Suy niệm tin mừng chúa nhật

CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT 1 MC NĂM B

  • In trang này
  • Lượt xem: 1,273
  • Ngày đăng: 13/02/2024 09:43:55

CHÚA NHẬT 1 MÙA CHAY B

Lời Chúa: St 9,8-15; 1Pr 3,18-22; Mc 1,12-15

MỤC LỤC

1.      Vào hoang địa. 5

2.      Hãy hối cải 8

3.      Vào hoang địa. 12

4.      “Tội lỗi và tình thương”. 16

5.      Nơi hoang địa - ĐGM. Arthur Tonne. 19

6.      Chúa Nhật I Mùa Chay. 21

7.      Sám hối và tin vào Tin Mừng. 26

8.      Chúa Giêsu chịu satan cám dỗ. 29

9.      Chiến đấu để khỏi sa cơn cám dỗ. 34

10.   Chúa Nhật 1 Mùa Chay. 37

11.   Canh tân đời sống. 41

12.   Cải thiện. 43

13.   Nơi hoang dã. 45

14.   Chiến thắng lòng tham.. 47

15.   Sự cám dỗ. 50

16.   Sống hai mặt 53

17.   Say nắng trong tình yêu. 56

18.   Ba cạm bẫy của ma quỷ. 59

19.   Cạm bẫy. 62

20.   Sám hối thì được cứu rỗi 64

21.   Chúa Nhật 1 Mùa Chay. 69

22.   Hãy sám hối 72

23.   Tái sinh. 76

24.   Đức Giêsu chịu Xatan cám dỗ. 79

25.   Chay tịnh và cầu nguyện. 82

26.   Lòng thương cảm sâu xa. 86

27.   Hàng ngày vào hoang địa. 89

28.   Thần lành, thần dữ. 91

29.   Ăn chay. 94

30.   Chiến đấu!. 96

31.   Thách đấu. 99

32.   Cám dỗ trong hoang địa. 102

33.   Đức Giêsu trong hoang địa. 105

34.   Chúa Nhật 1 Mùa Chay. 112

35.   Cám dỗ. 114

36.   Mùa Chay: Hãy sám hối 117

37.   Chúa Nhật 1 Mùa Chay. 138

38.   Chúa Nhật 1 Mùa Chay. 141

39.   Sống là chiến đấu. 144

40.   Chúa Nhật I Mùa Chay. 148

41.   Chúa Nhật I Mùa Chay. 151

42.   Chúa Nhật 1 Mùa Chay. 156

43.   Chúa Nhật 1 Mùa Chay. 160

44.   Tin là chấp nhận đường thập giá. 163

45.   Những cám dỗ của Mùa Chay. 165

46.   Chúa Nhật 1 Mùa Chay. 167

47.   Sức mạnh để chiến thắng cám dỗ. 176

48.   Cám dỗ thời nay. 182

49.   Chiến thắng cám dỗ với Chúa Giêsu. 186

50.   Chúa Nhật I Mùa Chay. 189

51.   Cám dỗ. 199

52.   Hoang địa. 201

53.   Cuộc chiến. 203

54.   Dã thú. 205

55.   Cám dỗ. 211

56.   Đứa con của kẻ vô thần. 214

57.   Suy niệm của JKN.. 217

58.   Sống với chính mình. 223

59.   Hãy cải thiện và hãy tin. 226

60.   Yếu tố con người 230

61.   Chiến thắng cám dỗ. 232

62.   Chúa Nhật I Mùa Chay. 236

63.   Ngoại trừ tội lỗi 240

64.   Bị cám dỗ bởi việc lành. 242

65.   Tái tạo cuộc sống. 245

66.   Câu chuyện hồng thủy. 248

67.   Chúa Nhật 1 Mùa Chay. 251

68.   Chúa Nhật 1 Mùa Chay. 255

69.   Chúa Nhật 1 Mùa Chay. 266

70.   Chúa Nhật 1 Mùa Chay. 273

71.   Chúa Nhật 1 Mùa Chay. 278

72.   Chúa Nhật 1 Mùa Chay. 283

73.   Chúa Nhật 1 Mùa Chay. 290

74.   Chúa Nhật 1 Mùa Chay. 293

75.   Cám dỗ và thử thách. 296

76.   Sống là chiến đấu. 300

77.   Người ở trong hoang địa. 304

78.   Chúa Nhật 1 Mùa Chay. 306

79.   Chống trả tên cám dỗ. 308

80.   Chúa nhật I Mùa Chay. 312

81.   Chọn lựa. 315

82.   Chúa Nhật 1 Mùa Chay. 321

83.   Để chiến thắng ma quỷ cám dỗ. 324

84.   Cùng chiến đấu với Chúa Giêsu. 337

85.   Con số 3 trong Mùa Chay. 340

86.   Món ăn năn. 346

87.   Biết mình đang đi về đâu. 355

88.   Cát bụi tuyệt vời 361

89.   Giữ chay thế nào cho đẹp lòng Chúa. 366

90.   Kiếp người vô thường. 371

91.   Lịch sử Mùa Chay Thánh. 374

92.   Xét tật mình. 380

93.   Tro bụi 391

94.   Chúa Nhật I Mùa Chay. 395

95.   Chúa Nhật I Mùa Chay. 402

96.   Chúa Nhật I Mùa Chay. 407

97.   Nhân phẩm là bụi tro. 421

98.   Suy niệm Mùa Chay. 424

99.   Cầu nguyện để vượt qua cám dỗ. 429

 

 

1.Vào hoang địa

(Trích trong ‘Manna’)

Suy Niệm

Mỗi khi bắt đầu mùa Chay, Hội Thánh lại mời chúng ta vào hoang địa với Đức Giêsu. Chính Thánh Thần đã dẫn đưa Ngài đến nơi đó, ngay sau khi Ngài chịu phép rửa của Gioan và nhận được Thánh Thần để lên đường đi sứ vụ.

Bốn mươi ngày sống trong cô tịch và cầu nguyện. Một cuộc tĩnh tâm để định hướng tương lai, qua đó Đức Giêsu thấy rõ con đường Ngài phải đi, và qua đó Ngài cũng thấy mình bị Xatan cám dỗ.

Mùa Chay là thời gian trở lại với Chúa và nhận ra những cám dỗ đang bủa vây tôi, những cám dỗ mới hay cám dỗ cũ dưới lớp áo mới. Nếu đời tôi là một chuỗi những chọn lựa, thì nó cũng là một chuỗi những cám dỗ.

Tôi có tự do để chọn giữa cái tốt và cái xấu. Giữa những cái tốt, tôi có tự do để chọn cái tốt hơn. Biết mình đã lạc hướng hay lệch hướng là điều cần thiết.

Con người hôm nay không yếu đuối hơn ngày xưa. Nhưng có lẽ nó bị cám dỗ nhiều hơn xưa, vì cuộc sống tiến bộ cho người ta nhiều chọn lựa. Tôi phải chọn kênh truyền hình, chọn băng video, chọn một loại vải, một kiểu áo, chọn chỗ giải trí tối nay.

Có những áp lực đè nặng trên chọn lựa của tôi: áp lực của quảng cáo, khuyến mãi, áp lực của mode, của bạn bè, của dư luận... Có những mời mọc nhắm vào các giác quan của tôi. Các giác quan như những cánh của mở của căn nhà trống trải. Bao kích thích khêu gợi như luồng gió lùa vào nhà. Thắng được những đòi hỏi vô độ của thân xác đòi hỏi một sự tự chủ lớn lao. Thắng được những đam mê mù quáng của con tim cần có một thái độ anh hùng từ bỏ. Thắng được sự cứng cỏi, cố chấp của trí tuệ cần có một lòng khiêm tốn mở ra trước chân lý.

Cuộc đời là một cuộc chiến đấu không ngừng, vì con người vẫn nghiêng như tháp Pizza. Cần phải tập nghiêng về điều ngược lại để tạo lập được sự quân bình trong cuộc sống.

Nói cho cùng, cám dỗ nào cũng khiến con người khép kín, chỉ nghĩ đến mình và sống cho mình. Cám dỗ im lặng vì sợ liên lụy. Cám dỗ giả mù trước sự thật rành rành. Cám dỗ thỏa hiệp với sự dữ để được yên thân. Cám dỗ sống một đời sống tầm thường và buông thả. Cái cao cả của con người là chiến đấu và chiến thắng. Chỉ khi nhận Thiên Chúa và tha nhân làm trung tâm, con người mới thành người trọn vẹn.

Ước gì mỗi Kitô hữu đều có bản lãnh của Đức Giêsu để chiến thắng sự nặng nề, nhỏ mọn của mình. Nhưng trước hết, chúng ta cần ăn chay và cầu nguyện.

Gợi Ý Chia Sẻ

Khoa học kỹ thuật càng tiến bộ, con người càng cần có bản lãnh để làm chủ. Bạn thấy khi nào con người bị coi là làm nô lệ cho của cải vật chất?

Không những phải chống lại cơn cám dỗ, mà còn phải xa tránh những nơi, những con người có thể đưa đến cám dỗ. Theo ý bạn, người trẻ hay bị cám dỗ ở đâu? Với ai?

Cầu Nguyện

Như đoá sen trong đầm lầy, xin giữ tâm hồn con thanh khiết.

Giữa một thế giới đầy hình ảnh vẩn đục, xin gìn giữ mắt con.

Giữa một thế giới tôn thờ khoái lạc, xin dạy con biết trân trọng thân xác.

Giữa một thế giới bị ám ảnh bởi tình dục, xin thanh lọc trí tưởng tượng của con.

Xin nâng con lên cao vượt qua những thèm muốn chiếm đoạt, để biết tự hiến trong yêu thương.

Xin đừng để con phung phí sức lực vào những chuyện tình cảm chóng qua, nhưng giúp con tự rèn luyện mình để gánh vác cuộc sống Chúa mời gọi.

Như đóa sen trong đầm lầy, xin giữ thân xác con thanh khiết.

 

2.Hãy hối cải

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu)

Suy Niệm

Giáo Hội bước vào Mùa Chay cùng với cả thế giới.

Cả thế giới đã sống Mùa Chay của mình từ hơn một năm qua.

Đến nay đã có hơn 110 triệu người bị nhiễm,

và 2,4 triệu người chết vì dịch bệnh Covid.

Cơn dịch bệnh kinh hoàng đã tác động đến toàn bộ cuộc sống

của hầu hết mọi người trên thế giới.

Đời sống tôn giáo cũng chịu ảnh hưởng nặng nề.

Nhà thờ đóng cửa, Thánh lễ Chúa nhật và các bí tích bị ngừng.

Nghi thức tiễn biệt người qua đời cũng làm trong vội vã.

Lo âu, buồn thảm, hoang mang, thất vọng.

Cả người có đức tin mạnh cũng thấy mình bị dao động.

Chúng ta đã và đang sống trong một Mùa Chay dài.

Mùa Chay của năm phụng vụ đi với Mùa Chay cuộc đời.

Điều đó làm cho Mùa Chay năm nay mang nét rất riêng.

Bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay thật ngắn,

kể lại chuyện Đức Giêsu bị Xatan cám dỗ, thử thách.

Nơi thử thách là hoang địa, vắng người ở, ít sự sống.

Đức Giêsu không tự ý đi vào hoang địa,

Ngài được Thần Khí dẫn vào, đẩy vào nơi vắng vẻ đó.

Có thể nói Thần Khí đưa Đức Giêsu vào một cuộc tĩnh tâm,

kéo dài nhiều ngày, trước khi bắt đầu thi hành sứ vụ.

Hoang địa vừa là nơi gần gũi thân tình với Thiên Chúa,

vừa là nơi diễn ra cuộc chiến ác liệt với Xatan.

Hoang địa là nơi Đức Giêsu chìm sâu trong cầu nguyện,

nhưng cũng là nơi Ngài nghe những mời mọc của Xatan,

trước khi quyết định hướng đi sắp tới của mình.

Khi chịu phép rửa, Đức Giêsu là Người Con mà Cha hài lòng.

Ngài cũng là Đấng Mêsia được Thần Khí ngự xuống.

Còn nơi hoang địa, Xatan cám dỗ Ngài không sống theo ý Cha,

không sống theo Thần Khí, không đi vào con đường hẹp.

Đây là một thử thách thật sự khó khăn.

Đức Giêsu đã vượt qua được cơn thử thách này.

Thế giới hôm nay cũng đang ở trong một cơn thử thách lớn.

Thiên Chúa cho phép những thử thách đau khổ xảy ra

trong đời các Kitô hữu (1 Pr 1,6; 4,12; 1 Cr 10,13; Gc 1,13-15),

đời từng người, và trong cả dòng lịch sử nhân loại.

Chúng ta không hiểu, và cũng khó chấp nhận thử thách,

vì nó quá tàn nhẫn, khiến ta nghĩ đến một Thiên Chúa độc ác,

vì nó đầy ngạo nghễ, khiến ta nghĩ đến một Thiên Chúa bất lực.

Nhưng thử thách dạy chúng ta nhiều điều.

Bất chấp mọi tiến bộ khoa học, kỹ thuật,

một con vi-rút nhỏ bằng một phần bảy mươi ngàn sợi tóc

đã làm náo loạn cả thế giới, và cho thấy con người mong manh.

Nhẫn nại và khiêm tốn cầu xin trong cơn thử thách

là điều phải làm song song với nỗ lực dập tắt dịch bệnh.

Thiên Chúa nói với con người qua những thử thách.

Thái độ của chúng ta là khiêm tốn lắng nghe.

Thử thách đưa đến những hậu quả khủng khiếp,

nhưng chúng ta tin “Thiên Chúa làm cho mọi sự sinh ích lợi

cho những ai yêu mến Ngài” (Rm 8,28).

Thử thách là lời mời gọi khẩn thiết của Thiên Chúa.

Ngài mời chúng ta liên đới với nhau hơn,

cùng nhau chống lại những bệnh dịch mới đe dọa sự sống

hơn là chạy đua vũ trang và gây chiến tranh khắp nơi.

Ngài mời chúng ta lo cho nhau hơn, coi nhau như người nhà,

phá đi những bức tường ngăn cách giữa các quốc gia.

Ngài mời chúng ta sống nhẹ nhàng hơn, thanh thoát hơn,

bớt mua sắm, bớt giờ cho internet, thêm giờ cho Chúa. 

Ngài mời chúng ta phong tỏa cái xấu, giãn cách với tội lỗi,

tránh xa mọi lây nhiễm bằng thứ khẩu trang nhiều lớp,

và cẩn thận rửa tay mình cho sạch mọi ô nhơ.

Nạn đại dịch là một lời mời, một nhắc nhở

của Người Cha đầy yêu thương dành cho con cái.

Nếu chúng ta đáp lại lời mời đó bằng hoán cải, canh tân,

thì đại họa có thể trở thành cơ hội tuôn trào ân phúc.

Và Mùa Chay này thành thời gian tuyệt vời dẫn đến Phục Sinh.

Lời Nguyện

Lạy Chúa Giêsu là vị Thượng Tế nhân từ,

chắc Chúa buồn và thương

khi thấy chúng con đang vật vã với cơn thử thách.

Chúa cảm thông với những gì chúng con đang trải qua,

vì chính Chúa đã nếm nỗi đau của cuộc Khổ nạn.

Chúa đã xao xuyến trong Vườn Dầu,

đã khẩn khoản nài xin Cha cất chén đắng,

và cảm thấy bị Cha bỏ rơi khi hấp hối trên thập giá.

Chúa đã chịu thử thách về mọi mặt như chúng con,

nhưng vẫn giữ một niềm trung tín.

Lạy Chúa Giêsu là cây nho thật,

xin cho chúng con chấp nhận sự cắt tỉa của Chúa Cha,

để cành nho chúng con thêm trĩu quả.

Xin cho chúng con đừng mất niềm tin vào Thiên Chúa,

Đấng không để chúng con bị thử thách vượt quá sức mình.

Xin cho chúng con trưởng thành hơn, cứng cáp hơn

qua những thử thách đau thương,

để trở nên như lưỡi gươm thép được tôi luyện

cho cuộc chiến chống lại quyền lực của ác thần. Amen.

 

3.Vào hoang địa

(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)

Ai yêu bóng đá đều say mê theo dõi những trận đấu đỉnh cao giữa các đội ngoại hạng Anh, hoặc giữa các đội tranh Cúp C1. Ta say mê vì các cầu thủ siêu hạng phô diễn kỹ thuật cá nhân điêu luyện, các đội bóng di chuyển chiến thuật kỳ ảo, các bài bản tinh vi của các huấn luyện viên bậc thầy, các pha phối hợp đẹp mắt giữa các cầu thủ. Không phải tự nhiên mà các cầu thủ chơi bóng giỏi đến mức độ nghệ thuật như thế. Họ phải mất nhiều thời gian tập luyện. Tập luyện để đạt được kỹ thuật cá nhân điêu luyện. Tập luyện để có thể lực dẻo dai. Tập luyện để có những xử lý thông minh theo tình huống. Tập luyện để hiểu nhau tiến đến những pha phối hợp nhịp nhàng ăn ý. Những buổi tập rất nghiêm ngặt, đòi hỏi cầu thủ phải có quyết tâm cao, có tinh thần kỷ luật nghiêm túc. Ai không chịu nổi các bài tập khó, sẽ bỏ cuộc. Ai vượt qua được những buổi tập nghiêm túc sẽ trở thành những cầu thủ giỏi.

Đời sống tâm linh là một cuộc chiến đấu. Chiến đấu với ba thù: ma quỷ, xác thịt, thế gian. Để có đủ khả năng chiến đấu, ta phải được rèn luyện, phải trải qua những thử thách. Đức Giêsu, sau khi chịu phép rửa, được Thánh Thần đưa vào hoang địa để chịu thử thách.

Hoang địa là nơi hoang vu không nhà không cửa, không người thân, không cây cối, tức là không có một tiện nghi tối thiểu nào, không có một nguồn trợ lực nào. Chỉ có cát đá, thú dữ, ma quỷ, tức là chỉ có những khó khăn thách đố bắt ta phải chiến đấu, phải đương đầu.

Cuộc chiến đấu thứ nhất mà Đức Giêsu phải trải qua là cuộc chiến đấu với thiên nhiên. Người sống trong hoang địa phải chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt. Tại các sa mạc cát phủ, đêm thì lạnh thấu xương, ngày thì nóng như thiêu. Hầu như không có thực phẩm. Người sống trong hoang địa phải chịu đói, chịu khát, chịu cái nóng nung người, chịu cái lạnh cắt da, chịu tất cả mọi thiếu thốn của đời sống thường ngày. Xưa, dân Do Thái được Chúa đưa vào nơi hoang địa để huấn luyện trước khi đưa họ vào Đất Hứa. Trong hoang địa, người Do Thái không chịu nổi những thiếu thốn, nên đã nhiều lần nổi loạn chống lại Chúa, chống lại ông Môsê, muốn quay trở lại làm nô lệ bên Ai cập để được ăn no ngủ kỹ. Trái lại, tổ phụ Abraham đã chấp nhận vượt qua hoang địa, nên đã tới Đất Hứa, tiên tri Êlia đã vượt qua hoang địa 40 đêm ngày, nên đã đi đến núi của Thiên Chúa. Và hôm nay, Đức Giêsu đã thắng được cái lạnh, cái nóng và nhất là đã thắng được cái đói cái khát, đã hoàn toàn làm chủ được bản thân trước những nhu cầu của thân xác.

Cuộc chiến đấu thứ hai mà Đức Giêsu phải trải qua là cuộc chiến đấu chống lại ma quỷ. Thiên Chúa cho phép ma quỷ thử thách con người. Từ tạo thiên lập địa, hai ông bà nguyên tổ đã bị ma quỷ cám dỗ và đã thua cuộc. Ông thánh Gióp cũng đã bị ma quỷ thử thách, mất hết tài sản, mất hết con cái, mất hết danh dự. Nhờ kiên quyết trung thành với Chúa đến cùng, ông đã thắng được ma quỷ. Đức Giêsu đã thắng vượt mọi cơn cám dỗ ma quỷ đưa tới nhờ Người vững lòng tin ở Thiên Chúa. Những cơn cám dỗ của ma quỷ thường là cám dỗ về đức tin. Adong và Evà không vững lòng tin nên đã sa ngã. Ông thánh Gióp vững lòng tin nên luôn đứng vững qua mọi thử thách. Đức Giêsu luôn vững niềm tin vào Chúa Cha, nên đã chiến thắng mọi cơn cám dỗ thâm độc nhất của ma quỷ.

Cuộc chiến đấu thứ ba mà Đức Giêsu đã trải qua là cuộc chiến đấu từ bỏ ý riêng để tìm thánh ý Chúa Cha. Hai ông bà nguyên tổ đã tìm ý riêng hơn ý Chúa, nên đã đi trệch đường. Đức Giêsu luôn tìm thánh ý Chúa Cha, nên Người đã từ bỏ con đường rộng để đi vào con đường hẹp, từ bỏ con đường dễ để đi vào con đường nghèo hèn, từ bỏ con đường riêng tư để đi vào con đường Chúa Cha đã định. Nên Người đã toàn thắng trong cuộc chiến đấu.

Hoang địa không phải chỉ là nơi thử thách. Hoang địa còn là nơi gặp gỡ Chúa. Sau khi đã thắng vượt tất cả các cuộc thử thách, ta sẽ gặp được Chúa, sẽ sống thân tình với Chúa và sẽ hoàn toàn thuộc về Chúa. Ông Môsê, sau 40 đêm ngày ở trên núi Sinai, đã trở nên bạn nghĩa thiết của Chúa. Mặt ông trở nên sáng láng đến nỗi dân Do Thái không dám nhìn thẳng vào. Tiên tri Êlia, sau khi đi 40 đêm ngày, đã tới núi của Chúa và đã gặp được Chúa. Đức Giêsu đã gặp gỡ Chúa Cha, đã tìm được ý Chúa Cha và đã kết hiệp mật thiết với Chúa Cha đến độ từ nay Người trọn vẹn thuộc về Chúa Cha. Thánh ý Chúa Cha đã trở thành kim chỉ nam hướng dẫn đời Người. Thi hành thánh ý Chúa Cha trở thành lương thực nuôi dưỡng Người. Người sẽ hy sinh tất cả, kể cả mạng sống để cho thánh ý Chúa Cha được nên trọn. Chính vì thế mà Người đã được gọi là “Con yêu dấu” của Chúa Cha.

Trong Mùa Chay, Giáo Hội mời gọi ta hãy vào hoang địa với Đức Giêsu để chịu thử thách, để rèn luyện đời sống tâm linh cho vững mạnh, kiên cường. Ta không có điều kiện để vào nơi hoang vắng, nhưng ta vẫn có thể vào hoang địa của cuộc đời.

Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là sẵn sàng chấp nhận những khó khăn, thiếu thốn trong đời sống, dù đói nghèo vẫn giữ được tâm hồn tự do, không chịu nô lệ vật chất.

Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là kiên cường chống trả mọi cơn cám dỗ ma quỷ đưa tới, luôn vững niềm tin vào Chúa dù gặp những khó khăn thử thách.

Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là từ bỏ những ý riêng để luôn tìm thánh ý Chúa, sẵn sàng thực hành thánh ý Chúa, dù có phải đau đớn, thiệt thòi.

Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là giữ tâm hồn bình an thanh thản để gặp gỡ Chúa, tiếp xúc thân mật với Chúa, hoàn toàn thuộc về Chúa để trở nên “Con yêu dấu” của Chúa.

Nếu ta chuyên tâm rèn luyện trong suốt mùa Chay, tâm hồn ta sẽ trở nên vững mạnh chống lại được những cám dỗ ma quỷ đưa tới; nhanh nhẹn dấn thân vào những việc đạo đức không ngại khó khăn vất vả; quen từ bỏ ý riêng để tuân theo ý Chúa và sẽ trở nên Con hiếu thảo của Chúa.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1- Bạn có quen chấp nhận những điều khó chịu không?

2- Bạn đã bị cám dỗ bao giờ chưa? Bạn đã chống trả thế nào?

3- Mùa Chay này, bạn sẽ sống thế nào để thêm lòng mến Chúa yêu người?

4- Bạn có thường từ bỏ ý riêng để theo ý Chúa không?

 

4.“Tội lỗi và tình thương”

(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)

Chúng ta đã bước vào Mùa Chay. Đối với người tín hữu, đây là “thời Chúa thi ân, đây là ngày Thiên Chúa cứu độ” (2 Cr 6,2). Sống tinh thần Mùa Chay là khiêm tốn nhìn nhận mình còn nhiều tội lỗi, đồng thời nhận ra tình thương bao la của Thiên Chúa. Nhờ tình thương, chúng ta được canh tân đổi đời và nên giống Chúa Giêsu trong tư tưởng, lời nói và việc làm.

Mỗi khi Mùa Chay về, chúng ta được mời gọi thực hành những việc đạo đức truyền thống như chay tịnh, hãm mình, hy sinh, cầu nguyện. Thoạt nghĩ đến những thực hành này, chúng ta thường coi đó là những ràng buộc nặng nề, làm giảm tự do ngăn cản ham muốn hưởng thụ của chúng ta. Tuy vậy, những việc đạo đức của Mùa Chay, nếu được thực hiện có ý thức, sẽ giúp chúng ta hoàn thiện bản thân, sống đẹp lòng Chúa và sống tốt với anh chị em mình.

Bài đọc I trích sách Sáng thế giúp chúng ta rút ra bài học từ một biến cố trong quá khứ. Đây cũng là một kinh nghiệm về lòng từ bi hay thương xót của Thiên Chúa, mặc dù con người tội lỗi phản nghịch. Vào thời xa xưa, đã có lúc nhân loại trở nên xấu xa và đầy tội lỗi. Chúa đã muốn dùng cơn Đại hồng thủy để xóa đi cả dòng giống con người. Tác giả sách Sáng thế diễn tả với nỗi đau đớn: “Thiên Chúa hối hận vì đã làm ra con người trên mặt đất” (St 5,6). Ngài đã muốn dùng cơn Đại hồng thủy để xóa đi loài người và mọi loài thụ tạo, để thiết lập một dòng giống mới, tinh tuyền thánh thiện hơn. Dòng giống này phát sinh từ gia đình ông Nôê, người sống đạo đức và kính sợ Chúa. Bằng con tàu khổng lồ ông đã chuẩn bị theo lệnh truyền của Chúa, gia đình ông và các loại có cây, súc vật, chim trời đã trở thành những nhân tố đầu tiên của cuộc sáng tạo mới sau khi nước hồng thủy rút đi. Nước vừa có sức mạnh hung dữ nhấn chìm mọi tạo vật, vừa có khả năng làm sinh ra một thế hệ mới. Các hiền sĩ Do Thái đều nhìn nhận biến cố này diễn tả thân phận tội lỗi của con người và lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa. Đoạn sách Sáng thế chúng ta được nghe hôm nay là kế hoạch của Thiên Chúa sau khi nước hồng thủy đã rút đi. Thiên Chúa hứa với ông Nôê và các con ông: từ nay về sau sẽ không bao giờ tái diễn sự hủy diệt tàn khốc như vậy. Lời hứa của Chúa được gọi là giao ước, và được đánh dấu bằng cầu vồng trên các tầng mây. Sau này, thánh Phêrô và các nhà thần học đầu tiên của Giáo Hội đều giải thích Đại hồng thủy là hình bóng của bí tích Thánh tẩy (Bài đọc II). Thánh nhân còn diễn tả: “Lãnh nhận phép Rửa, không phải để được tẩy sạch vết nhơ thể xác, mà là cam kết với Thiên Chúa sẽ giữ lương tâm trong trắng, nhờ sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô”. Nhờ dòng nước tái sinh, con người cũ của chúng ta đã chết đi để nhường chỗ cho con người mới, tức là con người được ân sủng của Chúa nâng đỡ và thánh hóa. Nhờ tình thương của Chúa, nhất là nhờ ơn cứu độ của Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã ký kết giao ước với con người một giao ước mới. Đây là giao ước được ký kết trong máu của Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, để quy tụ muôn dân về một mối, làm thành gia đình của Thiên Chúa có Chúa Giêsu là trưởng tử.

Việc cảm nhận thân phận tội lỗi sẽ dẫn chúng ta tới sự sám hối chân thành để cầu xin ơn tha thứ của Chúa. Những thực hành đạo đức của Mùa Chay sẽ giúp chúng ta lãnh nhận ơn tha tội, được trở nên con người mới. Chúa nhật đầu tiên này của Mùa Chay, Giáo Hội mời gọi chúng ta cùng vào sa mạc với Chúa Giêsu để tìm lại chính mình. Bởi lẽ, giữa biết bao bon chen giành giật của cuộc sống, nhiều khi chúng ta trở thành vong bản, tức là đánh mất bản thân, sống trong lầm lạc, không có định hướng và tương lai. Khi diễn tả Đức Giêsu “sống giữa loài dã thú” trong sa mạc, Thánh Máccô giúp chúng ta liên tưởng tới khung cảnh vườn địa đàng thuở ban sơ, ở đó, mối tương quan Thiên Chúa – Con người và Tạo vật rất hài hòa êm đẹp, niềm vui và hạnh phúc luôn tràn trề viên mãn. Nếu biết sống tinh thần sa mạc giữa lòng đời, chúng ta sẽ được gặp Chúa, được tâm sự với Ngài và được Ngài hướng dẫn, giúp chúng ta bước theo đường ngay nẻo chính. Thực hành tốt những việc đạo đức của Mùa Chay (cầu nguyện, chay tịnh và bác ái) chính là sống tinh thần sa mạc, nhờ đó, chúng ta trở nên giống Chúa Giêsu, để cùng với Người đem phần rỗi cho anh chị em. Tinh thần sa mạc giúp ta có sức mạnh để chiến thắng cám dỗ đang bủa vây xung quanh chúng ta.

“Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Đó là lời rao giảng mở đầu trong giáo huấn của Chúa Giêsu. Hai ngàn năm đã qua, lời kêu gọi này vẫn mang tính cấp bách. Bởi lẽ con người khước từ lời Chúa, chuộc sống gian dối hơn là sự thật; thích chiều theo lối sống thế gian hơn là hy sinh để nên trọn lành. Nhờ sám hối, chúng ta được hòa giải với Chúa và với anh chị em, để cùng nhau tiến bước trên con đường về nhà Cha, Đấng luôn yêu thương và chúc phúc cho chúng ta.

 

5.Nơi hoang địa - ĐGM. Arthur Tonne

Richar Miller là một học sinh cấp ba vào thập niên đầu của thế kỷ 20. Chàng là một thanh niên hay chống đối, coi thường quyền bính. Chàng yêu say đắm một cô gái lối xóm tên là Muriel Mc. Comber. Cha nàng sợ lối sống lập dị của Richar nên cố gắng dập tắt mối tình lãng mạn ấy.

Thất vọng, Richar lui tới một quán rượu, chàng gặp một phụ nữ tên Belle. Theo ngôn ngữ thời ấy người ta gọi là “Flirt” (gái giang hồ). Một người đàn bà đùa dỡn với tình yêu không đứng đắn. Richar uống rượu và đánh lộn với một thương gia và bị tống cổ ra khỏi quán rượu. Cha của Richar hiểu và thông cảm với con mình. Ông từ từ giúp chàng lấy lại quân bình. Nhờ một tin mật, Richar được biết Muriel thực sự yêu chàng. Chàng quyết định hối cải và đợi nàng.

Đó là cốt truyện một vở hài kịch Eugne - O’neil viết vào năm 1933 tựa đề “Ah Wilderness “ (Nơi hoang tàn) vở kịch được trình diễn rộng rãi vì nó phát hoạ một hoàn cảnh chung, rất nhân bản trong đời sống hàng ngày, nó vẽ nên phần nào cảnh hoang dại mà chúng ta đang sống.

Bài Tin Mừng hôm nay nói với chúng ta rằng Đức Giêsu đã ở trong sa mạc, nơi hoang dã 40 ngày đêm. Đó là lý do cho 40 ngày mùa chay. Sa mạc là nơi trú ẩn của thần dữ. Thú dữ, tượng trưng cho sự dữ mà Đức Kitô đã đến chế ngự. Tại sao chúng ta đọc bài Tin Mừng này vào Chúa Nhật thứ nhất mùa Chay. Có gì liên hệ giữa nơi hoang dã Chúa Giêsu đã sống trong Mùa chay đầu, với bạn và tôi trong Mùa chay này. Đơn giản thôi, chúng ta đang sống trong một nơi “hoang dã” một thế giới ngập những tạo vật man rợ dưới hình thức con người. Có gì hung dữ hoặc xấu xa hơn sự tàn bạo của con người thời đại - sát nhân không gớm tay cướp giật, đốt nhà, ngược đãi trẻ em. Có con thú dữ nào giết hại hàng triệu người mỗi năm? việc phá thai làm đúng như thế đó. Thú dữ hình người trong hoang địa của chúng ta đang phá huỷ không những sự sống thể xác, mà còn đặc biệt sự sống tinh thần của những người gần chúng ta và thân yêu của chúng ta nữa; Xin kể một vài con thú xấu xa đó: người quảng cáo ma tuý, người xuất bản sách báo đồi truỵ, những tác giả chuyện phim và chương trình truyền hình.

Không có cách nào để kiềm chế những kẻ tàn phá thể xác và tâm hồn này sao? Dạ có, phương cách của Đức Giêsu có nhiều sự dữ Chúa Kitô đến cứu chữa. Lý do chính Chúa vào nơi hoang địa là để chiến thắng những sự dữ này bằng đền tội và cầu nguyện. Chỉ trong đường lối của Chúa, chúng ta mới chiến thắng sự dữ trong thế giới ngày nay. Chỉ bằng lời cầu nguyện xin Chúa giúp, bằng sự hy sinh để tỏ lòng mến Chúa. Chúng ta có thế kiềm chế, thuần hoá những thú dữ ở giữa chúng ta. Chúng ta cũng có thể kiềm chế những thú tính trong tâm hồn mỗi người chúng ta. Thời gian bắt đầu việc này là mùa chay. Trong tinh thần chúng ta hãy cùng sống với Đức Giêsu trong “hoang địa” ngày nay. Với Người, chúng ta thống hối và cầu nguyện. Như thế, cũng như người đã chiến thắng sự dữ trong thời của Người, chúng ta cũng sẽ chiến thắng sự dữ trong hoang địa hiện đại của chúng ta. Xin Chúa chúc lành bạn.

 

6.Chúa Nhật I Mùa Chay

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc)

“Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Xa-tan cám dỗ”

1. Hoang địa

Tại sao Thần Khí đưa Đức Giê-su vào sa mạc hay hoang địa, chứ không phải là nơi nào khác? Đó là vì, trong bối cảnh lịch sử cứu độ và nhất là khởi đi từ kinh nghiệm Xuất Hành và hành trình tiến về Đất Hứa của Israen, hoang địa là nơi Thiên Chúa dẫn con người vào để gặp gỡ Ngài. Và để gặp gỡ Ngài, con người phải bỏ lại tất cả phương tiện, công việc, những lo lắng, những ràng buộc, những ngẫu tượng hay thần tượng như tiền bạc, danh vọng, lạc thú, để được tự do và bình tâm. Như xưa kia, Dân Chúa đã phải bỏ lại “Ai Cập” và tất cả những gì thuộc về “Ai Cập” ở đàng sau. Nhưng như chúng ta đều biết, điều này không dễ dàng, vì họ bỏ ra đi, nhưng trong lòng còn đầy quyến luyến.

Vì thế, hoang địa còn là nơi của thử thách, nhất là thử thách về lòng tin. Thật vậy, hoang địa là nơi không nhiều lương thực hay nước uống, để con người chỉ sống bằng của ăn, của uống, như là ơn Chúa ban từng ngày, giống như em bé được mẹ nuôi nấng từng ngày. Đó cũng chính là trường hợp của chúng ta trong thời gian tĩnh tâm, hay cách chúng ta sống bốn mươi ngày của Mùa Chay. Ngoài ra, hoang địa còn là nơi không có đường đi, để chỉ nhận Lời Chúa là:

Ngọn đèn soi cho con bước,

là ánh sáng chỉ đường cho con đi.

(Tv 119, 105)

Trong biến cố chịu phép rửa, Đức Giê-su được nhìn nhận là Con Thiên Chúa; nhưng điều này không miễn cho Người khỏi chịu thử thách trong hoang địa, do chính Thần Khí dẫn đưa. Đức Giê-su Ki-tô, dù là Con Thiên Chúa, vẫn để cho mình được dẫn đi chịu thử thách, dù mang thân phận Thiên Chúa, Người vẫn muốn chia sẻ thân phận đầy thử thách của loài người chúng ta. Trong khi đó, loài người chúng ta lại ham muốn thân phận thần linh của Ngài, khi tin và làm theo lời của Ma Quỉ: “Chẳng chết chóc gì đâu! Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác” (St 3, 4-5)

Ngài chịu thử thách để cảm thông với thân phận và số phận đầy thử thách của loài người và từng người chúng ta, và nhất là để chia sẻ chiến thắng thử thách cho chúng ta; bởi vì cả loài người và từng người chúng ta, không ai đứng vững được trước thử thách. Hình ảnh Đức Giê-su sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người, diễn tả và loan báo chiến thắng của Đức Giê-su đối với thú tính, Xa tan, sự dữ và sự chết.

Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa. Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Xa-tan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người.

(c. 12-13)

2. “Chịu Xa tan cám dỗ”

Sau khi chịu phép rửa, “Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa. Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Xa-tan cám dỗ.” “Cám dỗ”, trong tiếng Hi lạp, còn có nghĩa là “thử thách”. Tương tự như trong tiếng Anh hay tiếng Pháp, động từ to tempt hay tenter vừa có nghĩa là “cám dỗ” vừa có nghĩa là “thử thách”; tùy theo chủ thể hay nội dung mà chúng ta hiểu đó là cám dỗ hay thử thách.

* Thiên Chúa thử thách con người (chứ không thể cám dỗ!); còn Xa tan thì cám dỗ. Và con người cũng thử thách Thiên Chúa nữa; như Đức Giê-su nói với Xa tan trong Tin Mừng theo thánh Mát-thêu: “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi” (Mt 4, 7); và như Dân Chúa trong sa mạc, thử thách Đức Chúa tới mười lần (x. Ds 14, 22).

* Và khi cám dỗ liên quan đến lòng tin, chứ không phải là các vấn đề luân lí (trộm cắp, giết người…) hay dục vọng, thì nên dịch là thử thách. Trong trường hợp của Đức Giê-su, Xatan “cám dỗ” Ngài về lòng tin mà Đức Giê-su đặt để nơi Thiên Chúa, chứ không phải là hay không thể là vấn đề luân lí hay giới tính (x. Mt 4, 1-11). Tương tự như Dân Chúa trong sa mạc, họ chịu thử thách về lòng tin. Bởi vì, theo sáng Sáng Thể (x. St 3) mặc khải cho chúng ta về tội nguyên tổ, thái độ nội tâm nghi ngờ Thiên Chúa, không tin Thiên Chúa, loại trừ Thiên Chúa ngay trong lòng của mình, mới là gốc của mọi tội, tội luân lí hay dục vọng.

Thiên Chúa “thử thách” con người, không chỉ qua những biến cố cuộc đời, nhưng qua chính thân phận và ơn gọi làm người, nhưng với mục đích khác hẳn. Giống như những thử thách trong sư phạm huấn luyện, đó chính là để cho chúng ta lớn lên trong tương quan tình yêu và nhưng không với Chúa. Còn Ma Quỉ, và những người hành động theo Ma Quỉ, ý thức hay không ý thức, thử thách người khác nhằm mục đích lên án; theo nghĩa này “thử thách” được gọi là “thử” hay “giăng bẫy”, như những người Pha-ri-sêu và luật sĩ hay làm để hại Đức Giê-su. Và ở mọi thời, nhất là thời nay, người ta hay làm hại nhau theo kiểu này[1].

Ngoài ra, loài người chúng ta cũng “chuyên môn” thử thách Chúa và thử thách nhau; trong trường hợp này, thử thách có nghĩa là: không tin, nên thử cho biết. Nhưng vì đã không tin, nên loài người chúng ta sẽ thử thách Chúa và thử thách nhau không cùng (rõ nhất là trường hợp của người ghen tương). Bởi lẽ, tin không phải đến từ biết, vì người ta không biết hết về Chúa và về nhau, nhưng đến từ quyết định tự do của con tim; tin là quà tặng của con tim (điều này được minh họa thật rõ trong tình yêu nam nữ).

Công trình của Thiên Chúa là con người tin vào Đấng Ngài sai đến (x. Ga 6, 29 theo bản văn Hi-lạp). Tin là cả một công trình; chính vì thế, công trình của ma quỉ cũng phải là làm cho con người không tin, nghi ngờ; và không tin vào Thiên Chúa, sẽ tất yếu tin vào những điều khác, thuộc về ma quỉ và sự chết. Không tin nơi Thiên Chúa, thì người ta sẽ thuộc về sự chết, làm việc sự chết, bởi vì sự chết là mạnh nhất, có khả năng xí xóa tất cả, giải quyết mọi vấn đề, và nhất là làm cho mọi người “huề cả làng”.

3. “Sau khi ông Gio-an bị nộp”

“Sau khi ông Gioan bị nộp”, điều này có nghĩa là bị bắt, bị giam và bị giết một cách bất công. Đó là kế hoạch của con người phát xuất từ lòng ghen ghét đi đôi với bạo lực, không chấp nhận những gì thuộc sự thật và ánh sáng. Nhưng đồng thời đó cũng là, một cách mầu nhiệm, “kế hoạch của Thiên Chúa”, như Thiên Chúa đã hành động trong lịch sử cứu độ, và vẫn còn hành động như thế; Ngài nương theo hành trình của sự dữ và tội lỗi để thực hiện kế hoạch của mình. Thật vậy, sự kiện Gioan bị nộp (in divine passive) lại loan báo mầu nhiệm Thương Khó của Đức Giê-su, như lời truyền phép trên bánh trong Thánh Lễ: “Anh em hãy nhận lấy mà ăn. Đây là mình Thầy, sẽ bị nộp vì anh em”.

Và ngay sau khi Gioan bị nộp, Đức Giêsu đến Galilê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. Chúng ta có thể nghĩ đến những kinh nghiệm “bị nộp’ nho nhỏ hằng ngày của chúng ta: đó là những lúc chúng ta bị coi thường, không được tôn trọng, bị hiểu lầm, bị phân biệt; và những kinh nghiệm “bị nộp” lớn hơn: bị ghét, bị loại trừ, bị bách hại. Nhưng đó lại là là những cơ hội tốt, Chúa mời gọi để chúng ta công bố Tin Mừng của Thiên Chúa, làm chứng cho tình yêu nhưng không của Thiên Chúa, bày tỏ lòng thương xót và bao dung của Thiên Chúa: “Người ta sẽ nộp anh em…, nhưng đó là cơ hội làm chứng cho họ được biết” (Mc 13, 9). Hay đúng hơn, đó là những cơ hội để cho Đức Kitô đến công bố Tin Mừng của Ngài ngay trong những khó khăn và thử thách của chúng ta.

------------

[1][1] Trong tòa án Thượng Hội Đồng, câu hỏi của vị Thượng Tế: “Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, tôi truyền cho ông phải nói cho chúng tôi biết: ông có phải là Đấng Ki-tô Con Thiên Chúa không?” (Mt 26, 63), cũng là một hành động giăng bẫy. Trước đó, Đức Giê-su luôn phá bẫy người ta giăng ra, nhưng lần này, Ngài để cho mình bị mắc bẫy và bị kết án: “Hắn nói phạm thượng… Hắn đáng chết” (c. 65-66). Đó thực sự là cái bẫy chết người, vì mang dáng vẻ bề ngoài “đi tìm sự thật”, hơn nữa còn đưa cả “Thiên Chúa Hằng Sống” vào làm “mồi” giăng bẫy! Biến Thiên Chúa thành “mồi giăng bẫy”, với ý đồ giết chết, đó mới là phạm thượng! Giống như Con Rắn nói với bà E-và: “Có thật Thiên Chúa bảo…” (St 3, 1). Vậy thì ai phạm thượng? Loài người chúng ta, ngang qua hình ảnh Vị Thượng Tế cao quí, hay Đức Giê-su trong cuộc Thương Khó? Giăng bẫy kiểu này, chính là hành động đặc trưng của Satan. Thế là ứng nghiệm lời Kinh Thánh: “Cho bọn ác nhân mắc bẫy chính chúng gài, còn con đây thì được thoát khỏi” (Tv 141, 10; sách Các Giờ Kinh Phụng Vụ loại bỏ lời này; lời loan báo mầu nhiệm Vượt Qua!)

 

7.Sám hối và tin vào Tin Mừng

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của ViKiNi - Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

Sám hối và tin vào Tin Mừng có thể diễn tả cụ thể như câu ca dao: “Ai ơi bưng bát cơm đầy. Dẻo thơm một hột, đắng cay muôn phần”. Hay câu: “Có công mài sắt, có ngày nên kim”. Muốn được ăn bát cơm dẻo thơm, nhà nông phải chịu biết bao nhiêu đắng cay, đổ ra bao nhiêu công sức gian khổ, muốn được cây kim xinh đẹp, người công nhân phải gò lưng mài dũa cây sắt han rỉ bao nhiêu ngày tháng!

Muốn tin được Tin Mừng, chúng ta phải sám hối với tâm hồn cay đắng, xót xa: “Họ phải thú nhận tội lỗi và ông Gioan làm phép rửa cho họ trong giòng sông Giócđan” (Mc. 1,5). Thú tội là việc làm cay đắng, xót xa, không còn lên mặt tự phụ và kiêu ngạo, chỉ còn khiêm tốn chôn mình dưới giòng sông, nơi sâu thẳm nhất, để chuẩn bị đón rước Tin Mừng Đấng Cứu Thế.

Ông Noe cũng phải thanh tẩy trong Đại hồng thủy sau một thời gian dầy công sám hối. Ông và cả gia đình sám hối bằng việc làm, bằng bao nhiêu ngày tháng gian khổ băng rừng đốn cây, chẻ gỗ đóng tầu. Một công việc to lớn kỳ dị bị chê cười, nhạo báng như một lũ điên không giống ai. Mặc cho thế gian nguyền rủa khinh bỉ, Noe tin vào Lời Chúa sống đức nghĩa vẹn toàn giữa những người đồng thời đầy tội ác. Noe hằng đi đứng rập theo ý Thiên Chúa (St. 6, 9), nên ông sẵn sàng chịu muôn ngàn đắng cay, muôn ngàn hy sinh để chiến thắng mọi thử thách cam go. Noe và gia đình đã thực sự sám hối bằng đức tin có việc làm, chứ không chỉ đau đớn hối hận. Nhờ đó, cả gia đình ông và bao nhiêu muôn chim cầm thú đã được cứu sống. Thiên Chúa đã ký kết với ông một giao ước mới. Ông là cha một dòng dõi mới, một dân tộc mới.

Noe và dòng dõi ông là hình bóng tạm thời của Đức Giêsu là đầu một dân tộc mới, một dân tộc trường tồn muôn đời, là dân Chúa, là Giáo hội Chúa Kitô.

Bài Tin Mừng và bài đọc 2 cho thấy rõ chân lý hiển nhiên đó. Đức Giêsu, dầu là Thiên Chúa, đã đến chịu phép rửa sám hối của ông Gioan, Người cũng phải khiêm tốn chôn mình dưới sông Giócđan. Hơn nữa, Người còn phải chịu rửa bằng Thánh Thần và lửa (Mt. 3, 11); “Thánh Thần đã thúc đẩy Người vào hoang địa, ở đó lâu ngày, chịu satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú”. Hoang địa là nơi phải sống khắc khổ, thiếu thốn, nghèo khổ, nhưng trong lành, và thanh thoát mọi tham lam phàm tục. Sống nghèo khó thì lại được chúc phúc: Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó vì nước Trời là của họ. Sống trong khóc lóc đắng cay thì lại được Thiên Chúa an ủi (Mt. 5, 3-5).

Satan là tướng quỷ dữ, gieo rắc chống lại Thiên Chúa, lôi kéo vào tội lỗi, vào cực hình. Phép rửa bằng Thánh Thần sẽ giúp chiến thắng Satan đem ta trở về Thiên Chúa, hướng dẫn ta vào con đường thánh thiện vinh phúc muôn thuở.

Sống giữa dã thú là sống giữa loài hung dữ, dã man, tàn ác, bằng phép rửa Thánh Thần sẽ thanh luyện ta sạch mọi dã man, gian tà, tội ác trở nên hiền hòa khả ái, nhân từ, yêu thương, an lành.

Đức Giêsu đã chịu phép rửa bằng Thánh Thần, Người hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, trở nên Con chí ái của Đức Chúa Cha, mọi sự vâng theo thánh ý Cha như Người đã cầu nguyện: “Một theo ý Cha, đừng theo ý con”. Và Đức Chúa Cha đã hoàn toàn hài lòng về Người. Người không còn một chút bẩn nhơ bụi trần, hoàn toàn siêu thoát mọi tham lam, cho nên chiến thắng và tiêu diệt tướng quỷ dễ dàng. Người sống giữa những quân thù như dã thú mà vẫn vô cùng dịu dàng nhân ái, không ai nghe thấy tiếng Người dức lác, Người không bẻ gẫy cây sậy đã dập, không nỡ tắt tim đèn còn khói.

Thánh Phêrô còn nói: “Đức Kitô đã chịu chết vì tội chúng ta, Đấng công chính đã chết cho kẻ bất chính. Thân xác Người bị giết chết, nhưng nhờ Thánh Thần Người được phục sinh … Nhờ sự phục sinh của Đức Kitô, Người đã tiêu diệt sự chết cho chúng ta được hưởng sự sống đời đời”.

“Đức Kitô đã chịu chết”, đó chính là phép rửa bằng lửa. Lửa bừng lên trong trái tim Người vì yêu thương chúng ta. Người đã nói: “Không có tình yêu cao quý nào bằng tình yêu chết cho người mình yêu”. Lửa tình yêu mà Đức Giêsu đã thực hiện như Người nói: “Thầy đem lửa đến trần gian, Thầy ước mong lửa ấy bừng lên. Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất” (Lc. 12, 49-50).

Đức Giêsu đã khắc khoải sám hối thay cho nhân loại qua chịu phép rửa bằng Thánh Thần và lửa. Người đã hoàn tất. Các Tông đồ cũng đã chịu phép rửa bằng Thánh Thần và lửa trong ngày lễ Ngũ Tuần (Lễ Hiện Xuống). Thánh Thần đã thúc đẩy các ông đem lửa tình yêu của Đức Giêsu bừng cháy lên, tỏa sáng khắp thế gian, hoang địa và đã chiếu tỏa trên chúng ta, thúc đẩy chúng ta sám hối và tin vào Tin mừng. Để chúng ta cũng được chịu phép rửa bằng Thánh Thần và lửa.

Lạy Chúa, xin cho chúng con hằng kiên tâm sám hối và tin vào Tin mừng, cho chúng con được thanh tẩy, để sống trong Thánh Thần và trong lửa tình yêu của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen.

 

8.Chúa Giêsu chịu satan cám dỗ

(Suy niệm của Lm. Tôma Aq. Trầm Phúc)

Chúng ta bước vào Mùa Chay với Chúa Giêsu, vì “sau khi chịu phép rửa, Thần Khí đẩy Ngài vào hoang địa, Ngài ở đó suốt 40 ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú…” Thánh sử Maccô không nói đến việc Chúa Giêsu ăn chay, nhưng các thánh sử khác đều nói đến điều đó. Ngài khai mạc cuộc đời công khai của Ngài bằng những ngày chay tịnh và chiến đấu chống ma quỷ. Thánh Maccô cũng không nói đến Chúa chịu cám dỗ như thế nào. Đối với thánh Maccô, cám dỗ không phải chỉ là một giai đoạn mà suốt cả cuộc đời Chúa Giêsu. Cuộc đời của Ngài là một cuộc chiến liên lỉ chống lại Satan cho đến ngày chiến thắng cuối cùng là phục sinh.

Chúa Giêsu dẫn chúng ta vào cuộc chiến triền miên của Ngài, vì chúng ta sẽ phải chống lại ma quỷ đến cùng, cho đến ngày chúng ta toàn thắng trong Chúa.

Mùa chay chính là lúc khai mạc một thời điểm quan trọng, thời chiến đấu, vì “ma quỷ luôn như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé”. Nó là kẻ thù số một của loài người. Ngay từ buổi đầu ma quỷ đã cám dỗ Ađam và Evà, và đã khuất phục tổ tông chúng ta, biến chúng ta thành nô lệ của nó. Chúa Giêsu đến để triệt hạ kẻ thù nguy hiểm đó, giải thoát chúng ta, đưa chúng ta trở về với Cha chúng ta là nguồn mọi hạnh phúc và bình an. Ngài bắt đầu cuộc giải phóng của Ngài bằng một thời gian sa mạc, thời gian cầu nguyện thân mật với Cha Ngài.

Bốn mươi ngày là một thời gian dài. Con số 40, của người Do Thái chỉ là con số tượng trưng chỉ một thời gian dài vô định. Con số nầy được sử dụng nhiều lần trong Kinh thánh. Môsê lên núi Khoreb với Chúa bốn mươi đêm ngày. Dân Do Thái phải sống trong sa mạc suốt bốn mươi năm, tiên tri Êlia đi trong sa mạc bốn mươi ngày để đến điểm hẹn của Chúa là núi Khoreb…

Một thời gian dài như thế để làm gì? Đối với người Do Thái chay tịnh là để cầu nguyện và đền tội. Chúa Giêsu cũng vào sa mạc là để sống với Cha Ngài. Mối liên hệ nầy là sức sống của Ngài. Ngài với Cha Ngài là một như Ngài đã nói, Ngài luôn làm theo ý Cha, dìm mình trong thánh ý của Cha. Vì thế, trước khi bước vào rao giảng Tin Mừng, Ngài cảm thấy cần được sống với Cha trong tình yêu của Cha. Trước khi thuộc về loài người, Ngài thuộc về Chúa Cha.

Bước vào Mùa Chay là bước vào sa mạc với Chúa. Chúng ta cũng đi vào con đường cầu nguyện. Tâm hồn không cầu nguyện như một mảnh đất khô, làm sao bông hoa nhơn đức có thể mọc lên và trổ hoa được? Chúng ta chỉ là tro bụi làm sao có thể sinh hoa trái nếu không có mưa ơn thánh?

Chúng ta thường hay lấy lý do không có thì giờ hay bị ngăn trở nhiều bề, không thể cầu nguyện. Buông bỏ mọi sự để vào sa mạc của tâm hồn để gặp Cha trên trời, không phải là xa xỉ mà là sức mạnh. Một chiếc xe chạy mãi cũng phải dừng lại đổ xăng. Linh hồn chúng ta cũng cần nhiên liệu để đi tới. Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa đã cho chúng ta thấy nhu cầu đến với Chúa Cha. Hãy theo Ngài vào sa mạc để cho lòng mình lắng xuống, để cảm thấy sự bình an lan tỏa vào tâm hồn, vượt lên trên mọi lo lắng để vươn cao. Chúa mời gọi chúng ta: “Hỡi những ai lao nhọc và gánh nặng, hãy đến với Ta, Ta sẽ bồi dưỡng cho”. Hãy vào sa mạc với Ta…

Chúa Giêsu vào sa mạc cũng để chịu ma quỷ cám dỗ. Ngài bắt đầu bước vào cuộc chiến công khai với ma quỷ, và cuộc chiến nầy sẽ kéo dài suốt cuộc đời trần thế của Ngài cho đến giây phút trao phó linh hồn trong tay Chúa Cha. Và Ngài đã toàn thắng.

Chúng ta đang xung vào trận mỗi ngày. Ma quỷ không mệt mỏi, nhưng chúng ta mệt mỏi. Lắm khi chúng ta cũng bại trận, nhưng Chúa không để chúng ta thất bại mãi đâu. Ngài luôn trợ lực. Ngài là thuẫn đỡ khiên che, Ngài là nơi chúng ta nương ẩn, là thành lũy bảo vệ. Bám vào Ngài, chúng ta sẽ chiến thắng. Thánh Phaolô đã lao vào cuộc chiến với tất cả nghị lực của ngài. Có lúc ngài phải la lên: “Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác hay chết nầy”? Ngài bám sát vào Chúa Kitô đến nỗi đối với ngài sống là Chúa Kitô và thập giá của Người: “ Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô”. “Nhờ thập giá Người, thế gian đã bị đóng đinh đối với tôi, và tôi đối với thế gian”. Chúng ta không thể chiến thắng ma quỷ nếu không có thập giá, cũng không thể có sự thánh thiện mà không có chiến đấu. Thánh Phaolô đã kiên trì chống lại mọi cám dỗ và bắt thân thể ngài phải cực nhọc và phục tùng. Ngài đóng đinh tính xác thịt với những dục vọng của nó vào thập giá. Cuộc chiến cam go và dai dẳng, nhưng hiệu quả sẽ huy hoàng. Con đường thập giá dẫn đến phục sinh.

Mùa Chay mang một màu sắc không mấy vui tươi, nhưng nó cho chúng ta cơ hội để rèn luyện tâm hồn xứng đáng đón nhận tình yêu của Đấng đã yêu chúng ta và đã liều mạng cứu chúng ta. Hãy cùng với Chúa Giêsu đi vào cuộc chiến chống lại tất cả những gì là xấu xa nhơ nhớp để sống một cuộc đời thanh trong tươi đẹp hơn. Nếu tất cả những người tin Chúa đều cương quyết bước vào cuộc chiến chống lại sự dữ thì thế giới của chúng ta đã tươi đẹp hơn rồi.

Sau khi cầu nguyện và chay tịnh, Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. Thánh Maccô chỉ nói ngắn gọn bao nhiêu đó nhưng chính đó là cả chương trình dài hạn của Chúa Giêsu mà đây mới chỉ là khởi đầu. Ngài tiếp nối sứ vụ của Gioan Tẩy Giả và của các tiên tri, tức là liếp tục chương trình của Chúa Cha và Ngài sẽ đưa đến chung cuộc là cứu vớt nhân loại, đưa nhân loại trở về nguồn sung mãn là Tình yêu của Chúa Cha: “Thời đã mãn, hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Tin Mừng chính là Ngài, là Con Thiên Chúa đến khai mở thời cứu độ.

“Thời đã mãn” tức là Nước Thiên Chúa đã được khánh thành nơi Chúa Giêsu., chương trình cứu độ của Chúa Cha đã được thực hiện. Muốn cho Nước Thiên Chúa được hoàn thành, chúng ta phải đi vào con đường sám hối, nghĩa là thay đổi nảo trạng và cuộc sống để phù hợp với ý định của Chúa. Sám hối, thay đổi não trạng không là một việc dễ dàng. Con người không thích bị xáo trộn, chỉ thích ngủ yên trong những thói quen của mình, nhất là những thói quen xấu. Chúa Giêsu đã dám liều thân cho chúng ta, không lẽ chúng ta lại để cho những công trình của Ngài ra vô hiệu. Hãy đứng dậy, chúng ta hãy đi, đi vào cuộc chiến để dành lại hạnh phúc mà ma quỷ đã tướt đoạt của chúng ta. Mùa Chay chỉ có ý nghĩa khi chúng ta dám dấn thân với Chúa vào công cuộc đổi mới cuộc sống để “nên trọn lành như cha trên trời”.

Chúa Giêsu vẫn còn ở giữa chúng ta cho đến khi chương trình của Ngài được hoàn tất. Ngài vẫn thiết tha mời gọi. Ngài vẫn tiếp tục nâng đỡ chúng ta, nuôi dưỡng ý chí và mọi khả năng của chúng ta bằng chính bản thân Ngài. Ngài dám cho chúng ta ăn lấy Ngài. Chúng ta không thể từ chối hồng ân cao cả đó. Ăn lấy Ngài để cùng Ngài cứu vớt anh em chúng ta, những người chưa được hạnh phúc biết Ngài, những anh em đau khổ hồn xác, những người bị thiệt thòi trong cuộc sống. Nước Thiên Chúa đến trong trần gian hôm nay qua tình yêu của chúng ta, qua những cố gắng hằng ngày, qua niềm tin chân thành của chúng ta.

 

9.Chiến đấu để khỏi sa cơn cám dỗ

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang - Joshepus Quang Nguyễn)

Sau ba ngày Tết, hôm nay chúng ta bước vào Chúa Nhật thứ 1 Mùa Chay. Mùa chay kéo dài 40 ngày. Con số 40 tượng trưng cho một cuộc khởi đầu mới: lụt đại hồng thủy 40 đêm ngày; 40 năm dân Do Thái đăng trình trong sa mạc để tiến về Đất Hứa; 40 ngày 40 đêm ngôn sứ Elia đi bộ về núi Hôrép để lãnh nhận sứ mạng tái lập giao ước. Và Chúa Giêsu làm cuộc hành trình cá nhân 40 đêm ngày trong hoang địa để sau đó bắt đầu một cuộc xuất hành mới dẫn dân mới về Đất Hứa là Quê Trời. Bốn mươi ngày cũng là hình ảnh của cuộc đời mỗi người chúng ta. Thật vậy, như Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay, sau khi chịu phép rửa, liền được Thần khí đẩy vào sa mạc chịu Satan cám dỗ, chúng ta cũng vậy, sau phép rửa tội liền bắt đầu chiến đấu với các cám dỗ.

Chúa Giêsu là Chúa cũng không thoát khỏi cơn cám dỗ nhưng Ngài đã chiến đấu và chiến thắng cơn cám dỗ nhờ Ngài liên lỉ lựa chọn giữa ý Cha và ý Người. Trong bài Tin mừng chúng ta vừa nghe hôm nay, thánh sử Mác-cô nói về việc Chúa Giêsu chiến thắng cám dỗ. Ma quỷ đã cám dỗ Chúa Giêsu điều gì? Thưa, ma qủy đã tìm cách lôi kéo Chúa Giêsu quay lưng lại với Chúa Cha; khước từ sống vâng phục thánh ý Chúa để được thoả mãn cơn khát – đói và thèm muốn xác thịt và tinh thần của mình. Cụ thể, qủy đã hướng mở cho Chúa một tương lai đầy hứa hẹn không chỉ có của ăn dư đầy từ những hòn đất hòn đá cũng biến thành của ăn, từ sỏi đá cũng thành cơm, mà vượt xa hơn nữa là nắm gọn trong tay thiên hạ, kẻ hầu người hạ và thừa hưởng mọi vinh hoa lợi lộc trần gian. Năm xưa trong vườn địa đàng nó đã thắng ông bà nguyên tổ, khi nó đưa ra những lời dụ dỗ đầy ngọt ngào, đầy hấp dẫn, nhưng hôm nay, màn trình diễn này đã hoàn toàn thất bại bởi Người Con duy nhất của Thiên Chúa là Ðức Giêsu, Ngài không những đã khước từ những lời mời mọc của ma quỷ nhưng còn cho ma quỷ nhận ra rằng không có gì cao qúy hơn là được sống trong tình nghĩa với Thiên Chúa, sống trong sự quy phục Thiên Chúa, vì “Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4,4).

Tuy ma quỷ đã thất bại với Chúa Giêsu, nhưng nó vẫn dùng những chiêu thức đó để tấn công con người hôm nay. Trước hết nó gieo vào lòng ta mối nghi ngờ Thiên Chúa, về lòng thương xót và quan phòng của Thiên Chúa. Nó mở ra cho chúng ta một sự so sánh, tính toán thiệt hơn và cuối cùng là đưa ra phương tiện để quyến rũ chúng ta là: danh vọng, tiền tài, địa vị, thú vui. Kết quả là nhiều người vì ham tiền, ham lợi lộc đã trở thành tay sai cho ma qủy, không chỉ mình làm điều ác mà còn lôi kéo, dẫn dụ nhiều người khác đi vào con đường tội lỗi. Ma qủy đã thành công khi sai khiến chúng ta làm sự dữ, là những điều trái với luân thường đạo lý như: trộm cắp, đánh nhau, hận thù ghen ghét, tự cao tự đại... Ðó là những mối tội đã gây nên biết bao đau khổ cho chính mình và cho những người xung quanh. Chẳng hạn, ngày 28/1 vừa qua một vụ cướp của giết người gây chấn động thành phố Hồ Chí Minh đó là tên Nguyễn Công Bảo 15 tuổi giết nghệ sĩ cải lương Đỗ Linh để cướp tài sản. Đau đớn thay cho xã hội nay đó là kẻ giết người chưa đến tuổi thành niên!

Hôm nay khởi đầu Mùa Chay, chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu bị ma quỷ cám dỗ, Giáo hội mời gọi chúng ta ý thức về thân phận tội lỗi của mình và sức mạnh của ma quỷ luôn rình rập để lôi kéo chúng ta xa rời Thiên Chúa, đi trong tối tăm của đam mê lầm lạc. Vì thế, chúng ta luôn phải sám hối và tin vào tình yêu của Chúa. Sám hối để nhận ra sự khiếm khuyết của mình mà cầu xin ơn Chúa bổ túc những thiếu sót của chúng ta. Sám hối để canh tân đời sống sao cho phù hợp với Tin Mừng của Chúa. Sám hối để chúng ta nhận ra sự giới hạn của kiếp người để nhờ ơn Chúa giúp chúng ta sẽ hoàn thiện con người của mình nên thánh thiện như Cha trên trời là Ðấng hoàn thiện. Vì thế, trong bài đọc 2, Thánh Phêrô khẳng định: “Khi chúng ta Lãnh nhận phép rửa, không phải là được tẩy sạch vết nhơ thể xác, mà là cam kết với Thiên Chúa sẽ giữ lương tâm trong trắng, nhờ sự phục sinh của Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đang ngự bên hữu Thiên Chúa sau khi đã lên trời, đã bắt các thiên sứ và toàn thể thần minh phải phục quyền”.

Ước gì qua Lời Chúa hôm nay, xin cho mỗi người chúng ta biết luôn cầu xin Thiên Chúa gìn giữ chúng ta khỏi sa chước cám dỗ. Biết cầu xin để Người hằng gìn giữ chúng ta khỏi những cuộc tấn công của sa tan, khỏi những phản bội của sự yếu đuối của chính chúng ta và xin Người ban cho chúng ta đủ sáng suốt và sức mạnh để chống lại và khỏi sa chước cám dỗ. Amen.

 

10.Chúa Nhật 1 Mùa Chay

(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)

Hằng năm, vào Chúa nhật I Mùa Chay, chúng ta được nghe Tin mừng kể lại câu chuyện Đức Giêsu bị Ma quỷ cám dỗ.

Năm A, Giáo hội cho chúng ta nghe Tin mừng theo Thánh Mathêu. Năm C, Giáo hội cho chúng ta nghe Tin mừng theo Thánh Luca. Cả hai tác giả tường thuật câu chuyện Đức Giêsu bị Ma quỷ cám dỗ khá dài và đầy đủ các chi tiết về ba phương diện: danh, lợi, thú. Còn năm B, Giáo hội cho chúng ta nghe Tin mừng theo Thánh Marcô, tác giả tường thuật câu chuyện này chỉ vỏn vẹn có hai câu như chúng ta vừa nghe: “Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa. Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Sa-tan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người.” (Mc 1,12-13).

Như vậy, cả ba Tin mừng đều tường thuật câu chuyện Đức Giêsu bị Ma quỷ cám dỗ và Ngài đã chiến thắng. Nhưng nhiều người thắc mắc tại sao Đức Giêsu cũng bị cám dỗ? Thưa, vì Ngài có hai bản tính: Bản tính Thiên Chúa và bản tính loài người. Với bản tính loài người, Ngài cũng mang trong mình thân phận con người, vẫn phải chấp nhận những gì thuộc về con người ngoại trừ tội lỗi. Nên Ngài vẫn bị cám dỗ. Ma quỷ cám dỗ Đức Giêsu từ bỏ sứ mạng Chúa Cha trao phó để theo đường lối của thế gian. Nhưng đứng trước cơn cám dỗ của Ma quỷ, Ngài đã cương quyết chống lại và Ngài đã chiến thắng. Không những Ngài chiến thắng cơn cám dỗ của Ma quỷ mà Ngài còn có quyền trên Ma quỷ nên đã nhiều lần Ngài đã xua trừ Ma quỷ ra khỏi con người.

Với bản tính loài người, mỗi chúng ta cũng bị Ma quỷ cám dỗ. Nhưng cơn cám dỗ của Ma quỷ sẽ không làm hại được chúng ta khi chúng ta không ưng thuận, hay nói cách khác Ma quỷ không thể làm hại chúng ta khi chúng ta không chiều theo cơn cám dỗ của chúng. Thông thường, cơn cám dỗ xảy đến bằng ba giai đoạn: Thứ nhất, Ma quỷ gợi lên nơi tâm trí chúng ta một tư tưởng xấu như: hình ảnh đồi trụy, lòng tham của cải, tiền bạc, vi phạm những điều luật cấm…; Thứ hai, Ma quỷ xúi giục chúng ta thích thú hoặc hướng chiều về những điều vừa kể trên; Thứ ba, nếu chúng ta ưng thuận là sa chước cám dỗ của chúng, còn nếu chúng ta chống trả thì chúng ta thắng được chước cám dỗ của Ma quỷ. Ngày xưa, Ma quỷ cám dỗ Evà ăn trái cấm. Evà đã ưng thuận nên hái trái cấm mà ăn. Evà đã phạm tội. Ma quỷ cám dỗ Đức Giêsu bỏ ý định của Chúa Cha. Đức Giêsu đã cương quyết chống lại. Đức Giêsu chiến thắng. Cứ như thế, Ma quỷ vẫn tiếp tục cám dỗ con người, có những người thắng được chước cám dỗ như Đức Giêsu, nhưng cũng có vô số những người thua chước cám dỗ của Ma quỷ như Evà.

Ngày hôm nay, Ma quỷ vẫn cám dỗ chúng ta dưới nhiều hình thức khác nhau về các phương diện danh, lợi, thú. Thông thường ma quỷ không cám dỗ chúng ta phạm tội trọng ngay nhưng chúng cám dỗ chúng ta phạm tội cách tiệm tiến từ tội nhẹ đến tội nặng. Có một câu chuyện vui dân gian kể rằng: Có một người nọ bị quỷ hiện lên chận đường. Quỷ bắt anh ta phải làm một trong ba điều sau đây: một là uống rượu thật say; hai là đốt nhà của mình; ba là giết chết vợ mình. Quá hoảng sợ, người đàn ông đành chọn uống rượu thật say vì anh ta cho đó là việc làm đỡ nguy hại nhất. Nào ngờ, khi say rượu, anh ta mất hết lý trí, nổi lửa đốt nhà mình. Bà vợ ra can ngăn, anh ta điên tiết giết luôn vợ mình. Rốt cuộc là anh ta đã làm cả ba việc mà tên quỷ đã đề ra. (Sưu tầm)

Trong cuộc sống thường ngày, Ma quỷ cũng dùng những chiêu thức trên đây để cám dỗ con người và có rất nhiều người đã sa ngã phạm tội. Chẳng hạn, về tội lỗi đức công bằng: Mới bắt đầu, Ma quỷ cám dỗ con người phạm các tội nhẹ như ăn cắp vặt, dần dần chúng cám dỗ con người ăn trộm những thứ giá trị hơn, rồi tham ô tham nhũng, trở thành kẻ cướp lúc nào không hay. Về tội dâm ô: Lúc đầu, Ma quỷ cám dỗ con người bằng những tư tưởng xấu, xem hình ảnh xấu, rồi đến xem phim đen, quan hệ bất chính, cuối cùng là phá thai, giết người.

Chính vì thế, phải luôn đề phòng với chước cám dỗ của Ma quỷ. Thánh Phêrô đã lưu ý chúng ta rằng: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì Ma qủi, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé. Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự”(1 Pr 5,8-9a). Hãy sống tiết độ trong lời nói. Hãy sống tiết độ trong việc làm. Hãy sống tiết độ trong ăn uống. Tiết độ bằng cách ăn chay hãm mình. Ăn chay theo luật Giáo hội. Ăn chay luân lý là nhịn ăn, nhịn nói, nhịn những thú vui chơi không lành mạnh, nhịn đi tới những nơi, gặp gỡ những người có thể làm cho chúng ta sa ngã phạm tội.

Hãy tỉnh thức trước những mưu chước cám dỗ mà Ma quỷ bày đặt ra. Ma quỷ không hiện hình một cách công khai để cám dỗ con người, nhưng chúng bày ra những chước cám dỗ như những cái bẫy giăng sẵn mà chúng ta khó nhận ra để làm hại chúng ta.

