Lời chúa mỗi ngày

Thứ Hai 12/02/2024 – Thứ Hai tuần 6 thường niên. MỒNG BA TẾT GIÁP THÌN. THÁNH HÓA CÔNG ĂN VIỆC LÀM. – Hưởng niềm vui của chủ.

  • In trang này
  • Lượt xem: 3,708
  • Ngày đăng: 11/02/2024 10:00:00

Hưởng niềm vui của chủ.

12/02 – Thứ Hai tuần 6 thường niên.   

MỒNG BA TẾT GIÁP THÌN. THÁNH HÓA CÔNG ĂN VIỆC LÀM.

“Tôi tớ tốt lành và trung tín”

 

Lời Chúa: Mt 25, 14-30

Bấy giờ, Đức Giêsu kể cho các môn đệ nghe dụ ngôn này: “Người kia sắp đi xa, gọi tôi tớ đến mà giao phó của cải mình cho họ. Ông đưa cho người này năm nén, người kia hai nén, người khác nữa một nén, tùy khả năng riêng mỗi người. Rồi ông ra đi.

Lập tức, người đã lãnh năm nén lấy số tiền ấy đi làm ăn buôn bán, và gây lời được năm nén khác. Cũng vậy, người đã lãnh hai nén gây lời được hai nén khác. Còn người đã lãnh một nén thì đi đào lỗ chôn giấu số bạc của chủ.

Sau một thời gian lâu dài, ông chủ của các đầy tớ ấy đến và yêu cầu họ thanh toán sổ sách. Người đã lãnh năm nén tiến lại gần, đưa năm nén khác, và nói: “Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi năm nén, tôi đã gây lời được năm nén khác đây.” Ông chủ nói với người ấy: “Khá lắm! anh đúng là tôi tớ tốt lành và trung tín! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!”

Người đã lãnh hai nén cũng tiến lại gần và nói: “Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi hai nén, tôi đã gây lời được hai nén khác đây”. Ông chủ nói với người ấy: “Khá lắm! anh đúng là tôi tớ tốt lành và trung tín! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!”

Rồi người đã lãnh một nén cũng tiến lại gần và nói: “Thưa ông chủ, tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi. Vì thế, tôi đâm sợ, mới đem chôn giấu nén bạc của ông dưới đất. Của ông vẫn còn nguyên đây này!” Ông chủ đáp: “Anh thật là tôi tớ xấu xa và biếng nhác! Anh đã biết tôi gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi, thì đáng lý anh phải gởi số bạc của tôi cho các chủ ngân hàng, để khi tôi đến, tôi thu được cả vốn lẫn lời chứ! Vậy các ngươi hãy lấy nén bạc khỏi tay nó mà đưa cho người đã có mười nén. Vì phàm ai đã có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi. Còn tên đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng.”

 

* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ  link CGKPV

 

* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ

 

 

 

 

1.      Tôi tớ tốt lành và trung tín--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

2.      Làm ăn sinh lời--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

3.      Sinh lời nén bạc Chúa trao --TGM Giuse Nguyễn Năng.

4.      Con kiến cần cù--Lm Giuse Đinh Lập Liễm

5.      Thánh hóa công việc làm ăn--Lm Giuse Đinh Lập Liễm

6.      Mùng Ba ra mắt--Lm Giuse Đinh Lập Liễm

7.      Thánh hóa công việc làm ăn--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm

8.      Bông hoa ngày Tết-- Lm Giuse Đinh Lập Liễm

9.      Cầu nguyện cho việc làm ăn--Lm. Giuse Đinh Tất Quý

10.    Thánh hóa công việc: Ga 5,16-20--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái

11.    Cầu nguyện cho công ăn việc làm--Lm Carôlô Hồ Bặc Xái

12.    “Đi làm ăn buôn bán”--Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc, S.J.

13.        Chúa thánh hoá công ăn việc làm--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi

14.        Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

15.        Mọi sự đều nhờ ơn Chúa--Lm Giuse Tạ Duy Tuyền

16.        “Ơn Trời Mưa Nắng Phải Thì”--Lm Giuse Tạ Duy Tuyền

17.        Lời Chúa Ngày MỒNG BA TẾT--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

18.        Thánh hóa công ăn việc làm --Giuse Trần Công Thượng

19.        Cha Tôi không ngừng làm việc--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi

20.        Thánh hóa công ăn việc làm--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi

21.        Xin Chúa Chúc Lành--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi

22.        Thánh hóa công ăn việc làm--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi

23.        Công ăn việc làm--Lm. Thái Nguyên

24.        Làm bởi bay, ban bởi Ta

25.        Suy niệm Lời Chúa--Lm. Nguyễn Thể Hiện

26.        Suy niệm Lời Chúa--Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện

27.        Thánh hóa công ăn việc làm

28.        Thánh hóa công việc làm

29.        Giọt mồ hôi có Chúa--Nt. Anna Têrêxa Thiên Hoàng

30.        Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”-- Jos. Vinc. Ngọc Biển

31.        Thánh hóa công việc--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

32.Làm việc với lòng yêu mến Chúa, và với tinh thần trách nhiệm--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

33. Thánh hóa công ăn việc làm--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

34. Thánh hóa công việc--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

35. Việc làm và làm việc trong năm mới sẽ như thế nào?--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

36. Ai không làm việc thì cũng đừng ăn--Lm Đan Vinh

37. Ai không muốn làm việc thì cũng đừng ăn--Lm Đan Vinh

38. Xin Chúa sáng soi cho biết việc phải làm--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

39.  Thánh Hoá Công Việc Làm Ăn--Lm. Anthony Trung Thành

 

1.   Tôi tớ tốt lành và trung tín--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

Lao động đúng là vinh quang của con người,

Thiên Chúa vẫn cần con người cộng tác cho công cuộc sáng tạo còn dang dở…

Ngài vẫn muốn nhờ con người mà làm cho thế giới này đẹp hơn, dễ sống hơn,

làm cho trái đất này trở thành một ngôi làng ấm áp, xinh xắn, gần gũi

cho hơn sáu tỷ người sống như anh chị em.

Từng ngày bao người vẫn cộng tác với Thánh Thần để biến đổi bộ mặt trái đất.

Có một lời nguyện rất hay của Phụng vụ Giờ Kinh tóm kết về giá trị của lao động:

“Ước gì những công việc chúng con phải làm, vừa nuôi dưỡng chúng con,

vừa mưu ích cho những người chúng con chịu trách nhiệm,

lại vừa làm cho triều đại Chúa mau đến.”

Như thế lao động là một bổn phận của người Kitô hữu.

Lao động không phải là một hình phạt của tội nguyên tổ.

Thống trị mặt đất và làm bá chủ mọi loài (St 1, 28).

là sứ mạng Thiên Chúa trao cho con người ngay sau khi nó được tạo dựng.

Trước khi phạm tội, con người đã được Đức Chúa “đặt vào vườn Êđen,

để cày cấy và canh giữ đất đai” (St 2, 15).

Làm việc với đất, với vườn, với đủ thứ cây trái là một vinh hạnh lớn.

Thánh Phaolô cũng thấy cái thú trong việc “làm lụng vất vả”

để nuôi thân và để “giúp đỡ những người đau yếu” (Cv 20, 35).

Có pha một chút tự hào, vị tông đồ lừng danh này khoe:

“Những gì cần thiết cho tôi, và cho những người sống với tôi,

đôi tay này đã tự cung cấp” (Cv 20, 34).

Chẳng biết từ đâu Phaolô nghe được câu này mà ông bảo là của chính Chúa Giêsu:

“Cho thì có phúc hơn là nhận”

Làm việc chính là “cho”, và “cho” thật là một hồng phúc.

Đầu tư là vấn đề nóng bỏng của mọi nền kinh tế.

Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu dám ví đời sống Kitô hữu với chuyện làm ăn.

Ông chủ Giêsu đi vắng thời gian lâu (c.19), giao của cải cho tôi tớ đầu tư sinh lợi.

Chẳng phải ai cũng được số nén bạc như nhau,

nhưng mỗi người phải cố gắng tối đa với những gì mình đã lãnh nhận.

Hai người đầu tiên đã đi làm ăn và sinh lợi tương xứng,

được ông chủ coi là “tôi tớ tốt lành và trung tín.” (cc. 21.23).

Người thứ ba lại đào lỗ đưới đất và chôn dấu nén bạc duy nhất của mình.

Nén bạc của anh thứ ba còn nguyên, không sinh lợi,

vì thế anh bị coi là “tôi tớ xấu xa, biếng nhác và vô dụng” (cc. 26.30).

Trong khi chờ Chúa trở lại, chúng ta nỗ lực sử dụng tài năng Chúa ban.

Làm sao sinh lợi được nhiều nhất và hiệu quả nhất từ số vốn mình nhận?

Làm sao để Thiên Chúa được vinh danh hơn trên mặt đất này?

Đầu tư đòi sáng tạo của khối óc và đam mê của trái tim.

Đầu tư đòi chấp nhận liều lĩnh, nỗ lực và căng thẳng.

Nhưng chúng ta dám chấp nhận sự dấn thân này chỉ vì yêu Giêsu.

 

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

nếu ngày mai Chúa quang lâm,

chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng.

Thế giới này còn bao điều khiếm khuyết, dở dang,

còn bao điều nằm ngoài vòng tay của Chúa.

Chúa đâu muốn đến để hủy diệt,

Chúa đâu muốn mất một người nào…

Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa

xây dựng một thế giới yêu thương và công bằng,

vui tươi và hạnh phúc,

để ngày Chúa đến thực là một ngày vui trọn vẹn

cho mọi người và cho cả vũ trụ.

Xin nuôi dưỡng nơi chúng con

niềm tin vững vàng

và niềm hy vọng nồng cháy,

để tất cả những gì chúng con làm

đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại.

 

2.   Làm ăn sinh lời--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

Mồng Ba Tết, chúng ta xin Chúa thánh hóa công ăn việc làm.

Chúng ta muốn dâng cho Chúa

những điều chúng ta đang làm ở công ty, ở trường, ở chợ,

ở phòng thí nghiệm, ở sân khấu, ở nhà thương,

hay ở góc tối âm thầm của một căn phòng nhỏ.

Chúng ta muốn dâng cho Chúa

những việc giúp chúng ta đủ ăn, đủ mặc, đủ sống,

những việc làm đem lại lợi ích cho tha nhân,

những việc làm cho trái đất này đẹp hơn, đáng sống hơn.

Tất cả những việc ấy, dù nhỏ bé hay trần tục, tầm thường,

chúng ta xin trao vào tay Chúa,

để chúng trở nên vĩ đại, thánh thiêng, và cao cả.

Ngay từ lúc sáng thế, làm việc không phải là một hình phạt,

nhưng là một đặc quyền Thiên Chúa dành cho con người.

Ngài cho họ được cộng tác với Ngài trong công trình sáng tạo.

Công trình này, tuy tốt đẹp, nhưng vẫn còn dở dang.

Thiên Chúa cố ý để dở dang, và nhờ con người hoàn thiện nó.

“Cho đến nay Cha Tôi vẫn làm việc, và Tôi cũng làm việc” (Ga 5,17).

Làm việc là hoạt động của Thiên Chúa hướng về con người.

Làm việc cũng là hoạt động của con người hướng về Thiên Chúa.

Bài Tin mừng hôm nay là một dụ ngôn khá đặc biệt,

vì rất gần với chuyện ngoài đời như làm ăn, đầu tư, sinh lời.

Dụ ngôn kể chuyện một ông chủ phải đi xa,

nên cấp vốn cho các đầy tớ của mình.

Ông tin tưởng họ và dám giao cho họ những số vốn rất lớn,

nhưng không phải ai cũng như nhau.

Người được năm yến, người hai yến, người một yến.

Có sự khác biệt như vậy vì ông biết khả năng của từng người.

Điều ông muốn là các đầy tớ dùng số vốn đó mà kinh doanh.

Hai anh đầy tớ đầu tiên quả xứng đáng với kỳ vọng của ông.

Anh lãnh năm yến đã sinh lợi được năm yến khác.                                                

Anh lãnh hai yến đã sinh lợi được hai yến nữa.

Còn anh thứ ba thì đào lỗ chôn dấu nén bạc của chủ.

Sau một thời gian dài, ông chủ trở về, kêu họ tính sổ.

Hai anh đầy tớ đầu tiên được khen một câu giống hệt nhau:

“Khá lắm, hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành,

Được giao ít mà anh trung thành, tôi sẽ giao nhiều cho anh.

Hãy vào hưởng niềm vui của chủ anh!” (Mt 25,21.23).

Như thế, người đầy tớ sinh lợi hai yến

cũng được khen thưởng như người sinh lợi năm yến,

vì anh ấy đã cố gắng hết sức với số vốn nhỏ hơn được giao.

Đến lượt anh đầy tớ thứ ba, người được giao một yến.

Anh này coi ông chủ là người hà khắc, bất công,

quen gặt thu ở nơi mình không gieo vãi (Mt 25,24).

Chính vì thế anh sợ, mới đem chôn giấu yến bạc đi.

