Phụng vụ - Chư thánh

Cử hành Thánh Thể: Bài 12 & 13 - Thánh vịnh đáp ca

  • In trang này
  • Lượt xem: 562
  • Ngày đăng: 02/01/2024 14:53:32

Ngày 5 tháng 8 năm 2023, Ủy ban Phụng tự Hội đồng Giám mục Việt Nam đã thông báo về chương trình Đào tạo phụng vụ cho Dân Chúa gồm: (1) Thực hành mục vụ và (2) Kiến thức phụng vụ. Để đào sâu hiểu biết về kiến thức phụng vụ, Ủy ban Phụng tự trân trọng giới thiệu loạt bài về cử hành Thánh Thể do linh mục Giuse Phạm Đình Ái, SSS tổng hợp và biên soạn.

 

 

BÀI 12: BÀI ĐỌC I & BÀI ĐỌC II

I. VĂN KIỆN

- Dứt lời nguyện nhập lễ, mọi người ngồi. Linh mục có thể nói mấy lời rất vắn tắt, dẫn tín hữu vào phụng vụ lời Chúa. Thầy/người đọc sách tiến tới giảng đài đã có Sách Bài đọc đặt sẵn từ trước Thánh lễ, đọc bài thứ nhất, mọi người lắng nghe. Đến cuối, thầy/người đọc sách xướng lời tung hô: Đó là lời Chúa, mọi người đáp lại: Tạ ơn Chúa. Bấy giờ, có thể tùy nghi giữ thinh lặng giây lát, để mọi người suy gẫm những lời đã nghe (Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma [QCSL], số 128).

- Sau đó, nếu có Bài đọc thứ hai trước bài Tin Mừng, thì độc viên cũng đọc tại giảng đài như trên, mọi người ngồi nghe và đến cuối thì đáp lời tung hô, như đã nói trên (x. số 128). Rồi, có thể tùy nghi giữ thinh lặng giây lát (QCSL 130).

 

II/ LỊCH SỬ

Trong hội đường Do Thái xưa, người ta vẫn lần lượt đọc các sách Luật cách liên tục từ phần này sang phần khác (lectio continua); còn các sách Ngôn sứ thì được đọc theo kiểu chọn lọc (lectio selecta). Cho đến nay, Hội Thánh vẫn thừa kế cách thức cử hành Lời Chúa như vậy.[1]

 

Thời Hội Thánh sơ khai, các sách Cựu Ước được công bố trong hội đường và ở những nơi khác nhau (nhà tư hay nghĩa trang) khi nổi nên chiến dịch bách hại Kitô giáo.[2] Ban đầu, các tín hữu đọc sách Luật và sách các Ngôn sứ, xen kẽ bằng những Thánh vịnh hay những bài Thánh ca Cựu Ước khác. Dần dần, Hội Thánh đã thêm vào những bài Tân Ước, đó là những Bút tích của các tông đồ (Cv 4,42; 2 Tm 2,2). Bài kết thúc luôn luôn là Tin Mừng, được coi như đỉnh cao tỏa sáng trên các Bài đọc khác, và nhờ ánh sáng này, những sự việc được nói đến trong các sách khác trở nên sáng tỏ. Điều này thật đúng với lời thánh Augustinô (354-430): “Tân Ước ẩn tàng trong Cựu Ước và Cựu Ước ẩn tàng trong Tân Ước” và cũng phù hợp với tư tưởng của thánh Irênê (130-200): “Những gì Môsê viết đều là những lời của Chúa Kitô.”[3]

 

Thật ra, không có sự đồng nhất giữa các gia đình phụng vụ về số lượng các Bài đọc được công bố trong mỗi Thánh lễ cũng như việc lựa chọn những đoạn Sách Thánh nào cho mỗi mùa phụng vụ hay mỗi Thánh lễ.[4] Tuy nhiên, các nghi điển phụng vụ lại có hai điểm đồng nhất này: [i] Trong Thánh lễ, chỉ được công bố những bản văn trích từ Sách Thánh;[5] [ii] Luôn phải có ít là hai Bài đọc, và Bài đọc sau cùng luôn phải là bài Tin Mừng.

 

Việc công bố hơn một Bài đọc Sách Thánh trước bài Tin Mừng đã được ghi nhận trong tài liệu Hiến chế các Tông đồ (năm 380). Lúc bấy giờ, dường như trong phần Phụng vụ Lời Chúa, hai Bài đọc trích từ Cựu Ước được công bố và theo sau là Thánh vịnh đáp ca. Tiếp đến, hai Bài đọc Tân Ước, rồi cuối cùng là bài Tin Mừng.[6]

 

Theo thánh Justinô, vào thế kỷ II, Hội Thánh thường đọc những bài trích từ sách các Ngôn sứ và từ các sách Hồi ký của các tông đồ (Tin Mừng). Tertulianô (thế kỷ II-III) cũng đề cập đến việc các Kitô hữu đọc các sách Kinh Thánh, Thánh vịnh (có thể đọc cả Hạnh các vị tuẫn đạo); thời gian cho phép chừng nào thì các Bài đọc này dài chừng ấy. Rồi khi độc viên ngừng, vị chủ tọa ban giáo huấn miệng, khuyến dụ tín hữu hãy noi gương bắt chước mà làm những việc tốt đẹp như mới được nghe. Sau cùng, cộng đoàn dâng lên Chúa những lời nguyện xin.[7]

 

Từ thế kỷ VI trở đi, đối với phụng vụ Rôma, chỉ hai Bài đọc được công bố trong Thánh lễ: Thánh thư và Tin Mừng. Từ thế kỷ XII, các nghi điển Tây phương bắt chước phụng vụ tại Rôma nên cũng chỉ có hai Bài đọc trong các Chúa nhật mùa Chay và mùa Phục sinh.

 

Sang thời kỳ Công đồng Trentô, do nhận thấy số các Bài đọc trong vòng một năm quá ít, một đề nghị đã được đưa ra: đó là đưa thêm 3 Bài đọc trích từ thư của thánh Phaolô và 3 bài Tin Mừng vào Thánh lễ các ngày trong tuần. Nhưng dự án này bất thành.[8] Vì vậy, Sách lễ Rôma 1570 vẫn chỉ còn chứa đựng những Bài đọc bị cắt tỉa và thiếu sức sống. Tình trạng này kéo dài cho tới thời gian canh tân phụng vụ của Công đồng Vaticanô II.