Vì vậy, Thánh Phêrô bảo chúng ta hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự. Đứng vững trong đức tin mà chống cự bằng cách siêng năng cầu nguyện và lãnh nhận các bí tích nhất là bí tích Giao hòa và Thánh Thể. Đức Giêsu đã từng mời gọi các Tông đồ rằng: “Các con hãy cầu nguyện luôn kẻo sa chước cám dỗ.”(Mc 14,38). Chính Ngài đã dạy các ông cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha, trong đó có câu: “Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ.” (Mt 6,13).

Xin cho tất cả mọi người chúng ta biết noi gương Đức Giêsu luôn cương quyết chiến đấu và chiến thắng các chước cám dỗ của Ma quỷ. Amen.

 

11.Canh tân đời sống

Lần kia, một vị vua đang thả bộ trên những con đường của thành phố thủ đô, thì có một người ăn mày đến và xin nhà vua chút ít tiền. Nhà vua không hề cho anh ta một đồng nào cả. Thay vào đó, nhà vua mời anh ta đến lâu đài thăm viếng ông. Người ăn mày nhận lời mời của nhà vua. Đến ngày hẹn, người ăn mày tìm đường tới cung điện và được gặp nhà vua. nhưng anh ta bỗng nhận ra bộ quần áo rách rưới của mình, và cảm thấy xấu hổ. Đây là một biểu tượng hùng hồn về tình trạng nghèo khổ trong cuộc sống của anh. Vốn là một người đặc biệt, nhà vua đón tiếp anh ta một cách nồng hậu, tỏ lòng thương xót, và ban cho anh ta một bộ quần áo mới, cùng với những thứ khác. Tuy nhiên, vài ngày sau, người ăn mày vẫn lê lết trên đường phố trong bộ quần áo rách nát của mình. Tại sao anh ta lại bỏ bộ quần áo mới? Bởi vì anh biết rằng khi mặc bộ quần áo đó, có nghĩa là anh ta phải sống một cuộc sống mới, phải từ bỏ cuộc sống của một người ăn mày. Nhưng anh chưa được chuẩn bị để làm như vậy. Không phải là cuộc sống mới không hấp dẫn đối với anh ta. Nó rất hấp dẫn. Nhưng chỉ vì anh ta đã quá quen thuộc với lề thói cũ, đến nỗi không thay đổi được.

Thói quen đóng một vai trò lớn trong cuộc sống. Người ta nói rằng chúng ta sống nửa sau cuộc đời mình tuỳ thuộc vào những thói quen đã có từ nửa trước cuộc đời. Điều đó sẽ đem lại sự thoải mái cho người nào có những thói quen xấu.

Mùa chay đụng chạm vào một góc cạnh nào đó trong tâm hồn của tất cả chúng ta. Hình ảnh Chúa Giêsu ăn chay và cầu nguyện trong sa mạc gây xúc động cho chúng ta. Nhưng cũng bắt chúng ta phải nhìn vào cuộc sống của mình. Mùa chay thách đố chúng ta cải thiện con người mình. Nhưng những nỗ lực của chúng ta trong việc đổi mới thường không đủ sâu xa và kiên nhẫn.

Nếu muốn thay đổi những khía cạnh bên ngoài cuộc sống, thì trước hết, chúng ta phải thay đổi những thái độ tư tưởng bên trong của chúng ta. Sự thay đổi đòi hỏi chúng ta phải lấy những thói quen mới thay thế vào những thói quen cũ. Điều này mời gọi chúng ta phải biết làm chủ bản thân, và tự bắt mình phải thực hiện những gì cần thiết. Thông qua sức mạnh của lời cầu nguyện, chúng ta có thể hoàn tất được sự thay đổi tâm hồn theo lời mời gọi của mùa chay.

Mặc dù sự thống hối và lời cầu nguyện luôn luôn phù hợp, nhưng những yếu tố đó lại càng đặc biệt phù hợp trong mùa chay. Đây là thời gian của ân sủng. Mùa chay là một cửa ngõ mở ra một cơ hội lớn cho mọi người. Đây là một thời kỳ của sám hối và cố gắng. Nhưng cũng là thời kỳ của niềm vui lớn lao, tương tự như mùa xuân. Trong khi chúng ta nỗ lực tiến tới mùa Phục Sinh, thì mặt trời càng ngày càng tươi sáng và ấm áp hơn.

Nói tóm lại, chúng ta phải quay trở về với sức mạnh của tình yêu. Sống tử tế, hành động theo lẽ phải, và bước đi một cách khiêm tốn cùng với Thiên Chúa. Hãy dẹp bỏ chiếc áo rách của tội lỗi, để mặc lấy tấm áo mới của ân sủng và sự sống.

 

12.Cải thiện

Có một chàng thanh niên, vừa nghiện ma tuý, lại can tội giết người, nên bị kết án chung thân. Đêm kia anh đang nằm trên giường tại phòng giam, thì đột nhiên anh nghĩ tới tình trạng hỗn loạn mà anh đã gây ra trong đời anh. Anh cảm thấy có một ước muốn mãnh liệt là cầu nguyện. Đợi cho người bạn nằm cùng giường ngủ yên, anh mới quỳ xuống cầu nguyện: Lạy Chúa, con xin tỏ bày cùng Chúa những gì chất chứa trong trái tim con. Anh nói với Ngài bằng những lời lẽ đơn sơ mộc mạc tất cả những gì anh muốn, từ những hy vọng đến những thất bại, từ những vui mừng đến những khổ đau. Sau khi anh cầu nguyện xong, người bạn tưởng chừng như đã ngủ buột miệng kêu lên: Amen. Và người bạn nói tiêp: Tôi cũng tin Chúa. Tôi nghĩ rằng Ngài luôn ở với chúng ta, chỉ có chúng ta là không ở với Ngài mà thôi.

Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào lời Chúa truyền dạy: Hãy sám hối, nghĩa là hãy cải thiện đời sống, thành tâm thú nhận những gì xấu, không tốt, không đẹp trong đời sống chúng ta, rồi sau đó là từ bỏ chúng, quay lưng lại với chúng, nói khác đi là thẳng thắn đối diện với những tội lỗi trong đời sống, rồi cương quyết uốn nắn sửa đổi.

Hẳn rằng có những lúc chúng ta cũng đã ý thức về những hỗn loạn xảy ra trong tâm hồn và trong cuộc sống chúng ta. Chẳng hạn về tính ích kỷ, luôn đặt nhu cầu của chúng ta trên quyền lợi của người khác. Chẳng hạn về tính kiêu căng, không muốn nhìn nhận những sai lỗi của mình. Chẳng hạn về sự lười biếng, không muốn giúp đỡ một ai.

Kinh nghiệm cho thấy: Những nhà truyền giáo thành công nhất trong việc làm cho người khác hối cải, đều là những người thực hiện theo đoạn Tin Mừng hôm nay. Họ làm cho người khác nhìn nhận rằng mình chỉ là những kẻ tội lỗi, rồi từ đó giúp họ quay trở về cùng Đức Kitô mà làm lại cuộc đời. Bởi vì nếu không phải là người tội lỗi, thì cần chi đến Đức Kitô.

Từ khởi điểm này, hôm nay chúng ta cùng nhau bước vào mùa Chay, là thời gian đặc biệt Chúa tuôn đổ muôn vàn ơn sủng và giúp chúng ta cải thiện đời sống. Nếu như mùa Chay trở về, chúng ta biết cố gắng cải thiện đời sống, uốn nắn lấy một thói hư tật xấu mà thôi, thì có lẽ lúc này chúng ta đã trở nên một con người khác, đạo đức hơn, thánh thiện hơn, yêu thương hơn.

 

13.Nơi hoang dã

Có một vở kịch mang tựa đề là nơi hoang dã, kể lại câu chuyện như sau: Chàng thanh niên yêu say đắm cô gái hàng xóm. Thế nhưng cha nàng không ưng vì cuộc sống có phần bê bối của chàng. Ông ra sức dập tắt mối tình của chàng. Thất vọng, chàng đâm ra rượu chè bê bối. Ngày kia, sau khi đã uống rượu, chàng gây lộn và đánh nhau với một người trong quán, nên bị chủ quán tống cổ ra ngoài đường. Cha chàng rất hiểu và cảm thông với con mình. Ông từ từ giúp chàng lấy lại thế quân bình. Sau khi biết được cô gái hàng xóm cũng yêu chàng, thế là chàng quyết định hối cải và làm lại cuộc đời.

Vở kịch được trình diễn một cách rộng rãi và đã thu hút được nhiều người đến xem vì nó đưa ra một hoàn cảnh chung, vừa nhân bản, lại vừa gần gũi với cuộc sống hằng ngày. Nó vẽ lên phần nào cảnh hoang dã mà chúng ta đang sống.

Từ câu chuyện trên chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay. Thực vậy, trước khi bắt đầu cuộc sống công khai, Chúa Giêsu đã vào sa mạc, nơi hoang dã để ăn chay, cầu nguyện và chịu cám dỗ suốt 40 đêm ngày. Theo Kinh Thánh, sa mạc hay nơi hoang dã đã là nơi trú ẩn của thần dữ, của thử thách.

Với chúng ta cũng vậy, chúng ta đang sống trong một nơi hoang dã, một thế giới tràn ngập những tạo vật man rợ dưới hình thức con người. Có gì hung dữ hoặc xấu xa cho bằng sự tàn bạo của con người thời đại. Giết người không gớm tay. Ngược đãi trẻ em cộng với những hành động gian tham, trộm cướp bất công. Có con thú dữ nào giết hại hằng triệu người mỗi năm? Thế nhưng, việc phá thai của con người thời nay còn vượt hơn con số đó rất nhiều.

Thú dữ mang hình người trong hoang địa của chúng ta đang phá huy không những sự sống thể xác, mà hơn nữa, còn đặc biệt phá huỷ sự sống tinh thần của chính chúng ta và của những người thân yêu. Chẳng hạn như những phim ảnh và sách báo đồi truỵ. Vậy liệu có phương cách nào để kềm chế những kẻ tàn phá thể xác và tâm hồn hay không?

Tôi xin thưa rằng có, đó là phương cách của Chúa Giêsu. Bởi vì chính Ngài đã đến để cứu chữa những gì đã hư đi. Cũng vì thế mà Ngài đã vào hoang địa để chiến thắng sự dữ bằng việc hãm mình và cầu nguyện. Chỉ trong đường lối của Chúa, chúng ta mới chiến thắng được sự dữ trong thế giới ngày hôm nay.

Đúng thế, chỉ bằng việc cầu nguyện và hy sinh, chúng ta mới có thể thuần hoá được những con thú tiềm ẩn trong cõi lòng chúng ta. Cùng với Chúa Giêsu, chúng ta hãy cầu nguyện và chấp nhận những hy sinh hãm mình, để nhờ đó chúng ta cũng sẽ chiến thắng được những cám dỗ suốt dọc cuộc đời chúng ta.

 

14.Chiến thắng lòng tham

(Suy niệm của Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

Thông thường con người chúng ta thường hay ghen ghét, bất hoà, tranh chấp và có khi giết hại lẫn nhau vì những điều gì?

Thưa, về danh vọng và tiền tài. Ngay trong gia đình cũng có thể bị đảo lộn tất cả những nề nếp gia phong vì danh vọng và đồng tiền. Con cái bỏ cha mẹ, cha mẹ từ chối con cái. Vợ kết án chồng, chồng ruồng bỏ vợ, anh em bạn hữu chém giết nhau cũng chỉ vì đồng tiền, bát gạo, và người ta cũng có thể chà đạp nhau, bất kể là thân hay quen, là bạn hữu xa gần chỉ vì một ngai vàng là địa vị, là quyền lực trong xã hội.

Thực vậy, có những kẻ vì tiền mà mê muội. Có những người vì tình mà hoá dại. Có những người vì quyền lực mà đánh mất tính người. Nhưng có lẽ, cái cám dỗ lớn nhất của con người qua mọi thời đại chính là đồng tiền, vì có tiền là có tất cả.

Vì tham lam đồng tiền mà họ sẵn sàng đánh đổi tất cả: danh dự, phẩm giá và tình làng nghĩa xóm, tình cha nghĩa mẹ, tình nghĩa thầy trò cũng không bằng ma lực của đồng tiền, như cha ông ta đã từng nói: "Còn tiền còn bạc còn đệ tử - Hết tiền hết gạo hết ông tôi". Thật vậy, có biết bao kẻ đã bạc tình, bạc nghĩa chỉ vì đặt đồng tiền lên trên mọi mối quan hệ giữa người với người. Đồng tiền là đối tượng duy nhất để tôn thờ vì thế dân gian mới có câu: "Ông tiền, ông Phật, ông Tiên - Ba ông đứng lại, ông tiền cao hơn".

Ngày xưa, có người ở nước Tề thích vàng đến mê vàng. Sáng sớm thay áo quần đi ra chợ. Tới hàng đổi tiền, thì liền chộp vội một khối vàng rồi chạy đi. Người ta bắt anh ta lại và hỏi:

- Tại sao giữa đám đông mà anh lại dám cướp vàng của kẻ khác như thế?

Anh ta trả lời:

- Lúc thấy vàng, tôi đâu còn thấy thiên hạ chung quanh nữa. Trước mặt tôi, chỉ có vàng mà thôi.

Đồng tiền liền khúc ruột nên họ lao mình vào lửa, bất chấp mọi khó khăn gian khổ, bất chấp mọi thủ đoạn mánh mung, cho dù phải chà đạp lên người khác bằng những phương thế bóc lột và bất công, miễn sao vơ vét, vun quén về cho đầy túi tham của mình.

Bài phúc âm hôm nay, thánh Marco nói về việc Chúa Giêsu chiến thắng cám dỗ. Vậy ma quỷ đã cám dỗ Chúa Giêsu điều gì? Thưa, ma qủy đã tìm cách lôi kéo Chuá Giêsu quay lưng lại với Chuá Cha. Từ khước sống vâng phục thánh ý Chúa để được thoả mãn cái bụng của mình. Nó hướng mở cho Chúa một tương lai đầy hứa hẹn không chỉ có của ăn dư đầy từ những hòn đất hòn đá cũng biến thành của ăn, từ sỏi đá cũng thành cơm, mà vượt xa hơn nữa là nắm gọn trong tay thiên hạ, kẻ hầu người hạ và thừa hưởng mọi vinh hoa lợi lộc trần gian. Năm xưa trong vườn địa đàng nó đã thắng ông bà nguyên tổ, khi nó đưa ra những lời dụ dỗ đầy ngọt ngào, đầy hấp dẫn, nhưng hôm nay, màn trình diễn này đã hoàn toàn thất bại bởi người Con duy nhất của Thiên Chúa là Đức Giêsu, Ngài không những đã khước từ những lời mời mọc của ma quỷ nhưng còn cho ma qủy nhận ra rằng không có gì cao qúy hơn là được sống trong tình nghĩa với Thiên Chúa, sống trong sự quy phục Thiên Chúa, vì người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra.

Những cám dỗ mà ma qủy tuy đã thất bại với Chúa Giêsu nhưng nó vẫn dùng những chiêu thức đó để tấn công con người hôm nay. Trước tiên nó gieo vào lòng ta mối nghi ngờ Thiên Chúa, về lòng thương xót và quan phòng của Thiên Chúa. Nó mở ra cho chúng ta một sự so sánh, tính toán thiệt hơn và cuối cùng là đưa ra một con mồi để quyến rũ chúng ta là: danh vọng, tiền tài, địa vị, thú vui. Kết quả là nhiều người vì ham tiền, ham lợi lộc đã trở thành tay sai cho ma qủy, không chỉ mình làm điều ác mà còn lôi kéo, dẫn dụ nhiều người khác đi vào con đường tội lỗi. Ma qủy đã thành công khi sai khiến chúng ta làm sự dữ, là những điều trái với luân thường đạo lý như: trộm cắp, đánh nhau, hận thù ghen ghét, tự cao tự đại... Đó là những mối tội đầu đã gây nên biết bao đau khổ cho chính mình và những người chung quanh.

Ở khởi đầu mùa chay khi cho chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu bị ma qủy cám dỗ, Giáo hội mời gọi chúng ta ý thức về thân phận tội lỗi của mình và sức mạnh của sự dữ, của ma qủy luôn rình rập để lôi kéo chúng ta xa rời Thiên Chúa, đi trong tối tăm của đam mê lầm lạc. Vì thế, chúng ta luôn phải sám hối và tin vào tình yêu của Chuá. Sám hối để nhận ra sự khiếm khuyết của mình mà cầu xin ơn Chuá bổ túc những thiếu sót của chúng ta. Sám hối để canh tân đời sống sao cho phù hợp với tin mừng của Chuá. Sám hối để chúng ta nhận ra sự giới hạn của kiếp người để nhờ ơn Chúa giúp chúng ta sẽ hoàn thiện con người của mình nên thánh thiện tinh tuyền như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện.

Lạy Chuá, Chuá đã dựng nên con giống hình ảnh Chuá. Xin cho con biết gìn giữ phẩm giá con người của mình bằng việc tránh xa những thói hư tật xấu, luôn nói không với tội lỗi và luôn giữ lòng trong sạch để xứng đáng nhìn xem Thiên Chuá. Amen.

 

15.Sự cám dỗ

(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

Nhiều người hôm nay không tin ma quỷ, không tin sự cám dỗ của ma quỷ. Họ cho rằng tội là do mình tự ý phạm. Họ tin vào sự ý thức của con người. Họ không nghĩ đến sự yếu đuối của con người là do ngã lòng chiều theo cám dỗ. Chính do sự mất cảnh giác của cám dỗ nên con người dễ mất mắc sai lầm theo chủ quan, dễ hành động theo bản năng mà không hề kiểm soát hành vi của mình. Đó cũng là điều tệ hại dẫn con người đến mất ý thức về tội. Vì lấy mình làm trung tâm nên luôn cho mình là đúng, luôn biện minh cho hành vi sai trái của mình.

Khi con người mất ý thức về tội là lúc ma quỷ chiến thắng. Nó luôn tìm cách chứng minh không hề có sự hiện của nó. Nó chỉ tác động dưới những hình thức đẹp đẽ, tốt lành để hướng con người hành động theo ý mình. Và điều tệ hại là hành động theo ý mình thì luôn sai lầm vì thích chiều theo bản năng, chiều theo sự dễ dãi mà không cần đến lề luật.

Có một nô bộc da đen hộ tống ông chủ da trắng đi săn vịt trời. Anh ta là một ky-tô hữu. Nhân dịp nói chuyện về vấn đề tôn giáo, ông chủ hỏi người ở da đen:

“Ta chẳng hiểu tại sao mày thường xuyên nói đến tội, đến chống trả cám dỗ, nói đến Ma-quỉ. Ta chẳng phải chống trả Ma-quỉ bao giờ, mà ta vẫn sống tịnh, chẳng bao giờ bị quấy phá hoặc tấn công chi cả”

Người ở da đen trả lời lại: “Tôi xin phép được giải thích việc này. Chúng ta đang đi săn vịt. Những con nào bị ông bắn và chết liền khi rơi xuống, thì tôi để yên đó. Nhưng con nào chỉ bị thương khi rơi xuống và tìm cách chạy trốn, thì tôi dùng sào này mà phang cho chết hoặc không nhúc nhích được mới thôi”.

Ông ví như vịt đã bị Ma-quỉ bắn chết rồi, nên nó để yên ông; còn tôi ví như con vịt mới bị thương và đang tìm cách trốn thoát, do đó Ma quỉ đang giơ sào và tìm mọi cách đập tôi cho thật chết mới thôi.

Ma quý cám dỗ là sự thật. Ma quỷ luôn tìm cách cám dỗ con người đi nghịch lại với đường lối Thiên Chúa. Chúa Giê-su cũng từng bị cám dỗ. Ma quỷ đã bủa vây Chúa Giê-su bằng nhiều lời hứa đường mật, nhưng luôn theo một chủ đích là từ bỏ Chúa Cha để hành động theo ý mình. Quả thực, trên đời chẳng có gì cho không. Ai cho chúng ta điều gì thì thường họ cũng muốn đòi lại chúng ta một điều nào đó, huống hồ là ma quỷ, nó sẽ không bao giờ cho không chúng ta.

Năm xưa trong vườn địa đàng ma quỷ đã chiến thắng Adam-Eva, khi hai ông bà quay lưng lại với Thiên Chúa. Ma quỷ cũng chiến thắng dân Chúa chọn trên hành trình đất hứa khi thờ bò vàng để tìm kiếm miếng ăn. Nhưng ma quỷ đã hoàn toàn thất bại trước Con Thiên Chúa làm người. Chúa Giê-su đã nhắc ma quỷ phải tuân phục Thiên Chúa. Ngài cũng nhắc ma quỷ cuộc sống này cái ăn cái mặc đáng quý nhưng thực thi ý Chúa còn quý hơn nữa.

Hôm nay khởi đầu mùa chay, Chúa Giê-su mời gọi chúng ta hãy sám hối. Sám hối vì đã có những lần chúng ta quay lưng lại với Thiên Chúa. Sám hối vì đã có những lần chúng ta chiều theo cám dỗ của ma quỷ mà hành động theo tính xác thịt, thiếu tự chủ bản thân. Sám hối là nhìn nhận sự yếu đuối của mình để trông cậy lòng thương xót và ân sủng của Thiên Chúa. Chỉ trong Thiên Chúa chúng ta mới có thể chiến thắng cám dỗ, chiến thắng những yếu đuối của bản thân.

Xin Chúa Giêsu là Đấng đã chiến thắng cám dỗ ban ơn sức mạnh để chúng ta vực dậy sau những lần vấp ngã, và canh tân đời sống theo tin mừng. Xin cho chúng ta đừng bao giờ tự phụ về khả năng tự chủ của mình nhưng luôn khiêm tốn trông cậy vào ơn Chúa giúp để nói không với sự xấu, với điều nghịch lại với lề luật của Chúa. Amen.

 

16.Sống hai mặt

(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

Người ta nói: “Tri nhân tri diện bất tri tâm”, nghĩa là: Biết mặt thôi chứ không dễ gì biết được lòng nhau. Sống bên nhau gọi tên nhau thì dễ mà đi vào lòng nhau lại càng khó biết bao! Không biết có phải vì cuộc sống “thật thà thì thua thiệt” khiến con người luôn tìm cách che đậy sự thật hay chỉ là thói đời thích sống hai mặt theo kiểu “đi với Chùa mặc áo cà sa - đi với ma mặc áo giấy”?

Dẫu sao thì biết mặt nhưng rất khó biết lòng như ai đó đã nói:

“Biết mặt khó biết được lòng

Đôi khi quanh quẩn một vòng bon chen”.

Đôi khi xoáy giữa sang hèn

Lòng người thay trắng đổi đen bất ngờ

Cũng như “đồng tiền có hai mặt” thì hình như con người cũng thích sống theo kiểu hai mặt. Họ nói một đàng làm một nẻo. Họ bên ngoài thân thiện nhưng đầy toan tính thủ đoạn hại người. Điều đáng tiếc là nhiều người Công Giáo chúng ta cũng sống như vậy! Một mặt họ mang danh ky-tô giáo, họ đi lễ, họ đọc kinh, họ tham gia đoàn hội, nhưng ở giữa dòng đời thì họ lại bộc lộ một khuôn mặt trâng tráo, gian ngoa, luôn lường gạt và gây chia rẽ hận thù... Họ mang danh Công giáo nhưng không bộc lộ đặc tính người Công giáo là yêu thương, họ sẵn sàng vu khống đổ vạ cáo gian anh em. Họ là con Chúa nhưng lại sống như thể con cái của ma quỷ chuyên phỉnh lừa, dối gian, điêu ngoa...

Đây là lối sống mà Chúa đã từng nặng lời là bọn Pha-ri-sêu giả hình. Bên ngoài thì đọc kinh nhưng chẳng tích đức đời sau. Điều mà Chúa muốn nơi con cái của Chúa phải biểu lộ dung nhan là con cái sự sáng khi sống công bình, bác ái và yêu thương. Hãy làm cho phẩm giá làm con Chúa được thể hiện trên khuôn mặt hiền từ và bao dung. Hãy tỏ lộ dung nhan giống hình ảnh Chúa nơi cuộc sống không lệ thuộc đam mê tội lỗi, nhưng luôn sống trong tự do đích thực.

Hôm nay, lễ Chúa hiển dung nghĩa là Chúa tỏ hiện đúng dung nhan thật của Ngài. Một dung nhan thánh thiện rạng ngời mà bấy lâu nay nhân tính đã che phủ thiên tính của Ngài. Một dung nhan tinh tuyền của một vì Thiên Chúa là Thánh, ngàn trùng chí thánh đến nỗi cả ba môn đệ đều ngây ngất vì được chiêm ngắm dung nhan thật của Thầy Giêsu. Ba môn đệ đã cúi mình kính phục trước dung nhan thật của Chúa Giêsu. Đó chính là sứ điệp mà mùa chay đang mời gọi chúng ta: hãy tỏ hiện dung nhan là hình ảnh của Thiên Chúa ra trong lời nói và việc làm của mình. Hãy thể hiện sự thánh thiện của hình ảnh Thiên Chúa nơi chính mình để anh em được chiêm ngưỡng. Hãy biểu lộ lối sống tinh tuyền, chân thật của phẩm giá làm ngừơi để anh em được hạnh phúc khi sống với chúng ta.

Mùa chay là mùa mời gọi chúng ta hãy tìm lại hình ảnh ban đầu của tạo dựng. Hãy gạn đục khơi trong để hình ảnh của Chúa luôn tỏ hiện ra nơi bản thân của chúng ta. Hãy tìm lại hình ảnh tinh tuyền ban đầu của mình, một hình ảnh chưa bị lòng ham muốn danh lợi thú làm hoen ố, mới thấy phẩm giá cao đẹp của con người thật cao qúy hơn muôn loài. Có ý thức được sự cao qúy nơi phẩm giá làm người mới biết trân trọng và gìn giữ cho mình và cho anh em. Phẩm giá con người cao qúy hơn mọi danh lợi thú trần gian, thế nên đừng bao giờ vì một chút bổng lộc trần gian, một chút vui sướng mau qua mà đánh mất phẩm giá của mình và làm tổn thương đến phẩm giá của tha nhân.

Xin Chúa giúp chúng ta can đảm tẩy rửa những bợn nhơ tội lỗi làm hoen ố lương tri, và xin Chúa thêm ơn trợ giúp để chúng ta luôn gìn giữ nét đẹp nơi phẩm giá làm người của mình và của tha nhân. Amen.

 

17.Say nắng trong tình yêu

(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

Có một Status ‘Say nắng’ viết thề này:

“Số phận đã cho chúng ta vô tình lướt qua nhau nhưng lại không trao cho chúng ta quyền được yêu nhau. Em không trách anh, cơn say nắng của em. Vì tất cả là do lỗi của em dại khờ. Em sẽ nhớ đến anh, người đã làm cho em say nắng và chao đảo mọi thứ vì cơn say nắng đó. Chúc anh luôn vui và hạnh phúc. Chúc cho em sớm thoát khỏi mê cung do mình tự dựng nên.

Ai trong đời cũng từng có vài lần say nắng, rồi thời gian sẽ chữa lành vết thương. Ai cũng có một hiện tại đáng trân trọng, đừng để chút ngọt ngào giữa dòng đời cám dỗ. Vợ anh tốt, và chồng em cũng vậy. Chúng ta không thể có lỗi với họ. Say nắng thôi anh nhé! Tình yêu đích thực hay say nắng chỉ là cơn say nắng”

Lần đầu tiên tôi được nghe từ “say nắng” từ một cô gái kể chuyện chồng bị “say nắng”. Cô ta nghĩ rằng chồng cô khi tiếp xúc bên ngoài phải gặp nhiều người thì cũng có thể “say nắng” ai đó là chuyện bình thường. Nhưng rồi không phải vậy, chồng cô đã phản bội cô thật, chứ không chỉ là say nắng một chút rồi sẽ tỉnh lại để về với vợ con.

Hóa ra “say nắng” là căn bệnh của những người đã có gia đình nhưng lại đem lòng tương tư một ai đó. Tìm cách làm quen, nhắn tin, hẹn hò ăn tối, nghe nhạc... Dù có thể chưa đi tới sự phản bội nhưng nó cũng đủ làm cho người “say nắng” bỏ bê gia đình để đi tìm niềm vui riêng.

Vốn dĩ tình yêu là "mù quáng". Bởi vậy khi yêu, ai cũng có thể trở nên "ngu muội". Vì khi trong tim mình, trong mắt mình chỉ cần người mình yêu là đủ thì người ta dễ quên cả lối về. Khi yêu người ta không sống bằng lý trí mà là bằng con tim chỉ lao vào vòng tay của nhau và vượt qua mọi rào cản của đạo lý.

Xem ra trung thành tuyệt đối với tình yêu thật khó. Bởi vì hằng ngày ta phải tiếp xúc với bao nhiêu người rất đẹp, rất dễ thương, rất chiều chuộng khiến ta dễ bị say nắng. Nếu không hồi tỉnh và một lúc nào đó cơn say sẽ dẫn ta vào con đường lạc lối lúc nào chẳng hay.

Trong tương quan với Thiên Chúa càng khiến con người dễ “say nắng” bởi những cám dỗ trần gian. Có biết bao cám dỗ bởi tiền, bởi tình, và bởi quyền khiến ta say nắng chỉ nghĩ và tơ tưởng về nó. Có khi cơn say khiến ta quên cả luật Chúa để lao vào cơn say của danh lợi thú. Cơn say nào rồi cũng tỉnh nhưng hậu quả của nó đôi khi khiến ta mất hết tất cả: danh dự, gia đình và của cải. Khi tỉnh ngộ đôi khi đã quá muộn màng.

Trong năm 2017, dư luận như sôi lên sau khi một người phụ nữ ở Bình Dương khai nhận đã giết rồi chặt xác chồng thành nhiều mảnh. Đấy là một câu chuyện thực sự rùng rợn, nếu xét về tình tiết và hành động, nhưng xét cho cùng, thì với bất cứ lý do gì, đấy là một kết cục rất buồn, với sự tan nát của một gia đình, với cái chết của một người, và người kia đối diện với tù tội và tòa án lương tâm. Người phụ nữ này dám làm điều ác cũng từ cơn say tình dẫn đến chuyện gì cũng dám làm.

Hôm nay khởi đầu mùa chay, Chúa Giê-su mời gọi chúng ta hãy sám hối. Sám hối vì đã có những lần chúng ta “say nắng” mà bỏ nhà thờ, bỏ bê bổn phận với gia đình. Sám hối vì đã có những lần chúng ta chiều theo cám dỗ của ma quỷ mà hành động theo tính xác thịt, thiếu tự chủ bản thân. Sám hối là nhìn nhận sự yếu đuối của mình để trông cậy lòng thương xót và ân sủng của Thiên Chúa. Chỉ trong Thiên Chúa chúng ta mới có thể chiến thắng cám dỗ, chiến thắng những yếu đuối của bản thân.

Xin Chúa Giêsu là Đấng đã chiến thắng cám dỗ ban ơn sức mạnh để chúng ta biết chế ngự cơn say của mình, dẫu biết rằng cám dỗ vẫn luôn có nhưng quan yếu là dám từ khước để sống trung thành với Chúa. Xin cho các gia đình trẻ đang khi phải bươn trải với cuộc sống mưu sinh nhưng luôn biết chế ngự cơn say của mình, để đừng vì “say nắng” ai đó mà phá vỡ hạnh phúc gia đình. Xin cho chúng ta đừng bao giờ tự phụ về khả năng tự chủ của mình nhưng luôn khiêm tốn trông cậy vào ơn Chúa giúp để nói không với sự xấu, với điều nghịch lại với lề luật của Chúa. Amen.

 

18.Ba cạm bẫy của ma quỷ

(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

Người ta nói rằng cư dân miền Bắc Cực có cách bẫy chó sói rất độc đáo. Họ mài những con dao thật bén, rồi đem nhúng dao đó vào máu súc vật cho đến khi lưỡi dao bọc toàn máu. Đêm đến, họ đem dao đó cắm ngoài đồng. Chó sói thính hơi nghe mùi máu, chạy đến liếm lưỡi dao tới tấp. Đến khi chính lưỡi nó bị dao cắt đứt, máu chảy ra, nó vẫn mải mê cắm đầu liếm mà không biết mình đang liếm máu mình cho tới lúc kiệt sức ngã lăn ra chết.

Con sói vì khát máu mà chết. Con người chúng ta đôi khi cũng khát tiền, khát tình, khát danh vọng, quyền lực mà chết. Quả đúng là “mật ngọt chết ruồi”. Danh lợi thú luôn là cạm bẫy của ma quỷ vây bắt linh hồn con người. Con người chúng ta đôi khi cũng vì những hào nhoáng bên ngoài mà vướng vào cạm bẫy của ma quỷ. Con người chúng ta đôi khi cũng đang bị chết dần mòn trong những đam mê cuồng si của mình. Bài phúc âm hôm nay cho chúng ta thấy sự chọn lựa dứt khoát của Chúa Giê-su trước những cạm bẫy của ma quỷ. Ngài không lập lờ nước đôi. Ngài cũng không tìm thoả hiệp với ma quỷ. Ngài luôn chọn lựa Chúa và ý Chúa Cha để sẵn lòng loại bỏ những gì nghịch với ý định của Thiên Chúa Cha. Ngài đã chiến thắng cám dỗ nhờ tình yêu trung tín với Chúa Cha. Ngài đã tín thác hoàn toàn vào Chúa Cha đến nỗi “lương thực của Ngài chính là thi hành ý muốn Chúa Cha.

Kính thưa, Quý OBACE

Ba cám dỗ mà Chúa Giêsu đã chiến thắng cũng là ba cám dỗ mà ma qủy vẫn tiếp tục gieo vào tâm hồn con người hôm nay.

Cám dỗ thứ nhất đó chính là của cải và cơm bánh hằng ngày. Cha ông ta vẫn nói:

“Có làm thì mới có ăn

Không dưng ai dễ mang phần cho ta”

Đó chính là sự công bằng đích thực. Có làm có hửơng. Có những ngày tháng lặn lội ngược xuôi bôn ba nơi chốn chợ hay dầm mưa dãi nắng nơi nương đồng mới có ngày nhàn hạ hưởng dùng hoa trái mình làm nên. Nhiều người đã không ý thức điều đó. Vì thói tham lam và lười biếng họ muốn “ngồi nhà mát ăn bát vàng”. Họ đang tâm làm giầu bằng thủ đoạn, bằng lừa gạt. Họ vì tiền mà đánh mất tình bạn. Họ vì miếng cơm manh áo mà đánh mất lương tri. Họ muốn biến đá thành bánh mà chẳng cần lao động cực nhọc. Lòng tham đã khiến họ quên đi phẩm giá cao đẹp của loài người là hình ảnh của Thiên Chúa, thế nên cần phải tìm kiếm những gì cao siêu hơn là những miếng bánh mau hư nát và cũng chẳng bao giờ thoả mãn lòng tham con người.

Cám dỗ thứ hai chính là tính đòi hỏi người khác phục vụ cho những đam mê sở thích của mình. Đó là lối sống hưởng thụ và thác loạn. Ngày nay người ta vẫn sợ các cậu ấm cô chiêu. Con của những người giầu có và quyền thế. Từ nhỏ đã được cha mẹ cưng phụng, chiều chuộng nên chỉ biết đua đòi, phóng khoáng. Sống ngông cuồng đến độ bất tuân phục lề luật. Sống hành xử theo ý mình, cho dù đó là những trò mạo hiểm gây hại cho bản thân và cho đồng loại như: xì kè, ma túy, mại dâm, đua xe, lạng lách... Đó chính là con đường mà ma qủy đã gieo vào lòng người: “cứ gieo mình xuống đi.... và mọi sự sẽ có các thiên sứ lo liệu...”. Lời Chúa hôm nay là lời nhắc nhở họ: “chớ thử thách Thiên Chúa”. Thiên Chúa là Đấng công thẳng. Mọi việc con người làm hôm nay đều phải trả lẽ trước mặt Chúa trong ngày sau nơi toà phán xét chí công của Thiên Chúa.

Cám dỗ thứ ba chính là lòng tự mãn, kiêu căng của con người. Ma qủy luôn cám dỗ con người “coi trời bằng vung”. Họ hành động như thể không có Thiên Chúa. Họ sống theo ý mình, tệ hại nhất chính là sự nuông chiều theo những đam mê sở thích của mình. Ma qủy luôn làm cho con người cảm thấy thoả thích trong những vinh hoa phú qúy trần gian. Nó dẫn con người đi trong những đam mê bất chính, những hưởng thụ lầm lạc. Con người vì kiêu căng muốn hưởng thụ tất cả nên dễ dàng bỏ Chúa, bỏ lề luật để tôn thờ những con bò mộng, lợn vàng là danh lợi thú trần gian. Tôn thờ những tạo vật thấp hèn nên con người cũng có những lối hành xử đê tiện và thấp hèn.

Chúa Giêsu Ngài đã chiến thắng ba cám dỗ đó trên nền tảng căn tính của con người. Con người là hình ảnh Thiên Chúa và vượt xa muôn loài thụ tạo nên chẳng có vật gì đáng cho con người phải bán rẻ lương tâm để tôn thờ. Chỉ có Thiên Chúa là Đấng đã tạo dựng nên con người, mới đáng để con người phải cúi mình tôn thờ. Thế nên, chỉ khi con người sống tôn thờ Thiên Chúa, con người mới sống đúng phẩm giá của mình hơn, vì “nhân linh ư vạn vật”. Chỉ khi con người thoát ra khỏi sự ràng buộc khỏi những tham sân si, con người mới sống an bình hơn.

Ước gì Mùa chay sẽ giúp chúng ta tìm lại đúng phẩm gía cao đẹp của chính mình. Xin Chúa Giêsu là Đấng đã chiến thắng sự dữ nâng đỡ và giúp chúng ta chiến thắng những cám dỗ đang đeo đuổi và ràng buộc tâm hồn chúng ta. Xin Chúa giúp cho mỗi người chúng ta biết thanh luyện chính mình để mỗi ngày nên hoàn thiện như cha chúng ta ở trên trời là Đấng hoàn thiện. Amen.

 

19.Cạm bẫy

(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’ - Thiên Phúc)

Người Eskimo bắc cực có một cách bẫy chó sói rất độc đáo để lấy bộ lông áo da thú.

Thợ săn cáo mài một con dao thật sắc, lưỡi dao mỏng và bén đến độ chỉ cần vuốt nhẹ là cắt da lòi thấu xương. Họ nhúng con dao ấy vào trong máu súc vật, rồi đem ra ngoài trời tuyết lạnh cho máu đông lại. Họ làm như thế nhiều lần cho đến khi con dao bọc toàn máu.

Khi trời nhá nhem tối, họ đem ra cắm ngoài cánh đồng tuyết. Với cái mũi rất thính của loài sói bắc cực, nó đánh hơi mùi máu tươi đông lạnh. Vội vàng chạy tới liếm lấy liếm để, liếm tới tấp, liếm điên cuồng cho đến khi lưỡi mình đã bị dao cắt đứt mà vẫn sung sướng liếm dòng máu tươi, không hề biết mình đang liếm máu của chính mình.

Càng say máu, sói càng liếm cuồng điên, cho tới khi kiệt sức rồi lăn ra mà chết.

***

Mùa chay là thời gian hồi tâm, trở về với Chúa để định hướng cho tương lai. Mùa chay cũng là lúc dừng lại, để nhận ra những cám dỗ đang rình rập, những cạm bẫy đang bủa vây. Con cáo vì ham liếm máu tươi, mất cảnh giác nên đã không nhận ra được cạm bẫy chết người. Nếu cuộc đời là một chuỗi những chọn lựa, thì nó cũng là một chuỗi những cám dỗ.

Xã hội càng văn minh tiến bộ, con người càng gặp nhiều cám dỗ. Cám dỗ của thân xác đòi hỏi, hưởng thụ và chiếm đoạt. Cám dỗ của con tim mùa quáng, đam mê và phóng túng. Cám dỗ của đầu óc cao ngạo, hám danh và trục lợi. Sống là một cuộc chiến đấu không ngừng. Chiến đấu với những cám dỗ khêu gợi, mời mọc, kích thích giác quan. Bao nhiêu giác quan là bấy nhiêu cánh cửa mở ra trước cạm bẫy.

Sự bất ổn của nền văn minh hiện đại, và ảo ảnh của tương lai vẫy gọi, khiến chúng ta cứ trượt dài trên con dốc tội lỗi. Người tín hữu khôn ngoan luôn cảnh giác những cạm bẫy như thủy lôi trôi trên giòng đời.

Chính Đức Kitô đã phải liên tục đối phó với các cơn cám dỗ: “Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ” (Mc 1,13). Đây không phải là cám dỗ một lần thay cho một đồi, nhưng là cuộc cám dỗ triền miên trọn cả kiếp người. Wendell Philips viết: “Kitô giáo là một trận chiến, chứ không phải là một giấc mơ”.

Nếu đời người như cây sậy trước gió, dễ ngả nghiêng trước bao cuốn hút, chúng ta càng phải biết nương tựa vào một mình Chúa.

Nếu người đời tôn thờ khoái lạc, xa hoa hưởng thụ chúng ta càng phải biết chay tịnh cõi lòng.

Nếu thế giới đầy hình ảnh vẩn đục, phô bày thân xác, chúng ta càng phải biết giữ gìn con mắt.

Có biết bao người mơ ước hy sinh cuộc đời nhưng lại không biết hy sinh những tật xấu của mình. Leon Tolstoi viết: “Mọi người đều nghĩ đến chuyện thay đổi nhân loại, nhưng không ai nghĩ đến chuyện thay đổi chính mình”. Vì chưng, có một sự thật nhức nhối này, là canh tân người khác luôn luôn dễ hơn hoán cải chính mình.

***

Lạy Chúa, Chúa đã chiến thắng những cơn cám dỗ của Satan, xin giúp chúng con can đảm lướt thắng những cạm bẫy trong cuộc đời.

Xin cho chúng con luôn xác tín rằng chỉ có Chúa mới là niềm vui và là hạnh phúc đích thực của đời chúng con. Amen.

 

20.Sám hối thì được cứu rỗi

(Suy niệm của Anmai, CSsR)

Mở đầu những trang Thánh Kinh, chúng ta thấy trình thuật Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ trời đất muôn loài muôn vật. Đỉnh điểm của công trình tạo dựng của Thiên Chúa đó là Thiên Chúa đã dựng nên con người giống hình ảnh của Ngài. Không chỉ dựng nên giống hình ảnh mình mà thôi, Thiên Chúa còn cho con người được ơn, được quyền sử dụng tất cả những tạo vật mà Chúa đã dựng nên ấy. Thiên Chúa một mực yêu thương con người ngay từ những ngày đầu tạo thiên lập địa nhưng con người, con người mãi quay lưng lại với Thiên Chúa.

Cũng ngay những chương đầu của sách Sáng Thế, chúng ta thấy Thiên Chúa ban đầu cảm thấy vui khi tạo dựng con người. Thế nhưng, chẳng được bao lâu, con người cứ mãi hận thù, ganh tỵ, chém giết lẫn nhau như Ca-in đã giết A-ben em mình. Không chỉ có như vậy mà lòng con người cũng bắt đầu thay đổi. Lòng con người không được như trước nữa mà lòng con người đã trở nên chai đá trước tình yêu của Thiên Chúa. Sách Sáng Thế đã ghi lại: "Đức Chúa thấy rằng sự gian ác của con người quả là nhiều trên mặt đất, và lòng nó chỉ toan tính những ý định xấu suốt ngày. Đức Chúa hối hận vì đã làm ra con người trên mặt đất, và Người buồn rầu trong lòng. Đức Chúa phán: "Ta sẽ xoá bỏ khỏi mặt đất con người mà Ta đã sáng tạo, từ con người cho đến gia súc, giống vật bò dưới đất và chim trời, vì Ta hối hận đã làm ra chúng."(St 6, 5-7)

Giận thì giận mà thương thì thương. Thiên Chúa thấy Nôê là người công chính nên Ngài đã thương và Ngài đã bày tỏ tình thương của Ngài với Nô-ê và gia đình của ông.

Như sách Sáng Thế đã thuật lại, chúng ta thấy Thiên Chúa giận thì có giận đấy nhưng mà Ngài không nỡ bỏ con người. Ngài vẫn chờ đợi sự hoán cải, sự hối lỗi của con người.

Nhìn vào Thiên Chúa và con người, cách hành xử của Thiên Chúa và con người chúng ta thấy rất ư là buồn cười. Con người thì cứ mãi miết đi trong tăm tối, đi trong tội lỗi còn Thiên Chúa thì cứ mãi biểu lộ tình thương, sự tha thứ của mình. Một trong những người cảm nhận được lượng từ bi lân tuất, tình yêu thương hải hà của Thiên Chúa đó chính là vua Đa-vít. Vua Đa-vít hơn một lần đã dâng lời chúc tụng Chúa, chúc tụng về tình thương bao la của Thiên Chúa:

Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi,

toàn thân tôi, hãy chúc tụng Thánh Danh!

Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi,

chớ khá quên mọi ân huệ của Người.

Chúa tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi,

thương chữa lành các bệnh tật ngươi.

Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt,

bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà,

ban cho đời ngươi chứa chan hạnh phúc,

khiến tuổi xuân ngươi mạnh mẽ tựa chim bằng.

Chúa phân xử công minh,

bênh quyền lợi những ai bị áp bức,

mặc khải cho Mô-sê biết đường lối của Người,

cho con cái nhà Ít-ra-en

thấy những kỳ công Người thực hiện.

Chúa là Đấng từ bi nhân hậu,

Người chậm giận và giàu tình thương,

chẳng trách cứ luôn luôn,

không oán hờn mãi mãi.

Người không cứ tội ta mà xét xử,

không trả báo ta xứng với lỗi lầm.

Như trời xanh trổi cao hơn mặt đất,

tình Chúa thương kẻ thờ Người cũng trổi cao.

Như đông đoài cách xa nhau ngàn dặm,

tội ta đã phạm, Chúa cũng ném thật xa ta.

Như người cha chạnh lòng thương con cái,

Chúa cũng chạnh lòng thương kẻ kính tôn. (Tv 103, 1-13)

Thiên Chúa là Cha hay thương xót, chạnh lòng thương và chờ đợi con người đáp trả.

Trở về với trường hợp của Nô-ê. Thiên Chúa giận, Ngài đã quyết định số phận mọi xác phàm và rồi Ngài bảo Nô-ê chuẩn bị cho quyết định ấy. Nô-ê tin tưởng vào lời của Thiên Chúa và ông đã thực hiện những gì Thiên Chúa bảo ông làm. Nếu như ông không tin tưởng và không kiên nhẫn chờ đợi trong trong 150 ngày thì số phận của ông cũng như những người kia. Thiên Chúa không những cứu sống cho đại gia đình của Nô-ê mà Thiên Chúa còn chúc phúc cho đại gia đình ấy nữa.

Để được sống, được hưởng chúc như ông Nô-ê không đơn giản như chúng ta nghĩ. Phải thật kiên nhẫn, phải thật tin tưởng, phải thật tín thác cuộc đời mình trong tay Chúa. Đâu có đơn giản để sống 150 ngày lênh đênh trên sóng nước? Phải chiến đấu, phải đối diện với biết bao nhiêu gian nan khốn khó của cuộc đời thì gia đình của Nô-ê mới được đi vào trong vinh quang với Thiên Chúa.

Trong thư của mình, Thánh Phêrô nhắc nhở mỗi người chúng ta về ơn cứu độ, về sự phục sinh vinh hiển của Chúa Giêsu. Ngài viết: "Chính Đức Ki-tô đã chịu chết một lần vì tội lỗi - Đấng Công Chính đã chết cho kẻ bất lương - hầu dẫn đưa chúng ta đến cùng Thiên Chúa. Thân xác Người đã bị giết chết, nhưng nhờ Thần Khí, Người đã được phục sinh" (1 Pr 3, 18-19). Đức Kitô muốn vào vinh quang phục sinh với Cha của Ngài, Ngài cũng phải trải qua nhiều đau khổ và nhất là phải đón nhận cái chết và cái chết tủi nhục trên thập giá. Chúng ta thừa biết rằng, cuộc đời của Chúa Giêsu, từ khi sinh ra cho đến khi chịu chết, Ngài phải chấp nhận biết bao nhiêu đau khổ.

Để thi hành sứ vụ rao giảng công khai của mình về Nước Trời, Chúa Giêsu đã phải đối diện với biết bao nhiêu đau khổ, biết bao nhiêu là thử thách.

Để bắt đầu sứ vụ, Chúa Giêsu đã vào hoang địa để chịu sự cám dỗ của ma quỷ. Không đơn giản để vượt qua những cám dỗ đó dẫu đó là Chúa Giêsu. Chúa Giêsu cũng mang trong mình phận của một con người yếu đuối, mỏng dòn, cũng biết cảm thương, cũng biết giận, biết hờn... Chúa Giêsu cũng có trong mình cảm nghĩ về sự đau khổ, về sự thử thách mà chúng ta đã từng được nghe Thánh Kinh thuật lại. Chúa Giêsu cầu xin với Chúa Cha là cất khỏi Ngài chén đắng mà Chúa Cha trao ban nhưng xin đừng theo ý của Ngài nhưng là theo ý Cha. Với tâm tình đó, chúng ta thấy Chúa Giêsu cũng quá vất vả, quá khó khăn khi đối diện với ma quỷ, với cám dỗ. Thế nhưng, chung cuộc, kết cục của cơn cám dỗ mà ma quỷ đưa ra đó Chúa đã thắng.

Tại sao Chúa đã thắng được những cơn cám dỗ của ma quỷ? Chúa đã sống kết hợp mật thiết với Cha, Chúa đã cầu xin Chúa Cha ban ơn cho mình và đặc biệt Chúa Giêsu đã hoàn toàn tin tưởng và phó thác cuộc đời mình trong tay của Cha. Hơn một lần chúng ta nghe Chúa Giêsu thỏ thẻ với Cha: "Lạy Cha! Nếu có thể được xin Cha cấy cho con khỏi chén này nhưng xin theo ý Cha chứ đừng theo ý con". Qua câu thỏ thẻ ấy, chúng ta thấy tâm tình của Chúa Giêsu như thế nào. Chúa Giêsu cũng như mỗi người chúng ta, Ngài phải đón nhận những cơn cám dỗ của cuộc đời nhưng Ngài đã thắng.

Bước vào Mùa Chay Tịnh, chúng ta bước vào hoang địa với Chúa Giêsu để sống thời gian đặc biệt: Thời gian sám hối.

Đừng như một số người suy nghĩ về cuộc đời họ thường nói là "kệ nó! tới đâu thì tới!" hay là "sao cũng được!". Nếu nghĩ như thế, nếu nói như thế thì chẳng còn gì phải bàn, phải bận tâm nữa. Cuộc đời con người mau qua chóng tàn, nay còn mai mất. Mất và tàn ấy không phải là chuyện của chúng ta mà là của Thiên Chúa. Và nếu như người khôn ngoan thật thì luôn luôn hướng đến ngày mau qua chóng tàn ấy để cân chỉnh cuộc đời của mình cho tốt hơn.

Chúa luôn luôn chờ đợi, Chúa luôn luôn bao dung tha thứ. Phần chúng ta là ăn năn sám hối, sửa đổi cuộc đời.

Mùa Chay là mùa thuận tiện, mùa cơ hội để chúng ta hồi tâm quay về với Chúa là Cha giàu lòng thương xót.

Nguyện xin Chúa là Cha giàu lòng thương xót thương mở rộng vòng tay ra để ôm chầm chúng ta là những con người tội lỗi biết quay về với Chúa.

 

21.Chúa Nhật 1 Mùa Chay

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)

ĐỨC GIÊSU CHIA SẺ THÂN PHẬN CON NGƯỜI

Chúng ta đang ở trong Chúa Nhật thứ nhất mùa chay. Giáo Hội giúp chúng ta cảm nhận tình yêu Thiên Chúa với chúng ta qua việc nhìn ngắm Đức Giêsu sống thân phận con người.

I. Cám dỗ nơi con người và nơi Đức Giêsu

Đức Giêsu mà cũng bị cám dỗ sao?

Ngài chấp nhận sống với dã thú sao?

Là người, nghĩa là, với thể xác và tinh thần, con người luôn có thể bị cám dỗ. Ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm về điều này.

Cám dỗ là khuynh chiều đòi thỏa mãn những đòi hỏi của thân xác và của tinh thần, không muốn đáp trả tiếng gọi từ trên. Chẳng hạn người ta nhận thấy nơi mình những đòi hỏi của thân xác về tính dục hay khuynh hướng muốn mình giầu hơn người khác, hoặc những đòi hỏi của tinh thần muốn mình trổi trang hơn người khác...

Khuynh chiều đi tìm và dừng lại nơi danh lợi tiền bạc địa vị, không muốn vươn lên điều tốt hơn nhưng dừng lại ở cái tầm thường, đó là những cám dỗ thường xảy ra trong đời mỗi người.

Muốn trổi trang, không là tội, nhưng còn là điều tốt. Chỉ xấu, chỉ là tội, khi mình coi mình là nhất, đòi mình trên người khác hoặc trên Thiên Chúa, và xúc phạm người khác.

Không ai thoát cám dỗ, nhưng con người tự do trước cám dỗ, con người có thể không thuận theo cám dỗ. "Ví thử đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai?". "Ơn Ta đủ cho con" (2Cor.12, 8-9).

Chúa không hứa cho chúng ta khỏi bị cám dỗ, nhưng Chúa hứa sẽ giải phóng chúng ta, nếu chúng ta bám vào Ngài: "cứ xin thì được, tìm sẽ gặp, gõ cửa thì sẽ được mở cho" (Mt.7,7).

Thiên Chúa là tinh thần, Ngài mời gọi con người vươn lên Ngài qua những giá trị tinh thần con người thấy được qua lý trí.

II. Phép rửa khởi đầu đời sống mới

Dù chúng ta có thuộc về thế gian và ma qủy trong những chọn lựa ở qúa khứ, thì bây giờ Thiên Chúa mời gọi chúng ta trở lại, để chúng ta khởi đầu một đời sống mới, hầu chúng ta sống hạnh phúc.

Đức Giêsu đã chịu phép rửa ở sông Yordan (Mc.1, 9), và Ngài cũng đã chịu một phép rửa rất đặc biệt (Lc.12, 50). Mỗi người chúng ta cũng đã chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu, nhân danh Ba Ngôi Thiên Chúa (Mt.28, 19), chính phép rửa này đã làm chúng ta thành một thụ tạo mới.

Phép rửa đã làm chúng ta thuộc trọn về Thiên Chúa, chúng ta là tạo vật mới, được được Thiên Chúa cứu chuộc qua Đức Giêsu Kitô. Nhận phép rửa nhân danh Đức Giêsu, là dìm mình trong cái chết của Ngài và sống lại trong sự sống của Ngài.

Với phép rửa, Thiên Chúa ghi ấn tín trong tâm hồn chúng ta, dấu chỉ chúng ta thuộc về Thiên Chúa, chúng ta được Thiên Chúa yêu thương.

III. Giao ước biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa

Con người là gì mà Thiên Chúa phải ký kết giao ước với! Chẳng lẽ người nặn bình gốm lại phải ký kết với bình gốm?

Thiên Chúa ký kết giao ước với con người, để không bao giờ tiêu diệt con người nữa! Ôi tình yêu của Thiên Chúa đối với con người thật tuyệt vời biết bao. Những gì Thiên Chúa đã nói, thì Ngài trung thành thực hiện, không bao giờ thất tín. Ngài vẫn trung thành dù con người có bất trung phản bội.

Tình thương của Thiên Chúa đối với con người, được thể hiện trong suốt dòng lịch sử. Lịch sử ghi dấu con người phản bội, nhưng lịch sử lại ghi dấu tình thương nhân từ tha thứ cho con người. Lịch sử, là lịch sử Thiên Chúa cứu độ con người.

Lịch sử đánh dấu những giao ước Thiên Chúa thực hiện đối với con người. Lịch sử cũng cho thấy Thiên Chúa điều khiển dòng lịch sử, can thiệp vào lịch sử dân Do thái để cứu dân, và qua đó cứu độ tất cả loài người.

Biến cố Đức Giêsu Kitô, là biến cố đỉnh cao cho thấy tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Cũng với chính Đức Giêsu, con người tìm được con đường để nên thánh, con người được bảo đảm mình được yêu thương và sẽ là thánh, được thuộc trọn về Thiên Chúa.

Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể làm người. Ngài bị cám dỗ, Ngài vượt qua, "Ngài là đường, là sự thật và là sự sống". Ngài là thầy, và không có Ngài, không có ai là thầy đích thực. Nếu có ai trên trần gian này là thầy, là người đó được tham gia "chức thầy" của Đức Giêsu.

Chúa Giêsu là mẫu mực, là thầy dạy của chúng ta. Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta được theo gương Ngài, được hoàn toàn tin tưởng và phó thác tất cả cho Ngài.

 

22.Hãy sám hối

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)

Lời rao giảng đầu tiên của Đức Yêsu: “Thời điểm đã đến, Nước Trời đã gần bên, hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.”

1. Đã đến thời: đây là thời ân sủng, đây là ngày cứu độ

Ngày xưa thời Noah, Thiên Chúa đã dủ lòng thương xót cứu một số nhỏ tám người khỏi chết vì nước lụt. Và rồi qua biến cố đó, Thiên Chúa đã hứa sẽ không bao giờ hủy diệt loài người bằng nước lụt như vậy nữa. Thiên Chúa đã lập giao ước với loài người và với mọi sinh vật. Cầu vồng là dấu chỉ của giao ước giữa Thiên Chúa cùng Noah và mọi sinh vật. Cầu vồng là dấu chỉ nhắc nhớ để Thiên Chúa không hủy diệt con người cho dù con người có phạm tội. Cầu vồng là dấu chỉ và bảo đảm tình yêu của Thiên Chúa đối với con người.

Thời điểm hiện tại, hôm nay, còn có điều quý hơn cầu vồng rất nhiều. Đó là lý do Đức Yêsu nói: “thời đã đến.” Ngày xưa cầu vồng là dấu chỉ và bằng chứng Thiên Chúa không hủy diệt con người ngay cả khi người ta phạm tội, thì hôm nay “có điều gì đó” bảo đảm Thiên Chúa không chỉ không hủy diệt con người, nhưng còn cho thấy Thiên Chúa yêu thương con người nữa. Thánh Phaolô diễn tả thời điểm này bằng câu: “Đây là ngày giải phóng, đây là thời cứu độ.” Cái gì rất quý đã xuất hiện; và “điều quý” đó cho thấy Nước Thiên Chúa đang tới.

Đức Yêsu xuất hiện như dấu chỉ Thiên Chúa yêu thương con người. Qua Đức Yêsu, người ta nhận ra Thiên Chúa không chỉ không hủy diệt con người khi con người phạm tội đáng chết, nhưng còn nhận ra tình yêu vô cùng của Thiên Chúa. Đức Yêsu là dấu chỉ và là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương con người. Đức Yêsu là dấu chỉ Thiên Chúa đang ở giữa con người: Nước Trời đang đến gần. Hãy trở lại với Thiên Chúa, vì Nước Trời đang đến gần, vì Thiên Chúa đang yêu thương con người.

2. Hãy sám hối

Đức Yêsu trước khi đi rao giảng, Ngài đã tới sông Yordan cúi đầu nhận phép rửa thống hối từ tay Yoan Tẩy Giả. Đức Yêsu sám hối không phải vì tội lỗi của Ngài, nhưng Ngài là Đấng gánh tội trần gian, nên Ngài đại diện con người cúi đầu sám hối trước Thiên Chúa. Sám hối là nhận biết mình lỗi lầm, sai phạm, xúc phạm đến Thiên Chúa và anh chị em, để trở lại với Thiên Chúa và với anh chị em, để xin lỗi Thiên Chúa và anh chị em mình, để bắt đầu một đời sống mới.

Tội là lỗi đức công bình, vi phạm quyền lợi của người khác, xúc phạm đến ngôi vị khác, dù đó là Thiên Chúa hay con người. Thiên Chúa tạo dựng nên con người, nên theo công bằng, con người phải tôn kính Thiên Chúa như Đấng tạo dựng. Con người phải tùy thuộc Thiên Chúa như Đấng tạo dựng nên mình, đó là công bình. Nếu con người muốn độc lập với Thiên Chúa, là phủ nhận quyền tạo dựng của Thiên Chúa, là bất công với Thiên Chúa. Mười giới răn Thiên Chúa, là những giới hạn cho con người biết mình đã vi phạm quyền lợi của ngôi vị khác, dù của Thiên Chúa hay của con người. Chẳng hạn, cha mẹ sinh ra và nuôi dưỡng mình, thì mình phải có thái độ tôn kính các ngài; không tôn kính các ngài, là không tròn đạo hiếu, là lỗi đức công bình đối với cha mẹ. Mỗi người đều được quyền sống hạnh phúc như Thiên Chúa muốn, nếu ai không nói sự thật, lường gạt người khác và làm tổn thương người ta, là xúc phạm đến họ. Không ai được quyền bắt người khác nói điều họ không muốn; mỗi người cũng được quyền tự do làm theo điều mình muốn mà không xúc phạm đến quyền lợi của người khác.

Sám hối, là nhận ra sự thật về chính mình; nhận ra và thú nhận mình đã xúc phạm đến Thiên Chúa và con người, muốn bắt đầu lại cuộc sống mới, hoàn trả lại cho Thiên Chúa và cho tha nhân điều những ngôi vị đó có quyền được, đó là sám hối. Không thể coi là sám hối nếu không thấy mình thực có lỗi; nếu cứ xin lỗi mà không thật sự thấy mình có lỗi, e rằng đó không là hành vi khiêm tốn thật sự. Đức Yêsu chịu phép rửa sám hối, vì Ngài gánh tội trần gian; Ngài thấy Ngài cần sám hối vì Ngài đại diện tất cả con người.

3. Tin vào Tin Mừng

Nước Thiên Chúa đã gần, là cách nói để chỉ Thiên Chúa đang hiện diện, cần con người đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa, để Thiên Chúa hiện diện nơi lòng mình, và qua mình để Thiên Chúa hiện diện trong môi trường mình sống, với những người mình tiếp xúc. Thiên Chúa vẫn hiện diện ở khắp mọi nơi và ở mọi thời điểm, qua thiên nhiên và mọi tạo vật như dấu chỉ của Ngài. Tuy nhiên, qua Đức Yêsu, Thiên Chúa hiện diện với con người một cách rất đặc biệt. Chính Đức Yêsu cũng ý thức điều này ở những giây phút cuối đời Ngài: “ai thấy thầy là thấy Cha.”

Sám hối, trở lại với Thiên Chúa và con người, là điều kiện cần để con người có thể đón nhận Tin Mừng là chính Đức Yêsu Kitô. Đón nhận Đức Yêsu, cũng là đón nhận lời rao giảng của Ngài, là để Ngài giáo huấn hầu trở nên con Thiên Chúa, để có thể sống hạnh phúc không chỉ đời sau nhưng ngay hiện tại. Đức Yêsu là đường, là sự thật, và là sự sống. Đức Yêsu như người mẫu, sống theo Ngài con người sẽ tìm được bình an và hạnh phúc thật sự.

Đức Yêsu là Tin Mừng cho con người không chỉ từ khi Ngài sống lại, nhưng Ngài là Tin Mừng cho con người ngay từ biến cố nhập thể. Đức Yêsu là Tin Mừng Thiên Chúa ban cho con người; điều này con người vẫn phải tin chứ không thể chứng minh như một chân lý toán học. Những lý chứng về Đức Yêsu chỉ có tính gợi ý và soi sáng. Mỗi người đều phải tin và phó thác cho Thiên Chúa khi tin Đức Yêsu là Thiên Chúa nhập thể và là Tin Mừng cho tất cả con người.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

1. Đâu là điểm yếu của bạn, dễ làm bạn xúc phạm Thiên Chúa và con người nhất?

2. Bạn có cảm thấy tâm tình sám hối, muốn bắt đầu một đời sống mới trong Thiên Chúa không? Xin chia sẻ điều này.

 

23.Tái sinh

(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)

Tái sinh trong Đức Kitô là mục đích cuối cùng của mùa chay. Hàng năm Giáo Hội mời gọi Kitô hữu tái sinh trong Đức Kitô, học biết về tình yêu Chúa nhiều hơn, trở nên giống Đức Kitô hơn trong lối sống, cách cư xử, cách yêu thương, cách tha thứ và nhất là xin cho được con tim biết nhạy cảm trước đau khổ của đồng loại. Hiểu biết về Đức Kitô nhiều hơn chính là hiểu biết về đời sống của chính mình, hiểu rõ hơn mục đích của cuộc sống nơi dương thế. Hiểu biết í nghĩa cuộc sống nơi dương thế chính là hiểu rõ hơn mầu nhiệm tình yêu Chúa tiềm ẩn trong tâm hồn ta. Để khám phá ra tình yêu Chúa trong ta cần dùng đến chìa khoá được đề nghị thực hiện trong mùa chay. Chìa khoá đó bao gồm cầu nguyện, ăn chay và bác ái. Giáo Hội ước mong trong hy vọng Kitô hữu thực thi ba điều trên suốt mùa chay thánh sẽ trở thành thói quen tốt lành, tập quán đạo đức được thực hiện thường xuyên trong cuộc sống. Đây không phải là điều mới lạ mà chính là những gì ta tuyên hứa khi lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy, sống yêu Chúa, mến tha nhân, từ bỏ ma quỷ và những quyến rũ bất chính của chúng.

Cầu nguyện đẩy xa cám dỗ, dẫn ta đến gần Chúa, chặt đứt liên hệ với sa đoạ, liên kết mật thiết hơn với Chúa và giúp hiểu rõ hơn về con người mình. Cầu nguyện hàng ngày giúp tâm hồn trong sáng, con tim thanh thản nên có thể nhìn rõ hơn đời sống nội tâm; ăn chay giúp kiềm chế tính mê, tật xấu nghiện ngập để thay đổi trở nên tốt hơn, công chính hơn trong cả lời nói lẫn hành động; bác ái giúp nhận ra giá trị, nhu cầu cuộc sống của mình và của anh chị em. Giúp ta yêu thương họ nhiều hơn bởi chính mình cũng là thành phần trong cộng đồng nhân loại được Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh của Ngài. Kết hợp cả ba điều trên: cầu nguyện, chay tịnh và bác ái giúp ta nhận biết tình yêu Đức Kitô. Tình yêu chân thật đến từ Đức Kitô, điều mà trí tuệ không đủ khả năng phán đoán, xác định hay chối bỏ bởi tình yêu đó vượt trên những gì con người có thể dùng để so sánh, cân nhắc. Nhận biết tình yêu Chúa chỉ có một đường lối duy nhất đó là niềm tin, ngoài niềm tin ra, rất khó có thể nhận ra tình yêu Chúa bởi niềm tin vào Đức Kitô khởi đầu bằng yêu mến Ngài và tình yêu đó phát sinh niềm tin nhờ tác động của Thánh Thần.

Phúc Âm cho biết Đức Kitô được Thánh Thần dẫn vào sa mạc. Điều này cho biết Đức Kitô chay tịnh 40 đêm ngày không phải chỉ mình Ngài mà có Thánh Thần Chúa cùng đồng hành với Ngài. Vì thế chúng ta tin chắc là khi chúng ta thực hiện cuộc sống chay tịnh Thánh Thần Chúa cũng hiện diện với chúng ta. Nói cách khác chay tịnh là lời mời gọi Thánh Thần Chúa vào trong tâm hồn ta. Chúng ta mở tấm lòng ra đón nhận Thánh Thần Chúa để đón nhận chỉ bảo, hướng dẫn, soi sáng giúp ta làm điều lành, điều ngay thẳng, điều công chính bởi Thánh Thần là nguồn tình yêu và kho tàng khôn ngoan không cạn của Thiên Chúa. Thánh Mathew thuật lại chính ma quỷ cũng nhận ra sự hiện diện của Thánh Thần khi chúng nói Thánh Thần Chúa luôn nâng đỡ để Ngài khỏi vấp ngã (Mt 4, 6)

Nơi đâu có Đức Kitô hiện diện nơi đó có Thánh Thần Chúa hiện diện. Đôi khi Phúc Âm ghi lại rõ ràng sự kiện này, khi khác Phúc Âm không ghi rõ nhưng giúp ta nhận biết có sự hiện diện của Thánh Thần Chúa tiềm ẩn đâu đó vì Thánh Thần luôn cùng đồng hành với Đức Kitô.

Mùa chay mời gọi chúng ta đi vào vùng sa mạc đức tin. Mùa chay mời gọi chúng ta đi qua kinh nghiệm chính Đức Kitô đã trải qua. Mùa chay mời gọi chúng ta học cùng Đức Kitô khi gặp cơn cám dỗ đừng cậy vào sức riêng mình nhưng tin tưởng vào sức mạnh Lời Chúa trong Phúc Âm. Mùa chay mời gọi chúng ta xét mình từ bỏ lối sống bê tha, đổi mới, bắt đầu cuộc sống mới, cuộc sống tin yêu phó thác đời mình cho Chúa để nhận rõ hình ảnh Chúa trong ta. Đổi mới là làm cho cái tôi trong tôi nhỏ lại; làm cho tha nhân lớn lên trong tôi.

 

24.Đức Giêsu chịu Xatan cám dỗ

Sau khi chịu phép Rửa, Đức Giêsu được Chúa Thánh Thần thúc đẩy đi vào hoang địa, ở đó Chúa Giêsu chịu ma quỷ cám dỗ nhưng Ngài đã chiến thắng. Chúa Giêsu đi vào hoang địa là ý muốn của Thiên Chúa, có Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Chúa Giêsu không bao giờ hành động một mình mà luôn có Chúa Cha và Chúa Thánh Thần cùng hiện diện trong hoạt động của Chúa Giêsu.

Thế nhưng, tại sao Chúa Giêsu chịu ma quỷ cám dỗ? Đây là dịp cho chúng ta thấy thêm ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm nhập thể nơi Đức Giêsu. Đức Giêsu vốn là Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người và tệ hơn nữa là làm một người nghèo cô thế cô thân, không có một ngôi nhà đàng hoàng ấm cúng để sinh ra, rồi lại phải sớm chạy nạn trốn sang Aicập để tránh hoạ sát thân.

Khi hoà nhập vào dòng người tội lỗi đang bước xuống dòng sông Gioa-đan để chịu thanh tẩy mình bởi phép rửa của Gioan Tẩy Giả, Chúa Giêsu đã tự đồng hoá mình với những con người tội lỗi trong thế gian dù Ngài chẳng có tội tình gì.

Hôm nay Chúa Giêsu chịu cám dỗ là Ngài đứng trong thân phận con người để cùng với con người Ngài cũng chịu cám dỗ để đồng thân phận với con người tro bụi, mỏng dòn yếu đuối, dễ thay đổi, dễ sa ngã. Nhưng có một điều khác là con người chúng ta thì dễ sa ngã truớc cám dỗ; còn Chúa Giêsu đã mở môt con đướng mới: đó là Ngài đã chiến thắng cám dỗ nghĩa là chiến thắng ma quỷ.

Ma quỷ vốn là tên cám dỗ đã có mặt trong lịch sử, đã gieo mầm tội lỗi nơi con người và nó vẫn còn họat động mạnh mẽ trong nhân loại nhưng nay tên cám dỗ đã bị Chúa Giêsu đánh gục, và trong tương lai nó vẫn còn tiếp tục thất bại dài dài.

Chiêm ngưỡng hành động của Chúa Giêsu hôm nay, chúng ta hay dâng lên Chúa tâm tình vui mừng và lời cảm tạ vì tình thương lớn lao Chúa đã dành cho nhân loại tội lỗi chúng ta. Trong thân phận con người Chúa Giêsu đã không ngừng đi sâu vào mầu nhiệm nhập thể mỗi ngày một triệt để hơn, để cảm thông, để yêu thương, để mở đường cho con người đi về cùng Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã chiến thắng tên cám dỗ, bước theo Chúa Giêsu, chúng ta cũng phải hạ tên cám dỗ như Thầy của mình.

