lạm dụng chức quyền được ban và cám dỗ muốn làm theo ý riêng mình hơn làm đẹp lòng Thiên Chúa, đó cũng là điều Đức Giêsu trải qua trong bài Tin Mừng mở đầu Mùa Chay hôm nay.

Tự bản chất, Mùa Chay này giống như hoang địa làm nên hậu cảnh cho trình thuật Tin Mừng về việc Đức Giêsu bị cám dỗ. Y như hoang địa giản lược con người vào những gì chủ yếu, bóc trần nó khỏi những gì bên ngoài, dư thừa, phù vân và phóng đẩy nó đến một ít điều căn bản (thức ăn, nước uống, con đường đúng, một chỗ che nắng mặt trời), thì Mùa Chay cũng muốn đưa chúng ta về lại bản chất của cuộc sống kitô hữu. Và hôm nay nó làm điều đó với ba đoạn Thánh Kinh được liên kết với nhau bởi một chủ đề căn bản, chủ đề tuyên xưng đức tin, một đức tin theo đúng nghĩa Kinh Thánh (Đnl 26,4-10; Rm 10,8-13; Lc 4,1-13)

Trong ba cuộc tuyên tín này (một của tuyển dân, một của thánh Phaolô, một của Đức Giêsu), đáng kể hơn hết là lời tuyên xưng của Đức Giêsu qua trình thuật cám dỗ: tuyên xưng lòng tín thác đối với Chúa Cha và đối với chương trình cứu rỗi của Người. Được cách điệu hóa trong ba cảnh, trình thuật có một sự đảo lộn lý thú giữa cảnh hai và cảnh ba so với bản song song của Mátthêu: đối với Luca, chóp đỉnh của cuộc cám dỗ không phải là "ngọn núi rất cao" như đối với Mátthêu song là Giêrusalem, thành phố mà tất cả Tin Mừng Luca hướng về. Thật thế, người ta biết rằng tác phẩm của Luca mở ra và đóng lại ở Đền thờ núi Sion và trung tâm của tác phẩm (các chương 9-19) chính là cuộc hành trình dài của Đức Kitô tiến đến định mệnh của mình sẽ được hoàn tất ở Thành thánh. Do đó chính Giêrusalem, đỉnh cao cuộc sống Đức Kitô, cũng là đỉnh cao cơn cám dỗ và lời tuyên xưng lòng tín thác của Người.

Thật thế, ở đó hoàn tất cơn thử thách cao nhất về tính chất Mêsia của Đức Giêsu: Người sẽ phải quyết định chọn định mệnh cuối cùng của mình, một định mệnh cứu rỗi không đạt tới bằng toàn thắng vinh quang nhưng qua nghèo khổ tột cùng của thập giá. Nếu chìu theo cám dỗ này, Đức Giêsu sẽ từ khước lòng tín thác hoàn hảo của mình vào Chúa Cha và chúng ta sẽ mất niềm tin vào một vị Cứu Thế đích thực. Nhưng trên thượng đỉnh Đền thờ, Đức Giêsu đã công bố tiếng "vâng"quyết định đối với Cha, và nhờ đó, đã trở nên biểu tượng sáng ngời của đức tin như Kinh Thánh nói, nghĩa là của việc gắn bó hoàn toàn và trọn vẹn vào Thiên Chúa và vào chương trình Người đã vạch trong lịch sử.

Lòng tin đó, Đức Giêsu đã mạnh mẽ công bố trước Tên cám dỗ số một, Satan, kẻ luôn tìm cách làm lung lay lòng tín thác của Người vào Cha Người và kéo Người đi xa con đường của Cha Người. Bám vào lời Chúa, Đức Giêsu đã xây dựng một kinh Tin kính mà đỉnh cao nằm trong câu đốp lại cơn cám dỗ thứ hai: "Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi". Mà đó là lặp lại giới răn thứ nhất, nền tảng và là nguồn suối của tất cả Thập điều cũng như của toàn bộ đức tin Kinh Thánh: "Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta... Ngươi không được phủ phục trước những thứ đó mà phụng thờ..." (Xh 20,3.5).

Chống lại tất cả những ngụy tạo về khuôn mặt Thiên Chúa mà con người qua các thế kỷ đã tưởng tượng ra theo nhu cầu sử dụng và tiêu thụ của mình, chống lại biếm họa về Thiên Chúa mà Satan cố gắng gợi lên cho Đức Giêsu, chống lại chính Satan, bóng tối của Thiên Chúa đích thực, Đức Giêsu xác quyết lại nhu cầu phải thờ phượng một mình Thiên Chúa cứu độ và hằng sống, Tạo Hóa và Chủ Tể. Trên đồng đôla của Mỹ luôn có câu "In God we trust" (Chúng tôi tin vào Thiên Chúa), nhưng thực tế dân Mỹ có lẽ tin vào đồng đôla hơn!

2. Sống theo ý Thiên Chúa, con đường của Kitô hữu

Tuy nhiên, việc xác quyết niềm tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa cũng có thể biến chứng thành một thái độ lầm lạc: muốn tìm nơi Thiên Chúa nhiều quyền lực ma thuật để tránh né các khó khăn.

Thông thường, từ "cám dỗ"thường gợi lên cho chúng ta nhiều cuộc chiến đấu cục bộ, đặc biệt những cuộc chiến đấu thuộc loại tính dục. Nhưng ở đây, hoang địa, cái đói, việc hồi tâm mãnh liệt của Đức Giêsu lúc bắt đầu sứ vụ, nói lên cho chúng ta thấy đó là một cuộc chiến đấu mang tính tổng quát hơn nhiều, một cơn "cám dỗ vĩ đại": muốn tìm nơi TC nhiều quyền lực ma thuật để tránh né các khó khăn trong đời.

Trong cuộc chay tịnh 40 ngày của mình nơi hoang địa -một cuộc tĩnh tâm kinh khủng- Đức Giêsu đã lường được tính đồ sộ của những gì Người sắp khởi công: thay đổi các ý tưởng về Thiên Chúa, nói ngược các "nhà thông thái khôn ngoan", chống lại các kẻ cường quyền, đề ra một sự công chính và một tình yêu vượt rất xa những gì Biệt phái dạy.

Và này tên cám dỗ của cơn cám dỗ vĩ đại xuất hiện: "Nếu thực là Con Thiên Chúa, thì ông có biết bao quyền lực trong tay! Ông sẽ chinh phục được cả hoàn vũ". Với sức mạnh rất trầm tĩnh, bộc lộ cho thấy có Thánh Thần (Luca nhấn mạnh: "Người được đầy Thánh Thần... Người được Thánh Thần dẫn đi"), Đức Giêsu từ khước đóng vai thuật sĩ. Mầu nhiệm Nhập thể chính là Thiên Chúa đi vào thân phận con người mà không gì bảo vệ cũng chẳng quyền năng đặc biệt. Một siêu nhân khó mà bảo chúng ta: "Hãy theo Thầy, hãy học cùng Thầy".

Phần chúng ta, muốn theo Người, phải chăng chúng ta sẽ xin nhiều điều dễ dãi và nhiều quyền năng ma thuật? Hẳn bạn nói: "Tôi đâu có xin!" Nhưng bạn đã chẳng bao giờ thưa sao: "Lạy Chúa, xin làm cho cuộc sống con nên dễ dãi"? - "Chính Đức Giêsu kêu mời chúng ta xin tất cả: cơm bánh, ơn tha thứ, một sự giúp đỡ. Phụng vụ Giờ kinh bắt đầu bằng câu: "Lạy Chúa trời, xin tới giúp con" mà!"

Có một lời kêu xin giúp đỡ đúng và một lời kêu xin giúp đỡ bậy. Hãy nghe rõ câu đốp cuối cùng của Đức Giêsu: "Đã có lời rằng ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi". "Thử thách Thiên Chúa", đó là chờ đợi nơi Người nhiều cái sẽ làm sai lệch tất cả: sai lệch về Người, về chúng ta và về cuộc sống Người ban cho ta.

Chúng ta muốn một cuộc sống đỡ vất vả hơn, đỡ âu lo hơn, đầy hạnh phúc và niềm vui hơn. Và chúng ta bị cám dỗ xin những cái ấy nơi tôn giáo. Nếu không, chúng ta nghĩ, cầu nguyện để làm gì? đức tin mang lại lợi ích gì? Thật ra, đức tin không mang lại những phương tiện làm cho cuộc sống dễ dãi hơn, nhưng đem lại khả năng sống đến cùng cái dễ và cái khó. Nghĩa là khả năng sống một cuộc sống con người thực sự: trở thành đến mức tối đa cái chúng ta phải trở thành, và lợi dụng tất cả. Cha Jean-Francois Six từng định nghĩa về thánh nữ Têrêxa Hài Đồng như sau: "Ngài đã lợi dụng tất cả để yêu mến". Một cách khác để diễn tả rằng "tất cả đều là hồng ân" khi người ta đã luyện được cái phản xạ cứu nguy: "Ở đấy, tôi có thể yêu thương như thế nào?" Bấy giờ ta có thể nói: "Lạy Chúa Trời, xin tới giúp con!" không phải để gỡ con khỏi những gì mà cuộc sống đòi hỏi con, trái lại để ôm chầm lấy nó bằng cách đánh thức tối đa lòng can đảm của con và khai mở trí tuệ của con.

Đức Giêsu nghĩ tới điều ấy trong 40 ngày: làm những gì mình cần làm, với các phương tiện của một con người, với lòng can đảm và quả tim của một con người. Thật ngu đần cái thằng quỷ đến đề nghị với Người nhiều phương tiện ma thuật để lòe mắt và thống trị. Không đến nỗi ngu thế đâu! Nó biết làm cho cơn cám dỗ nên lấp lánh rực rỡ: sử dụng nhiều con đường ngắn và nhiều phương tiện nặng để toàn thắng. "Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy sử dụng các quyền lực của ông đi nào!" Satan cũng rót vào tai ta như vậy: "Thiên Chúa yêu bạn, bạn có thể xin với Người tất cả". Thậm chí nó sẽ đóng vai ông thầy: "Đã có viết rằng..." Chúng ta sẽ cùng với Đức Giêsu trả lời nó: "Đã viết rằng" không nên xin Thiên Chúa cho thoát khỏi nỗ lực sống, thoát khỏi gian khổ của đời chứng nhân!