 

Một trong những đóng góp lớn nhất Công đồng Vaticanô II thực hiện trong lãnh vực phụng tự chính là thúc đẩy cho ‘bàn tiệc Lời Chúa được dọn ra dồi dào hơn cho các tín hữu, mở ra cho họ những kho tàng Kinh Thánh phong phú hơn’ (Hiến chế Phụng vụ Thánh [PV], số 51). Vì vậy, sau Công đồng Vaticanô II, Hội Thánh đã sớm cho tu chính và xuất bản cuốn “Mục lục Sách Bài đọc cho Thánh lễ” mới (Ordo Lectionum Missae) vào ngày 25/05/1969, trong đó Hội Thánh trở lại truyền thống xa xưa, tức là: [i]  Cho công bố ba Bài đọc vào các Thánh lễ Chúa nhật/lễ trọng thay vì chỉ hai bài; [ii] Công bố hai Bài đọc trong những lễ khác. Hội Thánh phân phối các Bài đọc và cho công bố các sách khác nhau trong bộ Kinh Thánh theo những cách thức sau: Cách thứ I là Lectio continua (Đọc liên tục): đọc liên tục từ quyển này đến quyển khác, từ chương này đến chương khác; Cách thứ II là Lectio semi - continua (Đọc bán liên tục): cũng đọc Sách Thánh theo thứ tự các quyển và chương nhưng có thể bỏ qua những câu, đoạn, chương không thích hợp; Cách thứ III là Lectio antologica: chọn lọc những đoạn thích hợp với đề tài của mùa phụng vụ hay ngày lễ.[9] 

 

Bài đọc II luôn trích từ bản văn Tân Ước và được công bố theo cách đọc liên tục (lectio continua). Đôi khi bản văn Tân Ước được chọn công bố theo cách bán liên tục (semi-lectio continua). Thông thường Hội Thánh chủ đích kết nối chủ đề giữa Tin bài Mừng và Bài đọc I, Bài đọc II thường không liên quan, vì nó tuân theo kiểu đọc bán liên tục riêng biệt. Tuy nhiên, cả 3 Bài đọc đều tham dự vào một mục đích chung là công bố ơn cứu độ của Thiên Chúa trong Chúa Kitô.[10]

 

III/ MỤC LỤC CÁC BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ, SÁCH BÀI ĐỌC & SÁCH TIN MỪNG

1/ Mục Lục Các Bài đọc Trong Thánh Lễ

Nhằm thực thi ý định và lệnh truyền của Công đồng Vaticanô II (PV 35, 51) cuốn “Mục lục Các Bài đọc Thánh lễ” [BĐ] (Ordo Lectionum Missae) cho nghi lễ Rôma đã được tu chính và xuất bản vào ngày 25/05/1969. Tiếp đến, ngày 21/01/1981, Hội Thánh cho công bố ấn bản mẫu thứ hai. Cuốn Ordo Lectionum Missae mới này hướng dẫn như sau:

(1) Liên quan đến ngày Chúa nhật và lễ trọng (BĐ 66-68)

(a) Các Bài đọc cho Chúa nhật được sắp xếp theo chu kỳ 3 năm (A-B-C) và được đọc theo hình thức bán liên tục (lectio semi - continua) hầu các tín hữu có thể nghe được những đoạn văn quan trọng nhất của Kinh Thánh (BĐ 58, 60). Tính chất đặc thù của mỗi năm dựa trên Sách Tin Mừng: Năm A dựa trên Tin Mừng  theo thánh Matthêu; Năm B, theo thánh Maccô, nhưng vì Tin Mừng  theo thánh Maccô quá ngắn, không đủ phân phối cho một năm, nên chương 6 của Tin Mừng  theo thánh Gioan sẽ được phân phối để đọc trong các Chúa nhật XVII- XXVI của năm B; Năm C, theo thánh Luca.

(b) Ba Bài đọc của các Chúa nhật mùa Vọng, mùa Chay hay lễ trọng thường liên kết với nhau bởi vài tư tưởng chung. Còn trong các Chúa nhật Thường niên, chỉ có sự tương đồng ý tưởng giữa bài Cựu Ước và bài Tin Mừng.

(c) Trong các ngày lễ trọng cũng có ba Bài đọc: Cựu Ước, thư các tông đồ, Tin Mừng, trừ mùa Phục sinh cả ba bài đều lấy trong Tân Ước. Nhờ đó, chúng ta thấy rõ mối duy nhất của hai Giao Ước, của lịch sử cứu độ, mà trọng tâm là Chúa Kitô được kính nhớ trong mầu nhiệm Vượt qua của Người.

 

(2) Liên quan đến ngày thường trong tuần (BĐ 69)

(a) Khối “Riêng” (mùa Vọng, Giáng sinh, Chay và Phục sinh) gồm một chu kỳ với 2 Bài đọc: Bài đọc I (Cựu Ước hoặc Tân Ước) và bài Phúc Âm. Giữa 2 Bài đọc này, có sự tương đồng về chủ đề (hoà hợp ý nghĩa).

(b) Khối “Thường niên” gồm 2 Bài đọc (Bài đọc I + Tin Mừng). Bài đọc I được chia theo chu kỳ 2 năm và được sắp xếp theo nguyên tắc liên tục tương đối. Bài Tin Mừng dùng chung cho cả năm chẵn lẫn năm lẻ theo nguyên tắc liên tục tương đối, nhưng Bài đọc I thay đổi (theo năm chẵn và năm lẻ) và được trích hoặc từ Cựu Ước hoặc từ Tân Ước. Không có sự tương đồng về đề tài giữa 2 Bài đọc. 

 

2/ Sách Bài đọc

Cuốn “Mục lục Các Bài đọc Thánh lễ” (Ordo Lectionum Missae) định ra danh sách/mục lục tất cả các Bài đọc Kinh Thánh dùng trong cử hành thánh lễ nhằm cung cấp cho các tín hữu sự hiểu biết toàn bộ Lời Chúa, theo một lối giải thích phù hợp (BĐ 60). Chúng được sắp xếp theo thứ tự lịch phụng vụ với các trích dẫn nguồn [chứ không có bản văn Kinh Thánh]. Dựa vào “Mục lục Các Bài đọc Thánh lễ”, HĐGM sẽ sử dụng bản dịch/bản văn Kinh Thánh của HĐGM hay do HĐGM chọn để hình thành và xuất bản Sách Bài đọc (BGL 825#1; 838#2, 3) dùng cho thánh lễ. Vì số lượng các Bài đọc quá lớn, nên thường phải in Sách Bài đọc ra thành nhiều cuốn (BĐ 112-113). Khi cử hành phụng vụ, các sách phụng vụ, chẳng hạn như Sách Bài đọc cũng là dấu chỉ/biểu tượng cho những thực tại siêu nhiên, nên phải liệu sao cho chúng thật xứng đáng, trang nhã và đẹp mắt (PV 122; BĐ 35).