Ngoài tâm tình tạ ơn, chúng ta còn phải học nơi Chúa bài học chiến thắng những cám dỗ của ma quỷ. Trong đời sống con người, chúng ta phải đối diện với vô vàn những cám dỗ lúc nào cũng vây quanh chúng ta với nhiều hình thúc khác nhau có khi còn rất tinh vi, có khi cám dỗ được nguỵ trang kín đáo bằng một việc xem ra hoàn toàn tốt đẹp kiến chúng ta không thể nhận ra được đó là một cám dỗ của ma quỷ. Những cám dỗ đó có thể là miếng ăn, tấm áo, có thể là danh vọng quyền lực hay là tiền bạc, cũng có thể là một thứ tình cảm nào đó....Cám dỗ thì vô vàn vì đó là việc làm của ma quỷ mà, nó phải ra sức làm việc để lôi kéo con người về phía nó, để những ai nghe theo chúng thì sẽ dần dần xa lìa Thiên Chúa và thuộc trọn quyền của ma quỷ.

Chúng ta phải làm gì đây? Phải đề cao cảnh giác, phải nghe Lời Chúa và Hội Thánh dạy trong Mùa Chay là hãy thường xuyên chay tịnh, hãm mình ép xác, nhìn nhận thân phận mòng giòn yếu đuối, dễ sa ngã, dễ phạm tội của chúng ta; làm thế không phải để mạc cảm nhưng để ý thức rõ về mình để bám chặt vào Chúa hơn. Siêng năng lãnh nhận các bí tích nhất là bí tích Giải tội và Thánh Thể, làm các việc lành phúc đức, đem Lời Chúa thực hành trong đời sống để múc lấy sức mạnh từ trên cao hầu chiến thắng mưu mô của tên cám dỗ.

 

25.Chay tịnh và cầu nguyện

(Suy niệm của AM Trần Bình An)

Tháng Ba năm 1976, người ta chở Má từ nơi quản thúc tại gia ở Cây Vông đến nhà biệt giam Nha Trang… Má bị đưa vào ở trong một căn phòng giam nhỏ không cửa sổ, ngột ngạt, dưới chân tường chỉ có một lỗ nhỏ để thông hơi. Má thường nằm xuống đất để mũi gần đó và thở. Vài tuần sau Bảy cũng bị bắt đưa vào phòng biệt giam, cách Má bức tường ngăn. Ban đầu hai phòng hoàn toàn cách biệt, nhưng về sau người ta cho đục một cửa sổ nhỏ giữa bức tường ngăn cách, và có lệnh cấm Má và Bảy không được liên lạc với nhau qua nơi này…

Một ngày nọ qua cửa sổ, Má bảo Bảy:“Má và Bảy không biết sống chết ra sao. Má có thể ra đi bất cứ lúc nào! Má xin Bảy cho Má một ân huệ được không?” “Má cứ tự nhiên, con có thể làm gì để giúp Má?” Bảy đáp. “Má muốn tĩnh tâm ba mươi ngày, nhờ Bảy giảng cho Má.” “Má nói sao? con giảng tĩnh tâm cho Má? Con làm gì có đủ khả năng giảng cho Má. Chính Má giảng cho con chứ?” Bảy ngạc nhiên vô cùng và tưởng chừng mình nghe lầm nên hỏi lại. “Bảy cứ làm theo ý Má đi. Vì đây là ân huệ Má xin.” Má ôn tồn và nhỏ nhẹ bảo… “Má nói vậy thì con xin khiêm tốn vâng lời Má.” Bảy đáp lại. Thế là mỗi ngày Bảy giảng cho Má ba bài, bắt đầu từ lúc Chúa Giêsu sinh ra, sống cuộc đời ẩn dật và công khai rao giảng Tin Mừng, đối đáp lại những bắt bẻ của người Do Thái, dạy dỗ, kể dụ ngôn và làm phép lạ, đến lúc bị bắt, chất vấn, sỉ nhục, đánh đập, con đường khổ nạn và chết trên thập giá, rồi vinh hiển sống lại và hiện ra cho các tông đồ nhiều lần, trước khi về trời gởi Thánh Thần xuống. Mỗi bài giảng kéo dài từ hai mươi đến ba mươi phút, sáng trưa chiều. Sau đó Bảy còn kéo thêm được bài thứ tư vào buổi tối trước khi ngủ. Cứ vào những giờ giấc cố định Bảy đến bên cửa sổ, phía bên kia Má đã đứng chực đó từ lúc nào rồi. Má chăm chú lắng nghe các bài giảng, sau mỗi bài Má đều góp ý rồi cả hai cùng hát thánh ca có khi bằng tiếng Việt, hoặc La Tinh và Má dâng lời cầu nguyện kết thúc. Mỗi ngày lúc ba giờ chiều là giờ tử nạn của Chúa Giêsu, Má dâng thánh lễ với ba giọt rượu và một giọt nước trong lòng bàn tay với mẫu bánh nhỏ được bẻ vụn ra. Bên kia bức tường của phòng giam Bảy cũng làm như thế… Cuộc tĩnh tâm linh thao theo phương pháp thánh Ignatiô Loyola của Má kéo dài đúng một tháng… (Nguyễn Hồng Phúc, Câu chuyện của Má và Bảy)

ĐGM Fx Nguyễn Văn Thuận (Má) đã mời Lm Giuse Nguyễn Quang Thạnh (Bảy) giảng cấm phòng cho ngài, để chuẩn bị cuộc lữ hành gian lao ròng rã 13 năm. Ngài noi gương Thầy Giêsu vào sa mạc 40 ngày đêm, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, chay tịnh cầu nguyện, chuẩn bị đi gieo Tin Mừng.

Hoang địa

Sau khi vào hoang địa 40 ngày đêm chay tịnh, Đức Giêsu vẫn còn luôn ra nơi hoang vắng để cầu nguyện trong suốt thời công khai rao giảng. Hiện nay, trong cuộc sống ồn ào, xô bồ hiếm khi được thực sự hưởng những giây phút im lặng. Có lẽ vì người ta đâm ra sợ hãi sự thinh lặng, tránh né nỗi cô đơn, không dám đối diện chính mình, nên luôn thích sống trong không gian ô nhiễm tiếng ồn. Tuy nhiên tĩnh lặng lại rất cần thiết cho tâm hồn thư giãn, tái lập quân bình. Cũng như một bản nhạc luôn cần có những dấu lặng thiết yếu, để thay đổi, chuyển sang giai điệu, tiết tấu, hòa âm, lời ca, ý nhạc mới.

Trong Thánh Lễ, có những khoảng lặng quan trọng trước kinh Cáo Mình, sau khi nghe Lời Chúa và Hiệp lễ. Đó là những giây phút nhìn lại mình, suy niệm Tin Mừng và tâm tình cùng Thánh Thể. Tất cả sự thinh lặng đó tựa như không gian thông thoáng, tĩnh mịch của hoang địa, bỏ qua, quên đi những vướng mắc, bận tâm đến thân xác, thế gian, cám dỗ phù phiếm, để có thể gần gũi, cầu nguyện, tâm sự với Chúa.

Ngoài ra, ai cũng có thể tận dụng những giây phút trước khi ngủ, hay khi vừa thức dậy để vào hoang mạc tâm hồn. Xét mình, ăn năn, sám hối và tâm tình với Chúa hằng ngày.

Chay tịnh

Theo nghĩa phổ thông, chay tịnh là giữ mình sạch sẽ, thanh khiết qua việc kiêng ăn thịt động vật, chỉ dùng rau quả cùng các sản phẩm thực vật, và nhất là qua việc giữ tâm hồn yên tĩnh, vô ưu, không vương vấn tham, sân si, lục dục, thất tình. Theo Kitô giáo, chay tịnh tuy cũng có sắc thái tương tự, nhưng kèm thêm ý nghĩa tích cực hơn nữa, là hy sinh, hãm mình, ăn năn, sám hối, xả kỷ vị tha, yêu thương và phục vụ tha nhân, hòa giải, bác ái từ thiện.

Chay tịnh là thoát ra khỏi sự chế ngự, kiềm hãm của thân xác, của bản năng, của cái tôi nhỏ mọn, vị kỷ, để hướng thượng, nâng hồn lên với Thiên Chúa, để hướng ngoại với tha nhân. Đó là hành vi bày tỏ lòng khiêm cung, niềm hy vọng và tình yêu trước Thiên Chúa và tha nhân.

Chay tịnh để hướng về Chúa với một thái độ lệ thuộc, phó thác hoàn toàn, trước khi khởi đầu một nhiệm vụ khó khăn, hay nài xin tha thứ tội lỗi đã vấp phạm, để mở lòng đón nhận ánh sáng Thiên Chúa, xin ơn cần thiết hầu hoàn thành sứ vụ.”Đaniel đừng sợ, bởi ngay từ hôm đầu, khi ngươi đem hết lòng tìm hiểu và ăn chay hãm mình trước nhan Thiên Chúa của ngươi, thì Thiên Chúa đã nghe những lời ngươi nói, và chính vì những lời ấy mà ta đến.” (Đn 10, 12)

Cầu nguyện

Khi giữ chay tịnh thật sự thì mới có thể thành tâm cầu nguyện, như Thánh Phêrô khuyên nhủ. “Anh em hãy sống chừng mực và tiết độ để có thể cầu nguyện được.” (1Pr 4, 7) Mặc dù đã tràn đầy Chúa Thánh Thần khi vào hoang mạc, Đức Giêsu vẫn siêng năng cầu nguyện sớm tối, hầu nhận được hồng ân, Thánh Ý từ Thiên Chúa Cha.

Người dạy các môn đệ cách thức cầu nguyện khiêm tốn, kín đáo và chân thành. “Khi cầu nguyện hãy vào trong phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh.” (Mt 6, 6) Hơn nữa, Người còn ban cho các môn đệ Kinh Lạy Cha, một mẫu mực hoàn chỉnh để cầu nguyện.

“Cầu nguyện là nền tảng của đời sống thiêng liêng. Lúc cầu nguyện con nối liền, kết hợp với Thiên Chúa. Bóng điện sáng nhờ nối liền với máy phát điện.” (Đường Hy Vọng, số 120)

Lạy Chúa Giêsu, xin hướng dẫn chúng con vào hoang mạc hằng ngày, qua những phút thinh lặng, cô đơn, để hãm mình, hy sinh và cầu nguyện với Chúa luôn.

Lạy Mẹ Maria, suốt cuộc đời Mẹ là chuyến lữ hành âm thầm, chay tịnh và cầu nguyện, luôn kết hợp tâm tình với Chúa Giêsu, Con Mẹ, để lắng nghe và thực hành Thánh Ý Chúa. Kính xin Mẹ chỉ dạy, hướng dẫn, giúp đỡ chúng con noi gương Mẹ hy sinh hãm mình và cầu nguyện với Chúa luôn. Amen.

 

26.Lòng thương cảm sâu xa

(Suy niệm của Peter Feldmier - Văn Hào, SDB chuyển ngữ)

Người đã đến rao giảng cho các vong linh bị giam cầm (1 P3, 19)

Sự thương hại mang dáng dấp giống như lòng thương xót, nhưng thật sự hoàn toàn khác nhau. Nhiều phật tử còn coi sự thương hại như là kẻ thù của lòng xót thương chân thật. Sự thương hại nhìn từ bên ngoài, dễ khiến chúng ta ngộ nhận, dễ bị đồng hòa với những rung cảm sâu tận từ con tim. Sự thương hại xảy ra khi nhìn thấy một người bị đau khổ, nhưng chúng ta chỉ đứng ngoài cuộc để bàng quan nhìn vào những khổ đau đó như một người hoàn toàn xa lạ. Nhiều khi chúng ta còn thốt lên “ Cám ơn Chúa, rất may là tôi không gặp những bất hạnh giống như thế’’.

Nhưng sự thương xót chân thật thì trái ngược lại. Nó đặt nền tảng trên tình yêu chân thành. Nó lôi kéo chúng ta đến với những người đau khổ, đồng hành với họ, cảm thương họ, và chia sẻ với họ về những thống khổ họ đang gánh chịu. Tín hữu phật giáo diễn tả sự thương xót đó bằng thuật ngữ Karuna, có nghĩa là “ Mang chở nơi mình một con tim biết rung động”. Trong Tân ước, chúng ta cũng gặp hạn từ Splanknizomai, nghĩa là “ Cảm thấu đến tận ruột gan” trước nỗi khổ đau của kẻ khác. Sự thương xót mời gọi chúng ta đi vào chiều sâu, biết cảm thông và biết sẻ chia một cách sâu xa trong chính trạng huống thực sự của cuộc sống con người.

Sự đồng cảm đó là một sợi dây vô hình gắn kết con người lại với nhau. Ví dụ khi chúng ta đang gặp đau khổ, tâm hồn bị bầm dập và tan nát, có một ai đó đã quảng đại, sẻ chia và thông sự vào chính đời sống chúng ta một cách cụ thể. Hoặc ngược lại, có bao giờ chúng ta đã trải nghiệm việc đồng cảm và chia sẻ thực sự với những đớn đau của người khác? Làm sao chúng ta có thể xem nỗi khổ của người khác như là nỗi đau của chính mình để thực sự biết thương cảm một cách sâu xa.

Tin mừng hôm nay kể lại biến cố Đức Giêsu lui vào hoang địa và ở đó 40 ngày, trước khi khởi sự sứ vụ rao giảng công khai. Marcô diễn tả sự kiện này chỉ với 2 câu giản đơn “ Thần khí đẩy Ngài vào hoang địa. Người ở đó 40 ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Ngài.” Nhìn nơi Đức Giêsu, Đấng được Thần khí đưa vào sa mạc, chịu sự tấn công của Satan, và sống giữa loài dã thú, giữa những con vật khủng khiếp nhất, đáng sợ nhất, chúng ta cảm nhận ra đó là một thân phận rất bi thương trong kiếp người. Cuộc sống của Ngài 40 ngày trong sa mạc đã không còn là cuộc sống của chính Ngài nữa.

Bài đọc hai hôm nay trích trong thơ thứ nhất của Thánh Phêrô tông đồ gửi đến các Kitô hữu mới được lãnh nhận phép rửa. Trong đoạn văn này, thánh nhân diễn tả cái chết của Đức Kitô như là phương cách chuộc tội cho con người, và cơn đại hồng thủy năm xưa là một hình ảnh tiên báo (bài đọc 1). Trận lụt phác vẽ trước hình ảnh của bí tích rửa tội, và chính qua giếng rửa tội chúng ta được cứu chuộc. Thánh Phêrô còn nói thẳng thừng một điều xem ra rất khó hiểu: Ngài đã đến rao giảng cho các vong linh bị giam cầm (1P 3,14), tức là những con người trước đây đã phạm tội vì bất tuân phục. Tôi không có ý cắt nghĩa bản văn theo nghĩa đen của từng câu từng chữ, giống như chúng ta vẫn thường tuyên tín trong kinh Tin Kính, “sau khi chết, Người xuống ngục tổ tông đem các thánh lên thiên đàng”, hoặc cũng phản ánh một điều mà Đức Giêsu đã nói trong bài giảng trên núi. Tôi muốn mời gọi chúng ta hãy nhìn lên Con người Chịu- Đóng-Đinh, Đấng đã đem sự hiện diện cứu độ của Ngài đến những vùng tối tăm nhất của phận kiếp con người. Sheol hay cõi “lâm bô” như được nói đến trong cựu ước, được trình bày như là một thế giới mênh mông ngập trong nước, nơi không còn hy vọng, nơi không có sự sống và không có cả Thiên Chúa. Đức Giêsu đã sẻ chia kinh nghiệm của chính Ngài. Với tình yêu giải thoát, Ngài đã đi vào thế giới con người, xuống tận vực thẳm ngập sâu trong tối tăm của kiếp sống làm người.

Vào Chúa nhật thứ nhất mùa chay, chúng ta được mời gọi để cử hành suốt thời gian này để đi vào sự thương cảm với anh chị em đồng loại. Tức là chúng ta phải tiến sâu vào thân phận con người để nhìn ra những khổ đau, những bầm dập và cay đắng, hầu biết diễn bày lòng thương xót sâu xa, và để con tim chúng ta luôn biết rung động. Ba hình thái theo truyền thống của mùa chay là cầu nguyện, chay tịnh và bố thí sẽ giúp chúng ta bắt đầu mùa chay thật ý nghĩa. Chúng ta cầu nguyện để thông hiệp sâu xa hơn với Đấng đã đem chúng ta vào hiện hữu, và lôi kéo chúng ta đến với tình yêu vô tận của Ngài. Chúng ta thực hành việc chay tịnh để cảm thông với 2 triệu người trên thế giới đang đói, đang khát vì chẳng có cái gì để ăn. Chúng ta giang rộng đôi tay bố thí để giải thoát chúng ta khỏi sự keo kiệt ích kỷ, hầu chúng ta được liên đới chặt chẽ hơn với những người đang cần đến chúng ta.

Mùa chay là thời gian đặc biệt để giúp chúng ta ý thức, đồng thời khơi dậy nơi chúng ta lòng thương cảm sâu xa. Đây là thời kỳ mà Giáo hội gọi mời chúng ta phải tiến sâu hơn, đi vào sự chia sẻ đồng phận trong kiếp người, với những ai đang gặp khổ đau, để với một tình yêu chân thành, chúng ta biết sống chan hòa, và con tim chúng ta biết rung động trước những khổ đau của anh chị em mình.

 

27.Hàng ngày vào hoang địa

(Suy niệm của AM Trần Bình An)

Hôm nay Chúa Giêsu lại mời gọi chúng ta vào hoang địa, nơi tứ bề yên tĩnh, vắng vẻ, hoang sơ, thời tiết khắc nghiệt, ngày nóng đêm lạnh, môi trường chẳng thân thiện, chỉ có dư giả nắng và gió, cùng thú dữ tình rập đe dọa.

Chúa vẫn thường hay đi ngược dòng đời thực dụng, thay vì mời gọi chúng ta nghỉ dưỡng tại bãi biển nắng ấm, hay lên cao nguyên mát mẻ, lại muốn chúng ta đồng hành với Người đến chỗ khô chồi, cằn cỗi, cùng hứa hẹn bao nguy hiểm bất ngờ. Nhưng đấy lại là yêu cầu chính đáng để chúng ta có thể trở nên môn đệ chân truyền của Người.

Chính trong hoang mạc cô đơn, thoát ra khỏi môi trường quen thuộc, khỏi đám đông xô bồ, con người mới có dịp đối diện với chính bản thân, mới có cơ hội nhìn lại, tự kiểm, xét mình. Đây là giờ phút phản tỉnh, một bước dừng trong cuộc sống hối hả, tất bật mưu sinh, quay cuồng với dục vọng, ham muốn, hay say sưa chức tước bổng lộc, tựa như một dấu lặng trong bản nhạc, để thăng hoa cuộc sống thêm ý nghĩa.

Đồng thời, nơi đây mỗi người còn phải đối mặt với các cuộc chiến trường kỳ và ác liệt, phải chiến đấu với môi trường nghiệt ngã, chiến đấu với bản năng sinh tồn, chiến đấu với cám dỗ xác thịt, chiến đấu với đam mê, dục vọng, do ma quỷ ra sức khêu gợi, dụ giỗ. Dẫu vậy, đây cũng là cơ hội may mắn, nếu thành tâm tìm đến nương tựa bên Người Cha Nhân Lành, để được nâng đỡ, an ủi và chúc phúc.

Tiếc thay, mang tiếng xét mình, nhưng ta lại kiêu căng, tự phụ, cứ nhiệt thành xét tội người khác, đổ vấy bao lỗi lầm, tội lỗi lên đầu thiên hạ, còn mình chẳng thấy có chút tỳ vết gì. Mang tiếng ăn năn sám hối, nhưng lòng ta vẫn tôn thờ cái tôi vĩ đại, cứ mãi manh nha, toan tính dối gian, đắn đo bao lẽ hơn thiệt. Tưởng chừng mau mắn tìm đến Thánh Ý, hóa ra toàn là đi tìm tà ý!..

Từ xa xưa, ngôn sứ Giô en đã tha thiết kêu gọi dân Israel trở về với Chúa, cũng không ngần ngại lật tẩy cái thói đạo đức giả hình: “ Đây là sấm ngôn của Đức Chúa: Nhưng ngay cả lúc này, các ngươi hãy hết lòng trở về với Ta, hãy ăn chay, khóc lóc, và thống thiết than van. Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng! Hãy trở về cùng Đức Chúa, là Thiên Chúa của anh em, bởi vì Ngài từ bi và nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương... (Ge 2, 12-13)

Có lẽ chẳng cần đi đâu xa xôi, mà vẫn có thể vào hoang địa. Hằng ngày cứ sốt sắng dành chút thời gian với Chúa Giêsu, ngay trong căn phòng vắng lặng, trước giấc ngủ khuya, hay sáng sớm tinh mơ vừa tỉnh giấc, để kiểm điểm, sám hối và tin vào Tin Mừng. Tiếng Chúa chắc chắn sẽ vang vọng trong tâm hồn, mỗi khi thành tâm chạy đến cùng Ngài.

“Thinh lặng bên ngoài, nhất là thinh lặng bên trong là bầu khí của cuộc sống nội tâm.” (ĐHY Fx Nguyễn Văn Thuận, ĐHV, số 86)

“Mỗi ngày dành riêng ít phút thinh lặng để giúp đời nội tâm tiến lên. Lâu nay con để dành mấy phút?” (ĐHY Fx Nguyễn Văn Thuận, ĐHV, số 98)

Lạy Chúa Giêsu nhân lành, xin dẫn dắt con vào hoang địa, để con biết ăn năm, sám hối, thanh tẩy, hầu nhận biết được Thánh Ý nhiệm mầu trong cuộc sống của con.

Lạy Mẹ chí thánh, xưa kia Mẹ đã đồng hành cùng Chúa trong suốt 33 năm, xin nhắc con hằng ngày vào hoang địa, để con chừa bỏ tội lỗi yếu đuối, mà nhận lấy bao hồng ân Chúa luôn sẵn lòng thương ban. Amen.

 

28.Thần lành, thần dữ

(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)

Cuộc đời rao giảng nơi trần thế của Đức Kitô cho thấy sự khác biệt rõ ràng giữa thần lành và thần dữ. Thần lành hướng dẫn Đức Kitô vào hoang địa chuẩn bị cho cuộc đời rao giảng công khai. Trái lại thần dữ rình rập tìm cơ hội cám dỗ Đức Kitô nơi hoang địa. Còn một thần nữa Kinh Thánh không nhắc đến đó chính là thần khí của Đức Giêsu. Kinh Thánh dường như không phân biệt sự khác biệt giữa Thần Khí Thiên Chúa và Thần Khí của Đức Kitô nhưng thường dùng chung, hoán đổi cho nhau.

Trong bài giảng đầu tiên nơi hội đường, người ta đưa cho Đức Kitô sách thánh, Ngài mở ra đúng đoạn tiên tri Isaiah nói về Ngài.

Thần Khí Thiên Chúa ngự trên tôi (Lc 4,18)

Sách tiên tri Isaiah chương 62,1-2 tiên đoán về cuộc đời rao giảng của Đức Kitô trong đó nhấn mạnh đến việc

Ngài đến để mang Tin Mừng đến cho người nghèo khó, giải thoát kẻ bị giam cầm, cho người mù sáng mắt, giải thoát kẻ bị đoạ đầy và công bố năm hồng ân của Thiên Chúa.

Sứ mạng của Đức Kitô được hiểu một là ích lợi về phần xác và hai là ích lợi phần tâm linh. Đức Kitô mang thân phận con người như chúng ta nên con tim Ngài cũng có cảm giác như chúng ta cảm nghiệm. Con tim Ngài cũng biết đau khổ, sợ sệt khi đối đầu với thập giá. Con tim Ngài cũng quằn quại, dằn vặt trước bất công của xã hội, đè nén, chèn ép con người dành cho nhau. Con tim Ngài cũng thấm cảnh con người hành hạ con người, mệt mỏi khó khăn của kẻ tìm công việc. Con tim Ngài cũng biết chán nản, biết mệt mỏi khi phải mong chờ. Những lúc như thế Ngài thường tìm nơi thanh vắng tâm sự cùng Chúa Cha. Con tim Ngài cũng rung động khi ban phát tình yêu và vui mừng đón nhận yêu thương và những lúc như thế Ngài trở về hoang địa tâm hồn, tìm nơi thanh tịnh cảm tạ Chúa Cha. Vì thế để hiểu tâm tình của Đức Kitô chúng ta cũng cần có con tim biết cảm thông của Ngài. Để biết được tâm tình của Thiên Chúa Cha chúng ta cần biết tâm tình của Đức Kitô. Để trở thành môn đệ trung tín của Đức Kitô chúng ta cần tìm nơi thanh vắng tâm sự cùng Đức Kitô.

Về phương diện tâm linh Đức Kitô công bố năm hồng ân của Thiên Chúa và kêu gọi con người thống hối và tin vào Tin Mừng Mc 1,15.

Hành trình thống hối gặp khó khăn, chống đối mãnh liệt từ thần dữ vì thống hối chính là từ bỏ đường lối sống của thần dữ để trở thành con cái sự sáng. Thần dữ coi việc từ bỏ này là hành động phản bội lại chúng và chúng sẽ tìm mọi cách để cám dỗ và nếu cần phải tiêu diệt kẻ phản bội chúng sẽ không ngần ngại. Vì thế hành trình thống hối luôn gặp khó khăn, nội chiến trong tâm hồn xảy ra. Bao nhiêu tư tưởng ma quỷ đưa ra khiến ta ngập ngừng, tìm cơ hội kéo dài thời gian quyết định mong ta dùng giằng trước ngã ba hầu mệt mỏi, buông xuôi theo con đường ma quỷ muốn ta đi theo. Quyết tâm đầu tiên trong hành trình thống hối là tiến vào sa mạc, nơi thanh vắng, chỗ không người đề tâm hồn được an nghỉ. Chính nơi đó ta nghe tiếng mời gọi của Thiên Chúa rõ ràng hơn, mạch lạc hơn, trong sáng hơn bởi thế sa mạc tâm hồn là nơi ta tìm được tiếng Thiên Chúa và tình yêu Chúa.

Đức Kitô không cần thống hối, không cần vào sa mạc nhưng Ngài tự nguyện vào sa mạc để chỉ cho con người con đường thống hối, con đường sa mạc. Chính nơi đó Ngài gặp Chúa Cha nhưng vừa bước chân ra khỏi samạc ma quỷ đã chờ sẵn để cám dỗ. Đức Kitô dùng Lời Chúa đáp trả chúng và chúng đã thua. Chúng ta cũng cần học hỏi Lời Chúa để đáp trả ma quỉ khi chúng đến cám dỗ. Thống hối thật cần đi chung với Lời Chúa, không có lời Chúa đi kèm không có thống hối thật sự vì tự chúng ta không đủ sức chống lại cám dỗ của ma quỉ.

Có sự khác biệt giữa thần khi của Đức Giêsu trần thế và thần khi của Đức Kitô Phục Sinh. Thần khi nơi trần thế của Đức Giêsu nhấn mạnh đến con tim yêu thương của Thiên Chúa; Thần Khí của Đức Kitô Phục Sinh nhấn mạnh đến việc làm cho vinh quang Thiên Chúa rạng rỡ hơn. Vì thế khi nhắc đến Đức Kitô Phục Sinh là nhắc đến vinh quang, khải hoàn, chiến thắng và triều thiên vinh hiển nơi thiên quốc. Nhắc đến thần khí Đức Giêsu trần thế là nhắc đến tâm tình yêu thương, tha thứ và bác ái, từ bi, nhẫn nại.

 

29.Ăn chay

(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)

Có người ăn chay nhưng không hãm mình.

Có người hãm mình nhưng không ăn chay.

Có người vừa ăn chay vừa hãm mình.

Có người không chay cũng chẳng hãm.

Ăn chay và hãm mình thuộc về tâm hồn, nội tâm. Thực tâm đến mức nào chỉ mình mình biết, mình mình hay. Ăn chay hãm mình thật phải là việc làm tự nguyện, thành tâm và làm với lòng mến. Ăn chay thực cần đi đôi với hãm mình. Thiếu hãm mình không thể nào là ăn chay vì bản chất của chay tịnh là tự chế, tự chủ. Tuy nhiên không phải tất cả các tự chế, tự chủ đều là ăn chay. Do vậy người ta có thể hãm mình nhưng không cần ăn chay. Ăn chay thiếu hãm mình là ngoài mặt ăn chay nhưng tâm nghĩ mặn.

Nói đến ăn chay chúng ta nghĩ đến việc kiêng ăn, kiêng uống. Sự việc không đơn giản thế. Ăn chay là việc làm tự nguyện, tự chủ và làm với lòng yêu mến Thiên Chúa. Điều răn quan trọng nhất Chúa Giêsu dậy là: Mến Chúa hết sức, hết linh hồn, hết trí khôn và yêu thương anh em như chính mình. Toàn thể con người từ trong ra ngoài đều thể hiện lòng mến và việc làm đi đôi với yêu tha nhân. Ngoài việc kiêng ăn, bớt uống và hạn chế hút sách chúng ta cần kềm hãm các giác quan khác trong con người.

Hãm mắt nhìn sự việc xấu.

Hãm tai nghe điều tệ hại.

Hãm miệng nói điều chua ngoa, gian xảo.

Hãm chân đi đến những nơi tồi bại.

Hãm tay làm những việc bất công.

Hãm óc nghĩ đến những tư tưởng gian tà.

Hãm cảm nhận những cảm xúc bất chính.

Hãm chiều theo đòi hỏi của thân xác.

Hãm không cho cái tôi làm chủ.

Ăn chay chính là làm chủ con người anh em. Mọi tư tưởng lời nói, việc làm và ngay cả cảm xúc đều bị kềm hãm. Trước đây anh em nghe theo chúng giờ đây bắt chúng phải lắng nghe lời anh em. Chúng phải làm theo mệnh lệnh của anh em. Chúng phải là công cụ phục vụ anh em để điều răn Chúa dậy được thể hiện trong cuộc sống của anh em đó là mến Chúa và yêu tha nhân.

Như thế ăn chay có giới hạn nhưng hãm mình thì vô hạn vì lúc nào con người cũng cần làm chủ đời mình.

 

30.Chiến đấu!

Sống là một cuộc chiến đấu trường kỳ và cam go. Và cuộc chiến đấu cam go nhất của con người là cuộc chiến đấu đối với bản thân mình. Kẻ thù không ở đâu xa, kẻ thù đó đang ấn núp ngay trong bản thân mình. Bởi vậy, khi làm người, Chúa Giêsu cũng không thoát khỏi nguyên lý này. Ngài đã chiến đấu quyết liệt và chiến thắng vẻ vang.

Khởi đầu Chúa nhật thứ nhất mùa Chay, hôm nay, thánh sử Macco trình bày việc Chúa Giêsu đã chiến đấu với sự dữ. Cuộc chiến đấu này không mấy dễ dàng. Tuy nhiên, Ngài đã can đảm chiến đấu và đã chiến thắng. Bởi lẽ, mang thân phận con người, Chúa Giêsu không tránh khỏi cám dỗ của ma quỷ, của sự dữ. Macco trình bày một bức tranh thời Tân Ước có đôi nét giống thời Cựu Ước. Trong bức tranh đó, nhân vật nổi bật là chính Chúa Giêsu, Ngài được ví như Ađam mới, khác xa Ađam cũ. Ađam xưa trong vườn địa đàng đã nghe theo xúi giục của ma quỷ đội lốt con rắn, đã bất tuân không vâng lệnh Thiên Chúa, vì không muốn làm người mà muốn làm Thiên Chúa, chối bỏ tình thương Thiên Chúa. Ông đã sa ngã trước thử thách, kéo theo hậu quả thảm hại muôn đời cho con cháu loài người. Bên cạnh đó, dân Do Thái đi trong Samạc bốn mươi năm cũng đã sa ngã. Đó là thời gian thử thách lâu dài đối với họ. Họ cũng đã sa ngã trước thử thách, bao lần phản loạn, chống đối Môisen, kêu trách Thiên Chúa; bao lần họ bị cám dỗ muốn trở lại Ai Cập làm kiếp nô lệ hơn là tiến về Đất Hứa. Tất cả đã sa ngã trước thử thách.

Ngược lại, còn Chúa Giêsu khi khởi đầu bước vào đời sống công khai, Ngài được Chúa Thánh Thần đưa vào Samạc để chịu thử thách. Sống trong sa mạc bốn mươi đêm ngày, Chúa Giêsu đã cương quyết trung thành với Thiên Chúa, dứt khoát chọn lựa đứng về phía Thiên Chúa. Theo Matthêu và Luca thì Satan đã dùng cơm bánh, quyền phép và danh vọng để cám dỗ Chúa Giêsu. Nhưng Chúa Giêsu đã dùng Lời Kinh Thánh để cương quyết khước từ cám dỗ và nói lên ý muốn dứt khoát chọn lựa con đường của thánh ý Chúa Cha, con đường khổ nạn thập giá. Cuối cùng ma quỷ phải rút lui. Chúa Giêsu đã chiến thắng cám dỗ. Sức mạnh làm cho Ngài chiến thắng chính là Lời Kinh Thánh và thái độ cương quyết đứng về phía Thiên Chúa, thực thi ý muốn của Chúa Cha.

Phần chúng ta, là những người Công Giáo, chúng ta cũng có thể chiến thắng như Chúa Giêsu nếu chúng ta biết chọn đứng về phía Thiên Chúa, lắng nghe Lời Chúa và để Lời Chúa hướng dẫn đời sống chúng ta. Cuộc chiến thắng của Chúa Giêsu đã cho chúng ta bài học kinh nghiệm là con người chúng ta có thể chiến thắng các thế lực sự dữ và các cám dỗ của ma quỷ nếu chúng ta một lòng biết cậy dựa vào sức mạnh chủa Thiên Chúa. Bắt chước Chúa Giêsu, chúng ta không chấp nhận thách thức Thiên Chúa, nhưng ngược lại chúng ta hoàn toàn vâng phục sống theo thánh ý Chúa quan phòng an bày cho cuộc đời của mình. Chúng ta cũng không nên sống đạo Công Giáo, theo đạo Chúa chỉ vì miếng ăn, chỉ vì cơm bánh tầm thường hằng ngày, hay chỉ vì lợi lộc vật chất, theo kiểu theo đạo được vợ, theo đạo được đất, được ruộng... Chúng ta không theo Chúa để bắt Chúa và Giáo Hội lo phục vụ chúng ta, phục vụ theo ý muốn ích kỷ của chúng ta. Chúng ta cũng không coi Thiên Chúa như những tên phù thuỷ chuyên làm phép lạ làm những việc phi thường, hay những nhà ảo thuật đại tài biểu diễn những pha ngoạn mục. Chúng ta cũng không coi trọng danh dự, uy quyền, thế giá; không luồn cúi ma quỷ, sự dữ, tiền của để được làm Chúa thiên hạ. Chính Thiên Chúa mới là Chủ Tể vũ trụ, là Chúa của muôn loài, là Chúa của lòng ta.

Lời Chúa trong Chúa nhật hôm nay giúp chúng ta hãy đi vào cõi lòng mình, nơi đó chúng ta sẽ nhận ra nhiều thứ xấu xa của kiếp người, đủ thứ cám dỗ của ma quỷ, đủ thứ mời mọc hấp dẫn của sự dữ. Chúng ta hãy để Lời Chúa soi dẫn chúng ta. Lời Chúa sẽ giúp chúng ta phân định việc tốt xấu, việc từ bỏ và những việc nên làm. Lời Chúa là sức mạnh giúp chúng ta can đảm đứng về phía Thiên Chúa, khước từ sự cám dỗ của ma quỷ và sự dữ. Lời Chúa giúp chúng ta nhận ra chân lý, Sự Thật và Tình yêu để chúng ta bước di. Lời Chúa giúp cho chúng ta dám sống cho những đòi hỏi của Tin mừng, dám sống cho anh chị em tha nhân. Chúng ta hãy theo gương Chúa Giêsu, chọn Chúa là lý tưởng và lẽ sống cho cuộc đời mình. Chúng ta chọn Chúa là sức mạnh để can đảm chiến đấu chống trả lội lỗi, các thế lực sự dữ và sống gắn bó với Thiên Chúa.

Ngoài ra, thử thách còn là để thanh luyện tâm hồn mình. Chúng ta hãy tiếp tục dùng Mùa chay mà Giáo Hội mời gọi để trở về với lòng mình, sám hối và quyết tâm can đảm đứng về phía Thiên Chúa. Ước mong Mùa Chay này sẽ giúp cho chúng ta biết lắng nghe tiếng Chúa, trở về với Thiên Chúa, sống lại mối tình mà Thiên Chúa yêu thương dành cho chúng ta. Đồng thời chúng ta cũng biết mạnh dạn đến với anh em để sống yêu thương và phục vụ họ.

Lạy Chúa Giêsu, Ngài là chủ của chúng con. Xin cho chúng con biết khiêm tốn chấp nhận giới hạn của mình để chúng con biết cậy dựa vào sức mạnh của Chúa trong cuộc chiến đấu với ba thù là thế gian, ma quỷ và xác thịt yếu đuối của chúng con. Xin Chúa trở thành sức mạnh duy nhất của niềm tin đang hướng về Chúa của chúng con để chúng con luôn chiến đấu và chiến thắng như Chúa Giêsu yêu mến của chúng con. Amen.

 

31.Thách đấu

(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)

Thách đấu là một hình thức khiêu chiến. Một bên muốn đánh, bên kia muốn hoà. Để diễn tả một cách ôn hoà, văn vẻ hơn chính là câu nói,

Cây muốn lặng nhưng gió chẳng ngừng.

Kẻ thách đấu thường là kẻ hiếu chiến. Vì hiếu chiến nên mới thách thức, thích bạo động. Hiếu chiến đến từ tính kiêu ngạo. Tự cho mình hơn người. Tự nhận tài giỏi và tự tin là sẽ chiến thắng vinh quang.

Trong tu đức thách đấu luôn khởi nguồn từ ma quỉ vì bản chất hiếu chiến, hung hăng, thích bạo động của chúng. Đó là những hình thức khác nhau của các cơn cám dỗ, chước cám dỗ phát sinh bởi bản tính tính kiêu ngạo của ma quỉ. Bản chất của chúng là tự kiêu, cao ngạo, kiêu căng nên không từ cơ hội nào, không chừa ai, lớn bé, già trẻ chúng đều trêu ghẹo tìm cách cám dỗ.

Ma quỉ cám dỗ con người dưới nhiều hình thức, đa dạng. Chúng không thách thức con người một cách vô í thức mà có chủ trương, thủ đoạn của từng lần cám dỗ. Thủ đoạn của chúng là nghiên cứu con người đó mạnh yếu phần nào. Đâu là yếu điểm, đâu là nhược điểm của con người đó. Chúng lợi dụng cả người thân, bạn đường, người ta tin tưởng, tình bạn để lung lạc mong đạt cơn cám dỗ. Rất nhiều trường hợp lạc đường, sai lối do bạn bè quyến rũ, rủ rê, dẫn vào cuộc đời ăn chơi trác táng, sa đọa. Không phải người đó cố tình gây tai ương cho mình mà chính là động lực ngầm của ma quỉ thúc đẩy, bày mưu, gài bẫy.

Yếu điểm chính là các điểm trọng yếu của người đó. Bởi là điểm trọng yếu nên ma quỉ thường tránh không muốn đụng chạm đến. Chúng không ngu dại gì húc đầu vào tường đá, bể sọ chết. Như thế ma quỉ thường tấn công, triệt để, khai thác nhược điểm của người đó bởi vì nhược điểm là điểm dễ tấn công và kết quả thành công cao hơn nhiều. Như thế ma quỉ vừa kiêu ngạo, vừa ranh mãnh. Chúng lại có nhiều thời gian và cơ hội để tấn công một người. Vì thế ta không lấy làm lạ một người trước đây đạo đức, sau này gặp lại, lại trở thành sa đọa. Từ tình trạng đạo đức, tốt lành, thánh thiện biến sang tình trạng khô khan, nguội lạnh, biếng nhác.

Trái lại cũng nhiều trường hợp trước đây coi thường đạo nghĩa, sống buông thả. Một thời gian sau thay đổi biến thành đạo đức sốt sắng, tốt lành. Tình trạng này có được vì người đó may mắn sau những lần thua các cơn cám dỗ nhận biết nhược điểm của mình. Khiêm nhường nhận biết mình tài hèn, sức mọn không đồng nghĩa với nhu nhược mà là hiểu rõ con người mình hơn. Biết mình, biết người là bước đầu của thành công. Bởi biết mình yếu đuối nên không tự cậy sức riêng mà phó thác trong tay Chúa, phó dâng cuộc đời cho Chúa và cậy trông vào sức mạnh của lời cầu nguyện và ân sủng của các bí tích thánh, giúp họ sống trên con đường lành thánh. Một cách để nhận biết ta thuộc về Chúa hay thuộc về ma quỉ chính là nhìn vào các cơn cám dỗ. Từ chối cám dỗ là dấu hiệu cho biết ta còn thuộc về Chúa. Sa chước cám dỗ là dấu chỉ cho thấy ta đang bị ma quỉ cầm giữ, trói buộc.

Phúc âm thánh Marcô hôm nay cho biết không ai tránh khỏi chước cám dỗ. Kẻ chiến thắng chước cám dỗ là kẻ biết tự lượng sức mình. Lượng sức bằng cách vừa chống lại chước cám dỗ vừa dựa vào sức mạnh Lời Chúa tăng sức. Như thế sau mỗi chiến thắng chước cám dỗ người đó luôn sống trong tâm tình tạ ơn Thiên Chúa vì nhờ sức mạnh Lời Chúa mà có được chiến thắng, tránh khỏi sa chước cám dỗ. Đây là một kinh nghiệm quí báu cho các Kitô hữu tin cậy vào Chúa. Bài học quí trọng này cho biết sức mạnh của ta đến từ Chúa. Ta tự tin lần cám dỗ kế tiếp ta cũng sẽ chiến thắng vì có sức mạnh Lời Chúa hỗ trợ. Kinh nghiệm sống đạo này một ngày một giầu mạnh và gắn bó ta mật thiết hơn với Chúa. Điều này rất cần vì ma quỉ không dễ đầu hàng, từ bỏ cám dỗ. Thua keo này chúng rình rập, tìm cơ hội bày keo kế tiếp. Thua nữa, chúng lại bày kế khác vì bản tính hung hăng kiêu ngạo trong chúng luôn thúc đẩy chúng tấn công ta. Càng thua, chúng càng bực dọc, càng trở nên hung bạo đến điên cuồng. Cơn cám dỗ, lời thách đấu của kẻ điên nằm ngoài giải thích hợp lí, lí lẽ bình thường. Kinh nghiệm bị cám dỗ thường xuyên cho biết ma quỉ đang thua đặm, càng thua chúng càng hung hăng. Chúng càng hung hăng ta càng cần trông cậy vào Chúa nhiều hơn.

Các thánh khi còn sống tại thế cầu nguyện hàng ngày, cầu nguyện liên tục là vì các ngài luôn phải tranh đấu, triền miên chống lại các cơn cám dỗ.

Sống thánh thiện chính là gắn bó đời ta với Lời Chúa. Chúng ta xin ơn biết lắng nghe Lời Chúa trong mọi hoàn cảnh, mọi nơi, mọi lúc.

 

32.Cám dỗ trong hoang địa

(Suy niệm của Cố Lm. Hồng Phúc)

Hôm nay là Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay. Tất cả lời Chúa hôm nay gồm tóm trong câu Chúa tuyên bố trong bài Phúc âm: “Thời giờ đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần đến. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.”

Trước hết, thời giờ đã mãn, Nước Trời sắp đến. Mùa Chay là mùa hy vọng, mùa tình thương. Thánh Phaolô, trong Thư gửi Giáo đoàn Roma, đã nói lên một câu khiến cho chúng ta tràn đầy hy vọng: “Ở đâu tội lỗi tràn ngập thì ơn Chúa đã dồn mọi người hết thảy vào đàng bất tuân (tội lỗi), ngõ hầu Người dủ lòng thương hết mọi người” (Rom 11, 32).

Thánh Phêrô, trong bài đọc hôm nay có tính cách như một bài giáo huấn cho tân tòng sắp chịu phép rửa tội, cũng nói lên ơn cứu chuộc tràn đầy rằng: “Chúa Kitô đã chết một lần cho tội lỗi chúng ta… thay cho chúng ta là kẻ bất công, để hiến dâng chúng ta cho Thiên Chúa.” Ám chỉ phép rửa tội, Thánh Tông đồ nhắc lại sự tích ông Noe xưa, vâng lời Chúa đóng một chiếc tàu giữa tiếng bàn tán, dị nghị, chế riễu, nhưng nhờ đó mà gia đình ông được cứu sống. Thì ngày nay, nhờ phép rửa tội chúng ta cũng được cứu thoát, nhờ công nghiệp Chúa Kitô phục sinh. Ngài đã thắng sự chết và tội lỗi để ban cho chúng ta sự sống của chính Thiên Chúa. Ở đâu tội lỗi tràn ngập thì ơn Chúa cũng tràn đầy.

Trong ba tường thuật của Phúc Âm nhất lãm về việc Chúa bị ma quỉ cám dỗ, Phúc Âm của Marcô ngắn gọn và chỉ có ý đưa dẫn đến sứ vụ Tông đồ của Chúa. Ngài chỉ viết: “Thánh Thần thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa và Ngài ở đó suốt bốn mươi đêm ngày, chịu sata cám dỗ, sống chung với dã thú và các Thiên Thần hầu hạ Ngài”.

Hoang địa hay sa mạc là chốn thinh không, là nơi không có tiếng nói ngoài tiếng gió vi vu hay tiếng kêu cầm thú. Một nơi im lặng nhưng không phải là không có tiếng kêu cầm thú. Một nơi im lặng nhưng không phải là không có tiếng nói và có nhiều thứ tiếng nói sẽ vọng lên. Tiếng nói của chính lương tâm mình, tiếng nói của dĩ vãng, của một đoạn đời đã qua, một khoảng đời sắp tới. Nhất là tiếng nói của Chúa, vì “Người thích nói trong im lặng”. Vì thế, ngày xưa bao nhiêu vị Thánh đã vào trong hoang địa Thebes bên Ai cập để sống đời khổ tu, hoặc như Thánh Hiêrônimô xa lánh sự ồn ào thành phố Lamã để vào trong sa mạc gần Nagiarét suy niệm Thánh Kinh.

Nhưng hoang địa cũng là nơi thần bí, như lời Chúa phán: “Khi tà thần ra khỏi người nào, thì nó đi dong dài những nơi khô cháy tìm chỗ nghỉ ngơi…”. Trong chốn thinh không im lặng, ma quỉ thường hay hoạt động, quấy phá. Ma quỉ đã hiện ra nhiều lần dưới nhiều hình quái ghê sợ để buộc Thánh Antôn bỏ cuộc nhưng ngài đã xua đuổi và trở nên tổ phụ đời sống tu trì. Về đêm, trong im lặng, ma quỉ quấy phá Thánh Vianney trong 35 năm.

Sở dĩ như vậy vì trước đây, Marcô nói, “Thánh Thần thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa và Ngài ở đó bốn mươi đêm ngày, chịu satan cám dỗ”. Vị Thánh Sử không nói đến diễn tiến của cuộc cám dỗ nhưng chúng ta cũng hiểu được qua các cuộc đương đầu với ma quỉ trong khi Ngài ra giảng đạo. Marcô còn thêm một chi tiết: Ngài sống chung với dã thú và các Thiên Thần hầu hạ Ngài. Phải chăng Marcô muốn ám chỉ quang cảnh an bình mà Chúa Giêsu, vị Adam mới, đã sống. Ngài đã toàn thắng con rắn hoả ngục dữ tợn muốn cám dỗ Ngài bỏ cuộc, và mở cửa trời cho chúng ta vào hưởng hạnh phúc với các Thiên Thần.

Sau cùng, lời rao giảng của Chúa Giêsu gồm tóm trong hai điểm: Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng. Ta phải ăn năn sám hối tội lỗi. Đó là phần tiêu cực của mọi cuộc trở lại. Nhưng không phải chỉ có thế, có biết bao nhiêu đạo giáo còn đòi hỏi sự hảm mình phạt xác hơn chúng ta. Nhưng điều tích cực là TIN vào Chúa Kitô, chỉ có Chúa mới có thể cứu vãn chúng ta. Đức tin và sám hối là hai yếu tố của mọi cuộc trở lại.

Charles de Foucaul đến gặp một vị linh mục quen là cha Huvelin và tâm sự: Từ ngày lên 15 tuổi, tôi như mất đức tin. Cha Huvelin nhìn con người về từ sa mạc đó và nói: Anh hãy quì xuống xưng tội đi đã. Foucauld đã vâng lời, khiêm tốn làm việc sám hối. Và từ đó, đời của vị sĩ quan ấy đã hoàn toàn đổi mới. “Khi tôi vừa hiểu rằng có một Thiên Chúa thì tôi cũng hiểu rằng tôi không thể làm gì khác hơn là chỉ sống vì Người”.

“Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng”.

 

33.Đức Giêsu trong hoang địa

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện)

Bài Tin Mừng hôm nay (Mc 1,12-15) gồm hai phần: Đức Giêsu ở trong hoang địa (cc.12-13) và Đức Giêsu khai mạc công việc rao giảng (cc.14-15). Vì chúng ta mới suy niệm cc.14-15 trong Chúa Nhật III Thường Niên, nên hôm nay, bài suy niệm này sẽ chỉ tập trung vào phần nói về sự kiện Đức Giêsu ở trong hoang địa. Và những gì sắp được trình bày trong bài suy niệm này sẽ chỉ là một trong những cách hiểu có thể có về sự kiện ấy theo cách diễn tả của tác giả Mc.

Câu chuyện xảy ra ngay sau khi Đức Giêsu chịu phép rửa tại sông Giorđan: “Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa. Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người” (cc.12-13).

Thần Khí, sức mạnh của Thiên Chúa, “đẩy” Đức Giêsu vào hoang địa. “Đẩy” ở đây là một ẩn dụ chỉ sự thúc đẩy thần linh mà Đức Giêsu trải nghiệm; đó là sự thúc đẩy bên trong, mạnh mẽ, không thể cưỡng lại được. Sức mạnh của Thần Khí tràn ngập nơi Đức Giêsu và đặt Người, một cách chắc chắn, vào trong “hoang địa”. Và vì là tác động thần linh của chính Thiên Chúa, sự thúc đẩy và đặt để đó hẳn nhiên sẽ phù hợp với chương trình của Thiên Chúa về Đức Giêsu. Chương trình đó đã từng được tác giả Mc trình bày ngay từ những dòng đầu tiên của cuốn sách như một con đường (1,2). “Hoang địa” mà Thần Khí đẩy Đức Giêsu vào, vì thế, là nơi chốn mà ở đó Người phải thực hiện cuộc hành trình của Người.

Về bản chất, hoang địa này khác hẳn hoang địa của ông Gioan Tẩy Giả. Trong trường hợp của ông Gioan, đó là một nơi chốn địa dư, gần sông Giorđan, không dân cư và tách biệt hẳn xã hội con người; nhưng khi ông Gioan ở đó thì xảy đến hàng loạt những hoạt động do sự xuất hiện của các thành phần xã hội từ bên ngoài kéo đến: ông giảng dạy, ông làm phép rửa và người ta lãnh ơn tha thứ… Còn hoang địa mà Thần Khí đẩy Đức Giêsu vào thì không được xác định rõ ràng. Đức Giêsu đi vào trong hoang địa này bởi tác động của Thần Khí, ở lại đó trong một giai đoạn dài và thuần nhất (40 ngày), chịu cám dỗ, sống giữa các loài dã thú và được các thiên sứ phục vụ. Tác giả không kể bất cứ hoạt động nào của Người, kể cả việc cầu nguyện và ăn chay. Trong hoang địa này, bên cạnh Đức Giêsu, có sự hiện diện của ba loại “cư dân”: Satan, các loài dã thú và các thiên sứ. Tính chất và sự hiện diện đồng thời của ba loại “cư dân” này quanh Đức Giêsu khiến cho hoang địa này không còn mang tính chất địa dư – lịch sử nữa, mà là một hình ảnh ẩn dụ mang tính biểu tượng – thần học.

Đức Giêsu, theo chương trình của Thiên Chúa, đang thực hiện cuộc hành trình của Người, đang đi trên con đường của Người (x.1,2). Đỉnh điểm của cuộc xuất hành của Người sẽ là biến cố tử nạn – phục sinh. Xưa, hoang địa là nơi chốn của cuộc xuất hành của dân Israel đi về đất hứa. Nay, “hoang địa” cũng là nơi chốn diễn ra cuộc hành trình hướng đến biến cố tử nạn – phục sinh của Đức Giêsu. Sự kiện Người sẽ ở trong hoang địa bốn mươi ngày (c.13) củng cố cho cách hiểu này. Mà nếu thế thì “hoang địa” nói đây chính là cái xã hội – tôn giáo Do Thái, trong đó Đức Giêsu sống và hoạt động cho đến khi Người bước vào cuộc tử nạn – phục sinh của Người. Chính Thần Khí đẩy Người đi vào trong cái xã hội – tôn giáo đó.

Nhưng hoang địa, tự bản chất, là hình ảnh của một nơi chốn tách biệt khỏi xã hội. Trong trường hợp của Đức Giêsu, sự tách biệt này, vì thế, phải được hiểu theo nghĩa của sự tách biệt về các nguyên tắc và giá trị. Đức Giêsu ở trong “hoang địa”, tức là Người tuyệt đối không chia sẻ các giá trị giả dối và sai lầm của cái xã hội – tôn giáo Do Thái và không chấp nhận những nguyên tắc và giá trị đó. Có một sự cắt đứt, một sự đoạn tục, một sự tách lìa giữa Đức Giêsu với các nguyên tắc và giá trị đó. Tính chất của ẩn dụ “hoang địa” cho phép chúng ta hiểu như thế.

Bắt đầu Mùa Chay thánh, chúng ta cũng đang được Thần Khí đẩy vào “hoang địa” để thực hiện cuộc xuất hành của chính mình và của cộng đoàn mình. Đối với tuyệt đại đa số chúng ta, đây sẽ không phải là một hoang địa theo nghĩa nơi chốn địa dư, mà là theo nghĩa biểu tượng – thần học. Đó là nơi chúng ta thực hiện cuộc hành trình đời mình như dân Israel xưa thực hiện cuộc hành trình đi từ cõi nô lệ Ai Cập về miền đất hứa “chảy tràn sữa và mật”. Đó là nơi xảy đến cuộc xuất hành của chúng ta, cuộc xuất hành đưa chúng ta vào trong đất hứa là Nước Thiên Chúa. Hoang địa, theo nghĩa đó, là chính môi trường sống và làm việc cụ thể của chúng ta trong hiện tại.

Nhưng “hoang địa” mà Thần Khí đang đẩy chúng ta vào cũng có nghĩa là một chốn tách biệt, như xưa đã xảy ra với Đức Giêsu. Trong ý nghĩa sự “đi vào hoang địa” là biểu tượng cho một sự tách biệt, một sự giữ khoảng cách đối với những nguyên lý và giá trị sai lầm đang chi phối xã hội, thì việc Đức Giêsu vào hoang địa, như chúng ta đã nói, là việc Người không chấp nhận hành xử theo các nguyên lý và giá trị sai lầm của xã hội và tôn giáo Do Thái đương thời. Đối với chúng ta cũng vậy. Thần Khí đang đẩy chúng ta vào hoang địa, cách riêng là trong Mùa Chay thánh này, tức là Thần Khí thúc đẩy chúng ta không thỏa hiệp và không sống theo những nguyên lý và giá trị tầm thường thế gian, ngay trong những môi trường xã hội và môi trường làm việc hiện tại của chúng ta: những ý thức hệ sai lạc, những giá trị ảo của chủ nghĩa hưởng thụ, hay những não trạng duy vật và duy khoái lạc…

Đức Giêsu đã làm theo sự thúc đẩy của Thần Khí. “Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người” (c.13).

Trong Cựu Ước, con số “bốn mươi” thường được dùng để chỉ một giai đoạn trong đó diễn ra một tình trạng thuần nhất nào đó như thời hòa bình hay thời của một triều đại… Thí dụ trong Tl 3,11; 5,31; 8,28; 13,1; 2V 8,17; 12,2 chẳng hạn. Một điều chắc chắn là con số bốn mươi luôn ám chỉ đến bốn mươi năm con cái Israel đi trong hoang địa, tức là giai đoạn họ đi từ chốn nô lệ Ai Cập về đất hứa (x. Ds 14,33.34; 33,38; Đnl 1,3; 2,7; 29,4; Gs 14,17; Tv 95,10; Am 2,10; 5,25…). Vì thế, chi tiết “Đức Giêsu ở trong hoang địa bốn mươi ngày” rõ ràng mang giá trị biểu tượng, chỉ về cuộc xuất hành của Người, tức là cuộc hành trình đưa Người đi đến đỉnh điểm là cuộc tử nạn và phục sinh của Người.

Trong “hoang địa”, Đức Giêsu chịu Satan cám dỗ suốt bốn mươi ngày. “Satan” là một hạn từ Hípri. Thoạt kỳ thủy, hạn từ này về căn bản có nghĩa là một kẻ chống đối hay một đối thủ chuyên cáo tội trong các vụ án (x. Tv 109,6; 1Mcb 1,36). Từ đó nó có nghĩa chỉ về một thành viên của triều đình thiên thai, chuyên cáo tội con người trước mặt Thiên Chúa (x. G 1,6-12; 2,1-7). Vào thời Đức Giêsu, người ta không còn nghĩ Satan là một thành viên của triều đình thiên thai nữa, nhưng có thể hiểu như là một tinh thần thù nghịch của con người, luôn tìm cách đẩy con người đến chỗ sai lạc và luôn muốn tàn phá công trình của Thiên Chúa. Trong cái xã hội Do Thái được ẩn dụ trong bài Tin Mừng bằng hình ảnh “hoang địa”, thì Satan, trong vai kẻ cám dỗ Đức Giêsu, chính là những thế lực/nhân vật liên tục tìm cách làm cho Đức Giêsu phản bội lại chương trình của Thiên Chúa về Người. Trong Mc 8,33 Đức Giêsu sẽ gọi Phêrô là Satan vì ông ta ngăn cản Đức Giêsu thực hiện chương trình của Thiên Chúa và muốn Người đi theo “tư tưởng của loài người”. Trong cuộc đời hoạt động công khai của Người trước khi đi vào cuộc tử nạn – phục sinh, giữa “hoang địa” là xã hội và tôn giáo Do Thái, Đức Giêsu sẽ phải liên tục đối diện với những thế lực/nhân vật như thế. Bài Tin Mừng hôm nay gọi là “Người chịu Satan cám dỗ”.

Loại “cư dân” thứ hai trong “hoang địa” mà bài Tin Mừng hôm nay nhắc đến, là các loài dã thú: Đức Giêsu “sống giữa loài dã thú”. Thông thường, các loài dã thú được hình dung trong đặc điểm hung dữ của chúng: chúng tấn công và thậm chí ăn thịt con người. Vì thế, trong các sách ngôn sứ, ẩn dụ dã thú thường được dùng để nói về tai ương, ví dụ trong Is 18,6; 56,9; Gr 7,33; 12,9; 16,4; Ed 32,4; 34,5. Nhưng rõ ràng đó không phải là trường hợp của Mc 1,13. Có một bản văn ngôn sứ nói về tình trạng tốt lành của việc sống chung với dã thú, là bản văn Is 11,6-9. Nhưng nếu chúng ta chấp nhận cách hiểu ẩn dụ “hoang địa” ở đây ám chỉ xã hội Do Thái đương thời và “các loài dã thú” là một thành phần trong đó, thì cũng rõ ràng là không thể hiểu Mc 1,13 dựa theo Is 11,6-9 được.

Trong số các bản văn Cựu Ước sử dụng ẩn dụ dã thú, đáng chú ý là Đn 7. Trong đó, các dã thú là ẩn dụ chỉ những quyền lực chính trị kinh khủng của các đế quốc ngoại giáo. Hiểu như là một thành phần trong khung cảnh xã hội Do Thái (“hoang địa”), theo nghĩa tương tự như trong Đn 7, các loài dã thú ở đây là ẩn dụ của những thế lực và ảnh hưởng chính trị khác nhau của các phong trào và các ý thức hệ khác nhau. Đó là những thứ quyền lực chính trị – xã hội – tôn giáo áp bức, hay ít là gây sức ép, trên những con người đang sống trong xã hội đó. Chúng tác động trên con người, từ bên ngoài; và chúng sẽ thi thố sức mạnh của mình, ít là về mặt thể lý, để đẩy Đức Giêsu đến cái chết thảm thương trên thập giá sau này. Đức Giêsu “sống giữa loài dã thú” tức là chấp nhận làm đối tượng mà các thứ quyền lực ấy nhắm đến và không ngừng tìm cách tác động, gây ảnh hưởng.

Loại “cư dân” thứ ba trong “hoang địa” mà Mc 1,13 nói đến là các “thiên sứ” (aggelos). Trong Tin Mừng Mc, lần đầu tiên “thiên sứ” được nói đến, chính là ở 1,2. Và hình ảnh của aggelos đó được thể hiện một cách cụ thể – lịch sử nơi Gioan Tẩy Giả (1,4). Như thế, trong Mc, “aggelos” vẫn có thể là con người chứ không nhất thiết phải là hữu thể thiêng liêng. Nếu chúng ta chấp nhận cách giải thích phía trên về ba hình ảnh “hoang địa”, “Satan” và “dã thú”, thì chúng ta cũng sẽ dễ dàng chấp nhận cách giải thích, theo đó, ẩn dụ “các thiên sứ” ở đây ám chỉ một nhóm người nào đó trong cuộc đời hoạt động công khai của Đức Giêsu. Nhóm này có chức năng cộng tác với Đức Giêsu, kể cả việc phục vụ Người. Vậy, có thể hiểu “các thiên sứ” ở c.13 là hình ảnh ẩn dụ của những con người gắn bó với Đức Giêsu, giúp đỡ Người khi Người thi hành sứ vụ và cộng tác với Người trong công cuộc của Người. Đức Giêsu chấp nhận sự phục vụ của các thiên sứ trong hoang địa có nghĩa là người chấp nhận sự phục vụ, giúp đỡ và cộng tác của những con người đó trong khi Người thực hiện chương trình cứu độ của Thiên Chúa.

Tóm lại, trong phần đầu bài Tin Mừng hôm nay, tác giả Mc đã sử dụng những hình ảnh ẩn dụ rất phong phú và sâu sắc. Tất nhiên, cách giải thích vừa được trình bày vẫn chỉ là một trong những cách hiểu về những hình ảnh được tác giả Mc sử dụng. Nhưng dù sao, trong khung cảnh của phụng vụ Chúa Nhật I Mùa Chay hôm nay, cách hiểu này gợi ý cho chúng ta nhiều suy tư thiết nghĩ là rất đáng chú ý, liên quan đến cuộc sống và việc thi hành sứ mạng của các Kitô hữu chúng ta. Chúng ta được mời gọi hãy để cho chính Chúa Giêsu (như được khắc họa trong bài Tin Mừng hôm nay) nói với chúng ta về những gì chúng ta phải sống cách đặc biệt trong Mùa Chay thánh này.

“Thần Khí đẩy Người vào hoang địa. Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người” (Mc 1,12-13).

 

34.Chúa Nhật 1 Mùa Chay

Bước vào Mùa Chay, Giáo Hội kêu gọi chúng ta phải an năn sám hối, sống lại kinh nghiệm 40 năm sa mạc của người Do Thái, sống 40 ngày chay tịnh của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu được Thánh Thần đưa vào hoang địa, 40 ngày ăn chay và chịu ma quỷ cám dỗ, để nêu cao lòng trung tín của Người với Thiên Chúa Cha.

Ma quỷ không nhằm xúi giục Chúa Giêsu vào tội tham ăn, ham mê của cải, danh lợi ở trần gian nhưng nó muốn cám dỗ Chúa Giêsu quên đi sứ mạng cứu thế của mình: từ chối con đường thập giá mà Cha đã trao phó. Đó là cơn cám dỗ Messia. Tại sao Chúa Giêsu phải chịu cám dỗ? Vì Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta cách chống trả cám dỗ. Và hôm nay ma quỷ cũng cám dỗ ta cách khéo léo, tinh vi với mọi hình thức khác nhau, không trừ một cơ hội nào. trong xã hội hưởng thụ ngày nay, con người luôn bị cám dỗ giữa việc xem tivi với việc đọc kinh hôm, kinh mai; giữa vui chơi giải trí và đi lễ; giữa ăn xài phung phí với giúp đỡ người nghèo; giữa gian dối và thành thật, giữa việc học hành và trốn học, quay cóp. Chúng ta bị cám dỗ làm ngơ trước những đau khổ của người khác, im lặng trước những bất công vì sợ liên lụy, làm ngơ trước sự thật, thỏa hiệp với sự dữ để được yên thân, sống buông thả và đeo đuổi những ước vọng, lợi lộc bằng đủ mọi âm mưu mạo hiểm, khiến chúng ta không còn nhận ra Chúa nơi người ăn xin trước cửa nhà, trong khu xóm. Và còn biết bao cám dỗ mời mọc khác, chúng ta chỉ nghĩ đến mình và lo cho mình.

Ma quỷ không làm cho chúng ta bỏ Chúa, nhưng làm lệch hướng đi của chúng ta, khiến chúng ta có những suy nghĩ sai lạc về Thiên Chúa, bắt Thiên Chúa phục vụ cho những lợi ích riêng của mình; nó làm cho chúng ta cảm thấy chán nản, lười biếng, thờ ơ các việc bổn phận, việc đạo đức, làm cho lòng mến Chúa trong chúng ta phai mờ đi.

Cám dỗ là một thực tế chúng ta không thể nào lẫn tránh được. Vì thế, chúng ta phải luôn sám hối và nhìn lại cách sống của mình để chiến đấu với cám dỗ. Nhưng bằng cách nào? Hãy nhìn Chúa Giêsu, một mẫu gương tuyệt vời, Ngài đã chiến thắng ma quỷ bằng việc ăn chay, cầu nguyện và lắng nghe Lời Chúa để làm theo thánh ý Cha. Phần chúng ta, cũng phải siêng năng cầu nguyện, lắng nghe tiếng Chúa qua việc tham dự thánh lễ cách sốt sắng, đọc kinh trong gia đình, biết hy sinh hãm mình làm việc bác ái. Chính những lúc thuận tiện này chúng ta gặp gỡ Chúa để Ngài ban sức mạnh cho ta. Xin Chúa Thánh Thần giúp sức cho ta vượt thắng các cám dỗ, xin cho mỗi người chúng ta luôn biết trông cậy vào Chúa, nhờ đó chúng ta mới có thể đứng vững trước những cám dỗ của ma quỷ, của thế gian, của xác thịt.

CÂU HỎI GỢI Ý:

Khoa học càng tiến bộ, con người càng cần có bản lãnh để làm chủ. Bạn thấy khi nào con người bị coi là làm nô lệ cho của cải vật chất?

Không những phải chống lại cơn cám dỗ, mà còn phải xa tránh những nơi, những người có thể đưa đến cám dỗ. Theo bạn, người trẻ hay bị cám dỗ ở đâu? Với ai?

 

35.Cám dỗ

1. Dân gian ta có câu: "Lửa thử vàng, gian nan thử sức". Dùng lửa để thử vàng, là một phương cách có từ xưa để xem vàng thật hay giả, có gian nan mới biết ai có khả năng, bản lĩnh để vượt qua. Thiết nghĩ con đường theo Chúa mà hoàn toàn thuận lợi, dễ dàng thì đạt hạnh phúc Nước Trời không có giá trị gì, bởi ai cũng như ai! Nhưng thực tế trong đời sống đạo, những thử thách, những cám dỗ luôn tồn tại. Chúng ta đừng bi quan, mà hãy xem nhũng lúc như thế là lúc toi luyện lòng thành của chúng ta đối với Thiên Chúa.

2. Kẻ thù của Thiên Chúa cám dỗ không trừ một ai, trong bài Tin Mừng theo Thánh Mác-cô chúng ta vừa nghe, Đức Giêsu trong thân phận Thiên Chúa làm người, vào hoang mạc để cầu nguyện 40 đêm ngày, cũng chính thời gian ấy, Ngài bị cám dỗ. Máccô trình bày sơ qua thôi, còn Luca và Mátthêu trình bày rõ 3 cơn cám dỗ mà Đức Giêsu phải chịu: Đá biến thành bánh; nhảy xuống từ trên cao để Thiên Chúa ra tay nâng đỡ; và thờ lạy ma quỷ để nó "ban cho" tất cả! Nói chung, là ma quỷ cám dỗ Đức Giêsu để Ngài bỏ đường lối của Thiên Chúa, con đường khiêm hạ và đau khổ để chọn con đường dễ dãi trong công việc cứu chuộc loài người. Làm sao Ngài đã thắng được cám dỗ? Thưa nhờ cầu nguyện gắn bó cùng Cha, dưới sự nâng đỡ của Thánh Thần. Đó cũng là bài học quý báu cho mỗi người chúng ta.

3. Cám dỗ là một điều gắn liền với con người, có thể nói từ khi con người xuất hiện là có cám dỗ, để lôi kéo con người ra khỏi tình thương của Thiên Chúa, và nó sẽ còn tồn tại với con người ở trần gian này. Hẳn ai trong chúng ta cũng rõ Adong, Evà bị cám dỗ và thánh Gióp trong Cựu Ước đã bị ma quỷ xin phép Thiên Chúa cám dỗ để xem lòng trung thành của ông đối với Thiên Chúa. Nhưng Adong, Evà đã bị thất bại vì nghe lời ma quỷ, còn thánh Gióp thì kiên trì trong thử thách, quyết trung thành với Thiên Chúa vì thế ma quỷ đã chào thua!

Ngày nay chúng ta thấy nhiều người quỵ ngã trước cám dỗ, kể cả các Kitô hữu. Thực ra, không phải con người yếu đuối hơn thời xưa. Nhưng sống trong một xã hội càng văn minh, tiến bộ người ta dễ bị lôi cuốn vào nhu cầu hưởng thụ, dễ dãi:

- Chọn loại băng dĩa nào đây? Loại lành mạnh hay là những loại "tươi mát" nhằm thoả mãn dục vọng?

- Chọn loại giải trí nào đây? Cờ bạc, đá gà, hay tìm đến những loại giải trí, môn thể thao hữu ích?

- Chọn ưu tiên đi đâu đây vào ngày Chúa Nhật? Đi lễ nhà thờ hay đi chơi, đi du lịch? v.v..

Ngày nay người ta đề cao tự do, nhưng rồi lèo lái để làm cả những việc sai trái, xem thường cả luân thường đạo lý: Tự do luyến ái trước hôn nhân, tự do sống với người khác như vợ như chồng của mình, tự do châm biếm đả kích người khác v.v...

4. Đối với người Kitô hữu, về phương diện nào đó, cám dỗ là một điều cần thiết trong cuộc sống. Từ xưa, người ta biết dùng lửa để thử vàng thật giả, người ta biết đáng giá lòng người, sức người qua thử thách. Vì thế bước đường theo Chúa cám dỗ không hẳn luôn là có hại, mà là phương thế để toi luyện lòng người. Ta vẫn nghe câu nói:"bạn trong lúc khó khăn mới là bạn tốt". Trong đời sống thiêng liêng, giữa muôn vàn thử thách, nếu chúng ta vẫn trung thành với lời Thiên Chúa dạy, vẫn chọn Người là trên hết, thì chúng ta mới là người con thảo của Người, là người bạn thân của Đức Giêsu. Các thánh, nhất là các thánh tử đạo đã minh chứng cho chúng ta rất rõ điều này, chúng ta vẫn có thể thực hiện điều này trong cuộc sống chứng nhân giữa đời thường.

5. Đức Giêsu, Ngài không những nêu gương mà còn chỉ rất rõ con đường để chúng ta khỏi rơi vào cạm bẫy của ma quỷ, như trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, chính Ngài đã dạy: "Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng". Như thế nhìn nhận lỗi lầm của chúng ta (ăn năn, vì chúng ta để mình rơi vào cám dỗ của ma qủy) chưa đủ, mà còn phải thay đổi nếp sống cũ bằng cách tin vào Đức Giêsu và tích cực thực hiện những điều Người dạy.

Cụ thể trong Mùa Chay này, nhờ ơn Chúa giúp, mỗi người chúng ta ra sức thực hiện: ăn chay (đền tội); cầu nguyện (gia tăng sự gắng bó với Thiên Chúa); và thực thi bác ái (gia tăng tình liên đới với tha nhân). Đây là những phương thế hữu hiệu để khỏi rơi vào chước cám dỗ và dẫn đưa chúng ta đến con đường trọn lành. Amen.