Anh bị chủ mắng là đầy tớ tồi tệ và biếng nhác,

vì yến bạc còn nguyên, không sinh lợi được chút nào.

Ông chủ có là người hà khắc như anh này nghĩ không?

Ông có bắt các đầy tớ đầu tư để sinh lợi cho mình không?

Rõ ràng là không, vì ông đã lấy lại yến bạc của anh cuối,

để đưa cho anh đầu tiên,

anh này hiện đang có mười yến (Mt 25,28).

Ông chủ đi xa là hình ảnh của Đức Giêsu,

chúng ta như đầy tớ chờ Ngài đến vào ngày Quang Lâm.

Trong khi chờ đợi, Ngài đòi chúng ta phải kinh doanh,

với số vốn Ngài ban là các khả năng tự nhiên, siêu nhiên.

Dù vốn nhiều hay ít, Ngài không cho phép chúng ta ngồi yên,

giữ khư khư nén bạc vì sợ mất vốn hay thua lỗ.

Ngài muốn chúng ta mạnh dạn, và đôi khi liều lĩnh

dấn thân vào những công việc mới mẻ, khó khăn.

Ngài không đòi chúng ta phải nộp cho Ngài cả vốn lẫn lời.

Hạnh phúc của Thiên Chúa là thấy chúng ta trưởng thành

nhờ cùng làm việc với Thiên Chúa cho trái đất này,

cho những anh chị em thiếu may mắn.

Cuộc đời của Kitô hữu được ví như chuyện kinh doanh.

Vào ngày tận thế, Chúa sẽ gọi tôi ra sao:

Đầy tớ trung tín tốt lành, hay đầy tớ xấu xa biếng nhác?

CẦU NGUYỆN

Lạy Chúa, con cám ơn Chúa

về tất cả những điều Chúa đòi hỏi nơi con trong suốt cuộc đời.

Chúc tụng Chúa về thời đại con đang sống.

Chúc tụng Chúa về những giờ phút sướng vui

và những ngày tủi thân buồn bã.

Chúc tụng Chúa về cả những gì

Chúa đã không cho con được hưởng.

Lạy Chúa, xin đừng sa thải

người tôi tớ bất xứng và lười biếng của Chúa đây.

Ôi lạy Chúa khôn ngoan, nhân hậu và yêu thương,

xin đừng đuổi con xa Chúa.

Xin giữ con để con luôn phụng sự Chúa trong suốt đời con.

Xin giữ con để con phục vụ bất cứ điều gì Chúa muốn.

Dù khi mỏi mệt, dù khi chán chường,

con xin Chúa vẫn luôn kiên nhẫn,

để không bao giờ mỏi mệt về con,

và giữ con luôn luôn phụng sự Chúa.

Xin Chúa đến giúp con,

ban cho con ơn bắt đầu và lại bắt đầu,

cho con biết cậy trông

cả những khi cùng đường tuyệt vọng,

cho con tin chắc rằng Chúa sẽ thắng,

một chiến thắng huy hoàng nơi con.

Karl Rahner

 

3.   Sinh lời nén bạc Chúa trao --TGM Giuse Nguyễn Năng

Sứ điệp: Sức khỏe, thời giờ, tài năng, các ơn Chúa ban, đó là những nén vàng nén bạc Chúa trao cho đời ta. Ta hãy sinh lời bằng việc sử dụng những món quà đó cho đẹp lòng Ngài.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa vì Chúa đã tín nhiệm con, ban cho con sức khỏe, thời giờ, tài năng, và muôn ngàn ân huệ, như những nén vàng nén bạc. Vốn liếng đó Chúa mong con phát huy thành mối lợi thiêng liêng. Chúa sẽ vui lòng biết bao khi thấy con biết tận dụng thời gian để làm những điều đẹp lòng Chúa. Con biết dùng sức khỏe, khả năng và các ơn Chúa ban, để phục vụ Chúa và giúp đỡ anh em, đó là con biết sống xứng đáng với lòng thương của Chúa.

Lạy Chúa, Chúa là Chân Thiện Mỹ, Chúa đã chẳng tiếc gì khi chia sẻ điều tốt lành cho con, nhưng với mục đích để con sử dụng các ân huệ ấy mà cộng tác vào công trình sáng tạo và cứu chuộc của Chúa.

Tuy thế, con biết Chúa ban cho mỗi người những ân huệ và với mức độ khác nhau. Chúa chỉ cần con sử dụng các ân huệ ấy hết khả năng của con. Ai được ban nhiều, Chúa đòi sinh lời nhiều, kẻ được ít, Chúa đòi ít hơn. Xin cho con đừng ghen tương phân bì với số phận anh em con.

Khi con được năm nén, xin đừng để con kiêu căng tự đắc, nhưng xin cho con biết tạ ơn Chúa: tạ ơn bằng cách quảng đại phục vụ chứ không phung phí ơn Chúa. Khi con được hai nén, xin cho con cũng biết quảng đại phục vụ với khả năng nhỏ bé của mình. Và nếu con được Chúa ban một nén, xin đừng để con vì vậy mà lười biếng, tự ti mặc cảm, than trách phận mình và oán than cả Chúa. Amen.

Ghi nhớ: “Vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi”.

 

4.   Con kiến cần cù--Lm Giuse Đinh Lập Liễm

Hôm nay Mồng Ba tết Giáp Ngọ, Giáo hội Việt nam muốn dành riêng để xin ơn thánh hóa công việc làm ăn trong năm mới, đồng thời xin Chúa chúc lành cho mọi công việc làm ăn chủa chúng ta trong suốt năm mới, biết lao động cho thích hợp để mưu cầu hạnh phúc cho mọi người, cũng như góp phần vào việc làm sáng danh Chúa trong mỗi công việc của chúng ta.

Chúng ta có một gương đặc biệt về sự cần cù làm việc, đó là con kiến. Khi nói đến con kiến, tự nhiên trong đầu óc chúng ta nảy ra ý tưởng là sự cần cù làm việc, nhất là qua bài thơ ngụ ngôn “Con ve và con kiến” của thi sĩ La Fontaine.

Chúng ta cùng tìm hiểu về loài kiến với các nét đặc trưng của chúng và rút ra một bài học thực hành cho cuộc sống chúng ta.

I. TÌM HIỂU LOÀI KIẾN

1. Một loại côn trùng đặc biệt

Các nhà sinh học vừa khẳng định: kiến, loại côn trùng “cổ” nhất, thay đổi ít nhất trong quá trình tiến hóa và nhiều triệu năm sau vẫn tồn tại trên hành tinh này lại là một loài thường hay gặp nhất.

Kiến là loài con trùng sống hầu như ở khắp mọi nơi trên trái đất, trừ vùng băng giá và đại dương.

Kiến cũng có nhiều loại với nhiều mầu sắc khác nhau như kiến đen, kiến lửa, kiến càng, kiến gió… và mỗi loại có một lãnh thổ riêng, một phạm vi sinh sống riêng của mình.

Chúng sống thành bầy đàn, phân chia nhiệm vụ rõ ràng, có tôn tri trật tự, biết bảo vệ lẫn nhau và cũng đi xâm lăng, cướp bóc, bắt nô  lệ, chăn nuôi sâu bọ lấy “sữa”…

Số lượng loài kiến trong một tổ có thể từ vài chục cho đến hàng ngàn con… nhưng đứng đầu luôn là kiến chúa, còn lại hầu như là các nữ kiến thợ với những nhiệm vụ như tìm kiếm thức ăn, nuôi nấng kiến con và đánh nhau khi có chiến tranh. Có rất ít kiến đực và chúng chỉ xuất hiện trong một thời gian ngắn với phận sự duy nhất là giao phối với kiến Chúa để duy trì nòi giống, sau đó chết. Như vậy, có thể nói tổ kiến gồm toàn là các nữ kiến.

2. Cấu trúc xã hội loài kiến

Hầu hết mọi xã hội loài kiến được chia ra làm ba thành phần, đó là kiến chúa, kiến thợ và kiến đực. Sau khi giao phối với một trong những chàng kiến đực, kiến chúa bắt đầu làm tổ và chỉ đẻ trứng  trong suốt cuộc đời còn lại của mình… Kiến chúa không cai trị tổ kiến nhưng các kiến thợ  luôn mang thức ăn lại  nuôi  như chúng nuôi lẫn nhau. Có tổ chỉ có một kiến chúa nhưng có tổ lại có nhiều kiến chúa cùng lúc.

Ngoài nhiệm vụ chăm sóc và nuôi nấng kiến chúa, đàn kiến thợ còn có nhiệm vụ xây tổ, mở mang tổ rộng hơn, sửa chữa tổ khi bị hư hại, chăm sóc ấu trùng hay trứng kiến, tìm kiếm thức ăn và chiến đấu với kẻ thù. Một nữ kiến thợ có thể chỉ làm một công việc suốt đời, nhưng cũng có thể thay đổi từ việc này qua việc khác.

Trong tổ kiến, lười nhất là những chàng kiến đực, chẳng làm việc gì khác ngoài nhiệm vụ giao phối với nàng kiến chúa và có cuộc đời ngắn ngủi nhất. Nói cách khác, trong một bầy kiến, có tới 80% kiến tham gia  vào những việc như ta thường gọi là lao động công ích cho xã hội, chỉ có 20% còn lại là có thể tạm gọi là “lao động gián tiếp”, nói đúng ra chỉ rong chơi, ăn sẵn, chờ làm cái việc duy trì nòi giống.

Hình dáng kiến thợ to nhỏ khác nhau. Thường thì kiến lính to nhất, với đầu và hàm to nhất. Ở một số loài kiến, kiến lính chỉ có nhiệm vụ chiến đấu và bảo vệ. Nhưng ở số loài kiến khác, kiến lính chẳng có nhiệm vụ gì đặc biệt cả (theo Internet).

3. Đặc tính của loài kiến

Kiến là loài vật nhỏ bé, xinh xắn nhưng cần cù và chăm chỉ này có một cái gì đó rất giống với xã hội loài người của chúng ta, một xã hội chứa đựng trong đó biết bao nhiêu câu chuyện, biết bao nhiêu vấn đề phát sinh cần phải giải quyết. Có thể nói: xã hội loài kiến  chính là xã hội thu nhỏ của xã hội loài người. Chúng cũng có những ranh giới và những qui định riêng cần phải được tôn trong.

Nếu có dịp đọc tác phẩm “Dế mèn phiêu lưu ký” của nhà văn Tô Hoài, một tác phẩm nổi tiếng và đầy chất nhân văn về xã hội loài vật: khi chú dế mèn với cương vị là sứ giả hòa bình đến thăm vương quốc loài kiến, điều mà chú dễ dàng nhận thấy đó là loài kiến  cũng có những cấp bậc thứ tự khác nhau. Cao nhất là kiến chúa, rồi đến các loài kiến khác như kiến chỉ huy, kiến thợ…

Loài kiến muốn tồn tại và phát triển thì cần phải có sự đoàn kết và hợp tác bởi vì: “Hợp quần gây sức mạnh”. Chúng ta hãy xem: một con sâu to thì một con kiến nhỏ bé như thế làm sao có thể khiêng về tổ được? Vậy mà 100 con kiến có thể khiêng nổi con sâu mà đem về tổ đấy.

II. GƯƠNG LAO ĐỘNG CỦA LOÀI KIẾN.

Những ngày ở bậc tiểu học, thập niên 50, mỗi học sinh đều phải thuộc lòng câu chuyện ngụ ngôn của La Fontaine về “Con ve và con kiến”. Chuyện kể là con ve chỉ thích ca hát suốt các ngày hè tươi đẹp, còn đàn kiến thì cần cù lo chuyên chở dự trữ lương thực và xây tổ đề phòng cho những ngày đông giá lạnh. Con ve thực sự tỉnh ngộ và cay đắng khi phải đến tổ kiến  để xin ăn và chỗ ở…

Chuyện này là một mô hình luân lý của tính khôn ngoan, ham làm việc và biết lo xa của đàn kiến so với những thói hư tật xấu của loài ve ham chơi.

Hoặc nếu có dịp đọc thơ ngụ ngôn của Esope, một thi sĩ cổ Hy Lạp, chúng ta cũng thấy có một bài thơ ngụ ngôn tương tự:

Vào một ngày mùa đông đẹp trời, vài con kiến đang bận việc sấy khô ngô đã bị uót  sau một trận mưa dài. Lúc đó, một con ve từ đâu bay tới xin kiến cho ít hạt ngô vì nó nói:

- Tôi sắp chết đói mất.

Lũ kiên ngưng làm việc một lúc mặc dù trái với qui định của chúng. Chúng nói:

- Chúng tôi có thể hỏi : anh đã làm gì suốt cả mùa hè qua? Tại sao anh không đi tìm thức ăn để dự trữ cho mùa đông?

Ve trả lời:

- Tôi quá bận rộn với việc ca hát nên không có thời giờ nữa.

Lũ kiến trả lời:

- Nếu anh dùng mùa hè để hát thì không gì tốt hơn là hãy dùng mùa đông để nhảy múa.

Nói xong, chúng mỉm cười và lại tiếp tục công việc của mình.