 

73.Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ

(Suy niệm của Lm. Jude Siciliano, OP - Lm Fx. Trọng Yên, OP chuyển ngữ)

Bắt đầu mùa chay, chúng ta cần nhớ lại Thiên Chúa là ai, và Thiên Chúa đã làm những gì cho chúng ta. Trong sách Đệ Nhị Luật đọc ngày hôm nay, ông Mô-sê nhân dịp Lễ mừng mùa gặt để kêu gọi dân chúng nhớ lại Thiên Chúa đã làm những gì cho họ. Và yêu cầu họ lặp đi lặp lại lời nguyện đó để họ thuộc làu. Vì thế, ông Mô-sê kêu gọi dân chúng Israel nhớ lại những gì Thiên Chúa đã làm cho họ. Ông ta ghi những điều đó thành một bài kinh của đạo Do Thái: Họ nhớ lại những ngày bị tù đày ở Ai Cập, sự cứu thoát ra khỏi tù đày để đi vào Đất Chúa Hứa. Thiên Chúa là Đấng cứu thoát dân Israel và qua Chúa Giêsu Kitô, chính Thiên Chúa đó là Đấng cứu thoát chúng ta. Chúng ta cũng theo lời chỉ dẫn của Mô-sê để nhớ đến Thiên Chúa trong mùa chay. Thiên Chúa đã cứu thoát chúng ta vượt qua tù tội để trở về sự sống, như việc vượt qua sự chết và sự sống lại của Chúa Kitô.

Hôm nay cộng đoàn chúng ta họp nhau để mừng mùa gặt mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Cũng như tổ tiên, chúng ta hãy nhớ lại Thiên Chúa đã bước chân vào lịch sử loài người, nhìn thấy chúng ta bị vây hãm trong tội lỗi. Cũng như Thiên Chúa đã làm cho dân israel, Ngài đã thật sự dự phần vào việc cứu thoát, giải vây chúng ta qua việc kết hiệp chúng ta vào Chúa Kitô. Khi là thần phần thân thể của Ngài, chúng ta được ở trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở trong chúng ta.

Trong lễ mùa gặt hôm nay, chúng ta nhớ lại công việc lớn lao Thiên Chúa đã làm cho chúng ta. Hôm nay chúng ta mang đến bàn thờ những hoa quả mùa gặt là bánh và rượu. Bánh và rượu tượng trung sự cố gắng của chúng ta để tuân theo ý Thiên Chúa để gây dựng nước trời. Của lễ chúng ta dâng lên Thiên Chúa, ước mong mổi sự hiến dâng ấy giúp chúng ta tiếp tục chấp nhận những thử thách của đời sống người Kitô Hữu.

Năm nay chúng ta đọc Phúc Âm Thánh Luca trong phụng vụ. Trong những tuần sắp tới, nếu chúng ta chăm chỉ và nhớ lại câu chuyện hôm nay, chúng ta sẽ nghe những sự cám dỗ lặp đi lặp lại trong suốt đời sống Chúa Giêsu (Thánh Luca viết: "Sau khi đã xoay hết cách dể cám dỗ Người, quỷ bỏ đi, chờ thời cơ khác"). Chúa Giêsu bị cám dỗ do bởi Ngài tự lo cho Ngài, và để tránh khỏi đau đớn hay đói khát ("ông truyền cho hòn đá này nên bánh đi")

Ma quỷ đề nghị Chúa Giêsu dùng quyền phép mình để phục vụ cho mình. Và sau này, khi có thử thách về quyền năng và nhân tính của Chúa Giêsu, Ngài sẽ bị cám dỗ để làm những phép lạ để đối kháng những kẻ chống lại Ngài ("ông hãy gieo mình xuống đi"). Hoặc để lôi kéo quần chúng theo Ngài, quỷ sẽ cám dỗ Chúa Giêsu làm phép biến đá thành bánh để cho những người đói ăn. Sau khi Chúa Giêsu làm những việc lớn lao, như làm bánh và cá hóa nhiều, dân chúng sẽ kéo nhau tìm đến Ngài để đưa Ngài lên làm vua. Và đây cũng là nhắc lại một cám dỗ khác ("nếu ông bái lạy tôi, thì tất cả sẽ thuộc về ông")

Trong phúc âm Thánh Luca, Chúa Giêsu đang trên đường đến thành Giê-ru-sa-lem. Ngài nói với các môn đệ là Ngài sẽ bị thử thách, sẽ chịu đau khổ và rồi sẽ chết. Phêrô không chịu nghe Chúa Giêsu nói như vậy nên Chúa Giêsu gọi ông là satan. Phêrô là một sự cám dỗ lôi kéo Chúa Giêsu từ bỏ nhiệm vụ của Ngài. Các Tư Tế và Biệt Phái là cám dỗ như cám dỗ của quỷ; các ông muốn Chúa Giêsu cho họ dấu chỉ quyền uy của Ngài (biến đá thành bánh? Hay tự gieo mình xuống vực sâu mà không hề hấn gì?) Đấy là những cám dỗ thật sự liên tục bám theo suốt quãng đời Chúa Giêsu. Nếu Chúa Giêsu để cám dỗ thắng thì Ngài có thể để những người chưa tin trở lại tin vào Ngài.

Chúng Giêsu không muốn những người theo Ngài như những kẻ cám dỗ nói trên. Họ là những người tin tưởng và sức mạnh của Ngài để làm những việc lớn lao mỗi khi cần đến. Và rồi họ sẽ không bao giờ chấm dứt những đòi hỏi đó. Họ sẽ nói "đây, còn những việc này chúng tôi cần Ngài làm đi để chúng tôi tin tưởng vào Ngài". Họ là những người không tin vào sứ vụ của Chúa Giêsu. Ngài mời gọi chúng ta tin vào Ngài, chứ không tin vào những hiện thực thoáng qua.

Lẽ cố nhiên có những vấn đề quan trọng cần được giải quyết. Như khi chúng ta cầu nguyện cho bệnh nhân; cho một em bị ghiền ma túy; cho một đôi hôn nhân sắp đổ vỡ; xin tìm được việc làm sau nhiều tháng thất nghiệp... Khi không tìm được cách giải quyết chúng ta bị cám dỗ làm cho xuôi tay. Chúng ta thường nghĩ là nếu chúng ta tin tưởng thì lời cầu xin của chúng ta sẽ được chấp nhận phải không? Vậy thử hỏi đức tin của chúng ta có đủ mạnh không? Có phải vì đức tin của chúng ta chưa đủ mạnh; nên làm cho chúng ta không nghe thấy tiếng Chúa Giêsu trong lúc chúng ta cầu nguyện?

Chúng Giêsu đã bị cám dỗ để xuôi tay thối lui như chúng ta. Thiên Chúa ở đâu khi Chúa Giêsu gặp những người chống đối lời rao giảng của Ngài? Sao Thiên Chúa không trả lời Chúa Giêsu khi Ngài cầu nguyện trong vườn cây dầu trước khi Ngài bị bắt, hay khi Ngài đang ở trên cây thập giá? Hình như Chúa Giêsu cũng phải trải qua những cám dỗ mà chúng ta phải chịu là hy vọng đối kháng lại hy vọng.

Phúc âm Thánh Luca dùng trong năm C, chúng ta sẽ thấy Chúa Giêsu không để cám dỗ lôi kéo Ngài dùng quyền lực Thiên Chúa để sửa chữa thất bại, hay để lôi kéo dân chúng theo Ngài. Chúa Giêsu thật sự tin tưởng vào Thiên Chúa. Ngài phó mình cho Thiên Chúa, và Thiên Chúa không bỏ rơi Ngài. Thiên Chúa ở cùng Ngài, nâng đỡ Ngài khi Ngài chịu khổ hình và cứu Ngài qua khỏi sự chết.

Bắt đầu mùa chay này chúng ta cần nhớ lại. Chúng ta không tránh khỏi sự đau khổ, tài hoa, thất bại, chán nản, và sự cám dỗ mất niềm tin vào Thiên Chúa. Chúng ta hãy theo gương Chúa Giêsu là luôn dặt niềm tin vào Thiên Chúa mỗi khi chúng ta bị cám dỗ xa cách Chúa, sự tin tưởng vào Chúa Giêsu sẽ nâng đỡ chúng ta. Chúng ta sẽ hy vọng ngược lại là qua tình thương yêu đối với Thiên Chúa chúng ta sẽ đạt đến thành quả cuối cùng. Sự cám dỗ và sự chiến thắng cám dỗ của Chúa Giêsu là nguồn sinh lực cho chúng ta noi theo. Vì Chúa Giêsu mà chúng ta tin, chúng ta không tin vào sức lực của chúng ta mà tin vào quyền lực của Ngài.

Thánh Luca nhắc chúng ta là "Đức Giêsu được đầy Thánh Thần... và được Thánh Thần dẫn vào hoang địa". Trong sách Công Vụ Tông Đồ do Thánh Luca viết về ngày Thánh Thần hiện xuống trên các môn đệ. Đó là cách Thánh Luca nhắc cho chúng ta nhớ lại; như xưa Mô-sê đã nhắc nhở dân Israel; là những Kitô Hữu sẽ phải chịu những gì khi trở về Giê-ru-sa-lem. Chúng ta sẽ được Thần Khí Chúa Giêsu nâng đỡ chúng ta để chịu cám dỗ trong sa mạc. Thánh Thần Chúa đồng hành với chúng ta sẽ gìn giữ chúng ta trung kiên với Chúa Kitô là Đấng đã gọi chúng ta theo Ngài.

Xuyên suốt phúc âm Thánh Luca chúng ta sẽ thấy sức mạnh của Thánh Thần: Từ ngày Chúa Giêsu sinh ra (Lc: 1:35 "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà"); lúc Chúa Giêsu chịu phép rửa (3:22 "và Thánh Thần ngự xuống trên Người"); khi Ngài giảng dạy trong đền thờ (4:18-30 "Thần Khí Chúa ngự trên tôi"); khi Ngài được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa v.v... Hôm nay Chúa Giêsu thắng quỷ cám dỗ vì Thần Khí Chúa ngự trên Ngài. Nhưng còn một lý do khách vều quyền lực của Chúa Giêsu là: Chúa Giêsu luôn luôn dùng Kinh Thánh (4:4,8,12 "đã có lời chép rằng"). Suốt trong lịch sử có những người dùng lời Kinh Thánh không phải để dẫn chứng việc buộc tội, việc trừng phạt, và việc loại trừ họ. Nhưng, trong phúc âm Thánh Luca, những việc quan trọng được nêu ra như việc Chúa sinh ra, sự chết và sự sống lại của Ngài đều được loan báo là "theo lời chép của Kinh Thánh" (như chuyện hai môn đệ trên đường Emmau (24:27, 44-49) "Người giải thích những gì liên quan đến Người trong tất cả sách thánh" "Có lời Kinh Thánh chép rằng"). Thánh Luca khuyên giáo dân là, với Thánh Thần và Kinh Thánh chúng ta sẽ không chịu thua sự cám dỗ trong việc trở nên môn đệ Chúa Giêsu, và những việc lớn lao mà Thiên Chúa làm là để nâng đỡ chúng ta trên đường chúng ta đi theo Chúa Kitô lên Giê-ru-sa-lem.