 

36.Mùa Chay: Hãy sám hối

(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

Chúng ta bước vào Mùa Chay thánh. Đây là thời gian mà thánh Phaolô gọi là thời gian thuận tiện, ngày cứu độ (2Cr 6,2b). Mùa chay là thời gian thuận lợi để chúng ta rà xét lại con người của chúng ta để biết chúng ta đang như thế nào, có đi đúng con đường Chúa đã chỉ cho không, mà nếu chúng ta đã đi lệch khỏi con đường Chúa chỉ dạy thì phải ăn năn sám hối trở về con đường lành. Sám hối là trở về với Chúa.

I. SÁM HỐI THEO THÁNH KINH

Ngay từ đầu, con người đã phạm tội, nhưng Thiên Chúa luôn kêu mời họ. Lời đáp trả tiếng mời gọi của Thiên Chúa sẽ đòi họ phải biến cải, rồi trong suốt cuộc sống phải có thái độ sám hối. Do đó, hoán cải và sám hối chiếm một địa vị đáng kể trong mạc khải Thánh kinh.

Từ ngữ thông dụng nhất là động từ sub diễn đạt ý tưởng thay đổi hướng đi, trở về. Trên bình diện tôn giáo, nó biểu thị việc người ta từ bỏ những gì xấu và quay về Thiên Chúa. Ngày nay người ta hay dùng danh từ metanoia chỉ sự thống hối, ăn năn, trở về với Chúa.

1. Trong Cựu ước

a) Thực hành trong cuộc sống

Người dân hiểu rằng mình đã ký giao ước với Thiên Chúa và giao ước đã bị vi phạm do tội lỗi của dân, cần phải nối lại giao ước ấy. Để nối lại giao ước ấy người ta đã khẩn nài Thiên Chúa tha thứ bằng cách thực hành những việc khổ chế và những phụng vụ sám hối: chay tịnh (Tl 20,26; 1V 21,8tt), xé áo mình ra và mặc áo nhặm (1V 20,31t; Is 22,12; x. Ga 3,5-8), nằm trên tro (Is 58,5; Sm 12,16). Trong các buổi cử hành phụng vụ, người ta rên siết và than khóc như trong đám tang (Tl 2,4; Gl 1,13).

b) Sứ điệp hoán cải của các ngôn sứ

Các ngôn sứ đã tuyên sấm lời Chúa cho dân giúp họ nhận ra sự phản bội của mình mà sám hối, quay trở về với Thiên Chúa.

Trước tiên, ngôn sứ Nathan đã được sai đến cùng vua Đavít cảnh cáo về tội ngoại tình. Đavít đã được hướng dẫn thú nhận tội lỗi mình (2Sm 12,13), đoạn đền tội theo qui luật và sau cùng chịu Thiên Chúa sửa phạt (Sm 12,13-23).

Tuy nhiên sứ điệp sám hối của các ngôn sứ, nhất là từ thế kỷ thứ 8 nhắm tới toàn thể dân chúng, Israel đã vi phạm giao ước, “đã bỏ Giavê và khinh rẻ Đấng thánh của Israel” (Is 1,4). Giavê có quyền bỏ họ nếu họ không hoán cải. Thế nên, việc kêu gọi sám hối sẽ là một khía cạnh cốt yếu trong cuộc rao giảng của các ngôn sứ.

Amos, ngôn sứ của sự công chính, không chỉ hài lòng với việc tố cáo tội lỗi của người đương thời mà còn phải sự lành chứ không phải sự dữ, phải “chê ghét sự dữ và yêu mến sự lành” (Am 5,14 t). Điều đó bao hàm việc chỉnh đốn hạnh kiểm và thực thi nghiêm chỉnh sự công chính, chỉ có sự quay đổi như vậy mới có thể được Thiên Chúa dủ lòng thương xót “nhóm còn lại của Giuse” (Am 5,15t)

Cũng thế, Osée đòi buộc phải thực sự dứt bỏ tội lỗi và đặc biệt là dứt bỏ sự sùng bái ngẫu tượng. Ông loan báo: Thiên Chúa sẽ ban lại ân huệ của Ngài và sẽ nguôi giận (Os 14,2-9).

Isaia tố cáo mọi tội lỗi nơi dân Giuđa: vi phạm công bình, làm sai lạc phụng tự, bám víu vào chính trị loài người vv... Chỉ có việc hoán cải chân thực mới mang lại sự cứu rỗi, vì nơi nào không qui phục thánh ý của Thiên Chúa, thì phụng tự chẳng có giá trị gì cả (Is 1,11-15; x. Am 5,21-25). Isaia bị phản đối, nhưng ông cũng có thể xác quyết một điều là: ”Nhóm còn lại sẽ trở về... với Thiên Chúa hùng mạnh” (Is 10,21). Dân tộc sau cũng được hưởng ơn cứu rỗi sẽ toàn những người hối cải mà thôi.

Việc nhấn mạnh đến những tâm tình bên trong phải dâng tiến Thiên Chúa đã chóng trở thành một đề tài thông dụng trong giáo huấn của các ngôn sứ.

Mika rao giảng công chính, hiền từ và khiêm nhường (Mk 6,8).

Xophonia lặp lại khiêm nhường và thành thật (Xp 2,3; 3,12t).

Nhưng Giêrêmia theo đường hướng tư tưởng của Osée, đã quảng diễn rộng rãi chủ đề hoán cải. Sở dĩ ngôn sứ loan báo các tai họa đe dọa Giuđa, chính vì để mỗi người từ bỏ con đường bất chính trở về và để Giavê có thể tha thứ họ (Gr 36,3).

Ezechiel, trung thành với truyền thống ngôn sứ, đặt trọng tâm sứ điệp của ông vào việc cần phải hoán cải trong lúc thực hiện những lời đe dọa của Thiên Chúa, “Hãy vứt xa tội lỗi của các ngươi đã vấp phạm, hãy tạo cho mình một quả tim mới và một tinh thần mới. Hỡi nhà Israel, tại sao các ngươi phải chết? Ta có muốn cho ai phải chết đâu! Hãy hoán cải và các ngươi sẽ được sống” (Ed 18, 31t).

Vậy từ Amos đến Ezechiel, giáo thuyết về hoán cải vẫn được nghiên cứu sâu xa, song song với mức độ hiểu biết về tội lỗi. Vào cuối thời lưu đầy, sứ điệp an ủi ghi nhận Israel đã hoán cải hữu hiệu, được cứu độ. Và sau Israel, đến lượt chư dân cũng sẽ hoán cải: từ bỏ các ngẫu tượng, họ đều quay về với Thiên Chúa hằng sống (Ed 45,14t; Gr 16,19tt).

2. Trong Tân ước

a) Gioan Tẩy giả

Đây là ngôn sứ bản lề giữa Cựu ước và Tân ước. Sứ điệp hoán cải của các ngôn sứ hội tụ lại với tất cả vẻ tinh tuyền của nó trong lời giáo huấn ông, vị ngôn sứ cuối cùng. Luca đã tóm lược sứ mệnh người như sau: “Người sẽ dẫn dắt nhiều con cái Israel về với Chúa, Thiên Chúa họ” (Lc 1,16t). Sứ điệp của người được đúc kết trong câu: ”Hãy hoán cải vì Nước Trời đã gần kề” (Mt 3,2).

Gioan khuyên mọi người phải tự nhận là kẻ có tội, phải sinh hoa trái xứng với lòng thống hối (Mt 3,8), chấp nhận một nếp sống mới thích hợp với tình trạng mình (Lc 3,10-14). Để đánh dấu cuộc hoán cải này, Gioan trao ban một phép rửa bằng nước để chuẩn bị các hối nhân nhận lãnh phép rửa bằng lửa và bằng Thánh Thần mà Đấng Messia sẽ ban (Mt 3,11tt).

b) Đức Giêsu

Ngài cũng là một đại ngôn sứ trong Tân ước. Mở đầu việc rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa, Ngài cũng dùng lời mời gọi hoán cải mà ông Gioan Tẩy giả đã rao giảng trước: ”Hãy ăn năn sám hối và tin vào Phúc âm” (Mc 1,15; Mt 4,17), Ngài đã đến chính là để kêu gọi tội nhân hoán cải (Lc 5, 32) Đó chính là một khía cạnh cốt yếu của Tin Mừng Nước Trời.

Nhưng sứ điệp hoán cải gặp nhiều chống đối từ việc dính bén của cải (Mc 10,21-25) cho tới tính kiêu căng của Pharisêu (Lc 18,9). Quả thật, tính ngoan cố hiện tại của Israel là dấu chỉ sự cứng lòng (Mt 13,15tt; x. Is 6,10). Nếu không thay đổi nếp sống, thì các kẻ nghe lời Đức Giêsu mà vẫn còn cố chấp trong tội lỗi sẽ bị hủy diệt (Lc 13, 1-5).

Khi đòi hỏi hoán cải, Đức Giêsu không có ý nhằm tới phụng vụ sám hối với hình thức bên ngoài, mà chính là sự thay đổi con tim khiến ta lại trở nên như trẻ nhỏ (Mt 18,3tt), tìm kiếm Nước Thiên Chúa (Mt 6,33) nghĩa là chỉnh đốn lại cuộc sống của mình theo Luật mới.

c) Các Tông đồ

Lúc sinh thời, Đức Giêsu đã sai các sứ đồ đi rao giảng sám hối và loan truyền Tin Mừng Nước Thiên Chúa (Mc 6,12). Sau khi sống lại, Ngài đã nhắc lại cho họ sứ mệnh ấy: Nhân danh Người, các ngài sẽ đi rao giảng sự thống hối cho chư dân để họ được tha tội (Lc 24,47), vì tội lỗi sẽ được tha thứ cho những ai được các ngài tha thứ (Ga 20,23). Sách Công vụ tông đồ và các thư cho ta thấy mệnh lệnh này được chu toàn thế nào. Tuy nhiên, tùy trường hợp là Do thái hay lương dân, mà việc hoán cải này mặc hình thái khác biệt nhau.

d) Hội thánh Công giáo

Hành vi hoán cải mà phép rửa niêm ấn được hoàn tất cách dứt khoát một lần mà thôi. Không thể lặp lại ơn sủng ấy lần nào nữa (Dt 6,6). Thế nhưng những người đã chịu phép rửa vẫn có thể sa ngã phạm tội: cộng đoàn sơ khai ngay từ lúc đầu đã có kinh nghiệm về điều đó. Trong trường hợp này, dù sao chăng nữa sự ăn năn cũng vẫn cần thiết nếu người ta muốn tham dự vào ơn cứu rỗi, ví dụ Phêrô đã kêu gọi nhà ma thuật Simon hoán cải (cvtđ 8,22), Giacôbê hối thúc các Kitô hữu nhiệt thành lo dẫn đưa những người tội lỗi ra khỏi sự lầm lạc của họ (Gc 5,19t). Phaolô vui mừng vì các tín hữu Corintô đã ăn năn (2Cr 7,9t). Sau cùng, trong sứ điệp gửi bảy Giáo hội mà sách Khải huyền nói tới, thấy hiện rõ những lời mời gọi ăn năn, những lời mời gọi cho thấy đã có những người sa ngã không còn sốt mến như xưa (Kh 2,5; 16,21t).

3. Sám hối là điều cần thiết

Trong Cựu ước và Tân ước, chúng ta thấy Thiên Chúa luôn luôn kêu gọi con người hãy bỏ con đường tội lỗi mà trở về với Ngài. Lòng sám hối được biểu lộ ra qua những dòng nước mắt ăn năn. Điếu này rất tốt đẹp, hữu ích và làm đẹp lòng Thiên Chúa.

Truyện: nước mắt sám hối

Người Hồi giáo thường kể rằng: Ngày kia Đức Ala truyền cho một sứ thần xuống thế gian tìm xem có điều gì tốt đẹp nhất để mang về trời.

Sứ thần đáp ngay xuống một chiến trường máu của các vị anh hùng đang chảy lai láng. Sứ thần thu nhặt một ít máu mang về cho Đức Ala. Nhưng xem ra Đức Ala không hài lòng mấy.

Ngài bảo: “Máu đổ ra cho tổ quốc và tôn giáo là một điều qúi giá, nhưng vẫn chưa phải là điều tốt đẹp nhất nơi trần gian”.

Sứ thần đành phải giáng thế một lần nữa. Lần này ngài gặp đám tang của một người giầu có nhưng rất quảng đại. Vô số người nghèo đi theo sau quan tài, vừa đi vừa khóc lóc vừa xông hương để biểu lộ lòng biết ơn của họ đối với vị đại ân nhân. Sứ thần liền thu nhặt hương thơm và mang về trời. Lần này Đức Ala mỉm cười đón lấy hương thơm ngào ngạt. Nhưng xem ra Ngài vẫn chưa hài lòng. Ngài nói: ”Dĩ nhiên lòng biết ơn là một trong những điều tốt đẹp và hiếm có dưới trần gian. Nhưng Ta nghĩ rằng còn có một cái gì tốt đẹp hơn”.

Lại một lần nữa, sứ thần đành phải vâng lệnh. Sau nhiều ngày tìm kiếm khắp bốn phương, một buổi chiều nọ ngồi nghỉ bên vệ đường Ngài bỗng thấy một người đàn ông đang khóc sướt mướt. Trước câu hỏi đầy ngạc nhiên của sứ thần, người đàn ông giải thích: ”Tôi đã chiều theo cơn cám dỗ mà phạm tội. Giờ đây nước mắt là lương thực hằng ngày của tôi”.

Sứ thần giơ tay hứng lấy những giọt nước mắt còn nóng hổi và thẳng cánh bay về trời. Đức Ala chăm chú nhìn những giọt nước mắt rồi mỉm cười nói: ”Thế là ngươi đã hoàn thành tốt nhiệm vụ. Quả thật, dưới trần gian không có gì tốt đẹp và hữu ích cho bằng lòng sám hối. Bởi vì nó có sức canh tân cuộc đời. Một lòng sám hối chân thật có sức biến đổi mùa đông giá rét của lòng người thành mùa xuân ấm áp của tình yêu”.

(D. Wahrheit, Món quà Giáng sinh, tr 304)

II. NHU CẦU PHẢI SÁM HỐI

Ta hãy đọc một đoạn Phúc âm theo thánh Luca nói về dụ ngôn con chiên lạc (Lc 15,44-47). Trong bài Phúc âm này, ta thấy Đức Giêsu đã đưa ra một dụ ngôn về con chiên lạc. Con chiên bị thất lạc hoặc tự ý riêng mà bị thất lạc hoặc người khác làm cho bị lạc, cả hai cần được tìm về trong đàn. Nếu con chiên lạc mà được tìm thấy thì chủ vui mừng biết bao! Người chủ phải tổ chức tiệc ăn mừng. Qua dụ ngôn này, Đức Giêsu cũng kêu gọi những người đã lạc đường hãy ăn năn trở lại; và Thiên Chúa vui mừng biết bao khi có người tội lỗi ăn năn trở lại (Lc 15,4-7).

Trong mùa Chay, ta hay nghe cái từ ngữ Sám hối. Sám hối có nghĩa là trở về, trở về nơi mình đã xuất phát. Nói trở về là nói mình đang ở xa. Xa nhà, nay tôi trở về. Khoảng cách không gian cho ta cảm tưởng rõ ràng một sự cách biệt.

Khi định nghĩa trở về trong ý nghĩa thiêng liêng, ta thấy khó hơn. Thí dụ, nói tôi trở về với Chúa. Cái khoảng cách giữa tôi và Chúa không biết ngắn hay dài. Lấy gì để mà đo. Nếu xét rằng tôi không phạm tội nặng, tôi vẫn đi lễ, thì dường như tôi không xa Chúa. Tôi không cần đặt vấn đề trở về.

Đọc dụ ngôn con chiên lạc, ta thấy ngay là con chiên đó xa đàn. Hình ảnh Chúa đi tìm làm ta thấy con chiên này cần trở về. So sánh mình với người khác, ta thấy có người bỏ nhà thờ, có người có đời sống tội lỗi công khai. Như thế, họ cần trở về hơn mình. Tuy nhiên, đọc kỹ đoạn Phúc âm trên, ta thấy sự trở về có thể là cần thiết cho những con chiên không bỏ đàn đi, không bỏ nhà thờ, vẫn ở trong nhà thờ.

Do đó, chúng ta đừng nghĩ rằng: chỉ những người không tin Chúa hay đã bỏ Chúa mới cần trở về; còn chúng ta là những Kitô hữu đích danh, hằng ngày vẫn đi lễ, xưng tội, rước lễ, làm các việc lành phúc đức thì chẳng cần phải trở về vì chúng ta đang ở trong đạo, trong Giáo hội mà!

Nhưng rất có thể chúng ta đã trở nên vô đạo hoặc tệ hơn nữa là vô thần lúc nào không biết; tuy mang danh là Kitô hữu mà đời sống còn tệ hơn người vô đạo. Người ngoại đạo tuy ở ngoài đạo, ngoài Giáo hội mà lòng họ vẫn liên kết với đạo, vẫn có lòng tin, vẫn muốn sống vươn lên trong tâm tình ước muốn:

Lạy Chúa, con là người ngoại đạo

Nhưng tin có Chúa ngự trên cao.

Cũng như bây giờ, có người ở trong nhà thờ mà lòng trí họ đang ở ngoài nhà thờ, trong khi đó có nhiều người đang ở ngoài nhà thờ mà lòng trí họ đang ở trong nhà thờ.

Vì vậy trong mùa Chay này ta thử xét lại, tuy mình là Kitô hữu đấy mà có thực sự gắn bó và ở trong Giáo hội không. Tuy là con cái Chúa đấy mà có sống trong ân tình của Chúa không hay là ta đã xa Chúa? Nếu thành thực xét mình thì không ai dám nói mình là người sống thánh thiện, sống khăng khít với Chúa, chỉ có những người Pharisêu và Luật sĩ thì mới dám nói như vậy (x. Lc 16,15). Vì thế, chúng ta phải rà xét lại cuộc sống của chúng ta xem như thế nào, sống xa Chúa bao nhiêu và quyết tâm trở về. Sự trở về đòi ta phải thành thực và can đảm nhìn nhận những lỗi lẫm của mình để xin Chúa ban ơn tha thứ.

Truyện: ông Mahatma Gandhi

Mahatma Gandhi có kể về cuộc đời ông như sau: Hồi tôi 15 tuổi, tôi mắc một tật rất xấu, là tội ăn trộm. Khi đó tôi mắc nợ người bạn một số tiền khá lớn, thế rồi tôi đã về lấy của cha tôi một vòng đeo tay bằng vàng để bán lấy số tiền trả nợ.

Nhưng sau đó, tôi luôn luôn bị lương tâm cắn rứt, không cho tôi được giây phút bình an. Tôi không thể sống trong tình trạng này nữa. Tôi nhất quyết phải đến thú tội với ba tôi càng sớm càng tốt. Nhưng khi đến trước người, vì xấu hổ và sợ hãi nên tôi không thể thốt ra lời. Sau đó tôi liền nghĩ ra một cách thú tội bằng giấy mực. Tôi đã cầm tờ giấy đó đến trước mặt cha tôi, toàn thân tôi run rẩy và trao tờ giấy đó cho cha tôi. Ông đã đọc tờ thú lỗi của tôi, sau đó ông nhắm mắt lại trong giây lát và đã xé tờ giấy thành nhiều mảnh, rồi nói với tôi: ”Biết mình là điều rất tốt”, và đến ôm chầm lấy tôi trong vòng tay tràn đầy yêu thương, tha thứ của người. Từ giây phút đó tôi hiểu và thương mến cha tôi hơn.

Muốn sám hối, điều kiện cần là phải biết mình, có biết mình có tội, có biết mình mắc lỗi lầm thì mới có thể sám hối được; nếu không có tội thì làm gì phải thống hối? Những người Luật sĩ và Pharisêu là những người không biết mình, họ luôn tự hào là những người đạo đức thánh thiện thì làm gì phải sám hối, làm gì phải quay trở lại? Những lời kêu mời của Chúa Giêsu chẳng có tác dụng gì đối với họ, trái lại càng làm cho họ thêm thù ghét.

Truyện: thủ tướng Bốphốp nhận lỗi

Theo một bản tin của hãng thông tấn Amsa truyền đi, thì vị thủ tướng của nước Úc là Bốphốp đã bị cảnh sát công lộ phạt 100 Úc kim vì đi xe hơi mà không đeo giây an toàn. Sự kiện xẩy ra sau khi đài truyền hình số 9 của Úc trình chiếu cảnh thủ tướng đang ngồi trong chiếc công xa chở ông đến thành phố Besthen mà không thắt dây an toàn. Theo dõi hình ảnh ấy, nhiều khán thính giả đã gọi dây nói đến sở cảnh sát của tiểu bang Besthen để phản đối việc thủ tướng của họ không giữ luật giao thông. Cũng ngày hôm đó, giám đốc sở cảnh sát bang Uyheslen đã nhận được một cú điện thoại của thủ tướng Hốp, người được xem là có quyền lực cao nhất tại Úc, đã nhìn nhận lỗi lầm vì không giữ đúng luật giao thông, và ông đã xin được xử lý như tất cả mọi người công dân khác. Kết quả là sở cảnh sát của tiểu bang đã phạt ông 100 Úc kim.

(Hạt giống âm thầm (bản ronéo), tr 320)

III. THIÊN CHÚA GIẦU LÒNG THA THỨ

1. Trong Cựu ước

Lịch sử dân Israel xưa là lịch sử của một dân phản bội và của lòng thương yêu tha thứ của Thiên Chúa. Dân Chúa luôn phản bội giao ước nhưng Thiên Chúa không thất vọng, Người luôn kêu mời họ trở lại để sống trong ân tình của Người. Chúng ta hãy nhìn qua cách cư xử của dân.

a) Trong sa mạc

Sau phép lạ lớn lao làm cho dân vượt qua Biển Đỏ khô chân, dân Chúa tiếp tục cuộc hành trình đi về đất hứa. Trong sa mạc, dân Chúa luôn càm ràm và phản đối ông Maisen như trường hợp ở Meriba và ở Massa. Có lần Thiên Chúa đã cho rắn lửa bò ra cắn chết nhieu người. Dân chúng hồi tâm, nhờ ông Maisen can thiệp với Chúa. Chúa nhận lời và bảo ông Maisen đúc con rắn bằng đồng treo trên cây sào để ai bị rắn cắn, nhìn lên con rắn sẽ được khỏi.

b) Nơi đất hứa

Thiên Chúa đã giải phóng dân Ngài khỏi ách nô lệ của Ai cập, đem họ vào đất hứa chảy sữa cùng mật, phân phát cho dân Ngài phần đất của dân ngoại làm cơ nghiệp. Thiên Chúa chỉ đòi buộc dân Ngài phải trung thành, không được thờ các thần của dân ngoại. Nhưng dân Chúa đã bất trung với giao ước mà cha ông họ đã ký kết với Thiên Chúa, nên Ngài để cho dân ngoại đến giầy xéo đất nước và bắt họ đi lưu đầy. Vua Nabuchodonosor bắt họ đi lưu đầy ở Babylon từ năm 721 đến năm 538 họ mới được trở về với chỉ dụ của vua Cyrô (2V 17,6), cuộc lưu đầy kéo dài 83 năm.

c) Cảnh cáo và khuyên răn

Khi dân Chúa đã trở về quê hương sau thời gian lưu đầy, trùng tu lại đền thờ Giêrusalem, dân vui mừng vì được giải phóng, lo việc thờ phượng Chúa. Nhưng chứng nào tật ấy, dân lại bất trung, đi vào vết xe cũ, Thiên Chúa sai nhiều tiên tri đến cảnh cáo và khuyên răn như thời còn bị lưu đầy:

“Hãy trở lại, hãy từ bỏ mọi tội phản nghịch của các ngươi, không còn được chướng ngại nào làm các ngươi phạm tội nữa. Hãy quẳng khỏi các ngươi mọi tội phản nghịch các ngươi đã phạm. Hãy tạo cho mình một trái tim mới và một thần khí mới” (Ed 18, 30b-31).

d) Thiên Chúa tha thứ

Tuy con người phản bội, Thiên Chúa vẫn luôn tha thứ. Câu chuyện sau đây sẽ chứng minh điều đó:

Thiên Chúa xúi ngôn sứ Osée đi kiếm một con điếm về làm vợ. Lẽ thường thì không ai làm như vậy. Thanh niên họ có chơi thì chơi với gái điếm, còn khi lấy vợ thì phải tìm đến con gái nhà lành chứ! Đàng này ông Osée nghe lời Chúa đi lấy một cô gái điếm về làm vợ. Hai người thương yêu nhau thắm thiết. Bà ta sinh ra cho ông được ba đứa con và đặt cho mỗi đứa một tên kỳ quặc, nếu dịch ra tiếng Việt thì có nghĩa như là “Nguyễn-văn-Chúa-không-thương-mày-nữa”.

Ngày tháng trôi qua, nhớ lại cảnh sống xưa, bà ta bỏ ông để đi theo cái nghề cũ. Chúng ta thử xem ông ta có đủ can đảm mà tha thứ và còn đi rước bà ta về, lại còn yêu thương như trước không? Khó quá!

Thiên Chúa lại xúi ông Osée đem tiền đem bạc đi để chuộc bà ta về. Ông ta đã làm như vậy. Khi đã trở về, ông ta lại tiếp tục yêu thương vợ như cũ.

Đây là câu chuyện có thật trong Thánh kinh và cũng là hình ảnh nói lên Thiên Chúa yêu thương và tha thứ cho chúng ta mặc dầu chúng ta phản bội Ngài. Xin lỗi ông bà anh chị em, tôi có thể nói rằng: trước mặt Thiên Chúa chúng ta đều là gái điếm cả, vì gái điếm thì theo hết người này tới người khác, còn chúng ta thì theo hết thần này đến thần khác: thần tình ái, thần sắc dục, thần tiền của, thần danh vọng, thần cờ bạc, và không biết bao nhiêu thần khác nữa.

2. Trong Tân ước

Chúng ta là dân Israel mới, tiếp nối dân Israel cũ, chúng ta lại đi vào con đường cũ: bất trung, phản bội. Chúa Giêsu đã chịu chết chuộc tội cho chúng ta và đã lấy máu đổ ra trên thập giá để ký kết giao ước vĩnh cửu với loài người. Chúa luôn trung thành với lời hứa, nhưng con người lại phản bội. Tuy thế, Ngài vẫn thương yêu và tha thứ, kêu gọi con cái hãy trở về trong tình thương của Ngài.

Thánh Luca đã kể ra ba dụ ngôn; con chiên lạc, đồng tiền đánh mất và nhất là câu chuyện đứa con phung phá (Lc 15, 11-32) đã chứng tỏ: tuy người con đã từ bỏ cha mà đi hoang nhưng người cha vẫn nóng lòng chờ đợi con trở về:

Nhớ ai bổi hổi bồi hồi

Nhớ ai hết đứng lại ngồi không yên.

(ca dao)

Khi người con hối hận trở về, người cha vội sai gia nhân mặc áo mới cho cậu, xỏ giầy vào chân, xỏ nhẫn vào tay, giết con bò đã vỗ béo ăn mừng. Tại sao lại có sẵn áo mới, giầy mới và bê đã vỗ béo? Điều đó chứng tỏ người cha hy vọng cậu con trai sẽ trở về nên đã chuẩn bị sẵn sàng những thứ đó. Người cha không thất vọng về người con. Cũng thế, Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về chúng ta, Ngài vẫn luôn giang cánh tay ra chờ đón.

3. Chúa Giêsu, nguồn ơn tha thứ

Thiên Chúa là người Cha giầu lòng thương xót sẵn sàng tha thứ cho những sự bội bạc của con cái như trong dụ ngôn đứa con hoang đàng (Lc 15). Ta hãy đặt mình vào tình trạng của đứa con trong bước đường cùng và hãy tự nhủ mình: ”Thôi, ta đứng lên, đi về cùng Cha và thưa với Ngài: Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như người làm công cho cha vậy” (Lc 15, 18-19).

Đức hồng y F.X. Nguyễn văn Thuận trong bài giảng tĩnh tâm cho Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô 2 và giáo triều Roma đã trình bầy đề tài “các khuyết điểm của Chúa Giêsu” để nói lên lòng thương yêu tha thứ của Ngài.

a) Đức Giêsu không có trí nhớ tốt

Trên thập giá, trong lúc hấp hối. Đức Giêsu nghe tên trộm bên phải nói: ”Thưa ông Giêsu, xin nhớ đến tôi, khi ông vào nước của ông” (Lc 23,42). Giả sử đó là tôi, thì có lẽ tôi đã trả lời: ”Tôi sẽ không quên anh nhưng anh phải đền bù các tội ác của mình ít là khoảng 20 năm trong luyện ngục”. Trái lại, Chúa trả lời anh ta: ”Ngày hôm nay, ngươi sẽ được ở cùng Ta trên thiên đàng” (Lc 23,43).

Điều tương tự cũng xẩy ra với người đàn bà tội lỗi đã xức dầu thơm cho chân Chúa: Chúa Giêsu chẳng hỏi gì về quá khứ xấu xa của bà nhưng chỉ nói: ”...tội của con tuy nhiều, nhưng chúng đều được tha hết vì con đã yêu nhiều” (Lc 7,47).

Cũng tương tự như đứa con hoang đàng (Lc 15)

Chúa Giêsu không có một trí nhớ như trí nhớ của tôi, không những Ngài tha thứ, và tha thứ cho mỗi người, nhưng Ngài còn quên là Ngài đã tha thứ.

b) Chúa Giêsu đi thi toán chắc rớt

Giả sử Chúa Giêsu đi thi toán, chắc Ngài bị đánh rớt. Dụ ngôn người mục tử nhân lành chứng tỏ điều đó. Một người mục tử có một trăm con chiên. Một con chiên bị lạc và không chần chờ gì, ông ta đi tìm chiên ấy, bỏ 99 con chiên khác nơi hoang địa. Khi tìm được chiên lạc, ông vác lên vai (x. Lc 15,4-7)

Đối với Chúa Giêsu, 1 có giá trị bằng 99... và có lẽ còn hơn thế nữa! Có ai chấp nhận được điều đó không? Nhưng lòng thương xót của Ngài trải rộng từ đới này sang đời khác...

c) Chúa Giêsu chả biết gì về Triết học

Ngài không hiểu gì về Luận lý học khi đưa ra dụ ngôn: một người đàn bà có 10 đồng bạc, rủi rớt mất một đồng, bèn thắp đèn mà tìm. Khi bà tìm được thì hớn hở gọi hàng xóm láng giềng: ”Bà con ơi, hãy chia vui với tôi vì tôi đã tìm thấy đồng bạc bị mất” (Lc 15, 8-10)

Thật chẳng hợp lý tí nào khi mời hàng xóm như vậy vì bà phải chi phí còn hơn đồng bạc tìm được. Nhưng, đó lại là chính cách Chúa đã dùng để chỉ sự vui mừng của Thiên Chúa khi một người ăn năn trở lại.

Ở đây chúng ta có thể nói như Blaise Pascal: ”Con tim có những lý lẽ của nó mà lý trí không biết được”.

d) Chúa Giêsu không biết tài chính và kinh tế

Ngài chả có ý tưởng gì về kinh tế và tài chính. Trong dụ ngôn những kẻ làm vườn nho, ông chủ trả cùng một số tiền cho những kẻ làm đầu tắt mặt tối từ sáng tinh mơ cho đến chiều tối, và những kẻ gần chiều mới bắt tay vào việc. Không biết Ngài có tính toán sai không? Không! Ngài chú ý làm như vậy vì Ngài không thương chúng ta vì công trạng của chúng ta. Tình yêu của Ngài là hoàn toàn miễn phí và vượt xa trí hiểu của chúng ta. Ngài đã có những “khuyết điểm” vì Ngài yêu thương chúng ta. Tình yêu thực sự không có tính toán so đo, không biên giới, không điều kiện, không ngăn cách và không nhớ những sai phạm (x. Mt 20, 1-16)

e) Chúa Giêsu là một người phiêu lưu

Chúa Giêsu là người mua lấy rủi ro về phần mình. Người ta muốn chiêu dụ nhiều người theo mình thì hứa cho thật nhiều những điều tốt lành, trong khi Ngài lại hứa những gian lao thử thách, bắt bớ và giam cầm cho những kẻ theo Ngài. Trong 2000 năm qua, chúng ta đã chứng kiến bao rủi ro, thiệt thòi cho những kẻ muốn theo Ngài, nhưng số người theo Ngài càng đông, họ dám hy sinh cả mạng sống cho Ngài (x. Mt 820; Lc 9-23)

Để kết luận chúng ta tự hỏi: tại sao Chúa Giêsu có những khuyết điểm như thế - Vì Ngài là Tình yêu (cf 1Ga 4,16). Tình yêu đích thực không lý luận, không đo lường, không dựng lên những hàng rào, không so đo tính toán, không đặt điều kiện.

(Hồng y F.X. Nguyễn văn Thuận, Chứng nhân hy vọng, tr 39-44)

IV. THỰC HÀNH SÁM HỐI

1. Hãy can đảm trở về

Lời Chúa trong đầu Mùa Chay cũng nhắc nhở cho mọi người chúng ta, là những con cái yêu thương của Ngài: ”Anh em hãy sám hối và tin vào Phúc âm” (Mc 4,15). Sám hối ở đây theo ngôn sứ Giêrêmia là thay đổi hướng đi, thực tình quay về với Thiên Chúa của Giao ước và dấn bước vào một cuộc sống mới.

Trong sứ điệp gửi giới trẻ thế giới mùa Chay năm 2001, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô 2 đã lấy đề tài: ”Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình vác thập gía hằng ngày mà theo” (Lc 9,23). Theo ý ngài, Chúa Giêsu đã chọn con đường thập giá để tới vinh quang. Ngài đã vạch cho chúng ta con đường phải đi theo. Chỉ có một con đường duy nhất do Chúa đã đi, người môn đệ phải theo con đường đó mà không được vạch ra một con đường nào khác. Nếu chẳng may đã đi trệch đường thì phải có can đảm trở lại, không ngại khó khăn.

Nhà chí sĩ Phan bội Châu đã nói: ”Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, nhưng khó vì lòng người ngại núi e sông”. Đôi khi chúng ta thấy chưa có kết quả sau bao cố gắng, nhưng không sao, hãy bắt đầu lại, Chúa không đòi chúng ta phải thu được kết quả trước mắt, Ngài chỉ đòi chúng ta cố gắng, cố gắng không ngừng. Theo tôi nghĩ: cố gắng là đã thành công rồi, vì không cố gắng là lùi. Bao lâu còn cố gắng là còn tiến.

Chúng ta nghĩ thế nào về câu nói của một danh nhân? Mới nghe thì có vẻ không đúng, nhưng suy cho kỹ thì nó nói cho chúng ta biết rằng: không một cố gắng nào mà vô ích, mỗi cố gắng tuy ít ỏi nhưng đều góp vào thành công chung:

“Một ngàn việc tiến,

Chín trăm chín mươi chín việc lùi:

Đó là TIẾN BỘ”.

(Henri Frédéric Amiel)

Truyện: phải biết bắt đầu lại

Một thanh niên thấy cuộc sống mình bê bối, muốn sám hối ăn năn, đến gặp một vị Linh mục và nói:

- Thưa cha, hôm nay con đến xin cha giúp con, con bê bối lắm nhưng con không biết bắt đầu từ đâu cả: Mười điều răn Đức Chúa Trời, sáu điều răn Hội thánh, bảy mối tội đầu con đều phạm hết. Con nản quá! Bạn bè khuyên con, con trả lời rằng: Thôi đã lỡ phạm tội thì phạm cho hết mọi tội, xuống lót đáy hỏa ngục luôn. Nằm dưới đáy có lẽ đỡ nóng, hơn là nằm hơ hơ trên ngọn lửa, nóng lắm! Nói thì nói thế cho vui, chớ con không yên tâm chút nào.

Vị Linh mục cười và nói:

- Cha lại thích mấy con cá bự, cá nhỏ ăn hoài chán rồi.

Cả hai cha con cười xòa.

Vị Linh mục nói tiếp:

- Cha kể cho con một câu chuyện nhé: Một người con trai kia thất nghiệp, trở về nhà buồn bã. Nguời cha an ủi: Thôi con ạ, nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông thì nhì sĩ; con trở lại với miếng ruộng của gia đình đi. Sáng mai con ra làm cỏ năm sào ruộng để mùa tới chúng ta sẽ xạ lúa. Người con nghe lời, sơm mai vác cuốc ra đồng. Nhưng khi nhìn thấy đám ruộng mênh mông chỉ có cỏ với cỏ, anh ngán ngẩm, tìm một gốc cây nằm ngủ.

Người cha biết sự việc, không la rầy, ôn tồn nói với con:

- Mỗi ngày con làm cho cha 20 mét vuông thôi, con làm được không?

- Dạ, ít vậy thì được.

Và cứ như thế, chẳng bao lâu đám ruộng đã sạch cỏ.

Tâm hồn con bây giờ cũng như đám ruộng kia, đầy cỏ dại, nhưng con hãy bắt đầu đi rồi con sẽ thấy kết quả. Rồi đây con sẽ còn sa ngã, nhưng cái quan trọng là luôn biết bắt đầu lại. Tội con Chúa đã tha rồi, Chúa chỉ đòi hỏi con cố gắng mà thôi.

Mười năm sau đó, vào một buổi sáng đẹp trời, một tu sĩ bước vào nhà xứ và cúi đầu chào Linh mục, rồi nói:

- Cha còn nhớ con nữa không? Con là người cha đã chỉ cho cách làm cỏ cách đây khoảng mười năm.

Câu chuyện trên đây nhắc cho chúng ta: biết mình lạc đường cần trờ về, đó là điều tốt nhưng thực hiện cuộc trở về thì khó, vì chúng ta bị cám dỗ tháo lui. Chính Đức Giêsu cũng bị cám dỗ để đi xa con đường sứ mạng cứu thế của Ngài như ta đã suy niệm trong bài Tin mừng Chúa nhật thứ nhất Mùa chay (x. Lc 4,1-13).

Cám dỗ cũng cần thiết vì nó có lợi cho ta, nhờ đó mới biết lòng trung thành của ta đối với Chúa và làm cho chúng ta càng thêm công trạng như lời Sách Thánh nói: ”Lửa thử vàng, gian nan thử người nhân đức” (Hc 2,5).

2. Đừng bao giờ trì hoãn

Có những người chi biết sống với quá khứ để luyến tiếc, có những người chỉ biết hướng về tương lai để hành động, nhưng nhiều người lại quên hiện tại. Hiện tại là hậu quả của quá khứ và nguyên nhân của tương lai. Tương lai nằm trong hiện tại. Muốn có một tương lai sáng sủa thì phải được chuẩn bị trong hiện tại.

Một lỗi lầm thông tường của tuổi trẻ là hay xem thường NGÀY NAY. Người bạn trẻ hay nghĩ rằng những công việc to lớn, những cái gì đáng làm đều thuộc ở NGÀY MAI. Còn NGÀY NAY là tầm thường, là không đáng kể nên họ không muốn bắt tay làm gì cả.

Thực tế hơn, nhà văn hào Anh J. Ruskin cho khắc vào phiến đá hai chữ: ”TO DAY” (Ngày nay) và đặt nó trên bàn viết để mỗi ngày ông ta có việc chiêm nghiệm về bổn phận của mình là làm xong những công việc của NGÀY NAY. Một thi nhân Hy lạp thời xưa cũng đã viết “CARPE DIEM” để khuyên chúng ta hãy biết dùng một cách đầy đủ ngày hôm nay.

(Phạm cao Tùng, Tôi có thể nói thẳng với anh, in lần 3, tr 106)

Kinh nghiệm cho hay: chúng ta có những chương trình qui mô, những dự tính tốt đẹp cần thực hiện, nhưng chúng ta lại rùi rắng, không muốn bắt tay vào việc ngay. Người ta thường nói: những gì có thể làm được hôm nay thì đừng để đến ngày mai theo phương châm “carpe diem”. Muốn sửa đổi con người của mình, muốn làm thánh thì hãy bắt tay vào việc, chớ bao giờ trì hoãn kẻo bỏ lỡ cơ hội.

Truyện: kế hoạch trì hoãn

Ngày kia Satan hỏi các đồ đệ:

- Làm thế nào để chiếm đoạt được các linh hồn?

Quỉ thứ nhất nói:

- Tôi sẽ rỉ tai: không có Chúa đâu.

Satan bảo:

- Họ đâu có tin, nhìn vào vũ trụ, không thể nào chối là không có Thiên Chúa được.

Qủi nhỏ thứ hai bảo:

- Tôi sẽ rỉ tai: chết là hết, chết là hết.

Sa tan bảo:

- Không được, vì sự sống đời đời đã được khắc ghi vào chính giữa trái tim con người.

Thế là cả bọn cùng trầm ngâm suy nghĩ.

Bỗng một con qủa đen đủi đứng lên nói:

- Tôi có cách: tôi sẽ nhắc đi nhắc lại cho mọi người biết: Chúa có thật và chết chưa phải là hết. Tôi bảo họ phải sám hối ăn năn và trở về với Chúa. Nhưng tôi sẽ rỉ tai họ: gấp gì, còn chán thì giờ! Để gần chết rồi lại ăn năn, thế là được hưởng cả đời này lẫn đời sau, phải không nào?

Qủi vương đập bàn cười ha hả:

- Tuyệt, thật tuyệt, theo kế hoạch này, chúng ta sẽ thành công.

KẾT LUẬN

Chúng ta đã bước vào Mùa Chay thánh, thời gian thuận tiện, thời gian cứu độ, Chúa luôn yêu thương chúng ta, luôn kêu gọi chúng ta trở về, sẵn sàng tha thư mọi lỗi lầm. Đừng ai hồ nghi về tình yêu tha thứ của Thiên Chúa, hãy đứng dậy trở về cùng Chúa, đừng sợ quá muộn vì trơ về trong tình yêu thì không bao giờ quá muộn.

Truyện: trở về trong tình yêu

Trong một buổi chia sẻ kinh nghiệm sống, một phụ nữ đã kể lại như sau:

Tôi nhớ ngày tôi còn là một thiếu nữ, một lần kia cha mẹ tôi dắt tôi đi xem cuốn phim tựa đề là “Ảo ảnh cuộc đời”. Phim đó kể lại chuyện một cô gái không những đã bội bạc mà còn khinh khi làm khổ người mẹ đang hết lòng yêu thương và hy sinh cho cô. Qua nhiều biến cố thăng trầm, cuối cùng, người mẹ đau khổ đó chết, cô gái trở về thống hối tiếc thương.

Về nhà, hôm ấy gia đình tôi bàn tán về ý nghĩa của câu chuỵện trong phim. Tôi nhớ rõ là tôi đã bực bội phê bình to tiếng: ”Bấy giờ mới trở về ăn năn thống hối làm gì nữa, vì mẹ đã chết rồi”.

Tôi thấy mẹ tôi định trả lời, nhưng cha tôi dùng ánh mắt ngăn mẹ tôi lại và nói: ”Không có sự trở về nào là trễ trong tình thương con ạ”.

Ngày đó, thú thật tôi không hiểu gì nhiều về câu trả lời của cha tôi. Nhưng bây giờ đã là mẹ, tôi mới thấm ý nghĩa của lời đó. Chính câu nói ấy đã giúp tôi luôn luôn sẵn sàng thương yêu tha thứ cho con cái tôi.

(Thiên Phúc, Tình yêu mạnh hơn sự chết. tr11-12)

Tình yêu thương cao cả vô vị lợi đó, chính là hình ảnh lu mờ của Thiên Chúa dành cho con người. Khi chúng ta sống ngay lành, thánh thiện, chúng ta không giúp ích gì hay tăng thêm một chút gì cho Chúa, nhưng khi chúng ta lầm lỗi, chính lúc chúng ta làm phiền lòng Người chỉ vì Chúa yêu thương chúng ta, những lúc đó Chúa luôn mong mỏi chúng ta trở về.

Vậy trong cuộc đời làm con Chúa, đừng bao giờ ngã lòng thất vọng, vì với tình thương thì không bao giờ quá muộn, chỉ cần chúng ta mở rộng cõi lòng để yêu thương, để hoán cải và ước ao nên trọn lành.

Để kết thúc, chúng ta hãy suy niệm lời ngôn sứ Ezechiel: ”Hãy trở lại, hãy từ bỏ mọi tội phản nghịch của các ngươi, không còn được chướng ngại nào làm các ngươi phạm tội nữa. Hãy quẳng khỏi các ngươi mọi tội phản nghịch các ngươi đã phạm. Hãy tạo cho mình một trái tim mới và một thần khí mới. Hỡi nhà Israel, tại sao các ngươi lại muốn chết? Quả thật. Ta không thích gì về cái chết của kẻ phải chết – sấm ngôn của Đức Chúa là Chúa thượng. Vậy, hãy TRỞ LẠI và hãy sống” (Ed 18,30b-32).

 

37.Chúa Nhật 1 Mùa Chay

(Suy niệm của Camille Gagnon)

TA YÊU CÁC NGƯƠI TỪ LÂU RỒI

HÃY TRỞ THÀNH DÂN CỦA TA

Mùa Chay, một thời gian yêu mến.

Lễ tro vừa rồi, chúng ta đã mang một bộ mặt mùa chay hơi buồn bã, nghiêm khắc và nghiêm túc, như phải có. Thứ tư lễ tro không phải là một ngày hội hóa trang. Nó nhắc nhở chúng ta nhớ đến tội lỗi và sự mỏng dòn của chúng ta. Chúng ta là tro bụi, những gì chúng ta làm được đều bấp bênh; chúng ta có một con tim nặng trĩu vì những ích kỷ và thiếu tế nhị, thậm chí phản bội nữa. Hàng năm người ta cử hành lễ thánh Valentin, lễ tình yêu trước hoặc sau ngày thứ tư lễ tro. Tình yêu càng khó kéo dài thì người ta lại càng ham thích ca ngợi chúc mừng nó! Tuy nhiên, nghĩ cho kỹ, bắt đầu mùa chay bằng lễ thánh Valentin không phải là điều vô ích. Điều quan trọng là hiểu được đề tài và sự năng động của khẩu hiệu được nêu ra cho mùa chay này: “Ta yêu các ngươi từ lâu rồi”.

Đúng vậy! Mùa chay là thời gian để nghe nói về tình yêu. Một mùa chay tình yêu xem ra mới mẻ, nhưng lại mang một ý nghĩa sâu sắc. Chúng ta hãy nhớ lại ngôn sứ Ôsê đã đặt lời than thở này nơi miệng Đức Giavê để khơi lại tình yêu của dân Ngài: “Ôi! Ta sẽ dẫn ngươi vào nơi thanh vắng và sẽ quyến rũ ngươi”. Chẳng phải đây là lời yêu thương tốt đẹp cho mùa chay sao: “Ta sẽ quyến rũ ngươi?”. Phải Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta từ lâu rồi. Ngài muốn nhắc lại điều đó để ta nhớ và để cho nó trở thành nơi chúng ta như một bài ru con được nhiều người biết đến: “Ta đã yêu con từ lâu và Ta sẽ không bao giờ quên con”.

Trong mùa chay này, Thiên Chúa sẽ nhắc lại với chúng ta điều đó bằng rất nhiều cách. Một trong những cách đó là nói với chúng ta hôm nay Tin Mừng này: chúng ta là dân của Ngài.

Hãy trở thành dân của Ta. Gần đây một người bạn của tôi được nhận quốc tịch Canada với niềm tự hào lớn đến độ làm tôi phải ngạc nhiên. Sự kiện đó đã khiến tôi suy nghĩ lại xem: Một xứ sở, một dân tộc là những gì; Có những quyền được nhìn nhận và được bảo vệ và có thể thực thi những quyền này quan trọng đến mức nào; Nhu cầu cảm thấy được liên kết với những người khác mạnh làm sao; Được chia sẻ cùng một cuộc sống xã hội gây phấn khởi dường nào.

Từ kỷ niệm này, chúng ta hãy cố gắng suy nghĩ lại về quốc tịch “Thiên quốc”của chúng ta: Chúng ta là một dân tộc thánh, là công dân nước trời, dân của Thiên Chúa.

Dân tộc của giao ước. Nền tảng của một quốc gia trước hết là người ta chấp nhận sống chung với nhau, tuân theo những qui luật chung. Một quốc gia được xây dựng trên những thỏa thuận của các thành phần xã hội.

Trong câu chuyện đại hồng thủy và cầu vồng vào thời gọi là của Nôê. Thiên Chúa bày tỏ sự đồng ý liên kết lịch sử của chúng ta với lịch sử của Ngài, dùng sức mạnh của Ngài để hỗ trợ và cứu độ chúng ta. Lịch sử Thánh Kinh tương đương với một hiệp ước hoặc với hiến pháp trong một quốc gia. Nó đặt nền tảng cho dân Chúa: “Này đây Ta ký kết một giao ước với các ngươi, với hết thảy con cháu các ngươi, và hết thảy các vật sống động…” Trong những lời này, có một hiệp đồng, một giao ước.

Nghĩa vụ công dân. Thiên Chúa lập một hiệp ước với chúng ta. Nhưng một hiệp ước đòi hỏi sự tương hỗ. Hai bên cùng ký vào đó. Một công dân mới tuyên thệ. Một Kitô hữu ký vào bản hiệp ước đó nhờ phép rửa. Thánh Phaolô nhắc lại rõ ràng: Phép rửa là một sự cam kết chứ không phải là một việc tẩy rửa những vết nhơ bên ngoài. Ta hãy nghe ngài nói: “Chịu phép rửa, không phải là được tẩy sạch những vết nhơ bên ngoài, nhưng là cam kết với Thiên Chúa bằng một lương tâm ngay thẳng”. Ta hãy hiểu rõ ý nghĩa của những từ quan trọng này: Cam kết với Thiên Chúa bằng một lương tâm ngay thẳng.

Sau khi chịu phép rửa, Chúa Giêsu vào hoang địa.

Tin Mừng thánh Marcô nhấn mạnh rằng, sau khi chịu phép rửa Chúa Giêsu đã vào hoang địa. Và ở đó, các thiên thần phục vụ Ngài. Ta có thể thấy rằng, sau khi đã cam kết với Chúa Cha. Chúa Giêsu đã vào sa mạc để bày tỏ tình yêu của mình đối với Cha, đã được quyến rũ bởi dự án của Chúa Cha chứ không phải bởi dự án của ma quỷ. Vậy nên, không lạ gì khi kết thúc mùa chay của mình, Ngài đã nói: “Triều đại Thiên Chúa đã đến, hãy tin vào Tin Mừng”.

Vào đầu mùa chay này, chúng ta hãy xác tín rằng chúng ta là dân Thiên Chúa. Triều đại của Ngài đang ở giữa chúng ta.

 

38.Chúa Nhật 1 Mùa Chay

(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)

TẦM QUAN TRỌNG CỦA MỘT PHẢN ỨNG TỐT.

Điều mà trong ngôn ngữ thông thường chúng ta gọi là “cám dỗ” thực ra trên bình diện tôn giáo lại là một thực tại rất phức tạp. Vì tính cách phức tạp đó chúng ta không thể nhận ra cách dễ dàng Chúa Giêsu đã muốn bị cám dỗ về sự gì và cách nào. Có nhiều yếu tố trong cách thức thông thường để hiểu sự cám dỗ

- cái gợi lên lòng ước muốn;

- động lực thúc đẩy có căn nguyên nội tâm hay từ bên ngoài, lôi cuốn vào một hành động;

- phát hiện bằng một cuộc thử thách, những đức tính hay là những nết xấu của một người nào;

- xúi giục phạm tội, hoặc bằng sự kích thích các thú vui xác thịt, hoặc bằng cách lường gạt, thúc đẩy làm điều xấu nguỵ trang với những bề ngoài của sự tốt lành (một sự tốt lành giới hạn nào đó).

Con người đầy dục vọng, chúng ta luôn luôn sẵn sàng thức dậy. Tội nguyên tổ đã làm rối loạn sự diễn tiến của các dục vọng đó, thành thử các dục vọng ấy ngày nay lan tràn đến cả những việc xấu cũng như những việc tốt. Khi một việc xấu đề nghị với chúng ta một ước muốn, thì đó là một sự cám dỗ. Nhưng đến chừng nào việc xấu ấy còn ở ngoài chúng ta và đến khi nào nó vào hẳn bên trong chúng ta? Nhiều sự dơ bẩn có thể làm hoen ố một con người song vẫn không làm thiệt hại gì. Để so sánh, tục ngữ có câu: “Nước đổ đầu vịt” là thế. Trái lại, sự rấy lên của lòng ước muốn một điều xấu xa, có thể khuấy rối hay gây ra một tâm trạng mù mờ nửa phạm tội nửa không. Tình trạng đó người ta cho là chưa hẳn có tội, nhưng làm lo ngại. Chúng ta không nói đến sự ưng thuận tất nhiên dẫn đến tội rồi.

Trong giới hạn nào, chúng ta có thể suy tư về sự cám dỗ của Chúa Giêsu?

Mà đây là một sự kiện. Chúa Giêsu muốn biết sự cám dỗ. Người ở trong sa mạc 40 ngày, chịu satan cám dỗ. Người để cho ma quỷ đề nghị với nhân tính của Người, những gì mà nơi chúng ta, gợi lên lòng kiêu ngạo, tính xác thịt và máu tham lam. Chúa Giêsu có bị thử thách bởi sự quyến rũ nào vào sự tội không? Sự thánh thiện tuyệt đối của Chúa Giêsu bắt buộc ta trả lời ngay là không. Nhưng Người muốn thử chịu sự nung đốt của những cái thường làm cho các dục vọng của chúng ta cuống quýt. Người muốn dìm thứ vàng ròng của sự thánh thiện Người vào trong lò lửa, ở đó sự yếu đuối của chúng ta tan chảy như chì và nhất là Người muốn cho chúng ta thấy phải phản ứng thế nào?

Chúa Giêsu đã phản ứng như người ta phản ứng khi bị bỏng, nghĩa là bằng phản ứng tự vệ và đề phòng. Người không có bàn cãi với sự cám dỗ. Người đã nhận ra nó tức khắc, và tức khắc người đuổi nó đi, không tranh luận. Đó là bài học thực hành chính yếu mà chúng ta có thể rút tỉa từ câu chuyện Chúa Giêsu bị cám dỗ trong sa mạc. Đâu là phương cách tốt nhất để nhận ra và đẩy lùi cơn cám dỗ? Phương cách tốt nhất, đó là hãy duy trì nơi mình một ý chí tích cực trung thành với Thiên Chúa. Chúa Giêsu phản ứng bằng bản năng và phản ứng, tại sao vậy? Vì Người là một con người hoàn toàn bị thu hút bởi Con Thiên Chúa. Cũng là người thật như chúng ta, nhưng Người còn là Con Thiên Chúa. Người chống cự lại sự dữ với sự mãnh liệt, và sức mạnh của Thiên Chúa. Người phản ứng lại như thế, vì Người là con ngừơi và là Thiên Chúa. Nếu chúng ta đem gương Chúa Giêsu vào trình độ chúng ta, Chúa dạy chúng ta rằng, chúng ta phải chống cự lại cơn cám dỗ tuỳ theo sức loài người chúng ta nếu chúng ta mang Chúa trong mình cách sâu đậm, chúng ta sẽ phản ứng chống lại cơn cám dỗ với sự sáng suốt và nghị lực mà Thiên Chúa ban cho chúng ta. Điều này không có nghĩa là chúng ta được ơn không thể bị sa ngã, trái lại là khác, song qua sự việc trên Chúa dạy chúng ta bằng những danh từ nào, chúng ta phải dùng để đặt vấn đề sự cám dỗ. Cuối cùng, chỉ còn lại cho chúng ta việc chính yếu phải lo, đó là lòng trung thành với Chúa, chuyện không chiều theo chước cám dỗ tất nhiên sẽ đến

Chúng ta chỉ còn phải lo cầu xin Thiên Chúa gìn giữ chúng ta khỏi sa chước cám dỗ. Chúng ta hãy cầu xin để Người hằng gìn giữ chúng ta khỏi những cuộc tấn công của sa tan, khỏi những phản bội của sự yếu đuối của chính chúng ta và khi mặc dầu vậy, Chúa vẫn cho phép cơn cám dỗ kéo đến, chúng ta hãy kêu xin Người ban cho chúng ta đủ sáng suốt và sức mạnh để chống lại sự dữ.

 

39.Sống là chiến đấu.

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Một buổi chiều, cha bề trên một tu viện kia hỏi một tu sĩ: - Hôm nay con đã làm gì?

- Cũng như những ngày khác, tu sĩ trả lời, con rất bận bịu mà nguyên sức con không thể nào làm nổi, ngoài sự giúp đỡ của Chúa. Thưa cha, ngày nào con cũng phải coi hai con chim ưng, giữ hai con nai, dạy hai con diều hâu, thắng một con cá sấu, trị một con gấu và chăm sóc một bệnh nhân.

- Con nói gì thế? Cha bề trên cười hỏi lại, những việc như thế làm gì có trong tu viện này?

- Thưa cha bề trên, thật đúng như thế. Hai con chim ưng là hai con mắt của con, con phải gìn giữ cho nó luôn trong sáng, không để nó thu giữ những hình ảnh xấu xa. Hai con nai là hai chân của con, con phải luôn trông coi từng bước đi, để chúng bước đi trên nẻo chính đường ngay. Hai con diều hâu là hai bàn tay của con, con phải luôn bắt nó làm những việc tốt. Con cá sấu là cái lưỡi của con, con phải kìm hãm hằng ngày để nó khỏi thốt ra những lời nói thâm độc và thô bỉ. Con gấu là trái tim của con, con phải trừng trị để khỏi ích kỷ và phô trương. Còn bệnh nhân là chính thân xác con, con phải canh phòng ráo riết để nhục dục không xâm nhập và luôn lành mạnh.

Tu sĩ này có lý, thưa anh chị em, vì sống là chiến đấu. Đời là một cuộc trường kỳ chiến đấu, và cuộc chiến cam go nhất chính là cuộc chiến cam go nhất chính là cuộc chiến với bản thân. Địch thù ẩn núp ngay trong bản thân mình chứ không ở đâu xa. Chúa Giêsu trong cuộc đời trần thế cũng không thoát khỏi cuộc chiến đấu này. Ngài đã quyết liệt chiến đấu và chiến thắng vẻ vang. Tin Mừng hôm nay đã kể lại, lúc khởi đầu cuộc sống công khai, Chúa Giêsu đã được Chúa Thánh Thần đưa vào sa mạc để chịu thử thách –tương tự như Ađam khi xưa ở vườn Eden- Địa đàng, hay dân Do Thái 40 năm trong sa mạc để chịu thử thách. Nhưng Ađam khi xưa trong vườn địa đàng đã nghe theo lời xúi giục của Satan đội lốt con rắn, đã bất tuân lệnh Thiên Chúa, đã ăn trái cấm, vì không muốn làm người mà muốn làm Thiên Chúa. Ông đã sa ngã trước thử thách, kéo theo hậu quả khốc hại muôn đời cho con cháu loài người. Bốn mươi năm trong sa mạc cũng là thời gian thử thách lâu dài đối với dân Do Thái. họ cũng đã sa ngã trước thử thách: bao lần phản loạn, chống đối ông Môsê, kêu trách Thiên Chúa, muốn quay trở lại Ai Cập với kiếp nô lệ hơn là tiến về Đất Hứa.

Còn Chúa Giêsu trong sa mạc 40 đêm ngày đã cương quyết trung thành với Thiên Chúa, dứt khoát chọn lựa đứng về phía Thiên Chúa. Theo Thánh Matthêu và Luca thì Satan đã dùng cơm bánh, quyền phép, danh vọng để cám dỗ Chúa Giêsu, nhưng Ngài đã dùng lời Kinh Thánh để cương quyết khước từ cám dỗ và nói lên ý muốn dứt khoát chọn lựa con đường của thánh ý Chúa Cha, con đường khổ nạn thập giá. Cuối cùng Satan phải chịu rút lui, nhường chỗ cho các thiên thần đến phục vụ Ngài. Chúa Giêsu đã chiến thắng cám dỗ. Sức mạnh làm cho Ngài chiến thắng chính là Lời Chúa trong Kinh Thánh và thái độ cương quyết đứng về phía Thiên Chúa, thực thi ý muốn của Chúa Cha.

Anh chị em thân mến,

Là tín hữu, chúng ta cũng có thể chiến thắng như Chúa Giêsu, nếu chúng ta biết chọn đứng về phía Thiên Chúa, lắng nghe Lời Chúa và để Chúa hướng dẫn đời sống chúng ta. Cuộc chiến đấu của Chúa Giêsu đã chứng tỏ: con người có thể thắng được những chước mê hoặc dụ dỗ của Satan, nếu biết dựa vào sức mạnh của Chúa. Cũng như Chúa Giêsu, chúng ta không chấp nhận thách thức Thiên Chúa, chúng ta không theo Chúa chỉ vì miếng ăn, chỉ vì cơm bánh. Chúng ta không theo Chúa để bắt Chúa phục vụ đời sống thể xác hay vật chất của chúng ta. Chúng ta không coi Thiên Chúa như một sức mạnh phù phép để làm những việc phi thường, để biểu diễn những pha ngoạn mục. Chúng ta cũng không lòn cúi, quy lụy Satan để được làm chúa thiên hạ. Chính Thiên Chúa mới là Chủ tể vũ trụ, là Chúa của chúng ta.

Hôm nay cùng với Chúa Giêsu, chúng ta đi vào sa mạc của chúng ta. Không phải sa mạc của muôn thú và quỷ ma, nhưng là sa mạc của tâm hồn chúng ta. Theo Kinh Thánh, sa mạc là nơi thoát tục để con người gặp gỡ và sống thân mật với Thiên Chúa tình yêu. Ngôn sứ Hôsê đã diễn tả ý nghĩa của sa mạc rất đúng khi ông viết: “Thiên Chúa phán: Ta sẽ dẫn người yêu của Ta vào sa mạc, để ở đó Ta thủ thỉ với nàng” (Hs 2,16). Sa mạc là nơi sống gần gũi với Thiên Chúa, sống trong tình thân mật của Ngài. Vì thế, chúng ta hãy bịt tai trước những tiếng ồn ào bên ngoài, những lời xúi giục, dụ dỗ của Satan. Ngày nay và hằng ngày vẫn luôn có những tiếng xúi giục như vậy. Đừng tưởng chỉ có tiếng nói bên ngoài, tiếng của Satan có thể nói lên ngay trong tâm hồn chúng ta. Nó xúi giục chúng ta đừng sống theo Lời Chúa. Sống theo Tin Mừng sẽ thiệt thòi lắm! Sống như người ta, làm như người đời, dễ biết bao, lợi biết mấy! Nhưng nghe theo những tiếng xúi giục ấy là phản bội Chúa, là từ bỏ Chúa, là lựa chọn không đi theo Chúa nữa. Như thế là lại rơi vào số phận khốn khổ của Ađam khi xưa, của dân Do Thái ngày trước. Tất cả đã sa ngã trước thử thách. Chúng ta hãy theo gương Chúa Giêsu, chọn tình Chúa làm hạnh phúc, lấy Lời Chúa làm lẽ sống, làm sức mạnh, để chiến thắng tội lỗi và sống gắn bó với Thiên Chúa.

Thưa anh chị em,

Thử thách và sa mạc là để thanh luyện tâm hồn, để chuẩn bị cho một cuộc sống mới tốt đẹp hơn, trong tương quan với Chúa và với anh chị em. Trong sứ điệp Mùa Chay năm 1997, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói: “Mùa Chay nhằm giúp các tín hữu sống lại lộ trình 40 năm dân Israel đã trải qua trong sa mạc trên đường về Đất Hứa, với một nỗ lực thanh luyện bản thân, ý thức tình trạng nghèo khó và bấp bênh của cuộc sống và khám phá ra sự can thiệp quan phòng của Chúa. Ngài mời gọi người tín hữu hãy mở đôi mắt để nhìn thấy nhu cầu cấp bách nhất của anh em chúng ta. Bằng cách ấy, Mùa Chay cũng trở thành mùa liên đới với những con người và với những dân tộc ở nhiều nơi trên thế giới đang sống trong hoàn cảnh bấp bênh, tạm bợ, không cửa không nhà”. Đức Thánh Cha còn nói: “Hãy đón nhận lời mời gọi hoán cải của Đức Kitô để gắn bó bền chặt hơn với Thiên Chúa, Đấng Thánh và giàu lòng thương xót, cách riêng trong Mùa Chay, mùa ân sủng này. Ước gì Mùa Chay sẽ giúp cho mỗi người biết lắng nghe tiếng Chúa mà mở tâm hồn ra tiếp rước tất cả những người đang sống túng thiếu”… “Chính lúc tỏ ra cởi mở và quảng đại mà Kitô hữu, với tính cách riêng rẽ hoặc tập thể, có thể phục vụ Đức Kitô hiện diện trong người nghèo và làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa. Đức Kitô đã đi trước chúng ta trên con đường này. Sự hiện diện của Ngài là một sức mạnh và là một khích lệ: Ngài cho ta được tự do và trở thành những chứng nhân của tình yêu thương”.

 

40.Chúa Nhật I Mùa Chay

Anh chị em thân mến.

Nếu chúng ta có đi ngang qua bến phà Mỹ Thuận cách đây khoảng mười năm, chúng ta sẽ thấy công trình Cầu mỗi ngày một hoàn chỉnh thêm. Mọi người đều vui mừng chờ ngày được đặt chân vượt qua chiếc cầu để sang sông mà không phải chờ đợi từng chuyến phà để vượt giòng nước chảy như cắt nữa. Nhưng tôi suy nghĩ một điều: rồi đây sẽ có một số người không biết phải làm gì khi chiếc cầu đã được thông thương. Trong số đó có những người bán hàng rong hằng ngày, những người có những hàng quán cố định để phục vụ cho người đi lại qua bến phà. Chắc chắn giờ đây họ phải ngồi lại, suy tính để tìm một giải pháp thích hợp cho cuộc sống mới. Ngày giờ sẽ đến và họ không thể làm gì khác hơn là phải thay đỗi cuộc sống. Tôi thiết nghĩ: không ai ngoan cố đến nỗi, vẫn cứ bám lấy cuộc sống cũ, vẫn cứ thi hành nghề nghiệp cũ của mình, cho dù thời thế có thay đỗi thế nào đi nữa. Nếu như thế thì họ đã chọn con đường tự đào hố để chôn chính mình. Không ai muốn như thế bao giờ. Trái lại ngay từ bây giờ, và có lẽ đã từ lâu, họ đã chuẩn bị để từ bỏ nếp sống cũ, bước vào đời sống mới tốt đẹ hơn. Đó là sự khôn ngoan thông thường của cuộc sống.

"Thời kỳ đã mãn, nước Thiên Chúa đã gần đến, anh em hãy ăn năn sấm hối và tin vào Tin Mừng." Lời Chúa đã kêu gọi đân Do Thái cách đây hơn 2000 năm. Kêu gọi họ ăn năn sấm hối, quây trở về với Chúa, bỏ nếp sống cũ mà thi hành đời sống mới tốt đẹp hơn. Chúa Giêsu không chỉ kêu gọi suông, nhưng Ngài đã làm gương, đã vào sa mạc yên tĩnh, để nhìn lại đời sống đã qua và tìm hướng đi tốt cho những ngày sắp tới. Ngài đã làm hết mọi cách, những gì có thể làm được, không bao giờ Ngài từ chối, cho dù phải hy sinh đến cả mạng sống. Nhưng Ngài cũng hoàn toàn tôn trọng sự tự do của con người. Mọi sự Ngài đã chuẩn bị sẵn sàng, chỉ cần con người biết nghe theo và hành động nữa thì tất cả mọi sự sẽ tốt đẹp. Nhưng đã trải qua 2000 năm lịch sử, mặc dù có rất nhiều người đã thay đỗi cuộc sống. Đồng thời cũng có rất nhiều người vẫn cứ liều mình bám vào đời sống chẵng mấy tốt đẹp, mặc dù họ vẫn biết đó là con đường tự tiêu diệt chính mình. Họ vẫn cứ bám lấy và không chịu thay đỗi.

Hôm nay chúng ta đã bước vào mùa chay. Thiên Chúa kêu gọi mỗi người ăn năn sám hối, vì nước trời đã gần đến. Không phải nước trời đến cho chúng ta nhìn thấy. Nhưng nước trời đến bất chợt đối với từng người trong chúng ta. Ai trong chúng ta cũng biết điều đó và biết rất rỏ. Vậy mà lời kêu mời nầy đã vang động bên tai chúng ta không biết bao lâu và cũng không biết bao nhiêu lần. Thế mà dường như chúng ta chẵng cần biết đến làm gì, vì nó làm cho chúng ta cảm thấy khó chịu khi phải nghe những lời như thế. Đôi khi nó còn làm cho mình quen quá hóa ra nhàm chán và không cần để ý đến. Vậy chúng ta cũng giống như những người ở bến phà Mỹ thuận, biết làm ăn không được mà vẫn cứ cố lì không chịu tìm cách để thay đỗi cuộc sống cho thích hợp. Chúng ta cứ suy nghĩ xem: Đã bao nhiêu mùa chay đã qua trong đời sống của mình rồi, chúng ta đã nghe bao nhiêu lần lời kêu gọi ăn năn sám hối. Chúng ta cũng nghe không biết bao nhiêu lần lời thông báo nước trời đã gần đến. Có lẽ chúng ta nghĩ rằng: đó chỉ là lời nói cho người khác, chứ không phải nói cho chính mình. Thử nhìn lại cuộc sống của mình xem, chúng ta đã thực hiện như thế nào đối với lời mời gọi đó. Nếu đới sống chúng ta vẫn cứ bình thường như từ trước đến nay, không có gì đỗi mới cũng không có gì tiến bộ, đó là mình chưa ăn năn sám hối, chưa biết thay đỗi cuộc sống cho tốt đẹp. Nhưng mà, tôi có gì đâu để sám hối, tôi có làm gì xấu đâu để mà thay đỗi, ông nọ bà kia mới cần thay đỗi, mới cần sám hối. Đó là những lời chúng ta thường tự nói với chính mình như thế. Nhưng đó cũng là một cách làm cho con người của mình trở nên chai lì khô cứng không thể thay đỗi được. Như vậy làm sao chúng ta có thể chuẩn bị sẵn sàng, để đón nước Thiên Chúa đã gần đến. Nếu giờ nầy bất ngờ Chúa kêu gọi, mỗi người sẽ trả lời ra sao về sự chuẩn bị của mình.

Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người biết lắng nghe lời Chúa và biết nhìn thấy chính mình thật sự, để biết đỗi mới đời sống cho xứng đáng bước vào Nước Trời.

 

41.Chúa Nhật I Mùa Chay

Theo chu kỳ của phụng vụ, Mùa Chay bao giờ cũng bắt đầu bằng thứ tư Lễ Tro. Và hôm nay, chúng ta chính thức bước vào Chúa nhật thứ nhất của Mùa Chay. Ai trong chúng ta chẳng biết rằng Mùa Chay là mùa của sám hối và hoán cải. Nói cách khác, mùa chay là một hành trình của hoán cải. Hành trình đó được khởi đi từ trong sa mạc. Sa mạc là mảnh đất mênh mông đầy những thế lực thù nghịch. Sa mạc là nơi hoang vu, không nhà cửa, không người thân, không bạn bè, không lương thực, và còn nhiều cái không khác nữa. Vì thế một người khi bước vào trong sa mạc là bước vào 1 cuộc chiến đấu và đối diện với những cái không đó. Khó khăn! Thử thách! Cô đơn! Nhưng bên cạnh đó, sa mạc cũng còn là nơi gặp gỡ Thiên Chúa nữa.

Hôm nay thánh Marcô nói rằng Chúa Giêsu vào trong sa mạc để chịu ma quỷ cám dỗ. Người ở trong hoang địa 40 đêm ngày sống giữa loài dã thú. Thời gian 40 đêm ngày không phài là dài lắm. Nhưng với một người đang chịu thử thách, phải đối diện với những khó khăn, phải sống trong cô cơn thì đó là khỏang thời gian không phải là ngắn. Theo ngôn ngữ của Kinh Thánh: số 40 là con số hàm chứa nhiều ý nghĩa: là con số tượng trưng sửa soạn cho một cuộc khởi đầu mới. Nó gọi về những giai đoạn và cột mốc quan trọng trong lịch sử cứu độ: nước Đại hồng thuỷ đã tràn ngập mặt đất 40 ngày và 40 đêm, trước khi Thên Chúa lập giao ước với ông Noe và dòng dõi. Trong suốt 40 ngày và 40 đêm là khoảng thời gian ông Môsê chuẩn bị trên núi Sinai lãnh nhận lề luật của Giao ước trước khi truyền lại cho dân. Trong suốt 40 năm, đám con cháu và dòng dõi của tổ phụ Abraham và Giacóp được Chúa giải thoát khỏi ách nô lệ bên Ai cập đã dong duỗi hành trình trong sa mạc trước khi tiến vào đất Hứa. Cũng trong khoảng thời gian 40 đêm ngày, ngôn sứ Elia đã đi bộ về núi Hôrép, núi của Thiên Chúa để lãnh nhận sứ mạng tái lập Giao ước.