Đọc xong hai câu truyện trên, bạn nghĩ gì về những chú kiến? Chắc hẳn những từ ngữ  xuất hiện trong đầu bạn  là loài kiến luôn làm việc, siêng năng, cần mẫn. Đúng thế, kiến là biểu tượng cho sự làm việc không biết mỏi mệt, luôn làm hết sức mình. Như chúng ta biết, thân hình nhỏ bé là thế nhưng chú luôn cố gắng tha tất cả những gì kiếm được về tổ của mình, vì đó là công việc của chú, nhiều khi trọng lượng của con mồi gấp đến 50 lần cơ thể của chúng.

Còn một hình ảnh đẹp nữa của các chú kiến ấy: đó là đàn kiến. Chẳng bao giờ kiến đi làm việc riêng rẽ cả. Chúng biết phân công rất tốt, cứ mỗi khi phát hiện ra con mồi, thức ăn, chúng sẽ cử ngay vài thành viên về báo tin, và sau đó, đàn đàn lũ lũ kiến  sẽ kéo đến cùng làm việc. Chính vì sự hợp tác làm việc rất tốt này  mà chúng ta sẽ thấy công việc của chúng hoàn thành thật mau lẹ.

Từ ngàn xưa các cụ đã có một lời khuyên rất khôn ngoan: “Tích cốc phòng cơ”, có nghĩa là  phải dự trữ lương thực phòng lúc đói kém, mất mùa.

Có người cho rằng:  người sống ở thành thị không có “cốc” thì lấy gì mà “tích”?

Thực ra, câu này phải hiểu theo ý mở rộng một chút, không nên hiểu theo nghĩa hẹp là để dành lương thực khi có dư để gặp lúc giáp hạt như này xưa. “Tích cốc” ở đây nên hiểu là sự dành dụm tiền bạc để đầu tư cho tương lai, sự chuẩn bị về học vấn, nghề nghiệp để phòng lúc khó khăn, công ăn việc làm lúc thiếu thốn.

Câu tục ngữ này muốn cho hoàn chỉnh thì phải nói là: “Tích cốc phòng cơ, tích y phòng hàn”, có nghĩa là tích trữ lương thực phòng khi đói kém, trữ quần áo phòng khi trời giá rét.

Con kiến là bài học cho chúng ta suy nghĩ để biết cách sống cho có hiệu quả tốt. Quá khứ đã qua đi, hiện tại còn đó, nhưng còn phải nghĩ đến tương lai vì tương lai lệ thuộc vào hiện tại theo nguyên lý nhân quả: “nguyên nhân tốt thì hậu quả tốt”.

Nếu con người không biết lo xa thì phải rước lấy hậu quả xấu như bài thơ ngụ ngôn “Con ve và con kiến”, đúng như lời các cụ xưa đã nói: “Nhân vô viễn lự, tắc hữu cận ưu”: người không biết lo xa, ắt phải buồn gần.

III. VÀI SUY NGHĨ  TỪ LOÀI KIẾN

1. Mọi người phải làm việc

Chúa Giêsu phán: “Cha Ta làm việc luôn, và Ta cũng làm như vậy” (Ga 5,17). Chính Chúa Giêsu đã khẳn định Ngài cũng phải làm việc như Cha Ngài. Như vậy, lao động được coi như một việc thánh thiêng.

Do đó, chúng ta cũng phải khẳng định rằng  lao động không phải là hình phạt của tội lỗi. Trước khi nguyên tổ loài người du nhập tội lỗi lịch sử vào thế giới, nhân loại đã có lao động rồi vì con người được Thiên Chúa dựng nên và đặt vào Vườn Đại đàng, không phải để ngồi chơi xơi nước, nhưng là để họ “trồng tỉa và coi sóc vườn” (St 2,15).

Trước sau, lao động đều có mục đích chính yếu là thăng hoa đời sống con người. Tuy nhiên, từ  giây phút con người đa mang tội lỗi, lao động vướng mắc và bao chứa  thêm hậu quả nặng nề của tội lỗi, đó là gian truân và đau khổ (x. St 3,16-19). Chính cái vướng mắc và bao chứa này khiến cho lao động chiếm đoạt thêm nhiều giá trị nhân bản và siêu nhiên.

Ta nhìn vào vũ trụ thì nhận thấy đây là bộ máy khổng lồ mà các bộ phận hoạt động không bao giờ ngừng, từ con người, thú vật, cây cối đến đất đá. Vì bao lâu các vật ngưng hoạt động thì lúc đó vũ trụ hết sức sống và không thể tồn tại được.

Loài kiến lao động thật cần cù, nhưng chỉ hành động theo bản năng, không làm theo ý thức và tự do.3 Ngược lại, con người được hành động trong ý thức và tự do, khiến cho lao động mang một ý nghĩa cao quí là theo gương Chúa và cộng tác với Chúa mà làm việc.

2. Lao động và nghỉ ngơi

Lao động phải có sự nghỉ ngơi. Theo sách Sáng thế, chúng ta thấy Thiên Chúa dụng nên trời đất trong sáu ngày và ngày thứ bảy Ngài nghỉ. Sau này người Do thái đã giữ luật nghỉ ngày sabat rất ngặt (x. Xh 34,21). Sức con người có hạn, không thể làm việc kéo dài đến vô tận. Một chiếc máy được dùng trong một thời gian cũng phải cho nghỉ  chứ không phải dùng mãi được. Chúng ta tưởng quả tim làm việc liên tục  ngày này qua ngày khác mà không nghỉ sao?

Dale Carnegie cho biết: nhiều người tưởng quả tim làm việc không ngừng. Kỳ thực mỗi lúc bóp vào là nó nghỉ. Nếu đập đến 70 cái trong một phút thì trong 24 giờ, nó nghỉ đến 9 giờ, cộng chung các khoản nghỉ lại thì mỗi ngày nó nghỉ 15 giờ. Đó! nhờ cách nghỉ lai rai như vậy  thì tim ít khi ngã lăn ra  đòi nghỉ dài hạn vì mệt ngất!

Sách Giảng viên cũng nói: “Ở dưới bầu trời này, mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời: một thời để chào đời, một thời để lìa thế, một thời để trồng, một thời để nhổ cây” Gv 3,1-2),

Như vậy, con người chúng ta cũng có thời giờ để làm việc, cũng có thời giờ để nghỉ ngơi theo như chương trình Thiên Chúa đã an bài. Làm việc nhiều quá không tốt, nghỉ ngơi nhiều quá cũng không tốt, luôn phải ở mức trung bình, giờ nào việc ấy theo nguyên tắc thần học: “Virtus in medio stat”: nhân đức nằm ở chỗ trung dung, nghĩa là không thái quá, cũng không bất cập.

Mối tương quan giữa cầu nguyện và làm việc cũng vậy, phải ở mức trung dung, không phải cả ngày cứ cầu nguyện, cũng không phải cả ngày chỉ làm việc. Mỗi ngày phải có thời giờ làm việc, cũng phải có thời giờ nghỉ ngơi, thời giờ cầu nguyện. Nhưng trong thực tế, thời giờ làm việc nhiều khi lấn át thời giờ cầu nguyện, thậm chí có người cả một ngày không có lấy một phút để cầu nguyện.

3. Thần học về lao động

Nhiều người coi lao động là một hình phạt khổ sai, còn “thư nhàn” mới là đáng quí. Ngược lại, chúng ta chủ trương rằng: “Lao động là vinh quang”, sở dĩ chúng ta dám quả quyết như vậy là vì chúng ta được tham gia vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa.     

Đọc chương đầu của sách Sáng thế, chúng thấy Thiên Chúa đã dựng nên con người “giống hình ảnh Ngài” (St 1,26). Các nhà chú giải Thánh Kinh cho rằng loài người giống Thiên Chúa nhờ sự thông minh và tự do, giống Thiên Chúa ở điểm loài người có uy quyền bá chủ vạn vật: “Ta hãy dựng nên con người giống hình ảnh Ta để họ làm chủ cá biển, chim trời, muôn thú vật trên đất và mọi côn trùng sống động trên địa cầu”: (St 1,26). Như vậy, theo nghĩa chung, lao động tinh thần hay vật chất đều mang ý nghĩa trọng đại là “cộng tác vào việc sáng tạo của Thiên Chúa”.

E. Krebs đã không ngần ngại tuyên bố: “Khái niệm căn bản về giá trị tuyệt đối của tất cả hoạt động nhân sinh đã được phú ban cho loài người nhờ lòng tin vào Thiên Chúa sáng tạo. Ngài là Đấng tự do và khôn ngoan, sau khi dựng nên loài người đã nghỉ ngơi ngày thứ bảy để giao phó cho họ tiếp tục thực hiện chương trình sáng tạo của Ngài có từ đời đời (Le Travail, Paris, 1933, tr 350).

Mọi sự trên thế gian này là của Chúa nhưng Ngài muốn cho con người quản trị, đổi mới và làm cho phong phú thêm. Chúng ta có thể nói Thiên Chúa là nguyên nhân đệ nhất, còn chúng ta là nguyên nhân đệ nhị của vũ trụ. Ngay sự quan phòng hằng ngày cũng là một cuộc sáng tạo không ngừng. Chúng ta là nguyên nhân đệ nhị  và chỉ có thể góp phần vào với nguyên nhân đệ nhất.

Chính công đồng Vatican 2 cũng xác quyết : làm việc là góp phần vào việc sáng tạo và hoàn thành ý định của Thiên Chúa trong lịch sử:

“Thực vậy, trong khi mưu sinh cho mình và cho gia đình, tất cả những người nam cũng như nữ hoạt động để phục vụ xã hội một cách hữu hiệu đều có lý do để tin rằng nhờ lao công của mình họ tiếp nối công trình của Tạo hóa, phụng sự anh em, đóng góp công lao mình vào việc hoàn thành ý định của Thiên Chúa trong lịch sử” (Gaudium et spes).

Chúng ta hãy phó thác mọi công việc cho Chúa trong năm mới này. Hãy nỗ lực làm việc không ngừng. Nhưng muốn cho mọi công việc lao động của ta có ý nghĩa hơn, ta hãy làm với tinh thần vui tươi, với ý thức rằng ta làm việc  để cho Chúa hài lòng, để danh Chúa được cả sáng và Nước Chúa trị đến  nơi ta đang làm việc.

Truyện: Ba người thợ xây thánh đường

Một nhà văn Pháp có kể chuyện ba anh đẽo đá, đại khái như sau:

Hôm nọ, có người khách đến viếng ngôi thánh đường vừa khởi công. Ba người thợ đang làm đá. Người khách hỏi một người:

- Anh làm gì đó?

Người thứ nhất trả lời với giọng uể oải:

- Tôi đang dũa đá, thật khốn cho cái đôi tay chai đít phỗng của tôi.

Người thứ hai lễ độ hơn, trả lời:

- Tôi đang kiếm tiền nuôi vợ con tôi.

Còn người thứ ba hiên ngang trả lời:

- Còn tôi, tôi đang xây ngôi thánh đường…

Và người ấy rang rang cất tiếng hát.

 

5.   Thánh hóa công việc làm ăn--Lm Giuse Đinh Lập Liễm

Trong những ngày đầu xuân, chúng ta vẫn thường chúc nhau: “Năm mới làm ăn thịnh vượng. Con cháu siêng năng ngoan ngoãn…” Điều đó cho thấy người Việt nam chúng ta rất quí trọng lao động. Trong kho tàng ca dao tục ngữ không thiếu gì những câu đề cao giá trị của lao động như: “Có làm thì mới có ăn, không dưng ai dễ đem phần đến cho”.

Đồng cảm với dân tộc, Giáo hội Việt nam đã dành riêng ngày Mồng Ba Tết để xin Chúa thánh hóa và chúc lành cho công việc làm ăn trong năm mới, giúp cho người Kitô hữu hiểu rõ giá trị của lao động, lao động trí óc cũng như chân tay.

Đồng thời, nhân dịp đầu năm, Giáo hội còn nhắc nhở cho con cái mình hiểu rằng lao động không còn là một hình phạt khổ sai, nhưng là một vinh dự  vì nhờ lao động, con người được cộng tác với Thiên Chúa, Đấng vẫn luôn làm việc trong công trình sáng tạo của mình;  và cũng góp phần làm cho con người được hạnh phúc.

I. MỌI NGƯỜI PHẢI LÀM VIỆC

1. Thiên Chúa đã và đang làm việc

Thật vậy, ngay từ đầu, Kinh thánh đã cho thấy Thiên Chúa làm việc luôn. Nếu đọc chương I sách Sáng thế, chúng ta biết Thiên Chúa đã hành động để tạo dựng nên vũ trụ, muôn loài, muôn vật và cả con người: “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bùn đất nhào nặn thành con người… Đức Chúa là Thiên Chúa khiến từ đất đai mọc lên mọi thứ cây trồng đẹp mắt, ăn ngon miệng” (x. St 2,7-9). Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người để được thông phần vào sự sống của Ngài.

Thiên Chúa không chỉ làm việc trong công trình sáng tạo vào buổi khai thiên lập địa, Ngài vẫn còn tiếp tục quan phòng, gìn giữ những gì Ngài đã sáng tạo. Chính vì thế, sau này Chúa Giêsu đã nói cho người Do thái: “Cho đến nay, Cha Ta vẫn làm việc liên lỉ, thì Ta cũng làm việc” (Ga 5,17).