 

74.Suy niệm của Lm. Jude Siciliano, OP.

(Chuyển ngữ: FX. Trọng Yên, OP.)

Tôi chắc rằng không ai trong chúng ta muốn bị bệnh hay mắc một căn bệnh khó trị. Và tôi cũng chắc ràng chúng ta ai cũng có một bảng liệt kê những căn bệnh nan y mà chúng ta sợ nhất. Trên thực tế một số người trong chúng ta có một chút mê tín nên ngần ngại trong việc trao đổi về chủ đề này vì sợ xui vì e rằng điều đó sẽ xảy đến cho chúng ta. Nhưng, hãy thử lo nghĩ đến một bệnh nặng có ảnh hưởng rất sâu sắc đối với chúng ta đó là bệnh mất trí nhớ, hay là lú lẫn.

Hãy tưởng tượng hậu quả sẽ kinh khủng đến mức nào khi chúng ta quên đi quá khứ của chính mình. Chúng ta sẽ không biết mình là ai và từ đâu đến. Thật đau đớn và mất phương hướng khi sống trong một bầu không khí lãng quên mọi sự, quên kinh nghiệm và các liên hệ đã có, quên cha mẹ và bạn bè, quên những người thân thuộc đã giúp bạn nên người. Một sự mất trí nhớ nghiêm trọng như thế tất nhiên sẽ xóa sạch quá khứ của chúng ta. Và còn hơn thế nữa là những gì tốt đẹp của hiện tại chúng ta sẽ không có lịch sử và kinh nghiệm của quá khứ để hoàn thiện và vững chắc hơn? Và tương lai sẽ không có giá trị gì nếu không có quá khứ giúp chúng ta lựa chọn sáng suốt đúng cho tương lai phải không?

Nghĩ cách khác, bệnh hay quên đó có thể là căn bệnh nặng nhất vì nó sẽ gây nhiều tổn hại trong vấn đề nhận thức về bản thân và trí hiểu của chúng ta trong thực tại của chính mình. Các bài Kinh Thánh hôm nay nói về một bệnh mất trí nhớ rất nguy hiểm: Đó là quên mất Thiên Chúa là ai, và Thiên Chúa đã làm gì cho chúng ta. Trong bài trích sách Đệ Nhị Luật, ông Môsê nói với dân Israel và cố gắng giúp họ không nên tự quên lãng . Ông Môsê kêu gọi cộng đoàn tín hữu luôn nhớ đến Thiên Chúa và luôn luôn nhớ những hành động lớn lao của Ngài đã làm để giải thoát họ.

Ông Mô-sê nói với cộng đoàn trong một đại lễ phụng vụ, có thể là một lễ hội mà người dân đem theo một số trái cây đã thu hoạch được trong vụ mùa để dâng lên cảm tạ Thiên Chúa là nguồn gốc của những hoa quả đó. Nhưng, ông Mô-sê nhân dịp này đã hướng dẫn cho họ biết là họ không những nhớ những hoa quả mà Thiên Chúa đã ban cho họ, nhưng điều cần nhất là họ nên nhớ những món quà của Thiên Chúa đã ban cho họ trong quá khứ. Vì thế họ nên thuộc lịch sử của họ. Bắt đầu từ các tổ tiên họ "Ông tổ tôi là người Aram du mục" (có thể đó là ông Giacob). Các tổ tiên họ là những người du mục. Tuy vậy Thiên Chúa đã ban cho họ Đất Chúa Hứa và cho họ trở thành một quốc gia lớn. Rồi khi họ bị lưu đày ở Ai cập, Thiên Chúa đã dang cánh tay uy quyền "đã gây kinh hồn táng đởm" giải thoát họ.

Ông Môsê không muốn dân Israel là những người mất trí nhớ. Họ phải ăn mừng về quá khứ của họ. Vì nếu họ làm như thế, họ sẽ nhớ đến Thiên Chúa của họ, Ngài rất nhân từ với họ là những người không xứng đáng, và đã làm cho họ nên một dân tộc. Khi họ nhớ Thiên Chúa đã làm gì cho họ trong quá khứ, họ sẽ tin tưởng vào Thiên Chúa là Ngài không bỏ rơi họ trong những nhu cầu hiện tại, cũng như các thử thách của tương lai.

Hôm nay là Chúa Nhật thứ nhất Mùa Chay. Mùa Chay đã bắt đầu và là lúc nên theo lời ông Môsê khuyên là nên nhớ lại những gì Thiên chúa đã làm cho chúng ta. Đó không phải là ý nghĩa của Bí Tích Thánh Thể là "không nên quên", hãy nhớ lại phải không? Mỗi khi chúng ta cử hành Bí Tích Thánh Thể là chúng ta nhớ đến những việc làm vĩ đại của Thiên Chúa đã làm cho chúng ta qua Chúa Kitô và hơn thế nữa. Chúng ta sẽ nghe lời Chúa Giêsu trong Bí Tích Thánh Thể "hãy làm việc này để nhớ đến Thầy", Không phải đó chỉ là cử chỉ củ chỉ đơn thuần để nhớ về quá khứ để khỏi quên việc Thiên chúa đã làm trong quá khứ cho chúng ta. Trái lại, khi chúng ta nhớ Chúa Kitô tự hiến mình cho chúng ta, chúng ta "nhớ" Ngài, thì Ngài hiện diện ở giữa chúng ta. Chúng ta được kết nối với đời sống, sự chết và sự phục sinh của Ngài.

Và đó là điều quan trọng, vì Mùa Chay đòi hỏi chúng ta hãy chết cho chính mình: chết cho ích kỷ và tội lỗi; chết cho sự chỉ nghĩ và chú trọng cho mình; chết cho những nghĩ suy về thế giới xung quanh chúng ta và quên đi cộng đoàn lớn lao. Sự chết đó chúng ta không thể tự chúng ta làm được. Nhưng chúng ta nhớ đây là Chúa Nhật thứ nhất Mùa Chay, và chúng ta không thể tự sống cho chúng ta vì chúng ta đã chết với Chúa Kitô trong Bí Tích rửa tội và đã được ban cho sự sống mới bây giờ và với lời hứa sẽ được sống lại với Chúa Kitô trong tương lai. Nhớ về quá khứ là điều hay, vì làm như vậy chúng ta sẽ thêm hăng hái và thị kiến về hiện tại và hy vọng cho tương lai.

Cộng đoàn chúng ta nhớ lại chúng ta từ đâu đến và sẽ đi về đâu với Chúa Kitô và vì Ngài. Đó là lời kinh chúng ta dâng lên Thiên Chúa trong thánh lễ hôm nay: "Thật là chính đáng tạ ơn và ca ngợi Chúa Giêsu Kitô là Chúa Con của Ngài". Có cách nào mừng Mùa Chay khác hơn chăng? Chúng ta có thể bắt đầu mùa thánh này, không phải chỉ đấm ngực, nhưng bằng cách nhớ lại những gì Thiên Chúa đã làm cho chúng ta. Và, trong Bí Tích Thánh Thể này cũng như trong đời sống hằng ngày chúng ta luôn dâng lời cảm tạ. Chúng ta hãy cùng nhau sống với tinh thần như thế trong suốt Mùa Chay.

Chúa Giêsu không phải là người mất trí nhớ. Ngài không có khó khan gí khi nhớ lại Thiên Chúa là a và Ngài là aii. Các tường thuật trong phúc âm nói rõ ràng là trong suốt cuộc đời Chúa Giêsu, Ngài đã gặp những cám dỗ mà thánh Luca mô tả lại trong phúc âm. Có thể, những người thời nay không nghĩ là Chúa Giêsu bị cám dỗ. Hay là chúng ta nghĩ là Chúa Giêsu là Đấng mà Ngài có thể vượt qua những cơn cám dỗ dễ như là chúng ta đuổi ruồi ra khỏi mặt chúng ta. Nhưng, nếu phúc âm nói Chúa Giêsu bị cám dỗ, thì thật sự là có xảy ra. Cám dỗ sâu đậm không dễ dàng gì vượt qua. Những cám dỗ rất sâu sắc vì về bản tính Ngài vẫn là Con của Thiên Chúa. Nhưng khi sống trong mối liên hệ với Thiên Chúa như vậy lại bao gồm cả hai ý nghĩa là về phương diện kinh nghiệm bản thân và về sứ vụ của Ngài? Ngài làm sao đối phó với sự cám dỗ đó mà vẫn trung thành với Thiên Chúa và đồng thời thục thi sứ vụ mà Thiên Chúa đã giao cho Ngài?

Cám dỗ thứ nhất là về việc Chúa Giêsu tự lo cho Ngài. Ngài đói, vậy thì đó là gì? Sao lại Ngài không làm bánh từ đá? Vì sao Con Thiên Chúa lại sống một đời sống đầy đặc quyền và tránh được sự đau khổ mà tất cả chúng ta đã phải chịu đựng. Thật ra thì Ngài là Đấng đặc biệt phải không? Nhưng nếu Ngài nghĩ đến Ngài, dùng quyền năng riêng cho Ngài, thì Ngài có thể gây tin tưởng gì khi Ngài kêu gọi các môn đệ hãy từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Ngài? Còn về việc Ngài dùng quyền năng để ban lương thực cho những người đói bằng cách làm đá hóa bánh hay bằng cách làm bánh hóa ra nhiều thì sao? Ngài đã làm bánh hóa ra nhiều, và đám đông dân chúng không hiểu Ngài là ai mà làm phép lạ đó. Họ đến để nâng Ngài lên làm vua. Đó là những giới người đi theo Ngài nhưng Ngài không muốn.