 

3/ Sách Tin Mừng

Trong khi Sách Bài đọc chứa đựng cả Bài đọc I, thánh vịnh đáp ca, Bài đọc II, tung hô Tin Mừng và bài Tin Mừng, thì Sách Tin Mừng chỉ chứa đựng những bài Tin Mừng. Ngoài khác biệt về nội dung, vì loan báo Tin Mừng luôn được coi là chóp đỉnh của phụng vụ Lời Chúa, cho nên truyền thống cả Đông lẫn Tây luôn dành cho Sách Tin Mừng một sự phân biệt nào đó với các Sách Bài đọc như được đóng cẩn thận và trang trí mỹ thuật đặc biệt hơn (BĐ 36). Đây chính là sách dùng trong cuộc rước nhập lễ (x. QCSL 172, 117, 120d), rước tung hô Tin Mừng (QCSL 133, 175), trao cho ứng viên phó tế trong lễ truyền chức phó tế, đặt và giữ trên đầu ứng viên giám mục trong lễ truyền chức giám mục.[11]

 

IV/ Ý NGHĨA  

Thiên Chúa mặc khải tiệm tiến trong lịch sử cứu độ. Các sách Cựu Ước (Luật, Lịch sử, Ngôn sứ và Giáo huấn) không phải chỉ viết riêng cho dân Israel, nhưng viết cho toàn thể nhân loại.[12] Bởi vậy, các Bài đọc Cựu Ước được chọn lọc để công bố trong Thánh lễ giúp tín hữu xác tín rằng chỉ có một Thiên Chúa đã và đang hoạt động trong cả thời kỳ Cựu Ước lẫn Tân Ước và Thiên Chúa của Israel cũng là Thiên Chúa của người Kitô hữu. Đọc và lắng nghe Lời Chúa trong Cựu Ước để tín hữu nhớ lấy những hành động của Thiên Chúa không bị chôn vùi trong quá khứ, để họ thấy rõ mối liên hệ chặt chẽ của hai Giao Ước, giúp họ hợp nhất với dân của Cựu Ước như một dân của Chúa.[13]

 

Đọc và lắng nghe Lời Chúa trong Cựu Ước còn giúp tín hữu nhận ra cách tỏ tường tình yêu Thiên Chúa thể hiện qua lịch sử được mặc khải qua các tổ phụ, các ngôn sứ và sau cùng là qua Đức Giêsu Kitô như thế nào (x. Dt 1,1-4). Thiên Chúa nói với dân của Người (cả Cựu Ước lẫn Tân Ước), để họ biết được kế hoạch tình yêu của Người mà thờ phượng, tôn vinh, tạ ơn và đền tội. Lời nói tối hậu của Thiên Chúa là chính Đức Giêsu Kitô. Muốn hiểu được lời cuối cùng của Thiên Chúa, phải nghe những lời đầu tiên và đã qua của Người. Đó chính là nghe các Bài đọc Cựu Ước.[14]

 

Khi nghe đọc Bài đọc II, thường là thư các tông đồ, tín hữu được đón nhận trực tiếp lời giáo huấn của các tông đồ, chính các ngài truyền lại cho tín hữu giáo huấn của Đức Giêsu Kitô. Việc công bố thư các tông đồ trong phụng vụ soi sáng cho các tín hữu biết đón nhận ý Chúa và hướng dẫn Hội Thánh qua mọi thời đại vì thư các tông đồ cũng chính là Lời Chúa được mặc khải. Ngoài ra điều này còn chứng tỏ mãnh liệt rằng Hội Thánh của Chúa Kitô được xây dựng trên nền tảng các tông đồ.[15]

 

V/ ĐỀ NGHỊ MỤC VỤ

1) Chỉ sử dụng duy nhất một giảng đài trong nhà thờ để nói lên tính duy nhất của Lời Chúa cũng giống như chỉ có một bàn thờ nhằm biểu tỏ một Chúa Kitô và một Hy Lễ Tạ Ơn của Hội Thánh.  Tại giảng đài chỉ đọc các bài đọc, thánh vịnh đáp ca và bài công bố Tin Mừng Phục sinh. Cũng tại đó, có thể giảng và đọc lời nguyện chung, tức là lời nguyện tín hữu. Để giữ sự trang nghiêm của giảng đài, chỉ có thừa tác viên mới được bước lên đó (x. QCSL 309; BĐ 32-34; LNGM 51); đối với các phần việc khác như dẫn lễ/đánh nhịp/thông báo… thì sử dụng một cái bục/cái giá khác và chúng phải thật đơn giản hơn mọi mặt so với giảng đài, nghĩa là không nên làm giống hay trội hơn giảng đài.[16] 

 

2) Vì phẩm giá của Lời Chúa, không nên thay thế những Sách Bài đọc dùng trong các cử hành phụng vụ với những trợ giúp mục vụ khác, ví dụ, với những tờ in cho giáo dân chuẩn bị bài đọc hoặc sách dành cho việc suy niệm (BĐ 37).

 

3) Có thể đọc những lời dẫn trước các Bài đọc, đặc biệt là trước Bài đọc I/Bài đọc II. Lời dẫn phải được soạn kỹ trước và phải vắn tắt rõ ràng: không dài dòng hơn chính Bài đọc, bao gồm một hay hai ý tưởng liên quan đến buổi lễ là đủ (x. QCSL 105b). Lời dẫn phải giống như lời “khai vị” làm cho người tham dự thèm khát lắng nghe Lời Chúa sắp được công bố nhưng không phải là bài suy niệm, bài giảng hay bài huấn dụ (BĐ 15, 42; QCSL 31).[17]

 

4) Theo truyền thống và quy định phụng vụ, thừa tác viên đã lãnh tác vụ đọc sách phải được ưu tiên trước hết cho nhiệm vụ công bố hai Bài đọc trước Tin Mừng. Khi họ không hiện diện, các tín hữu khác với những điều kiện cần thiết như có khả năng và đoàn sủng để thi hành chức năng này cũng như được chuẩn bị kỹ càng được ủy thác làm độc viên Sách Thánh để đọc thay (x. QCSL 99, 101; BĐ 49, 51-52, 55; Paul VI, Ministeria quædam, August 15, 1972, § V).[18] Độc viên Sách Thánh thuộc về một đội/một nhóm chuyên đọc Sách Thánh của giáo xứ, chứ không phải bị chỉ định đột xuất.[19] Vì là người công bố và chuyển đạt Lời Chúa cho cộng đồng tín hữu, cho nên ngoài thái độ cung kính và cách ăn vận, phục sức đứng đắn chỉnh tề, độc viên còn phải thấu hiểu Bài đọc và có khả năng truyền thông Lời Chúa.[20] Độc viên Sách Thánh không những cần chuẩn bị cho việc công bố mà còn phải chuẩn bị về mặt thiêng liêng trước Thánh lễ.[21]