Chúa Giêsu đã trải qua một gai đoạn đầy cam go và thử thách trong sa mạc. Và chính vì phải sống trong giai đoạn như thế, nên trong nội tâm của Chúa Giêsu lập tức xuất hiện một cám dỗ muốn tìm một thoải mái, dễ chịu. Một cám dỗ rất người và rất đời thường! Thế nhưng Chúa Giêsu của chúng ta đã vượt qua. Người đã thắng được cái nóng cái, cái lạnh, cái đói, cái khát và đã hoàn tòan làm chủ được bản thân trước những nhu cầu của thân xác. Có lẽ anh chị em và các bạn nói rằng: Tại vì Đức Giêsu là Chúa mà nên Người dễ dàng vượt qua những cám dỗ đó, đồng thời chế ngự được những đòi hỏi của xác thân. Nhưng xin anh chị em đừng quên. Xin đừng quên rằng ngoài bản tính là Thiên Chúa, thì ở bên cạnh và bên trong một Thiên Chúa đó vẫn còn có đó một Giêsu rất người. Người vẫn có những nhu cầu và những đòi hỏi của thân xác giống như chúng ta. Bằng chứng là sau cơn cám dỗ đó, Người cảm thấy đói. Hơn nữa, ỏ trong vuờn Giêtsêmani, khi đứng trước khổ hình thập giá, Người đã khiếp sợ. Sợ đến chảy mồ hôi, nặng như những giọt máu rơi xuống đất. Và cũng chính trong giây phút hoảng sợ đó, chính người đã phải thốt lên một lời rất thê thảm nhưng rất đẹp: " Abba! Cha ơi! Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều cha muốn" Ở đời ai dại gì lại tìm cho mình đau khổ, mất mát thiệt thòi mà không thích tìm sự tiện nghi thoải mái và dễ chịu. Vì đó là nhu cầu của thân xác.

Và để có được sự tiên nghi, thoải mái và dễ chịu thì phải có tiền, phải có quyền. Bởi lẽ, người ta thường nghĩ rằng khi tôi có tiền thì tôi sẽ có tất cả. Khi tôi có quyền thì tôi tha hồ mà tự tung tự tác, tha hồ tác quai tác quái. Thế cho nên những cám dỗ mà Chúa Giêsu trải qua hôm nay, mặc dù thánh Marco không nói chi tiết cho bằng thánh Matthêu và thánh Luca, nhưng tôi tưởng rằng đấy là những cơn cám dỗ của tiền bạc, của quyền lợi, của kỷ thuật(khuyng hướng của thời đại hôm nay, người ta muốn thay thế và chối bỏ quyền của Thiên Chúa bằng Kỷ Thuật trị (Technocracy), mà người ta quen gọi là những cám dỗ của danh, lợi, thú, thì lúc nào cũng vẫn là những cám dỗ rất lớn và rất mạnh của mọi thời và cho mọi người.

Và chính vì nhu cầu căn bản mà lại rất lớn đó mà người ta tìm đủ cách để đáp ứng cho bằng được bằng nhiều cách, bằng nhiều con đường khác nhau. kể cả bằng những con đường phi nhân nhất, tàn bạo nhất, mất đạo đức nhất.

Kính thưa ông bà, anh chị em và các bạn, hôm nay, trong sa mạc, Chúa Giêsu đã vượt qua được những cám dỗ là những đòi hỏi của thân xác. Hình ảnh sa mạc ngày xưa của Chúa Giêsu gọi về những sa mạc hôm nay trong đó luôn luôn có những cám dỗ bủa vây chúng ta.

Những cám dỗ mới hay cám dỗ cũ dưới lớp áo mới.

Cám dỗ của chọn lựa giữa cái tốt và cái xấu.

Cám dỗ muốn tách mình ra khỏi quỹ đạo của Thiên Chúa.

Cám dỗ của sự khước từ Thiên Chúa và thay thế bằng thần Mamon và con người muốn làm trung tâm của thế giới.

Cám dỗ của khép kín, chỉ nghĩ đến mình và chỉ sống cho mình.

Cám dỗ của im lặng vì sợ liên luỵ

Cám dỗ giả mù trước thật hiển nhiên.

Cám dỗ của thỏa hiệp với sự dữ để được yên thân.

Cám dỗ muốn sống một đời tầm thường và buông thả

Cám dỗ của hưởng thụ và tiện nghi.

Cám dỗ của tiền

Cám dỗ của quyền

Cám dỗ của thế gian......

Và cám dỗ nào cũng rất tinh vi.

Vậy làm sao để ta nhận diện đâu là những cám dỗ đó. Và bằng cách nào để ta vượt qua?

Kính thưa ông bà anh, chị em và các bạn!

Hôm nay khi thuật lại việc Chúa Giêsu đi vào trong sa mạc để chịu ma quỷ cám dỗ, có một chi tiết không thể bỏ qua. Chi tiết này đáng lý tôi phải nói đầu tiên trong bài chia sẻ này, nhưng tôi cố ý nói sau cùng. Chi tiết đó là: Thánh Marco bắt đầu câu chuyện Tin Mừng bằng cách nói rằng: Thánh Thần liền đẩy Người vào trong sa mạc. Hay lắm! Cho nên tất cả 40 ngày trong sa mạc, trong chay tịnh và những cơn cám dỗ mà Chúa Giêsu đã trải qua và Người đã chiến thắng là nằm trong tác động của Thánh Thần. Tác động của Thánh Thần chính là điều mà người công giáo vẫn quen gọi bằng một cụm từ khác thay thế: đời sống thiêng liêng, đời sống thuộc linh- thuộc về Chúa Thánh Thần.

Thế cho nên, thưa ông bà, anh chị em và các bạn! Trong Chúa nhật thứ nhất của Mùa Chay này, tôi nghĩ lời chúa nói với chúng ta không gì khác hơn là một lời mời gọi chúng ta: Hãy lấy lại kinh nghiệm của Chúa Giêsu. Đó là kinh nghiệm lắng nghe tác động của Thánh Thần. Đó là kim chỉ nam hướng dẫn chúng ta khi đối diện với những cám dỗ của đời thường, chắc chắn chúng ta sẽ vượt qua. Và Thánh thần nói với chúng ta khi nào và ở đâu, nếu không phải là trong sa mạc và trong thinh lặng.

Cuối cùng! Ước gì chúng ta hãy buông mình để cho Thánh Thần tác động. Và một khi chúng mình được Thánh Thần tác động, tâm hồn ta sẽ được đổi mới, được bình an, thanh thoát và nhẹ nhàng. Nếu được như thế, chúng ta sẽ cảm nhận bên cạnh mùa sám hối và hoán cải, mùa chay còn là "Mùa Xuân Thánh Thiện". Amen.

 

42.Chúa Nhật 1 Mùa Chay

HÃY SỬA ĐỔI ĐỜI SỐNG VÀ TIN VÀO TIN MỪNG.

Một đôi vợ chồng đã sống với nhau 25 năm và xem ra họ là một cặp xứng đôi vừa lứa hoan hỷ long phụng. Hai vợ chồng có việc làm tốt. Họ cùng nhau đi nhà thờ mỗi Chúa Nhật và cầu nguyện mỗi tối trước ngày họ về hưu. Song giữa họ có một vấn đề xem ra khó mà vượt qua, đó là cứ mỗi lần nói chuyện là một lần họ cãi nhau. Cuối cùng, bà vợ như đã ứ tới cổ, đương nhiên vì đạo giáo họ không thể ly dị, nên bà mới nghĩ ra một cách. Vào buổi tối kia khi hai người bắt đầu buổi cầu nguyện chung thì bà nói với ông chồng, "Tôi và ông không thể tiếp tục sống mà cứ cãi cọ với nhau như thế này mãi được, chúng mình phải chấm dứt tình trạng này ngay. Nhân đây là ngày đầu tiên của mùa Chay, tại sao tôi và ông không cầu xin Chúa làm ơn thay đổi cách sống này. Vợ chồng mình hãy cầu xin Chúa gọi một người trong chúng ta về với Ngài".

Với lối ý kiến như thế ai cũng thấy điều bà vợ nói là sai với tinh thần của mùa Chay, bởi vì điều thiết yếu của mùa Chay là hồi tâm để canh tân thay đổi chiều hướng ý tưởng cũ của cuộc sống để đời sống tương lai tốt lành hơn. Chúng ta nghe Chúa gọi ta đi một hướng, còn ma quỉ thì quyến rũ ta về lối khác; câu hỏi là "ta theo ai", sự quyết định lệ thuộc vào ta hoàn toàn.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng nghe Chúa Cha gọi Ngài theo một hướng sau khi chịu phép rửa và rồi ma quỉ quyến rũ Ngài theo hướng khác. Chúa Giêsu ở một mình nơi hoang địa, sau bốn mươi ngày dài ăn chay thì sức Ngài yếu đi và là dịp may cho Satan cám dỗ bởi khi ấy Ngài rất đói. Ngay lập tức những hình ảnh cám dỗ thoả mãn tính xác thịt theo đuổi Ngài. "Tại sao không biến những hòn đá kia thành bánh? Ta có thể làm điều đó và hơn nữa khỏi phải đói!" Sau những ngày một mình trong hoang địa làm Ngài cảm thấy cô đơn. "Tại sao Ta không làm cái gì đó kỳ lạ để mọi người chú ý? Chẳng hạn nhảy từ ghềnh đá cao này xuống dưới vực sâu mà không bị thương tổn? Chà chà, người ta sẽ nhìn thấy và kéo đến đông biết chừng nào, khi ấy Ta hết cô đơn!" Bốn mươi ngày Ngài tự xét đã nhìn thấy những ý tưởng về công cuộc truyền bá của Ngài. "Tại sao Ta không là một anh hùng dũng sĩ như người ta mong chờ nơi Đấng Thiên Sai? Ta sẽ đầy quyền hành và giàu có. Ta có thể làm điều ấy và sẽ không còn nỗi sợ bất an nữa!" Những quyền lực hung mãnh trên sa mạc thế giới cho chúng ta biết rằng đơn hành trên sa mạc mà thiếu các dự bị thiết yếu thì chỉ có hai cách chọn: một là cố tự bảo vệ cho đến khi trợ giúp tới, hai là để cho sự sợ hãi chiếm lĩnh. Một chuyên gia thám hiểm sa mạc đã viết: "Chỉ có người đã tự chuẩn bị cho mình đầy đủ mới có thể sống sót qua sa mạc". Chúa Giêsu đã không hoảng sợ khi mình Ngài đi qua hoang mạc và Ngài cũng chẳng lo âu khi đối mặt với sức mạnh cám dỗ ghê gớm của ma quỉ. Ngài đã tự chuẩn bị cho mình cách hoàn hảo nhất, như Thánh Kinh đã cho ta biết "Ngài đã ăn chay cầu nguyện bốn mươi đêm ngày". Theo truyền thống của Cựu Ước, ăn chay là một cử chỉ tôn giáo cao cả với ý muốn tăng thêm sức mạnh ý chí qua cầu nguyện và chiêm ngắm. Như thế, bằng cách tự thanh luyện tâm hồn mình qua ăn chay cầu nguyện, Chúa Giêsu đã chọn lựa cách hành động luân lý rõ ràng với chủ ý theo tiếng gọi và chiều hướng trong công cuộc truyền bá Tin Mừng của Ngài. Ngài đã nói, "Hãy xéo đi Satan! Vì có lời Thánh Kinh đã viết: Ngươi chỉ tùng phục một Thiên Chúa mà thôi, và chỉ tôn thờ một mình Ngài" (Mt 4,10).

Đời sống là những chuỗi dài của núi cao và thung lũng. Chẳng ai trong chúng ta có thể trốn tránh hết những kinh nghiệm hoang mạc, đó là những giờ phút ta cảm thấy tâm hồn bơ vơ trống vắng, lạnh lẽo cô đơn. Chắc chắn rằng, vào những giờ phút đó, cầu nguyện là điều cần thiết nhất cho chúng ta.

Mặc dầu chúng ta có sợ hãi trong cô đơn lẻ loi và thất bại trong cuộc tìm kiếm để thoát cảnh lạnh giá của cuộc sống, nhưng chúng ta đừng thất đảm. Chúng ta cần cầu nguyện, cần phải thôi nói với chính mình để có thể nghe được tiếng của Chúa là Cha nói trong tâm hồn chúng ta. Trong hoang mạc của đời sống vô nghĩa xem ra mọi cái đều trở nên tiêu tan, vô mục đích, vô ý nghĩa, nó tựa như một trò đùa ghê tởm bao bọc chúng ta bởi quyền lực bên ngoài mà chúng ta không hiểu nổi. Chỉ có một lối thoát, một lối tìm ra ý nghĩa xác thực và cùng đích của cuộc sống của chúng ta; chỉ có một con đường để tìm ra ta là ai và ta phải làm gì, đó là lắng nghe và lắng nghe tiếng Chúa Kitô trong tâm hồn ta. Có thể sẽ phải trải qua bốn mươi ngày đêm hoặc sẽ lâu hơn thế nữa để Tin Mừng của Chúa thấu nhập tâm hồn, nhưng điều quan trọng cần thiết là ta phải tiếp tục lắng nghe không nản lòng. Khi ta ngừng nghe tiếng Chúa thì là lúc ta thiếu chuẩn bị để xua đuổi sự nguy hiểm của thất đảm, nỗi trống rỗng sẽ bao bọc và là dịp thuận tiện để ma quỉ tiến vào đánh giết chúng ta.

Cơn cám dỗ có thể là ước muốn một mình ra đi, ta có thể đi qua ánh sáng không cần Chúa. Nó là sự cám dỗ khi nói rằng chúng ta có thể tự tìm ra câu trả lời "tại sao" cho cuộc sống; và nó là sự cám dỗ làm chúng ta tự hình thành những "thần tượng" nhỏ bé trong tâm hồn chúng ta. Ta phải tự nói với chính mình rằng, "Tôi cần Thiên Chúa nói cho tôi biết tôi là ai, tại sao tôi như vầy và tôi sẽ đi về đâu? Tôi cần Thiên Chúa dẫn đưa tôi ra khỏi sự trống rỗng đến ánh sáng tạo dựng của Ngài và Ngài nói cho tôi biết sự toàn hảo của tôi nằm ở đâu? Hãy tránh xa ta đồ quỉ dữ Satan, vì ngay từ đầu Thiên Chúa là Đấng tạo dựng trời đất, tất cả... Ta chỉ tôn thờ một mình Ngài".

Gặp gỡ và theo Chúa Kitô trong việc tìm kiếm Nước Chúa trước tiên là một sự thay đổi tính chất cuộc sống của chúng ta, nó không đơn giản chỉ là tăng thêm cái gì đó vào đời sống; song đúng hơn là một tính chất mới mẻ nảy sinh trong tâm hồn. Chúa Giêsu đã cho chúng ta biết là chúng ta đón nhận nguyên cuộc sống mới, một quà tặng từ Quyền Năng của tương lai đó chính là Thiên Chúa Cha của chúng ta. Mỗi giây phút ta sống không chỉ là cái gì nối tiếp từ quá khứ song là một sự tạo dựng mới. Mỗi hơi ta thở không chỉ là hoạt động sinh lý tự nhiên nhưng là hành động đón nhận từng món quà từ chính sự sống. Món quà của sự sống mới này, chúng ta có được từ cuộc chiến thắng khải hoàn của Chúa Kitô, vĩnh viễn bất tận ngay cả sự chết cũng không làm gì được.

Đó chính là sự thành quả hy vọng, công chính được thoả mãn, tình yêu được tràn đầy, chân lý sẽ toàn thắng.

 

43.Chúa Nhật 1 Mùa Chay

(Suy niệm của Lm. Nguyễn Văn Phan)

TỪ BỎ TỘI LỖI VÀ TRUNG TÍN VỚI TÌNH YÊU THIÊN CHÚA

Không còn gì nghi ngờ nữa. Hôm nay Mùa Chay đã 'nói trúng tim đen của chúng ta' rồi đấy, và làm rung động tận chốn thâm cung tâm hồn chúng ta. Mùa Chay kêu gọi chúng ta từ bỏ tội lỗi và trung tín với tình yêu Thiên Chúa. Chay tịnh, cầu nguyện, bố thí xưa nay là những việc làm chính yếu của Mùa Chay. Đó là những khí cụ chúng ta được khuyên dùng để dễ dàng tiến lại gần bên Thiên Chúa hơn, trong khi vẫn phải hành trình tiếp tục suốt đời. Đối với một số người, thì Mùa Chay đồng nghĩa với bỏ rượu, bỏ thuốc lá, trong khi những người khác lại thấy Mùa Chay là thời gian đi nhà thờ hằng ngày... Cho dù chúng ta thực hiện kiểu chay tịnh cách nào, thì động cơ thúc đẩy chúng ta mới là quan trọng. Nếu chúng ta ăn chay hay ăn kiêng chỉ vì muốn có thân hình thon thả, hay chúng ta làm phúc bố thí chỉ vì muốn được nể vì trong cộng đồng, thì những nỗ lực của chúng ta cũng hơi uổng công vì chúng ta đã nhận được phần thưởng rồi và vẫn chưa đến gần Chúa hơn là bao.

Khi khởi đầu sứ vụ công khai, Đức Chúa Giêsu đã đi vào hoang địa suốt 40 ngày đêm - cũng vì thế mà ngày nay chúng ta tổ chức hẳn một Mùa Chay Thánh. Giáo Hội muốn mọi người hãy sống lại kinh nghiệm của Chúa Giêsu là thiết lập mối tương quan sâu đậm và tình nghĩa thân thiết hơn giữa Thiên Chúa với chúng ta. Hành trình của chúng ta là một hành trình vào sa mạc nội tâm nơi đó mình ta đối diện với Thiên Chúa trong tinh thần chân thực. Hoang mạc tâm hồn sẽ giúp chúng ta nhìn lại bản thân xem chúng ta thực sự là ai, chúng ta làm gì với những nén bạc Chúa trao, đồng thời sẽ giúp chúng ta ý thức hơn về tình trạng tội lỗi của chính mình. Nhờ đó dần dần chúng ta sẽ đau lòng mà nhận ra mình cần thay đổi và canh tân cách tranh đấu với sự dữ bằng cách cầu nguyện chay tỉnh và đền tội. Việc chúng ta đền bù tội lỗi sẽ giúp chúng ta nhận thức được rằng những mặt thiêng liêng của cuộc sống còn quan trọng hơn những khía cạnh vật chất của nó. Một khi chúng ta ý thức được những lỗi lầm của bản thân, chúng ta mới nhận ra nhu cầu cần thay đổi điều này điều khác.

Nếu chẳng may chúng ta nằm trong số những người chuyên chụp mũ cái xấu lên đầu mọi người. Thì nay đi vào hoang mạc chính là cơ hội để chúng ta nhìn kỹ lại cố tật ngồi lê đôi mách, nói hành nói tỏi, đổ vạ cáo gian của chúng ta. Chỉ cần hứa từ nay sẽ giữ mồm kín miệng là đã có một phương thuốc hữu ích rồi.

Chúng ta có thể dốc lòng làm vui lòng những người mà chúng ta thường hay xung khắc hay ít ra là chúng ta không có cảm tình. Bỏ rượu chè cờ bạc có làm cho chúng ta mất mát gì đâu nếu như những thứ đó chỉ tổ là những nguyên nhân gây xào xáo làm cho gia đình mất hạnh phúc...? Cầu nguyện hằng ngày rất quan trọng cho tất cả chúng ta vì đó là mối giây liên lạc sinh tử giữa chúng ta với Thiên Chúa. Ngay như mối liên hệ giữa chúng ta với Đức Kitô cũng không thể thành tựu nếu không thực hành cầu nguyện. Chúng ta phải dành ưu tiên số một cho việc cầu nguyện, một phương thế cũng cố đức tin đức cậy và đức mến, nghĩa là cầu nguyện sẽ giúp chúng ta tăng cường niềm tin tưởng cậy trông và đem chúng ta đến gần gũi Thiên Chúa hơn.

Mùa Chay là thời gian dành cho chúng ta tìm đến tâm linh, kêu mời chúng ta nhận ra tiếng gọi của Thiên Chúa trong mọi phương diện của cuộc sống và từng bước thực hành đương đầu với những xấu xa của tội lỗi và ích kỷ bên trong chúng ta.

Mùa Chay là mùa kêu gọi chúng ta thay đổi hành vi thái cử vì những thói hư tật xấu cố hữu trong chúng ta lâu nay làm thui chột sức tăng trưởng của chúng ta trong tình yêu của Thiên Chúa. Đây là thời gian chúng ta cần trân trọng đón nhận ân sủng, nếu chúng ta có ý muốn Mùa Chay trở nên một kinh nghiệm thanh luyện đời sống thiêng liêng. Cần nói "không " với bản thân và nói "có " với Thiên Chúa là tất cả những gì phải làm trong cuộc phấn đấu nơi hoang mạc Mùa Chay này.

 

44.Tin là chấp nhận đường thập giá

(Suy niệm của Noel Quesson)

“Anh em phải sám hối và tin vào Tin Mừng”

Vào đầu thế kỷ 20, một văn sĩ người Anh đã kể lại trong cuốn tiểu thuyết “Bầu trời và Thập giá” của ông, truyện một người thù ghét thập giá. Thấy thập giá ở đâu là anh ta tìm cách phá huỷ. Gặp một bức vẽ có hình thập giá là anh xé bỏ. Vợ anh mang một thập giá nhỏ bằng vàng, anh cũng lừa giật được và ném đi. Anh bảo: “Thập giá là biểu tượng sự độc ác dã man đối nghịch với niềm vui và cuộc sống".

Lòng căm ghét thập giá ăn sâu và tâm tư anh, đến mức thấy bóng thập giá là anh như điên dại. Không chịu nổi, có lần anh leo lên tận tháp chuông nhà thờ để phá huỷ cây thập giá trên đó. Lần khác, anh đập tan cái ban công nhà vì ở đó anh thấy nhiều chỗ có hình thập giá… Anh nhìn đâu cũng thấy thập giá. cuối cùng anh nổi giận đốt luôn căn nhà của mình và bị chết cháy.

Câu chuyện cốt đi tới một kết luận: Kể từ cái chết của Chúa Giêsu, thập giá đã nên biểu tượng của chiến thắng, đó là chiến thắng của tình yêu. Dẹp bỏ thập giá là chối bỏ tình yêu, nâng cao hận thù và đưa thế giới tới chết chóc, diệt vong.

Thập giá là biểu tượng niềm tin Kitô hữu và cũng là một thử thách lớn lao cho niềm tin mỗi người. ngắm nhìn Chúa Giêsu trên thập giá, con người không nhìn ra tình yêu cao cả của Thiên Chúa mà chỉ thấy vô lý khó chịu: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì hãy xuống khỏi thập giá đi” (Mt 27, 40). Thử thách này còn theo dõi mỗi người chúng ta, còn tác động trên cả Giáo hội. Người ta vẫn tiềm tàng ý định đưa Chúa xuống khỏi thập giá, muốn Thiên Chúa biểu lộ quyền năng thống trị, chứ không dấu ẩn, vì “Nhập thể” là hình thức “Yếu đuối” (1 Cr, 1, 25). Một Thiên Chúa quyền uy là thông thường, là hợp lý, thích hợp với mọi tôn giáo…. Nhưng không phải Thiên Chúa chịu đóng đinh. Thật khác xa với chủ trương của Thánh Phaolô Tông đồ: “Người Do Thái đòi phép lạ, người Hy Lạp tìm sự khôn ngoan, còn chúng ta rao giảng Chúa Cứu Thế chịu đóng đinh, đó là gương xấu cho người Do Thái và là điên rồ trước mặt dân ngoại “ (1 Cr. 1, 22-23)

Chúa cứu chuộc chúng ta bằng thập giá, nói thế cũng có nghĩa là Chúa cứu chuộc bằng tình yêu. Và Chúa đòi hỏi chúng ta đi vào con đường Thập giá như Chúa, nghĩa là sẵn sàng hy sinh, chịu đau khổ để biểu lộ tình yêu đối với Chúa và đối với anh em (Mt 16, 24-25).

Đó là con đường tốt nhất và duy nhất. đôi lúc ta ngại đón nhận thập giá, thì đó là thử thách lớn cho niềm tin Kitô hũư của ta “Lạy Chúa, xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ”.

 

45.Những cám dỗ của Mùa Chay

(Suy niệm của Lm. Thu Băng, CRM)

Mùa Chay bắt đầu vào thứ 4 Lễ Tro, là ngày bắt đầu của một chu kỳ Phục Sinh, một chu kỳ đầy sức sống hạnh phúc. Mùa Chay còn được gọi là mùa "Chữa bệnh" hơn là mùa "đền tội". Mùa Chay theo thể lý, người ta sẽ hãm mình, hãm các đam mê thể xác, bớt ăn uống theo sở thích... Đó là một hình thức tìm lại sự quân bình cho thân thể (Chữa bệnh phần xác).

Trong Mùa Chay, người tín hữu cũng tìm cách hãm dẹp những tính mê nết xấu (như thích vui chơi đàng điếm, ham mê rượu chè, thú cờ bạc...), hãm dẹp những tư tưởng bất chính (trả thù, ghen ghét, hằn học, gian lận, biếng nhác...), để tìm lại một tâm hồn thảnh thơi an bình (Chữa bệnh phần hồn).

Trong Mùa Chay, người tín hữu cũng không quên gia tăng lòng đạo hạnh qua việc chu toàn bổn phận tinh thần: Đọc thêm kinh sách, cầu nguyện, tham dự các giờ Thánh Lễ, Phụng vụ chung, hành hương kính viếng nơi thánh, dành thêm thì giờ làm việc thiện, giúp đỡ mọi người, bố thí cho người nghèo....

Trong Mùa Chay ta bắt chước Chúa, lắng đọng tâm hồn như đi vào rừng vắng để dễ cầu nguyện, xây dựng đời nội tâm thêm mạnh mẽ, để có đủ sức chiến đấu với mọi cám dỗ trong đời. Chúa Kitô trước khi thi hành sứ mệnh tông đồ, Ngài vào nơi thanh vắng nghỉ ngơi và cầu nguyện, đồng thời qủi đến cám dỗ Ngài.

Việc ma qủi cám dỗ Chúa thực là một việc thánh, vì Ngài đã kể những cách cám dỗ nơi chính mình cho chúng ta có kinh nghiệm. Các cám dỗ đem đến cho Ngài cũng không phải là loại cám dỗ thường tình của người đời: Hóa phép cho đá thành bánh - Nhẩy từ trên nóc đền thờ xuống mà không chết. Chỉ có một cái cám dỗ giống loài người là ham danh vọng: Quì xuống tôn thờ ma qủi để đoạt được quyền uy thế phiệt. Ma quỷ đoán Ngài phải là một nhân vật rất thánh, thánh khác thường, vì nó thấy Ngài cầu nguyện và suy nghĩ bằng những năng lực phi thường (khác lối suy nghĩ và cầu nguyện của loài người), để tìm cách chinh phục các linh hồn, nên nó dùng phương pháp cám dỗ cũng khác thường như vậy.

Những cám dỗ này chắc cũng không phải xẩy ra một lúc, mà suốt 40 đêm ngày suy nghĩ và ma quỷ đã đến đưa phương thế giúp Ngài giải quyết.

1. Đưa đá cho Chúa, ma quỷ giải quyết rằng Ngài có thể dùng quyền năng phi thường của mình mà biến hóa vật chất nên của quí giá làm lòa mắt người trần, đánh mạnh vào lòng ham thích vủa cải sang trọng, để lôi kéo họ theo mình. Vì nhân loại thường dùng quyền thế, chức vị danh vọng để sai khiến nhau.

2. Cho Ngài xem thấy tất cả thế gian, ma qủy giải quyết rằng việc cai trị cả nhân loại không khó gì, chỉ cần qùy xuống xin hắn, thì hắn cho đủ quyền cai quản đó. Vì nhân loại dễ dàng chấp nhận quy phục gian tà để có quyền gây thanh thế trên người khác. Chúa dạy phải công chính hóa đời mình và chỉ phục quyền Đấng có quyền thật.

3. Trong cám dỗ thứ ba chúng giải quyết: Cứ nhảy xuống mà không việc gì, sẽ làm cho dân chúng thấy rùng rợn mà theo, vì phép tắc của Ngài không ai có thể vượt được. Vì nhân loại vẫn hay dùng lối bùa phép này để dọa nạt người khác, nhưng Chúa dạy không lừa dối, gạt gẫm người ta.

Trên đường theo Chúa, giữ đạo, đôi khi chúng con thấy mình khó thắng các cám dỗ quá. Xin Chúa thêm sức mạnh để chúng con có thể thực hiện điều Chúa dạy cách bền chí.

 

46.Chúa Nhật 1 Mùa Chay

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

ĐỌC LẠI CÂU CHUYỆN CÁM DỖ TỪ SÁCH SÁNG THẾ

Hàng năm, Phúc Âm Chúa Nhật I Mùa Chay đều nói về cám dỗ. Chúa Giêsu vào hoang địa. Sau bốn mươi đêm ngày ăn chay và cầu nguyện, Satan xuất hiện và cám dỗ. Chúa Giêsu đã chiến thắng Satan.

Đọc lại câu chuyện Sáng Thế (St 3, 1-7): Cám dỗ và sa ngã.

Rắn là vật tinh ranh hơn mọi dã thú (3,1a). Rắn là loài có hình thù và cách di chuyển đặc biệt; nó khôn khéo và nguy hiểm làm người ta sợ và ghê tởm. Nhiều tôn giáo (cụ thể tại Canaan) coi rắn như thần và nó có vai trò trong việc ma thuật và biểu tượng sự sinh sản phong phú. Ở đây, rắn biểu tượng cho sự độc ác và khôn khéo, tìm cách phá hoại hạnh phúc con người bằng cách phá đổ mối thân thiện giữa con người với Thiên Chúa. Sách Khôn Ngoan ví rắn là quỷ dữ (Satan): “Chính vì quỷ dữ ganh tỵ, mà cái chết xâm nhập thế gian” (St 2,24); Khải Huyền gọi là Satan, ma quỷ (Kh 12,9); (1Ga 3,8).

Rắn quỷ quyệt đưa ra một câu hỏi bâng quơ: “Các ngươi không được ăn hết mọi trái cây trong vườn không?” (3,1b). Quả là một câu hỏi khôn khéo và nguy hiểm vì có hai nghĩa:

Không được ăn tất cả, chỉ một số nào đó thôi.

Không được ăn cây nào cả.

Rõ ràng, lời này có ý xuyên tạc hoàn toàn ý Thiên Chúa, và như thế có tác dụng lôi kéo người nữ vào câu chuyện.

Người nữ phản kháng: Quả cây trong vườn chúng tôi được ăn. Nhưng về quả cây ở giữa vườn thì Thiên Chúa đã phán: các ngươi không được ăn, không được rờ đến kẻo phải chết (3,2). Việc đầu tiên là người nữ thấy cần phải đính chính để bênh vực Chúa, và nói quá đi (không được đụng tới) như thể xác định một lệnh truyền nghiêm nhặt để giữ mình.

Con rắn ngọt ngào dụ dỗ: Chẳng chết chóc gì đâu! quả nhiên Thiên Chúa biết, ngày nào các ngươi ăn nó, mắt các ngươi sẽ mở ra và các ngươi sẽ nên như những Thiên Chúa biết cả tốt xấu. (3,4-5). Hết sức khôn khéo, rắn không xúi giục ăn trái cấm, nhưng tạo nên trong lòng con người sự nghi ngờ Lời Chúa. Nó quả quyết mình biết Chúa hơn người nữ và thuyết phục bà bớt tin tưởng để phán đoán rằng, biết đâu Thiên Chúa cấm vì sợ con người sẽ bằng mình. Các ngươi sẽ như Êlohim (giống Êlohim) là những kẻ biết thiện ác. Biết không nguyên bằng trí thức nhưng còn là kinh nghiệm; biết là làm chủ được sức mạnh thần bí. Rắn gợi cho con người nghĩ là họ có thể mở rộng cuộc sống vượt qua những giới hạn mà Chúa đã đặt, để họ có quyền định đoạt tốt xấu cho mình nghĩa là định mệnh cuộc đời mình, và như thế là đồng nghĩa với sự từ chối lệ thuộc Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, tức là kiêu ngạo muốn tách mình ra khỏi Thiên Chúa.

Người đàn bà đã nhìn: quả là cây ăn phải ngon. Mà nhìn thì đã sướng mắt. Nó đáng quý thực, cái cây ấy, để được tinh khôn (3,6). Rắn không nói gì thêm. Cần đi vào yên lặng để những lời cám dỗ trên được lắng sâu vào trí óc và cõi lòng. Nó tác động từ giác quan, đi vào trí khôn tạo lòng muốn. Người nữ ngắm nghía trái cây thấy ngon (giác quan - cảm giác), mát mắt (thẩm mỹ) và đáng thèm khát để được Khôn Ngoan, thông minh như Chúa, nên giống Chúa.

Và bà đã hái lấy quả mà ăn, và bà cũng trao cho chồng ở bên bà đưa cho chồng. (3,6). Người bị dụ dỗ trở hành kẻ dụ dỗ. Nàng chia cho chồng với ước mơ hão huyền là chồng được thông minh như Thiên Chúa.

Tại sao trong tình trạng sáng suốt và quân bình ban đầu, con người có thể bị sa ngã? Xét cho cùng, dầu sao họ cũng chỉ là thụ tạo bất toàn, với thân phận mỏng manh. Điều quan trọng đó là họ luôn có tự do để phán đoán và quyết định.

Và ông đã ăn (3,6). Lời Thánh Kinh thật vắn gọn diễn tả sự yếu đuối, nhu nhược của Ađam và ông đã sa ngã.

Mắt hai người mở ra (3,7). Đúng như lời rắn nói, bây giờ họ thấy một cái gì mới, nhưng cách khác hẳn họ tưởng: thay vì trở nên thần linh biết thiện ác, họ biết mình trần truồng. Tất nhiên, trước khi phạm tội, họ trần truồng nhưng coi đó là tự nhiên và không xấu hổ. Bây giờ sự vô tội đã mất, xấu hổ là dấu chỉ của ý thức tội lỗi họ có; tội đã gây nên trong thẳm sâu con người sự đổ vỡ: thế quân bình và hòa hợp giữa tinh thần và thể xác đã mất, con người không còn làm chủ được mình nữa, và vì thế cảm thấy xấu hổ trước mặt nhau.

Sau khi sa ngã, hai người lẫn trốn Thiên Chúa. Họ đi trốn chứng tỏ lương tâm hối hận vì đã không vâng lời. Tội phá vỡ sự hài hòa với chính mình. Để chạy tội, con người như đổ lỗi cho Chúa: người đàn bà mà Chúa đã đã đặt bên tôi, chính y thị đã hái nơi cây ấy cho tôi, nên tôi đã ăn (3,12). Người đàn ông đỗ lỗi cho Chúa: chung quy chỉ vì Chúa cho tôi người đàn bà ở với tôi.

Người nữ đổ tội cho rắn: Con rắn dụ dỗ tôi nên tôi đã ăn (3,13). Cả hai câu nói trên tỏ lộ mối rạn nứt giữa người với nhau. Sự liên đới trong tội bị phủ nhận, người ta đổ trách nhiệm cho nhau. Sự đồng phạm không liên kết con người trước mặt Chúa, nhưng làm họ ra lẻ loi. Tội bắt đầu gây chia rẽ và phá vỡ mối tương quan hài hòa giữa người với nhau.

Ý nghĩa “con rắn” và “trái cấm”

Tại sao Kinh Thánh chọn loài “rắn” làm hiện thân cho Satan? Còn “trái cấm” có ý nghĩa hiện sinh gì trong cuộc sống không?

a. Con rắn

Trước tiên, hình ảnh “rắn” rất quen thuộc trong Cựu Ước. Cái tên “Satan” (Quỉ Vương) có sẵn trong các tôn giáo cổ xưa, nhưng Do Thái là tôn giáo đầu tiên cho rắn đội lốt Satan đến cám dỗ con người ăn trái cây “biết lành biết dữ”. Rắn cũng xuất hiện lần nữa khi Môisen và Aaron ném gậy xuống đất hòa thành rắn để Pharao cho dân Chúa đi tự do. Trong sa mạc, Môisen đúc rắn đồng treo lên cây cao, hễ ai bị rắn cắn nhìn vào đó sẽ được khỏi. Có thể hiểu “bị rắn cắn” theo nghĩa rộng như là một sự chùn chân, chán nản, không muốn tiếp tục cuộc hành trình qua sa mạc. Trong 40 năm lưu lạc trong sa mạc, dân Do Thái có lẽ đã tiếp xúc, đụng độ hoặc muốn đồng hóa với các bộ lạc thờ rắn sống trong vùng, và Môisen phải đúc rắn đồng riêng cho dân Do Thái để họ lên tinh thần mà tiếp tục cuộc hành trình về đất hứa. Ngày nay, các nhà khảo cổ đã tìm thấy được một số rắn đồng tại vùng mỏ đồng sa mạc Araba.

Ngoài Kinh Thánh ra cũng có nhiều chuyện thần thoại khác về rắn đã được lưu hành trước đó rất lâu. Chuyện thần thoại Gilgamesh ở xứ Sumeria, kể lại vua Utnaphistim và vợ ông ta đã tìm được một loài cây trường sinh, nhưng trước khi có dịp ăn quả trường sinh thì có một con rắn đã đánh cắp cây quý khỏi tay nhà vua, và từ đó không ai có thể sống đời đời nữa. Điển tích về rắn cướp lấy cơ hội trường sinh bất tử ảnh hưởng ít nhiều vào sự tích Satan hóa thân con rắn đến cám dỗ Evà, từ đó loài người mất đi cơ hội sống đời đời. Phải đợi đến thời Kitô giáo, “trái cấm” được thay thế bằng “Mình và Máu” của Chiên Thiên Chúa. Cũng như thế, Evà , người nữ đem trái cấm đến cho Ađam ăn, sẽ được thay thế bằng Đức Trinh Nữ Maria, người “chưa hề biết đến một người nam”. Ngoài ra, cuộc chiến giữa rắn tiền sử và thần Marduk nói lên nhu cầu hy sinh đổ máu của “thần thánh” để loài người được sống. Khái niệm thần thánh trở thành của lễ hiến tế để đem lại sự sống cho nhân loại có lẽ không xa lạ cho lắm đối với hậu cảnh văn hóa và tôn giáo của Cựu Ước và Tân Ước. Tư tưởng “máu đào tử đạo là hạt giống đức tin” có lẽ cũng mang ảnh hưởng phần nào của khái niệm trên đây.

Với quan niệm của người Á Đông xem rồng như là vật linh thiêng, thì dân tộc Trung Đông cũng tôn thờ rắn vậy. Rắn đại diện cho sự khôn ngoan, nhanh nhẹn và cả sự nguy hiểm, trả thù độc địa nếu cần. Dân tộc xứ Syria xem rắn như một thần phù trợ. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy tại các đền thờ, các tạc hình “đầu rắn” vì họ tin thần rắn sẽ cắn chết những kẻ xâm lăng và bảo vệ dân chúng khỏi hiểm nguy bệnh tật. Khi thấy rắn lột da nhưng vẫn sống, người ta tin rắn có bí quyết trường sinh bất tử. Người Hy Lạp có thần Asklepios chữa bệnh mang dấu hiệu hình rắn mà ngày nay vẫn thấy tại các tiệm thuốc tây, văn phòng bác sĩ, hoặc nhà thương. Người Việt tin là rắn có trí nhớ và khả năng trả thù như trong chuyện Nguyễn Trãi giết cả một tổ rắn hổ mang và sau này bị rắn trở lại báo oán (tru di tam tộc).

b. Trái cấm

Vì sự tinh ranh của rắn, Satan đội lốt rắn để đem “trái cấm” đến dụ dỗ con người. Nhưng “trái cấm” có ý nghĩa gì không? Cũng như các ngụ ngôn Đức Giêsu dùng để giảng dạy trong Tân Ước, ngôn ngữ huyền thoại của sách Sáng Thế không phải là loại ngôn ngữ cứng rắn của siêu hình học. Muốn hiểu ý nghĩa sâu sắc của nó chúng ta cần phải đặt mình vào trong bối cảnh và ngữ cảnh của câu chuyện.

Vì thế, ở đây chúng ta hãy giải thích “trái cấm” qua lăng kính hiện sinh. Nếu xét theo kinh nghiệm trưởng thành của mỗi người, chúng ta có thể diễn đạt ý nghĩa của “trái cấm” qua ba giai đoạn sau đây.

Trước tiên, “vườn địa đàng” đại diện cho tuổi còn bé thơ, sống trong vô tư và trần truồng, mọi miếng ăn thức uống đều lệ thuộc vào cha mẹ, chỉ biết chơi đùa với thú vật, mỗi buổi chiều tà cha mẹ dẫn đi chơi hay ngồi nghỉ dưới bóng mát của hàng cây.

Giai đoạn “Ađam và Evà bị cám dỗ” nói lên những khủng hoảng thường gặp phải trong tuổi dậy thì. Đây là cái tuổi thích mạo hiểm và tự do, hay chống đối lại bề trên nhưng không màng đến hậu quả xấu. Ở giai đoạn này, tính tình thì rất nông nổi và bồng bột, dễ bị quyến rũ và sa ngã về tính dục và tình cảm.

Cuối cùng, giai đoạn “sống ngoài vườn địa đàng” nói lên sự trưởng thành, đầy đủ nghị lực và trách nhiệm để tự lập. Đàn ông tự kiếm sống với mồ hôi nước mắt của chính mình, đàn bà mang nặng đẻ đau, nhưng cả hai sẵn sàng chấp nhận mọi vất vả để tạo dựng mái ấm gia đình riêng cho họ. Vườn địa đàng có thiên thần “cầm gươm đứng gác cửa” ngăn chận không cho con người trốn chạy trách nhiệm hay trở về với tổ ấm của cha mẹ, nhưng phải đương đầu với thực tại đau khổ và biết giá trị của sự chọn lựa. Nói cách khác, “trái cấm” đánh dấu một khúc quanh quan trọng trong đời người. Khi lớn lên không tránh khỏi những sai lầm hay sa ngã, nhưng chỉ qua đó, con người mới làm chủ vận mệnh và chịu trách nhiệm cho sự chọn lựa của mình. Đó có thể là lý do tại sao “trái cấm” được gọi là trái của “cây biết lành biết dữ”. (x. Nội san chia sẽ, số 52, tháng 12, năm 2006, trang 79-82).

Chiến thắng cám dỗ theo gương Chúa Giêsu

Trong hành trình về đất Hứa, dân Israel đi trong sa mạc một thời gian dài và đã gặp nhiều cám dỗ: cám dỗ trở lại Ai cập để có bánh ăn; cám dỗ thờ tượng con bê vàng; cám dỗ thử thách Thiên Chúa.

Thánh Gioan Kim Khẩu đã quả quyết: “Trên đời này không ai mà không bị cám dỗ”. Con người “già cái lợi cái răng, nhưng ba cái lăng nhăng không già”.

Như vậy cám dỗ là một cái gì hết sức mạnh mẽ, hết sức lôi cuốn, và rất khó chống cự.

Chúa Giêsu đã chiến thắng mọi cám dỗ của Satan bằng Lời Chúa và đời sống chay tịnh cầu nguyện, luôn tín thác vào Chúa Cha.

Lời Chúa là sức mạnh tâm linh, là lẽ sống thần linh và là lời ban sự sống. Đọc và suy gẫm Thánh Kinh sẽ đem lại cho chúng ta sức mạnh để chiến thắng tội lỗi. Gương của Chúa Giêsu được Tin Mừng Thánh Luca kể rõ: mỗi lần ma quỉ đưa ra một chước cám dỗ thì Chúa Giêsu lại lấy một lời của Kinh Thánh mà đẩy lui chước cám dỗ ấy:

-Có lời chép rằng: người ta không sống bằng cơm bánh mà còn bằng lời của Thiên Chúa nữa.(Lc 4,5)

-Có lời chép rằng:ngươi phải thờ lạy Chuá là Thiên Chúa ngươi và chỉ phụng thờ một mình Người.(Lc 4,8)

-Có lời chép rằng: ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi.(Lc 4, 11).

Dường như suốt cả cuộc đời, Chúa Giêsu luôn bị Satan tấn công: “ Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỹ bỏ đi, chờ đợi thời cơ ”. (Lc 4,13). Nhất là vào những giây phút cuối đời của Người. Trong vườn Giêtsêmani, khi đối diện với khổ nạn và cái chết đang cận kề, Chúa Giêsu không khỏi sợ hãi đến nổi mồ hôi đổ ra như máu. Người đã thân thưa cùng Chúa Cha đến hai lần: “ Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha ”. (Mt 26, 39b); “ Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha ”. (Mt 26, 42b).

Chủ yếu cám dỗ của ma quỷ là làm sao tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa Cha. Mỗi người ở mỗi hoàn cảnh đều có thể bị nó cám dỗ để chia cắt tình yêu của mình với Chúa. Dựa vào sức mình, vào khả năng của mình… mà không biết cậy dựa vào tình yêu Chúa thì chúng ta đang bị rơi vào tròng của ma quỷ.

Mùa Chay là thời gian đặc biệt để xét mình, để sám hối canh tân bản thân, nhờ đó mà sống đẹp lòng Chúa mỗi ngày.

Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận có kể lại một câu chuyện về mẹ của ngài trong một diễn văn nhân lễ mở tay mừng tân chức như sau: "Cách đây khá lâu có hai linh mục đến thăm mẹ già của tôi tại Úc châu và hỏi bà: "Bà cố có muốn Đức Cha Thuận làm hồng y không?" Bà cụ (nay đã 98 tuổi) trả lời: "Không! Tôi dâng con tôi cho Chúa là để tế lễ Người, như thế là đủ! Tôi chẳng cần con tôi làm hồng y đâu" - "Nhưng lên hồng y sẽ làm vinh danh Chúa hơn!" - "Thế hai cha không làm vinh danh Chúa à?". Mới đây, sau khi Đức Cha Thuận được tấn phong hồng y thực thụ, một trong hai linh mục hôm nọ cùng một vị khác lại gặp bà cụ và hỏi: "Nay Đức Cha Thuận đã lên hồng y rồi, bà cố có vui không?" - "Dạ vui chớ!" - "Sao hôm nọ, bà cố đã trả lời là không muốn con bà làm hồng y!" - "Nay tôi vui vì đó là ơn Chúa cho. Có chức quyền to ở trần đời dễ làm bậy lắm! Còn chức quyền to trong Giáo Hội thì phải lo mà chu toàn theo ý Chúa" - "Vậy bây giờ Đức Cha đã lên hồng y, bà cố cầu nguyện gì cho đức Hồng y?" - "Tôi chỉ cầu nguyện cho con tôi sống đẹp lòng Chúa!" - "Thế thôi à?" - "Vâng, sống đẹp lòng Chúa, đó là điều duy nhất tôi luôn cầu nguyện cho con tôi!".

 

47.Sức mạnh để chiến thắng cám dỗ

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

Trước khi bắt đầu sứ vụ rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu được Thánh Thần thúc đẩy đi vào hoang địa. Sau bốn mươi đêm ngày ăn chay và cầu nguyện, Người cảm thấy đói. Satan xuất hiện, mon men lại gần để cám dỗ. Chúa đã chiến thắng Satan bằng sức mạnh Thánh Thần và Lời Thiên Chúa.

1. Ba cơn cám dỗ

– Cơn cám dỗ thứ nhất phát xuất từ cái đói. Ma quỷ gợi ý cho Chúa Giêsu “Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy truyền cho những hòn đá này hóa bánh đi” (Mt 4,3). Cơn cám dỗ về bánh nói lên ước muốn căn bản nhất là bản năng sinh tồn của con người. Thân xác với những khát khao thèm muốn luôn đòi hỏi phải được nuôi nấng, chiều chuộng và vỗ về.

– Trong cơn cám dỗ thứ hai, ma quỷ đưa Chúa Giêsu lên thượng đỉnh đền thờ và nói: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy gieo mình xuống coi! Bởi đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn, thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá” (Mt 4,5). Ma quỷ dùng Tv 91,11 để gợi ý cho Chúa Giêsu nhảy từ nóc đền thờ xuống, xem Thiên Chúa có biểu lộ quyền năng của Người hay không. Cám dỗ thách đố Thiên Chúa biểu lộ quyền năng để tìm vinh quang cá nhân. Đó là bản năng đối kháng lại những giới hạn của cuộc sống nhân sinh. Con người thường muốn quên đi những điều kiện sinh sống giới hạn của mình. Họ muốn cất cánh bay lên cõi thần tiên bằng men rượu, ma túy, lạc thú…

– Trong cơn cám dỗ thứ ba, ma quỷ đem Chúa Giêsu lên một ngọn núi cao và chỉ cho Người thấy các nước thiên hạ và các thứ phú quý, rồi nói: “Tôi sẽ cho ông tất cả những cái ấy, nếu ông sấp mình thờ lạy tôi…” (Mt 4,9). Một cơn cám dỗ đã hằng theo đuổi dân Israel, chẳng những trong thời gian hành trình sa mạc mà cả khi định cư trên đất Palestina. Đó là thờ lạy các tà thần mong được giàu sang, quyền thế, có khả năng thống trị các quốc gia khác. Bản năng thống trị, cái “ý chí quyền lực” nằm sẵn trong mỗi một con người. Người ta thường muốn cai trị và sai khiến những người yếu hơn mình. Xưa dân Do thái đã tạc tượng bò vàng và thờ lạy nó. Ngày nay, ngẫu tượng hay bò vàng chính là tiền tài, danh vọng, lạc thú, vật chất, tiện nghi, sắc dục.

Ba cơn cám dỗ của Chúa Giêsu đều đã bắt đầu bằng chữ “nếu”. Chúng khởi sự bằng một lý luận với những lý do có vẻ chính đáng, hợp lý và đáng ao ước để tấn công vào những đòi hỏi của bản năng con người Giêsu.

Tuy là ba cơn cám dỗ, nhưng vẫn chỉ là một. Bởi trọng tâm của vấn đề chính là gieo rắc sự khủng hoảng của niềm tin. Chúa Giêsu bị cám dỗ nghi ngờ về căn tính Con Thiên Chúa của chính mình. Cả ba Phúc âm Mátthêu, Máccô, Luca đều mô tả cơn cám dỗ ngay sau khi Chúa chịu phép Rửa ở sông Giođan, và có tiếng từ trời phán “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3.17). Ma qủy cám dỗ Chúa Giêsu quay lưng lại với sứ mạng đã nhận từ nơi Chúa Cha (GLTC #394).

Cơn cám dỗ Chúa Giêsu cũng giống như cơn cám dỗ của Ađam và Eva trong bài đọc một (St 2,7-9;3,1-7). Ma qủy gieo sự nghi ngờ và mất niềm tin nơi những kẻ được gọi là con cái Thiên Chúa. Qua bản năng ăn uống thèm khát của thể xác, nó khơi dậy bản năng phản kháng bất tuân lệnh Chúa và sau cùng, con người sa ngã ở “ý chí quyền lực”, bản năng đòi bá chủ và thống trị vì muốn ngang hàng với Thiên Chúa.

Thụ tạo đầu tiên trong hàng các thiên thần đối diện với cám dỗ là Lucifer. Không vượt qua được cơn cám dỗ, Lucifer đã trở thành Satan.

Thụ tạo đầu tiên trong con người là Ađam và Evà cũng đã nếm mùi cám dỗ. Và hai Nguyên Tổ này cũng đã gục ngã thảm thương trước cám dỗ.

Như vậy cám dỗ là một cái gì hết sức mạnh mẽ, hết sức lôi cuốn, và rất khó chống cự.

Chúa Giêsu sau khi đã trải qua những cám dỗ và thắng các cám dỗ cũng thấy được điều này, nên Người đã dạy các môn đệ không được coi thường bằng cách dựa vào sức lực, tài trí, và khả năng của riêng mình. Người dạy phải cầu nguyện và xin ơn Chúa Thánh Thần: “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ. Nhưng cứu chúng con khỏi sự dữ”.

2. Sức mạnh nào giúp vượt thắng cám dỗ?

Cả ba Phúc Âm đều đề cập đến một chi tiết rất thú vị, đó là Chúa Giêsu không đi vào hoang địa một mình, nhưng mà Người đi cùng với Chúa Thánh Thần.

– “Bấy giờ Đức Giêsu được Thần Khí dẫn vào hoang địa, để chịu quỷ cám dỗ” (Mt 4,1)

– “Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa. Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người” (Mc 1,12-13).

– “Đức Giêsu được đầy Thánh Thần, từ sông Giođan trở về. Suốt bốn mươi ngày, Người được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa và chịu quỷ cám dỗ” (Lc 4,1-2).

Khi vào hoang địa, khi bị ma quỷ cám dỗ, Chúa Giêsu cần đến sự nâng đỡ của Chúa Thánh Thần. Chúa Giêsu đã dựa vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần và Lời của Thiên Chúa để đối đáp với ma quỷ và đã chiến thắng.

Khi chúng ta lâm vào những cuộc thử thách, phải đối diện với những mưu chước của Satan, rất cần ơn Chúa Thánh Thần trợ lực. Chúa Giêsu mà còn cần đến Chúa Thánh Thần nữa, thì huống hồ là chúng ta.

Cần phải cầu nguyện (Lc 22,40; Cv 2,42; LGTC #2612,2742). Nhờ cầu nguyện, Chúa Giêsu đã không cô đơn một mình, nhưng “được Thánh Thần hướng dẫn” (Mt 4,1). Nhờ cầu nguyện chúng ta được liên kết với sức mạnh của Thánh Thần và với các thánh trên trời.

Vai trò của Chúa Thánh Thần thật quan trọng trong đời sống của chúng ta. Những lúc bị cám dỗ, những khi sống trong cô đơn, buồn chán và thất vọng…hãy cậy trông và khẩn cầu với Chúa Thánh Thần xin ơn phù trợ. Chúa Giêsu đã hứa: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần mà Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy các con mọi điều” (Ga 14,26).

3. Cầu khẩn và kêu xin Chúa Thánh Thần bằng cách nào?

– Khi thằng quỷ dâm ô xúi tôi mở những emails lạ, dụ dỗ tôi tò mò đi vào những websites của Trư Bát Giới… Tôi phải mau mắn và thành tâm xin Chúa Thánh Thần soi lòng mở trí để tôi nhận ra rằng: “Ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi. Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục (Mt 5,28-29).

– Khi thằng quỷ gian dối xúi tôi nói dóc, nói xạo, nói quanh co, nói sai sự thật, lừa bịp thiên hạ … tôi phải lập tức xin Chúa Thánh Thần ban ơn khôn ngoan để tôi có thể nhớ lời của Chúa Giêsu phán dạy tôi rằng: “Hễ ‘có’ thì phải nói ‘có’, ‘không’ thì phải nói ‘không.’ Thêm thắt điều gì là do ác quỷ mà ra!” (Mt 5,37).

– Khi thằng quỷ kiêu căng, ngạo mạn xúi tôi phê bình chỉ trích người này, xét đoán người kia, lên án người nọ … thì tôi phải lập tức xin Chúa Thánh Thần giúp tôi nhớ rằng: “Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án” (Lc 6,37).

– Khi bị thằng quỷ dâm ô xúi tôi ly dị, bỏ chồng, phụ vợ, làm giấy ly dị giả … tôi phải cầu xin với Chúa Thánh Thần ngay để Ngài giúp cho tôi hiểu rằng “[Tôi và người bạn đời của tôi] không còn là hai [nữa], nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mc 10,8-9).

– Khi thằng quỷ kiêu căng xúi tôi khoe khoang, tự kiêu tự đại … thì tôi xin Chúa Thánh Thần nhắc nhở cho tôi rằng: “Kiêu hãnh đi liền với ô nhục … kiêu căng đưa đến sụp đổ, ngạo mạn dẫn đến té nhào” (Cn 11,2; 16,18).

– Khi thằng quỷ giận hờn xúi tôi giận người này, ghét người kia, thù người nọ … thì tôi phải cần đến sự trợ lực của Chúa Thánh Thần, xin Ngài soi sáng để tôi hiểu rằng: “Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt (Mt 5,22).

– Khi thằng quỷ dâm dục xúi bẩy tôi đi ngoại tình, ăn chơi trác táng, quan hệ bừa bãi … tôi phải van nài Chúa Thánh Thần, xin Ngài nhắc nhở cho tôi nhớ rằng: “Thân xác [của con] là Đền Thờ của [Ta đấy nhé! Chớ có làm cho nó ra ô uế!]” (1 Cr 6,19).

Sau khi chịu phép Rửa tội để trở nên một Kitô hữu, chúng ta dấn thân vào đời với nhiều thử thách của niềm tin, phải chịu nhiều cám dỗ của phận người lữ thứ. Nếu chúng ta tin rằng “Thiên Chúa đã tuôn đổ đầy tràn ơn Thánh Thần xuống trên chúng ta, nhờ Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng ta” (Tt 3,6) thì hãy vững tâm và tin tưởng tuyệt đối vào quyền năng của Chúa Thánh Thần. Ngài sẽ không bao giờ xa rời chúng ta đâu! Điều quan trọng là chúng ta có thánh tâm để cầu xin và nhờ cậy Ngài, hay là không thôi!

Hãy tin tưởng và trông cậy vào Chúa Thánh Thần. Bảy hồng ân của Chúa Thánh Thần luôn trao ban cho người: ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết, ơn nhận thức, ơn chỉ bảo, ơn dũng mạnh, ơn thánh thiện và ơn kính sợ Thiên Chúa.

Hãy mở rộng tâm hồn đón nhận ơn Chúa Thánh Thần và hăng hái cộng tác với chương trình của Ngài, nhờ đó “Hoa trái của Thần Thần là bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ” (Gl 5,22-23) sẽ tràn đầy trong tâm hồn và đời sống của chúng ta.

Việc gặp gỡ Chúa Thánh Thần rất dễ dàng. Chỉ cần hồi tâm lại, ý thức Ngài đang hiện diện ngay trong bản thân mình, và muốn được tan hòa vào trong Ngài. Chúa Thánh Thần sẽ mở tung cánh cửa ích kỷ. Ngài sẽ phá tan cánh cửa hẹp hòi. Ngài sẽ ban thêm sức mạnh. Ngài sẽ quét sạch mọi lớp bụi bặm rêu phong. Ngài sẽ đổ tràn vào hồn chúng ta nguồn sống mới giúp chúng ta chiến thắng mọi cám dỗ và hăng hái lên đường.

 

48.Cám dỗ thời nay

(Suy niệm của Lm. Xuân Hy Vọng)

Nhiều người trong chúng ta có thể đã hỏi ít nhất một lần trong đời rằng: Đức Giê-su vào hoang địa, chịu cám dỗ để làm gì? Ngài là Ngôi Lời, là Thiên Chúa, thì chắc chắn  sẽ chiến thắng mọi cơn xúi giục, lôi kéo, cám dỗ của ma quỷ, điều này không đúng sao? Trước khi bắt đầu sứ vụ rao giảng Nước Trời cách công khai, biến cố Đức Giê-su chịu cám dỗ có ý nghĩa gì? Hơn hết, cuộc chiến chống lại cám dỗ của Ngài có cần thiết và hệ trọng đối với chúng ta, đặc biệt trong đời sống đạo của mỗi người chúng ta chăng?

Đây chỉ là một số câu hỏi, thiết nghĩ chúng ta đôi lần cũng tự đặt ra cho mình, cũng như cho những ai có trách nhiệm giảng dạy, đào tạo và đồng hành thiêng liêng. Tuy nhiên, ở đây, chúng ta không cố gắng tìm lời giải đáp cho tất cả mọi nghi vấn, câu hỏi mà chúng ta đặt ra. Cho bằng, chúng ta cùng đặt bản thân mình vào các bài đọc hôm nay, nhất là đoạn Tin Mừng ngắn ngủi này, hy vọng chúng ta sẽ tìm thấy, sẽ khám phá điều gì Chúa muốn nói với chúng ta trong Mùa Chay Thánh này: “Khi ấy, Thánh Thần thúc đẩy Chúa Giê-su vào hoang địa và Ngài ở đó suốt bốn mươi đêm ngày, chịu Sa-tan cám dỗ, sống chung với dã thú và các Thiên Thần hầu hạ Ngài” (Mc 1, 12-13).

Như chúng ta biết, sau khi Chúa Giê-su chịu phép rửa tại sông Gio-đan, thì Ngài được Thần Khí thúc đẩy đưa vào hoang địa để chịu ma quỷ cám dỗ, nơi đó Ngài ăn chay ròng rã bốn mươi đêm ngày (x. Mt 3, 16 - 4, 2; Lc 3, 21- 4, 2). Như thế, đây không đơn giản là cuộc chiến chống lại cơn cám dỗ đơn thuần, mà đúng hơn, qua biến cố này, Đức Giê-su để lại tấm gương quý giá, và bộc lộ khả năng thần thiêng nơi con người, bởi lẽ con người được Thiên Chúa dựng nên giống Ngài và theo hình ảnh Ngài (Imago Dei). Thật sự, con người đã sa ngã, phạm tội, không giữ lời hứa với Thiên Chúa (x. hình ảnh A-đam và E-và ăn trái cấm), nhưng tiềm ẩn trong con người vẫn không mất đi tính thần thiêng, cũng chẳng mất đi khả năng chống lại cơn cám dỗ của ma quỷ. Thánh Sử Mác-cô không kể chi tiết Đức Giê-su đã chịu cơn cám dỗ ra sao, và Ngài đã chiến đấu với những cơn cám dỗ thế nào; nhưng Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu và Lu-ca cho chúng ta thấy rõ ba loại cám dỗ chính liên quan đến vật chất (tiền bạc), quyền lực và danh vọng (x. Mt 4, 2-11; Lc 4, 2-13). Đức Giê-su đã dùng Lời Chúa, dùng việc ăn chay cầu nguyện và sự tín thác kiên vững của Ngài mà chống lại sự xúi giục của ma quỷ. Đây chính là cách chúng ta soi vào, noi gương Ngài mỗi khi bị cám dỗ, hoặc có những xu hướng lệch lạc, khiến chúng ta xa rời Thiên Chúa, hoặc đối nghịch với giáo lý Giáo Hội.

Giữa thời đại này, có quá nhiều kiểu cám dỗ, vô vàn loại hình lôi kéo chúng ta bỏ đàng công chính, sống buông thả theo lối ‘đến đâu hay đến đấy’. Một trong nhiều thứ cám dỗ mà chúng ta cảm nhận rõ rệt ngày nay, đó là: ‘chẳng sao đâu, anh (chị) vẫn còn nhiều thời gian/thời giờ mà!’, ‘để sau cũng được mà! Chứ vội vàng (xưng tội, ăn năn sám hối…) làm chi!’, ‘hôm nào tiện thì làm (ví dụ: chần chừ đi xưng tội, phạm hết tội nhẹ đến tội trọng, nhưng dự định gộp một lần rồi xưng tội) luôn một thể’, đặc biệt khi sống làm việc ở xứ người, vừa không biết ngôn ngữ vừa biếng nhác, chưa trưởng thành trong đời sống đạo. Ngoài ra, một loại cám dỗ khác cũng khá phổ biến thời nay, đó là: ‘hành vi/hành động sai/xấu nhưng nếu chẳng ai bắt được tận tay, thì xem như bình thường’, ví dụ: ăn cắp vặt, ăn trộm vặt, nếu không ai thấy thì hành vi sai trái ấy vẫn coi như chẳng có gì nghiêm trọng cả. Như chúng ta biết hành vi sai trái, tội lỗi ở bản chất nó thì cho dù khi thực hiện có ai bắt được hay có ai thấy hay không, hành vi đó vẫn sai trái, tội lỗi. Hơn thế, một thứ cám dỗ khác như thể ‘vàng thật vàng thau lẫn lộn’, ấy là: hành động sai ngay tại bản chất của nó, nhưng nếu nhiều người làm thì nó lại trở nên bình thường như ‘bình chân như vại’! Một hành vi xấu xa ở bản chất của nó, thì cho dù nhiều hay ít người làm đi chăng nữa, nó vẫn là hành vi sai trái. Tuy ba kiểu cám dỗ thời đại này tinh vi, và hầu như phải chiến đấu nội tâm, nhưng ở mức độ nào đó, chúng vẫn liên quan đến tiền-tài-tình hoặc tiền tài-quyền lực-danh vọng-sắc dục.

Với tấm gương kiên định chống lại cám dỗ của Đức Giê-su, và trong niềm tín thác “Chúa Ki-tô đã chết một lần cho tội lỗi chúng ta, Ngài là Đấng công chính thay cho kẻ bất công, để hiến dâng chúng ta cho Thiên Chúa” (1Pr 3, 18), thì chúng ta vượt thắng mọi cơn cám dỗ. Nhờ vào lòng nhân từ Chúa, gia đình ông No-ê (gồm tám người) được cứu khỏi lụt đại hồng thuỷ (x. St 8-9) và Ngài đã ký kết giao ước với ông qua dấu chỉ ‘chiếc cầu vòng’ (‘cái mống’ hoặc ‘cây cung trên trời’ như một số bản dịch Kinh Thánh tiếng Việt sử dụng), rằng: Thiên Chúa sẽ không trừng phạt như vậy nữa; thay vào đó, Ngài khoan dung, nhân từ, nhẫn nại, chờ đợi con người. Ngài thanh tẩy và ban cho con người một lương tâm ngay thẳng, nhờ sự phục sinh của Đức Giê-su Ki-tô, Đấng ngự bên hữu Thiên Chúa hằng sống (x. 1Pr 3, 21-22). Nhờ đó, chúng ta thêm mạnh sức, chống chọi với mọi cám dỗ, mọi xúi giục, mọi lôi kéo của ma quỷ, hòng tách rời chúng ta xa lìa Thiên Chúa. Với đời sống cầu nguyện liên lỉ bền bỉ, ăn chay hãm mình đền tội, và tận tâm làm việc bác ái yêu thương trong Mùa Chay Thánh này, chúng ta sẽ luôn cảm nghiệm Chúa nâng đỡ, và đồng hành qua Giáo Hội; chúng ta sẽ được thông phần vào mầu nhiệm Thương Khó-Tử Nạn-Phục Sinh của Đức Ki-tô.

Giờ đây, chúng ta thành tâm dâng lời nguyện cầu:

Chúa đã chiến thắng cám dỗ thế nào

Xin cho chúng con chẳng nao lòng vậy

Kiên vững chống lại ma quỷ xấu thay

An chay, cầu nguyện, tháng ngày yêu thương. Amen!

 

49.Chiến thắng cám dỗ với Chúa Giêsu

(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ - Lm Trần Ngà)

Người Eskimo nghĩ ra một cách bẫy chó sói rất độc đáo để lấy da chúng làm y phục.

Người ta dùng một con dao cực bén và nhúng lưỡi dao ấy vào máu súc vật, rồi đem dang ra ngoài trời tuyết lạnh cho máu đông lại chung quanh. Họ lặp lại động tác đó nhiều lần cho đến khi con dao được bọc quanh bằng khối máu lớn như quả xoài.

Đợi đến khi trời tối, thợ săn đem con dao bọc máu đó ra cắm giữa đồng hoang. Với tài đánh hơi bén nhạy, loài sói sẽ phát hiện rất nhanh mùi máu tươi và sẽ chạy đến liếm tới tấp vào cục máu đông đó cho đến khi lưỡi dao lộ ra cứa đứt lưỡi chúng. Một khi lưỡi bị cứa đứt nhiều đường, máu từ lưỡi ứa ra và chúng tiếp tục liếm cách điên cuồng hơn chính dòng máu của mình mà không hay biết. Càng liếm hăng, lưỡi càng bị cứa sâu hơn và nhiều hơn khiến máu chảy thành dòng kết thúc cuộc đời lũ sói tham ăn.

Cám dỗ trong đời người

Có thể nói: con người là con vật phải đương đầu với nhiều cơn cám dỗ nhất. Cám dỗ của miếng ăn, cám dỗ của thức uống (rượu, bia), của thuốc lá, ma tuý, cần sa, cám dỗ của thú vui nhục dục, của tiền bạc, của địa vị, công danh và vô vàn hình thức cám dỗ khác.

Người ta bị thu hút, bị lôi cuốn vào các cơn cám dỗ như con sói tham lam lao vào liếm cục máu bọc lưỡi dao, như những con thiêu thân lao vào lửa và hậu quả là con người trở nên mềm yếu, bạc nhược, bị lôi cuốn vào dòng thác dục vọng như cánh bèo nhỏ bé bị cuốn phăng phăng giữa dòng nước lũ hung tàn.

Không rõ con sói một khi biết có lưỡi dao bén ẩn dấu trong cục máu đông có còn dám tiếp tục liếm cục máu đó nữa không, nhưng đối với nhiều người thì dù biết chắc chắn rằng đằng sau những lạc thú có ẩn dấu lưỡi dao thần chết thì họ vẫn cứ tiếp tục hưởng thụ những thứ đó đến cùng rồi mượn lời thơ Xuân Diệu để tự biện minh rằng: "thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt, còn hơn buồn le lói suốt trăm năm" (Xuân Diệu)

Chúa Giêsu cũng bị cám dỗ như chúng ta.

"Đức Giêsu Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa... nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân. (Philip 2, 6-7)

Vì trở nên người phàm như chúng ta, "Chúa Giêsu đã từng chịu thử thách về mọi phương diện như chúng ta' (Do-thái 4,15).

Qua đoạn Tin Mừng được trích đọc trong thánh lễ hôm nay, thánh sử Mác-cô cho biết Chúa Giêsu đã vào hoang địa bốn mươi ngày và Người đã thực sự bị Xa-tan cám dỗ. (Mác-cô 1, 12-13)

Điều đặc biệt là dù phải bị cám dỗ trăm bề về mọi phương diện như chúng ta, Chúa Giêsu không bao giờ thua cuộc, không bao giờ sa chước cám dỗ. Người đã chiến thắng vẻ vang trước mọi cơn cám dỗ và luôn trung thành đi theo đường lối của Thiên Chúa Cha cho đến cùng.

Cùng chiến đấu chống lại cám dỗ với Chúa Giêsu.

Trâu bò tuy to khoẻ nhưng dễ dàng bị chế ngự bởi một đứa bé cỏn con khi người ta xỏ mũi được chúng. Con người dù có hùng mạnh đến đâu, nhưng một khi bị "xỏ mũi" bởi các đam mê tội lỗi, thì cũng phải ngoan ngoãn lội xuống bùn, sa xuống vực vì sức kéo của những đam mê và dục vọng xấu xa đen tối.

Mỗi người có một tử huyệt, một chỗ hiểm riêng. Nơi người nầy là lỗ miệng tham ăn tham uống, nơi người khác là bệnh háo sắc hay thói tham danh hám lợi, nơi người khác nữa có thể là lòng ích kỷ, hận thù, ghen ghét, kiêu căng...

Người đi câu luôn biết lựa mồi hợp sở thích của cá; cũng vậy ma quỷ có thừa khôn ngoan để chọn những mồi bả phù hợp "khẩu vị" của từng người và nhắm tấn công vào đúng tử huyệt của chúng ta.

Trong mùa chay, Chúa Giêsu và Giáo Hội kêu mời chúng ta đi vào cõi thinh lặng của tâm hồn để nhìn lại lòng mình, rà soát tâm tư mình, xét xem những đam mê nào, những xu hướng tội lỗi nào đang chi phối đời ta mạnh nhất (đó là những tử huyệt cần canh phòng che chắn). Chính những đam mê và xu hướng đó là động cơ xô đẩy con sói tham ăn lao vào chỗ chết; và cũng chính những động cơ đó đã huỷ hoại cuộc đời ta, làm mất thanh danh phẩm giá cũng như giá trị cao đẹp của đời ta.