Cám dỗ thứ hai là về việc Ngài làm sao sống là Con Thiên Chúa. Ngài có thể dùng quyền năng của Ngài trên các quốc gia trong thế giới, và dùng quyền lực quân sự gây ảnh hưởng chính trị. Dân Israel đã bao lần ao ước được nên một quốc gia hùng cường trên thế giới, và Chúa Giêsu có thể là người lãnh đạo họ. Nhưng, trái lại, Ngài chọn Ngài là Con thật của Thiên Chúa và tự đặt Ngài dưới quyền hành của Thiên Chúa, và sống đời sống trung thành với đường lối của Thiên Chúa, không phải theo cách thức và đường lối quyền lực của trần gian.

Cám dỗ thứ ba: Thánh Luca dường như sắp đặt theo thứ tự các mức cám dỗ theo sự trầm trọng và sâu sắc. Một lần nữa Chúa Giêsu bị cám dỗ về bản tính Ngài là "Con Thiên Chúa". "Nếu ông là Con Thiên Chúa...". Nếu không phải vì lý do gì khác, chúng ta phải biết đây là lúc quan trọng vì thánh Luca đặt sự cám dỗ này trên nóc Đền Thờ (trong phúc âm thánh Luca, Giêrusalem và Đền Thờ là điểm trọng tâm) Nếu Chúa Giêsu để bị cám dỗ và gieo mình xuống khỏi nóc Đền Thờ thì Thiên Chúa phải gìn giữ Ngài. Ngài có thể kêu Thiên Chúa cứu Ngài khỏi những trường hợp đe dọa Ngài suốt những năm Ngài thi hành sứ vụ. Ngài có thể tự cho Ngài được ưu tiên như thế vì Ngài là Con Thiên Chúa. Và hậu quả là Ngài có thể thử thách Thiên Chúa để chứng tỏ Ngài là Con yêu dấu và đã được Thiên Chúa săn sóc gìn giữ. Ngài sẽ xin Thiên Chúa chứng minh sự liên hệ giữa Ngài và Thiên Chúa, và cam đoan với Ngài mỗi khi Ngài gặp khó khăn. Chúng ta không có những chứng minh cụ thể như thế mỗi khi chúng ta kêu đến Chúa Giêsu, một người trong chúng ta có thể xin chứng minh đó cho Ngài.

Vậy chúng ta có thể tin tưởng vào tình yêu thương của Thiên Chúa mỗi khi khó khăn của cuộc sống đánh gục chúng ta không? Chúng ta có thể tiếp tục tin tưởng suốt những lúc chúng ta phải chiến đấu, và mỗi khi chúng ta tự hỏi chúng ta có đáng được hay không? Ngay cả khi chúng ta thưa vói Thiên Chúa "con nghĩ con là con yêu dấu của Ngài. Sao Ngài lại để điều ấy xãy ra cho con? Ngài ở đâu khi con cần đến Ngài?" Tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa thật là điều khó khăn. Khi chúng ta gặp đau khổ cùng tận, và đức tin chúng ta bị lay chuyển, và Thiên Chúa có vẻ như vô hiệu lực, hay không để ý đến lời chúng ta kêu xin. Nhưng Chúa Giêsu vẫn giữ lòng trung thành và tin tưởng trong những trường hợp tương tự như thế. Vì Chúa Giêsu có thể làm được thì bây giờ chúng ta cũng làm được. Lịch sử của dân Israel và lời các ngôn sứ cho biết là dân Israel đã bao lần bị sa ngã vì các cơn cám dỗ trong ơn gọi họ nên là con Thiên Chúa. Dân chúng thường quay mặt tránh khỏi Thiên Chúa và tự tìm lấy bánh cho họ. Họ quỳ xuống thờ lạy các thần giả và lắm khi họ thử thách Thiên Chúa. Chúng ta có thể trách Írael nhiều, nhưng chúng ta cũng đã làm như họ.

Vậy chúng ta không nên như là những người mất trí nhớ. Thiên Chúa giúp chúng ta có trí nhớ để nhắc chúng ta là con yêu dấu của Ngài và Ngài không bao giờ không giúp đỡ chúng ta để cam đoan với chúng ta là chúng ta là con Ngài. Vì Chúa Kitô, chúng ta nhớ lại quá khứ của chúng ta, kinh nghiệm chúng ta với Ngài trong hiện tại và không lo sợ cho tương lai của chúng ta là nơi chúng ta sẽ tìm thấy Ngài.

 

75.Suy niệm của Lm. Jude Siciliano, OP.

(Chuyển ngữ FX. Trọng Yên, OP)

XIN CHÚA THÁNH LINH LUÔN NGỰ TRONG CON NHỮNG LÚC SA CHƯỚC CÁM DỖ

Mừng các bạn vào Mùa Chay.  Mùa Chay bắt đầu từ những ngày đầu của thời giáo hội tiên khởi. Bắt đầu là một mùa ăn chay trước lễ Phục Sinh. Sau đó đổi ra là 40 ngày. Trong thời gian đó giáo hội có những việc lo cho các tân tòng sửa soạn chịu phép rủ̉a vào lễ Phục Sinh. Qua nhiều thế kỷ có hai việc chính trong cộng đoàn là: cộng đoàn ăn năn sám hối, và sủ̉a soạn cho các tân tòng chịu phép rủ̉a tội vào lễ Phục Sinh.

Sau đó chủ̉̉̉̉ điểm thay đổi qua việc giáo hội sủ̉a soạn mủ̀ng lễ Phục Sinh hỏn là chú trọng đến tủ̀ng cá nhân. Công Đồng Vatican II kêu gọi trỏ̉ về hai chủ điểm: phép rủ̉a và cộng đoàn ăn năn sám hối qua Lỏ̀i Thiên Chúa. Chúng ta sống qua Mùa Chay nhỏ̀ sụ̉ kích thích trong sự chuẩn bị của các tân tòng (vừa sửa soạn chịu phép rửa và chịu phép rước Mình và Máu Thánh Chúa lần đầu). Các tân tòng muốn gia nhập vào cộng đoàn đức tin cho chúng ta hy vọng vào tương lai, và nhắc chúng ta nhớ những ân huệ quý báu chúng ta đã lãnh nhận qua phép rửa tội.

Mùa Chay sẽ giúp chúng ta nghĩ đến lê Phục Sinh, nhưng cũng nhắc chúng ta đến Lễ Chúa Thánh Thần, không phải chỉ riêng về lễ, nhưng là việc Chúa Thánh Thần đã đến ở với chúng ta mãi mãi. Thánh Luca viết về việc Chúa Giêsu ở trong hoang địa 40 ngày nhắc chúng ta nhớ là Chúa Thánh Linh dẫn đưa Chúa Giêsu vào trong hoang địa. Thần Khí đó không bao giờ rời Chúa Giêsu trong khi Ngài chịu cám dỗ, suốt những năm thi hành sứ vụ của Ngài, đến khi Ngài chịu khổ hình, chết và sống lại.

Mùa Chay không phải là một mùa đóng kín, chỉ 40 ngày sống trong việc ăn chay. Thật ra các tân tòng trong giáo xứ nhắc chúng ta là đang tiến đến ánh sáng Thần Khí. Tinh thần Chúa Thánh Linh đã ở trong chúng ta suốt qua mùa cộng đoàn sống lại đời mới.  Xuyên qua việc chúng ta giữ chay Chúa Thánh Linh sẽ giúp chúng ta lánh xa tội lỗi, lãnh nhận đời sống mới trong lễ Phục Sinh, và sau đó Chúa Thánh Linh sẽ dẫn đưa chúng ta như Ngài đã đưa các tông đồ tụ họp trong phòng để ra đi làm nhân chứng cho đời sống, trong sự chết và sự sống lại của Chúa Kitô.

Bài trích sách Đệ Nhị Luật nhắc chúng ta là trong truyền thống Do thái giáo và Kitô giáo bắt nguồn trong sự kiện của lịch sử. Khi ông Môsê hội họp dân chúng, ông ta nhắc họ nhớ đến những việc diệu kỳ mà Thiên Chúa đã làm để cứu họ ra khỏi ách lưu đày ở Ai Cập. Trong khi cộng đoàn nhớ đến những việc Thiên Chúa đã làm, giúp cho mỗi thế hệ mới họp nhau để mừng lễ. Nhớ đến những việc kỳ lạ Thiên Chúa đã làm cũng giúp dân chúng thêm hy vọng trong những khó khăn hiện đại. Nếu Thiên Chúa đã có lần giúp dân Ngài, thi Ngài cũng sẽ giúp họ lần nữa trong những lúc khó khăn.

Sau khi ông Môsê nhắc dân chúng những việc Thiên Chúa đã làm, dân chúng mang lễ vật lên bàn thờ để tỏ lòng biết ơn và cùng nhau tận hiến đời họ cho Thiên Chúa. Và đó là việc chúng ta làm mỗi khi chúng ta dâng Thánh Lể. Trước hết, chúng ta nghe Lời Thiên Chúa, và nhớ đến những hành động cứu rỗi của Ngài qua Chúa Giêsu Kitô. Sau đó chúng ta  đem bánh và rượu dâng lên bàn thờ biểu hiệu lòng biết ơn về việc Thiên Chúa đã làm, và chúng ta dâng hiến đời chúng ta cho Thiên Chúa hiện hữu và đang hành động .

Trong thơ thánh Phao lô gởi cho giáo hữu thành Rôma, thánh Phaolô loan báo chủ điểm của Tin Mừng. Cũng như ông Môsê nhắc nhở chúng ta nên nhớ việc Thiên Chúa đã làm cho chúng ta qua Chúa Giêsu Kitô. Sau khi nghe "lời đức tin" chúng ta cùng nhau mang lễ vật lên bàn thờ. Lễ vật đó tượng trưng sự dâng hiến của chúng ta.

Chúng ta có thể đọc bài phúc âm thánh Luca về việc Chúa Giêsu bị cám dỗ trong hoang địa như là một sự việc độc nhất. Rồi sau đó khi Chúa Giêsu đã qua các sự cám dỗ của quỷ dữ, Chúa Giêsu ra đi thực thi sứ vụ. Xem như việc đã xong, rồi việc gì khác sẽ xãy đến?. Nhưng có cách khác nhìn vào việc Chúa Giêsu bị cám dỗ như là thánh Luca tóm tắt các cám dỗ Chúa Giêsu phải chịu suốt đời Ngài, cho đến khi Ngài chịu chết trên cây thánh giá.