 

5) Y phục cho thừa tác viên đọc Sách Thánh có thể là áo alba (trắng dài), tu phục của các dòng tu (đối với tu sĩ) hay thường phục xứng đáng được Hội Đồng Giám Mục chấp thuận cách hợp pháp nhằm mục đích vừa diễn tả chức vụ của thừa tác viên vừa diễn tả lòng tôn kính và trang trọng của nghi lễ thánh. Tại Việt Nam, HĐGM dạy rằng ngoài áo trắng dài chung cho các thừa tác viên phụng vụ, các thừa tác viên nam không chức thánh, có thể mặc âu phục với cà vạt hoặc áo dài khăn đóng; nữ có thể mặc áo dài thông thường hoặc áo dài với khăn vành truyền thống Việt Nam (x. Lễ Nghi Giám Mục [LNGM], số 65; QCSL 336, 335; BĐ 54).

 

6) Nếu ở vị trí gần/sát cung thánh, phải chờ cho chủ tế đọc xong lời nguyện nhập lễ và cộng đoàn đáp lại Amen, tức là sau khi đã kết thúc phần nghi thức đầu lễ, thừa tác viên/độc viên Sách Thánh mới di chuyển tiến đến giảng đài (x. NTTL 10; QCSL 32; LNGM 137) và công bố Lời Chúa ở đây chứ không ở bất kỳ nơi đâu khác (x. QCSL 58, 128, 130; BĐ 16, 33). Nếu ở vị trí xa cung thánh, thừa tác viên/độc viên Sách Thánh phải di chuyển sớm hơn đang khi cộng đoàn hát khúc cuối của kinh thương xót/kinh vinh danh và tạm đứng ngay trước cung thánh cho tới khi cộng đoàn đáp Amen thì mới tiến lên giảng đài. Chỉ khi quan sát thấy cả cộng đoàn đã ngồi yên trong thinh lặng chăm chú, độc viên mới bắt đầu công bố.[22]

 

7) Thừa tác viên công bố Bài đọc II không lên giảng đài trước khi bài Thánh vịnh đáp ca kết thúc (NTTL 12).

 

8) Thay vì đọc, độc viên Sách Thánh có thể hát Bài đọc, tuy nhiên phải hát sao cho không lấp lời, nhưng làm cho lời dễ nghe hơn, phải tôn trọng vần điệu và sự tinh túy của ngôn ngữ (BĐ 14).[23] Trong những dịp lễ đặc biệt/trọng thể, cho dù thừa tác viên không hát chính Bài đọc thì vẫn nên hát câu “Đó là Lời Chúa” khi kết thúc Bài đọc vì đây là hình thức thích hợp hơn đối với lời tung hô.[24] Độc viên hay thậm chí một người khác có thể hát câu “Đó là Lời Chúa” và cộng đoàn hát đáp lại “Tạ ơn Chúa”. Bằng cách này, cộng đoàn đang tụ họp tỏ lòng cung kính trong tinh thần đức tin và tâm tình tri ân đối với Lời Chúa vừa tiếp nhận (BĐ 18).

 

9) Khi lễ kính được nâng lên bậc lễ trọng thì thêm Bài đọc lấy từ phần Chung lễ các thánh (tử đạo, mục tử, đồng trinh…);[25] còn khi gặp lễ nhớ không có Bài đọc riêng thì đọc theo ngày trong tuần (x. QCSL 357; BĐ 70, 83-84). Khi lễ trọng và lễ kính rơi vào các ngày trong tuần, phải ưu tiên công bố những Bài đọc của lễ trọng và lễ kính.[26]

 

10) Khi công bố xong Bài đọc, độc viên nên dừng khoảng 15-30 giây trước khi loan báo “Đó là Lời Chúa”, và nên chờ cộng đoàn đáp lại “Tạ ơn Chúa” xong [nếu không ở lại đọc/hát Thánh vịnh đáp ca] như là dấu chỉ cộng đoàn lắng nghe và tán thành Lời Chúa được công bố,[27] thì thừa tác viên mới từ từ rời khỏi giảng đài, di chuyển về lại chỗ ngồi của mình (x. NTTL 10; QCSL 59, 128).[28]

 

11) Khi thừa tác viên đang công bố Lời Chúa, mọi người phải hướng về giảng đài và chăm chú lắng nghe (QCSL 309). Do đó, không cầm sách dò theo hay cùng đọc chung với nhau vì Thánh lễ không phải là lớp giáo lý và càng không phải là nơi tập đọc Sách Thánh.

 

12) Sự thinh lặng sau khi lắng nghe các Bài đọc I/II (x. QCSL 45, 56) có chức năng giúp cho các tín hữu đón nhận được “âm thanh trọn vẹn từ tiếng nói của Chúa Thánh Linh” và hợp nhất kinh nguyện cá nhân của họ “một cách gần gũi hơn với Lời Chúa và tiếng nói công khai của Hội Thánh.” [29]

 

VI/ SUY NIỆM

Lạy Chúa Giêsu, chúng con nghe thấy giọng đọc của độc viên Sách Thánh, nhưng thực ra chúng con đang lắng nghe chính lời của Chúa. Tiếng đọc của độc viên vang tới tai chúng con, và ước chi Lời Chúa chạm đến tâm trí chúng con. Ước gì lòng chúng con bừng cháy lên ngọn lửa mến yêu Lời Chúa như kinh nghiệm của hai môn đệ trên đường Emmau, khi Chúa đồng hành và giải thích Sách Thánh cho họ.

 

Khi ngồi lắng nghe Bài đọc, đức tin của chúng con vẫn thường xuyên bị thử thách. Một vài điều có thể làm chúng con sao nhãng, mất tập trung vào Lời Chúa, đầu óc có lúc lang thang đây đó …. Lạy Chúa, xin giúp chúng con vượt qua những cản trở như thế. Xin nhắc cho chúng con biết khi Kinh Thánh được công bố thì Chúa đang nói với cộng đoàn phụng vụ; Chúa hiện diện trong Lời Chúa; Chúa vẫn đang công bố Tin Mừng thứ tha, yêu thương và bình an. Xin ban cho chúng con một đức tin sống động để cảm nhận sự hiện diện của Chúa khi Lời Chúa được vang lên từ những trang Kinh Thánh của cả Cựu Ước lẫn Tân Ước.