2. Tổ tông đã làm việc ở vườn Địa đàng

Nếu đọc kỹ bài đọc thứ nhất trích sách Sáng thế có lẽ chúng ta sẽ ngạc nhiên. Xưa nay chúng ta tưởng rằng hai ông bà nguyên tổ trong vườn Đại đàng chỉ ở không và hưởng thụ, không phải làm gì cả. Nhưng sách Sáng thế nói Thiên Chúa cho ông bà ở trong vườn Đại đàng để “canh tác và giữ vườn”. Địa đàng là hình ảnh của hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc ấy con người phải “canh tác” nghĩa là phải làm việc để tạo ra. Và con người cũng cần phải “giữ vườn” nữa, nghĩa là hạnh phúc ấy con người phải gìn giữ thì nó mới tồn tại và con người mới tiếp tục được hưởng nó.

3. Sự làm việc trở nên vất vả

Khi còn ở trong ơn nghĩa với Chúa, tổ tông làm việc trong vườn Địa đàng một cách nhẹ nhàng thảnh thơi, không cảm thấy khó nhọc vất vả. Nhưng ông bà đã nghe lời khuyến dụ của ma quỉ dưới dạng con rắn, không vâng lời Thiên Chúa dám cả gan hái trái cấm mà ăn. Ông bà đã bị Thiên Chúa ra án ohạt. Từ đó công việc làm ăn trở nên khó nhọc vất vả, phải đổ mồ hôi sôi nước mắt mới có của ăn.

Sách Sáng thế còn ghi lời Chúa:

“Vì ngươi đã nghe lời vợ và ăn trái cây mà Ta đã truyền cho ngươi rằng: “Người đừng ăn”, nên đất đai bị nguyền rủa vì ngươi; ngươi sẽ phải cực nhọc mọi ngày trong đời ngươi, mới kiếm được miếng ăn từ đất mà ra. Đất đai sẽ trổ sinh gai góc cho ngươi, ngươi sẽ ăn cỏ ngoài đồng. Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn cho đến khi trở về bụi đất” (St 3,17-19).

Truyện:  Con trâu

Có một câu chuyện huyền thoại về con trâu như sau: Thuở xưa, Ngọc Hoàng sai một vị thần xuống trần gian mang theo một bao hạt giống và một bao cỏ để gieo xuống rần gian. Trước khi xuống trần, Ngọc Hoàng đã tỉ mỉ căn dặn, đến trần gian phải gieo rắc bao hạt giống lúa trước để dân cư có dư giả mà ăn, còn bao cỏ thì gieo sau để nuôi thú vật. Nhưng khi vị thần này đến trần gian, thấy phong cảnh khác lạ, nên mải mê xem mà quên lời dặn của Ngọc Hoàng, để rồi gieo bao cỏ trước và bao hạt giống lúa sau. Từ đó, cỏ không cần trồng cũng mọc tràn lan khắp mọi nơi, các thú vật ăn không bao giờ hết vì quá dư thừa và không làm sao diệt cỏ hết được. Còn lúa thì phải gieo trồng rất cực khổ và khó khăn mới có ăn, bởi vì bị cỏ mọc lấn áp làm lúa phát triển chậm hơn cỏ.

Bởi lỗi ấy của vị thần, làm cho ngươi trần gian trồng lúa rất khó nhọc mới có ăn và cỏ thì mọc tự nhiên quá nhiều, cho nên Ngọc Hoàng mới đẩy vị thần này xuống trần gian hóa thành con trâu để giúp người trần gian cầy bừa trồng lúa và ăn cỏ, chừng nào hết cỏ sẽ được tha thứ cùng phục hồi địa vị cũ, nhưng ăn hoài vẫn không bao giờ hết cỏ được, nên Trâu chưa thoát kiếp trở về thiên đường…

Câu chuyện này phải chăng muốn nói với chúng ta: “Có làm thì mới có ăn, không dưng ai dễ đem phần đến cho”. Vì ở trần gian, cỏ thì nhiều, lúa lại ít. Cây ăn được thì ít, cây không ăn được thì nhiều. Xem ra con người vất vả hơn con vật. Vì người phải làm việc vất vả mới có mà ăn, còn con vật thì không cần làm mà Trời vẫn cho ăn: “Trời sinh voi, trời sinh cỏ” (Tục ngữ).

II. Ý NGHĨA CỦA SỰ LÀM VIỆC

1. Về phương diện tôn giáo

Chúng ta biết rằng ngoài việc tạo dựng, Thiên Chúa còn quan phòng nữa, nghĩa là tiếp tục chăm sóc những loài Ngài đã dựng nên. Và việc chăm sóc này thì Ngài làm không bao giờ nghỉ. Nếu Chúa chỉ buông lơi một phút thôi không chăm sóc chúng ta thì chúng ta sẽ chết liền. Bởi thế, Chúa Giêsu mới nói: “Cha Ta làm việc liên lỉ”. Ngài còn nói tiếp: “Cho nên Ta cũng làm việc” (Ga 5,17).

Như vậy, lao động chân tay hay trí óc đều có một ý nghĩa sâu xa. Nhờ lao động, chúng ta được cộng tác vào công trình sáng tạo và cứu độ của Thiên Chúa trong thế giới này. Đây là một vinh dự lớn lao cho con người.

Ngoài ra, noi gương Thiên Chúa, chúng ta làm việc không chỉ làm việc vì mình và những người thân của mình, mà còn để phục vụ và giúp đỡ những người khác, nhất là những người khốn khổ như lời thánh Phaolô nói: “Bằng mọi cách, tôi đã tỏ cho anh em thấy rằng phải giúp đỡ những người đau yếu bằng cách làm lụng vất vả như thế”.

“Lạy Chúa là Cha rất nhân hậu,

Chúa đã giao trái đất cho loài người chúng con

Trông coi và khai thác,

Để ai nấy giúp nhau tiến bộ không ngừng;

Xin dạy cho chúng con biết hoàn thành mọi công việc

Trong tinh thần hiếu thảo đối với Chúa

Và huynh đệ đối với mọi người”. (Giờ Ba, ngày thứ hai trong tuần)

2. Về phưung diện xã hội

Lao động không những giúp chúng ta có của nuôi thân, mà còn giúp làm tăng giá trị nhân phẩm của từng người chúng ta. Nhờ lao động chúng ta phát triển tình yêu thương, tinh thần tương thân tương ái, tính kỷ luật và nhanh nhẹn, như lời một danh nhân đã nói: “Lao động làm ta khuây khỏa được nỗi buồn, tiết kiệm được thời gian, chữa được bệnh lười biếng” (Giám mục Bossuet).

III. NỖ LỰC RỒI CẬY TRÔNG

Ngày xưa, cha ông chúng ta là những người nhà nông bám chặt vào mảnh đất, chuyên cần làm việc với một tinh thần cao. Quanh năm làm việc với mọi thời tiết khắc nghiệt của bốn mùa, không quản mưa nắng, quanh năm ngày tháng chỉ biết “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, không sợ giãi nắng dầm sương. Qua kinh nghiệm làm ăn, các ngài đã khẳng định với con cháu rằng:

“Có cấy có trông, có trồng có ăn”

Các ngài rất khổ tâm với những người làm biếng không chịu làm việc, quanh năm chỉ biết ăn bám. Họ là những người đáng trách, không đáng ăn, suốt đời phải nghèo khổ, không bao giờ ngóc đầu lên được, vì:

“Tay làm hàm nhai, tay quai hàm trễ”.

Các ngài khuyên con cháu phải biết tự lực cánh sinh, phải biết đổ mồ hôi sôi nước mắt ra mới có miếng cơm manh áo, đừng bao giờ ỷ lại vào người khác, những gì của mình làm ra mới có giá trị, mới đáng quý, mới giữ gìn cẩn thận:

Khó nghèo cấy mướn làm thuê,

Lấy công đổi của chớ hề lụy ai..

Tuy các ngài đã biết làm việc với tất cả sức lực của mình rồi, nhưng các ngài biết rõ con người yếu đuối, sức con người có hạn nên cần có ơn trên phù giúp:

“Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”

Đó là thái độ khiêm tốn con người cần phải có trước vũ trụ bao la. Con người nhỏ bé giới hạn nên cần phó dâng cho Ông Trời mọi công việc của mình. Hơn nữa niềm tin của tổ tiên còn xác tín về lòng nhân ái của Trời. Trời không phụ lòng người. Trời không bao giờ bỏ quên con người:

Trời nào có phụ ai đâu,

Hay làm thì giầu, có chí thì nên.

Tin tưởng vào quyền năng và lòng thương xót vô biên của Ông Trời, con người cứ vững tâm làm việc không ngơi nghỉ, nhưng đêm ngày vẫn ngước mắt nhìn lên Ông Trời, khấn vái  xin ơn trên độ trì để cho được mưa thuận gió hòa, giúp con người có một đời sống ấm no:

Lạy Trời mưa xuống

Láy nước tôi uống

Lấy ruộng tôi cầy

Lấy đầy bát cơm

Lấy rơm đun bếp.

Còn đối với chúng ta là những Kitô hữu, chúng ta phải hoàn toàn phó thác cho Chúa, bởi vì mọi sự phải tùng phục quyền năng của Chúa, con người hoàn toàn bó tay nếu không có ơn trợ giúp của Chúa. Thánh vịnh 127 đã nói lên tư tưởng đó, chúng ta nên nghiền ngẫm để xác tín về điều đó:

Ví như Chúa chẳng xây nhà

Thợ nề vất vả cũng bằng uổng công.

Thành kia mà Chúa không canh giữ

Uổng công người trấn thủ canh đêm.

Bạn có thức khuya dạy sớm

Khó nhọc vất vả cũng hoài công.

Còn kẻ được Chúa thương dầu có ngủ

Người vẫn ban cho đủ tiêu dùng. (Tv 127,1-2)

Vì thế, Giáo hội dành riêng ngày Mồng Ba Tết cầu xin Chúa thánh hóa ruộng vườn, mùa màng, cây cối và công ăn việc làm, và xin “Chúa gieo mầu mỡ ngập tràn lối đi”. Đây cũng là dịp để mọi người đừng nghĩ rằng của cải là do bay tay lao động của mình làm ra, còn thành quả khoa học kỹ thuật do khả năng tích lũy bởi bộ óc của con người mà có, nhưng đừng quên rằng không có gì ngoài sự giúp đỡ và quan phòng của Chúa. Tin như vậy, nên người dân quê mộc mạc với một tâm tình biết ơn đã nói một cách vô tư: “Làm bởi bay và ban bởi Ta”.

Bước sang năm mới, mỗi người sẽ dùng quĩ thời gian của mình để phụng sự Chúa và phục vụ anh em, vì thời gian là của Chúa ban cho con người.

Chúng ta hãy dâng lên Chúa tất cả những việc chúng ta sẽ làm trong năm mới này, cùng với những lao nhọc cực khổ chúng ta sẽ gặp phải khi làm việc với tâm tình ca ngợi tình thương của Chúa vì tất cả đời con là ân huệ Chúa ban. Hãy sống theo lời thánh Phaolô: “Dù ăn, dù uống hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1Cr 10,31).

Lạy Chúa,

Chúa không ngừng sáng tạo vũ trụ càn khôn,

Và muốn cho con người cộng tác vào công trình của Chúa.

Xin đưa mắt nhìn những công việc chúng con phải làm:

Ước gì những công việc đó vừa nuôi dưỡng chúng con,

Vừa mưu ích cho những người chúng con có trách nhiệm,

Lại vừa làm cho triều đại Chúa mau đến. (Kinh sáng, thứ ba, tuần III)

 

6.   Mùng Ba ra mắt--Lm Giuse Đinh Lập Liễm

I. CÔNG VIỆC BA NGÀY TẾT.

Người Việt nam chúng ta rất qúi trọng ba ngày Tết. Ba ngày này được coi như là linh thiêng. Mỗi ngày được phân chia cho một công việc. Công việc ba ngày Tết là:

Mùng một tết cha,

Mùng hai tết mẹ,

Mùng ba tết thầy.

Tại sao lại chia ra như vậy? Vì muốn  cho ba ngày tết có đầy đủ ý nghĩa:

Nhà cha là nhà bên nội, ngày mùng một linh thiêng nhất nên ai cũng về từ đường bên nội cúng gia tiên, viếng thăm, mừng tuổi và chúc tụng họ hàng.

Cũng vậy, ngày mùng hai, lại kéo cả nhà về bên ngoại, cố thực hiện cho bằng được ý nghĩa đoàn tụ truyền thống trong mấy ngày Tết nhất.

Ai cũng hiểu, cha mẹ là đấng sinh thành, dưỡng dục, còn việc dạy dỗ cho nên người hữu dụng chính là thầy dạy học của mình; do đó, ngày mùng Ba thì học trò đồng môn rủ nhau đi viếng thầy (dạy chữ hoặc dạy nghề). Họ mang theo lễ vật để tỏ chút lòng thành. Thầy trò làm thơ, nói chuyện văn chương hoặc trao đổi chuyện làm ăn, nghề nghiệp trong bầu khí vui tươi, bổ ích.