Chúa Giêsu có thể bị cám dỗ và Ngài dùng quyền năng để tư lo cho Ngài, để chứng tỏ bản thân của Ngài bằng cách làm những việc kỳ lạ, và liên hệ với các quyền binh chính trị và quân sự để loan tin Ngài đem đến. Chủ điểm về việc Chúa Giêsu bị cám dỗ nhiều lần trong những năm thi hành sứ vụ của Ngài về sự việc xãy ra trên đường đi Caesarea Philippi, khi Ngài  nói với các môn đệ về việc Ngài sẽ chịu khổ hình và chịu chết, rồi ông Phêrô không muốn nghe đến. Chúa Giếsu bảo ông ta im đi "Sa-tan, lui lại đằng sau Thầy". Lần này sự cám dỗ đến từ một môn đệ của Chúa Giêsu là ông Simon Phêrô.

Chúng ta được an ủi vì chúng ta biết Chúa Giêsu không những chia sẻ bản tính loài người với chúng ta, là Ngài cũng như chúng ta, Ngài cũng bị cám dỗ. Trong đời sống hằng ngày, chúng ta cũng gặp cám dỗ để dùng của cải, tiện nghi, và bỏ qua hy sinh để nên môn đệ Chúa. Chúng ta bị lạc huớng, và không còn biết ai hay việc gì quan trọng trong đời sống. Không một kinh nghiệm nào trong đời sống gia đình, nơi sở làm và trong việc giải trí mà không bị cám dỗ về bản tính của chúng ta là Kitô hữu, và về sự liên hệ của chúng ta đối với Thiên Chúa.

Chúng ta nên nhớ Công Đồng Vatican II đổi chiều hướng tinh thần Mùa Chay qua việc chú trọng đến phép rửa tội và sự ăn năn sám hối của cộng đoàn.Thánh Luca luôn luôn nhấn mạnh việc Chúa Thánh Linh hiện diện suốt trong đời sống Chúa Giêsu. Qua phép rửa, chúng ta toàn thể giáo hội cũng được ân hưởng của Chúa Thánh Linh. Chúa Thánh Linh thêm năng lực cho Chúa Giêsu trong khi Ngài bị cám dỗ và chịu khổ hình. Chúa Thánh Linh cũng sẽ giúp chúng ta chống lại quỷ dữ và bỏ những ý định lo riêng cho chúng ta để quay về việc phục vụ người khác khi chúng ta gặp họ.

Chúng ta nghe Lời Thiên Chúa và nhớ đến những hành động Thiên Chúa đã làm cho chúng ta. Rồi với bánh rượu tượng trưng cho sự dâng hiến của chúng ta một lần nữa trên bàn thờ. Qua ơn Chúa Thánh Linh, của lễ và đời sống của chúng ta sẽ trở thành Mình và Máu Thánh Chúa Kitô. Chúng ta được nuôi dưởng qua Lời Chúa và bí tích thánh thể, chúng ta sẽ vào thế gian, và sẽ được ơn trợ giúp chống lại những cám dỗ và thử thách lôi cuốn chúng ta a khỏi đời sống chúng ta đã dâng hiến qua phép rửa để phục vụ Thiên Chúa và tha nhân.

 

76.Chúa Giêsu chịu cám dỗ trong sa mạc

(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)

Hôm nay Giáo Hội lại đưa chúng ta đi vào những ngày Chúa nhật mùa chay. Quả thực, mùa chay là mùa sám hối ăn năn, mùa trở về với chính mình và ngước mắt lên Thiên Chúa bởi vì con người chúng ta quá yếu đuối hay sa ngã và hay phản bội. Nhìn lên Chúa để thấy chúng ta còn quá nhiều khiếm khuyết cần phải được Chúa tha thứ và yêu thương. Do đó, Chúa nhật thứ I mùa chay, năm C muốn dạy chúng ta rằng đã là con người thì luôn còn yếu đuối, luôn còn thử thách. Thử thách để chúng ta biết phải chọn lựa thế nào? Những bài đọc Sách Thánh Chúa nhật hôm nay sẽ định hướng cho chúng ta hiểu phải làm gì?

Đọc đoạn Tin Mừng của thánh Luca 4,1-13 chúng ta nhận ra một điều thật lạ lùng:tại sao Thần khí của Chúa lại đưa Chúa Giêsu vào sa mạc để chịu ma quỉ cám dỗ? Đức Giêsu mà lại chịu cám dỗ được chăng? Đó là vấn nạn. Đó là thắc mắc của con người muôn thuở. Tuy nhiên, chúng ta vẫn có thể suy nghĩ và trả lời được. Chúa đã chấp nhận làm người dù Ngài là Thiên Chúa, nhưng Ngài vẫn có thể bị thử thách vì Ngài là người. Thử thách có nghĩa là đặt con người vào trạng huống phải tự chọn lựa. Ở đây, sa mạc không xa là bao bởi vì từ Giêrusalem cứ theo hướng mặt trời lặn khoảng nửa giờ đã tới sa mạc Giuđa. Đức Giêsu Kitô đã bỏ các bãi cỏ xanh, bờ cát của dòng sông Giorđăng, rồi đi bộ một thời gian ngắn là đã tới sa mạc. Chúa Giêsu đã vào sa mạc theo sự hướng dẫn, thúc bách của Thần khí Thiên Chúa. Tin Mừng cho chúng ta hiểu những mưu mô quỉ quyệt của ma quỉ. Chúng bầy ra những chước cám dỗ, những thử thách để buộc Chúa Giêsu phải chọn lựa. Hoặc là chấp nhận để phản bội Thiên Chúa Cha hoặc là khước từ để luôn là người tôi trung của Chúa Cha. Ma quỉ đã đánh vào Chúa Giêsu về nhiều phương diện. Cái đói, tiền tài, sa hoa, danh vọng, phú quí. Những cám dỗ, những thử thách ấy là những cạm bẫy thực tế hằng ngày của con người. Chúa Giêsu đã dạy cho ma quỉ bài học vô giá. Đói, khát, phú quí, bả phù hoa, danh vọng chỉ là những hào quang tạm thời, mau qua. Cái chính yếu đó là tình yêu, sự trung thành Chúa Giêsu dành cho Thiên Chúa Cha. Chúa Giêsu đã toàn thắng tất cả những thử thách ấy với tất cả sự cương quyết, can đảm của Ngài. Ngài đã đẩy lui ma quỉ và Tin Mừng cho hay:" Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ, ma quỉ bỏ Người mà đi, chờ đợi thời cơ ".

Sa mạc là nơi thanh vắng. Sa mạc là nơi con người âm thầm gặp gỡ Đấng hằng sống. Nhưng sa mạc cũng là nơi ma quỉ bầy ra trăm nghìn mưu chước cám dỗ, thử thách và cạm bẫy. Tuy nhiên, sa mạc cũng là nơi con người lựa chọn giữa cái sống và cái chết, giữa hạnh phúc và bất hạnh. Nếu được Thần khí của Thiên Chúa dẫn đưa, và hướng dẫn thì sa mạc là nơi để lựa chọn giữa cái thiện và cái ác.

Sứ điệp Lời Chúa Chúa nhật hôm nay nhắc lại việc Chúa Giêsu bị thử thách nơi sa mạc để giúp chúng ta hiểu sự đau khổ và thập giá Ngài sẽ phải chịu để cứu độ loài người, cứu vớt con người. Chúa Giêsu đã chiến thắng để nêu gương cho chúng ta và mời gọi chúng ta hãy mạnh dạn, bước theo con đường của Người đã đi qua để được ơn cứu độ.

Chúa dạy chúng ta những gì ma quỉ đã cám dỗ, thử thách Chúa thì chúng không ngừng cám dỗ chúng ta. Ma quỉ xúi giục chúng ta muốn khoái lạc. Chúng lôi kéo chúng con tìm danh lợi lạc thú theo ý riêng tư của chúng ta. Chúng thúc đẩy chúng ta tham lam ích kỷ mà quên đi việc thực hành những điều răn Chúa. Theo gương Chúa chúng ta dứt khoát đẩy lùi những thử thách, cám dỗ của ma quỉ và nhất mức tin theo Chúa Giêsu.

Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa thứ tha mọi lỗi lầm của chúng con và xin Chúa ban cho chúng con biết noi gương Chúa để chúng luôn một mực trung tín với Chúa và Lời của Chúa. Amen.

 

77.Ma quỷ khuất phục Chúa

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

Ma quỉ thuộc thế giới vô hình, mắt ta không trông thấy chúng, nhưng ta cảm nghiệm sinh hoạt và các hoạt động của chúng. Ma quỉ thường biểu lộ cách hoạt động của chúng bằng ba hình thức" ám ảnh, phá phách và cám dỗ ".Tin Mừng của thánh Luca 4, 1-13 cho thấy cuộc đối đầu giữa Chúa Giêsu và ma quỉ. Cuộc đương đầu, tranh chấp này còn kéo dài mãi trong công cuộc rao giảng của Chúa, trong cuộc thương khó và cái chết của Ngài, đồng thời nó còn kéo dài mãi mãi trong cuộc sống của con người, của mỗi người cho đến ngày toàn thắng vinh quang của Chúa.

Bài Tin Mừng của thánh Luca nói đến ba đợt cám dỗ của ma quỉ. Chúa chấp nhận để ma quỉ cám dỗ, thử thách. Thánh Luca viết:" Thánh Thần đưa Chúa vào hoang địa để chịu ma quỉ cám dỗ ". Thực ra đây là 3 cách cám dỗ ma quỉ bầy ra trong trí vẽ của con người, trong tư tưởng của Chúa Giêsu. Khi ma quỉ dùng ba tư tưởng để cám dỗ Chúa thì chúng cũng dùng ba mồi nhử rất hấp dẫn để lôi kéo chúng ta hầu làm cho chúng ta chùn bước và sa ngã: tiền tài, danh vọng và sắc dục. Ba mồi nhử này xem ra rất hấp dẫn để làm cho con người chạy theo chúng. Tiền tài là mồi thơm lôi cuốn biết bao nhiêu người. Có người quên hết tất cả để thờ thần Mammon dù rằng họ đã biết Chúa từ lâu. Danh vọng và sắc dục cũng quyến rũ biết bao người, biết bao thế hệ. Có những người bán rẻ lương tâm, bán rẻ bản thân để chạy theo những bả vinh hoa, nhục dục...Trước những cám dỗ của ma quỉ Chúa Giêsu đã hoàn toàn chiến thắng chúng bởi vì "Ngài luôn đặt niềm tin vào Thiên Chúa Cha Ngài ". Vâng, những đương đầu, những thử thách, những cám dỗ với ma quỉ còn kéo dài trong suốt cuộc đời tại thế của Chúa Giêsu và cách riêng đối với mọi người chúng ta. Tiền tài, danh vọng, nhục dục là những cám dỗ lớn nhất trong đời sống của con người. Con người có thể bị cuốn hút bởi những thứ bùa mê ngọt lịm đó, nhưng để chiến thắng chúng, Chúa Giêsu nói với chúng ta " Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh". Có một thứ cần hơn và tối hảo là lương thực của Chúa, " Mình Máu Chúa Kitô ". Bả vinh hoa danh vọng cao vời, Chúa nói chúng ta vẫn chiến thắng và chiến thắng vẻ vang nếu" Chúng ta chỉ tôn thờ một Thiên Chúa ". Nhục dục, sắc đẹp mê hồn, con người vẫn có thể vượt qua khi họ nhận ra ý của Chúa. Ma quỉ hoàn toàn bị Chúa đè bẹp và thánh Luca viết tiếp:" Ma quỉ rút lui để chờ dịp khác "(Lc 4, 13).