 

Lạy Chúa, Chúa là Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể và cư ngụ giữa chúng con. Chúa đã trở về bên lòng Chúa Cha nhưng Chúa đã không bỏ rơi chúng con. Chúa ở ngay trong lời mà Hội thánh công bố từ Sách Thánh. Trong mỗi Thánh lễ, Lời Chúa cùng với Bánh sự sống như của ăn được đặt trên bàn tiệc của Hội thánh hầu nuôi dưỡng tâm trí và linh hồn chúng con. Lạy Chúa Giêsu, xin nói Lời Chúa cho chúng con. Xin để chúng con ăn Lời Chúa. Và để Lời Chúa đốt cháy trái tim chúng con bằng tình yêu của Chúa. Amen.

 

BÀI 13: THÁNH VỊNH ĐÁP CA

 

 

I/ VĂN KIỆN

- Sau bài đọc thứ nhất là Thánh vịnh đáp ca, bài ca này là thành phần trọn vẹn của phụng vụ lời Chúa và rất quan trọng về mặt phụng vụ và mục vụ, vì giúp suy niệm lời Chúa. Thánh vịnh đáp ca phải thích hợp với mỗi bài đọc và thường phải lấy từ Sách Bài đọc. Nên hát Thánh vịnh đáp ca, ít là câu đáp của cộng đoàn. Người xướng hoặc hát Thánh vịnh sẽ xướng hoặc hát Thánh vịnh tại giảng đài hay tại một nơi thích hợp, đang khi toàn thể cộng đoàn ngồi nghe và hơn thế, thông thường còn tham dự bằng những câu đáp, trừ khi Thánh vịnh được hát liên tục, nghĩa là không có câu đáp. Tuy nhiên, để cộng đoàn có thể hát những câu đáp dễ dàng hơn, một số bản văn của các câu đáp và các Thánh vịnh đã được chọn sẵn cho từng mùa trong năm, hoặc cho từng bậc thánh nhân, để mỗi khi hát Thánh vịnh, có thể dùng các bản văn này thay cho bản văn tương ứng với bài đọc. Nếu không thể hát Thánh vịnh, thì đọc cách nào cho phù hợp để giúp suy niệm lời Chúa. Thay thế cho Thánh vịnh được chỉ định trong Sách bài đọc, cũng có thể hát ca tiến cấp lấy ở sách Các bài ca tiến cấp của Phụng vụ Rôma hoặc Thánh vịnh đáp ca, hoặc Thánh vịnh đáp ca và lời tung hô Alleluia lấy ở sách Các bài ca tiến cấp đơn giản của Phụng vụ Rôma, như được trình bày trong các sách đó (Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma [QCSL], số 61).

- Đoạn người đọc Thánh vịnh hoặc chính thầy đọc sách/độc viên xướng các câu Thánh vịnh; cộng đoàn đáp theo thường lệ (QCSL 129).

 

II/ LỊCH SỬ     

Nối tiếp thực hành của hội đường Do Thái, theo truyền thống, các Kitô hữu hát Thánh vịnh hay một bài thánh ca Kinh Thánh sau Bài đọc I. Ca khúc này thoạt tiên được gọi là đáp ca (resporum/resonporium). Trong Graduale Romanum (Các bài ca tiến cấp của Phụng vụ Rôma), nó mang tên là Gradulae nghĩa là Ca khúc trên bậc hay Bài ca tiến cấp vì ở Rôma thời cổ, một ca viên hay thầy phụ phó tế tiến đến giảng đài, đứng ở bậc thấp hơn của giảng đài và bắt đầu hát; thời Trung cổ, người xướng không đứng tại giảng đài, nhưng tại bậc tam cấp của cung thánh mà hát.[1] 

 

Trước thời kỳ bình yên của Hội Thánh (năm 313), có rất ít bằng chứng về việc sử dụng Thánh vịnh làm lời đáp đối với Bài đọc Sách Thánh. Vào thế kỷ III, Tertulianô đã viết: “Trước tiên, chúng tôi nghe đọc một đoạn sách các tông đồ, rồi hát một Thánh vịnh, và cuối cùng nghe đọc bài Tin Mừng  về 10 người phong cùi..” Thánh Augustinô (thế kỷ IV) cũng thường nói đến những Thánh vịnh đáp ca: “Thánh vịnh mà chúng tôi nghe hát và chúng tôi hát câu đáp, thì vắn.”[2] Dưới thời Đức Celestine I (422-432), ngài quyết định đưa 150 Thánh vịnh vào Thánh lễ. Vì thế,  trong thời của Đức Lêô I (440- 461), người ta thường hát Thánh vịnh với sự tham gia đáp lại của dân chúng bằng một câu điệp ca vắn gọn sau mỗi triệt của chính Thánh vịnh đó. Đến thế kỷ VIII, sách Ordo Romanus I đã mô tả rằng một thừa tác viên tiến đến giảng đài với cuốn Cantatorium (sách dùng cho nhạc đáp ca) trong tay để xướng đáp ca và một thừa tác viên khác thì xướng Alleluia. Đáp ca được thể hiện bởi một mình thừa tác viên, bằng không như Ordo Romanus V cho biết ca viên hát luân phiên với ca đoàn.[3]

 

 Vào thời Trung cổ, có hai điểm đặc biệt xảy ra: [i] Ca tiến cấp mất đi ý nghĩa và bản chất đáp ca: từ một ca khúc để suy niệm và đáp lại Lời Chúa vừa nghe, chúng trở thành một “phút giải lao” cho dân chúng. Lý do là Thánh vịnh bị thu vắn lại chỉ còn một hai câu, người ta “trang mỹ hóa” Thánh vịnh bằng những giai điệu phức tạp khó hát đến độ cần có ca sĩ chuyên nghiệp mới hát nổi. Thế là hát Thánh vịnh thành việc riêng của ca đoàn, dân chúng chỉ ngồi nghe ngâm nga hàng chục phút; [4] [ii] Phát triển việc tư tế cử hành Thánh Thể một mình cho nên chính ngài đọc luôn đáp ca. Sách lễ Rôma 1570 đã quy định thành luật rằng linh mục đọc luôn tất cả Thánh thư, ca tiến cấp (đáp ca), Alleluia hay Tractus và ca tiếp liên. Trong Thánh lễ trọng, tư tế đọc ca tiến cấp và Alleluia hay tractus nhưng những phần này cũng được ca đoàn hát. Cuối cùng, mẫu của bản văn ca tiến cấp được cố định thành một lời đáp, là một đoạn văn trích từ một Thánh vịnh và đáp ca được lặp đi lặp lại sau mỗi triệt của Thánh vịnh.[5]