Do mọi việc xã giao, chúc tụng được tập trung cho kịp trong ba ngày Tết, nếu để “ra ngoài ngày” (tức từ mùng bốn trở đi) sẽ giảm mất ý nghĩa, nhất là về mặt tình cảm, tôn kính, qúi trọng, cho nên người ta cũng sắp xếp có người trực ở nhà vừa để không trống vắng lạnh lẽo, vừa cũng để tiếp khách. Do đó có qui ước truyền thống “Mùng một tết cha, mùng hai tết mẹ, mùng ba tết thầy”, nên bạn bè muốn đến vui chơi trong ba ngày Tết đều nhất thiết phải hẹn trước. (Nguyễn hữu Thiệp, Dân ta ăn Tết, 1995, tr 135-136)

II. MÙNG BA RA MẮT.

Do “Mùng Ba tết Thầy” nên ngày này cũng là ngày ra mắt Tổ sư, Tiên sư nghề nghiệp mình.

Sáng sớm ngày ấy, ai làm nghề gì thì đem đồ nghề ra khởi động nghề ấy. Khởi động lấy lệ, mang tính hình thức. Đại khái, nhà nông thì mang lưỡi hái ra quơ cắt một ôm cỏ đem về cho trâu ăn (nhưng chưa làm động thổ). Người buôn bán thì mở cửa hàng bán tượng trưng vài món lấy ngày. Thợ thầy cũng đem kéo, búa ra cắt đập ít cái để “gọi là”. Nói chung, mọi công việc đều có tính cách tượng trưng, gọi là ra mắt Tổ nghề, mong Tổ sư và Tiên sư hộ độ suốt năm làm ăn phấn phát. Tất nhiên, trong những ngày này, bàn thờ các ông Thần tài, Thổ địa và Tổ nghề đều rất tươm tất, hương đăng không tắt, hoa trái lúc nào cũng đầy ắp.

Sau lễ ra mắt, người ta lại tiếp tục ăn Tết. Nhà giầu ăn tết đến hết ngày mùng 7 hoặc hơn. Người lao động nghèo tranh thủ khai trương sớm (Sđd, tr 137-138).

III. THÁNH HÓA CÔNG VIỆC LÀM ĂN.

Hội thánh Công giáo Việt nam luôn đồng hành cùng dân tộc cố gắng làm phát huy những gì tốt đẹp phù hợp với bản sắc văn hoá dân tộc. Nếu “Mùng Ba ra mắt”, các người thợ trình diện với Tổ sư ngành nghề của mình về công việc làm ăn trong năm, Hội thánh Việt nam cũng muốn dành ngày mùng ba Tết để thánh hoá công việc làm ăn. Chúng ta hãy trình lên Chúa công việc làm ăn trong năm, để xin Chúa chúc lành và ban ơn phù giúp để mọi công việc của chúng ta phù hợp với thánh ý Chúa.

Đọc chương đầu của sách Sáng thế, ta thấy Đức Chúa Trời đã dựng nên loài người “giống hình ảnh Ngài” (St 1,26). Các nhà chú giải Thánh kinh cho rằng loài người giống Thiên Chúa nhờ sự thông minh và tự do, giống Thiên Chúa ở điểm loài người có uy quyền bá chủ trên vạn vật: “Ta hãy dựng nên loài người giống hình ảnh Ta để họ làm chủ cá biển, chim trời, muôn thú vật trên đất và mọi côn trùng sống động trên địa cầu” (St 1,26).

Như vậy, theo nghĩa chung, lao động tinh thần hay vật chất đều mang ý nghĩa trọng đại: “cộng tác vào việc sáng tạo” của Thiên Chúa. Giữa ý niệm lao động và giáo thuyết về sáng tạo có một tương liên mật thiết.

E. Krebs đã không ngần ngại tuyên bố:

”Khái niệm căn bản về giá trị tuyệt đối của tất cả hoạt động nhân sinh đã được phú ban cho loài người nhờ lòng tin vào Thiên Chúa sáng tạo, Ngài là Đấng tự do và khôn ngoan, sau khi dựng nên loài người đã nghỉ ngơi ngày thứ bảy để giao phó cho họ tiếp tục thực hiện chương trình sáng tạo của Ngài có từ đời đời”(Die wertprobleme, tr 43; theo J. Haessle, Le Travail, Paris, 1933, tr 350).

Mọi sự trên thế gian này là của Chúa, nhưng Ngài muốn cho con người quản trị, đổi mới và làm cho phong phú thêm. Chúng ta có thể nói Thiên Chúa là nguyên nhân đệ nhất, còn chúng ta là nguyên nhân đệ nhị của vũ trụ. Ngay sự quan phòng hằng ngày của Thiên Chúa trên vạn vật cũng là một cuộc sáng tạo không ngừng. Chúng ta là nguyên nhân đệ nhị và chỉ có thể góp phần vào với nguyên nhân đệ nhất. Chính vì thế Haessle viết:

“Nguời thợ là hình ảnh đặc biệt của Thiên Chúa... sản xuất và sản xuất trong niềm vui là con người đã đem năng lực của mình ra hành dộng để thực hiện một đời sống trọn vẹn hơn và làm cho mình nên giống Thiên Chúa dầu họ có ý thức hay không. Đời sống “làm việc” tức là hành động và phản ảnh sức hoạt động tuyệt đối... Thiên Chúa là nguyên nhân đệ nhất tuyệt đối... người thợ là nguyên nhân kết thành xét như chính họ làm cho những sự vật trở thành chính nó và hoàn hảo hơn. Con người đã truyền sức lực, tư tưởng, nhân vị mình cho chúng. Nguyên nhân tương đối là phản ảnh trung thực của nguyên nhân tuyệt đối”. (J. Haessle, Le Travail, Paris, 1933, tr 63-64)

Công đồng Vatican 2 cũng xác quyết sự làm việc là góp phần sáng tạo và hoàn thành ý định của Thiên Chúa trong lịch sử:

“Thực vậy, trong khi mưu sinh cho mình và cho gia đình, tất cả những người nam cũng như nữ hoạt động để phục vụ xã hội một cách hữu hiệu đều có lý để tin rằng nhờ lao công của mình họ tiếp nối công trình của Tạo hóa, phụng sự anh em, đóng góp công lao của mình vào việc hoàn thành ý định của Thiên Chúa trong lịch sử” (Gaudium et Spes, bản dịch của GHHV Piô X, Đà lạt).

Nếu lao động là được cộng tác vào chương trình sáng tạo của Thiên Chúa, thì đây là vinh dự lớn lao của con người, vì “nhân linh ư vạn vật”. Theo ý nghĩa đó, ta có thể kết luận mà không sợ sai lầm: “LAO ĐỘNG  LÀ VINH QUANG”.

KẾT LUẬN

Trong ngày mùng Ba Tết hôm nay, chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta được biết thánh hoá công việc làm ăn của chúng ta, đặc biệt trong thánh lễ này.

Trước hết, như bài Tin mừng thánh lễ hôm nay, ta hãy cảm tạ Chúa đã ban cho chúng ta những nén bạc cơ bản làm vốn: sự sống, sức khỏe, trí khôn, thiên hướng, những kinh nghiệm của cộng đồng, tri thức của người đi trước, những nhu cầu phát triển của thời đại...

Sau đó, xin Chúa ban ơn nâng  đỡ tinh thần và nghị lực để chu toàn mọi trách nhiệm liên quan đến công việc.

Đồng thời cũng xin luôn ý thức công việc làm ăn của bản thân và của mọi người là thước đo về công bằng và phát triển của xã hội. Ai cũng có quyền được làm việc và quyền  được chuẩn bị chu đáo để có việc làm phù hợp với nguyện vọng và khả năng.

Như vậy, khi nguyện ước công ăn việc làm của mình được Thiên Chúa thánh hoá, người Kitô hữu đang khao khát diễn tả, qua thực tiễn lao động của bản thân, hình ảnh một Thiên Chúa hoạt-động-không-ngừng và đã trao cho loài người quyền được làm giầu đẹp thêm cho cuộc sống.

 

7.   Thánh hóa công việc làm ăn--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm

Trong những ngày đầu xuân, chúng ta vẫn thường chúc nhau: “Năm mới làm ăn thịnh vượng. Con cháu siêng năng ngoan ngoãn…” Điều đó cho thấy người Việt Nam chúng ta rất quý trọng lao động. Trong kho tàng ca dao tục ngữ không thiếu gì những câu đề cao giá trị của lao động như: “Có làm thì mới có ăn, không dưng ai dễ đem phần đến cho”.

Đồng cảm với dân tộc, Giáo hội Việt Nam đã dành riêng ngày Mồng Ba Tết để xin Chúa thánh hoá và chúc lành cho công việc làm ăn trong năm mới, giúp cho người Kitô hữu hiểu rõ giá trị của lao động, lao động trí óc cũng như chân tay.

Đồng thời, nhân dịp đầu năm, Giáo hội còn nhắc nhở cho con cái mình hiểu rằng: lao động không còn là một hình phạt khổ sai, nhưng là một vinh dự vì nhờ lao động, con người được cộng tác với Thiên Chúa, Đấng vẫn luôn làm việc trong công trình sáng tạo của mình; và cũng góp phần làm cho con người được hạnh phúc.

I. MỌI NGƯỜI PHẢI LÀM VIỆC

1. Thiên Chúa đã và đang làm việc

Thật vậy, ngay từ đầu, Kinh thánh đã cho thấy Thiên Chúa làm việc luôn. Nếu đọc chương I sách Sáng thế, chúng ta biết Thiên Chúa đã hành động để tạo dựng nên vũ trụ, muôn loài, muôn vật và cả con người: “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bùn đất nhào nặn thành con người… Đức Chúa là Thiên Chúa khiến từ đất đai mọc lên mọi thứ cây trồng đẹp mắt, ăn ngon miệng” (x. St 2,7-9). Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người để được thông phần vào sự sống của Ngài.

Thiên Chúa không chỉ làm việc trong công trình sáng tạo vào buổi khai thiên lập địa, Ngài vẫn còn tiếp tục quan phòng, gìn giữ những gì Ngài đã sáng tạo. Chính vì thế, sau này Chúa Giêsu đã nói cho người Do thái: “Cho đến nay, Cha Ta vẫn làm việc liên lỉ, thì Ta cũng làm việc” (Ga 5,17).

2. Tổ tông đã làm việc ở vườn Địa đàng

Nếu đọc kỹ bài đọc thứ nhất trích sách Sáng thế có lẽ chúng ta sẽ ngạc nhiên. Xưa nay chúng ta tưởng rằng hai ông bà nguyên tổ trong vườn Địa đàng chỉ ở không và hưởng thụ, không phải làm gì cả. Nhưng sách Sáng thế nói Thiên Chúa cho ông bà ở trong vườn Địa đàng để “canh tác và giữ vườn”. Địa đàng là hình ảnh của hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc ấy con người phải “canh tác” nghĩa là phải làm việc để tạo ra. Và con người cũng cần phải “giữ vườn” nữa, nghĩa là hạnh phúc ấy con người phải gìn giữ thì nó mới tồn tại và con người mới tiếp tục được hưởng nó.

3. Sự làm việc trở nên vất vả

Khi còn ở trong ơn nghĩa với Chúa, tổ tông làm việc trong vườn Địa đàng một cách nhẹ nhàng thảnh thơi, không cảm thấy khó nhọc vất vả. Nhưng ông bà đã nghe lời khuyến dụ của ma quỷ dưới dạng con rắn, không vâng lời Thiên Chúa dám cả gan hái trái cấm mà ăn. Ông bà đã bị Thiên Chúa ra án phạt. Từ đó công việc làm ăn trở nên khó nhọc vất vả, phải đổ mồ hôi sôi nước mắt mới có của ăn.

Sách Sáng thế còn ghi lời Chúa:

“Vì ngươi đã nghe lời vợ và ăn trái cây mà Ta đã truyền cho ngươi rằng: ‘Người đừng ăn’, nên đất đai bị nguyền rủa vì ngươi; ngươi sẽ phải cực nhọc mọi ngày trong đời ngươi, mới kiếm được miếng ăn từ đất mà ra. Đất đai sẽ trổ sinh gai góc cho ngươi, ngươi sẽ ăn cỏ ngoài đồng. Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn cho đến khi trở về bụi đất” (St 3,17-19).

Truyện: Con trâu

Có một câu chuyện huyền thoại về con trâu như sau: Thuở xưa, Ngọc Hoàng sai một vị thần xuống trần gian mang theo một bao hạt giống và một bao cỏ để gieo xuống trần gian. Trước khi xuống trần, Ngọc Hoàng đã tỉ mỉ căn dặn, đến trần gian phải gieo bao hạt giống lúa trước để dân cư có dư giả mà ăn, còn bao cỏ thì gieo sau để nuôi thú vật. Nhưng khi vị thần này đến trần gian, thấy phong cảnh khác lạ, nên mải mê xem mà quên lời dặn của Ngọc Hoàng, để rồi gieo bao cỏ trước và bao hạt giống lúa sau. Từ đó, cỏ không cần trồng cũng mọc tràn lan khắp mọi nơi, các thú vật ăn không bao giờ hết, vì quá dư thừa và không làm sao diệt cỏ hết được. Còn lúa thì phải gieo trồng rất cực khổ và khó khăn mới có ăn, bởi vì bị cỏ mọc lấn át làm lúa phát triển chậm hơn cỏ.