Như Chúa Giêsu, chúng ta phải tỉnh thức, ăn chay, hãm mình và cầu nguyện. Chúng ta luôn tin tưởng Chúa thương ta. Chúa không muốn ta bị sa ngã, nhưng tất cả phải do ta quyết định, tin hay chối từ lòng nhân hậu của Chúa. Chúa muốn ta càng ngày càng được thanh luyện để trở nên hoàn hảo trước mặt Chúa. Vì tất cả đều là tình thương của Chúa. Tất cả đều nằm trong ý định và trong vòng tay yêu thương của Chúa.

Tin Mừng hôm nay nhắc cho ta về việc Chúa Giêsu bị ma quỉ cám dỗ trong sa mạc để vén mở cho ta thấy những gì sẽ xẩy ra trong giờ phút quyết liệt và khủng khiếp của thập giá. Trong vườn Cây Dầu, Chúa đã đổ mồ hôi máu ra. Điều ấy cho thấy Chúa Giêsu bị thử thách bỏ cuộc như thế nào!

Cả cuộc đời của Chúa Giêsu là một cuộc thử thách nối dài, cuộc đương đầu với những cám dỗ ghê gớm để hoàn toàn trung thành với Chúa Cha. Chúa đã chiến thắng hoàn toàn vẻ vang để nêu gương cho ta và mời gọi ta đi vào cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa để chúng ta lãnh lấy ơn cứu độ. Sứ điệp của Tin Mừng hôm nay đưa ta đi vào mùa chay vớii những quyết tâm sâu xa. Những quyết tâm là kiên trì, tỉnh thức chống lại những cám dỗ của ma quỉ như ước muốn khoái lạc, mưu tìm danh lợi theo ý muốn riêng tư của ta, ích kỷ tham lam mà quên đi thực hành các giới răn của Chúa.

Mùa chay 2007, đối với Giáo Hội Việt Nam còn mang một ý nghĩa sâu xa" Sống Đạo". " Sống yêu Thương và Phục Vụ ". Riêng đối với Địa Phận Đàlạt, mùa chay năm 2007 còn mang sắc thái truyền giáo bởi vì cả Giáo Phận đang nỗ lực đi vào năm thánh truyền giáo cho người Dân Tộc, kỷ niệm 80 năm người Dân Tộc đầu tiên bà Maria K Trut đã được Đức cố Giám Mục Gioan Cassaigne rửa tội ngày 07/12/1927 và từ người đầu tiên biết Chúa ấy, Giáo Phận Đàlạt cho tới thời điểm tháng 2/ 2007 đã có gần 150.000 người Dân Tộc nhận biết Chúa và trở thành con Chúa, con của Giáo Hội. Do đó, mùa chay là thời thuận tiện để chúng ta tỉnh thức, kiên trì chống lại những cám dỗ đang âm thầm gieo vào lòng ta và quyết tâm tin tưởng vào ơn giải thoát của Chúa vì chỉ nơi thập giá của Đức Giêsu Kitô mới có ơn cứu độ.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết cầu nguyện, ăn chay, hãm mình để luôn sẵn sàng chiến thắng những cám dỗ của ma quỉ ranh ma bầy ra, để bắt chước Chúa sống yêu thương và phục vụ. Amen.

 

78.Hóa giải những cơn cám dỗ

(Suy niệm của Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb)

Chúng ta đang cùng đồng hành với Chúa Giêsu sau khi từ sông Giođan trở về để được Thánh Thần dẫn đưa vào hoang địa 40 đêm ngày để chịu cám dỗ của ma quỷ. Tại đây, khi Người đã thấm mệt và đói thì cũng chính là lúc ma quỷ "tung cú chưởng" nặng chùy hơn nhằm hạ gục Chúa bằng ba cơn cám dỗ đặc trưng, xảo quyệt và manh ma nhất của chúng.

Chúng ta dễ dàng nhận ra cơn cám dỗ đầu tiên mà ma quỷ đưa ra nhằm lôi cuốn Chúa Giêsu vào cuộc là một cám dỗ rất thực tế, "rất nhân sinh", nó liên quan đến sự sống còn của con người, đó chính là vấn đề ăn uống. Hẳn giống quỷ này phải thuộc giống tinh ranh mới có thể đưa ra trò tinh quái này. Chưa hết, nếu theo dõi cả ba cơn cám dỗ, chúng ta còn thấy đây là giống quỷ thuộc Kinh thánh làu làu cũng như rất rành về lịch sử dân Dothái. Bằng chứng là hắn hoặc dòng giống nhà hắn đã từng thành công trong việc cám dỗ dân tộc này trong 40 năm trường trong hoang địa, giờ đây hắn lại lấy chiêu bài cũ nhằm lôi kéo người mà hắn dư biết là "Con Thiên Chúa"- lời Chúa Cha nói với Chúa Giêsu khi Người chịu phép rửa,: "Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho hòn đá này hoá bánh đi!". Có thể nói tính độc đáo của văn chương

Tin mừng chính là chỗ lần đầu tiên Chúa Giêsu dùng Kinh thánh Cựu ước để phản lại chiêu bài của ma quỷ. Thật vậy, không giống như dân Dothái xưa, khi gặp cơn đói khát giữa sa mạc cằn khô, đã nhất quyết đả đảo Môsê, đả đảo Giavê Thiên Chúa, trách móc Thiên Chúa sao lại đưa họ vào chỗ "khỉ ho cò gáy" thế này, để cho họ chết dần chết mòn. Lần đó Thiên Chúa đã ra tay để cho dân có Manna và chim cút đủ dùng. "Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh". Trích từ sách Đệ nhị luật, Chúa Giêsu muốn nhắc lại giai đoạn lịch sử này để cho ma quỷ biết chân lý này: rằng ở trên đời, chuyện cơm áo gạo tiền không phải là cái đáng quý nhất. Lịch sử dân Dothái cũng như bao thế hệ Kytô giáo đã minh chứng cho chân lý này. Sức mạnh của con người chính ở chỗ tín thác vào Lời Chúa, vào tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa, chứ không phải chỉ quẩn quanh với cái bụng, với cái bao tử ham ăn non nghĩ.

Với cơn cám dỗ thứ hai, ma quỷ mong muốn Chúa Giêsu suy nghĩ thật kỹ để có thể chia sẻ quyền hành với nó nhằm thống trị thế gian này. Đây chính là đòn cân não nguy hiểm nhất mà Chúa Giêsu gặp phải. Lý do là vì nó không chỉ đơn thuần là quyền cao, chức trọng để có thể thống lĩnh toàn bộ như ma quỷ đề nghị, mà chính ở chỗ, với chiêu thức này, ma quỷ muốn khoét sâu vào mối quan hệ giữa Chúa Cha với Người nhằm cắt đứt mối quan hệ Cha - Con, một mối tương quan bất khả phân. Hẳn chúng ta còn nhớ trong lịch sử Dothái, hơn một lần giống quỷ này đã thành công khi tách rời mối tương quan giữa Giavê Thiên Chúa với dân Người khi dân chúng không muốn thờ lạy Giavê mà chỉ muốn thờ lạy con bò vàng do chính tay mình tạo ra. Lần này, Chúa Giêsu đã chiến thắng vì Người biết rằng quyền hành mà Người có không đến từ tay của những kẻ cơ hội, những kẻ "đục nước thả câu" mà đến từ chính bàn tay của Chúa Cha. Chính Chúa Cha mới là người nắm giữ toàn quyền thống trị và trao ban những đặc ân này cho những ai tuân hành thánh ý Người.

Cơn cám dỗ sau cùng của Chúa Giêsu được kết thúc tại thành thánh Giêrusalem. Đối với Luca, Giêrusalem được em là nơi kết thúc sứ vụ của Chúa Giêsu sau khi trải qua cuộc Thương Khó và cũng là nơi khởi đầu cho sứ vụ rao giảng Tin mừng của các Tông đồ như được nói trong sách Công vụ Tông đồ. Với cơn cám dỗ này, Luca còn muốn tiên báo một cơn cám dỗ sau hết mà ma quỷ dành cho Chúa khốc liệt hơn, tinh quái hơn khi nó dùng miệng của dân chúng, sỹ quan và nhất là tên gian phi hô hào: "Ông không phải là Đấng Kytô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi nữa". Với chiêu thức này, ma quỷ nghĩ rằng chúng sẽ thành công, bởi vì lời lẽ trong Thánh vịnh 90 mà chúng trích dẫn không nói về Đấng Mêsia mà nói về bất cứ người Dothái nào tín trung, tuân giữ lệnh truyền của Giavê Thiên Chúa, vì thế họ luôn luôn nhận được sự trợ giúp đến từ Giavê Thiên Chúa. Không những thế, hẳn ma quỷ còn biết sự thật lịch sử đã từng xảy ra trong dân Dothái, khi dân trải qua những ngày tháng sống không có nước uống. Lần đó, ngay tại Rơphiđim mà sau này ông Môsê đặt tên là Maxa và Mơriva, dân chúng đã ta thán, gây sự với ông Môsê nhằm thách thức Giavê Thiên Chúa để thử xem có thật Giavê ở giữa họ hay không. Dân chúng đã thử thách Giavê Thiên Chúa, bắt Người thực hiện điều họ muốn (x. Xh 17,1-7).

"Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi". Chúa Giêsu không rơi vào cạm bẫy của ma quỷ bởi vì Người hiểu rằng, tin vào Thiên Chúa không có nghĩa là bắt Thiên Chúa biểu diễn ma thuật, làm những điều kinh thiên động địa mà chính là niềm tín thác cậy trông. Hơn thế nữa, Chúa Giêsu còn biết rằng, là Con, Người không có quyền thử thách Cha mình, tất cả đều do Cha an bài, định liệu. Thử thách Cha, bắt Cha làm theo ý mình, là phản bội, là quay lưng lại với tình yêu của Người.