Nguyện xin Chúa Giêsu cùng chiến đấu với chúng con trong mặt trận nguy khó nầy và ban ơn giúp sức để chúng con không bao giờ lùi bước trước bất kỳ cơn cám dỗ nào, nhưng kiên cường chiến đấu để khỏi làm nô lệ cho tội lỗi và những đam mê xấu xa đồng thời lập được nhiều chiến công vẻ vang như Chúa.

 

50.Chúa Nhật I Mùa Chay

(Suy niệm chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxio Hồ Thông)

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật I Mùa Chay năm B nêu bật Phép Rửa, tức là cuộc vượt qua từ cõi chết để bước vào cõi sống.

St 9: 8-15

Đoạn trích sách Sáng Thế gợi lên hình bóng của Phép Rửa qua việc một nhân loại mới được cứu thoát khỏi trận Hồng Thủy. Thiên Chúa lập giao ước với nhân loại mới này qua ông Nô-ê.

1Pr 3: 18-22

Trong thư thứ nhất của mình, thánh Phê-rô muốn những người lãnh nhận Phép Rửa hiểu rằng việc vượt qua nước là dấu chỉ việc họ tham dự vào cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su Ki-tô và đó cũng là dấn thân vào giao ước với Thiên Chúa.

Mc 1: 12-15

Tin Mừng Mác-cô tường thuật rất ngắn gọn cuộc thử thách mà Đức Giê-su đã kinh qua trong hoang địa: Ngài chiến thắng các chước cám dỗ, tức thế lực của sự Ác.

BÀI ĐỌC I (St 9: 8-15)

Chữ “Ước”, để chỉ hai phần của bộ Kinh Thánh: “Cựu Ước và Tân Ước”, được dịch từ nguyên ngữ Hy-lạp sang tiếng La-tin: “Testamentum”, có nghĩa là “Giao Ước”. Vì thế, “Cựu Ước và Tân Ước” phải được hiểu trọn nghĩa là “Giao Ước Cũ và Giao Ước Mới”.

Quả thật, chữ “Giao Ước” tóm gọn tinh thần của toàn bộ Kinh Thánh, nghĩa là, những quan hệ giữa Thiên Chúa và con người chạy xuyên suốt toàn bộ Kinh Thánh. Ấy vậy, có một chỗ đứt đoạn giữa công việc của Thiên Chúa, Đấng sáng tạo và thi ân, và cách hành xử của con người, tội nhân. Nhưng chỗ đứt đoạn này về phương diện lịch sử được lòng xót thương của Thiên Chúa chắp lại: sau vài án phạt điển hình, Thiên Chúa tha thứ và tái lập giao ước với nhân loại.

1. Giao Ước với ông Nô-ê

Đây là Giao Ước mà Thiên Chúa đã thiết lập sau trận Hồng Thủy như án phạt của Thiên Chúa trên khắp toàn cõi địa cầu. Giao Ước với hai ông bà nguyên tổ, A-đam và E-và, được thiết lập cách mặc nhiên; Giao Ước với ông Nô-ê được thiết lập cách minh nhiên. Qua ông Nô-ê và hậu duệ của ông, Thiên Chúa giao ước với toàn thể nhân loại.

Chiều kích hoàn vũ của Giao Ước với ông Nô-ê này càng đáng chú ý hơn khi so sánh với những giao ước sau này. Thật vậy, Giao Ước với tổ phụ Áp-ra-ham cũng như Giao Ước với ông Mô-sê bị thu hẹp, chỉ còn liên quan đến một dân tộc được tuyển chọn giữa muôn dân (thực ra, dân Chúa chọn này có sứ mạng chuẩn bị ơn cứu độ cho hết mọi người).

Mặt khác, sau trận Hồng Thủy, Thiên Chúa ban cho cuộc sáng tạo một khởi điểm mới, một nhân loại mới lại bắt đầu. Ông Nô-ê là một người công chính, như A-đam trước đây đã là người công chính khi xuất ra từ bàn tay của Đấng Tạo Hóa. Vì thế, đây đích thật là một công trình sáng tạo mới.

2. Ơn cứu độ phổ quát dưới dấu chỉ của nước

Tác giả soạn thảo chuyện tích trận Hồng Thủy này dựa trên những truyền thống xưa và những dữ kiện huyền thoại. Phải nói có hai chuyện tích về trận Hồng Thủy được đan quyện vào nhau. Một chuyện tích xưa thuộc truyền thống Gia-vít không biết đến đề tài Giao Ước và một chuyện tích khác muộn thời hơn thuộc truyền thống tư tế (có lẽ trong thời kỳ lưu đày hay sau đó ít lâu) nêu bật đề tài Giao Ước.

Bài Đọc I được trích từ chuyện tích thuộc truyền thống tư tế này, trong đó chúng ta gặp thấy đề tài Giao Ước. Tác giả của chuyện tích này khoác cho chuyện tích xưa thuộc truyền thống Gia-vít một quan niệm thần học. Khi phân biệt giáo huấn của Thiên Chúa trong chuyện tích thuộc truyền thống Gia-vít, tác giả tư tế đã đọc thấy dấu chỉ của ơn cứu độ được dâng hiến cho hết mọi người, ở đó nước sẽ đóng một vai trò quan trọng. Nếu toàn thể nhân loại đã bị trừng phạt, thì cũng chính toàn thể nhân loại sẽ được cứu, vì lòng xót thương của Thiên Chúa còn lớn hơn cả tội lỗi nữa. Ơn cứu độ sẽ được thực hiện dưới dấu chỉ của nước, biểu tượng của cuộc tái sinh. Thánh Phê-rô, trong thư mà chúng ta đọc vào Chúa Nhật này, gợi lên chuyện tích này là hình bóng Phép Rửa.

 3. Giao ước với tất cả mọi sinh vật

Giao Ước của Thiên Chúa trải rộng cho hết mọi sinh vật. Cử chỉ này là một hành vi sáng tạo trong các chuyện tích về nguồn gốc nhân loại (St 1-11). Ông Nô-ê, A-đam mới, cũng như những sinh vật đều đã được cứu thoát, từ nay được bảo tồn. Thiên Chúa không từ bỏ bất cứ gì từ cuộc sáng tạo ban đầu.

Chúng ta có thể nhấn mạnh thêm rằng đại họa Hồng Thủy đã đến hồi kết thúc, nước phía trên đã được phân rẽ khỏi nước phía dưới, và đất trồi lên, như trong cuộc sáng tạo đầu tiên. Mọi sự lại bắt đầu. Như vậy, Phép Rửa có ý nghĩa của một cuộc vượt qua từ cõi chết bước vào cõi sống.

4. Cầu vồng

Dân Hy-lạp xem cầu vồng là khăn quàng của nữ thần Iris, sứ giả của các thần linh. Dân Do thái đặt trọng tâm trên vấn đề về những mối quan hệ giữa trời và đất, vì thế thấy ở đây một dấu chỉ của việc Thiên Chúa giao hòa với nhân loại. Chiếc cầu vồng nối liền trời với đất biểu thị chiều kích phổ quát của Giao Ước, một lời giải thích mang đậm nét thi ca về lời hứa của Thiên Chúa. Từ nay, Thiên Chúa “gác cây cung lên mây”, tức là không còn dùng khí cụ tiêu diệt nữa. Việc cầu vòng xuất hiện trên không trung loan báo điềm lành: cơn mưa đã tạnh.

BÀI ĐỌC II (1Pr 3: 18-22)

Đoạn trích thư này vang dội Bài Đọc I, nhắc lại trận Hồng Thủy và Giao Ước mà Thiên Chúa thiết lập với ông Nô-ê. Qua đó, thánh Phê-rô nêu bật hình bóng Phép Rửa.

1. Hoàn cảnh  

Thư thứ nhất của thánh Phê-rô này được viết ở Rô-ma vào những năm 60-64 (thánh nhân được phúc tử đạo vào năm 64). Thư được gửi đến cho tất cả Ki-tô hữu bị phân tán khắp miền Tiểu Á vì bị quấy nhiễu hay bị bách hại. Vị lãnh đạo Giáo Hội quan tâm đến đoàn chiên của mình. Trong thư, thánh nhân nhắc nhớ những chân lý cốt yếu của đức tin.

Bức thư này đã được một cộng tác viên của thánh Phê-rô là ông Xin-va-nô biên soạn: “Nhờ tay anh Xin-va-nô mà tôi coi là một người anh em trung tín, tôi viết ít lời để khuyên nhủ anh em…” (5: 12). Ông này cũng là người bạn đồng hành thân tín của thánh Phao-lô. Có lẽ vì thế mà những dấu ấn của thánh Phao-lô được gặp thấy ở nhiều đoạn trong thư này; như trong đoạn trích hôm nay, chúng ta ghi nhận “chết vì tội lỗi chúng ta”, hay việc đối lập giữa “thân xác và thần khí”, hoặc “Phép Rửa” đồng nghĩa với việc “tham dự vào cuộc Phục Sinh của Đức Ki tô”.

Thánh Phê-rô ngỏ lời với những người Ki-tô hữu đang phải hứng chịu những lời chế nhạo và vu khống của dân ngoại. Thánh Tông Đồ khuyên họ hãy can đảm theo gương Đức Ki-tô, Người đã chịu đau khổ dù vô tội. Từ đó, thánh nhân gợi lên ơn Cứu Độ và những ân phúc của nó đối với những người đã qua đời cũng như những người đang sống.

2. Đối với những người đã qua đời

Đây là một đoạn văn đặc thù trong các bản văn Tân Ước gợi lên Đức Ki-tô xuống ngục tổ tông. Việc Đức Ki-tô xuống ngục tổ tông muốn nói lên rằng việc cứu độ những tội nhân không chỉ có giá trị đối với những ai đã qua đời sau biến cố Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Ki-tô, nhưng cũng có hiệu lực trở về trước nữa. Đức Ki-tô đã đến “loan báo Tin Mừng” cho các vong nhân, và đặc biệt hơn nữa, cho những vong nhân bị quên lãng và bị nguyền rủa, thậm chí vào thời ông Nô-ê, ông là người công chính duy nhất (3: 19-20). Những vong nhân này xuất hiện trong truyền thống Do thái (và đặc biệt trong văn chương khải huyền) như những kẻ nổi loạn. Chắc chắn đó là lý do mà thánh Phê-rô viện dẫn họ để ca ngợi quyền năng Cứu Độ và lòng xót thương vô lượng hải hà của Thiên Chúa.

Mặt khác, việc Đức Giê-su xuống cõi âm ty nêu bật giá trị của việc Ngài lên trời trong vinh quang. Đấng xuống cõi âm ty chính là “Đấng đang ngự bên hữu Thiên Chúa sau khi đã lên trời, đã bắt các thiên sứ và toàn thể thần minh phải phục quyền”. Vinh quang tuyệt mức tương ứng với sự khiêm hạ tột cùng của Con Thiên Chúa, Đấng đã dự phần vào cõi hư vô của sự chết.

3. Đối với những người đang sống

Đối với những ai hiện đang sống (và đối với những ai sinh ra sau này), biến cố Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Ki tô dâng hiến ơn cứu độ dưới dấu chỉ Phép Rửa. Thánh Tông Đồ nhấn mạnh không cốt “được tẩy sạch vết nhơ thể xác” như trong các nghi thức thanh tẩy của lương dân, nhưng nhất là “cam kết với Thiên Chúa sẽ giữ lương tâm trong trắng, nhờ sự phục sinh của Đức Giê-su Ki-tô”.

Cùng với những bản văn của thánh Phao-lô, bản văn này làm chứng rằng vào những năm 60, thần học Phép Rửa đã được bày tỏ và khẳng định rất rõ nét.

TIN MỪNG (Mc 1: 12-15)

Đoạn trích Tin Mừng Mác-cô hôm nay gồm có hai phần: phần thứ nhất (1: 12-13) tường thuật việc Đức Giê-su chuẩn bị cần thiết cho sứ vụ công khai của Ngài; phần thứ hai (1: 14-15) tường thuật việc Đức Giê-su bắt đầu sứ vụ công khai của Ngài.

1. Đức Giê-su chuẩn bị cần thiết cho sứ vụ công khai (1: 12-13)

Tin Mừng Mác-cô thuật lại cuộc thử thách của Đức Giê-su trong hoang địa. Dù bài trình thuật của thánh Mác-cô rất giản dị so với thánh Mát-thêu và thánh Lu-ca, nhưng những điều cốt yếu đều được nói ở đây: Thánh Thần thúc đẩy; bốn mươi ngày trong hoang địa, chịu Xa-tan cám dỗ; Đức Giê-su chiến thắng thế lực sự Dữ. Trong phần thứ nhất này, thiết tưởng phải phân biệt hai khía cạnh: rút vào hoang địa và chịu Sa-tan thử thách.

A. Rút vào hoang địa (1: 12)

Ngay sau khi chịu phép rửa bởi Gioan Tẩy Giả và trước khi bắt đầu sứ vụ của mình, Đức Giê-su rút vào hoang địa để chuẩn bị sứ vụ của mình trong chiêm niệm, cầu nguyện và chay tịnh. Trước khi khởi sự cuộc đời của một nhà giảng thuyết lưu động, khiêm hạ và hoàn toàn tuân phục mọi hướng dẫn của Chúa Cha, Đức Giê-su sống trong sự mật thiết với Cha Ngài và trang bị cho mình sức mạnh Thánh Thần.

Về phương diện nhân loại, Đức Giê-su chắc hẳn đã kinh qua nỗi sợ hãi và xao xuyến, bởi lẽ Ngài đã gánh lấy thân phận yếu hèn của chúng ta. Ngài đặt mình vào trong sự liên đới với những âu lo của chúng ta. Ngài tăng cường lời cầu nguyện của mình bằng chay tịnh như cách thức huấn luyện mình để “làm chủ bản thân mình”, đồng thời như một hành vi “phụ thuộc vào Thiên Chúa”.

Trong cuộc đời của mình, vào những giây phút mang tính quyết định, Đức Giê-su nhiều lần rút vào nơi cô tịch để cầu nguyện. Ngài đã cầu nguyện thâu đêm trước khi chọn các Tông Đồ của mình (Lc 6: 12). Ngài đã cầu nguyện lâu giờ trước khi hỏi các môn đệ Ngài là ai và đón nhận lời tuyên xưng đức tin của thánh Phê-rô (Lc 9: 18). Ngài cũng đã thức suốt đêm cầu nguyện (Ga 6: 15) trước khi công bố rằng bánh mà Ngài ban chính là Mình Ngài làm của ăn để nuôi sống chúng ta (Ga 6: 51).

 B. Chịu Xa-tan thử thách (1: 13)

Tại sao Đức Giê-su phải chịu Xa-tan thử thách? Xin được đưa ra ba lý do để soi sáng vấn đề này.

 a. Chấp nhận thân phận con người

Việc Đức Giê-su chịu ma quỷ cám dỗ theo tiến trình hợp lý về ơn gọi của Ngài: Ngài đã đồng hóa mình với nhân loại tội lỗi bằng cách chấp nhận phép rửa sám hối bởi Gioan Tẩy Giả. Ngài đã đi cho đến tận cùng của sự đồng hóa này khi chấp nhận chịu những cơn cám dỗ như số phận của con cái A-đam và E-và. Qua kinh nghiệm của mình, Ngài chỉ cho chúng ta thấy làm thế nào chiến thắng những chước cám dỗ. Và chính nhờ mẫu gương của Ngài, chúng ta, được ơn phù trợ của Thánh Thần như Ngài, có thể lập lại lời khẩn cầu mà Ngài đã dạy: “Lạy Cha… xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ…” (Mt 6: 13).

b. Kinh qua những cơn cám dỗ của Dân Chúa

Nếu Đức Giê-su là một A-đam mới, một A-đam khải hoàn, thì Ngài cũng là một Mô-sê mới. Đức Giê-su đã muốn đồng hóa mình với dân Ngài bằng cách sống lại những cơn cám dỗ của họ trong hoang địa. Ngài đã trải qua cuộc lưu đày ở Ai-cập khi vừa mới chào đời. Ngài cũng đã kinh qua những chước cám dỗ trong hoang địa. Bốn mươi ngày chay tịnh và cầu nguyện của Ngài nhắc nhớ không chỉ bốn mươi ngày chay tịnh và cầu nguyện của ông Mô-sê trên núi Xi-nai, trước khi đón nhận những lời Giao Ước, nhưng cũng bốn mươi năm truân chuyên mà dân Do thái đã trải qua trong hoang địa.

c. Khúc dạo đầu cho cuộc chiến thắng tối hậu

Cuộc đời của Đức Giê-su đầy những dấu chỉ. Cuộc thử thách trong hoang địa là một trong những dấu chỉ lớn lao. Đây là khúc dạo đầu cho một cuộc chiến vĩ đại chống lại quyền lực sự Dữ. Về phía mình, Xa-tan đã tiên cảm rằng Đức Giê-su là một đối thủ đáng gờm; vì thế nó sẽ tăng gấp bội nổ lực của mình, sẽ gây ra những phản bội và bỏ rơi, và bên ngoài có vẽ chiến thắng vào ngày thứ sáu Thương Khó của Ngài. Nhưng cuối cùng, cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài đã chiến thắng trên mọi quyền lực của sự ác.

2. Đức Giê-su bắt đầu sứ vụ công khai của Ngài (1: 14-15)

Phần thứ hai cũng gồm có hai khía cạnh: Khung cảnh (1: 14) và sứ điệp đầu tiên của Đức Giê-su (1: 15):

A- Khung cảnh (1: 14)

Sau khi nghe tin “ông Gioan bị nộp”, Đức Giê-su biết rằng sứ vụ của Ngài bắt đầu. Thông tin này cho chúng ta biết rằng Chúa Giê-su khởi đầu sứ vụ công khai của Ngài khi vị Tiền Hô chấm dứt sự vụ của thánh nhân. Như vậy, có một mối quan hệ mật thiết giữa sứ vụ của vị Tiền Hô và sứ vụ của Đấng mà vị Tiền Hô có sứ mạng dọn đường. Trong Tin Mừng Mác-cô, động từ “bị nộp” nêu bật cuộc Thương Khó và Tử Nạn của Đức Giê-su. Động tự này xuất hiện ở đây cho thấy số phận của thánh Gioan báo trước số phận của Đức Giê-su.

– “Đức Giê-su đến miền Ga-li-lê”: Đức Giê-su đã đến bờ sông Gio-đan để chịu phép rửa của thánh Gioan Tẩy Giả; sau đó, Ngài đi vào hoang địa Giu-đê để chịu những chước cám dỗ; giờ đây, Ngài trở về miền Ga-li-lê để khởi đầu sứ vụ của mình. Nói chung, miền Ga-li-lê thuận tiện cho sứ vụ của Đức Giê-su hơn miền Giu-đê. Miền Ga-li-lê là ngã tư quốc tế, là nơi giao thương giữa các dân tộc chung quanh, là nơi người Do thái không chỉ sống chung với lương dân nhưng còn là nơi giao tiếp với muôn dân, nên từ xưa miền này được ngôn sứ I-sai-a gọi là “miền đất ngoại bang” (Is 8: 23). Vì thế, khi coi miền Ga-li-lê là địa bàn hoạt động chính của Đức Giê-su, thánh Mác-cô muốn nhấn mạnh sứ điệp phổ quát của Đức Giê-su.

– “Rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa”: Diễn ngữ: “Tin Mừng của Thiên Chúa” muốn nói rằng Tin Mừng xuất phát từ Thiên Chúa. Đức Giê-su là hiện thân của Tin Mừng này. Vì thế, Tin Mừng xuất phát từ Thiên Chúa chính là Đức Giê-su Ki-tô; nói cách khác, Đức Giê-su Ki-tô chính là Tin Mừng của Thiên Chúa.

B- Sứ điệp đầu tiên của Đức Giê-su (1: 15):

Sứ điệp đầu tiên của Đức Giê-su được tóm kết ở đây: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”.

– “Thời kỳ đã mãn”: Các ngôn sứ chia thời gian làm hai thời kỳ: thời hiện tại và thời sẽ đến. Thời sẽ đến là thời điểm quyết định dứt khoát của Thiên Chúa, mọi sự đều tùy thuộc thời điểm này (x. Đn 7: 22; Ed 7: 12; 9: 1; Ac 4: 18; Kh 1: 3; 1Pr 1: 1). Với động từ: “đã mãn”, Chúa Giê-su loan báo thời hiện nay đến hồi chấm dứt và một thời đại mới, thời đại cuối cùng, thời cánh chung đã tới. Đó là thời Thiên Chúa ấn định để thực hiện và thành tựu các lời hứa và các sấm ngôn của Ngài.

– “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần”: Kể từ ngày thoát khỏi cảnh lưu đày Ba-by-lon, dân Do thái đặt tất cả mọi hy vọng vào việc Thiên Chúa đích thân ngự đến và thiết lập Vương Quyền của Ngài trên mọi dân tộc (Mk 4: 7; So 3: 15b; Dcr 14: 9; vân vân). Ở đây, Đức Giê-su khẳng định rằng với sự hiện diện của Ngài, “Triều Đại Thiên Chúa” đã đến và đang có mặt ở đây. Như thế, Triều Đại Thiên Chúa đã đến rồi, đến trong con người của Đức Giê-su.

– “Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”: Triều Đại Thiên Chúa đòi hỏi thay đổi đời sống, như thánh Gioan Tẩy Giả đã nói rõ ra: “chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội” (1: 4). Trong lời rao giảng của mình, Đức Giê-su mời gọi “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”, nghĩa là “Hãy sám hối tức là tin vào Tin Mừng”. Lòng sám hối phải được bày tỏ ra qua việc tin vào Tin Mừng, mà tin vào Tin Mừng đồng nghĩa với việc tin vào Đức Giê-su, Đấng là hiện thân Tin Mừng của Thiên Chúa. Đó cũng là lời rao giảng đầu tiên của các Tông Đồ: “Anh em hãy sám hối, và mỗi người hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giê-su Ki-tô, để được ơn tha tội; và anh em sẽ được ân huệ là Chúa Thánh Thần” (Cv 2: 38). Đó cũng là lời rao giảng của thánh Phao-lô như ở Ê-phê-xô: “Tôi kêu nài những người Do thái và Hy-lạp trở lại với Thiên Chúa và tin vào Chúa Giê-su” (Cv 20: 21).

 

51.Cám dỗ

Để bắt đầu phần chia sẻ hôm nay, tôi xin kể lại trường hợp vượt ngục rất đặc biệt của một tù nhân. Đúng thế, ông ta bị nhốt trong một ngọn tháp thật cao và trong phòng thì lại không có một phương tiện nào để có thể leo xuống. Vậy ông ta đã làm gì?

Để vượt ngục, mỗi ngày ông ta chỉ nhổ có hai sợi tóc và xe lại với nhau. Sau một thời gian, ông ta đã làm được một sợi dây bằng tóc khá dài. Ông ta thả sợi dây tóc ấy xuống qua cửa sổ nhà tù. Ở dưới, một người bạn thân đã chờ sẵn. Người bạn này đã buộc một sợi chỉ dài vào đầu sợi dây tóc. Rồi cuối sợi chỉ, người ấy lại buộc thêm một sợi dây vải dài. Cuối sợi dây vải, người ấy buộc một dây thừng nhỏ và cuối sợi dây thừng nhỏ, người bạn ấy buộc một dây thừng to. Sau đó, tù nhân ở trên ngọn tháp cao bắt đầu kéo lên. Hết sợi dây tóc, thì nắm lấy sợi dây chỉ. Hết sợi dây chỉ thì nắm lấy sợi dây vải. Hết sợi dây vải, thì nắm lấy dây thừng nhỏ. Hết dây thừng nhỏ thì nắm lấy dây thừng lớn và ông ta đã dùng dây thừng lớn này để mà vượt ngục cách an toàn trong một đêm trời tối.

Kể lại câu chuyện này, tôi thấy đó cũng chính là đường lối ma quỉ vốn thường dùng để cám dỗ chúng ta. Thực vậy, rất ít khi ma quỉ cám đỗ chúng ta phạm tội trọng ngay từ lúc đầu. Nếu làm thế, ma quỉ sẽ khiến cho chúng ta sợ hãi. Nó cứ từ từ mà tiến. Lúc đầu nó chỉ cám dỗ chúng ta phạm một lỗi nhỏ, rồi sau đó một lỗi lớn hơn và cuối cùng nó mới dẫn chúng ta đến tội trọng.

Chẳng hạn một anh chàng ghiền sì ke. Đâu có phải chỉ trong một sớm một chều mà đã ghiền như dân chuyên nghiệp. Lúc đầu nó cám dỗ anh ta lân la với những người bạn xấu, rủ rê anh làm thử một điếu cho biết mùi đời. Sau một điếu, rồi hai điếu, rồi ba điếu, để cuối cùng trở thành dân ghiền lúc nào cũng không hay biết. Chợt tỉnh và hối tiếc thì cũng đã quá muộn: Trót vì tay đã nhúng chàm, dại rồi còn biết khôn làm sao đây.

Ma quỉ cũng cứ từ từ mà tiến. Nó không bao giờ cám dỗ chúng ta làm hai điều xấu cùng một lúc. Trai lại, sau khi cám dỗ chúng ta làm điều này, nó vẫn còn đủ thời giờ cám dỗ chúng ta lài điều kia. Từ cám dỗ này, nó đưa chúng ta đến cám dỗ khác và những cám dỗ khác nữa. Cứ thế tiếp tục cho đến khi chúng ta phạm tội trọng.

Chẳng hạn nó cám dỗ một người rơi vào vòng cờ bạc. Sau khi đã mê cờ bạc, thì về nhà sẽ đánh vợ chửi con, làm cho gia đình bị tan nát. Và nếu gia đình nghèo, không có tiền để tiếp tục cuộc chơi, thì sẽ sinh ra gian tham và trộm cắp.

Suy nghĩ về trường hợp của Chúa Giêsu, chúng ta thấy ma quỉ cũng áp dụng một chiến thuật như thế. Nó không cám dỗ Ngài quì xuống thờ lạy Satan ngay lúc đầu. Trái lại, cám dỗ thứ nhất nó bảo Ngài làm phép lạ khiến những hòn đá trở nên bánh, để khơi dậy những ước muốn về của cải vật chất. Cám đỗ thứ hai nó bảo Ngài gieo mình xuống khỏi nóc đền thờ, để khơi dậy những ước muốn về quyền hành. Và sau cùng nó mới bảo Ngài quì xuống thờ lạy nó, để khơi dậy sự chối bỏ Thiên Chúa.

Đối với chúng ta cũng vậy, nó không cám dỗ chúng ta ăn cắp một món tiền lờn, khi chưa đưa chúng ta vào thói quen ăn cắp lặt vặt, như tục ngữ đã bảo: Bé không vin, cả gẫy ngành. Bé ăn cắp một trái trứng, thì lớn lên sẽ ăn cắp một con bò.

Bởi đó, đừng khinh thường những sai lỗi nhỏ mọn. Rất có thể vì những sai lỗi nhỏ mọn hôm nay mà ngay mai chúng ta sẽ quay phản bội cùng Chúa.

 

52.Hoang địa

Thánh Thần thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa, Ngài ở đó suốt 40 đêm ngày và chịu Satan cám dỗ. Hoang địa hay sa mạc là một chủ đề quen thuộc trong Kinh Thánh. Vậy thì nó có ý nghĩa gì?

Trước hết, hoang địa hay sa mạc là nơi thử thách. Thực vậy, đọc lại Cựu ước, chúng ta thấy dân Do Thái, trên đường trở về miền đất hứa, đã phải lang thang trong sa mạc suốt bốn mươi năm. Trong thời gian này, trước những gian nan thử thách, họ đã bị cám dỗ rời bỏ Chúa để chạy theo những thần tượng ngoại lai. Và rất nhiều lần họ đã bị khuất phục, đã chịu thua để rồi quỳ gối thờ lạy con bò vàng, như chúng ta đã thấy.

Còn Chúa Giêsu thì khác, chính tại hoang địa, ngài đã bị Satan cám dỗ, nhưng cả ba lần Ngài đều chiến thắng. Sự chiến thắng của Ngài là một bài học, là một mẫu gương cho chúng ta suy nghĩ và bắt chước. Hãy khiêm nhường, hãy tin tưởng vào quyền năng Chúa và hãy sám hối ăn năn để chúng ta cũng sẽ vượt qua được những cám dỗ mà chúng ta gặp phải.

Charles de Foucauld đã tâm sự với cha Huvelin như sau: Từ ngày lên 15 tuổi, tôi đã mất đức tin. Cha Huvelin nhìn con người từ sa mạc trở về và nói: Anh hãy quỳ gối xuống và xưng thú tội lỗi đã. Charles de Foucauld đã vâng lời, khiêm tốn làm việc sám hối. Và từ đó, cuộc đời của vị sĩ quan bê tha tội lỗi này đã hoàn toàn đổi mới. Khi tôi vừa hiểu rằng có một Thiên Chúa, thì tôi cũng hiểu rằng tôi không thể làm gì khác hơn là chỉ sống vì Ngài. Không phải chỉ là nơi thử thách, hoang địa hay sa mạc còn là nơi để chúng ta sống thân tình với Chúa.

Thực vậy, suốt bốn mươi năm trong sa mạc, dân Do Thái đã được Thiên Chúa thương, thực hiện biết bao nhiêu việc kỳ diệu, chẳng hạn hướng dẫn họ bằng áng mây cột lửa, đưa họ qua biển đỏ, trao ban cho họ mười điều răn làm giao ước, nuôi sống họ bằng manna bởi trời, chữa họ khỏi hiểm họa rắn độc… Thế nhưng, dân Do Thái rất nhiều lần đã không hiểu được tình thương tuyệt vời ấy, để rồi đã quay lưng chống lại Chúa.

Còn Chúa Giêsu hôm nay, Ngài vào hoang địa để sống gắn bó mật thiết với Chúa Cha trong tâm tình cầu nguyện và chay tịnh. Còn chúng ta thì sao, Thiên Chúa thường nói với chúng ta trong thinh lặng và chỉ trong thinh lặng, chúng ta mới nghe được tiếng nói của Ngài. Đồng thời chỉ trong thinh lặng, chúng ta mới tâm sự kết hiệp với Ngài. Bởi đó, giữa dòng đời huyên náo, chúng ta hãy biết dành lấy những khoảnh khắc thinh lặng để vào sa mạc, để vào hoang địa, bằng cách sống tâm tình cầu nguyện để kín múc được nguồn sinh lực, nhờ đó chúng ta sẽ vượt qua được những cám dỗ và thử thách của cuộc đời.

 

53.Cuộc chiến

Sau khi Chúa Giêsu được Chúa Cha công bố là “Con yêu quý” thì “Thần Khí dẫn Người vào trong hoang địa. Người ở đó bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú và có các thiên sứ hầu hạ Người”.

Thật là một đoạn văn lạ lùng! Tại sao đoạn này được đọc cho chúng ta nghe trong Chúa Nhật đầu Mùa Chay? Phải chăng vì nó nói đến thời gian bốn mươi ngày của Chúa Giêsu? Có lẽ đó là một lý do nhưng còn có những ý nghĩa khác nữa.

Trong chương hai của sách Sáng Thế, trình thuật sáng tạo bắt đầu trong nơi hoang vắng và Ađam kiểm soát các loài thú vật. Hoang địa là nơi dân Israel đã bị thử thách và bị cám dỗ sau khi thoát khỏi cảnh nô lệ ở Ai Cập và được tự do. Hoang địa cũng là nơi các loài thú dữ đe dọa những người lữ khách. Nó cũng được xem là nơi các quyền lực của thần dữ thống trị được biểu tượng qua các loài thú dữ. Hoang địa là nơi Satan, kẻ thù của Thiên Chúa, ngự trị.

Với cái nhìn như thế đoạn Tin Mừng lạ lùng hôm nay trở nên đầy ý nghĩa. Thần khí đưa Chúa Giêsu vào hoang địa: Chúa Giêsu đến không phải để sống một cuộc đời dễ dãi nhưng là một cuộc sống chiến đấu với tất cả những gì là sự dữ. Chính nơi mà dân Israel đã chịu thất bại thảm thương trong cuộc thử thách thì Chúa Giêsu sẽ chiến thắng. Cũng giống như Ađam trong vườn địa đàng xưa, Chúa Giêsu là Ađam mới cũng kiểm soát các thú dữ, tức là kiểm soát được sự dữ. Trong Chúa Giêsu, Thiên Chúa chiến đấu với sự dữ, chiến thắng sự dữ và sáng tạo một cái mới.

Chúng ta cần rút ra bài học áp dụng khi đọc bài Tin Mừng này trong Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay. Cũng giống như Chúa Giêsu, sau khi chịu bí tích Rửa tội chúng ta vào trong “hoang địa’ của thế gian này, nơi chúng ta phải đương đầu với cám dỗ và sự dữ. Vấn đề là chúng ta đương đầu với hoang địa của chúng ta như thế nào? Chúng ta có vượt qua thử thách như Chúa Giêsu hay chịu thất bại như dân Israel ngày xưa? Chúng ta có đủ sức mạnh để loại bỏ mọi cám dỗ của Satan, kẻ muốn chúng ta chống lại Thiên Chúa, và trung thành với bổn phận mà Thiên Chúa đã giao phó cho chúng ta hay không? Chúng ta chế ngự và kiểm soát các thú dữ, tức là các đam mê, các dục vọng và thói quen xấu của chúng ta như thế nào?

Trong đoạn Tin Mừng vắn vỏi này tôi có thể xác định được căn tính của tôi chưa? Tôi có hành động giống như ma quỷ, kẻ chống lại kế hoạch của Thiên Chúa, bởi vì tôi nghĩ là tôi biết rõ hơn không? Hay tôi giống như một con thú dữ, không nhận biết Thiên Chúa và cứ đi theo con đường bạo lực của mình? Hoặc tôi giống như các thiên thần, những vị trợ giúp Chúa Giêsu, để trung thành phụng sự Thiên Chúa và nhận ra vai trò của Chúa Giêsu trong kế hoạch của Thiên Chúa? Mặt khác, đoạn Tin Mừng này còn nhắc nhở cho chúng ta nhiều điều khác nữa đó là Satan luôn có mặt trong cuộc sống của chúng ta, nó chống lại Thiên Chúa và lôi kéo chúng ta theo nó. Các thú dữ, tức là những đam mê của chúng ta cũng làm cho chúng ta không lưu tâm gì đến Thiên Chúa nữa. Mặt khác, chúng ta cũng có các thiên thần luôn trợ giúp chúng ta trong việc phụng sự Thiên Chúa.

Bài Tin Mừng hôm nay giúp chúng ta suy nghĩ đến nhiều vấn đề, đặc biệt là trong Mùa Chay này. Chúng ta hãy sống như Chúa Giêsu, can đảm, mạnh mẽ để sẵn sàng dâng hiến bản thân cho việc phụng sự Thiên Chúa và tha nhân.

 

54.Dã thú

Một ngày nọ, lạc đà con nói chuyện với lạc đà mẹ như sau, “Mom! Tại sao bàn chân của mẹ con mình lại có 3 ngón chân to tổ chảng vậy?” Lạc đà mẹ trả lời, “Để chúng mình băng qua sa mạc cát mềm mà không bị lún chứ làm sao!” “Và tại sao chúng mình có bộ lông mi dài lượt thượt và nặng nề quá vậy?” “Để cát khỏi rơi vào mắt trên những hành trình dài trong sa mạc đó con!” “Và Mom, tại saochúng mình lại phải mang những cái bướu quá bự trên lưng vậy?” Bây giờ thì lạc đà mẹ không còn kiên nhẫn nổi để trả lời những câu hỏi vớ vẩn của thằng con nữa, nhưng cũng cố trả lời, “Chúng nó giúp chúng mình dự trữ những chất béo cho những cuộc du hành dài, nhờ đó mà mẹ con mình không cần nước trong một thời gian rất lâu ở sa mạc!” “Đúng vậy, con biết rồi!” lạc đà con nói, “Chúng mình có ngón chân bự để không bị lún dưới cát, lông mi dài để tránh cát bụi khỏi rơi vào mắt, và những cái bướu trên lưng để chứa nước. Vậy thì, Mom! Tại sao chúng ta lại ở đây, trong cái sở thú của Toronto này?

Đời sống văn minh hiện đại làm cho chúng ta có cảm giác giống như con lạc đà trong sở thú. Chúa ban cho ta khối óc để suy nghĩ, nhưng bây giờ đã có máy computer nghĩ hộ chúng ta rồi! Chúa ban cho ta con tim để yêu thương tha nhân, nhưng đã có những cơ quan từ thiện làm việc bác ái rồi! Đôi khi chúng ta cần đi vào trong “sa mạc” để khám phá lại chúng ta thực sự là ai? Mùa chay mời gọi chúng ta đi vào trong cái cảm nghiệm của loại “sa mạc” này.

Sa mạc hay hoang địa là nơi sinh trưởng của dân Thiên Chúa. Dân Do Thái, là những bộ lạc tản mác tha phương đã trốn thoát khỏi đất Ai cập trở về miền Đất Hứa như một quốc gia dưới quyền lực của Thiên Chúa. Chính ở trong sa mạc mà họ đã trở thành dân Thiên Chúa với lời giao ước. Trong dòng lịch sử, khi nào tình yêu và lòng trung thành của họ đối với Thiên Chúa trở nên lạnh nhạt, thì các tiên tri đề nghị họ trở về sa mạc để khám phá lại cái căn tính của mình là ai, giúp họ ý thức về ơn gọi và sứ mệnh của mình, làm thức tỉnh đức tin và củng cố sự liên hệ đã giao ước giữa họ với Thiên Chúa. Những đại tiên tri như Elijah và Gioan Tẩy giả là những vị tiên tri của sa mạc: họ sống trong sa mạc, ăn thức ăn sa mạc, và chấp nhận một lối sống đơn sơ và khắc nghiệt trong sa mạc. Sa mạc là trường đại học nơi Thiên Chúa dạy dỗ dân Ngài.

Lời Chúa hôm nay trích từ Phúc âm của thánh Máccô. Sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa, “Thánh Thần thúc đẩy Ngài vào hoang địa, và Ngài ở đó suốt 40 đêm ngày, chịu Satan cám dỗ, sống chung với dã thú; và các thiên thần hầu hạ Ngài”. Phúc âm của Matthêu và Luca diễn tả quỷ dữ cám dỗ và thách thức Chúa Giêsu dùng quyền lực phục vụ cho nhu cầu riêng tư của Ngài. Nhưng Chúa Giêsu đã khước từ và nói, “Ngươi phải bái lạy Thiên Chúa là Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Ngài mà thôi”. Còn Phúc âm của Máccô, thay vì diễn tả những chi tiết của sự cám dỗ, chỉ nói vắn tắt trong câu: “Sống chung với dã thú”. Dã thú là những con thú nào?

Theo các nhà tu đức thì những con dã thú đó không phải là những con dã thú ở bên ngoài chúng ta, nhưng ở trong lòng ta. Chúng là những con dã thú của bẩy mối tội đầu như kiêu ngạo, hà tiện, ghen tuông, giận dữ, dâm ô, mê ăn uống, và lười biếng hay nguội lạnh.

Những quyền lực này đè nặng trên chúng ta khi chúng ta quyết định làm bất cứ việc gì. Đời người giống như cuộc sống giữa sa mạc với đầy những “dã thú”. Chúng ta bị vây hãm xung quanh bởi một bên là những hoàn cảnh khó khăn, còn một bên là những cám dỗ mời gọi. Chúng ta cần sức mạnh để chống lại những thù nghịch, những gì đang tạo ra cho chúng ta một cảm giác an bình giả tạo. Hôm nay chúng ta thử đối diện với “những con dã thú” mà chúng ta thường xuyên phải chiến đấu trong đời sống tâm linh.

1. Sự ngã lòng.

Nếu ví cuộc đời giống như sa mạc, nơi hoang địa với nhiều dã thú, khó khăn và chông gai, thì chúng ta cảm thấy phải chiến đấu thường xuyên và liên tục. Cuộc đời chất đầy những gánh nặng và đòi hỏi. Không bao giờ giải quyết hết các chuyện rắc rối. Lúc nào cũng có vấn đề. Nhưng chúng ta phải lưu ý rằng trong khi Chúa Giêsu sống với các dã thú thì Thánh Kinh nói rằng “các thiên thần hầu hạ Ngài”. Nói cách khác, Chúa Giêsu không cô đơn, một mình. Ngài đã chiến đấu với dã thú bằng sự hiện diện và sức mạnh của Thiên Chúa. Ngài có sức mạnh, tràn đầy sức mạnh. Sức mạnh của Thiên Chúa hướng dẫn: “Thánh Thần thúc đẩy Ngài vào hoang địa”. Chính Chúa Thánh Thần và các lực lượng thiên thần cũng sẽ hướng dẫn và gia tăng sức mạnh cho chúng ta chiến đấu kiên trì với những khó khăn và cám dỗ trong cuộc đời.

Selma Lagerloeff trong huyền thoại “The Flanme”, đã kể câu chuyện về chàng hiệp sĩ, sau cuộc chiến thành công vào Thánh Địa, anh đã làm một lời thề hứa. Anh thắp lên một cây nến lấy từ ngọn lửa thánh tại ngôi mộ của Chúa Giêsu, và mang nó trở về quê quán của anh ở tỉnh Florence, nước Ý Đại Lợi mà vẫn còn cháy sáng. Quyết định này đã biến đổi anh trở thành một con người mới. Nó biến đổi anh từ một người lính hiếu chiến thích đánh nhau trở thành một con người yêu chuộng hòa bình.

Trên đường trở về nhà chàng hiệp sĩ đã bị bọn cướp bóc lột, anh đã không rút gươm ra chống cự. Anh đã hứa cho chúng bất cứ những gì anh có miễn là chúng không dập tắt ngọn nến cháy của anh. Bọn cướp đã tước đoạt áo giáp, thanh gươm, con ngựa yêu quý và tiền bạc của anh. Chúng chỉ để lại cho anh một con ngựa già. Sau khi đã trải qua tất cả các kinh nghiệm của sự nguy khốn, anh đã cưỡi con ngựa già về đến Florence. Để bảo vệ ngọn lửa không bị tắt bởi những cơn gió trong sa mạc, anh đã phải ngồi quay lưng lại với con ngựa, và dùng thân mình để che chở cho ngọn lửa.

Khi những tên đểu cáng trong thị xã trông thấy anh cưỡi ngựa ngược như vậy, chúng nghĩ anh là một tên điên khùng, và ra sức đùa nghịch để dập tắt ngọn lửa. Nhưng anh đã làm tất cả sức mình để có thể giữ ngọn lửa cháy sáng. Và sau cùng, anh đã mang nó về đến nhà thờ chính tòa, và dùng nó để thắp lên tất cả những cây nến trên bàn thờ của nhà thờ chính tòa Florence. Khi người đốt đèn ở nhà thờ hỏi anh đã phải làm gì để giữ ngọn lửa khỏi tắt, anh trả lời, “Ngọn lửa nhỏ bé này sẽ đòi hỏi tất cả sự chú tâm của anh; nó sẽ không cho phép anh nghĩ về bất cứ điều gì khác. Và anh sẽ không có thể cảm thấy an toàn một giây phút nào cả. Anh phải luôn luôn chiến đấu. Bất kể là ngọn lửa có thể đã bảo vệ anh tránh khỏi biết bao nhiêu nguy hiểm, anh phải luôn tỉnh thức để ngăn ngừa ngọn lửa không bị đánh cắp mất khỏi anh”.

2. Sợ hãi

Nỗi sợ hãi lớn nhất cho người bộ hành trong sa mạc là mất phương hướng, không biết đường đi. Cái nhìn của họ trở nên mờ ảo. Họ nhìn ánh nắng chói chan trước mắt như là những ao hồ mông mênh ngập nước. Ao giác làm cho con người trở nên nghi ngờ, mất niềm tin, và sau cùng dẫn đến hoang mang sợ hãi. Chỉ có đức tin và lòng trông cậy phó thác mới chiến thắng được sợ hãi. Tin rằng Thiên Chúa luôn yêu thương ta và muốn điều tốt đẹp nhất cho ta. Tin vào một Thiên Chúa luôn ở bên ta, đi với ta cho dù gian nguy. Tin rằng quỷ dữ không có quyền lực gì trên ta, nó chỉ có quyền vì ta ban cho nó mà thôi. Nó không thể bắt chúng ta làm điều gì được, ngoài sự cám dỗ cho chính chúng ta phạm tội. Chúng ta có tự do để từ chối, có sức mạnh để chống trả.

“Đừng sợ!” là sứ điệp nhắc đến trên 300 lần trong Phúc âm. Khi Chúa Giêsu bước đi trên mặt nước đến với các môn đệ, các ông hoảng sợ, Ngài nói: “Chính Thầy đây, đừng sợ!” Thiên thần Gabriel đã nói với Đức Maria: “Hỡi Maria, xin đừng sợ!” Thiên thần cũng đã nói với Giuse: “Đừng sợ đón Maria vợ ông về”. Vào ngày sống lại, Chúa Giêsu cũng đã hiện ra với các tông đồ và nói: “Sao anh em lại hoảng sợ… Chính Thầy đây mà!”

3. Sự tiêu cực

Đây chính là thái độ khiến chúng ta không thể thành công khi làm bất cứ việc gì, hay bất cứ việc gì chúng ta đang làm cũng sẽ đi sai lệch. Gần đây tôi lắng nghe một cuốn băng cát-sét do một nhà giảng thuyết nổi tiếng tên là Zig Ziglar. Ziglar nói rằng điều ngăn ngừa chúng ta khỏi niềm hy vọng và sự tích cực về cuộc đời chính là thái độ của chúng ta. Thái độ tiêu cực có tính cách truyền nhiễm giống như cơn bệnh nhiễm trùng. Chúng ta càng tiêu cực bao nhiêu thì tình huống càng trở nên thống khổ và hỗn loạn bấy nhiêu. Thái độ tích cực lúc khởi sự của một ngày, hay của bất cứ công việc gì sẽ định hình cho tất cả phần còn lại của trọn cả một ngày hay sự thành công của công việc sẽ kéo dài về sau.

Frederick Ebright đã chia sẻ kinh nghiệm đối với thái độ tâm lý của mình như sau: “Khi tôi cảm thấy thật buồn, tôi viết một lá thư cho người bạn nói với người ấy tất cả những chuyện rắc rối của tôi. Tôi không gửi lá thư đó đi. Nhưng tôi bắt đầu viết lá thư thứ hai gửi cho cùng một người, trong đó tôi cẩn thận bỏ đi bất cứ điều nào đã đề cập đến những điều không may, và thay vào mỗi rủi ro đó một chút tin vui. Vào lúc lá thư này được viết ra, một phép lạ đã xảy ra: tôi thực sự cảm thấy tốt hơn. Và vì một lá thư vui tươi luôn luôn phát sinh ra một sự đáp trả phấn khởi, tôi đã hoàn tất một mục đích lưỡng tiện”.

Mùa chay là thời gian để cảm nghiệm về sa mạc hay hoang địa. Chúng ta không cần phải có lạc đà đi vào sa mạc, nhưng chúng ta có thể tạo ra một khoảng không gian hoang địa cho chúng ta ngay giữa những xô bồ ồn ào của cuộc sống. Hằng ngày chúng ta có thể tìm ra một chỗ, dành ra một chút thời gian một mình với Thiên Chúa. Nơi yên tĩnh chúng ta sẽ biết mình là ai, biết những điểm mạnh và điểm yếu, biết “thiên thần” xung quanh cùng “những con dã thú”, lắng nghe tiếng Chúa gọi và lời cám dỗ của Satan, khám phá lại chúng ta là ai trước mặt Thiên Chúa.

 

55.Cám dỗ

Buổi chiều ngày cuối tháng 10 thường được người Mỹ và các nước có ảnh hưởng của Mỹ gọi là Halloween, có nghĩa là ngày mừng lễ các thánh. Có lẽ đã là điều còn rơi rớt lại của những ngày lễ ngoại giáo bắt nguồn từ thời của những người Santies trước Công Nguyên mà ngày lễ vọng các thánh mang một màu sắc ảm đạm ma quái. Trong các cửa tiệm, trưng bày những mặt nạ quái dị, những hình nộm được tô vẽ với một bộ mặt của thần chết, những màng nhện trắng xóa giăng ra khắp nơi, các đồ chơi của trẻ em cũng được khoác lên những nét ma quái, kinh dị, trên màn ảnh truyền hình cũng như tại các rạp chiếu bóng, đa số các phim trình chiếu đều mang nội dung quái đản, kinh dị.

Buổi tối ngày Halloween, thanh niên thiếu nữ thường cải trang thành ma quái để đi từng nhà ca hát và kể cho nhau nghe những chuyện ma quái. Phải chăng mỗi năm, người ta muốn dành một ngày để nhắc nhớ đến sự hiện hữu và tác quái của thần dữ? Nhưng ngày nay người ta còn ý thức được tội lỗi và sự tác động của thần dữ, tức là ma quỷ hay không? Thi sĩ Bô-đơ-le của Pháp đã có lần nói: “Sự thành công của ma quỷ là thuyết phục được con người rằng chúng không hề hiện hữu”. Với những khám phá mới trong ngành tâm lý học cũng như bệnh lý học, người ta cho rằng tất cả những vụ quỷ ám mà Thánh Kinh nói đến đều chỉ là những hiện tượng tâm lý bệnh hoạn mà ngày nay con người có thể tìm ra nguyên nhân.

Với luận điệu ấy, con người ngày nay tự hào là đã loại trừ được ma quỷ ra khỏi cuộc sống. Rất tiếc con người ngày nay ít được chứng kiến những vụ quỷ ám nhãn tiền mà Kinh Thánh đã ghi lại. Tuy nhiên, dù muốn dù không, tất cả đều không thể từ chối có một sức mạnh luôn tác động trong tâm trí con người, lôi kéo con người đến chỗ hành động xấu xa, tội lỗi, mãi mãi câu nói của thánh Phaolô vẫn đúng trong kinh nghiệm của mỗi người: “Điều thiện tôi muốn làm thì tôi không làm, điều ác tôi không muốn làm thì tôi lại làm”. Có một sức mạnh vô hình nào đó luôn lôi kéo, xúi giục con người vào tội ác, sức mạnh vô hình đó chính là Satan, là ma quỷ, và chiến thuật hay phương thế ma quỷ sử dụng để lôi kéo, xúi giục chúng ta phạm tội là cám dỗ.

Ma quỷ thường cám dỗ chúng ta thế nào? Ma quỷ rất khôn khéo, quỷ quyệt và kiên nhẫn, vì chúng là các thiên thần sa ngã. Chúng áp dụng nhiều chiến thuật và nhiều cách thế khác nhau, tùy tuổi tác, tính tình, tùy hoàn cảnh để xúi giục chúng ta nghe theo chúng mà phạm tội. Rất ít khi ma quỷ cám dỗ chúng ta phạm tội ngay từ đầu, vì làm thế chúng ta sẽ sợ hãi không dám phạm, nhưng chúng cám dỗ chúng ta phạm một lỗi nhỏ trước, rồi mới dẫn chúng ta đến chỗ phạm tội trọng. Đàng khác, không bao giờ ma quỷ cám dỗ chúng ta làm hai điều một trật, để chúng còn đủ thời giờ cám dỗ chúng ta phạm tội kia, nghĩa là chúng cám dỗ thế nào để từ cơn cám dỗ này đưa đến một cơn cám dỗ khác, rồi một cơn cám dỗ khác nữa, và cứ thế tiếp tục cho đến khi chúng ta sa ngã và phạm tội.

Về chiến thuật cám dỗ của ma quỷ, người ta thường kể câu chuyện sau: ma quỷ khôn khéo như một phạm nhân bị giam trên một cái tháp rất cao, không thể nào trèo xuống được, vậy mà anh ta đã thoát thân được bằng một cách rất tài tình: mỗi ngày anh nhổ hai sợi tóc và xe lại với nhau, sau một thời gian anh đã có một sợi dây tóc dài, anh thả xuống qua cửa sổ, bên dưới, người bạn của anh buộc một sợi dây lụa rất nhẹ vào đầu sợi dây tóc, cuối sợi dây lụa lại buộc một sợi dây gai, cuối sợi dây gai lại buộc một sợi dây thừng nhỏ, cuối sợi dây thừng nhỏ là một sợi dây thừng lớn, bằng sợi dây thừng này, phạm nhân đã tụt xuống đất trốn thoát được. Đó chính là đường lối cám dỗ mà ma quỷ áp dụng, chúng ta giam các dục vọng của chúng ta, nhưng ma quỷ giúp các dục vọng đó vượt ngục dần dần. Trong thực tế chúng ta không thấy rõ thứ tự hay tiến trình tuần tự như thế, nhưng nói chung, tất cả các cám dỗ phạm tội đều như vậy.

Chúng ta phải xử trí ra sao khi bị cám dỗ? Đành rằng ma quỷ cám dỗ chúng ta, nhưng chúng chỉ là kẻ thù nguy hiểm thứ hai sau xác thịt của chúng ta: thế gian, ma quỷ và xác thịt, đó là ba kẻ thù ghê gớm. Ma quỷ chỉ là kẻ xách động, cám dỗ, thúc đẩy, xúi giục chúng ta phạm tội, nhưng chúng có gặp được sự đồng tình, đồng ý của chúng ta hay không? Tức là chúng ta có chấp nhận hay ngả theo những chước cám dỗ hay không, đó là chính ý chí của chúng ta. Vậy, trước hết, chúng ta phải đề phòng và xa tránh các dịp nguy hiểm, các cơ hội, các lý do, các hoàn cảnh, những người, những vật… có thể đưa đẩy chúng ta đến chỗ phạm tội. Rồi, nếu bị cám dỗ, chúng ta phải mau lẹ chống trả ngay từ đầu, chống trả cách cương quyết, đừng chần chừ, trì hoãn, và nhất là phải cầu nguyện nhiều để xin Chúa ban ơn trợ giúp. Nếu chẳng may thất bại, nghĩa là sa chước cám dỗ, phạm tội, chúng ta phải lập tức đứng dậy ngay, nghĩa là hối hận, ăn năn, xưng tội, xin Chúa tha thứ và cố gắng hơn nữa để khỏi tái phạm.

Chúng ta chẳng ai thoát khỏi cám dỗ, chỉ khác nhau ở chỗ có sa chước cám dỗ hay không, vì vậy, trong kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu dạy chúng ta phải luôn cầu xin cho khỏi sa chước cám dỗ. Lạy Chúa, xin cứu chúng con khỏi ác thần, xin giúp chúng con khỏi sa chước cám dỗ. Chúng ta phải luôn cầu xin Chúa như thế, nhất là khi gặp chước cám dỗ.

 

56.Đứa con của kẻ vô thần

Vào tháng 5 năm 1980, tuần báo Time có đăng tải câu truyện nổi tiếng mang tựa đề "Đứa Con Của Kẻ Vô Thần Tìm Thấy Thiên Chúa". Đứa con đó là William Murray. Khi Murray đi học, mẹ cậu là bà Madalyn Murray tại Baltimore, Maryland, đã ra toà kiện chống việc cầu nguyện và đọc Thánh Kinh trong các trường học công cộng. Vụ án này đã được đến tận Toà Án Tối Cao Pháp Viện, và kết quả là mọi hình thức cầu nguyện và đọc Thánh Kinh tại các trường học công cộng của toàn quốc Hoa Kỳ phải chấm dứt.

Sau này khi lớn lên, Murray còn tiếp tục thành lập các cuộc vận động chống đối Thiên Chúa bằng việc cho xuất bản những tạp chí vô thần.

Thế nhưng, Murray đã được ơn trở lại. Một đêm vào trước Lễ Giáng Sinh, William Murray nằm mơ một giấc mộng tỏ tường về Thánh Kinh. Giấc mơ này đã thức tỉnh ông. Cảm nghiệm của giấc mơ này thật xúc động, đến nỗi ông đã chỗi dậy ra khỏi giường và lái xe đến một tiệm sách tại San Francisco. Ông viết: "Tôi đã tìm thấy cuốn Thánh Kinh. Tôi lái xe về nhà và đọc Phúc Âm theo Thánh Luca. Tại đây, tôi đã tìm thấy... Đức Giêsu Kitô." Từ đêm hôm đó, cuộc sống của Murray được biến đổi.

Sau khi trở lại, ông viết một bức thư cho tờ báo Baltimore Sun. Ông xin lỗi với toàn thể dân chúng về việc ông đến Toà Tối Cao Pháp Viện xin cấm việc cầu nguyện và đọc Kinh Thánh tại các trường học Hoa Kỳ. Ông nói trong bức thư: "Trong khi suy xét lại cuộc đời 33 năm sống ngoài đức tin, tôi chỉ còn biết cầu xin, với sự phù giúp của Chúa, cho tôi được hoàn chỉnh lại những lầm lỗi và điều xấu xa mà tôi đã gây ra do sự thiếu lòng tin của tôi."

Câu chuyện này là một bài quảng diễn sống động những gì Chúa Giêsu có ý nói đến trong bài Phúc Âm hôm nay:

"Thời giờ đã gần đến. Nước Thiên Chúa đã gần kề. Hãy thống hối, và tin vào Tin Mừng."

Đấy chính là những gì William Murray đã làm. Ông đã sám hối về tội 33 năm làm một kẻ vô thần, không tin vào Phúc Âm và không biết đặt Chúa Giêsu Kitô làm trung tâm điểm đời sống.

Những gì Murray đã làm chính là những gì mà bài Phúc Âm hôm nay kêu mời chúng ta phải thực hiện trong Chúa Nhật đầu tiên của Mùa Chay này.

Nó kêu mời chúng ta thống hối đời sống mà đã không đặt Chúa Giêsu làm trung tâm điểm. Nó kêu mời chúng ta tái khám phá ra cuốn sách mà đã chưa luôn chiếm chỗ ưu tiên trong cuộc sống của ta.

Nói một cách đơn giản hơn, bài Phúc Âm hôm nay kêu mời chúng ta hãy làm cho Mùa Chay là thời kỳ phúc lành đặc biệt của riêng từng cá nhân.

Có bao nhiêu Kitô hữu, thì có bấy nhiêu phương thức để đáp trả lại. Tuy nhiên, xin chỉ xét hai cách thức sau đây:

Phương thức đầu tiên là tìm cuốn Kinh Thánh và đọc Phúc Âm theo Thánh Luca từ đầu cho đến hết trong Mùa Chay này. Anh chị em có thể làm việc này bằng cách đọc một đoạn mỗi tối.

Phương thức thứ hai để đáp trả lại cách cụ thể là lãnh nhận Bí Tích Hoà Giải vào lúc nào đó trong Mùa Chay. Vì trong khi lãnh nhận bí tích này, chúng ta thực thi chính xác những gì Chúa Giêsu kêu mời chúng ta làm trong các bài đọc hôm nay. Chúng ta bày tỏ cách cụ thể lòng thống hối và lòng tin tưởng của ta vào Phúc Âm.

Đấy chính là bày tỏ lòng sám hối về tội lỗi và biểu lộ lòng tin tưởng của ta rằng, Chúa Giêsu Kitô ao ước tha thứ cho chúng ta và nâng đỡ chúng ta khởi đầu một đời sống mới.

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con ánh sáng để nhìn thấy chính chúng con như Ngài thấy chúng con vậy. Trên hết mọi sự, xin ban cho chúng con ơn can đảm để biển đổi chính chúng con như chính Ngài muốn chúng con biến đổi.

 

57.Suy niệm của JKN

Đức Giêsu chịu cám dỗ trước khi công khai rao giảng Tin Mừng

Câu hỏi gợi ý:

1. Tại sao trước khi Đức Giêsu bước ra đời để loan báo Tin Mừng, Thánh Thần lại đẩy Ngài vào hoang địa để Ngài chịu cám dỗ? Việc đó có cần thiết hay ích lợi cho Ngài hoặc cho ai không? Mục đích của Thánh Thần là gì?

2. Bị cám dỗ là điều tốt hay xấu? Cám dỗ hay thử thách có cần thiết cho việc nên thánh của ta không? Tại sao? Trước mặt Thiên Chúa, một người giả như chưa hề phạm tội vì chưa bị cám dỗ bao giờ có thánh thiện hơn người đã từng phạm tội vì tuy đã chống trả mãnh liệt nhưng lại thất bại không?

3. Không nhờ cám dỗ, không nhờ thử thách, ta có thể xác định sự thánh thiện hay đạo đức của mình hay của một ai không? Tại sao?

4. Cám dỗ hay thử thách là cần thiết, vậy có nên tự tìm cho mình những dịp để “được” cám dỗ không? Tại sao?

Suy tư gợi ý:

1. Đức Giêsu chịu thử thách trước khi ra đi loan báo Tin Mừng

Cám dỗ là một điều cần thiết trong cuộc sống để chúng ta có thể chứng tỏ tình yêu của mình đối với Thiên Chúa. Thật vậy, làm sao ta có thể biết tình yêu của ta đối với Thiên Chúa và tha nhân, tinh thần siêu thoát, lòng đạo đức của ta cao hay thấp và ở mức độ nào, nếu ta không được thử thách? Tương tự như nếu không dùng lửa hay a-xít để thử, làm sao ta có thể biết được những đồ trang sức của ta là vàng thật hay vàng giả, là nguyên chất hay bị pha tạp? và nếu bị pha tạp thì pha tạp ở mức độ nào? Để biết rõ một người trước khi dùng người đó, nhất là vào những chức vụ quan trọng, giám đốc nhân sự của các công ty thường thử tay nghề, thử lương tâm, thử bản lãnh, thử mức độ đáng tín nhiệm của người đó bằng nhiều phương cách khác nhau. Ông có thể dàn dựng khéo léo những cơn cám dỗ. Nhờ những thử thách đó, chẳng những viên giám đốc công ty biết rõ người mình muốn tuyển chọn, mà chính bản thân người được thử thách ấy cũng biết rõ tài đức của mình hơn. Những người đã qua được thử thách một cách thành công chắc chắn sẽ cảm thấy tự tin hơn và dễ đạt được thành quả tối ưu trong công việc của mình. Như vậy, thiết tưởng việc thử thách để biết bản lãnh về tài và đức của mình hay của người là một việc cần thiết và hết sức dễ hiểu.

Quan niệm như thế, ta thấy việc “Thần Khí đẩy Đức Giêsu vào hoang địa” để “chịu Xa-tan cám dỗ” trong “bốn mươi ngày” trước khi Ngài khai mạc công việc rao giảng Tin Mừng, là một việc dường như tất yếu phải có. Qua thử thách đó, Đức Giêsu có dịp tỏ ra cho Thiên Chúa và mọi người thấy bản lãnh của Ngài để có thể đảm trách công việc loan báo Tin Mừng và cứu chuộc nhân loại.

2. Thử thách và cám dỗ rất cần thiết trong đời sống chúng ta

Trong mùa Chay, Giáo Hội mời gọi chúng ta ý thức về tình trạng yếu kém, tội lỗi, đầy khiếm khuyết trong con người hiện tại hay “con người cũ” – vốn “bị tội lỗi thống trị” (Rm 6,6) – của chúng ta. Từ đó, ta mới quyết tâm “cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa” (Ep 4,22; x. Cl 3,9) để “mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa hầu thật sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4,24).

Nhiều khi chúng ta ý thức và tự xưng rằng mình tội lỗi, dù rất thật lòng, nhưng ý thức về tình trạng tội lỗi ấy nhiều khi hết sức mơ hồ. Chúng ta không biết mình tội lỗi thế nào, ở mức độ nào, tội lỗi ở chỗ nào… Chính vì thế, chúng ta không biết đường nào mà sửa mình, để rồi cuối cùng, chúng ta chẳng sửa đổi gì cả, nghĩa là “mèo vẫn hoàn mèo”. May thay, nhờ có những cám dỗ xảy đến trong đời sống mà ta biết được mình tội lỗi thế nào, ở mức độ nào.

Cũng có nhiều khi ta tưởng mình đạo đức, thánh thiện, vì ta cảm thấy mình rất ít khi lỗi luật của Chúa hay của Giáo Hội. Ta có cảm tưởng ta rất tốt với bạn bè, với những người chung quanh ta, vì ta thấy mình cư xử rất lịch thiệp với họ, không hề đụng chạm tới quyền lợi họ, hay không hề cư xử bất công với họ… Ta cũng giống như Phê-rô và các tông đồ xưa, nghĩ mình là người luôn luôn trung thành với Đức Giêsu bất kỳ trong hoàn cảnh nào: “Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy” (Mt 26,35). Khi nói như thế, các ông rất thành thật, không một chút dối trá. Nhưng các ông không thể ngờ được phản ứng của các ông sau này khi Đức Giêsu bị bắt: “Các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn hết” (Mt 26,56), còn Phê-rô, người tỏ ra sẵn sàng sống chết với Thầy mình nhất thì “gà chưa kịp gáy ông đã chối Thầy tới ba lần” (Mt 26,75).

Nhiều khi thứ đạo đức hay trong sạch của ta tương tự như độ trong của một ly nước múc từ dưới bùn lên, nhưng đã được để lắng trong nhiều ngày. Phần trên của ly nước cũng trong vắt không kém gì một ly nước suối. Nhưng khi quậy lên thì nước trong ly đục ngầu đang khi ly nước suối có quậy đến đâu cũng vẫn tiếp tục trong vắt. Nếu không quậy lên, người ta có cảm tưởng nước ở trong cả hai ly tốt như nhau. Nếu không quậy lên, làm sao biết được ly nào là trong thật sự? Cũng vậy, nếu không có cám dỗ, làm sao biết được ai đạo đức sâu xa, ai đạo đức chỉ ở bề mặt?

3. Chỉ biết mình đạo đức hay không qua những cám dỗ thử thách

Nguyễn Công Trứ viết: “Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai”. Thật vậy, nếu cuộc đời của mọi người đều an bình, thuận buồm xuôi gió cả, thì người có bản lãnh sẽ hành xử chẳng khác gì người không bản lãnh. Nếu các đồ vàng bạc không được thử bằng lửa hay a-xít thì chẳng sao phân biệt được vàng thật hay vàng giả. Cũng vậy, chính trong cơn hoạn nạn ta mới biết được ai là bạn tốt, bạn thật của ta: “Friend in need, friend indeed” (Bạn bè trong cơn hoạn nạn mới là bạn thật). Tương tự, chỉ khi gặp những biến cố, những hoàn cảnh khó khăn, ta mới biết được ta có đạo đức hay không. Muốn biết đạo đức của ta ở mức độ nào, ta cần phải tự xét xem phản ứng của ta thế nào…

– khi quyền lợi của ta bị va chạm một cách bất công: lúc đó ta nổi sùng lên và chửi rủa loạn xạ? hay ta bình tĩnh xét xem nguyên nhân tại đâu, suy nghĩ xem có thể giải quyết cách nào cho đẹp nhất, khôn ngoan nhất, bác ái nhất?

– khi có một quyền lợi nào đó không thể phân chia xảy đến giữa ta và người bạn của ta: lúc đó ta quyết dành quyền lợi ấy về cho mình? hay biết nhường cho bạn? Epictète đưa ra hình ảnh hai con chó có vẻ quấn quít và yêu thương nhau lắm. Nhưng khi có ai quăng cho chúng một cái xương, thì chúng quay ra cắn nhau sứt đầu chảy máu. Như vậy có thật là chúng yêu thương nhau không? Làm sao biết được chúng có yêu thương nhau thật sự không nếu không có miếng xương để thử?

– khi đứng trước một người gặp nguy khốn đang cần cứu giúp, nhưng nếu cứu giúp thì ta sẽ phải hy sinh rất nhiều: lúc đó ta sẽ cứu giúp người ấy bất chấp phải hy sinh? hay sẽ nhường việc cứu giúp ấy cho người khác?

– khi đứng trước những bất công trước mắt mà việc lên tiếng của ta có thể chặn đứng hay giảm bớt phần nào, nhưng nếu lên tiếng thì ta sẽ bị sách nhiễu, công việc của ta sẽ bị cản trở: lúc đó ta sẽ coi sự đau khổ của đồng loại quan trọng hơn sự thoải mái cá nhân ta? hay ngược lại?

– khi mà nồi cơm của ta và gia đình ta bị đe dọa nếu ta làm theo lương tâm, và làm theo lương tâm sẽ cứu được biết bao nồi cơm của những gia đình khác: lúc đó ta sẽ coi những nồi cơm của vô số gia đình kia quan trọng hơn nồi cơm của gia đình mình? hay ngược lại?

– khi có hai người giàu và nghèo đến với ta một lúc, người giàu đem lại nhiều lợi lộc cho ta, còn người nghèo đến để nhờ ta một việc khá khó khăn: lúc đó ta sẽ đối xử với hai người một cách niềm nở như nhau? hay ta sẽ đối xử một cách phân biệt hết sức rõ rệt?

– v.v…

Rất nhiều người tưởng mình tốt lành thánh thiện chỉ vì thấy mình chưa hề phạm một lỗi nào quá đáng, rồi dựa trên sự vô tội của mình họ chê bai người khác đã phạm lỗi này tội kia. Thật ra họ chỉ là người chưa phạm tội vì chưa phải ở trong những hoàn cảnh khó khăn, nhiều cám dỗ, chứ không phải họ là những người khó có thể phạm tội. Rất có thể khi gặp những hoàn cảnh khó khăn, những cơn thử thách, họ còn phạm tội nặng nề hơn những người đã từng bị họ chê trách, mặc dù hoàn cảnh khó khăn hay sự thử thách của họ chẳng nặng nề bằng những người kia. Sự thánh thiện đạo đức phải dựa trên khả năng không phạm tội khi bị cám dỗ, chứ không chỉ đơn thuần dựa trên tình trạng vô tội trong hiện tại chỉ vì chưa gặp cám dỗ.

Nhiều người tự hào khoe mình bản lãnh lắm, hoặc được mọi người coi là đã tiến rất xa trên con đường nhân đức chỉ vì tu hành đã lâu năm, hay vì được nắm giữ những chức vụ quan trọng trong Giáo Hội, v.v… Nhưng khi gặp những thách đố, khi phải đối đầu với những cám dỗ chưa từng gặp, họ mới nhận ra bản lãnh của mình còn non kém, hay đường nhân đức của mình mới chỉ ở giai đoạn đầu.

Như đã nói trên, cám dỗ và thử thách rất cần thiết cho việc nên thánh của ta. Tuy nhiên, không phải vì thế mà ta nên tự tìm cho mình những cám dỗ. Trái lại, sự khôn ngoan đòi buộc ta phải tránh xa các dịp tội, những điều kiện hay cơ hội khiến ta có thể phạm tội. Câu “dĩ đào vi thượng sách” là một phương cách rất hay trong việc tu đức hay nên thánh. Và cũng nên nhớ lời khuyên của Phao-lô: “Ai tưởng mình đứng vững, hãy coi chừng kẻo ngã” (1Cr 10,12). Nhưng khi những cám dỗ tình cờ xảy đến ngoài ý muốn của ta, ta nên sẵn sàng đón nhận, và hãy chiến đấu một cách dũng cảm, quảng đại. Rồi dù thắng hay bại, ta cũng hãy coi chúng như những hồng ân Chúa ban để giúp ta hiểu rõ mình hơn, khiêm nhường hơn, giúp ta xác định đúng hơn mình đang ở vị trí nào trên con đường nên thánh.

Cầu nguyện

Lạy Cha, nhiều khi con thầm tự hào về mình, tưởng mình đã đạo đức hay thánh thiện lắm rồi. Nhưng lắm khi chỉ cần gặp những cơn cám dỗ hơi bất thường một chút, con đã ngã gục. Con cám ơn Cha đã gửi những cám dỗ ấy đến để con ý thức về bản lãnh của con một cách chính xác hơn, nhờ đó con khiêm nhường hơn, và biết cảm thông với những yếu đuối của đồng loại hơn.

 

58.Sống với chính mình

(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Xuân Hòa)

“Tôi lạc quan giữa đám đông, nhưng khi một mình thì lại không

Cố tỏ ra là mình ổn, nhưng sâu bên trong nước mắt là bể rộng”.

Đây là những lời mở đầu trong đoạn rap của ca khúc “Người lạ ơi” một thời được bao bạn trẻ yêu thích. Lần đầu tiên tôi nghe ca khúc này, tôi rất ấn tượng với những lời trên đây. Nhạc sĩ Châu Đăng Khoa đã diễn tả tuyệt vời tâm trạng của phần đông chúng ta. Chúng ta hay cảm thấy rất ổn khi sống với đám đông. Nhưng khi trở về với chính mình, chúng ta lại thấy vô cùng bất ổn. Có cái gì đó khiến ta luôn không hài lòng với chính bản thân mình.