Bởi lỗi ấy của vị thần, làm cho người trần gian trồng lúa rất khó nhọc mới có ăn và cỏ thì mọc tự nhiên quá nhiều, cho nên Ngọc Hoàng mới đẩy vị thần này xuống trần gian hoá thành con trâu, để giúp người trần gian cày bừa trồng lúa và ăn cỏ, chừng nào hết cỏ sẽ được tha thứ cùng phục hồi địa vị cũ, nhưng ăn hoài vẫn không bao giờ hết cỏ được, nên trâu chưa thoát kiếp trở về thiên đường…

Câu chuyện này phải chăng muốn nói với chúng ta: “Có làm thì mới có ănkhông dưng ai dễ đem phần đến cho”. Vì ở trần gian, cỏ thì nhiều, lúa lại ít. Cây ăn được thì ít, cây không ăn được thì nhiều. Xem ra con người vất vả hơn con vật. Vì người phải làm việc vất vả mới có mà ăn, còn con vật thì không cần làm mà Trời vẫn cho ăn: “Trời sinh voi, trời sinh cỏ” (Tục ngữ).

II. Ý NGHĨA CỦA SỰ LÀM VIỆC

1. Về phương diện tôn giáo

Chúng ta biết rằng ngoài việc tạo dựng, Thiên Chúa còn quan phòng nữa, nghĩa là tiếp tục chăm sóc những loài Ngài đã dựng nên. Và việc chăm sóc này thì Ngài làm không bao giờ nghỉ. Nếu Chúa chỉ buông lơi một phút thôi không chăm sóc chúng ta thì chúng ta sẽ chết liền. Bởi thế, Chúa Giêsu mới nói: “Cha Ta làm việc liên lỉ”. Ngài còn nói tiếp: “Cho nên Ta cũng làm việc” (Ga 5,17).

Như vậy, lao động chân tay hay trí óc đều có một ý nghĩa sâu xa. Nhờ lao động, chúng ta được cộng tác vào công trình sáng tạo và cứu độ của Thiên Chúa trong thế giới này. Đây là một vinh dự lớn lao cho con người.

Ngoài ra, noi gương Thiên Chúa, chúng ta làm việc không chỉ làm việc vì mình và những người thân của mình, mà còn để phục vụ và giúp đỡ những người khác, nhất là những người khốn khổ như lời thánh Phaolô nói: “Bằng mọi cách, tôi đã tỏ cho anh em thấy rằng phải giúp đỡ những người đau yếu bằng cách làm lụng vất vả như thế”.

Lạy Chúa là Cha rất nhân hậu,

Chúa đã giao trái đất cho loài người chúng con

Trông coi và khai thác,

Để ai nấy giúp nhau tiến bộ không ngừng;

Xin dạy cho chúng con biết hoàn thành mọi công việc

Trong tinh thần hiếu thảo đối với Chúa

Và huynh đệ đối với mọi người”.

(Giờ Ba, ngày thứ hai trong tuần)

2. Về phương diện xã hội

Lao động không những giúp chúng ta có của nuôi thân, mà còn giúp làm tăng giá trị nhân phẩm của từng người chúng ta. Nhờ lao động chúng ta phát triển tình yêu thương, tinh thần tương thân tương ái, tính kỷ luật và nhanh nhẹn, như lời một danh nhân đã nói: “Lao động làm ta khuây khỏa được nỗi buồn, tiết kiệm được thời gian, chữa được bệnh lười biếng” (Giám mục Bossuet).

III. NỖ LỰC RỒI CẬY TRÔNG

Ngày xưa, cha ông chúng ta là những người nhà nông bám chặt vào mảnh đất, chuyên cần làm việc với một tinh thần cao. Quanh năm làm việc với mọi thời tiết khắc nghiệt của bốn mùa, không quản mưa nắng, quanh năm ngày tháng chỉ biết “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, không sợ dãi nắng dầm sương. Qua kinh nghiệm làm ăn, các ngài đã khẳng định với con cháu rằng:

“Có cấy có trông, có trồng có ăn”

Các ngài rất khổ tâm với những người làm biếng không chịu làm việc, quanh năm chỉ biết ăn bám. Họ là những người đáng trách, không đáng ăn, suốt đời phải nghèo khổ, không bao giờ ngóc đầu lên được, vì:

“Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ”.

Các ngài khuyên con cháu phải biết tự lực cánh sinh, phải biết đổ mồ hôi sôi nước mắt ra mới có miếng cơm manh áo, đừng bao giờ ỷ lại vào người khác, những gì của mình làm ra mới có giá trị, mới đáng quý, mới giữ gìn cẩn thận:

Khó nghèo cấy mướn làm thuê,

Lấy công đổi của chớ hề luỵ ai.

Tuy các ngài đã biết làm việc với tất cả sức lực của mình rồi, nhưng các ngài biết rõ con người yếu đuối, sức con người có hạn nên cần có ơn trên phù giúp:

“Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”

Đó là thái độ khiêm tốn con người cần phải có trước vũ trụ bao la. Con người nhỏ bé giới hạn nên cần phó dâng cho Ông Trời mọi công việc của mình. Hơn nữa niềm tin của tổ tiên còn xác tín về lòng nhân ái của Trời. Trời không phụ lòng người. Trời không bao giờ bỏ quên con người:

Trời nào có phụ ai đâu,

Hay làm thì giàu, có chí thì nên.

Tin tưởng vào quyền năng và lòng thương xót vô biên của Ông Trời, con người cứ vững tâm làm việc không ngơi nghỉ, nhưng đêm ngày vẫn ngước mắt nhìn lên Ông Trời, khấn vái xin ơn trên độ trì để cho được mưa thuận gió hoà, giúp con người có một đời sống ấm no:

Lạy Trời mưa xuống

Lấy nước tôi uống

Lấy ruộng tôi cầy

Lấy đầy bát cơm

Lấy rơm đun bếp.

Còn đối với chúng ta là những Kitô hữu, chúng ta phải hoàn toàn phó thác cho Chúa, bởi vì mọi sự phải tùng phục quyền năng của Chúa, con người hoàn toàn bó tay nếu không có ơn trợ giúp của Chúa. Thánh vịnh 127 đã nói lên tư tưởng đó, chúng ta nên nghiền ngẫm để xác tín về điều đó:

Ví như Chúa chẳng xây nhà

Thợ nề vất vả cũng bằng uổng công.

Thành kia mà Chúa không canh giữ

Uổng công người trấn thủ canh đêm.

Bạn có thức khuya dậy sớm

Khó nhọc vất vả cũng hoài công.

Còn kẻ được Chúa thương dầu có ngủ

Người vẫn ban cho đủ tiêu dùng. (Tv 127,1-2)

Vì thế, Giáo hội dành riêng ngày Mồng Ba Tết cầu xin Chúa thánh hoá ruộng vườn, mùa màng, cây cối và công ăn việc làm, và xin “Chúa gieo màu mỡ ngập tràn lối đi”. Đây cũng là dịp để mọi người đừng nghĩ rằng: của cải là do bàn tay lao động của mình làm ra, còn thành quả khoa học kỹ thuật do khả năng tích lũy bởi bộ óc của con người mà có, nhưng đừng quên rằng: không có gì ngoài sự giúp đỡ và quan phòng của Chúa. Tin như vậy, nên người dân quê mộc mạc với một tâm tình biết ơn đã nói một cách vô tư: “Làm bởi bay và ban bởi Ta”.

Bước sang năm mới, mỗi người sẽ dùng quỹ thời gian của mình để phụng sự Chúa và phục vụ anh em, vì thời gian là của Chúa ban cho con người.

Chúng ta hãy dâng lên Chúa tất cả những việc chúng ta sẽ làm trong năm mới này, cùng với những lao nhọc cực khổ chúng ta sẽ gặp phải khi làm việc với tâm tình ca ngợi tình thương của Chúa vì tất cả đời con là ân huệ Chúa ban. Hãy sống theo lời thánh Phaolô: “Dù ăn, dù uống hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1Cr 10,31).

Lạy Chúa,

Chúa không ngừng sáng tạo vũ trụ càn khôn,

Và muốn cho con người cộng tác vào công trình của Chúa.

Xin đưa mắt nhìn những công việc chúng con phải làm:

Ước gì những công việc đó vừa nuôi dưỡng chúng con,

Vừa mưu ích cho những người chúng con có trách nhiệm,

Lại vừa làm cho triều đại Chúa mau đến.

(Kinh sáng, thứ ba, tuần III)

 

8.   Bông hoa ngày Tết-- Lm Giuse Đinh Lập Liễm

Hôm nay ngay Mồng Ba Tết Ất dậu. Chúng ta đã dùng ngày Mồng Một để cảm tạ Chúa và cầu bình an cho năm mới, ngày Mồng Hai để báo hiếu ông bà cha mẹ, và ngày Mồng Ba Tết hôm nay, Hội thánh nhắc nhở cho chúng ta hãy biết thánh hoá công việc làm ăn trong năm mới. Cần hiểu rằng Lao động không phải là một tạp dịch khổ sai, mà đứng về phương diện thần học, thì nó là một vinh dự, vì nhờ Lao động mà con người được tham gia vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa.

Ba ngày Tết sắp hết, các bông hoa bắt đầu tàn. Nhìn những bông hoa đó tôi nảy ra một ý nghĩ: mọi sự sẽ qua đi. Điều đó làm cho tôi nhớ lại một câu trong sách Giảng viên: “Omnia tempus habent: mọi sự đều có thời giờ của nó (Gv 3,1), và tự đặt dấu hỏi chúng ta sẽ dùng thời giờ Chúa ban cho trong năm mới này để làm được những gì?

I. SỐ PHẬN BÔNG HOA.

Hôm 30 Tết người ta đẩy xe hoa đi bán trong khắp thành phố. Hoa nhiều lắm: đủ mọi loài hoa, đủ mầu, hương sắc, ai mua thứ nào cũng có. Nhà nào cũng có hoa chưng ngày Tết.

Hôm nay cũng trên đường phố của ngày 30 Tết hôm đó, những người phu hót rác đang đẩy những chiếc xe rác để thu gom cơ man là hoa đã tàn, đã thành rác đem đi dổ.

Ôi! Hương sắc của hoa hôm qua, bây giờ héo úa tàn tạ, phải mau mau tống khứ. Chờ xe hoa truớc Tết và đợi xe rác khi Tết đã tận. Hôm trước nâng niu, hôm sau phế bỏ. Có gì bền vững đâu. Cuộc sống nghiệt ngã thật. Nhưng hoa và rác đều im lặng. Im lặng tỏa hương và phô sắc làm đẹp cho chiếc bàn nhỏ và im lặng bước lên xe rác chờ ngày tái sinh trong kiếp hoa sau. Đúng là:

Phù hoa nối tiếp phù hoa,

Chi chi chăng nữa cũng là phù hoa. (Gv 1,2)

II. SỐ PHẬN CON NGƯỜI.

Nhìn thấy cảnh người phu đi hót rác, đang hốt những bông hoa tàn bỏ lên xe, tôi liên tưởng đến số phận con người. Và tôi muốn suy gẫm câu đáp lễ cầu hồn:

Đời sống con người giống như hoa cỏ

Như bông hoa nở trên cách đồng

Một cơn gió thoảng đủ làm nó biến đi

Nơi nó mọc không còn mang vết tích. (Tv 102, 111115-16)

Đời sống con người giống như bông hoa sớm nở chiều tàn: thật mỏng manh, thật ngắn ngủi. Vì thế người xưa đã nói:

Nhân sinh thất thập cổ lai hy.

Vì cuộc đời nhắn ngủi nên người ta mới mừng thọ vào tuổi 60, mừng thượng thọ vào tuổi 70. Ngày nay người ta tuy sống thọ hơn, hơn 70 tuổi, nhưng có sống đến 930 tuổi như ông Adam hay 969 tuổi như ông Mathusalem thì cũng chẳng là gì so với đời đời.

Tại nghĩa trang chúng ta đang sống đây (Thánh lễ tại nghĩa trang), mỗi năm chúng ta lại chứng kiến đô tùy đẩy chiếc xe tang tới đây và gửi một người vào trong lòng đất và hiện họ đang nằm ở đây.

Ôi! số phận con người thật mỏng manh. Nay mai sẽ có xe tang đem một người nào đó đến gửi xác ở đây.

III. CON NGƯỜI VÀ THỜI GIỜ.

1. Chủ của thời giờ.

Thiên Chúa là chủ thơi gian, Ngài ban phát thời giờ cho từng người, mỗi người bao nhiêu tùy ý. Khi ban thời giờ cho chúng ta sống, Thiên Chúa hết sức tiết kiệm, chỉ ban cho chúng ta một cách nhỏ giọt: ban từng giây, từng phút, ban từng giờ từng ngày. Chúa lấy lại giây phút trước rồi mới ban cho chúng ta giây phút sau. Giầu sang vô biên như Chúa, mà không bao giờ Chúa ban cho ta cùng một lúc hai giây, hai phút.