 

Hiện nay, Thánh vịnh đáp ca được phục hồi trở lại vị trí quan trọng đặc biệt trong Phụng vụ Lời Chúa. QCSL 61 xác định Thánh vịnh đáp ca “có tầm quan trọng lớn về phụng vụ và mục vụ” vì giúp tín hữu suy niệm Lời Chúa và người xướng Thánh vịnh có một vai trò đặc biệt khi đọc/ngâm vịnh hay hát Thánh vịnh (QCSL 129).[6]   

 

Dựa theo những chỉ dẫn của Hội Thánh, hiện nay có hai thể thức được phép để hát Thánh vịnh đáp ca. [i] Thể thức xướng đáp: người xướng Thánh vịnh hay lĩnh xướng viên hát những lời Thánh vịnh, toàn thể dân chúng đáp lại bằng việc hát câu đáp ca; [ii] Thể thức trực tiếp: toàn bộ bài Thánh vịnh được hát liên tục (không có câu đáp ca) bởi người xướng Thánh vịnh hay lĩnh xướng viên (hát solo), mọi người thinh lặng lắng nghe; hoặc bởi toàn thể cộng đoàn hát chung với nhau (QCSL 61; BĐ 20). Tuy nhiên, giữa hai thể thức này, nên ưu tiên chọn hát Thánh vịnh đáp ca theo thể thức đối đáp giữa  người xướng Thánh vịnh hay lĩnh xướng viên với toàn thể dân chúng bởi vì đáp ca thuộc về cộng đoàn hơn là được phân bổ cho ca đoàn hay một nhóm khác (QCSL 61; BĐ 20; CHTL 162).[7]

 

III/ Ý NGHĨA

Sau khi lắng nghe Lời Chúa qua Bài đọc I, dân chúng sẽ đáp lại bằng việc hát hay đọc Thánh vịnh đáp ca cũng như Dân Chúa xưa kia khi thấy những việc kỳ diệu Chúa đã làm, họ đáp lại bằng những lời chúc tụng ngợi khen Ngài. Chẳng hạn khi Thiên Chúa dẫn đưa dân Ngài qua Biển Đỏ, Myriam đã đáp lại bằng việc tán tụng Chúa vì đã xô đẩy chiến mã cùng kỵ binh của Pharaon xuống lòng biển (x. Xh 15 -21); khi Thiên Chúa cho bà Anna một mụn con, nghĩa là giải thoát bà khỏi nỗi tủi nhục hiếm muộn con cái, bà cũng đáp lại bằng lời ngợi khen Thiên Chúa, Đấng đã làm cho phụ nữ son sẻ sinh con bảy lần (1Sm 2,5); khi Thiên Chúa giải thoát Tôbia khỏi đui mù, ông cũng đáp lại bằng lời ca khen Đấng đã tỏa sáng trên Giêrusalem và nơi tâm hồn ông (x. Tb 13,11); Điều này được thấy rõ ràng hơn trong Tân Ước, khi Thiên Chúa làm cho Đức Mẹ thụ thai mà vẫn còn khiết trinh, Mẹ đã cất lời hoan ca nhảy mừng trong Thiên Chúa là “Đấng Cứu Độ tôi” (Lc 1,45-55).

 

Hội Thánh đã dùng Thánh vịnh để diễn tả cùng một tâm tình như thế để đáp lại tình thương của Thiên Chúa, nhằm dâng lên Ngài lời ca khen chúc tụng, vì trước hết, theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, Bộ Thánh vịnh chính là sách nguyện của Hội Thánh. Các Thánh vịnh là những lời nguyện được cả dân Israel và Hội Thánh Kitô giáo hát lên. Như vậy, ý nghĩa thật rõ ràng: Thánh vịnh giúp cộng đoàn hiểu ý nghĩa Bài đọc Thánh Kinh hơn, nhất là tạo ra nơi tâm hồn tín hữu một tâm tình đáp lại Lời Chúa, vì Thiên Chúa vừa mới nói với chúng ta qua bản văn Bài đọc.[8]

 

Rất thường xuyên, Bài đọc I và Thánh vịnh đáp ca đan kết với nhau. Chúng có mối liên hệ với nhau xét về bản văn hay về ý nghĩa thiêng liêng. Vì thế, đáp ca còn được coi là “âm vang” của Bài đọc I.[9] Tuy nhiên, trong tiếng La-tinh, bài đáp ca được gọi là responsorium, không chỉ hiểu là đáp lại Lời Chúa, nhưng còn muốn nói đến thể văn xướng - đáp giữa ca viên với cộng đoàn nữa.[10]

 

Chức năng đầu tiên của Thánh vịnh đáp ca là cung cấp “khoảng không gian” nào đó cho cộng đoàn, để họ cá nhân hóa Lời Chúa vừa được công bố vì Thánh vịnh đáp ca thường vang vọng chủ đề của chính bài Sách Thánh, nhất là được tóm tắt trong lời đáp ca/điệp ca mà cộng đoàn lập lại vài lần.[11] Bởi lẽ Thánh vịnh đáp ca tóm tắt ý tưởng của Lời Chúa trong Phụng vụ Lời Chúa, hay nói cách khác là chìa khóa mở ra cánh cửa ý nghĩa của Phụng vụ Lời Chúa, cho nên Thánh vịnh đáp ca là con đường dẫn đến chỗ hiểu được toàn bộ Phụng vụ Lời Chúa. Bởi thế, người xướng Thánh vịnh nên đọc và nghiền ngẫm trước Thánh lễ toàn bộ các Bài đọc của Thánh lễ.[12]

 

Câu điệp ca giải thích ý nghĩa Kitô giáo của Thánh vịnh. Thông thường, câu này được rút ra từ chính Thánh vịnh đáp ca nhưng đôi khi lại được lấy từ một Thánh vịnh khác, hay từ một sách Cựu Ước hoặc Tân Ước. Nhờ câu điệp ca, cộng đoàn bắt đầu đáp lại Lời Chúa, họ sẽ sử dụng chính Lời Chúa để suy niệm và hấp thụ Lời Chúa vì Thánh vịnh đáp ca không chỉ liên quan đến Lời Chúa mà còn là chính Lời Chúa được linh hứng bởi ân sủng của Chúa Thánh Thần (QCSL 61; CHTL 161). Câu điệp ca còn giúp mở đầu cuộc đối thoại cho các phần sau của Phụng vụ Lời Chúa cũng như trong phần Phụng vụ Thánh Thể tiếp theo.[13]