Mười hai năm học phổ thông, và đôi khi là cả bốn năm đại học, chúng ta đã được nhồi nhét đủ thứ kiến thức. Những kiến thức ấy khiến chúng ta có khả năng làm việc và hòa nhập với cuộc sống xã hội. Tuy nhiên, không một thầy cô giáo nào dạy chúng ta học sống với chính mình. Không có ai gần gũi mình cho bằng chính bản thân mình, thế mà chúng ta luôn lãng quên điều đó. Chúng ta học sống với tha nhân, với bạn bè, với cộng đồng. Chúng ta được dạy để tranh đoạt, để làm cho mình thành công trong mọi lãnh vực. Có một nhận xét rất sâu sắc của một tác giả mà tôi không thể nhớ được tên của ông. Đại khái ông nói rằng nền giáo dục vô thần của chúng ta đã tước đoạt đi của các em một cái gì đó thiêng liêng. Thay vì nở hoa thì tâm hồn các trẻ em lại mọc lên những gai cùng góc. Tôi thấy thật chí lý. Con em của chúng ta đã bị nhồi sọ và đánh mất đi cái phần Thần Linh, cái làm cho con người thực sự là con người.

Chúa Nhật thứ nhất mùa chay năm B, Chúa Giê-su dạy ta cách sống với chính mình. Ngài được Thánh Thần dẫn vào hoang địa để ăn chay và chịu Satan cám dỗ 40 đêm ngày. Thánh Marcô chỉ mô tả vắn gọn rằng Chúa sống chung với dã thú và được các Thiên Thần hầu hạ Người (Mc 1,12). Có một chi tiết mà cả ba Tác giả Tin Mừng Nhất Lãm đều nhắc đến đó là Chúa được Thánh Thần dẫn vào hoang địa. Đây là chi tiết rất quan trọng. Con người chúng ta thường lãng quên Thánh Thần. Chúng ta để cho bao thứ hướng dẫn và thúc đẩy chúng ta. Điều đó khiến con người chúng ta cứ loay hoay không biết đâu là bến bờ. Chúa được Thánh Thần đưa vào hoang địa. Suốt 40 ngày, Chúa ở đó trong thinh lặng cô tịch. Hoang địa là vùng đất không có người ở. Nhưng lại có dã thú đến sống chung với Chúa. Và cả các Thiên Thần hầu hạ Chúa. Có một cái gì đó thật đẹp đã xảy ra. Khi con người để cho Thần Linh hướng dẫn, con người sẽ sống hòa hợp với mọi tạo vật. Ngay cả dã thú cũng trở thành bạn. Không có chiến tranh và thù hận mà chỉ có tình yêu thương ngự trị. Ma quỷ cũng phải bị khuất phục một cách dễ dàng.

Giữa cuộc sống xô bồ hôm nay, con người đã dần lãng quên Thiên Chúa. Cũng như thời Nôe, tội lỗi đã lan tràn (St 9,8-15). Điều đó khiến Thiên Chúa phải thanh lọc. Ngài chọn Nôe để làm mới lại tương quan với con người. Ngài nhắc lại giao ước từ ngàn xưa với con người để tái tạo một nhân loại mới. Nhưng rồi con người lại sa ngã và cứ đi sai đường lối Chúa. Chúa đã sai chính Con Một của mình đến để nhắc lại một lần cho tất cả rằng con người chỉ có thể hạnh phúc khi trở về với Chúa. Trước khi công bố sứ điệp Tin Mừng, hôm nay Chúa vào hoang địa để sống thân mật với Chúa Cha. Chúa dạy ta một bài học vô cùng quan trọng. Trước khi đi vào hội nhập với cuộc sống xã hội, con người cần phải hòa hợp với Tạo Hóa. Khi con người hòa hợp với Tạo Hóa, con người sẽ thông suốt để hòa hợp với bản thân và với muôn loài muôn vật.

“Người lạ ơi xin giúp tôi mượn bờ vai, người lạ ơi xin giúp tôi mượn niềm vui…”. Nhạc sĩ Châu Đăng Khoa đã kêu gọi người lạ đến trợ giúp mình. Nhưng chẳng người lạ nào làm được. Người lạ có đến thì rồi cũng sẽ bỏ đi để lại ta một mình. Hôm nay tôi muốn chỉ cho các bạn người lạ đó không ai khác mà chính là Thiên Chúa, Đấng đang hiện diện kín ẩn trong chính cung lòng của các bạn. Đấng đó hằng yêu thương bạn. Đấng đó luôn chờ đợi bạn. Bạn đã lãng quên Ngài. Tôi muốn mời bạn trong mùa chay thánh này, hãy quay trở lại với chính bản thân mình. Hãy tự tạo ra sa mạc của cuộc đời mình. Trong thinh lặng nội tâm, bạn sẽ tìm được sự thanh thản và bình yên. Hãy trân trọng và yêu thương bản thân mình. Đừng tự đầy đọa chính mình. Học sống với chính mình là bước nền tảng đầu tiên và quan trọng nhất của con người. Đừng lãng quên điều đó.

Lạy Chúa, xin giúp con kết nối lại với Chúa để con không bao giờ lạc lõng cô đơn giữa cuộc đời này. Amen.

 

59.Hãy cải thiện và hãy tin

(Suy niệm của Lm. Mark Link)

Chủ đề: "Chúng ta phải nhìn nhận tội lỗi mình, và xin Đức Giêsu cứu giúp để từ bỏ tội lỗi đó"

Piri Thomas có viết một tác phẩm nhan đề “Trong Những Con Đường Xấu Xa” (Down These Mean Streets). Tác phẩm mô tả việc ông cải tà qui chánh từ một người bị kết án tù, một người nghiện ma tuý, và cố tình giết người để rồi trở thành một Kitô hữu gương mẫu.

Một đêm kia, Piri đang nằm trên giường trong phòng giam của mình. Đột nhiên, anh nghĩ tới tình trạng hỗn loạn mà anh đã gây ra trong đời anh. Anh cảm thấy có một ước muốn mãnh liệt là cầu nguyện. Nhưng anh đang nằm cùng giường với một tù nhân khác mà người ta gọi là “thằng ròm”. Vì thế anh chờ đợi. Sau khi đoán chắc rằng “thằng ròm” đã ngủ, anh leo ra khỏi giường và quì xuống nền bê tông lạnh ngắt để cầu nguyện. Anh kể lại: “Tôi bầy tỏ với Chúa những gì có trong trái tim tôi… Tôi nói với Ngài những lời mộc mạc… chứ không phải những lời hoa mỹ… Tôi nói với Ngài những điều tôi muốn, những thiếu thốn của tôi, những hy vọng và thất vọng của tôi,… Tôi cảm thấy dường như tôi có thể khóc được… Đó là một điều mà bao nhiêu năm nay tôi không thể làm”.

Sau khi Piri cầu nguyện xong, một tiếng nói nho nhỏ đáp: “Amen”. Đó là tiếng của “thằng ròm”. Piri nói: “Thế là hắn nằm sấp xuống, đầu úp trên đôi tay khoanh lại, còn tôi vẫn quì yên lặng. Một lúc thật lâu không ai nói với ai. Rồi “Thằng Ròm” nói nhỏ: “Tôi cũng tin Chúa!”. Hai người bạn trẻ nói chuyện với nhau một lúc lâu. Rồi Piri leo lên giường ngủ. Anh nói: “chúc Chico ngủ ngon nhé. Tôi nghĩ rằng Thiên Chúa luôn luôn ở với chúng ta, chỉ có chúng ta là không ở với Ngài thôi”.

***

Câu chuyện này là một hình ảnh rất đẹp, minh hoạ những gì Đức Giêsu muốn nói trong bài Tin Mừng hôm nay khi Ngài bảo: “Hãy cải thiện đời sống và hãy tin vào Phúc Âm”. Giáo huấn của Đức Giêsu gồm hai điều: trước hết là “cải thiện” đời sống của chúng ta. Sau đó là “tin vào Phúc Âm”, chúng ta hãy bắt đầu với điểm thứ nhất: cải thiện đời sống.

“Cải thiện” hay “cải tà qui chánh” nghĩa là nhìn nhận những gì xấu, không tốt đẹp trong đời sống của chúng ta, và sau đó là từ bỏ chúng, quay lưng lại với chúng, nói khác đi là thẳng thắn đối diện với tội lỗi trong đời sống của ta, rồi cương quyết không tái phạm nữa. Như thế có nghĩa là bắt chước Piri Thomas nhìn nhận tình trạng hỗn loạn mà anh đã gây ra trong đời sống của anh và quyết định làm một điều gì tốt đẹp để sửa lại chuyện đó.

Tất cả chúng ta đều có thể có những kinh nghiệm tương tự như Piri Thomas. Chúng ta cũng ý thức về những khuynh hướng xấu thỉnh thoảng làm hỗn loạn đời sống chúng ta. Chẳng hạn chúng ta ý thức về tính ích kỷ khiến chúng ta đặt quyền lợi của mình lên trên nhu cầu của tha nhân. Chúng ta ý thức về tính cao ngạo khiến chúng ta không muốn nhìn nhận những sai trái của mình. Chúng ta ý thức về tính lười biếng khiến chúng ta ngại giúp đỡ tha nhân. “Cải thiện” nghĩa là đối diện với những khuynh hướng xấu trong đời sống chúng ta và làm một cái gì để sửa đổi những khuynh hướng đó.

Điều này dẫn chúng ta đến điểm thứ hai trong giáo huấn của Đức Giêsu. Ngòai việc cải thiện đời sống ra, Đức Giêsu còn yêu cầu chúng ta “tin vào Phúc Âm”. Nghĩa là tin rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa và Ngài đến để cứu chúng ta. Nghĩa là tìm kiếm Đức Giêsu đặc biệt trong Bí Tích Hoà Giải, và nhận nơi Ngài sự tha thứ và chữa lành. Nghĩa là làm những gì Piri đã làm sau khi nhìn ra những gì xấu xa trong cuộc sống của anh. Anh đã quay về với Thiên Chúa để cầu cứu. Anh tin vào “Tin Mừng” cho biết rằng Thiên Chúa đã sai Đức Giêsu đến thế giới này để cứu chuộc những người tội lỗi như anh. Chính vì thế, câu chuyện của Piri Thomas là hình ảnh rất đẹp minh hoạ hai điểm trong giáo huấn của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay. Điểm thứ nhất là “cải thiện” đời sống. Điểm thứ hai là “Tin vào Tin Mừng” tin rằng Đức Giêsu đến để cứu giúp chúng ta.

Cách đây ít lâu, tác giả Kilian Mc Donnell đã thực hiện một cuộc thăm dò sâu sắc về những cuộc trở lại. Cuộc thăm dò ấy đã đáp ứng câu hỏi này: Tại sao có một vài nhà rao giảng Tin Mừng lại rất thành công trong việc làm cho thính giả hối cải như thế? Theo Mc Donnell, có một điều là họ theo giáo huấn của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay.

Họ làm cho quần chúng nhìn nhận rằng mình là những kẻ tội lỗi, và họ giúp quần chúng quay về với Đức Kitô để được cứu độ. Ông nói: “Nhiều người không nhìn nhận Đức Kitô vì họ không nhìn nhận rằng chính họ là những kẻ tội lỗi. Nếu tôi không phải là người tội lỗi thì tôi đâu cần đến Đức Kitô”

Mc. Donnell kết luận: “Không ai mừng kính những mầu nhiệm của Đức Kitô một cách vui mừng, nếu trước tiên người đó không buồn rầu nhìn nhận rằng mình là kẻ có tội”. Bài Tin Mừng hôm nay kêu gọi chúng ta thực hiện hai điểm quan trọng ấy. Nó mời gọi chúng ta nhìn nhận mình là những kẻ có tội, và quay về với Đức Giêsu để được cứu độ.

Điều đó khiến chúng ta đi đến một nhận xét quyết định. Bài Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta như thể dẫn chúng ta vào mùa chay một cách tốt đẹp. Qua các thế kỷ, các Kitô hữu đều nhận thấy mùa chay là thời gian Thiên Chúa ban ân sủng cách đặc biệt, nhất là để giúp ta cải thiện đời sống

Nếu chúng ta muốn tìm một phương thế đặc biệt để sống tinh thần mùa chay năm nay, thì không có phương thế nào tốt hơn là coi mùa chay như một cơ hội thuận tiện để tái khám phá ra quyền năng của Bí tích hoà giải và sự bình an này, chúng ta thực hiện những gì mà Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta làm, chúng ta hãy nhận thức được tình trạng tội lỗi của mình và nhận Ngài làm cứu Chúa của ta.

Để kết thúc, chúng ta hãy suy nghĩ về một đoạn như thư của thánh Phaolô nhận thức được tình trạng tội lỗi của mình và nhận Đức Giêsu làm Cứu Chúa của mình. Thánh Phaolô viết:

“Tôi không hiểu những gì tôi làm, vì tôi không làm những gì tôi muốn làm, mà lại làm những gì tôi không muốn làm,…vì ngay cả khi tôi muốn làm điều tốt thì tôi cũng không làm được. Tôi không làm điều tốt tôi muốn làm mà lại làm điều xấu tôi không muốn làm… Thật tôi là người vô phúc biết bao. Ai sẽ cứu tôi khỏi cái thân xác đang dẫn tôi tới cái chết này?….. Tạ ơn Thiên Chúa… người đó là Đức Giêsu Kitô!” (Rm 7: 15-25)

 

60.Yếu tố con người

Khi mẹ Têrêxa thành Calcutta, vị sáng lập dòng nữ thừa sai bác ái, khởi sự công cuộc phục vụ những người hấp hối tại thành phố Calcutta bên An độ, thì vấn đề lớn nhất gặp phải đó là tìm cho ra nơi chốn để chăm sóc họ. Chính quyền địa phương chỉ có thể dành cho công việc xã hội này khu nhà trọ của khách hành hương tại đền thờ kính thần Kali, mà lúc bấy giờ đang là nơi chứa chấp bọn trộm cắp và xì ke.

Thế rồi một nguồn tin bất lợi được tung ra:

- Người đàn bà ngoại quốc này có ý đồ lôi kéo những người nghèo An độ theo Công giáo.

Trước nguồn tin này, một nhóm người đã kéo đến tòa thị chính để phản đối, còn một nhóm khác thì đến trụ sở cảnh sát để yêu cầu trục xuất người đàn bà đó.

Viên cảnh sát trưởng hứa sẽ giải quyết vụ này. Đích thân ông tới xem xét ngôi nhà. Ông thấy mẹ Têrêxa đang chăm sóc một bệnh nhân có những vết thương, vì lâu ngày không được chạy chữa, nên xông ra mùi hôi thối chịu không nổi. Thế mà vị nữ tu này vẫn nghiêng mình cặm cụi rửa ráy, lau chùi và băng bó như cho chính mình vậy.

Trở về trụ sở, ông gặp lại những người biểu tình và nói:

- Tôi hứa sẽ trục xuất người đàn bà ngoại quốc này ra khỏi khu vực đền thờ kính thần Kali, nhưng trước khi hành động, tôi chỉ xin mỗi người hãy đem theo mẹ hoặc chị em tới chăm sóc cho những người hấp hối đáng thương kia, thay thế cho người mà tôi được yêu cầu để trục xuất.

Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào phần kết của đoạn Tin mừng hôm nay, qua đó Chúa Giêsu kêu gọi mỗi người chúng ta:

- Hãy sám hối và tin vào Phúc Am.

Thế nhưng chúng ta phải sám hối như thế nào?

Nói tới sám hối là chúng ta nghĩ ngay tới việc ăn năn những lầm lỗi mình đã phạm để rồi quay trở về cùng Chúa.

Tuy nhiên quay trở về cùng Chúa mà thôi chưa đủ, tâm tình sám hối còn đòi hỏi chúng ta phải quay trở về cùng anh em. Hòa giải với Chúa mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải hòa giải với người khác, vì tất cả chúng ta đều là anh em, con cùng một cha, sống trong cùng một gia đình, đó là cộng đồng nhân loại.

Thực vậy, trong toàn thể các tạo vật thì con người được Thiên Chúa đặc biệt chú ý đến…Bởi vì con người luôn mang trong tâm hồn mình một khát vọng sâu thẳm.

Với tư cách là thụ tạo, vì được dựng nên cho Thiên Chúa, nên con người sẽ luôn thao thức cho tới khi được an nghỉ nơi Ngài. Đằng khác, vì được dựng nên do cùng một nguồn gốc, con người không thể khước từ đồng loại của mình.

Chính vì thế mà việc sám hối đòi chúng ta vừa hòa giải với Chúa, lại vừa hòa giải với anh em. Vừa trở về cùng Chúa lại vừa trở về với anh em đồng loại.

Mẹ Têrêxa thành Calcutta chăm sóc cho những người hấp hối cũng chỉ làm một công việc bình thường, đó là sống trung thực ơn sám hối toàn diện nói trên.

Hãy hòa giải cùng Chúa và hòa giải cùng người khác. Hãy trở về với Chúa và hãy trở về với anh em mình. Đó chính là sứ điệp chúng ta cần phải làm ngay trong mùa chay này.

 

61.Chiến thắng cám dỗ

(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)

Năm nào cũng vậy, cứ vào Chúa nhật thứ nhất Mùa chay, Giáo hội cho chúng ta nghe đọc đoạn Tin Mừng kể về việc Chúa Giêsu bị cám dỗ và chiến thắng Satan. Năm A và C, đọc Tin Mừng của thánh Matthêu và thánh Luca, kể lại sự kiện này khá dài, kể rõ ba chước cám dỗ và ba lần Chúa Giêsu chiến thắng cám dỗ. Năm nay năm B, đọc Tin Mừng của thánh Marcô, kể lại rất vắn tắt, chỉ cho biết: “Thần khí thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa. Người ở đó 40 ngày, chịu Satan cám dỗ”. Tuy thánh Marcô không trực tiếp cho biết Chúa Giêsu đã chiến thắng Satan, đã xua đuổi nó, nhưng suốt sách Tin Mừng, thánh Marcô sẽ cho thấy Chúa Giêsu đi tới đâu thì Satan bị đánh bại đến đấy. Giáo hội cho chúng ta nghe đọc đoạn Tin Mừng này để mời gọi chúng ta chiêm ngắm hình ảnh Chúa Giêsu như kiểu mẫu và bảo đảm cho chúng ta trong cuộc chiến đấu với Satan và những cám dỗ của nó.

Đời người được ví như một đấu trường, ở đó con người phải luôn chiến đấu: chiến đấu với ngoại cảnh, chiến đấu với nhiều thứ, nhất là chiến đấu với chính mình. Tại sao vậy? Bởi vì mang thân phận con người, ai ai cũng bị giằng co, xâu xé bởi hai khuynh hướng mâu thuẫn nhau: một cái kéo con người lên và một cái lôi con người xuống. Hai khuynh hướng đó đều nội tại trong con người, khiến cho nội tâm con người trở thành chiến trường, đôi khi rất cam go làm con người đau khổ.

Khuynh hướng đi lên là khuynh hướng căn bản của ý chí con người. Ai cũng muốn mình là người tốt, ai cũng muốn mình làm điều thiện, chứ không ai muốn mình xấu hay làm điều ác cả. Nhưng muốn là một chuyện, còn có làm điều tốt hay không lại là chuyện khác. Thánh Phaolô đã nói: “Tôi không hiểu nổi việc tôi làm: điều tôi muốn thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi lại cứ làm”. Vì thế, muốn đi lên, con người phải cố gắng, phải dùng chính sức mạnh của mình, phải hao tổn năng lực của mình.

Còn khuynh hướng đi xuống cũng ở trong nội tâm, nhưng kể từ khi nguyên tổ phạm tội, khuynh hướng này đã được ma quỉ tăng cường làm cho mạnh lên, khiến con người muốn đi lên phải chiến đấu rất vất vả. Còn muốn đi xuống thì chẳng cần phải cố gắng gì cả, chỉ cần buông thả, không cố gắng nữa là tự động đi xuống. Chính vì thế làm thiện khó hơn làm ác rất nhiều. Và cái lực hấp dẫn mọi người làm ác hoặc không làm thiện là lực của ma quỉ.

Đúng vậy, đàng sau bối cảnh chiến trường mà con người phải chiến đấu, ẩn hiện chập chờn một nhân vật rất nguy hiểm mà Kinh thánh gọi là kẻ thù, ấy là satan. Satan là quỉ, nó là “xếp xòng” của loài quỉ. Satan hay quỉ trước kia là các thiên thần, nhưng vì làm loạn cùng Thiên Chúanên bị tống cổ ra khỏi thiên đàng và bị đày xuống hỏa ngục. Từ ngày thất thế, Satan và bè lũ trở nên những kẻ thù nguy hại của loài người. Chúng chuyên môn áp đảo, quấy phá để làm cho người ta hư hỏng theo chúng. Chúng đã làm hư hỏng biết bao nhiêu người. Chúng đã du nhập vào trần gian đủ thứ gian tham, lừa lọc, tội ác, bất công và những lối sống lố bịch, nham nhở, nhăng nhít… Tất nhiên có người sẽ nói: có thấy Satan hay quỉ nào công khai làm những chuyện đó đâu? Đúng thế, ngày nay chúng ta ít được chứng kiến những vụ quỉ ám nhãn tiền mà Kinh Thánh đã ghi lại. Ngày nay rất ít trường hợp Satan hiện nguyên hình trực tiếp tác oai tác quái nữa, nhưng gián tiếp điều khiển trong bóng tối. Đó là một sức mạnh vô hình luôn tác động trong tâm trí chúng ta: lôi kéo, xúi bẩy chúng ta đến chỗ hành động xấu xa, tội lỗi. Chiến thuật hay phương thế ma quỉ sử dụng là cám dỗ. Chúng không kiêng nể ai hay buông tha ai. Vì thế, không ai thoát khỏi cám dỗ của chúng.

Theo nghĩa thông thường chúng ta quen hiểu, cám dỗ là dịp phạm tội. Bị cám dỗ là khi chúng ta thấy mình hướng chiều về một điều ưa thích thuộc phạm vi cấm đoán. Chẳng hạn: một vẻ quyến rũ từ bên ngoài lôi cuốn, một sự xôn xao, rạo rực, thèm khát từ bên trong thúc đẩy; một âm mưu hay thủ đoạn bày vẽ ra trong trí khôn thúc đẩy chúng ta hành động; một sự nhắm mắt làm liều, một hành động nổi loạn của toàn thân từ chối ép mình trong trật tự… Đó là những phát hiện của cơn cám dỗ. Như vậy, bị cám dỗ, bất cứ là cám dỗ về phương diện gì, không phải là tội. Khi chúng ta bị cám dỗ thì chỉ có nghĩa là chúng ta bị thử thách thôi. Và chỉ khi nào chúng ta bị thua chước cám dỗ thì mới có tội.

Đành rằng ma quỉ cám dỗ chúng ta. Nhưng chúng chỉ là kẻ thù nguy hiểm thứ hai sau xác thịt của chúng ta: thế gian, ma quỉ và xác thịt. Đó là ba kẻ thù ghê gớm. Ma quỉ chỉ là kẻ xách động, cám dỗ, thúc đẩy, xúi giục chúng ta phạm tội, nhưng chúng có gặp được sự đồng tình đồng ý của chúng ta hay không? Tức là chúng ta có chấp nhận và chiều theo chước cám dỗ hay không? Nói khác đi, ma quỉ chỉ có thể cám dỗ được chúng ta khi chúng ta có nhu cầu, ham thích, đam mê đối với những thực tại trần gian. Chúng ta có làm chủ được những nhu cầu thể chất ấy chúng ta mới dễ dàng thắng lướt được những cám dỗ, và không để cho khuynh hướng xấu làm chủ mình. Từ ngày có trí khôn cho đến giờ, ai trong chúng ta cũng đều có kinh nghiệm về việc cám dỗ. Chúng ta đã bị cám dỗ nhiều lần. Có lần chúng ta đã vượt qua được, và nhiều lần đã bị vấp ngã. Đó chính là thân phận của con người yếu hèn và bất toàn. Không bao giờ vấp ngã, đó là chuyện khác thường, đặc biệt, vô cùng tạ ơn Chúa. Còn hay bị vấp ngã, đó là chuyện bình thường. Và điều quan trọng là chúng ta phải ăn năn sám hối ngay.

 

62.Chúa Nhật I Mùa Chay

(Suy niệm của Lm. Giuse Lê Danh Tường)

THIÊN CHÚA ĐƠN PHƯƠNG TỎ TÌNH VỚI CON NGƯỜI

Thiên, địa, nhân hay Trời, đất, và con người mang một mối dây liên kết kỳ diệu. Một khi Thiên thời địa lợi nhân hòa thì mọi sự hanh thông. Con người được đặt để giữa trời và đất: đầu đội trời, chân đạp đất. Ông Trời đã tác tạo nên con người và làm mọi sự cho con người. Ông Trời cũng dựng nên đất để đất phục vụ con người. Trời và đất luôn nặng tình với con người. Mùa Chay về, chúng ta cùng ngồi lại ngẫm về tình Trời với người. Trong Chúa nhật thứ nhất này, Sách Thánh bộc lộ một cuộc tình đơn phương của Thiên Chúa với con người.

Đơn phương tỏ tình

Bài đọc thứ nhất trích từ sách Sáng Thế (St 9, 8-15) là trình thuật về việc Thiên Chúa ký kết với ông Noe sau trận Đại Hồng Thủy. Gọi là ký kết, nhưng thực ra chỉ có một mình Thiên Chúa đơn phương kết ước với ông Noe cũng như với toàn thể sinh vật trên mặt đất. Ông Noe đã chẳng nói gì, chẳng thề hứa gì với Chúa. Còn Thiên Chúa thì hứa bảo vệ ông cũng như mọi loài: “Ðây Ta ký kết giao ước của Ta với các ngươi và con cháu các ngươi, với tất cả sinh vật đang sống với các ngươi…: nước lụt không còn tiêu diệt mọi loài nữa, cũng không khi nào còn lụt tàn phá trái đất nữa”.

Không những Chúa đã tự đưa ra lời hứa mà còn đặt để một dấu chỉ để không quên lời kết ước: “Ta sẽ đặt trên trời một cái mống, và nó sẽ là dấu chỉ giao ước giữa Ta với trái đất. Khi Ta quy tụ mây lại trên trời, mống sẽ xuất hiện trên mây, và Ta sẽ nhớ lại giao ước đã ký kết giữa Ta với các ngươi và mọi sinh vật”.

Từ ngày con người phạm tội, muốn ngoi lên bằng Trời thì con người đã trở nên sa đọa. Nó không còn được sống trong cảnh thái bình của vườn Địa Đàng nữa. Con người lang thang vô định và ngày càng trở nên tồi tệ, tội lỗi lan tràn khắp mặt đất. Lụt Hồng thủy là phương thế để Chúa Cả trời đất dùng mà tẩy xóa tội lỗi của con người. Nhưng cho dù thế nào, Thiên Chúa vẫn giữ lại dòng giống loài người, giữ lại gia đình ông Noe. Với số sót ấy, Thiên Chúa gầy dựng lại dân của Ngài.

Cho dù con người đã chống lại Ngài, nhưng Thiên Chúa đã không tận diệt con người. Ngài vẫn âm thầm, lẽo đẽo đi theo con người, tìm cách giúp đỡ con người. Ta chỉ có thể cắt nghĩa hành vi ấy là vì tình yêu. Chỉ có thể là vì yêu con người thì Chúa mới làm như vậy. Mà quả thực, Thiên Chúa đã mặc khải rất rõ cho con người trong Tin mừng Gioan “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16).

Với việc ký kết với ông Noel, Thiên Chúa đã tỏ tình với con người; Với hình ảnh cầu vồng làm dấu chỉ để hằng nhắc lại lời kết ước, Thiên Chúa đã đặt nơi con người nguồn hy vọng lớn lao; Việc con người im lặng trong nghi lễ kết ước càng làm cho Thiên Chúa hiện lên với hình ảnh đơn độc, hình ảnh của một người tình đơn phương đang bị người mình yêu ngó lơ.

Hiện thực hóa lời hứa

Dọc theo chiều dài của Cựu Ước là hành trình Thiên Chúa tìm đến với con người. Bước sang Tân Ước, với sự hiện diện của chính Thiên Chúa trong thân phận một con người, chúng ta được chiêm ngắm hiện thực của tất cả những lời hứa của Chúa trong Cựu Ước.

Bài Tin mừng theo thánh Marco trong Chúa nhật này (Mc 1, 12-15) là trình thuật về việc Chúa Giêsu ở trong sa mạc 40 ngày.

Hình ảnh sa mạc với con số 40 gợi lại khung cảnh dân Do thái đi trong sa mạc suốt 40 năm. Chính 40 năm trong sa mạc là thời gian dân cảm nếm lòng trung thành và sự yêu thương dìu dắt của Thiên Chúa đối với họ. Nhưng cũng nơi ấy đã chứng kiến biết bao lần dân sa ngã trước cám dỗ, bao lần rời bỏ Thiên Chúa, bao lần phản bội Đấng hằng yêu họ hết lòng.

Trước khi công khai rao giảng về Trời, Đức Giêsu đã ở trong sa mạc 40 ngày. Ngài đã cảm nếm mọi cung bậc tình cảm của con người trong sa mạc 40 năm xưa kia với sự khắt khe của thiếu thốn, sự cám dỗ của ma quỷ, sự rình rập của thú dữ. Nhưng với sự xuất hiện của các thiên thần đến hầu hạ Ngài ở cuối trình thuật đã khiến ta gợi nhớ đến một khung cảnh khác. Nó không còn là sự ô nhục của cảnh xa ngã và phản bội, nhưng là cảnh thái bình mà tiên tri Isaia đã tiên báo về khung cảnh ngày cứu độ: “Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ.” (Is 11,6).

Ngày mà Thiên Chúa công khai ngỏ lời với con người qua chính Ngôi Lời làm người, Thánh Marco đặt để Đức Giêsu trong một khung cảnh cô đơn thực sự. Chúa Giêsu đã đơn thân một mình trong sa mạc. Một Thiên Chúa xuống thế làm người để ngỏ lời với con người, để tỏ tình với con người. Nhưng ngày ngỏ lời lần đầu công khai ấy sao cô đơn vắng lặng một tình yêu đơn phương.

Ngẫm

Hỏi tại sao Thiên Chúa yêu con người. Khi hỏi như vậy dường như tôi đã xúc phạm đến chính Ngài. Làm sao tôi có thể hiểu được tại sao Thiên Chúa yêu con người. Nếu như tôi cố tình tìm câu trả lời thì chính khi tôi trả lời là tôi đã khuôn đúc tình yêu của Ngài vào một cái khuôn cứng nhắc của lý trí. Tình yêu không phải là những phạm trù của lý trí. Nó là những rung cảm của những thớ thịt nóng bỏng của một trái tim đang sống. Khi lý giải tình yêu là tôi không còn coi tình yêu ấy mang đầy sức sống.

Thánh Gioan tông đồ là người được mô tả đã gục đầu vào ngực Chúa trong bữa Ăn cuối cùng; Là người được gọi là “Người môn đệ Chúa yêu”; Và cũng là người môn đệ duy nhất được nhắc đến dưới chân cây Thập tự. Ngài đã cảm nhận tình yêu mà Thiên Chúa dành cho mình, một Thiên chúa trong hiện thân là chính Đức Giêsu. Chính ngài đã chốt hạ cho chúng ta câu trả lời tại sao Thiên Chúa lại yêu con người. Câu trả lời đơn giản là: Bởi “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,16).

Lạy Chúa, khi dừng lại suy tư con nhận biết Chúa đã yêu con. Chúa đã yêu con từ ngàn đời xa trước. Nhưng vì quá đam mê trần thế, vì quá ham vui thế gian nên trái tim con thường xuyên loạn nhịp rời xa nhịp đập với trái tim Ngài. Xin Chúa hãy ôm ghì lấy con, cho con được cảm nếm tình yêu của Ngài, để trái tim con luôn hòa cùng nhịp đập với tình yêu nồng nàn trong trái tim Tình Yêu viên mãn.

 

63.Ngoại trừ tội lỗi

Janet Frame là một tiểu thuyết gia người New Zealand. Trong suốt những năm đầu đời, bà đã phải chịu đựng những chứng bệnh về tâm lý, và vừa mới thoát khỏi cảnh bị ép buộc phải phẫu thuật thùy não. Cuối cùng, bà vào một bệnh viện ở Anh để điều trị. Tại đó, bà may mắn gặp được một bác sĩ rất hiểu biết, đã giúp đỡ bà phục hồi. Bằng cách nào vị bác sĩ đó khác hẳn với nhiều bác sĩ khác mà bà đã từng gặp? Bà nói:

“Tôi rất dễ chịu vì biết rằng bác sĩ của tôi là một người không e ngại thừa nhận và bày tỏ tư tưởng kỳ lạ rằng nói cho cùng, ông ấy cũng là con người, và ông không thể làm gì được hơn, và khi giả vờ như mình là thần thánh, thì cũng không thể thay thế được điều đó.

Trong bệnh viện đó, việc quản lý bao gồm những vị bác sĩ mà chính họ cũng bị cản trở do không đủ tư cách pháp lý. Những bác sĩ này có thể dễ dàng liên hệ với các bệnh nhân của họ”.

Chúng ta không thể học hỏi được lòng thương xót, khi không biết thế nào là đau khổ. Chúng ta không thực sự hiểu được lòng thương xót là gì, hoặc không thể an ủi một người nào đó đang chịu đau khổ, trừ phi chúng ta đã từng đau khổ. Chúng ta không thể lau khô những giọt nước mắt của người khác, trừ phi chúng ta đã từng khóc lóc. Chúng ta không thể giúp đỡ những người lầm đường lạc lối tìm được con đường của họ, trừ phi chúng ta đã từng bước đi trong tăm tối. Khi đã từng chịu đau khổ, chúng ta mới có thể trở thành một con người mở đường cho người khác.

Trong Tin Mừng, chúng ta nhận thấy Đức Giêsu đã bị cám dỗ. Bức thư gửi tín hữu Do thái nói rằng Đức Giêsu đã trở nên “hoàn toàn giống như anh em Người về mọi phương diện”. Nơi Người, chúng ta có một vị thượng tế có thể cùng với chúng ta cảm nhận được sự yếu đuối của chúng ta; bởi vì Người đã từng bị cám dỗ bằng mọi cách giống như chúng ta, mặc dù Người không phạm tội. Đức Giêsu có thể đồng hóa với chúng ta. Người giống như chúng ta trong tất cả mọi sự và mọi cách, ngoại trừ tội lỗi. Người đã bị cám dỗ giống như chúng ta. Người không được miễn khỏi bị khổ sở, đau đớn, thất vọng… Người đã nếm thử thành công, thất bại, và cả cái chết. Người không khước từ bất cứ niềm vui nào của chúng ta, Người chỉ khước từ tội lỗi mà thôi. Đây là mầu nhiệm sâu xa nhất về tình yêu của Thiên Chúa. Đức Giêsu hoàn toàn là con người, nhưng điều đó không có nghĩa là Người chỉ là người mà thôi. Sự kiện Người không phạm tội không có ý nói rằng Người thiếu bất cứ tính cách nào của nhân loại. Tội lỗi không phải là một yếu tố thuộc về bản chất con người. Trái lại. Tội lỗi là sự sa ngã nơi bản tính nhân loại. Ngoài ra, Người còn chia sẻ sự yếu đuối và chước cám dỗ của chúng ta nữa. Bởi vì chính Người đã từng bị cám dỗ, nên Người thấu hiểu chúng ta, và có thể giúp đỡ chúng ta. Do đó, chúng ta có thể tin tưởng đến gần Người, trong sự nhận biết rằng chúng ta sẽ được Người thương xót, và được đón nhận ân sủng trong những lúc chúng ta cần.

 

64.Bị cám dỗ bởi việc lành

Những côn trùng và ruồi bị hương thơm của chất ngọt quyến rũ. Nhiều lần, chúng phát hiện rằng theo sau hương thơm của chất ngọt, có thể dẫn chúng đến một cuộc sống bị giam hãm hoặc tệ hại hơn. Do không thể kháng cự lại hương thơm, chúng bò vào bên trong một bông hoa, chỉ để đắm mình trong phấn hoa, để rồi chúng không thể trở ra được nữa.

Có thể bạn nghĩ rằng điều này không bao giờ xảy ra với con người chúng ta. Chúng ta quá tinh khôn để không bị sa ngã vào điều đó. Sự kiện đáng buồn là chúng ta lại vẫn cho phép điều đó xảy ra. Giống như những con ong, chúng ta cũng bị hương thơm của chất ngọt quyến rũ.

Ý nghĩa phổ biến của chước cám dỗ là lôi kéo con người làm điều sai trái. Khi nghĩ đến chước cám dỗ, ngay tức khắc chúng ta nghĩ đến những điều xấu xa. Tuy nhiên, không chỉ có sự dữ mới có thể đưa chúng ta đi lạc đường. Những việc tốt đẹp vẫn có thể cám dỗ chúng ta một cách đầy hiệu quả. Trên thực tế, tất cả những chước cám dỗ đều đến dưới chiêu bài là việc tốt đẹp. Và sức mạnh của một chước cám dỗ tỉ lệ với sức quyến rũ của mục đích.

Không phải chỉ khi nào đường đi khó khăn và rải đầy chướng ngại vật, chúng ta mới không tiếp cận được mục đích, nhưng khi đường đi dễ dàng và trải đầy những nét quyến rũ, chúng ta cũng vẫn bị như vậy. Trong trường hợp thứ hai, chúng ta bị cám dỗ coi con đường đó như trò đùa. Chúng ta tự cho phép mình đi sai đường, sao cho trước khi nhận ra điều đó, chúng ta đã quên mất mục đích, và lãng phí sức mạnh của mình. Những vinh hoa trần thế làm mất đi sự quyến rũ của hạnh phúc thiên đàng. Trong Tin Mừng, không thiếu những ví dụ về điều này.

Một dịp kia, Đức Giêsu kêu gọi một người giàu có trở thành môn đệ của Người, nhưng người đó đã từ chối. Không phải sự dữ đã làm cho anh ta từ chối – anh ta không làm điều gì xấu xa cả. Nhưng anh ta từ chối chỉ vì một điều gì đó tốt đẹp – sự giàu có.

Khi Đức Giêsu đi vào nhà của Marta và Maria, Marta quá bận rộn, nên không thể lắng nghe Người nói được. Không phải do điều gì đó xấu xa đã làm cho bà không nghe được lời Người, mà là một việc làm tốt đẹp, thậm chí đáng khen nữa – những công việc bày tỏ lòng hiếu khách. Đức Giêsu kể một câu chuyện về những người khách từ chối lời mời đến dự tiệc. Khi từ chối, họ không hành động do những động cơ xấu xa, nhưng do những động cơ tốt đẹp. Người thì muốn đi thăm mảnh đất mà họ mới tậu được. Người khác lại muốn thử con bò mới mua. Người thứ ba thì vừa mới cưới vợ. Tuy nhiên, mặc dù những nguyên nhân của họ đều tốt hảo cả, thì hậu quả vẫn như thể họ là những người tồi tệ – họ đã để cho bữa tiệc trôi qua.

Trong dụ ngôn về người gieo hạt, Đức Giêsu nói rằng một số hạt bị chết ngạt do gai góc. Những “bụi gai” này bao gồm cái gì vậy? “Những lo lắng và quan tâm đến thế gian này, và sự quyến rũ của giàu sang”. Một lần nữa, những điều này không phải tự chúng xấu xa. Từ tất cả những điều này, chúng ta phải suy ra điều gì? Đó là chúng ta có thể có nhiều điều đáng e sợ từ việc tốt cũng như việc xấu. Sau hết, khi nhận thấy một điều nào đó rõ ràng là xấu, thì chúng ta phải cự tuyệt nhiều hơn là bị điều đó lôi cuốn. Do đó, điều này đặt ra nhiều nguy hiểm hơn. “Khi dát vàng vào đôi cánh chim, thì nó sẽ không bao giờ bay được”. Những điều cám dỗ chúng ta từ bỏ mục đích của mình không phải lúc nào cũng luôn luôn xấu xa. Thông thường, đó lại là điều tốt đẹp. Vì thế, thật khó mà kháng cự lại được. Những sự chọn lựa đau thương nhất thường ở giữa điều tốt và điều xấu. Quỉ dữ không xuất hiện giống như một nhân vật đáng ghê tởm. Nhưng nó xuất hiện như một nhân vật hấp dẫn, đáng mến, dễ thương, thậm chí là một người bạn nữa. Nó xuất hiện để đem lại ý thích tốt đẹp nhất trong tâm hồn bạn – như khi nó dâng bánh và tất cả các nước trên thế giới cho Đức Giêsu. Chúng ta cần có sự khôn ngoan và sức mạnh, để có thể kháng cự lại những chước cám dỗ, đặc biệt đối với những cám dỗ đến dưới chiêu bài tốt đẹp.

 

65.Tái tạo cuộc sống

Lần kia, một vị vua đang thả bộ trên những con đường của thành phố thủ đô, thì có một người ăn xin đến, anh ta liền hỏi xin vị vua chút ít tiền. Vị vua không hề cho người đó một đồng nào cả. Thay vào đó, vua mời anh ta đến lâu đài thăm viếng ông. Người ăn xin nhận lời mời của nhà vua.

Đến ngày hẹn, người ăn xin tìm đường đi đến cung điện, và được đưa đến gặp nhà vua, anh ta bỗng nhận ra quần áo rách rưới của mình, và cảm thấy xấu hổ. Đây là một biểu tượng hùng hồn về tình trạng nghèo khổ trong cuộc sống của anh.

Vốn là một loại người đặc biệt, nhà vua đón tiếp anh ta một cách nồng nàn, tỏ lòng thương xót anh, và ban cho anh ta một bộ quần áo mới, cùng với những thứ khác. Tuy nhiên, vài ngày sau, người ăn xin vẫn lê lết trên đường phố xin ăn trong bộ quần áo rách nát của anh ta.

Tại sao anh ta lại bỏ bộ quần áo mới? Bởi vì anh biết rằng khi mặc bộ quần áo đó, có nghĩa là anh phải sống một cuộc sống mới. Điều đó có nghĩa là anh phải từ bỏ cuộc sống của một người ăn xin. Nhưng anh chưa được chuẩn bị để làm như vậy. Không phải là cuộc sống mới không hấp dẫn đối với anh. Nó rất hấp dẫn. Chỉ vì anh biết rằng một sự thay đổi trong cuộc sống sẽ cần phải từ từ, gây đau xót và không chắc chắn. Nói cách khác, anh quá quen thuộc với thói quen cũ, đến nỗi không thay đổi được.

Thói quen đóng một vai trò lớn trong cuộc sống của chúng ta. Người ta nói rằng chúng ta sống nửa sau cuộc đời mình, tùy thuộc vào những thói quen đã có từ nửa đầu cuộc đời mình. Điều đó sẽ đem lại sự thoải mái cho người nào có những thói quen xấu.

Mùa chay đụng chạm vào một góc cạnh nào đó trong tâm hồn của tất cả chúng ta. Hình ảnh Đức Giêsu ăn chay và cầu nguyện trong sa mạc gây xúc động cho chúng ta. Nhưng cũng bắt buộc chúng ta phải nhìn vào cuộc sống của mình. Mùa chay thách đố chúng ta cải thiện con người mình. Nhưng những nỗ lực của chúng ta trong việc đổi mới thường không đủ sâu xa. Nếu muốn mặc một cái áo mới, thì chúng ta phải vứt bỏ cái áo cũ. Việc mặc cái áo mới sẽ lôi kéo theo một lối sống mới.

Nếu mong muốn thay đổi những khía cạnh bên ngoài cuộc sống, thì trước hết, chúng ta phải thay đổi những thái độ tư tưởng bên trong của chúng ta. Sự thay đổi đòi hỏi chúng ta phải lấy những thói quen mới thay thế vào những thói quen cũ. Điều này mời gọi chúng ta phải biết làm chủ bản thân, và tự bắt mình phải thực hiện những gì cần thiết. Trước hết, thông qua sức mạnh của lời cầu nguyện, chúng ta có thể hoàn tất được sự thay đổi tâm hồn theo lời mời gọi của mùa chay.

Mặc dù sự thống hối và lời cầu nguyện luôn luôn phù hợp, nhưng những yếu tố đó lại càng đặc biệt phù hợp trong mùa chay. Đây là thời gian của ân sủng. Mùa chay là một cửa ngõ mở ra một cơ hội lớn cho mọi người. Đó là “Mùa xuân thánh thiện” của Giáo hội. Trong suốt mùa chay, những người dự tòng được chuẩn bị nhận lãnh phép Rửa tội, để được tái sinh trong Đức Kitô. Đây là một thời kỳ của sám hối và cố gắng. Nhưng cũng là thời kỳ của niềm vui lớn lao, tương tự như mùa xuân vậy. Trong khi chúng ta nỗ lực tiến tới Mùa Phục Sinh, thì mặt trời càng ngày càng tươi sáng và ấm áp hơn.

Vậy chúng ta phải làm gì? Nói tóm lại, chúng ta phải quay trở về với sức mạnh của tình yêu. Sống tử tế, hành động theo lẽ phải, và bước đi một cách khiêm tốn cùng với Thiên Chúa. Nguyện xin Thiên Chúa giúp đỡ chúng ta dẹp bỏ được những mảnh rách của tội lỗi, để Người có thể mặc cho chúng ta chiếc áo mới của sự sống.

 

66.Câu chuyện hồng thủy

(Suy niệm của Lm. Anphong Trần Đức Phương)

Mùa Chay Thánh bắt đầu từ Thứ Tư Lễ Tro cho đến Chúa Nhật Lễ Lá; mở đầu Tuần Thánh, và tiếp theo là Chúa Nhật Đại Lễ Phục Sinh.

Trong Chúa Nhật I Mùa Chay (Năm B), Bài Đọc I (Sáng thế 9, 8-15) nhắc đến câu chuyện Đại Hồng Thủy. Thánh Phêrô cũng nhắc đến câu chuyện Đại Hồng Thủy trong Bài Đọc II (1 Phêrô 3, 18-22). Đại Hồng Thủy đã tiêu diệt tất cả nhân loại và mọi sinh vật "trừ 8 người trong gia đình ông Noe và một số sinh vật được đưa lên tàu".

Câu chuyện Đại Hồng Thủy nhắc nhở chúng ta đến hậu quả khủng khiếp của tội lỗi. Nhưng con người chúng ta luôn bị cám dỗ lôi cuốn phạm tội. Bài Phúc Âm (Matcô 1, 12-15) cũng ghi lại việc chính Chúa Giêsu cũng để cho ma qủy cám dỗ, sau khi đã ăn chay 40 ngày.

Cám dỗ là một thử thách suốt cuộc đời chúng ta. Nhưng bị cám dỗ chưa hẳn là đã phạm tội. Có rất nhiều thứ cám dỗ khác nhau, nhưng tất cả đều do khuynh hướng con người chúng là 'ham danh, ham lợi, ham lạc thú!'. Mọi người đếu bị cám dỗ. Ai trong chúng ta cũng ham muốn được ca tụng, được giầu có, và thỏa mãn các thú vui. Ngay cả các vị Thánh tu hành trong sa mạc cũng bị cám dỗ, nhiều khi rất mạnh mẽ, cả trong tuổi già (như Thánh Antôn Viên Phú; Lễ kính ngày 17-1 hàng năm). Nhưng chúng ta có thể thắng cám dỗ, nếu có ơn Chúa giúp đỡ qua việc cầu nguyện, ăn chay hãm mình, và xa tránh dịp tội.

Trong ngày Thứ Tư Lễ Tro, khi chúng ta lên chịu xức tro, chúng ta đã nghe ca đoàn hát: "Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro, một mai người sẽ trở về bụi tro..." (Bài "Hỡi Người Hãy Nhớ" của Kim Long) để nhắc nhở chúng ta đã được dựng nên do "bụi tro, và khi chết, thân xác chúng ta cũng sẽ trở về 'tro bụi'. Suy nghĩ như vậy không phải để chúng ta 'bi quan yếm thế'; nhưng chỉ để chúng ta nhớ đến cuộc đời của chúng ta trên trần thế này ngắn ngủi, mỗi ngày qua đi là một ngày chúng ta đi đến gần nấm mộ của chúng ta hơn, và sau khi chết thân xác chúng ta sẽ trở thành tro bụi. Tuy nhiên, chúng ta đã được dựng nên theo hình ảnh Chúa, có linh hồn bất tử. Chết chỉ là 'thể phách, hồn là tinh anh" và 'sống gửi thác về', 'sinh qúy tử quy'. Chúng ta sẽ được về với Chúa là Cha chúng ta trên nước Hằng Sống, miễn là chúng ta luôn biết cố gắng thắng cám dỗ để sống xứng đáng những con người đã "được dựng nên theo hình ảnh Chúa!' (Sáng thế 1, 26).

Mùa Chay chính là "thời gian thuận tiện" (2 Corintô 6,2) để chúng ta 'làm các việc lành phúc đức'. Mùa Chay chính là thời gian để chúng ta dùng nhiều thời giờ hơn để sống đức tin của chúng ta, thánh hóa bản thân và gia đình chúng ta. Có những việc Giáo hội nhắc nhở chúng ta phải làm nhiều hơn trong Múa Chay, đó là: Cầu nguyện, ăn năn sám hối lỗi lầm quá khứ qua việc xét mình xưng tội; làm việc đền tội qua những hy sinh hãm mình (ăn chay và kiêng thịt); làm việc từ thiện (thường gọi là 'làm phúc bố thí'), giúp đỡ những người nghèo khó, bệnh tật, đau khổ trên thế giới. Những việc này chúng ta vẫn làm hàng ngày, và từng giây phút cuộc đời, nhưng vào Mùa Chay, chúng ta cố gắng nhiều hơn để giúp đổi mới con người chúng ta, gia đình chúng ta và chuẩn bị những ngày kỷ niệm việc Chúa đã chịu chết để chuộc tội chúng ta, nhưng Ngài đã Sống Lại và Lên Trời vinh hiển để mở đường cứu rỗi cho chúng ta.

Xin hiệp ý cầu nguyện chung, để mỗi người chúng ta sống tốt đẹp mùa Chay Thánh này, được dồi dào ơn thánh Chúa để canh tân con người chúng ta, gia đình chúng ta và chung tay xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn trong thế giới hôm nay.

 

67.Chúa Nhật 1 Mùa Chay

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê)

Hoang địa: Trường đào luyện công dân Nước Trời.

Anh chị em thân mến,

Một xã hội trọng học vị, bằng cấp, thường ưu tiên tuyển dụng cán bộ, chuyên viên, các ứng viên xuất thân từ những đại học danh tiếng, có bằng cấp.

Quan niệm xã hội đã tác động mạnh mẽ trong nếp suy nghĩ của chúng ta. Các bậc làm cha mẹ cố gắng tối đa tìm trường danh tiếng cho con theo học: du học Mỹ, Úc, Âu Châu... hy vọng một tương lai rực rỡ chào đón sau khi mãn trường.

Đầu tư cho con học tập là một chọn lựa đúng đắn, có tầm nhìn chiến lược hoàn hảo: “Để lại cho con một rương vàng, không bằng để lại cho nó một cuốn sách” (Danh ngôn).

Tuy nhiên, việc đào tạo phải toàn diện: trí dục, đức dục, thể dục, thiêng liêng, cùng thực hiện đồng bộ, mới dám chắc việc đầu tư của chúng ta không vô ích.

Thật đáng buồn tình trạng giáo dục tại Việt Nam: quá chú trọng đến kỹ thuật, thời lượng là một cực hình, xem nhẹ hoặc không còn giờ cho các việc đào tạo khác, nhất là vấn đề tôn giáo... đó là những lỗ hổng tạo tiêu cực, bất ổn, bạo lực trong gia đình, nơi học đường, ngoài xã hội.

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay dạy cách thức tìm kiếm Nước Trời, nhờ chăm chỉ học trong trường “Hoang địa” Chúa thiết lập huấn luyện dân Người.

Ngôi trường này huấn luyện đời sống thiêng liêng, dạy kiên nhẫn vượt thắng thử thách gian truân, dạy tinh thần hiền lành cậy trông tín thác vào Chúa, vì tại nơi đó nếu lãng quên huấn lệnh Ngài, con người sẽ gục ngã và thất bại thảm thương.

Hoang địa, ngôi trường độc đáo, nơi hoang vu không cây cối vườn tược, nhà cửa, không người thân hàng xóm láng giềng, tức là không có một tiện nghi tối thiểu nào phục vụ sự sống. Hoang địa chỉ có cát đá, thú dữ, ma quỷ, tức là chỉ có những khó khăn thử thách chất chồng, bắt con người phải chiến đấu để tồn tại.

Hoang địa hay thánh giá giúp con người trưởng thành toàn diện, nhất là đời sống thiêng liêng. Ai không chấp nhận con đường đào luyện này sẽ không thể là công dân Nước Trời: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta” (Mt 16, 24).

Vậy trường “Hoang địa” dạy chúng ta những gì?

Thứ nhất dạy vượt thắng thiên nhiên: Người sống trong hoang địa phải chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt. Sa mạc chỉ toàn cát đá, đêm lạnh thấu xương, ngày nóng như thiêu, hầu như không có thực phẩm. Người sống trong hoang địa phải chịu đói, chịu khát, chịu nóng, chịu lạnh và mọi thiếu thốn. Dân Do Thái được Chúa đưa vào nơi hoang địa để huấn luyện trước khi đưa họ vào Đất Hứa. Trong hoang địa, người Do Thái không chịu nổi những thiếu thốn, nên đã nhiều lần nổi loạn chống lại Chúa, chống lại Môsê, muốn quay trở lại làm nô lệ bên Ai cập để được ăn no ngủ kỹ. Trái lại, tổ phụ Abraham đã chấp nhận vượt qua hoang địa, nên đã tới Đất Hứa, tiên tri Êlia đã vượt qua hoang địa 40 đêm ngày, nên đã đi đến núi của Thiên Chúa. Và hôm nay, Đức Giêsu đã thắng được cái lạnh, cái nóng và nhất là đã thắng được cái đói cái khát, đã hoàn toàn làm chủ được bản thân trước những nhu cầu của thân xác.

Thứ hai dạy cách thắng ma quỷ: Thiên Chúa cho phép ma quỷ thử thách con người. Ông bà nguyên tổ đã bị ma quỷ cám dỗ và đã thua cuộc. Ông Gióp cũng đã bị ma quỷ thử thách, mất hết tài sản, mất hết con cái, mất hết danh dự. Nhờ tin vào Thiên Chúa, ông đã thắng được ma quỷ. Đức Giêsu đã thắng vượt mọi cơn cám dỗ ma quỷ bày ra nhờ Người vững lòng tin vào Thiên Chúa. Những cơn cám dỗ của ma quỷ thường là cám dỗ về đức tin. Adong và Evà không vững lòng tin nên đã sa ngã. Ông Gióp vững lòng tin nên luôn đứng vững qua mọi thử thách. Đức Giêsu luôn vững niềm tin vào Chúa Cha, nên đã chiến thắng mọi cơn cám dỗ.

Thứ ba dạy từ bỏ ý riêng: Nguyên tổ đã tìm ý riêng hơn ý Chúa, nên đã đi trệch đường. Đức Giêsu luôn tìm thánh ý Cha, Người đã từ bỏ con đường rộng để đi vào con đường hẹp, từ bỏ con đường dễ để chọn con đường nghèo hèn, từ bỏ con đường riêng tư, đi vào con đường Cha đã định, Người đã toàn thắng mọi thử thách, cám dỗ.

Thế nhưng, hoang địa không phải chỉ là nơi thử thách, nó còn là nơi gặp gỡ Chúa. Sau khi đã thắng vượt tất cả các cuộc thử thách, ta sẽ gặp được Chúa, sẽ sống thân tình với Chúa và sẽ hoàn toàn thuộc về Chúa. Ông Môsê, sau 40 đêm ngày ở trên núi Sinai, đã trở nên bạn nghĩa thiết của Chúa, mặt ông trở nên sáng láng đến nỗi dân Do Thái không dám nhìn thẳng vào. Tiên tri Êlia, sau khi đi 40 đêm ngày, đã tới núi của Chúa và đã gặp được Chúa. Đức Giêsu đã gặp gỡ Cha, đã tìm được ý Cha và đã kết hiệp mật thiết với Cha, đến độ, từ nay Ngài thuộc trọn về Cha. Thánh ý Cha đã trở thành lương thực đời sống Người. Giê-su hy sinh tất cả, kể cả mạng sống để thánh ý Cha được nên trọn. Vì thế, Người đã được gọi là “Con yêu dấu” của Cha.

Trong Mùa Chay, Giáo Hội mời gọi ta hãy vào hoang địa với Đức Giêsu để chịu thử thách, để rèn luyện đời sống tâm linh cho vững mạnh, kiên cường. Ta không có điều kiện để vào nơi hoang vắng, nhưng ta vẫn có thể vào hoang địa cuộc đời.

Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là sẵn sàng chấp nhận những khó khăn, thiếu thốn trong đời sống, dù đói nghèo vẫn giữ được tâm hồn tự do, không chịu nô lệ vật chất.

Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là kiên cường chống trả mọi cơn cám dỗ ma quỷ đưa tới, luôn vững niềm tin vào Chúa dù gặp những khó khăn thử thách.

Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là từ bỏ những ý riêng để luôn tìm thánh ý Chúa, sẵn sàng thực hành thánh ý Chúa, dù có phải đau đớn, thiệt thòi.

Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là giữ tâm hồn bình an thanh thản để gặp gỡ Chúa, tiếp xúc thân mật với Chúa, hoàn toàn thuộc về Chúa để trở nên “Con yêu dấu” của Chúa.

Nếu chúng ta chuyên tâm rèn luyện trong trường “Hoang địa” Giê-su, tâm hồn sẽ trở nên vững mạnh, có khả năng chống lại được những cám dỗ, nhanh nhẹn dấn thân vào những việc đạo đức, không ngại khó, ngại khổ và nhất là, quen từ bỏ ý riêng, thực thi ý Chúa, chúng ta sẽ trở nên Con hiếu thảo của Cha trên trời.

Xin Chúa chúc lành cho cộng đoàn chúng ta trong mùa chay thánh này. Amen.

 

68.Chúa Nhật 1 Mùa Chay

(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)

Chủ Đề: Chỉ vì thương nên Thiên Chúa đơn phương ban ơn cho loài người (Mc 1,15)

I. Dẫn vào Thánh lễ

Mùa Chay là "lúc thuận tiện" để lãnh nhận ơn Chúa, là "thời cứu độ". Nhưng để có thể lãnh nhận ơn Chúa, chúng ta phải "sám hối và tin vào Tin Mừng".

Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy lắng nghe tiếng Chúa và xin Ngài giúp chúng ta thực hiện lời Ngài.

II. Gợi ý sám hối

· Chúng ta cứ sa đi ngã lại mãi trong tội. Phải chăng vì chúng ta chưa thực lòng sám hối?

· Chúng ta có biết rằng phạm tội là để mình bị trói buộc trong xiềng xích của Satan không?

· Chúng ta có ý thức rằng phạm tội là phụ bạc với tình yêu của Đức Giêsu, Đấng đã chịu chết vì tội chúng ta không?

III. Lời Chúa

1. Bài đọc I: St 9,8-15

Sau cơn hồng thuỷ (theo St 7,12 thì kéo dài 40 ngày), Thiên Chúa lập giao ước với Nôê.

· Nội dung giao ước: sẽ không còn xảy ra một tai họa nào tương tự như thế nữa cho loài người.

· Kẻ được hưởng giao ước: "mọi xác phàm", tức tất cả các sinh vật.

· Điều kiện: đây là một giao ước đơn phương. Chỉ một mình Thiên Chúa cam kết với loài người; loài người không bị buộc điều gì cả.

· Dấu chỉ giao ước này: cầu vòng trên trời.

2. Đáp ca: Tv 24

Tv 24 là lời cầu nguyện của một người công chính: ông bày tỏ niềm tin tưởng tuyệt đối vào Chúa; ông xin Chúa cho biết đường lối của Ngài.

Tv này áp dụng rất đúng cho Nôê: Ông là người công chính được Chúa cứu khỏi nạn hồng thuỷ và dẫn đưa ông tới một thế giới mới.

Tv này cũng có thể dùng làm lời cầu nguyện cho các tín hữu bước vào Mùa Chay: cũng như Nôê, họ bước vào thời gian thử thách 40 ngày; nếu họ theo đường lối Chúa thì họ sẽ tới được một thế giới mới và lập giao ước mới với Chúa.

3. Tin Mừng: Mc 1,12-15

Đoạn Tin Mừng này có 2 ý lớn:

a/ Đức Giêsu ăn chay: Ngài ăn chay 40 ngày (như thời gian xảy ra cơn lụt). Trong thời gian đó Ngài tìm hiểu đường lối Thiên Chúa (như Tv 24), và sau đó Ngài bắt đầu sứ vụ công khai.

b/ Đức Giêsu loan báo Tin Mừng: "Thời giờ đã mãn, Nước Thiên Chúa đã gần đến. Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng".

4. Bài đọc II: 1 Pr 3,18-22

Thánh Phêrô nhắc lại chuyện Hồng thuỷ xưa và coi đó là hình bóng của phép rửa tội: Ngày xưa Thiên Chúa nhân từ đã cứu sống Nôê và gia đình; ngày nay phép rửa cũng cứu thoát con người như vậy nhờ sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô.

IV. Gợi ý giảng

* 1. Quà và ơn

Sứ điệp thứ nhất mà Phụng vụ Lời Chúa Mùa Chay gởi đến chúng ta là: Thiên Chúa tặng quà cho chúng ta, Thiên Chúa ban ơn cho chúng ta.

Người ta thường tặng quà vào những dịp nào? Những dịp tặng quà là Tết, đám cưới, sinh nhật v.v. Thường thì ai tặng quà cho ai? Người tặng quà thường là người có liên hệ tình nghĩa thế nào đó với người được tặng, chẳng hạn cấp dưới đối với cấp trên, học trò đối với thầy cô, người chịu ơn đền đáp cho người thi ơn. Vì thế có thể nói "quà" thường là thứ "có qua có lại".

Khi "có qua" mà không "có lại" thì gọi là "ơn" (Tiếng hy lạp Charis luôn bao hàm tính cách miễn phí). Các bài đọc hôm nay kể đến 2 ơn mà Thiên Chúa ban cho loài người:

· Ơn ban sự sống (xem phần giải thích bài đọc I): vì loài người tội lỗi nên bị phạt phải chịu nạn hồng thuỷ. Nhưng Thiên Chúa đã cứu sống gia đình ông Nôe. Sau khi cơn hồng thuỷ kết thúc, Thiên Chúa lập giao ước rằng từ nay sẽ không bao giờ Ngài cho xảy ra một đại họa như thế nữa. Đây là một giao ước đơn phương: Thiên Chúa không buộc loài người làm gì cả, chỉ một mình Ngài hứa và cam kết giữ lời hứa ấy. Sau này loài người lại tiếp tục phạm tội nhưng Thiên Chúa vẫn trung thành với lới cam kết đơn phương ấy.

· Ơn ban sự sống mới qua bí tích Rửa tội (Xem phần giải thích Bài đọc 2): chúng ta đâu có công gì để được ơn này, nhưng Thiên Chúa đã ban chỉ vì yêu thương chúng ta.

Khi nhận quà thì ta mừng, khi nhận ơn thì ta cảm động. Vậy, Thiên Chúa tặng quà cho chúng ta, chúng ta có mừng không? Và còn hơn quà nữa, Thiên Chúa luôn ban ơn cho chúng ta, chúng ta có cảm động không?

* 2. Ý nghĩa Mùa Chay

a/ Một thời gian cầu nguyện: Ngày xưa, Môsê đã ở trên núi Sinai 40 ngày, ngôn sứ Êlia cũng ở trên núi Horép 40 ngày. Trong thời gian đó, các ngài đã cầu nguyện và đã gặp được Thiên Chúa. Trong thời gian 40 ngày Mùa Chay, việc đầu tiên chúng ta phải để ý làm là cầu nguyện như các ngài.

b/ Một thời gian chiến đấu: Ngày xưa ông Nôê ở trong tàu 40 ngày chiến đấu với phong ba bão táp của cơn hồng thuỷ; Đức Giêsu sống trong sa mạc 40 ngày chiến đấu với những cơn cám dỗ của Satan. Noi gương các Ngài, chúng ta cũng hãy chiến đấu với những khuynh hướng xấu, những thói quen tội lỗi và những cám dỗ trong Mùa Chay này.

c/ Một thời gian sám hối và đón nhận Tin Mừng: Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã mời gọi "Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng". Sám hối là từ bỏ con đường sai lạc cũ để quay về con đường chính. Trong Mùa Chay, chúng ta cũng quan tâm hơn đến việc lắng nghe và suy gẫm Lời Chúa.

* 3. Chiếc cầu vồng

Hình ảnh chiếc cầu vồng của bài đọc I vừa đẹp vừa gợi rất nhiều ý cho chúng ta suy gẫm trong Mùa Chay:

· Chiếc cầu vồng là một đường cong bắt đầu từ đất, vươn lên trời cao, rồi lại trở xuống mặt đất. Chính vì thế mà Thiên Chúa dùng nó làm dấu chỉ giao ước giữa trời với đất, giữa Thiên Chúa với loài người.

· Sau cơn mưa, trời lại sáng và chiếc cầu vồng xuất hiện rực rỡ. Như thế, chiếc cầu vồng còn là dấu chỉ giao ước được tái lập, trở lại tình trạng tốt đẹp thuở ban đầu.

· Cầu vồng mang 7 sắc rất đẹp. Nó còn là dấu chỉ tương giao tốt đẹp giữa Thiên Chúa với con người.

Phải chăng mối tương quan giữa chúng ta với Thiên Chúa cũng rất tốt đẹp hồi thuở ban đầu, nhưng rồi do tội lỗi, chúng ta như rơi vào cơn bão lụt. Nhưng Thiên Chúa muốn cứu thoát chúng ta. Ngài kêu mời chúng ta tái lập liên hệ thân thương với Ngài trong Mùa Chay này, để rồi tình nghĩa giữa chúng ta với Ngài lại tươi đẹp như trước?

* 4. Thiên đàng đánh mất và thiên đàng gặp lại

Thánh Thần thúc đẩy Ngài vào sa mạc.

Trong phòng triển lãm tưởng tượng của chúng ta hôm nay, có bày bức tranh tứ bình, gồm hai cặp tranh đôi một đối xứng. Hai bức đầu, một bên vẽ cảnh sa mạc hoang vắng, Chúa đang bị Satan thử thách. Một bên vẽ cảnh bình yên thanh thản. Chúa đang ngồi giữa bầy dã thú đã trở nên hiền như chiên cừu. Hai bức sau, bên phải vẽ cảnh vườn địa đàng tươi đẹp. Ađam Eva trẻ trung đầy sức sống vui hưởng những ngày hạnh phúc giữa một thiên nhiên hài hòa hoa thơm quả ngọt. Bên trái, vẫn là Ađam, Eva, nhưng khuôn mặt hốc hác, trán nhăn nheo ướt đẫm mồ hôi, dáng hao gầy mòn mỏi vì mệt nhọc và già yếu, giữa một thiên nhiên khô cằn gai góc.

Đó là thân phận con người sau khi sa ngã. Con người không còn thể sống hài hòa với Thiên Chúa, với thiên nhiên, với đồng loại và với chính mình.

Nhưng Đức Giêsu đã đến để đảo ngược tình thế. Ngài sống giữa sa mạc, một thiên nhiên thù nghịch. Ngài bị thử thách gay go. Nhưng rồi Ngài đã thắng nghịch cảnh và quỉ dữ: Ngài sống yên bình hài hòa giữa một vũ tụ đã được cảm hóa.

Chỉ bằng một câu ngắn, Marcô đã vẽ nên bức tranh tứ bình đó: "Ngài ở trong hoang địa bốn mươi này, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và các Thiên sứ hầu hạ Ngài".

Công trình tạo dựng thứ nhất của Thiên Chúa đã bị loài người phá hỏng. Chúa đến để tái tạo lại, làm công trình tạo dựng thứ hai. "Thời kỳ đã mãn, Nước Thiên Chúa đã đến gần rồi. Anh em phải sám hối và tin vào Tin mừng".

Khi Đức Giêsu chịu phép rửa, bắt đầu sứ vụ, Thần Khí Chúa đã ngự trên Ngài. Thần Khí ấy, cũng như trong ngày đầu cuộc tạo dựng, đang bay là là trên những vùng đất khô cằn khắc nghiệt, và hoang mạc đang dần dần trở nên xanh tươi, trổ hoa thơm quả ngọt.

Vậy ra thiên đàng mà Ađam và Eva đã đánh mất vẫn còn đó, phía trước mỗi người. Nếu chúng ta biết "sám hối" và tin vào Tin mừng Đức Kitô" chúng ta sẽ gặp lại thiên đường đã mất.

Mùa Chay 40 ngày thinh lặng sa mạc, hãy để lòng chúng ta lắng xuống để bị cám dỗ, bị lôi cuốn bởi lòng cậy trông hy vọng tìm lại thiên đường đã mất, nhờ Đức Kitô, Con Chúa, Chúa chúng ta.

5. Dã thú và thiên thần

Câu cuối của bài Tin Mừng hôm nay là một hình ảnh rất lạ: "Người ở trong hoang địa 40 ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người"

Câu này gồm 2 phần mang hai sắc thái khác hẳn nhau nhưng có liên hệ nhân quả với nhau:

· Phần đầu là một cảnh khó khăn "Người ở trong hoang địa 40 ngày, chịu Satan cám dỗ": Đức Giêsu bị Satan cám dỗ, như ngày xưa hai nguyên tổ Ađam Evà trong vườn Địa Đàng, và như dân Do Thái trong sa mạc. Nhưng Ngài chiến đấu với những cám dỗ đó và đã chiến thắng.

· Phần sau là một cảnh thoải mái "sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người": (1) Trước khi hai nguyên tổ phạm tội, các ngài đã sống an hòa giữa các dã thú (xem St 2,19-20); Sau này khi mơ tới ngày tìm lại địa đàng đã mất, ngôn sứ Isaia cũng tưởng tượng cảnh con người và dã thú sống chung hòa thuận với nhau (xem Is 11,6-8: "Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ. Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau, một cậu bé sẽ chăn dắt chúng... Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục, trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang..."; (2) Còn về hình ảnh các thiên sứ hầu hạ, Tv 91,9-12 hiểu rằng đó là ân huệ đặc biệt Thiên Chúa ban cho người nào biết nương tựa nơi Ngài ("Vì ngươi đã chọn Giavê làm nơi ẩn náu, Đấng Tối cao làm chốn dung thân... nên Người ra lệnh cho các thiên thần gìn giữ ngươi trên mọi lối ngươi đi..."

Vì Đức Giêsu đã chịu cám dỗ và chiến thắng chúng nên Ngài được hưởng sự an vui như đang sống trong vườn địa đàng và được Thiên Chúa đặc biệt che chở giữ gìn. Phần thưởng của Đức Giêsu khuyến khích chúng ta can đảm chiến đấu với các cám dỗ.

6. Cạm bẫy

Người Eskimo bắc cực có một cách bẫy chó sói rất độc đáo để lấy bộ lông làm áo da thú.

Thợ săn cáo mài một con dao thật sắc, lưỡi dao mỏng và bén đến độ chỉ cần vuốt nhẹ là cắt da lòi thấu xương. Họ nhúng con dao ấy vào trong máu súc vật, rồi đem ra ngoài trời tuyết lạnh cho máu đông lại. Họ làm như thế nhiều lần cho đến khi con dao bọc toàn máu.

Khi trời nhá nhem tối, họ đem ra cắm ngoài cánh đồng tuyết. Với cái mũi rất thính của loài sói bắc cực, nó đánh hơi mùi máu tươi đông lạnh. Vội vàng chạy tới liếm lấy liếm để, liếm tới tấp, liếm điên cuồng cho đến khi lưỡi mình đã bị dao cắt đứt mà vẫn sung sướng liếm dòng máu tươi, không hề biết mình đang liếm máu của chính mình.

Càng say máu, sói càng liếm cuồng điên, cho tới khi kiệt sức rồi lăn ra mà chết.

*

Mùa chay là thời gian hồi tâm, trở về với Chúa để định hướng cho tương lai. Mùa chay cũng là lúc dừng lại, để nhận những cám dỗ đang rình rập, những cạm bẫy đang bủa vây. Con cáo vì ham liếm máu tươi, mất cảnh giác nên đã không nhận ra được cạm bẫy chết người. Nếu cuộc đời là một chuỗi những chọn lựa, thì nó cũng là một chuỗi những cám dỗ.