Dù là Giáo hoàng, hồng y, giám mục, dù là hoàng đế hay tổng thống, trong một năm Chúa chỉ ban cho có 31.563.000 giây, dùng từng giây một, hết giây này Chúa mới ban cho giây khác. Không ai có thể làm chủ thời gian, không ai có thể níu kéo thời gian lại và thời gian trôi đi sẽ không bao giờ trở lại.

2. Thời giờ chóng qua.

Ai cũng có kinh nhgiệm về sự chóng qua của thời gian vì nó qua đi một cách rất vô tư:

Thời giờ thấm thoát thoi đưa,

Nó đi đi mãi, có chừa ai đâu.

Ở đời này không có gì chóng qua bằng thơi giờ, và vì nó chóng qua như vậy nên nhiều hình ảnh đã được đem ra so sánh với thời giơ. Theo Thánh  Kinh:

. Thời giờ trôi qua nhanh hơn kẻ chạy đua (G 9,25-26).

. Sống được 70, 80 tuổi là cùng (Kn 2,4-5).

. Thời gian không trở lại (Gv 11,7-10)

Trong văn chương có nhiều hình ảnh diễn tả, thời giờ được ví như:

- Mũi tên bay

- Tia chớp loé lên.

- Áng mây trôi.

- Con thoi thợ dệt.

- Một giấc mơ:

Đời người như giấc chiêm bao

Nghìn xưa đã thấy ai nào trăm năm.

- Hoa sớm nở chiều tàn:

Đời người khác thể là hoa,

Sớm còn tối mất hoá ra lỡ làng.

3. Hãy quí trọng thời giờ.

Thời giờ không nằm trong tầm tay chúng ta để chúng ta muốn làm gì thì làm, mà phải ở trong tay Chúa, Chúa ban cho bao nhiêu thì được bấy nhiêu và Chúa sẽ tính sổ với chúng ta về số thời giờ Ngài đã ban cho như cái vốn để chúng ta phải làm sinh sôi nảy nở ra các việc lành phúc đức.

a) Thời giờ rất qúi báu.

Không gì qúi bằng máu Chúa đã đổ ra để cứu chuộc chúng ta, mà thời giờ là giá máu Chúa Giêsu đã đổ ra để cứu chuộc chúng ta. Những kẻ chịu phạt đời trong hỏa ngục, chỉ cần trở lại trần gian này được một giây thôi, thì cũng đủ để cho họ được lên thiên đàng.

b) Hãy biết dùng thời giờ.

Theo một cuộc điều ta được tiến hành  nơi một số người sống đạo một cách lơ là, trong một năm họ có 8760 giờ:

. họ đi lui đi tới, mất 260 giờ.

. họ nói chuyện với người khác, mất 310 giờ.

. họ tắm rửa và sửa sắc dđẹp, mất 620 giờ.

. họ ăn uống, mất 930 giờ.

. họ ngủ nghỉ, mất 2.900 giờ.

. họ dành cho các việc đạo đức: 25 giờ.

c) Hãy biết dùng thời giờ.

Chúng ta hãy qúi trọng thời giờ Chúa ban cho chúng ta sống. Chúng ta phải tin rằng: trong mỗi giây, mỗi phút Chúa ban cho chúng ta sống, Chúa đều kèm theo một ơn đặc biệt trong mỗi giây phút đó. Chúng ta phải biết rằng Chúa chỉ ban cho chúng ta sống giây phúc hiện tại mà thôi,

Những giây phút trong cuộc đời chúng ta trôi qua, không phải để biến mất, nhưng để nhập vào kho đời đời của chúng ta sau này: kho thiên đàng đời đời hạnh phúc, kho hoả ngục trầm luân muôn kiếp.

Chúng ta hãy xác tín rằng: giá trị của một đời người không chủ tại sống lâu năm trên trần gian này, nhưng chủ tại sống sâu đậm cuộc đời của họ. Trước mặt Chúa, giá trị của đời sống chúng ta không nằm trong chiều dài của thời gian, nhưng nằm trong chiều sâu của thời gian. Một người chết trẻ, chết sớm nhưng đã biết dùng thời giờ Chúa ban trong đời sống mình để yêu mến Chúa, để làm tôi Chúa, để sống đẹp lòng Chúa, thì có giá trị trước mặt Chúa hơn là một người sống lâu năm nhưng đã không dùng thời giờ Chúa ban để yêu mến Chúa hết lòng, để sống đẹp lòng Chúa mọi bề.

Bởi đó, điều quan trọng đối với chúng ta, không phải là được sống lâu năm trên đời này, nhưng điều quan trọng là Chúa ban cho đực sống năm tháng ngày giờ nào, thì dùng thời giờ Chúa ban cho để hết tình yêu mến Chúa, để hết lòng phụng sự Chúa, để hoàn toàn hy sinh và hiến thân cho Chúa.

Trong năm mới này, chúng ta hãy ra sức làm việc không phải chỉ kiếm cho có cơm ăn áo mặc mà còn phải làm sáng danh Chúa như lời thánh Phaolô đã nói: “Dù anh em ăn, dù anh em ngủ nghỉ, dù làm bất cứ việc gì, hãy làm cho sáng danh Chúa”.

KẾT LUẬN.

Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta được khôn ngoan để biết tính sổ ngày đời của chúng ta, biết dùng thời giờ cho nên thời giờ Chúa đã ban cho: “Xin dạy chúng con biết tính sổ ngày đời chúng con, ngõ hầu chúng con đem được khôn ngoan vào lòng “ (Tv 9012).

Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta biết thánh hoá thời giờ mà Chúa ban cho chúng ta sống ngày hôm nay: “Hôm nay, phải chi các ngươi nghe tiếng Người: “Chớ cứng lòng như tại Meriba, như ngày Massa trong sa mạc, nơi mà tổå tiên các ngươi khiêu khích Ta, chúng thử thách Ta, dù đã chứng kiến công việc Ta làm” (Tv 95,7-9)..

Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta luôn luôn tỉnh thức để đón chờ giờ Chúa đến, giờ chúng ta chết để gặp gỡ Chúa: “Các con hãy tỉnh thức vì không biết giờ nào Chúa các con sẽ đến”(Mt 24,42).

Ngày Tết mà có những suy tư như trên, xem ra có vẻ bi quan, nhưng nó thực tế, nhất là sau trận động đất và sóng thần đã xẩy ra ngày 26.12.2004. Trình bầy những suy nghĩ riêng tư như thế chỉ có ý nhắc nhở cho chúng ta: trong năm mới này hãy tích cực lao động để góp phần làm vinh danh Chúa và cứu rỗi nhiều người, đừng để cho một giây phút nào trôi đi vô ích.

Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho con người phải lao động để làm chủ thiên nhiên. Xin cho chúng con được thấm nhuần tinh thần Kitô giáo, để công ăn việc làm của chúng con trong năm mới này ne6u cao tình tương thân tương ái, và góp phần vào sự nghiệp chung là hoàn thành chương trình sáng tạo của Chúa.

 

9.   Cầu nguyện cho việc làm ăn--Lm. Giuse Đinh Tất Quý

Ngày mồng ba Tết, chúng ta cầu nguyện cho việc làm ăn trong năm mới được thịnh đạt, đồng thời cũng xin Chúa thánh hóa chúng ta qua cuộc sống lao động hằng ngày.

I. Nhưng tại sao chúng ta lại phải cầu nguyện cho việc làm ăn?

Ngày nay với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, nhiều người tưởng rằng mình đã chiếm được chỗ đứng của Thiên Chúa. Có một thời chúng ta thường nghe thấy người ta nói: Thằng trời xếp lại một bên, để cho nông hội tiến lên làm Trời! Hoặc những câu như biến sỏi đá thành cơm gạo, thay trời làm mưa.

Thế nhưng kinh nghiệm cho chúng ta thấy nếu Chúa không cho thì chúng ta chẳng làm được gì. Nhiều cơn động đất và sóng thần cũng như dịch cúm gà, cơn dịch Covid 19 đang làm cho cả thế giới hôm nay phải đảo điên là bài học rất quí giá cho chúng ta. Chính vì thế mà người xưa đã có câu: mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Người nông dân ý thức được thân phận của mình nên đã cầu xin: Lạy Trời mưa xuống, lấy nước tôi uống, lấy ruộng tôi cày lấy đầy bát cơm, lấy rơm đun bếp.

Về vấn đề bày thánh Phaolô viết rất hay: Phaolô trồng, Apollo tưới, nhưng chính Thiên Chúa mới làm cho mọc lên. Vì thế ngày mồng ba tết chúng ta cầu nguyện cho việc cày cấy làm ăn là phải lẽ, vì không có Thiên Chúa thì: người lính canh đêm cũng hoài công.

Một vị linh mục nọ qua đời, và được đưa đến trước mặt thánh Phêrô để làm một thẩm tra. Thánh Phêrô hỏi:

- Ở dưới thế cha làm được điều gì?

Vị linh mục nhanh nhẹn và tự hào trả lời:

- Thưa thánh Phêrô, con xây được một ngôi thánh đường lớn.

Thanh nhân lấy bút ghi trên giấy: Một điểm.

- Cha còn làm được gì nữa?

- Dạ, con còn xây một trường học cho một ngàn học sinh.

Thánh Phêrô ghi tiếp: một điểm.

- Và gì nữa?

Vị linh mục bắt đầu suy nghĩ, rồi trả lời:

-Dạ, con công tác nhiều vào các công việc xã hội, từ thiện.

Thánh Phêrô ghi thêm: một điểm.

- Còn gì nữa? Thánh Phêrô hỏi tiếp.

Lần này vị linh mục lo lắng hỏi thánh Phêrô:

- Dạ thưa thánh cả Phêrô, được bao nhiêu điểm thì vào thiên đàng?

Thánh Phêrô vui vẻ trả lời: một ngàn điểm.

Nghe nói thế, vị linh mục bỗng chột dạ, nghĩ thầm: “Chết mình rồi, làm sao có được chừng ấy điểm đây?” Nếu có moi óc kể tất cả các sự việc mình làm ở dưới thế e cũng không đủ…”

Và vị linh mục bắt đầu lo sợ, rồi thất vọng, không còn tự tin.

Trong lúc đó, thánh Phêrô nhắc lại:

- Cha còn làm được điều gì nữa, cứ kể hết đi!

Với giọng nói nhuốm màu sắc khiêm tốn và lo sợ, vị linh mục nói:

-Thưa thánh cả, Nhờ Ơn Chúa con cũng làm được đôi ba việc nhỏ.

Nghe vậy, thánh Phêrô lấy bút ghi ngay: một ngàn điểm.

Ngài nói:

-Thế là cha được một ngàn lẻ ba điểm rồi đấy. Cha đã dư được ba điểm. Mời cha vào!

Phải! Tất cả là nhờ ơn Chúa.

II. Những giá trị của lao động.

Chúa Giêsu đã nói: Cha Ta hằng làm việc, và Ta cũng vậy. Khi quả quyết như thế Chúa Giêsu muốn cho chúng ta hiểu rằng: lao động làm việc là qui luật của tình yêu và cũng là qui luật của sinh tồn.

*Làm việc là qui luật của Tình yêu

Thiên Chúa đã không dựng nên một vũ trụ hoàn hảo mà Người đã chỉ dựng nên một vũ trụ còn dang dở. Người muốn con người cộng tác với Người để làm cho công trình của Người càng ngày càng hoàn hảo hơn. Trong bài đọc (sách sáng thế), tác giả nói: “Sau khi dựng nên con người, Thiên Chúa đã đặt nó trong vườn địa đàng, không phải chỉ để hưởng thụ, mà còn để canh tác giữ vườn”. Như thế làm việc là sứ mạng cao cả Thiên Chúa đã giao cho con người ngay từ khi mới tạo dựng nên nó và khi làm việc là con người thể hiện tình yêu của mình đối với Thiên Chúa.

Nếu con người không làm việc thì quả họ đã không chu toàn được sứ mạng của mình. Điều này chính mỗi người phải quyết định cho mình. Nếu không muốn làm việc thì con người có muôn vàn cái cớ để thoái thác. Nhưng nếu đã muốn làm việc thì họ chẳng sợ bất cứ một trở ngại nào.

Một ông chủ kia giao cho bảy người thợ cưa, mỗi người phải cưa một khúc cây.

Người thứ nhất nói: khúc cây của tôi còn tươi quá, nguyện lưỡi cưa sẽ mắc trong đó. Tôi chờ cho đến khi khúc cây đó khô rồi tôi mới cưa, thế là anh ta nghỉ.

Người thứ hai: lưỡi cưa của tôi cùn quá, tôi chờ ông chủ đổi cho tôi lưỡi cưa khác bén hơn rồi tôi mới cưa. Và anh ta cũng nghỉ.

Người thứ ba: khúc cây này cong bên này cong bên kia. Tôi chờ ông chủ đổi cho tôi khúc cây khác thẳng hơn. anh cũng đi nghĩ.