 

IV/ ĐỀ NGHỊ MỤC VỤ

1) Dù có thể đọc hoặc hát Thánh vịnh đáp ca, nhưng các Thánh vịnh đã được dệt nhạc để hát, tức do bản chất, Thánh vịnh phải được hát lên. Vậy hát Thánh vịnh đáp ca là chọn lựa tốt nhất hơn là đọc/ngâm tụng (x. QCSL 61; NTTL 11; BĐ 20). Thánh vịnh được hát lên sẽ tạo ra một sự đổi thay, tức là hát chứ không phải là đọc bản văn như áp dụng cho Bài đọc (I/II) trước và sau Thánh vịnh. Đọc Thánh vịnh đáp ca chỉ như “đọc” là cách thức bất đắc dĩ khi không còn phương cách nào khác. Rất may, hầu như tín hữu Việt Nam nếu không hát thì “ngâm tụng” Thánh vịnh đáp ca [như khi đọc kinh bổn].[14] Cách “đọc mà như hát” này cũng thuận lợi cho việc suy niệm của cộng đoàn (BĐ 22).[15]

 

2) Nhằm giúp cho cộng đoàn hát Thánh vịnh dễ dàng, tránh gặp khó khăn khi phải hát những đáp ca mới mỗi tuần: “Một số bản văn đáp ca và Thánh vịnh đã được lựa chọn cho từng mùa trong năm, hoặc cho từng loại thánh nhân, để mỗi khi hát Thánh vịnh, có thể dùng các bản văn này thay cho bản văn hợp với Bài đọc liên hệ” (QCSL 61; MVTN 145):

a) Mùa Vọng: Lạy Chúa, xin ngự đến để giải thoát chúng con;

b) Mùa Giáng sinh: Lạy Chúa, hôm nay chúng con được chiêm ngưỡng vinh quang Ngài;

c) Mùa Chay: Lạy Chúa, xin nhớ lại lòng trung tín và nhân hậu của Ngài.

d) Mùa Phục sinh: Alleluia (hát hai hoặc ba lần).

e) Mùa Thường niên: (i) Thánh vịnh ca ngợi: Hãy ca tụng Chúa vì Người nhân hậu/ Lạy Chúa, chúng con ca ngợi Chúa, vì những kỳ công Ngài đã thực hiện/ Hát lên mừng Chúa một bài ca mới. (ii) Thánh vịnh cầu xin: Chúa ở gần những ai kêu cầu Chúa/ Lạy Chúa, xin nhận lời chúng con và cứu độ chúng con/ Chúa là Đấng nhân hậu từ bi.

 

Như vậy, cộng đoàn có thể hát điệp khúc/đáp ca theo mùa phụng vụ, còn lĩnh xướng viên hát Thánh vịnh theo ngày.[16]

 

3) Người xướng hoặc hát Thánh vịnh có thể xướng hoặc hát Thánh vịnh tại giảng đài hay tại một nơi thích hợp. Thế nhưng tốt nhất, nên thể hiện Thánh vịnh đáp ca tại giảng đài (x. QCSL 61; MVTN 145; BĐ 22),[17] vì không những Thánh vịnh là Lời Chúa mà còn nhằm phân biệt việc hát Thánh vịnh khác với những phần hát khác trong Thánh lễ.[18]

 

4) Dù có hai cách hát Thánh vịnh đáp ca là (i) cách hát đối đáp và (ii) cách hát trực tiếp, nhưng nên ưu tiên cho cách đối đáp, nghĩa là một người hát các câu Thánh vịnh, còn toàn thể cộng đoàn tham gia bằng hát câu đáp (x. QCSL 61; BĐ 20; MVTN 145). Các tài liệu phụng vụ không bao giờ đề cập đến việc chỉ riêng ca đoàn hát Thánh vịnh đáp ca.[19]

 

5) Nên có khoảng thinh lặng từ sau Bài đọc I đến lúc hát/đọc Thánh vịnh, khoảng chừng 15-30 giây là đủ (x. (QCSL 45, 56, 128; BĐ 28). Sự thinh lặng sau khi lắng nghe Bài đọc I/ Bài đọc II, như QCSL 45 đề nghị, có chức năng giúp cho các tín hữu đón nhận được “âm thanh trọn vẹn từ tiếng nói của Thánh Linh” và hợp nhất kinh nguyện cá nhân của họ “một cách gần gũi hơn với Lời Chúa và tiếng nói công khai của Hội Thánh.”[20] 

 

6) Thánh vịnh đối đáp là thành phần của Phụng vụ Lời Chúa, do đó, không thể lấy một bài hát “không Thánh Kinh” / bài ca “suy niệm” thay thế cho Thánh vịnh đáp ca hoặc xem như tương đương với Thánh vịnh đáp ca (thánh ca Cựu ước và Tân ước) đã được ghi trong Sách Bài đọc (x. QCSL 57, 61; BĐ 89; MVTN 146).

 

7) Khi tiến vào cung thánh đến chỗ giảng đài để hát/ngâm tụng Thánh vịnh đáp ca, cũng như sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ để trở về chỗ của mình, người xướng hát/ngâm tụng nhớ cúi chào bàn thờ [và vị chủ tế] (x. LNGM 72).

 

V/ SUY NIỆM

Lạy Chúa Giêsu, mùi thơm của Lời Chúa vẫn tiếp tục tỏa hương qua những vần thơ của Thánh vịnh. Sau Bài đọc thứ nhất, chúng con cần ngưng nghỉ trong thinh lặng để ấp ủ, suy đi nghĩ lại trong lòng về hành động quyền năng và những lời của Chúa. Những Bài đọc từ Cựu Ước hướng chúng con đến với biến cố Chúa đến với nhân loại trong thân xác phàm nhân. Cựu Ước báo trước giao ước mới sẽ được thiết lập bằng máu của Chúa. Qua những vần thơ của Thánh vịnh, chúng con ngắm nhìn sự mênh mông của vũ trụ. Lòng chúng con được đổ đầy những điều kỳ diệu vốn nằm trong kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa, Đấng đã quy tụ dân Itraen thành một dân thánh. Và chúng con cũng được ngập tràn những tư tưởng về sự viên mãn của thời gian, sau khi Chúa đến để thi hành kế hoạch của Chúa Cha, chúng con đã được ban cho ân huệ ưu tiên là được kể vào số những người Chúa chọn.