Xã hội càng văn minh tiến bộ, con người càng gặp nhiều cám dỗ. Cám dỗ của thân xác đòi hỏi, hưởng thụ và chiếm đoạt. Cám dỗ của con tim mù quáng, đam mê và phóng túng. Cám dỗ của đầu óc cao ngạo, hám danh và trục lợi. Sống là một cuộc chiến đấu không ngừng. Chiến đấu với những cám dỗ khêu gợi, mời mọc, kích thích giác quan. Bao nhiêu giác quan là bấy nhiêu cánh cửa mở ra trước cạm bẫy.

Sự bất ổn của nền văn minh hiện đại, và ảo ảnh của tương lai vẫy gọi, khiến chúng ta cứ trượt dài trên con dốc tội lỗi. Người tín hữu khôn ngoan luôn cảnh giác những cạm bẫy như thủy lôi trên giòng đời.

Chính Đức Kitô đã phải liên tục đối phó với các cơn cám dỗ: "Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ" (Mc.1,13). Đây không phải là cám dỗ một lần thay cho một đời, nhưng là cuộc cám dỗ triền miên trọn cả kiếp người. Wendell Philips viết: "Kitô giáo là một trận chiến, chứ không phải là một giấc mơ".

Nếu đời người như cây sậy trước gió, dễ ngả nghiêng trước bao cuốn hút, chúng ta càng phải biết nương tựa vào một mình Chúa.

Nếu người đời tôn thờ khoái lạc, xa hoa hưởng thụ, chúng ta càng phải biết chay tịnh cõi lòng.

Nếu thế giới đầy hình ảnh vẫn đục, phô bày thân xác, chúng ta càng phải biết giữ gìn con mắt.

Có biết bao người mơ ước hy sinh cuộc đời nhưng lại không biết hy sinh những tật xấu của mình. Leon Tolstoi viết: "Mọi người đều nghĩ đến chuyện thay đổi nhân loại, nhưng không ai nghĩ đến chuyện thay đổi chính mình". Vì chưng có một sự thật nhức nhối này, là canh tân người khác luôn luôn dễ hơn hoán cải chính mình.

*

Lạy Chúa, Chúa đã chiến thắng những cơn cám dỗ của Satan, xin giúp chúng con can đảm lướt thắng những cạm bẫy trong cuộc đời.

Xin cho chúng con luôn xác tín rằng chỉ có Chúa mới là niềm vui và là hạnh phúc đích thực của đời chúng con. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")

7. Đổi mới

Một hôm nhà vua đang đi dạo trên đường phố thì gặp một người ăn mày ngửa tay xin tiền. Nhà vua không cho tiền nhưng mời anh đến thăm hoàng cung. Khi vào tới hoàng cung rồi, người ăn mày vô cùng bối rối vì thấy quần áo rách rưới của mình quá tương phản với những y phục lộng lẫy của những người trong triều. Biết thế, nhà vua tặng cho anh một bộ quần áo mới.

Ít lâu sau nhà vua lại dạo phố, lại gặp người ăn mày này và ngạc nhiên khi thấy anh lại mặc bộ quần áo rách rưới trước kia. Tìm hiểu lý do thì nhà vua biết được rằng sở dĩ anh không mặc quần áo mới vì nếu như thế thì anh không thể tiếp tục sống bằng nghề cũ là ăn xin được nữa. Anh đã quá quen sinh sống bằng nghề ăn xin rồi, đến nỗi nay không biết phải làm gì nếu không tiếp tục ăn xin.

Câu chuyện trên muốn nói rằng thay đổi áo quần thì dễ nhưng thay đổi cách sống rất khó; thay đổi bên ngoài thì nhanh nhưng thay đổi bên trong rất chậm; và nhất là rất khó thay đổi thói quen.

Mùa Chay kêu mời chúng ta đổi mới, không chỉ đổi mới bên ngoài mà phải đổi mới tận bên trong con người mình, đặc biệt là thay đổi những thói quen xấu đã ăn rễ rất sâu trong con người chúng ta.

8. Mùa Chay và Mùa Xuân

Mùa Xuân là mùa đổi mới: cỏ cây hoa lá đâm chồi, nẩy lộc và ra hoa. Nhưng muốn có thế thì trước đó chúng phải chịu đựng một mùa thu ảm đạm, lá rụng, cành xơ xác... rồi một mùa đông trơ trụi, lạnh giá.

Mùa Chay đến đúng vào Mùa Xuân và cũng chính là Mùa Xuân của tâm hồn, có thể biến chúng ta thành những con người mới.

Lạy Chúa, xin giúp con đừng sợ hãi chấp nhận để cho những chiếc lá thói quen cũ phải rụng đi

Xin giúp con đừng sợ hãi phải đối diện với cảnh nghèo nàn trơ trụi của tâm hồn

Bởi vì có như thế thì Chúa mới có thể đổi mới con thành con người mới, xứng đáng là môn đệ tốt của Chúa.

V. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, trong suốt mùa chay, Hội thánh mời gọi chúng ta cùng với Đức Giêsu trải qua hai kinh nghiệm là: gặp gỡ Thiên Chúa và đấu tranh với sự dữ. Chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta:

1. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi người trong Hội thánh / nhờ Mùa Chay này biết sám hối thành thật / mạnh dạn đổi mới suy nghĩ và hành động / để việc truyền giáo cho thế giới được kết quả tốt đẹp hơn.

2. Chúng ta cầu xin Chúa cho các nhà cầm quyền trên thế giới / biết thành thật sám hối và sửa sai những lỗi lầm / để có thể sớm đem lại cho người dân ám no, tự do, và hạnh phúc thật.

3. Chúng ta cầu xin Chúa cho những người đang ngụp lặn trong những đam mê tiền của, xác thịt, danh vọng / được nghe lời kêu gọi sám hối để quay về với đời sống công chính và lương thiện.

4. Chúng ta cầu xin Chúa cho anh chị em trong cộng đồng xứ đạo chúng ta, nhất là những người còn đang rối rắm, bỏ mùa Phục Sinh / biết mau mắn trở về để sống xứng đáng với công ơn cứu chuộc của Chúa.

Chủ tế: Lạy Chúa xin giúp chúng con trong Mùa Chay này, biết cố gắng siêng năng cầu nguyện và đi dự lễ, để được nhiều ơn Chúa mà vượt qua mọi cơn cám dỗ. Chúng con nguyện xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.

VI. Trong Thánh lễ

- Trước kinh Lạy Cha: Hôm nay khi đọc kinh Lạy Cha, chúng ta hãy đặc biệt chú ý tới lời cầu xin cuối cùng, thể hiện ước muốn của chúng ta trong Mùa Chay này: "Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ. Nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ".

- Sau kinh Lạy Cha: "Lạy Cha, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin giúp chúng con chiến đấu và chiến thắng mọi cám dỗ, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an...

VII. Giải tán

Chúng ta đã bắt đầu Mùa Chay. Đây là lúc thuận tiện để chúng ta sám hối và sống theo Tin Mừng. Và cũng vì thế cho nên đây cũng là thời gian cứu độ. Chúng ta hãy sống thời gian này một cách hết sức quảng đại. Chúc anh chị em được bình an.

 

69.Chúa Nhật 1 Mùa Chay

(Chú giải của Lm. FX. Vũ Phan Long)

ĐỨC GIÊSU CHIẾN THẮNG SATAN

1.- Ngữ cảnh

Đây là phân đoạn cuối của Lời tựa (1,1-15), kể lại những hoạt động đầu tiên của Đức Giêsu sau khi chịu phép rửa.

2.- Bố cục

Bản văn này gồm hai đơn vị:

1) Cám dỗ trong sa mạc (1,12-13);

2) “Bản tóm tắt” công việc rao giảng của Đức Giêsu tại Galilê (1,14-15):

a- nơi chốn và thời gian (c.14a),

b- chính “bản tóm tắt” (cc. 14b-15).

3.- Vài điểm chú giải

- Thần Khí đẩy Người (12): Động từ Hy Lạp ekballô, “quăng ra; đuổi; kéo ra”, thuộc thì “hiện tại lịch sử” (historic present), một thì tiêu biểu của TM Máccô. Trong tác phẩm, động từ này luôn luôn hàm ý sức mạnh, có khi là một sức mạnh áp đảo (đuổi ma quỷ: 1,34; 3,15.22.23; 6,13; 7,26; 9,18.28.38; 16,9.17. Về người: 1,43; 5,40; 11,15; 12,8). Các Tin Mừng Nhất Lãm khác dùng những động từ nhẹ nhàng hơn (Mt: anagesthai, “được dẫn”; Lc: agesthai, “được dẫn”). Ý nghĩa: chính Thánh Thần đã là sức mạnh làm cho Đức Giêsu đi vào hoang địa.

- bốn mươi ngày (13): Trong Mt và Lc, giữa những câu trao đổi giữa Đức Giêsu và Satan, trích từ sách Xh và Ds, chúng ta hiểu đây là một quy chiếu về biến cố Xuất Hành. Còn trong Mc, có thể con số “40” này là một âm vang của cuộc thử thách 40 ngày mà Môsê (Xh 34,28) và ngôn sứ Êlia (1 V 19,1-8) đã trải qua.

- hoang địa (sa mạc): Sa mạc có ảnh hưởng dọc theo lịch sử Dân Thiên Chúa. Lịch sử này đã ghi lại hai kỷ niệm có vẻ mâu thuẫn nhau, nhưng thật ra là hai mặt của cùng một hoàn cảnh: (1) Thời gian ở trong hoang địa trước tiên được trình bày như thời kỳ sống lý tưởng của Dân được Thiên Chúa tuyển chọn; khi ấy, lý tưởng tôn giáo của họ phát triển phong phú và họ sống lý tưởng này ở mức hoàn hảo. (2) Nhưng đây cũng là thời thử thách, thậm chí thời trừng phạt, dành cho tội lẩm bẩm kêu ca và bất phục tùng. Hoang địa vừa là nơi con người tách mình khỏi trần thế để được thanh luyện (các nhân vật lớn của dân Chúa đến đây để làm cho các chương trình của mình được chín muồi, hoặc để tái phục hồi lòng nhiệt thành), vừa là nơi thử thách. Ở đây, hoang địa là nơi đáng sợ bởi vì có các dã thú cư ngụ. Tác giả không quan tâm xác định một địa điểm theo địa lý.

- Satan (Hp. Sâtân, “kẻ tố cáo, kẻ chống đối” (HL. satanas; x. Mc 3,23.26; 4,15; 8,33): Tên này tương tự với diabolos, “ác thần”, “quỷ”, kẻ điều hành những sức mạnh xấu xa, đối thủ của Thiên Chúa, kẻ thù của loài người.

- cám dỗ (HL. peirazomai, “bị thử thách”, “bị cám dỗ”): Ở đây động từ này hàm ẩn một ý đồ gian ác. Hành động cám dỗ được mô tả như là xảy ra suốt thời gian 40 ngày. Mặc dù tác giả Mc không mô tả chi tiết hơn việc quỷ cám dỗ Đức Giêsu, ta có thể giả thiết là cuộc cám dỗ có một lý do Kitô học, tức được nhắm vào việc thi hành nhiệm vụ Mêsia. Người đã thắng Satan như một báo trước; Người sẽ thắng nó vĩnh viễn (x. 2 Tx 2,3-12; Kh 19,19t; 20,2.10).

- sống giữa loài dã thú và có các thiên thần hầu hạ: Hoang địa Giuđê là nơi cư trú của nhiều loại dã thú; sự kết nối giữa các thiên thần hầu hạ (diêkonoun: thì vị-hoàn [imperfect] để mô tả một việc phục dịch kéo dài suốt thời gian ở trong hoang địa) và sự che chở khỏi các thú dữ khiến có thể coi Tv 91,11-13 là một bối cảnh. Với hoạt cảnh này, tác giả cho hiểu là với Đức Giêsu, thời cánh chung đã bắt đầu: Đức Giêsu là Ađam mới, có thể đưa ta trở lại Địa đàng.

- Sau khi ông Gioan bị nộp (14): Gioan Tẩy Giả lại được giới thiệu là Tiền Hô của Đức Giêsu. Đức Giêsu bắt đầu hoạt động công khai sau hoạt động của Gioan. Chi tiết này thuộc về lược đồ lịch sử cứu độ hơn là lịch sử trần thế: Đức Giêsu không thể bắt đầu được trước khi vị Tiền Hô ra khỏi sân khấu. Kết thúc tàn bạo Gioan phải chịu cũng gợi ý xa xa về số phận của Đức Giêsu. Động từ HL paradothênai (thái bị động) khiến ta phải thấy ở đây có bàn tay của Thiên Chúa làm việc (áp dụng cho Đức Giêsu: 9,31; 10,33; 14,41).

- Tin Mừng của Thiên Chúa: Công thức với thuộc-cách này vừa có nghĩa là Tin Mừng đến từ Thiên Chúa và Tin Mừng nói về Thiên Chúa. Đây là một “Tin Mừng”, nghĩa là tin về một sự kiện có thật, chứ không phải là một suy diễn, một giả thiết, một lý thuyết, thậm chí một lệnh truyền. Do có mạo từ xác định, đây chính là Tin Mừng tuyệt hảo, mà người ta không thể thêm vào một tin nào hay hơn, tốt hơn, mừng hơn.

- Thời kỳ đã mãn: “Thời kỳ” (kairos [thời gian đã định, lúc] ≠ chronos [khoảng thời gian]) là thời điểm quyết liệt Thiên Chúa đã định, mọi sự tùy thuộc thời điểm này (x. Đn 7,22; Ed 7,12; 9,1; Ac 4,18; Kh 1,3; 1 Pr 1,1). Trong TM Lc, có những quy chiếu về thời kỳ này (Lc 12,56; 19,44).

- Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần: Trong Cựu Ước, Thiên Chúa được nhận biết như là Chúa Tể và Vua của Israel (x. Is 43,15; 52,7); và người ta chờ đợi Người tỏ mình ra công khai như là Đức Vua và Chúa Tể duy nhất và thống trị tất cả mọi sự thật rõ ràng (x. Mk 4,7; Xp 3,15; Dcr 14,9). Đức Giêsu không nói: “Triều Đại Thiên Chúa mà anh em vẫn chờ đợi đang hiện diện trong mức viên mãn”; nhưng: “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần”. Đó là đặc điểm của thời kỳ hoàn tất này, thời kỳ đầy ân sủng và thời kỳ quyết liệt, thời kỳ này bây giờ đã bắt đầu. Như thế, trung tâm của sứ điệp của Đức Giêsu là: “Thiên Chúa là Chúa Tể; vị Chúa Tể này đã gần kề”. Người là vị Chúa Tể có quyền quyết định và lo lắng cho chúng ta. Đó là Tin Mừng tuyệt hảo. “Đến gần” có nghĩa là: khi đến lúc đã định, Triều Đại Thiên Chúa đã đến và kể từ nay bắt đầu tỏ rõ ra: một sự giằng co giữa hiện tại và tương lai. Đây là một sự kiện hiện tại và một sự kiện của thời cuối cùng.

- Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng: Lời này cũng có nghĩa là “Hãy sám hối là tin vào Tin Mừng”, tức bằng cách (diễn tả qua việc) tin vào Tin Mừng.

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Cám dỗ trong sa mạc (12-13)

Kể từ Giáo Hội sơ khai, các nhà chú giải đã coi bức tranh mô tả Đức Kitô ở trong hoang địa với dã thú như là một đối trưng của Ađam trong vườn. Tình trạng thù nghịch giữa loài người và dã thú, một hậu quả của sự sa ngã của Ađam, không được áp dụng cho Đức Giêsu. Tình trạng Đức Giêsu ở trong hoang địa sống hài hoà với muôn loài và quan hệ thân tình với Thiên Chúa cho thấy đó là hoàn cảnh của nhân loại nếu Ađam đã không phạm tội. Một hoang địa biến thành địa đàng là một hình ảnh ngôn sứ Isaia dùng để mô tả ơn cứu độ (x. Is 11,6-9; 32, 14-20; 65,25).

Không như dân Israel ngày xưa, Đức Giêsu sống một mình khi ở trong hoang địa. Thông thường, sự cô độc này hẳn là dấu chứng tỏ một người điên hoặc bị quỷ ám. Tuy nhiên, các thiên thần là dấu chỉ Đức Giêsu luôn quan hệ với Thiên Chúa: cho dù không có loài người, Con Thiên Chúa có thể cậy dựa vào sự hỗ trợ của Thiên Chúa. Tác giả Mc đã nói vắn tắt về Satan khiến các học giả đi đến nhiều kết luận. Một số vị cho rằng Đức Giêsu bị khép vào tình trạng xung đột với Satan xuyên suốt tác phẩm. Tuy nhiên, Satan không mấy khi xuất hiện trong phần Tin Mừng còn lại như tác nhân cám dỗ. Đức Giêsu mau chóng chứng tỏ Người có khả năng xua đuổi bất cứ thứ quỷ nào. Do đó, rất có thể Mc nhắm cho độc giả nghĩ rằng Đức Giêsu đã phá vỡ quyền lực Satan trước khi sứ vụ của Người bắt đầu.

* Khởi đầu hoạt động rao giảng của Đức Giêsu tại Galilê (14-15)

Trước khi ghi nhận các chi tiết thuộc về đời sống công khai của Đức Giêsu, Mc tóm tắt hoạt động của Người bằng cc. 14-15. Biến cố Gioan Tẩy Giả bị bắt đã kết thúc hoạt động của ông. Đức Giêsu, trước đây đã được Gioan ban phép rửa cho (1,9-11), nay trở lại Galilê và tại đó, Người bắt đầu công trình của Người. Sứ điệp Người phải truyền đạt được xác định ngay từ đầu là Tin Mừng của Thiên Chúa: Tin Mừng đến từ Thiên Chúa và Tin Mừng nói về Thiên Chúa. Đây là Tin Mừng tuyệt hảo được Thiên Chúa thông ban cho ta và nói với ta về tương quan Người muốn thiết lập với ta. Đức Giêsu cho biết rằng những gì Thiên Chúa đã hứa, nay đang trở thành hiện thực. Thời gian đang khởi đầu với lời loan báo và hoạt động của Đức Giêsu là thời gian của sự hoàn tất, thời gian của hoạt động đặc biệt của Thiên Chúa. Tất cả những điều này khiến chúng ta vui mừng và tin tưởng.

+ Kết luận

Không giống như TM Mt (4,1-11) và Lc (4,1-13), TM Mc không giải thích cách thức Satan cám dỗ Đức Giêsu trong hoang địa. Các câu chuyện Israel đi trong hoang địa, cũng như Ađam và Evà ở trong vườn là những ví dụ về thế nào là bị cám dỗ và sa ngã. Những câu chuyện về Môsê và Êlia là những thí dụ về thế nào là bị thử thách và đứng vững. Nếu tin tưởng vào Lời Chúa thì đứng vững; nếu không tin tưởng vào Lời Ngài thì sẽ sụp đổ. Đức Giêsu luôn trung thành với Thiên Chúa, do đó, dã thú sống hoà bình với Người, còn các thiên thần thì hầu hạ Người.

Muốn chuẩn bị lòng trí đón Chúa đến, người ta phải triệt để quay về với Thiên Chúa, phải cậy dựa vào Lời Chúa.

5.- Gợi ý suy niệm

1. Người Kitô hữu chọn Đức Kitô và xin chịu phép rửa tội, thì chia sẻ số phận của Đức Kitô; người ấy sẽ bị Satan cám dỗ. Tuy nhiên, người ấy cũng sẽ được hỗ trợ bởi chính Đức Kitô và các thiên thần của Người.

2. Vì Tin Mừng Đức Giêsu mang đến là Tin Mừng tuyệt hảo, Tin Mừng này là nền tảng cho niềm vui và sự tin tưởng của chúng ta. Ai đón tiếp Tin Mừng này và lưu tâm nghiền ngẫm, thì biết rằng Thiên Chúa ở gần bên để ban ơn cứu độ.

3. Thời kỳ Đức Giêsu loan báo liên hệ với các lời Thiên Chúa hứa trong Cựu Ước: Thiên Chúa trung thành với lời hứa. Do đó, chúng ta vui mừng, tin tưởng và yên tâm ký thác cho Thiên Chúa. Nhưng thời kỳ này chỉ là thời kỳ chan hòa niềm vui cho ai biết nhận định như thế, và có một thái độ thích hợp: “sám hối và tin vào Tin Mừng”, tức là biết chọn lựa.

4. Thiên Chúa là Chúa Tể chứ không phải là nô lệ của chúng ta; chúng ta không thể coi Người như ngang vai; chúng ta không thể áp đặt cho Người bất cứ chuyện gì. Người có tất cả mọi quyền bính và sức mạnh; Người quyết định và quy định. Bởi vì Thiên Chúa là Chúa Tể chân thật duy nhất, chúng ta được tự do đối với mọi chúa tể và quyền lực khác. Sứ điệp nói rằng Thiên Chúa là Chúa Tể là sứ điệp về sự giải phóng cơ bản của chúng ta. Mọi chúa tể và quyền lực khác được trả về đúng chiều kích của họ.

5. Thiên Chúa là Chúa Tể mọi nơi mọi lúc, nhưng quyền chủ tể của Người có thể ở trong tình trạng giấu ẩn, rất khó nhận ra, đến nỗi người ta có thể nghĩ rằng Thiên Chúa và Triều Đại Người không hiện hữu. Để có thể nhận ra quyền chủ tể của Thiên Chúa, cần phải có đức tin, rồi khám phá ra dần nơi lối cư xử của Đức Giêsu: nơi Người, chúng ta được mạc khải cho biết Thiên Chúa đến gần chúng ta như thế nào với Triều Đại của Người và các hoa trái của Triều Đại Người.

 

70.Chúa Nhật 1 Mùa Chay

(Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux)

CÁM DỖ TRONG HOANG ĐỊA (1,12-13)

Khác nào một tia sáng lóe rạng, trình thuật phép rửa vừa chấm dứt, Maccô liền cho ta thấy Chúa Giêsu tiến vào một cảnh vực tối tăm. “Thánh Thần liền thúc đẩy Người vào hoang địa”. Chúng ta cần nhờ chính Thánh Thần của Thiên Chúa mà Chúa Giêsu vừa lãnh nhận lại lôi kéo Ngài vào hoang địa. Hoang địa nào? Có lẽ là hoang địa Giuđê, nơi ông Gioan Tẩy Giả xuất hiện (1,4). Nhưng vấn nạn chính yếu là: tại sao lại vào hoang địa? Hậu cảnh của việc đổi đời này ta gặp thấy trong lịch sử Israel, nhân cuộc Xuất hành. Khi ra khỏi Ai Cập, người Do Thái tiến vào hoang địa Sinai. Và ở đó họ đã gặp những thử thách cam go về lòng trung thành với Thiên Chúa (x. Xh 16,1-4; 17,1-17). Về phần mình, chết được thúc đẩy làm lại tiến trình thiêng liêng của dân Thiên Chúa. Việc Ngài đem dìm mình trong nước sông Giođan nhắc lại cuộc dân Israel băng qua Biển Đỏ (Xh 13,17-14,31). Được Thánh Thần thúc đẩy vào hoang địa, Chúa Giêsu gặp lại nơi đó những “cám dỗ” mà Israel xưa kia đã phải chịu trong hoang địa Sinai. Như vậy, khác nào một Môsê mới, Chúa Giêsu hoàn tất cuộc Xuất hành mới: nơi bản thân trung tín của Ngài đã hình thành dân mới của Thiên Chúa.

“Người ở đó bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ” (c.13a), nửa câu ngắn ngủi này rất có ý nghĩa. Đúng là một nhắc nhở về việc Chúa Giêsu cũng chịu cám dỗ như Israel xưa kia. Con số “bốn mươi” làm ta liên tưởng thời gian người Do Thái lưu lạc trong hoang địa (Đnl 8,2). Nhất là, như Maccô nhấn mạnh, Chúa Giêsu chịu Satan cám dỗ trong đó, Satan xưng danh mà Thánh Kinh (từ thời Gióp, G 1,6) gán cho tên thù bí nhiệm, kẻ chống đối việc thiết lập Vương Quốc Thiên Chúa. Ta sẽ thấy Chúa Giêsu đối đầu với hắn trong các vụ trừ quỷ sau này (x.3,22-23). Ở đây, Maccô là tác giả Tin Mừng duy nhất giữ kín nội những cám dỗ Chúa Giêsu phải chịu (x.Mt 4,1-11 và Lc 4,1-13). Từ đó Maccô mời gọi độc giả tìm coi lại những cám dỗ mà Chúa Giêsu đã gặp trong suốt thời gian Ngài thi hành sứ vụ. Ta thấy nhiều lần Ngài đã bị khuyến dụ dùng quyền năng Thiên Chúa nơi mình để thiết lập Vương Quốc một cách huy hoàng đắc thắng (x.8,11-13.31-33; 12,13; 14,38; 15,29-32). Trong mỗi dịp có thể biểu lộ thần tính huy hoàng như thế, Chúa Giêsu đều tỏ ra khiêm tốn suy phục Chúa Cha. Như vậy không phải là ngẫu nhiên khi Maccô kết thúc trình thuật ngắn ngủi này bằng cách cho ta thấy Chúa Giêsu chiến thắng trước quyền lực của thần Dữ.

“Người sống giữa loài dã thú…” (c.13b). Ở một nơi đặc biệt nguy hiểm, sự gần gũi giữa con người và thú hoang nói đây làm ta nghĩ tới cảnh thân thiện của thời đại “Mêsia” đã được Isaia mô tả: “Chó sói ở với chiên, beo xám bên cạnh dê con, bê với sư tử được nuôi chung một chuồng, và một em bé dẫn chúng đi chăn” (11,6).

“Và các thiên sứ hầu hạ Người” (c. 13b). Câu này muốn nói đến sự hiện diện của Thiên Chúa. Như vậy, Đấng Mêsia được coi như Con Người mới, sống trong mối giao hảo toàn vẹn với đất trời. Câu kết này của phần nhập đề nói lên một ngụ ý sâu xa. Ở chính nơi, tức hoang địa, mà Israel đã thất trung với Thiên Chúa, thì Chúa Giêsu, vị mục tử dân mới của Thiên Chúa sẽ trọn vẹn trung thành.

Qua những hoạt cảnh nối tiếp nhau tuy vắn gọn nhưng giàu ý nghĩa, toàn thể đoạn văn 1,2-13 làm ta có cảm tưởng như đó là khúc mở màn, khi buổi hòa tấu chưa khởi sự, dàn nhạc tuần tự chơi những điệu chính mà các nghệ sĩ độc tấu và ca đoàn sẽ lặp lại và khai triển qua suốt buổi trình diễn. Lời mở đầu này giống như một “bản liệt kê các chủ đề” của toàn bộ cuốn Tin Mừng. Nốt chủ âm đã được xướng lên. Buổi trình diễn có thể bắt đầu.

TIN MỪNG CỦA THIÊN CHÚA (1,14-15)

Hai câu này khác nào một “bản tóm lược”: một cái nhìn bao quát về sứ vụ của Chúa Giêsu như sẽ diễn ra các trình thuật tiếp theo. Maccô đặt Chúa Giêsu trong khuôn khổ những sinh hoạt chính yếu của Ngài tóm lược sứ vụ của Ngài cách thật cô đọng.

Mọi từ trong đoạn văn đều đáng quan tâm (c.14a). Chúng được cân nhắc cẩn thận. Trước hết ta được cho hay rằng Chúa Giêsu chỉ khởi đầu sứ vụ khi Gioan chấm dứt sứ vụ của ông và bị bắt giam. Như vậy là có một mối tương quan giữa sứ vụ của hai người. Maccô không nói Chúa Giêsu từ hoang địa Giuđa trở về (1,12). Không một chuyển tiếp nào cả, ông cho thấy ngay Chúa Giêsu đi tới Galilê. Đó là tỉnh miền Bắc xứ Palestin, nơi Chúa Giêsu sinh trưởng (x. Lc 4,14-16). Nhưng nhất là vì danh xưng Do Thái của nó, “Galilê” là “miền đất ngoại bang” (Is 8,23). Từ nhiều thế kỷ đây là ngã ba đường của các dân tộc. Vì những đoàn quân ngoại quốc và các thương gia đều phải qua lại nơi này, nên Galilê là vùng đất chung đụng từ xưa giữa những người Do Thái và dân ngoại. Trong Tin Mừng Maccô, Chúa Giêsu sẽ coi vùng đất này như một trung tâm “truyền giáo” tuyệt hảo. Vì ranh giới của miền này không rõ ràng nên người Israel dễ có liên hệ với những vùng đất dân ngoại bao quanh: phía bắc có Tia và Siđon, Syrô-Phênêci (bây giờ là Libăng), phía nam có miền Thập tỉnh (bây giờ là Gioocđani). Khi coi Galilê là địa bàn hoạt động chính của Chúa Giêsu, Maccô muốn nhấn mạnh rằng lời ngôn sứ mang tính phổ quát về Đấng Mêsia trong Isaia đã ứng nghiệm: “Dân đi trong bóng tối đã nhận thấy ánh sáng rạng ngời, trên dân cư của xứ sở một luồng sáng đã bừng lên” (Is 8,23-9,1).

Trong miền đất Galilê này, Chúa Giêsu khởi sự “rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa” (c. 14b). Đó là lời loan báo ơn cứu độ “đến” từ Thiên Chúa. Chúa Giêsu mang theo với Ngài “Tin Mừng” này (1,1). Các độc giả của Maccô hiểu rất rõ diễn ngữ “rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa”. Đó là nhiệm vụ các Tông đồ đã lãnh nhận sau khi Chúa Giêsu Phục Sinh (1Tx 2,8). Nhiệm vụ này là làm cho mọi người biết rằng Chúa Giêsu đã tỏ mình ra là Đấng Mêsia và là Con Thiên Chúa được các ngôn sứ loan báo. Chính Ngài là “Đấng Cứu độ trần gian” (Ga 4,42).

Tiếp theo, Maccô tóm lược trong hai câu đề tài căn bản trong lời công bố của Chúa Giêsu. Trước hết loan báo rằng giờ thi hành sứ vụ đã đến (c. 15a), nơi các Kitô hữu tiên khởi, thành ngữ “thời kỳ đã mãn” đã trở thành cổ điển. Nó có nghĩa là khi Chúa Giêsu đến là “thời gian đã đầy đủ” (Gl 4,4). Ý muốn cứu độ của Thiên Chúa đã hoàn thành nơi Chúa Giêsu: Ngài là Đấng Mêsia đã đến để đưa lịch sử tới hồi chung cuộc “Nước Thiên Chúa đã đến gần” cũng là một xác tín của Thánh Kinh. Từ ngày thoát khỏi cảnh lưu đày ở Babilon, Israel đặt tất cả hy vọng vào việc Thiên Chúa đích thân ngự đến và việc thiết lập Vương Quốc Ngài trên mọi dân tộc. Nơi các ngôn sứ lòng mong đợi này càng khẩn thiết hơn (Mi 4,7; So 3,15b; Za 14,9 v.v…). Với Chúa Giêsu, Thiên Chúa hiện diện đang đích thân hoạt động. Vương Quốc Ngài đã gần kề (Mt 12,28b).

Và Maccô kết thúc bản tóm tắt sứ điệp của Chúa Giêsu bằng cách đặt nơi miệng Ngài một lời kêu gọi cấp bách phải hoán cải để đón nhận trong đức tin biến cố hân hoan này (c.15b). Hoán cải –theo sát tiếng Hy Lạp- có nghĩa là “thay đổi não trạng”. Việc biến đổi này, một biến đổi cốt yếu nơi con người để trở lại với Thiên Chúa, cũng chính là nền tảng trong lời giảng dạy của các ngôn sứ (Am 4,6-12). Ở đây, Chúa Giêsu lặp lại một điểm nòng cốt trong sứ điệp của Gioan Tẩy Giả (1,4). Nhưng cùng với sự hoán cải cần phải có “niềm tin” vào Tin Mừng. Đó cũng là lời mời gọi của các Tông đồ khi lần đầu tiên các ngài công bố sự kiện Chúa Giêsu Phục Sinh. Phaolô đã làm thế ở Ephêsô: “Tôi kêu nài những người Do Thái và Hy Lạp trở lại với Thiên Chúa và tin vào Chúa Giêsu” (Cv 21,21).

Không phải là ngẫu nhiên, nếu ở đây Maccô nhấn mạnh tới mối liên tục giữa sứ vụ của Giáo Hội và sứ vụ của Chúa Giêsu. Giữa hai sứ vụ này là cuộc sống, cái chết và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu. Người loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa lại trở nên chính đối tượng của lời loan báo. Điều này không thể không gây ấn tượng nơi độc giả.

 

71.Chúa Nhật 1 Mùa Chay

(Chú giải của Fiches Dominicales)

SAU KHI CHỊU THỬ THÁCH VÀ CHIẾN THẮNG, ĐỨC GIÊSU KHỞI ĐẦU SỨ MẠNG TRUYỀN GIÁO Ở GALILÊ

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI

1) Thần Khí đẩy Người vào hoang địa.

Mỗi năm cứ đến Chúa nhật thứ I Mùa Chay chúng ta lại đọc tường thuật về cuộc Cám dỗ của Đức Giêsu. Matthêu và Luca trình bày giai thoại này như một cuộc đọ sức mà hai bên dùng lời Cựu ước để tranh thắng bại, giữa Đức Giêsu và Tên Cám Dỗ. Còn về phần Máccô, ông đã khôn khéo tóm lược trong hai câu, vừa ngắn gọn lại vừa đầy đủ.

Đức Giêsu vừa đến xin Gioan Tẩy Giả làm phép rửa ở sông Giođan. Ở đó Người đã được thánh hiến để làm Đấng Mêsia Vua và làm người Tôi Tớ của Thiên Chúa. "Đây là Con Ta yêu dấu”, tiếng từ đám mây đã tuyên phán như vậy, "trong Người, Ta được hài lòng”. Là Môsê mới, Người đã băng qua nước thuộc về một cuộc xuất hành mới. Người được giao trọng trách tụ họp một dân mới để dẫn họ về đất hứa; Người đã nhận lãnh Thần Khí là quyền năng của Thiên Chúa để chu toàn trọng trách đã nhận.

Máccô viết tiếp: Chính Thánh Thần liền đẩy Người vào hoang địa.

+ "Liền": Còn cách nào nhấn mạnh mối tương quan giữa phép rửa và cuộc thử thách hơn thế? Nào ta có thể cảnh báo những ai đã chịu thanh tẩy hoặc những dự tòng đang chuẩn bị để lãnh bí tích này một cách rõ ràng hơn, rằng họ đừng ngạc nhiên khi họ phải đương đầu với thử thách?

+ "Thần Khí đẩy Người vào hoang. địa", nếu dịch nguyên văn thì phải viết: "ném người vào hoang địa”, giống như dân Israel thuở xưa, khi được lôi ra khỏi cảnh nô lệ Ai Cập, đã bị ném ra ngoài, bị xua đuổi đi (Xh 6,1; 11,1; 12,33).

Tại sao lại vào "sa mạc"? - Thưa bởi vì theo truyền thống Kinh Thánh, hoang địa nơi thử thách cũng là nơi con tim Thiên Chúa và lòng tin con người được bộc lộ, nơi khởi đầu mọi sự; nơi thiết lập Giao ước.

J. Potin viết: "Đối với người Do Thái thì hoang địa là nơi thử thách ròng rã 40 năm dài. Dân Israel lâm vào một cuộc chiến không ngừng là chọn giữa Thiên Chúa thật, Đấng vừa cứu họ khỏi ách nô lệ và tự mạc khải ở núi Sinai, với bên kia là những tà thần, nào là của Ai Cập, nào là của những dân ở Canaan, những thần mà lúc nào họ cũng muốn chạy theo. Đức Giêsu không thoát khỏi cuộc thử thách này. Thử thách bắt buộc người, Vị được chọn của Thiên Chúa, phải lựa chọn một lần dứt khoát, cái lựa chọn sẽ dẫn Người đến con đường thảm kịch. Trong hoang địa, cái đói cái khát làm nổi lên trước mắt những vùng sáng chói ngời, đó có thể là những ảo ảnh, mà cũng có thể là dân Hứa. không ai có thể chọn trải qua cuộc chiến như thế, nếu không là kẻ tự phụ. Người ta bị Thần Khí đẩy vào, như Máccô đã viết, Thần Khí sức mạnh của Thiên Chúa từ nay được che giấu sâu kín trong ý chí và trong con tim" ("Jésus, l'histoire vraie", Centurion, trang 114).

2) Đức Giêsu đối đầu và toàn thắng thử thách.

“Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ”, Máccô viết tiếp.

"Bốn mươi": đối với người am hiểu Kinh Thánh đây là một con số mang nặng ý nghĩa: con số tượng trưng sửa soạn cho một cuộc khởi đầu mới. Nước Đại hồng thuỷ đã tràn ngập mặt đất suốt 40 ngày và 40 đêm, trước khi Thiên Chúa lập giao ước với ông Noe và dòng dõi. Trong 40 ngày và 40 đêm, ông Môsê chuẩn bị trên núi Sinai lãnh nhận Lề luật của Giao ước trước khi truyền lại cho dân. Trong suốt 40 năm, dân Israel được Thiên Chúa gỡ cho khỏi ách nô lệ Ai Cập đã dong duỗi hành trình trong hoang địa trước khi vào được Đất Hứa. Cũng trong 40 ngày và 40 đêm, ngôn sứ Êlia đã đi bộ về núi Horép, núi của Thiên Chúa, để ở đó lãnh nhận sứ mạng tái lập giao ước.

Ở đây thánh ký Máccô tỏ cho ta thấy rằng một khởi đầu mới đã khai mào. Đức Giêsu đã muốn làm lại cuộc hành trình do chính bản thân, cuộc hành trình thiêng liêng của dân Người; Người chiến thắng những cám dỗ mà xưa kia dân Israel đã bị thất bại trong hoang địa, với vai trò Môsê mới, Người đi đầu dẫn dắt dân mới về Đất Hứa.

- Trong Tin Mừng của ông, Máccô cũng không quên nhấn mạnh cám dỗ, mà Đức Giêsu phải liên lỉ đương đầu, là dùng quyền năng thần thiêng để áp đặt vương quốc Thiên Chúa. Ong tuy chỉ nhắc đến bằng một câu hết sức sơ sài; ông viết: "Người chịu Satan cám dỗ ".

Rồi bằng một câu ngắn, ông công bố cuộc khải hoàn của Đức Giêsu trên quyền lực của sự dữ:

- "Người sống giữa loài dã thú". Đó là một cách tuyên bố rằng Đức Giêsu khánh thành thời đại cứu thế, mà ngôn sứ Isaia nói đến: "sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ, bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau, một cậu bé sẽ chăn dắt chúng" (Is 11,6).

+ "Và có các thiên sứ hầu hạ Người". Một kiểu nói của Máccô ám chỉ sự trợ giúp thần thiêng dành cho người mà trong gian nan thử thách đã đặt hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chua. Ở trong Cựu ước - Matthêu và Luca trong tường thuật song hành đã trich dẫn rõ ràng Thánh vịnh 90: "Người truyền cho thiên sứ và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng cho bạn khỏi vập chân vào đá”.

J. Hervieux kết luận: Đấng Mêsia xuất hiện như một Con Người mới, sống hoà hợp tuyệt vời với trời cao cũng như đất thấp. Câu kết của đoạn Dẫn Nhập nay nói lên rất nhiều điều. nơi mà Israel đã tỏ ra bất trung với Thiên Chúa, thì Đức Giêsu, vị Chủ lại của dân mới, đã tỏ ra thái độ trung thành tuyệt hảo" (L’Evangile de Marc", Centurion, trang 25).

3) Khai mạc sứ mạng của Người ở Galilê.

Thế giới mới mà Đức Giêsu vừa khai mở do toàn thắng Satan trong cuộc thử thách nơi hoang địa, bây giờ Người công bố bằng lời nói và bằng hành động.

Máccô nêu rõ, Đức Giêsu bắt đầu sứ mạng của người. “Sau khi ông Gioan bị nộp" để nói lên sự liên tục của sứ mạng Người với sứ mạng của Gioan.

"Người đến miền Galilê”, là quận của dân ngoại, là miền đất cư ngụ người Do Thái pha trộn người dân ngoại, là tỉnh bị Giêrusalem coi khinh.

Người công bố khai mạc thời đại mà những loan báo của các tiên tri được thực hiện. Giờ đây Thiên Chúa bắt đầu hoạt động ra tay, Vương quốc của Người đã đến gần: "Thời kỳ đã mãn và Triều đã Thiên Chúa đã đến gần”? Người ta cần phải thống hối ngay để đón nhận biến cố hồng phúc này trong đức tin: "Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”.

BÀI ĐỌC THÊM.

Một cuộc lật ngược ngoạn mục, chỉ bằng 1 câu văn.

(H.Vulliez, trong cuốn ~dieu si proche, Năm B" Brouwer, trang 34).

Thánh ký Máccô chỉ dùng một câu văn mà trình bày được một cuộc lật ngược ngoạn mục: một Đức Giêsu bị cám dỗ trong hoang địa, trở thành một Đức Giêsu sáng ngời trong một vũ trụ hoà hợp và xinh đẹp. Đó là tạo thành mà Thiên Chúa yêu quý. Một Đức Giêsu toàn thắng sự dữ, trong một thế giới được hoà giải với chính mình và với Thiên Chúa. Ở đó ta tìm thấy toàn bộ Kinh Thánh, toàn bộ lịch sử nhân loại, chỉ trong vài hàng chữ đầy kỷ niệm, ta thấy nổi lên nguồn hy vọng vượt khỏi tầm mức con người.

Đức Giêsu ở trong hoang địa 40 ngày chịu sa tan cám dỗ. Thế rồi, báo trước buổi bình minh vượt qua, Người sống an hoà với mãnh thú, và các thiên sứ từ trời xuống hầu hạ Người. Hoang địa, một vùng đất mênh mông đầy thế lực thù nghịch. Cuộc sống luôn bị thần chết đe doạ. Đức Giêsu là Thiên Chúa làm người đến để lật ngược tình thế: là trả lại cho Thiên Chúa và cho vũ trụ đã ra méo mó, dung mạo của Thiên Chúa. Thần Khí bay lượn trên miền đất khô ráo và kìa Đấng Hằng Sống chỗi dậy trong một khu vườn xanh tươi và nở đầy bông. Bức phù điêu khắc hình Ađam đã lật sang mặt kia có hình Đức Kitô. Địa đàng đã không bị mất phía sau mình. Mà nó đang ở phía trước, người ta phải tìm kiếm thì mới tìm thấy, nhờ cộng tác với Đức Giêsu và nhận Thần Khí.

Chúng ta đang sống trong Mùa Chay, 40 ngày sa mạc để được quyến rũ và lôi kéo bởi niềm hy vọng mãnh liệt, hy vọng rằng mọi vật trong vũ trụ sống hoà hợp trong Đức Kitô, tuy chưa hoàn tất; nhưng đang hoạt động rồi.

 

72.Chúa Nhật 1 Mùa Chay

(Chú giải của William Barclay)

THỜI GIAN CHỊU THỬ THÁCH (1,12-13)

Giờ vinh quang của phép rửa qua chưa được bao lâu, tiếp đến là chiến trận của cám dỗ. Có một điểm nổi bật ở đây hết sức sống động mà ta không thể bỏ qua. Chính Thần Khí đã giục Chúa Giêsu vào hoang địa để trải qua thử thách. Chính Thần Khí vừa ngự xuống trên Ngài lúc chịu phép rửa đã đưa Ngài vào hoang địa.

Sống trên đời, chúng ta sẽ không thể nào tránh được việc tấn công của cám dỗ, nhưng điều chắc chắn là những cám dỗ không nhằm khiến chúng ta phải sa ngã. Chúng đến nhằm củng cố các gân cốt của trí tuệ, tấm lòng và linh hồn chúng ta. Chúng không được đưa đến nhằm làm hại, hủy diệt chúng ta, nhưng nhằm đem lợi ích cho chúng ta. Chúng là những phương tiện thử nghiệm để khi ra khỏi đó, chúng ta sẽ trở thành những chiến sĩ, những lực sĩ thiện chiến hơn, mạnh mẽ hơn của Chúa. Giả sử có một thanh niên chơi túc cầu thật hay trong đội dự bị và thấy nhiều triển vọng, người huấn luyện của cậu sẽ làm gì đây? Chắc chắn ông không xếp cậu đá cho đội hạng bét để suốt trận cậu chẳng cần đổ mồ hôi, nhưng ông sẽ xếp cậu đá cho đội tuyển chính thức để cậu phải chịu thử thách như chưa bao giờ chịu thử thách trước đó, để cậu có cơ hội chứng tỏ chính mình. Đó là mục đích mà cám dỗ nhắm vào, đó là cơ hội tạo cho chúng ta tự chứng minh nhân cách của mình để khi ra khỏi đó, được vững vàng, mạnh mẽ hơn cho cuộc chiến đấu.

Bốn mươi ngày là một cụm từ không nên hiểu theo nghĩa đen. Người Do Thái thường dùng từ ấy chỉ một thời gian đáng kể. Môsê đã lên đỉnh núi với Chúa bốn mươi ngày (Xh 24,18). Sau khi được bữa ăn của Thiên Sứ, Êlia đã có sức để đi trong bốn mươi ngày (IV 19,8). Người Do Thái không dùng câu bốn mươi ngày theo nghĩa đen, nhưng nhằm chỉ một thời gian tương đối dài.

Chính quỷ Satan đã cám dỗ và thử thách Chúa Giêsu. Quan niệm về quỷ Satan rất lý thú, đáng cho chúng ta chú ý.

Từ Satan trong Hy văn chỉ có nghĩa đơn là kẻ chống đối, kẻ thù. Trong Cựu Ước nó vẫn được dụng nhiều lần theo nghĩa là những kẻ thù thông thường, những người chống đối. Vị thiên sứ của Chúa là Satan đứng chặn đường Balaam (Ds 22,22). Dân Philitinh sợ rằng Đavít có thể trở thành Satan của họ (2Sm 29,4). Đavít xem Abisai như Satan của mình (2Sm 19,22). Salômôn tuyên bố rằng Thiên Chúa đã cho ông hòa bình, thịnh vượng đến nỗi nhà vua không còn Satan nào chống lại mình nữa (1V 5,4). Ban đầu từ ấy chỉ có nghĩa là kẻ thù, nhưng dần dần có thêm nghĩa là kẻ kiện cáo người khác. Chính theo nghĩa ấy, chữ Satan đã được dùng ở Gióp 1. Cần ghi nhận rằng trong chương đó, Satan chính là một trong những con cái của Chúa (G 1,6), nhưng công tác đặc biệt của Satan là soi mói con người (G 1,7) để tìm dịp kiện cáo họ trước mặt Chúa. Việc làm của Satan là kiếm đủ thứ chuyện để sống.

Một danh hiệu khác nữa của Satan là ma quỷ, từ ma quỷ vốn do từ Hy văn diabolos, nghĩa đen là kẻ nói hành. Từ ý nghĩa là kẻ kiếm chuyện để chống lại một người đến ý nghĩa là kẻ cố ý và quỷ quyệt nói hành, nói xấu một người trước mặt Thiên Chúa chỉ là một bước ngắn. Nhưng trong Cựu Ước, Satan hãy còn là một sứ giả của Chúa, chứ chưa phải là kẻ thù quỷ quyệt số một của Ngài, nó chỉ là kẻ thù của loài người mà thôi.

Rồi vẫn còn thêm ý nghĩa hiểu về Satan. Sau khi bị lưu đày, dân Do Thái học hỏi được một số tư tưởng của Ba Tư. Tư tưởng của Ba Tư được đặt trên quan niệm cho rằng trong vũ trụ này có hai thế lực, một thế lực của ánh sáng và một thế lực của tối tăm –Orrnuzd và Ahriman- một thế lực của điều thiện và một thế lực của điều ác. Toàn thể vũ trụ là bãi chiến trường của chúng và loài người phải chọn đứng về phe nào trong cuộc tranh chấp ấy. Thật ra người ta nhình biết và cảm thấy cuộc đời là như vậy. Tóm lại, trên đời này có Chúa và kẻ thù của Ngài. Hầu như không thể nào mà không hiểu Satan là kẻ thù số một, tiêu biểu cho mọi thù địch. Đó chính là ý nghĩa của tên nó, loài người luôn luôn hiểu về nó như thế, Satan đã trở thành kẻ chống nghịch Thiên Chúa.

Trong Tân Ước, chúng ta thấy ma quỷ hay Satan ẩn mình phía sau bệnh tật và đau khổ của con người (Lc 13,16). Chính Satan đã quyến rũ Giuđa (Lc 22,3), ma quỷ là kẻ chúng ta phải chống lại (1Pr 5,8.9; Gc 4,7), chính quyền lực của ma quỷ bị công việc của Chúa Cứu Thế đập tan (Lc 10,1-19), chính ma quỷ đã bị hủy diệt hoàn toàn vào ngày sau cùng (Mt 25,41). Satan là thế lực chống lại Thiên Chúa.

Ở đây, chúng ta có câu chuyện về cám dỗ, Chúa Giêsu cần quyết định phải là công việc của mình như thế nào. Ngài biết rằng đây là một công việc phi thường và Ngài cũng ý thức đến những quyền lực phi thường. Thiên Chúa Cha đã phán với Ngài “Hãy đem tình yêu của ta đến cho loài người, hãy yêu thương họ đến nỗi con sẽ vì họ mà chịu chết, hãy chinh phục họ bằng tình yêu thương không gì chiến thắng được, cả khi con phải kết thúc nó trên Thập giá”. Quỷ Satan bảo với Chúa Giêsu “Hãy dùng quyền phép của người để quét sạch loài người, hãy tiêu diệt các kẻ thù của ngươi, hãy chiếm lấy thế gian này bằng sức mạnh, quyền phép và làm đổ máu”. Thiên Chúa phán với Chúa Giêsu “Hãy thiết lập vương quyền bằng tình yêu”, Satan bảo Ngài “Hãy thiết lập một chế độ độc tài bằng bạo lực” Chúa Giêsu đã phải chọn giữa phương pháp của Thiên Chúa và đường lối của kẻ thù Thiên Chúa.

Câu chuyện ngắn gọn của Maccô kể lại về cám dỗ đã chấm dứt bằng hai nét sống động.

1/ Có thú rừng ở chung với Ngài. Trong vùng hoang địa có beo, gấu, heo rừng, chó rừng lang thang khắp nơi. Người ta thường cho rằng đó là những chi tiết sống động làm cho thêm vẻ đen tối, ghê rợn của khung cảnh. Nhưng sự thật không phải vậy, đây là một điều hết sức đẹp đẽ vì nó có thể có ý nghĩa là các thú dữ đã đến để kết bạn với Chúa Giêsu. Trong giấc mơ của dân Do Thái về hoàng kim thời đại, họ vẫn mơ có một ngày nào đó, sự thù địch giữa loài người và loài vật không còn nữa “trong ngày đó Ta sẽ vì chúng mà lập Giao Ước cũng những thú đồng, chim trời và côn trùng trên đất” (Os 2,18), “bấy giờ muông sói sẽ ở với chiên, beo nằm với dê, trẻ con đương bú sẽ chơi kề bên rắn hổ mang, trẻ con thôi bú sẽ thò tay vào hang rắn lục, nó chẳng làm hại, chẳng giết ai trong cả núi thánh của Ta” (Is 11,6-9). Sau này, chúng ta thấy Thánh Phanxicô đã giảng cho thú vật. Rất có thể ở đây cho chúng ta được nếm trước vẻ đẹp của thời kỳ mà con người và loài thú sẽ sống hòa bình với nhau. Chúng ta được thấy bức tranh trong đó loài thú nhận biết trước loài người rằng Ngài sẽ là bạn và là Vua của chúng.

2/ Có thiên sứ hầu Ngài. Trong lúc thử thách bao giờ cũng có sự thêm sức của Chúa. Lúc Êlisê và đầy tớ ông bị kẻ thù bao vây tại Đôtha và dường như chẳng còn đường nào thoát được. Êlisê đã xin Chúa mở mắt cho đầy tớ ông và chàng thanh niên ấy thấy chung quanh có những ngựa và xe bằng lửa của Chúa (2V 6,17). Chúa Giêsu đã không bị bỏ mặc một mình để chiến đấu trong cô đơn, và chúng ta cũng vậy.

SỨ ĐIỆP PHÚC ÂM (Mc 1,14-15)

Trong bảng tóm tắt sứ điệp của Chúa Giêsu trên đây, có ba chữ vốn là những chữ quan trọng trong đức tin Kitô giáo.

1/ Có Tin Mừng. Đó là Tin Mừng ưu việt mà Chúa Giêsu đã đem đến cho loài người. Theo dõi từ euaggelion, Phúc âm, qua suốt Tân Ước, ít ra chúng ta cũng thấy được điều gì đó trong nội dụng của nó.

(a) Đó là Tin Mừng chân lý (Gl 2,5; Cl 1,5). Trước khi Chúa Giêsu đến, loài người chỉ phỏng đoán, mò mẫm để tìm Thiên Chúa. Gióp từng than thở “Ôi chớ chi tôi biết nơi nào tìm được Chúa” (G 23,3). Marcus Aurelius bảo linh hồn chỉ có thể nhìn thấy lờ mờ, và chữ ông dùng là một chữ Hy Lạp chỉ về việc trông thấy xuyên qua nước. Nhưng khi Chúa Giêsu đến, người ta thấy rõ ràng Thiên Chúa là thế nào. Họ không còn cần phỏng đoán, mò mẫm nữa, họ biết rõ.

(b) Đó là Tin Mừng hy vọng (Cl 1,23). Thế giới thời cổ là một thế giới bi quan, Seneca đề cập về “sự bất năng, bất lực của chúng ta là điều tất yếu”. Trong cuộc chiến đấu cho điều thiện, loài người đã bị đánh bại và Chúa Giêsu đến đem hy vọng cho những tâm hồn tuyệt vọng.

(c) Đó là Tin Mừng bình an (Ep 6,15). Hình phạt dành cho con người là một nhân cách bị rạn nứt, giằng xé trong nội tâm. Trong nhân tính, con thú và thiên thần bị hòa lẫn vào nhau một cách quái dị. Người ta kể rằng có lần triết gia đi qua Schopenhauer, đang đi lang thang, có người hỏi: Ông là ai? Ông đáp: Tôi hy vọng ông có thể nói cho tôi biết. Còn Robert Burns tự nói về mình “Cuộc đời của tôi làm cho tôi nhớ lại một ngôi đền đã đổ nát. Ở một phần thì thật vững chắc, cân đối, nhưng ở những phần khác thì đầy lỗ hổng và những cảnh đổ nát hư hại tuyệt vọng”. Cái rắc rối nơi con người luôn luôn bị cả tội lỗi lẫn sự thiện ám ảnh. Chúa Giêsu đã đến để kết hợp phần nhân cách bị tách rời đó của con người lại với nhau, Ngài đã chiến thắng bản ngã để giúp kẻ được Ngài chinh phục, chiến thắng được phần bản ngã đang tranh chiến của mình.

(d) Đó là Tin Mừng về lời hứa của Thiên Chúa (Ep 3,6). Nói đúng ra, thì loài người luôn luôn nghĩ về một Thiên Chúa đầy đe dọa chứ không phải là một Thiên Chúa của những lời hứa. Tất cả các tôn giáo phi Kitô giáo đều nghĩ đến một Thiên Chúa hay đòi hỏi điều này, điều nọ, chỉ Kitô giáo mới giảng về một Thiên Chúa sẵn sàng ban cho nhiều hơn những gì chúng ta cầu xin.

(e) Đó là Tin Mừng về sự bất tử, bất diệt (2Tm 1,10). Với người ngoại đạo, thì sống là đang ở trên đường đi tới cõi chết, đặc điểm của loài người là hay chết, nhưng Chúa Giêsu đã đến với Tin Mừng là chúng ta đang đi trên con đường sự sống chứ không phải con đường sự chết.

(g) Đó là Tin Mừng cứu rỗi (Ep 1,13) và Tin Mừng ấy không phải là một cái gì tiêu cực, nó là một điều tích cực. Nó không phải chỉ đơn giản là giải phóng khỏi hình phạt, khỏi các tội lỗi của quá khứ, nhưng là quyền phép để sống chiến thắng và để chinh phục tội lỗi. Sứ điệp của Chúa Giêsu thật là những tin tốt lành.

2/ Có từ ăn năn. Ăn năn không quá dễ dàng như thỉnh thoảng chúng ta vẫn nghĩ. Từ Hy văn metanoia nghĩa đen là thay đổi tâm trí. Chúng ta rất dễ lẫn lộn hai sự việc là hối tiếc vì các hậu quả của tội lỗi với hối tiếc vì chính tội lỗi. Nhiều người hết sức hối tiếc, về tình trạng bẩn thỉu mà họ đã dính vào nhưng chính họ cũng hiểu rằng, nếu họ biết chắc là có thể tránh được các hậu quả của tội lỗi thì họ vẫn cứ tái phạm như thường. Họ không thù ghét chính tội lỗi, chỉ không thích các hậu quả của nó. Sự ăn năn thật có nghĩa là chẳng những hối tiếc về hậu quả của nó. Sự ăn năn thật có nghĩa là chẳng những hối tiếc về hậu quả của tội lỗi mà còn thù ghét chính tội lỗi nữa. Từ xưa, nhà văn lão thánh Montaigne đã viết trong tập tự truyện của ông. “Trẻ con phải được dạy dỗ để ghét thói xấu, vì chính bản chất của nó, để chẳng những tránh hành động, mà còn ghét thói xấu tận thâm tâm nữa, để chính ý nghĩ về thói xấu cũng khiến chúng ghê tởm dù dưới bất cứ hình thức nào”. Ăn năn có nghĩa là kẻ đang yêu thích tội lỗi trở lại thù ghét nó vì tính cách khốn cùng của tội lỗi. Vậy ăn năn là hoán cải.

3/ Có từ tin. Chúa Giêsu phán “Hãy tin vào Tin Mừng”. Tin Tin Mừng chỉ đơn giản có nghĩa là nắm lấy lời phán dạy của Chúa Giêsu, tin rằng Chúa đúng như lời Chúa Giêsu nói với chúng ta, tin rằng Chúa yêu thương thế gian đến nỗi sẳn sàng hy sinh bất cứ điều gì để đưa chúng ta trở về với Ngài, tin rằng điều nghe ra khó có thể là sự thật, sẽ thật sự trở thành sự thật.

 

73.Chúa Nhật 1 Mùa Chay

(Suy niệm của Lm. Alfonso)

Mt 1: 12-15:  Bước vào Mùa Chay là thời gian hồi tâm, lúc dừng lại để nhận ra những cám dỗ, cạm bẫy đang bủa vây, là lúc trở về với Chúa để định hướng cho tương lai.

Suy niệm

Bắt đầu từ Thứ Tư Lễ Tro, chúng ta bước vào 40 ngày Chay Thánh, mùa tập luyện chiến đấu thiêng liêng. Mùa Chay lấy ý hướng từ việc khi bắt đầu cuộc rao giảng công khai, Chúa Giêsu đã được Thánh Thần dẫn dắt vào hoang địa. Người ở đó suốt bốn mươi đêm ngày để được tập luyện trước cuộc chiến đấu thiêng liêng, hầu vượt thắng sự cám dỗ của ma quỷ khi thi hành sứ vụ cứu độ Chúa Cha trao cho.

Con số 40 này tương ứng với thời gian ông Noê đã chiến đấu 40 ngày trước phong ba bão táp của trận Đại hồng Thủy thời Cựu ước, nhằm thanh tẩy hết những con người tội lỗi. Vì lòng thương xót, Thiên Chúa đã tái lập cho trái đất này trở lại tình trạng tốt đẹp thuở ban đầu. Với hình ảnh chiếc cầu vồng, một đường cong bắt đầu từ đất, vươn lên trời cao, rồi lại trở xuống mặt đất làm dấu chỉ giao ước giữa Thiên Chúa với loài người. Quả thật, sau cơn mưa trời lại sáng, trong sự âm u ảm đạm ấy, Thiên Chúa cứu vớt nhân loại khỏi sự chết. Ngài đơn phương ký kết với loài người giao ước, và hứa sẽ không bao giờ cho nạn hồng thủy tiêu diệt loài người nữa. Nhờ đó, cho dẫu tội lỗi của thế gian có thế nào đi nữa, con người chúng ta không được thất vọng, nhưng hãy tin tưởng Thiên Chúa tha thứ và cứu vớt.

Mùa Chay Thánh là một hành trình nhắc nhở chúng ta hãy sám hối và trở về để đón nhận Tin mừng. Chúa Giêsu là Đấng mà Chúa Cha sai đến để tái lập lại giao ước cứu độ của Thiên Chúa. Người đã được chính Thánh Thần liền đưa vào hoang địa, nơi tập luyện sống khắc khổ, nơi con người dễ dàng gặp gỡ Thiên Chúa trong thinh lặng và cầu nguyện. Bước vào Mùa Chay là thời gian hồi tâm, lúc dừng lại để nhận ra những cám dỗ, cạm bẫy đang bủa vây, là lúc trở về với Chúa để định hướng cho tương lai.

Xã hội càng tiến bộ và văn minh không có nghĩa là con người không phải chạm trán với cám dỗ. Cám dỗ của thân xác đòi hỏi, hưởng thụ và chiếm đoạt. Cám dỗ của con tim mù quáng, đam mê và phóng túng. Cám dỗ của đầu óc cao ngạo, hám danh và trục lợi. Bao nhiêu giác quan là bấy nhiêu cánh cửa mở ra trước cạm bẫy. Cám dỗ cho người sống đời thường cũng như với người sống đời tu, cho người già và trẻ nhỏ, cho thanh niên lẫn thiếu nữ. Cám dỗ của ma quỷ không trừ ra một ai. Vì thế mà thánh Phêrô Tông đồ khuyên bảo: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ là thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1Pr 5,8).

Một vị tu sĩ đạo đức nọ có lần được thấy ma quỷ ngồi khắp ở mỗi góc tu viện, cả ở nhà nguyện nữa. Khi ngài bước ra phố thì thấy rằng chỉ có một tên quỷ đi cám dỗ mà thôi. Lấy làm lạ, vị tu sĩ mới hỏi bậc thầy về tu đức của mình thì được vị ấy trả lời: “Sở dĩ chỉ một tên quỷ cũng đủ cám dỗ các linh hồn ở ngoài phố, vì người ta dễ lơ là, tìm kiếm táy máy, ngó nghiêng ngó dọc, không cố gắng chống lại, thậm chí ma quỷ chưa cám dỗ thì người ta đã tự đưa mình sa ngã vào cám dỗ hay tìm kiếm thú vui, buông mình ầu ơ dí dầu nơi những cám dỗ. Và với những tâm hồn lành thánh thì không phải tránh xa được ma quỷ đâu, thậm chí cả một đạo binh ma quỷ đang rình rập tìm dịp”. Cũng như ông bà ta có câu: “Thứ nhất là tu tại gia, thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa”.

Vâng, như cây mai biểu tượng của mùa Xuân, để có những cành cây trổ bông báo hiệu Xuân về, trước đó nó đã chịu cảnh tuốt trụi lá cũ, lá già, tưới nước hạn chế, cành cây xơ xác, đã vậy cây còn chịu cảnh cắt tỉa để được đổi mới, hầu cây có thể đâm chồi, nẩy lộc và ra hoa rực rỡ. Vậy, Mùa Chay cũng là dịp để chuẩn bị cho mùa Xuân Phục Sinh, biến chúng ta thành những con người mới. Chúng ta hãy tập sống khiêm nhường và nhận ra sự yếu hèn của mình trước sự tấn công của ma quỷ để luôn trông cậy vào Chúa. Siêng năng cầu xin Chúa Thánh Thần hướng dẫn vì Ngài không ngừng ban cho ta bảy Hồng ân: “Khôn ngoan, thông hiểu, lo liệu, sức mạnh, suy biết, đạo đức, kính sợ Chúa Trời”. Để rồi, khi noi gương Chúa Giêsu, sống theo sự dẫn dắt của Thánh Thần, chúng ta sẽ gặt hái được những hoa trái nhân đức của Thần Khí là “bác ái, hoan lạc, bình an, đại lượng, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ.” (Gl 5,22)

Lạy Chúa, xin cho con tập quen chấp nhận những điều khó chịu xảy đến với mình và tập sống thiếu thốn một chút, để nhận ra ơn Chúa luôn đủ cho con. Amen.

 

74.Chúa Nhật 1 Mùa Chay

(Suy niệm của Lm. Gioan Phan Tiến Dũng)

Sau những ngày đón Tết vui Xuân, chúng ta lại bước vào một hành trình mới, hành trình của Mùa Chay. Liệu rằng những thú vui, những đồ ăn thức uống và những vướng bận của cuộc sống hiện tại có làm khó, gây cản trở trên hành trình của chúng ta trong Mùa Chay Thánh năm nay hay không? Khởi đầu Mùa Chay bằng việc được xức tro, chắc hẳn nhiều người trong chúng ta cũng đã phần nào ý thức hơn về chính thân phận yếu đuối, mỏng giòn, tội lỗi của mình; đồng thời qua tro bụi, giúp chúng ta cần xác tín hơn, đây là thời gian của ơn thánh Chúa, mà lúc này hơn bao giờ hết, chúng ta cần phải có nhiều ơn sủng của Chúa để nhờ đó mà đủ sức thi hành thánh ý Chúa, cùng thực thi những việc lành phúc đức hầu giúp chúng ta trở nên những người được Chúa chúc phúc. ACE rất thân mến, trong hành trình Mùa Chay năm nay, chúng ta đã có quyết tâm và hành động như thế nào để trở nên người hạnh phúc, hay nói khác hơn là để trở nên người được Chúa chúc phúc? Các bài đọc Lời Chúa hôm nay như đã khai mở, linh ứng và soi sáng cho chúng ta cần có những tinh thần, thái độ sống và quyết tâm như thế nào.

Tin mừng theo Thánh Marcô cho chúng ta mẫu gương, thái độ và cách sống của Chúa Giêsu; để khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin mừng cách công khai, Chúa đã chọn một cách sống để kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa Cha qua việc cầu nguyện và ăn chay, để từ đây, sứ vụ của Chúa Giêsu phải thực sự là sứ vụ của Đấng được sai đến để thi hành thánh ý của Thiên Chúa Cha. Bốn mươi ngày Chúa chọn để đi vào trong sa mạc cũng chính là thời gian mà Chúa Giêsu hòa mình với mọi người chúng ta trong kiếp nhân sinh; giờ đây, Ngài lại đi vào con đường mà năm xưa dân Chúa đã đi trong sa mạc 40 năm để tiến về đất hứa, đây cũng là hành trình mà tổ phụ Êlia đã mất 40 ngày đã tiến về núi thánh Horep của Thiên Chúa, và đây cũng chính là hành trình mà trong bài đọc một ông Nôe đã cùng với con cháu mình cũng như mọi sinh vật đã ở trong tàu 40 đêm ngày để thoát cơn đại hồng thủy. Như vậy, hành trình của Chúa Giêsu thật là một hành trình nối kết giữa Thiên Chúa và con người, giữa cựu ước và tân ước, giữa những tội ác, tai ương và ơn tha thứ, cứu sống, chữa lành. Chúng ta đã khởi đầu lại các công việc thường nhật trong năm mới Tân Sửu này sau khi chọn đến với Chúa trong những Thánh Lễ đầu xuân, chúng ta cũng đến với anh chị em và những người thân quen để nối kết nhau hơn; đây thực sự là một truyền thống tốt đẹp, mong ước rằng sẽ giúp chúng ta có đủ sức để hăng say dấn thân, tiến bước trên hành trình mới.

Trên hành trình cuộc sống hiện nay, chắc hẳn không ai mà không phải lo lắng vì đại dịch vẫn đang diễn tiến rất phức tạp; thế nhưng, chúng ta đã có những lời hứa ban ơn thánh và sức mạnh của Chúa cho chúng ta. Thánh vịnh 24 trong bài đáp ca đã xác tín và mời gọi: “Tất cả đường nẻo Chúa là ân sủng và trung thành dành cho những ai giữ minh ước và điều răn Chúa”. Thật vậy, Chúa luôn trung tín và yêu thương chúng ta, dẫu cho con người thất tín, bất trung và ngay cả khi con người loại Chúa ra khỏi cuộc sống của mình. Chúa vẫn luôn yêu thương chúng ta không phải chỉ bằng những lời hứa, nhưng bằng những gương sáng, qua cách sống cụ thể. Chúa Giêsu đã chấp nhận Thánh ý của Chúa Cha để nên giống chúng ta trong mọi sự, ngoại trừ tội lỗi hầu làm điểm tựa vững chắc và ban ơn cứu sống chúng ta. Điều còn lại là tùy thuộc vào mỗi người chúng ta với những quyết tâm, cách sống trên hành trình đức tin và sứ vụ ơn gọi của mỗi người.

Ý thức được thân phận yếu đuối, tội lỗi của kiếp người, Thánh Phêrô trong bài đọc hai đã mời gọi và nêu gương cho chúng ta phương thế để sống đúng căn tín là người con của Chúa, người môn đệ của Chúa Giêsu đó là: Trước hết, hãy tin vào ơn Chúa và biết nhận ra những dấu chỉ Chúa ban như ông Noê. Thứ đến, hãy bám víu vào Chúa Giêsu, như Noê đã bám trụ vào con tàu mà được sống. Vì Đức Kitô Giêsu đã vì yêu thương mà chết cho tội của chúng ta và Ngài đã Phục sinh, cho nên, những ai tin, bám víu vào Ngài, sống kết hiệp với Ngài trong niềm tin yêu thì sẽ được cứu sống.

Ðược Thần Khí Chúa thúc đẩy, trước khi thi hành sứ vụ, Chúa Giêsu đã vào sa mạc để ăn chay, cầu nguyện và chịu cám dỗ; khởi đầu Mùa Chay Thánh, chúng ta cũng được chính Thần Khí của Chúa qua Lời Ngài, qua mẫu gương, cách sống của Chúa Giêsu trao ban. Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con ý thức hơn về ơn thánh và hạnh phúc đích thực của chúng con là ở nơi Chúa qua những việc đạo đức, lành thánh, hầu loại bớt những tính hư nết xấu cùng yếu đuối, tội lỗi. Amen.

 

75.Cám dỗ và thử thách

(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)

Tin mừng Mc 1: 12-15: Chúng ta hãy khiêm tốn phó thác nơi Chúa trong mọi cơn thử thách và cám dỗ vì Người sẽ gìn giữ và nâng đỡ những ai biết khiêm tốn.

Ma quỷ là loại cám dỗ xảo quyệt nhất. Thánh Thomas cho biết: “ma quỷ rất tinh khôn khi cám dỗ chúng ta. Nó hành động như một vị tướng tài ba khi sắp tấn công một thành kiên cố. Nó tìm các nơi yếu thế để tấn công, nên ma quỷ cũng tấn công chúng ta vào chỗ nào yếu nhất. Nó cám dỗ những tội nào chúng ta dễ phạm nhất… xem ra nó không “gợi ý” điều gì xấu, nhưng là điều có vẻ rất tốt lành. Nó làm cho chúng ta không hướng tới mục đích chính, và điều đó sẽ dễ dụ dỗ chúng ta phạm tội, nó chuyển hướng chúng ta một cách rất tinh vi”.

Có câu chuyện kể rằng: "sau khi bị Thiên Chúa trừng phạt, tướng quỷ Luxiphe rất tức giận, lửa căm thù sôi sục trong lòng hắn nên đã tìm cách để cám dỗ các tín hữu. Một hôm, hắn cho rằng phải lấy vợ gấp để có nhiều con gái gả cho loài người, nhờ đó sẽ kéo nhiều người xuống hỏa ngục.

Luxiphe kiếm được cô nàng Bất Chính và lấy làm vợ. Rồi họ sinh được bảy cô con gái.

- cô thứ nhất tên là Kiêu Ngạo được gả cho những nhà cầm quyền,

- cô thứ hai tên là Hà Tiện được gả cho những người giàu có,

- cô thứ ba tên là Giả Dối được gả cho những người nghèo khó,

- cô thứ tư tên là Ghen Tương được gả cho những nghệ sĩ,

- cô thứ năm tên là Giả Hình được hắn đặt vào các cộng đoàn tu trì,

- cô thứ sáu tên là Háo Danh được hắn cho làm bạn với các phụ nữ,

- cô thứ bảy tên là Dâm &O