Những cạm bẫy mà Chúa Giêsu chịu hôm nay cũng chính là những cạm bẫy mà chúng ta sẽ gặp phải trên đường đời. Chúa Giêsu đã chiến thắng những cạm bẫy của ma quỷ không nhờ vào sức riêng mình mà chính do niềm tín thác trọn vẹn trong tình yêu Thiên Chúa là Cha Người. Xin cho mỗi người chúng ta cũng biết lấy đó làm thước đo, làm kim chỉ nam cho cuộc sống ngõ hầu trong bất cứ hoàn cảnh nào, chúng ta cũng có thể hoá giải tất cả những cạm bẫy mà ma quỷ giăng ra hòng lôi kéo chúng ta xa rời tình thân với Thiên Chúa.

 

79.Học nơi Chúa Giêsu để tránh cơn cám dỗ

(Suy niệm của Huệ Minh)

Tin mừng Lc 4: 1-13: Chúa Giêsu đã từng bị cám dỗ, vì Người muốn chia sẻ trọn vẹn kiếp người, Người muốn nên đồng số phận với con người, và Người đã thắng cơn cám dỗ để nêu gương cho con người.

Cám dỗ là chuyện xưa như trái đất. Từ khi có con người, đã có cám dỗ. Hẳn ta không thể quên chuyện hai ông bà nguyên tổ sa chước cám dỗ của ma quỷ. Dân Do Thái, khi bị nô lệ dưới ách người Ai cập thì muốn được tự do. Nhưng khi lang thang 40 năm trong sa mạc, phải chịu đói khát, lại bị cám dỗ quay trở lại Ai cập để được no ấm. Nhưng có thể nói, 3 cơn cám dỗ mà Đức Giêsu phải đương đầu hôm nay gồm tóm tất cả mọi thứ cám dỗ mà ta thường gặp.

Qua trình thuật Chúa Giêsu bị cám dỗ trong sa mạc (Lc 4,1-13) thánh sử Luca muốn cho chúng ta thấy Chúa Giêsu khai mào một cuộc xuất hành mới là giải phóng loài người khỏi ách thống trị của Satan, của sự dữ, của tội lỗi, các chước cám dỗ của chúng, và cái chết như là hậu quả cay đắng cuối cùng của vòng xích oan nghiệp ấy.

Chúa Giêsu đã từng bị cám dỗ, vì Người muốn chia sẻ trọn vẹn kiếp người, Người muốn nên đồng số phận với con người, và Người đã thắng cơn cám dỗ để nêu gương cho con người.

Cám dỗ thứ nhất là cám dỗ về cái đói. Cơn cám dỗ về manna (Xh 16) mà dân Chúa đã bị thử thách trong hoang địa. Đó cũng là thử thách từng ngày của mỗi người chúng ta. Nếu chúng ta chỉ tìm thỏa mãn những khao khát của thể xác, những nỗi thèm thuồng vật chất đang cào cấu trong ta, thì chúng ta đã thất bại ngay trong cơn cám dỗ đầu tiên. "Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh" (Lc 4,4). Vâng, con người còn có những giá trị cao quý khác cần phát huy, đừng hạ thấp mình xuống mức độ sơ đẳng nhất của: cơm, áo, gạo, tiền.

Cám dỗ thứ hai là cám dỗ về quyền hành thế gian. Cám dỗ thờ ngẫu tượng, bò vàng (Xh 32,42) của dân Israel nơi hoang địa. Không chỉ hôm nay mà rất nhiều lần trong cuộc đời, Chúa Giêsu đã bị cám dỗ này tấn công. Dân chúng luôn kéo Người vào cơn cám dỗ trở nên một Đấng Cứu Thế mang tính chính trị, một vị vua trần gian đầy quyền lực vinh quang. Nhưng Người đã nhất mực khước từ. Người muốn trở nên "tôi tớ" của Thiên Chúa (Ga 13,1-20). Cơn cám dỗ về quyền hành cũng là cơn cám dỗ của tất cả mọi người. Ai trong chúng ta cũng muốn thống trị kẻ khác, muốn áp đặt ý kiến của mình trên anh em.

Đây cũng là cơn cám dỗ về sự nghi ngờ Thiên Chúa. Vì Người thường hay vắng mặt, nên chúng ta dễ chạy theo những vị thần giả hiệu, chúng có tên là của cải, sắc đẹp, kiến thức, tài năng... Chúa Giêsu nhắc cho chúng ta lời Kinh Thánh: "Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người" (Lc 4,8).

Cám dỗ thứ ba là cám dỗ đòi kiểm chứng, đòi xem những dấu lạ điềm thiêng (Xh 17), đòi thấy những cú nhẩy đẹp mắt, những pha ngoạn mục: Đó là cơn cám dỗ trên nóc đền thờ Giêrusalem. Cũng chính nơi đây, Đức Giêsu sẽ chịu một cơn thử thách hết sức nặng nề: đó là cơn cám dỗ muốn thoát cái chết: "Nếu có thể được, xin tha cho con khỏi uống chén này" (Lc 22,42). Dường như Chúa Cha "đã bỏ rơi" Người. Cuối cùng thì Chúa Giêsu đã không dùng quyền năng của mình để trốn tránh thân phận con người phải chết. Người đã từ chối nhẩy một cú đẹp mắt, cũng không xuống khỏi thập giá một cách ngoạn mục. Người tin tưởng vào tình yêu của Cha, Người tuyệt đối trung thành và trọn vẹn vâng theo ý Cha.

Ma quỷ có rất nhiều mưu mô xảo kế, khi cám dỗ người nào, chúng vận dụng hết mọi thủ đoạn để hạ gục người đó. Vì thế, khi cám dỗ Chúa Giêsu, ma quỷ đã dùng chính Lời Thiên Chúa để dụ dỗ Người, nhưng Chúa Giêsu không rơi vào bẫy của ma quỷ. Trái lại, Ngài cũng đã dùng Lời của Thiên Chúa để cho ma quỷ phải bẽ mặt và bỏ đi.

Cám dỗ của ma quỷ hiểm độc vì nó tiến từng bước: Từ hạ thấp phẩm giá con người khi khiến con người làm nô lệ cho dục vọng đến cướp mất tự do của con người khi xúi giục con người nô lệ cho ma quỷ. Và sau cùng đi đến chỗ tận cùng là chối bỏ Thiên Chúa, không coi Thiên Chúa là cha. Cám dỗ càng hiểm độc vì ma quỷ đã khéo léo học những âm mưu thâm hiểm trong lớp vỏ nhung lụa, êm ái, hợp lý và đầy quyến rũ của những nhu cầu, quyền lực và uy tín.

Trong suốt sứ vụ của Người, Chúa Giêsu đã khước từ việc ban cho dân chúng những kiểu dấu lạ, ngay cả khi người ta ép buộc Người phải làm như vậy. Những loại dấu lạ này không có ích lợi gì cả, không đòi hỏi điều gì tốt đẹp nhất nơi chúng ta, mà chỉ hạ thập giá trị của lòng tin. Lòng tin không phải là ma thuật. Sự thánh thiện không hệ tại ở việc cố gắng ép buộc Thiên Chúa phải làm theo ý muốn của chúng ta, nhưng là nỗ lực bắt buộc chính bản thân mình phải làm theo thánh ý Thiên Chúa.

Các chước cám dỗ là đòn tấn công trên tất cả những yếu tố cơ bản đối với sứ vụ của Chúa Giêsu. Vâng, Người đến để thiết lập một vương quốc, nhưng không phải là loại vương quốc mà Satan đề nghị. Và Người đã khước từ chước cám dỗ đạt được vương quốc bằng phương tiện trần thế.

Dưới sức nặng và sự lôi kéo của sự dữ, mỗi người chúng ta đều phải trải qua kinh nghiệm của thánh Phaolo: "việc thiện tôi muốn thì tôi lại không làm. Điều ác tôi không muốn nhưng tôi lại làm. Ở khởi đầu mùa chay, khi cho ta chiêm ngắm Chúa Giêsu chiến thắngị ma quỷ cám dỗ, Giáo hội mời gọi chúng ta ý thức về thân phận tội lỗi của mình và sức mạnh của sự dữ luôn rình rập để lôi kéo chúng ta xa rời Thiên Chúa, đi trong tối tăm của đam mê lầm lạc. Ý thức thân phận yếu hèn để ta luôn biết trông cậy vào ơn Chúa giúp chúng ta vượt qua thử thách của đam mê danh lợi thú. Đồng thời, biết theo gương Chúa, chúng ta hãy tỉnh thức trong từng giờ từng phút, trong từng biến cố buồn vui của cuộc sống, luôn biết chọn lựa giá trị vĩnh cửu hơn là những giá trị mong manh của đời này. Hãy chọn Chúa và thợ phượng Chúa hơn là chọn danh lợi thú và làm nô lệ cho những đam mê thấp hèn.

Chúa Giêsu nêu gương giúp chúng ta có được thái độ vững vàng khi phải chiến đấu với mưu chước ma quỷ. Là những người sống lăn lộn giữa lòng đời, chúng ta thường xuyên phải đối phó với những cám dỗ của ma quỷ. Chúng thường tập trung vào ba lãnh vực: quyền lợi vật chất, tham vọng thống trị và nhu cầu tình cảm. Mưu mô xảo kế của satan thì thiên hình vạn trạng. Xã hội văn minh phát triển thì các cơn cám dỗ của satan phát triển theo. Chúng mặc đủ mọi hình thức, khi thì dịu dàng mời mọc, khi thì đe dọa hung hãn. Chúng thường tạo cho chúng ta cảm giác hợp lý, được phép khi đưa ra những lập luận có vẻ vô hại. Nhất là trong thời đại hôm nay, khi lợi thú cá nhân được đề cao quá mức và nhu cầu hưởng thụ của con người được kích thích đến mức tối đa. Cái bụng, cái đầu và con tim của chúng ta luôn luôn phải đối mặt với những lời rỉ tai hay những cuộc biểu dương ồ ạt của sự dữ.