 

Chúa đã nói rằng mọi điều đã được viết về Chúa trong sách luật Môsê, trong sách các ngôn sứ và trong các Thánh vịnh phải được hoàn tất. Chúa đã muốn chúng con nhìn thấy bức linh họa về Chúa trong thi ca của Thánh vịnh. Chúa muốn chúng con ca hát ngợi khen công trình trác tuyệt Chúa đã hoàn thành trong sự tuân phục thánh ý Chúa Cha. Khi cất lên Thánh vịnh, chúng con nhận ra tiếng nói của Chúa đang thưa lên với Chúa Cha để ngợi khen và cảm tạ công trình tạo dựng và cứu độ của Người.

 

Thánh giám mục Ambrosio đã giải thích rất mê ly mầu nhiệm này: “Trong các Thánh vịnh, không chỉ Chúa Giêsu được sinh ra cho chúng con, Chúa cũng trải qua cuộc khổ hình sinh ơn cứu độ trong thân xác của Người, Người đã chịu chết và đã trỗi dậy, lên trời ngự bên hữu Chúa Cha”. Lạy Chúa, điều các tác giả Thánh vịnh nhìn thấy trước thì đã được công bố sau này trong Phúc Âm.

 

Lạy Chúa, khi chúng con hát Thánh vịnh, xin nhắc nhớ chúng con hát không phải nhân danh chúng con nhưng nhân danh Chúa và Hội thánh. Xin phù trợ chúng con để chúng con quên đi những mối quan tâm và hy vọng của cá nhân mình mà quy thuận theo khát vọng của Chúa để rồi thích ứng những tâm tư tình cảm chất chứa trong các Thánh vịnh thành tâm tư tình cảm của chúng con.

 

Xin để cho những tâm tư tình cảm trong các Thánh vịnh lắng đọng trong chúng con. Vị tông đồ Phaolô khuyên chúng con “hãy vui với người vui và buồn khóc với ai sầu khổ”. Lạy Chúa, trong thế giới và trong Hội thánh, có hàng triệu lý do khiến chúng con hân hoan hay buồn khóc. Xin ban cho chúng con ân sủng để hợp nhất với những anh chị em đang hạnh phúc hay than khóc sầu buồn. Khi cất lên Thánh vịnh ngợi khen, xin làm lòng chúng con đầy tràn cảm nhận về niềm hạnh phúc vui tươi của người khác, thậm chí đang lúc tâm hồn chúng con u buồn tê tái. Khi hát lên Thánh vịnh than vãn, xin để chúng con cảm nhận sự buồn sầu ít là trong lòng, gạt khỏi chúng con trạng thái phấn khởi hân hoan khi chúng con phải đối diện với những cảnh ngộ đau buồn của những anh chị em khác. Lạy Chúa, qua các Thánh vịnh, xin dạy chúng con biết trở nên tất cả cho mọi người. Amen.

 

Bài cùng chuyên mục:

Danh sách các Thánh Tử Đạo Việt Nam xếp theo ngày lễ (29/06/2028 11:30:38 - Xem: 2,175)

Tại Việt Nam, có nhiều kitô hữu đã hy sinh mạng sống làm chứng cho Tin Mừng và đức tin. Có 117 vị đã được Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II phong thánh ngày 19.6.1988, gồm

Thánh Mác-cô, tác giả sách Tin Mừng, (ngày 25/4) (24/04/2024 07:36:19 - Xem: 2,045)

Thánh Mác-cô là một trong bốn tác giả đã ghi lại cuộc đời của Chúa Giêsu. Bốn thánh sử viết Tin Mừng của Chúa Giêsu là Matthêu, Máccô, Luca và Gioan.

Đôi nét về Chúa nhật Lòng Chúa Thương Xót (23/04/2024 06:17:22 - Xem: 2,117)

Nhưng chính xác thì Lòng Chúa Thương Xót là gì? Sự sùng kính Lòng Chúa Thương Xót này bắt đầu từ đâu?

Thánh Anselmô, Giám mục, tiến sĩ Hội Thánh, (ngày 21/4) (20/04/2024 08:34:01 - Xem: 1,742)

Thánh Anselmô sinh tại Aoste, một thành phố nhỏ nằm trên ranh giới xứ Piémont và Thụy Sĩ. Người xuất thân trong một gia đình quí tộc, danh tiếng và giầu có.

Thánh Martinô I, Giáo hoàng, tử đạo, (ngày 13/4) (12/04/2024 07:29:07 - Xem: 2,233)

Thánh Mác-ti-nô sinh tại Todi miền Ombrie, nước Ý trong một gia đình đạo đức. Ngay từ nhỏ, thánh nhân đã hấp thụ một nền giáo dục tốt về mọi mặt.

Thánh Stanislao, Giám mục tử đạo, (ngày 11/4) (10/04/2024 07:31:40 - Xem: 2,870)

Thánh Stanislao sinh tại miền Cracovie nước Balan ngày 26 tháng 7 năm 1030 trong một gia đình giầu sang, phú quí. Thánh nhân là con trai duy nhất trong gia đình quyền quí, giầu sang,

Thánh Gio-An Bao-Ti-Xi-Ta Lasan, (linh mục ngày 07/4) (06/04/2024 07:26:50 - Xem: 2,533)

Thánh nhân được phúc sinh ra trong một gia đình thật đạo đức, cha Người là một vị thẩm phán nổi danh, mẹ Người là một thiếu phụ rất đạo hạnh.

Thánh Vinhson de Phaolô (ngày 04/4) (05/04/2024 07:22:51 - Xem: 2,533)

Thánh nhân tỏ ra có tinh thần bác ái, ưa thích cầu nguyện và có lòng sùng kính Đức trinh nữ Maria.

Thánh Isiđôrô, Giám mục và tiến sĩ Hội Thánh, (ngày 04/4) (03/04/2024 07:24:25 - Xem: 2,432)

Thánh Isiđôrô là em của vị thánh giám mục Léandre. Thánh nhân sinh năm 560 tại Tây Ban Nha. Gia đình của Ngài gồm có thánh Léandre, Fulgence, Florence.

Thánh Giu-se thành Nazareth (Ngày 19 tháng 3) (18/03/2024 07:58:22 - Xem: 2,993)

Thánh Giu-se là một con người hết sức đặc biệt vì Ngài được Thiên Chúa tuyển chọn để làm Cha nuôi của Chúa Giê-su và làm bạn trăm năm của Đức Maria.

Bài viết mới
Câu chuyện chiều thứ 7