Chúa Giêsu đã phải chiến đấu với ma qủy, với chính khuynh chiều thân xác của con người. Và Ngài đã thắng, Ngài chấp nhận chương trình Thiên Chúa về con người, Ngài chấp nhận luật lệ tự nhiên Thiên Chúa đã xếp đặt, Ngài không biến đá thành bánh, Ngài tôn trọng tự do của con người, Ngài không thách thức Thiên Chúa và đòi Thiên Chúa làm theo ý riêng mình.

Ngày nay, những cơn cám dỗ của ma quỷ vẫn như những chiếc bẫy giăng ra để trói buộc con người trong vòng nô lệ. Cám dỗ càng ngày càng tinh vi và càng ngọt ngào hơn nên càng hiểm độc hơn. Muốn chống trả được những cơn cám dỗ, ta phải bắt chước Đức Giêsu dùng những vũ khí sắc bén, đó là ăn chay cầu nguyện, thấm nhuần Lời Chúa và luôn sống tâm tình của người con thảo đối với Chúa.

 

80.Kết hợp với Thánh Thần để thắng cám dỗ

(Suy niệm của Huệ Minh)

Ngày hôm nay ta bắt gặp hình ảnh Chúa Giêsu bị cám dỗ trong sa mạc (4,1-13).

Việc đầu tiên Chúa Giêsu làm trước khi thực thi Sứ Mạng Cứu Thế đó là Chúa Gêsu được Thánh Thần đưa vào hoang địa để cầu nguyện và ăn chay 40 đêm ngày và chịu cuộc thử thách, đó là chịu ma quỷ hiện đến cám dỗ đủ cách. Chắc có người tự hỏi: Có lẽ nào Satan lại dám cả gan đến cám dỗ Chúa như thế! Xin thưa: Thứ nhất: Lúc đó quỷ chưa biết rõ Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa giáng phàm, vì Ngài giống hệt như mọi người khác, thứ đến, suốt 30 năm Ngài không làm phép lạ, cũng không tỏ lộ quyền phép đặc biệt nào, nên Satan không hiểu được một Vị Thiên Chúa lại có thể sống ẩn dật với hình hài giống hệt như bất cứ phàm nhân nào khác, nên nó mới dám đến cám dỗ Người như thế!

Qua trình thuật khỏi đầu sứ vụ Cứu Thế này, thánh Luca muốn cho chúng ta thấy Chúa khai mở một cuộc xuất hành mới để giải phóng loài người khỏi ách thống trị của Satan, của sự dữ. Từ chối các chước cám dỗ của chúng ta và cái chết như là hậu quả đắng cay của vòng xích oan nghiệt ấy.

So sánh với trình thuật Tin Mừng theo thánh Matthêu, ta thấy trình thuật của thánh Luca có 3 đặc điểm sau đây:

Trước tiên là vai trò của Chúa Thánh Thần trong cuộc đời Chúa Giêsu.

Ắt hẳn ta còn nhớ tất cả mọi thời điểm quan trọng trong thời Chúa Giêsu đều được ghi dấu bằng sự hiện diện của Chúa Thánh Thần. Dù làm gì, dù ăn dù ngủ, Chúa Giêsu luôn kết hiệp mật thiết với Chúa Thánh Thần.

Với thánh sử, trong kinh nghiệm Phục sinh và lịch sử của Giáo Hội, Chúa Thánh Thần không phải là một sức mạnh như diễn tả trong Kinh Thánh Cựu Ước mà là một bản vị, là Ðấng hướng dẫn cuộc đời chúng ta vào hành động trong lòng thế giới. Chính Ngài đã dẫn đưa Chúa Giêsu vào sa mạc và trợ lực Chúa Giêsu trong cơn thử thách.

Trong sa mạc, Chúa Giêsu đã bị cám dỗ từ bỏ con đường chông gai Thiên Chúa đã vạch ra để đi theo một số con đường khác hấp dẫn ngoạn mục hơn và dễ dãi hơn. Chúa Giêsu phải chọn con đường nào đây? Dùng quyền năng cứu thế để thỏa mãn các nhu cầu vật chất và hiện sinh, biến đá sỏi thành bánh mà ăn chứ không cần phải lao nhọc vất vả, hay sống theo luật công bằng hoặc tinh thần liên đới chia sẻ làm việc, hay là dùng các phép lạ lôi kéo các tín đồ cho nó mau và khỏe chứ tội gì mà phải khó nhọc rao giảng, gieo vãi hạt giống nơi tâm lòng con người. Và thôi thúc họ đối chiếu cuộc sống hằng ngày với giáo huấn sự thật làm gì? Hoặc là dùng bạo lực và các thế lực vật chất, tinh thần để lôi kéo môn đệ và tín đồ v.v...

Có quá nhiều cám dỗ đặt ra trước mặt Chúa Giêsu, nhưng rồi ta thấy Chúa Giêsu đã chọn con đường khổ đau.

Với thánh Luca, chiến thắng của Chúa Giêsu trên các chước cám dỗ trước ngày công khai loan báo Tin Mừng Nước Trời, báo cho biết chiến thắng sau cùng của Chúa Giêsu khi bị chết treo trên thập giá.

Ðặc biệt thứ hai là vai trò quan trọng của thành Giêrusalem. Toàn Phúc Âm thánh Luca trình bày cuộc đời Chúa Giêsu như là một hành trình tiến về Giêrusalem, nơi Chúa Giêsu sẽ thực hiện công cuộc cứu độ trần gian, qua cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Ngài.

Vì vậy, thánh Luca đặt cám dỗ thứ ba trong bối cảnh thành Giêrusalem nơi ơn cứu độ được thành toàn. Do đó không chướng ngại nào kể cả ma quỉ được phép cản trở hành trình ấy của Chúa Giêsu.

Sau cùng của cám dỗ đó là hình ảnh sa mạc. Trong sa mạc của cuộc xuất hành xưa kia, dân Do Thái đã lẩm bẩm kêu trách Thiên Chúa. Họ đã ngã quỵ trước cám dỗ và khước từ Thiên Chúa là Ðấng giải phóng mình. Lẩm bẩm là từ ngữ Kinh Thánh dùng để diễn tả thái độ chống lại Thiên Chúa, phản đối Ngài, muốn gợi ý cho Thiên Chúa phải làm thế nào để giải phóng mình trong sa mạc. Chúa đã không nhượng bộ mà nghe lời ma quỉ cám dỗ và theo cách thế nó đề nghị để thực hiện công trình cứu thế. Mặc dù đói khát và khổ sở, Chúa Giêsu vẫn luôn kiên vững và tin vào tình yêu thương quan phòng ấp ủ của Thiên Chúa. Ngài không yêu sách, dù không trông thấy các dấu chỉ của tình yêu thương quan phòng và ấp ủ đó diễn tả bằng giàu sang, chức quyền và thành công trong đời.

“Nếu ông là Con Thiên Chúa”: đó là câu nói vừa thăm dò vừa khiêu khích. Ma quỷ đang mò mẫm tìm xem điều mình nghi ngờ có đúng không.

Thật vậy, ma quỷ muốn biết chính xác: Con Người khác thường đã ăn chay 40 ngày đêm trong hoang địa này có phải là Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa nhập thể làm người không? Và để kiểm chứng, Ma Quỷ dùng mưu thuật. ”Suy bụng ta ra bụng người”, tục ngữ Việt Nam nói thế và sự thật cũng đúng như vậy, ít ra trong trường hợp của tên Quỷ đang tìm cách cám dỗ Đức Chúa Giêsu đây.

Vốn đầy tràn kiêu căng, không muốn tuân phục, nhưng ưa thích khoe khoang, Ma Quỷ nghĩ rằng có lẽ ”Vị Khác Thường” này cũng giống như hắn. Tên Quỷ tự nhủ: ”Nếu Ông ta là Con Thiên Chúa” hẳn Ông ta sẽ vỗ ngực nhận ngay tức khắc và sẽ vung tay làm phép lạ ra oai, vừa có bánh để ăn vừa để minh chứng ta đây là Con Thiên Chúa! Nào ngờ, tên Quỷ bị đánh bại liền. Đức Chúa Giêsu đáp: ”Người ta không phải chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn bằng Lời Chúa nữa!”

Ma quỷ là loài xảo trá, là con rắn độc. Rắn thuộc loài bò sát không chân. Do đó, rắn không gây tiếng động, nên dễ dàng chộp bắt con mồi. Ma quỷ cũng thế. Để cám dỗ loài người đi theo đường tà vạy, Ma quỷ thường nhẹ nhàng êm ái lẻn vào lòng, vuốt ve phần hạ cấp nhất của con người. “Có thực mới vực được đạo”, người ta nói thế và Ma quỷ có lẽ cũng đồng ý như vậy. Ma quỷ luôn luôn bắt đầu tấn công nơi cái điểm yếu nhất của con người.

“Khi quỷ đã thử thách Chúa đủ cách, nó rút lui để chờ dịp khác” (Lc 4:13). Sau khi Satan bị thua trong mọi cơn cám dỗ, nó xấu hổ, bẽ bàng rút êm để chờ dịp khác! Nó thua keo này, nhưng nó sẽ chờ keo khác, chỉ khi nào chúng ta thở hơi cuối cùng thì chúng mới ngưng hẳn cám dỗ chúng ta!

Tin Mừng nói rõ Satan là cha sự dối trá, gian manh, quỷ quyệt, là đầu “quyền lực bóng tối” (Lc 22:53), là hoàng tử của thế giới huỷdiệt và chắc chắn “Chúng sẽ trở lại” (Jo 14:30). Vì thế, chúng ta hãy noi gương Chúa Giêsu cẩn thận đề phòng và quyết liệt chống trả mọi mưu chước thâm hiểm của chúng bằng Lời Kinh Thánh, bằng chuyên tâm cầu nguyện, sống thân thiết với Thiên Chúa, để múc lấy Thần Lực để có thể chiến thắng thần dữ.

Và để chống lại mọi mưu thâm chước độc của tà thần, chúng ta có mẫu gương chiến thắng của Đức Chúa Giêsu Kitô trong trình thuật Tin Mừng hôm nay

Ta hãy nhìn lên Chúa Giêsu, với tất cả sự khiêm tốn và đặc biệt là niềm tin để rồi có Chúa Thánh Thần cùng đồng hành, Ngài đã vượt qua cám dỗ. Ta cũng hãy xin Chúa Thánh Thần đồng hành với ta trên mọi nẻo đường đời để ta thấy cuộc đời của ta ngày mỗi ngày kết hiệp mật thiết với Chúa hơn và không có cám dỗ nào có thể khuất phục ta được.

Bài cùng chuyên mục:

Bài viết mới
Câu chuyện chiều thứ 7