Người thứ bốn: khúc cây của tôi quá cứng, cứng gấp hai lần khúc cây thường. Tôi chờ có khúc khác mềm hơn. Anh ta cũng nghỉ.

Người thứ năm: hôm nay trời nóng quá, đợi ngày nào mát trời hãy cưa. Anh ta cũng nghỉ.

Người thứ sáu: hôm nay tôi nhức đầu, đợi tới khi nào khỏi tôi mới cưa. Và anh ta cũng nghỉ.

Người thứ bảy cũng nhận một khúc cây còn tươi, nó cũng cong bên này cong bên kia, thịt nó cũng rất cứng, lưỡi cưa của anh cũng cùn, trời hôm đó cũng nóng và anh đó cũng nhức đầu. Nhưng anh đi mài lưỡi cưa và bắt tay vào việc. Nhờ lưỡi cưa đã được mài, khúc cây đã được cưa xong, do trời nóng và do làm việc, anh ta đổ mồ hôi ra và hết nhức đầu. Anh sung sướng vì hoàn thành công các được giao.

Hôm sau anh xin ông chủ cho anh một khúc cây khác để cưa. (A.R Wells)

Vâng! Dù ở vườn địa đàng, Ađam cũng vẫn phải “canh tác”. Cuộc sống ở địa đàng rất hạnh phúc, nhưng cái hạnh phúc ấy con người phải “canh tác”, nghĩa là phải ra tay kiến tạo. Chính trong lúc làm việc con người mới cảm thấy hạnh phúc. Ngôi vườn hạnh phúc con người phải “giữ gìn” bằng việc làm của mình.

* Đàng khác làm việc còn là qui luật của sinh tồn.

Lao động ngoài mục đích giúp ta thánh hóa cuộc sống, nó còn có mục đích giúp bảo tồn cuộc sống của chúng ta.

Trong Kho tàng những câu chuyện ngụ ngôn người ta đọc được câu chuyện này:

Một người nông dân nọ có một con lừa già. Một hôm con lừa bị rơi xuống giếng và đau đớn kêu la thống thiết. Sau khi cẩn thận đánh giá tình hình, dù rất thương cảm cho con lừa, nhưng người nông dân cũng phải quyết định nên nhanh chóng giúp nó kết thúc sự đau đớn. Anh gọi thêm mấy người hàng xóm để cùng lấp đất chôn con lừa với ông.

Lúc đầu con lừa bị kích động vì những gì người ta đang làm đối với nó. Nhưng khi từng xuổng từng xuổng đất tiếp theo nhau rơi trên vai nó, một ý nghĩ chợt lóe lên:

Cứ mỗi lần xuổng đất rơi xuống đè lên vai, mình sẽ lắc cho đất rơi xuống và bước lên trên.

Và nó đã làm như vậy, từng chút từng chút một.

Hất nó xuống và bước lên trên, hất nó xuống và bước lên trên, hất nó xuống và bước lên trên – con lừa lặp đi lặp lại để tự cổ vũ mình.

Mặc cho sự đau đớn phải chịu sau mỗi xuổng đất. Mặc cho sự bi đát cùng cực của tình huống đang gánh chịu, con lừa liên tục chiến đấu chống lại sự hoang mang, hoảng sợ, và tiếp tục theo đúng phương châm “hất nó xuống và bước lên trên”.

Không mất nhiều thời gian, cuối cùng con lừa già, dù bị bầm dập và kiệt sức, đã hoan hỉ và đắc thắng bước ra khỏi cái giếng. Những gì tưởng như sẽ đè bẹp và chôn sống nó, trên thực tế đã cứu sống nó… đều là nhờ cái cách mà con lừa đối diện với nghịch cảnh của mình.

Cuộc sống là như vậy đó. Nếu chúng ta đối mặt với những vấn đề của mình một cách tích cực, khước từ sự hoảng loạn, sự cay đắng và sự thương hại…, những nghịch cảnh tưởng như chôn vùi chúng ta sẽ tiềm ẩn trong chính nó những phần thưởng không ngờ tới. Hãy “Hất nó xuống và bước lên trên”, để bước ra khỏi cái giếng mà bạn đang gặp phải.(Nước Biếc.)

Cuộc đời đâu phải là thiên đàng. Đâu có phải lúc nào cuộc đời cũng trải thảm đỏ để chào đón chúng ta. Cuộc đời là một bãi chiến trường. Nó đang chờ đợi chúng ta bước vào với tinh thần chiến đấu. Hãy can đảm đối đầu với mọi khó khăn trong cuộc sống đừng lẩn tránh. Thái độ lẩn tránh chẳng khác gì thái độ đầu hành. Khi nói về việc Giêsu vác Thánh Giá lên đỉnh đồi Golgotha, một nhà văn hào của Pháp đã nói: Đồi Canvê ở đầu đường và vinh quang cũng xuất hiện ở đó” Hãy hất xuống và bước lên trên cuộc sống của chúng ta sẽ tốt đẹp hơn. Amen.

 

10.       Thánh hóa công việc: Ga 5,16-20--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái

A. Hạt giống...

Chúa Giêsu và “những người do thái” (phải hiểu là những người biệt phái) tranh luận với nhau. Lý do là “vì Ngài hay chữa bệnh ngày sabát” (câu 16).

Những người biệt phái hiểu luật về ngày sabát một cách rất hẹp hòi: ngày đó người ta phải nghỉ làm việc, không cần phân biệt việc gì cả. Thực ra mục đích của khoản luật về ngày sabát là để giải phóng con người, cho nên chỉ cần nghỉ những việc lao động nào có tính cách nô lệ hóa con người (travail servile).

Những người biệt phái cho rằng chính Thiên Chúa cũng nghỉ làm việc ngày sabát. Thực ra Thiên Chúa chỉ ngưng công việc sáng tạo, còn việc quan phòng thì Ngài vẫn tiếp tục mãi. Bởi đó Chúa Giêsu nói “Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc”. Chúa Giêsu còn nói thêm rằng bởi thế “Tôi cũng làm việc” (câu 17).

B.... nẩy mầm.

1. Bắt đầu một năm mới, chúng ta nên suy nghĩ lại về ý nghĩa và mục đích và của việc làm. Nhiều người chỉ biết làm để ăn, và ăn để làm, cứ xoay mãi trong cái vòng lẩn quẩn ấy cho đến lúc nhắm mắt buông tay.

- Trong bài đọc I (Sách Sáng thế), tác giả nói: sau khi dựng nên con người, Thiên Chúa đã đặt nó trong Vườn địa đàng, không phải chỉ để hưởng thụ, mà là đề “canh tác và giữ vườn”. Như thế làm việc là sứ mạng cao cả Thiên Chúa đã giao cho con người ngay từ khi mới tạo dựng nên nó. Dù ở vườn Địa đàng, Adam vẫn phải “canh tác”. Cuộc sống ở Địa đáng rất hạnh phúc, nhưng cái hạnh phúc ấy con người phải “canh tác”, nghĩa là phải ra tay kiến tạo. Chính trong lúc làm việc, con người mới cảm thấy hạnh phúc. Ngôi vườn hạnh phúc ấy, con người phải “gìn giữ” bằng việc làm của mình.

- Gương Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng: a/ Ngài làm việc để cộng tác vào công trình sáng tạo và quan phòng của Thiên Chúa ; b/ Ngài không chỉ làm việc cho bản thân Ngài hưởng, mà còn làm việc để cứu giúp người khác (“Ngài hay chữa bệnh ngày sabát”).

- Có một số người lười biếng không chịu làm việc. Một số khác làm việc chỉ để cho bản thân và một ít người thân của mình. Lời Chúa hôm nay cho ta thấy thêm rằng làm việc còn có giá trị cộng tác vào công trình sáng tạo và quan phòng của Thiên Chúa (chiều kích đạo đức), và làm việc để cứu giúp những người khác nữa (chiều kích xã hội).

2. Những cái cớ để lười biếng: Ông chủ giao cho bảy người thợ cưa mỗi người phải cưa một khúc cây.

- Người thứ nhất nói: Khúc cây của tôi còn tươi quá, e lưỡi cưa sẽ mắc trong đó. Tôi chờ cho tới khi nó khô thì mới cưa. Thế là anh đi nghỉ.

- Người thứ hai: Lưỡi cưa của tôi cùn quá rồi. Tôi chờ ông chủ đổi cho tôi một lưỡi cưa sắc bén hơn rồi mới cưa. Và anh cũng đi nghỉ.

- Người thứ ba: Khúc cây này cong bên này cong bên kia. Tôi chờ ông chủ đổi cho tôi khúc khác thẳng hơn. Anh cũng đi nghỉ.

- Người thứ tư: Khúc cây của tôi quá cứng, cứng gấp hai lần loại cây thường. Tôi chờ có khúc khác mềm hơn. Anh cũng đi nghỉ.

- Người thứ năm: Hôm nay trời nóng quá. Đợi ngày nào mát trời hãy cưa. Và anh cũng nghỉ.

- Người thứ sáu: Hôm nay tôi nhức đầu. Đợi tới khi nào khỏi, tôi mới cưa. Và anh cũng nghỉ.

- Người thứ bảy cũng nhận một khúc cây còn tươi, nó cũng cong bên này cong bên kia, thịt cũng rất cứng, lưỡi cưa của anh cũng cùn, trời hôm đó cũng nóng và hôm đó anh cũng nhức đầu. Nhưng anh đi mài lưỡi cưa và bắt tay vào việc. Nhờ lưỡi cưa đã được mài sắc, khúc cây đã được cưa xong, do trời nóng và do làm việc, anh làm việc đổ mồ hôi ra và hết nhức đầu. Anh sung sướng vì hoàn thành công tác được giao.

Hôm sau anh xin ông chủ cho anh một khúc cây khác để cưa nữa. (A.R. Wells)

3. Cửa sổ hoặc tấm gương: Một người do thái giàu có nhưng rất keo kiệt đến gặp một vị giáo trưởng để xin một lời hướng dẫn cho cuộc sống của mình. Vị giáo trưởng đưa anh đến bên cửa sổ và nói: “Ông hãy nhìn qua cửa sổ và tôi biết ông thấy gì.” Không một chút do dự, người giàu có trả lời: “Tôi thấy nhiều người đi qua đi lại.” Sau đó vị giáo trưởng bảo người giàu có quay mặt vào trong nhà và nhìn vào một tấm gương treo trên tường. Rồi ông cũng đặt câu hỏi tương tự: “Nào, bây giờ ông thấy gì trong tấm gương ?” - “Dĩ nhiên tôi chỉ thấy tôi”.

Bấy giờ vị giáo trưởng mới rút ra một bài học: “Này nhé, tấm gương được làm bằng kính, phía sau phủ một lớp bạc mỏng. Bao lâu lớp bạc mỏng còn dính chặt đàng sau tấm kính thì nhìn vào đó ông sẽ không còn thấy người nào khác nữa mà chỉ thấy có mình ông thôi. Trái lại khi nhìn qua tấm kính trong suốt ở cửa sổ, ông đã thấy được những người khác. (Trích "Món quà giáng sinh").

 

11.       Cầu nguyện cho công ăn việc làm--Lm Carôlô Hồ Bặc Xái

I. DẪN VÀO THÁNH LỄ

Anh chị em thân mến

Sau mấy ngày nghỉ ngơi vui Tết, chúng ta sẽ trở lại với công ăn việc làm thường ngày. Chúng ta hãy sốt sắng tham dự Thánh Lễ này và tha thiết cầu xin Chúa cho những việc làm của chúng ta vừa thánh hóa bản thân chúng ta, vừa đem lại những của cải vật chất nuôi sống gia đình chúng ta, vừa giúp chúng ta có điều kiện phục vụ tha nhân và xã hội.

II. GỢI Ý SÁM HỐI

Nhiều khi chúng ta lười biếng không làm việc.

Nhiều khi chúng ta làm những việc bất chính, không theo lương tâm, không hợp lẽ công bình.

Ít khi chúng ta quan tâm làm việc để phục vụ tha nhân và xã hội.

III. GỢI Ý GIẢNG

1. Thánh hóa công ăn việc làm St 1,11-12 ; Ga 5,1-18

Ngày mùng ba tết đã được giáo quyền dành ra để thánh hóa công ăn việc làm.

Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu đã nói:"Cho đến nay, cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc".

Mở đầu, Thiên Chúa đã làm việc trong sáu ngày để tạo dựng nên vũ trụ. "Cho đến nay, cha tôi vẫn làm việc". Thiên Chúa hằng làm việc để duy trì gìn giữ công trình tạo dựng bao la kỳ vĩ của Ngài. Hằng ngày, chim trời vẫn ca hót líu lo, cá biển vẫn tung tăng bơi lợi, bông huệ ngoài đồng vẫn nở đẹp và không ngừng tỏa hương thơm. Mặt trời vẫn lên để làm cho đồng lúa chín vàng rực. Sóng biển vẫn ầm ào vỗ vào bờ cát và con người vẫn sống vui tươi...

Thiên Chúa vẫn làm việc và tôi (Đức Giêsu) vẫn làm việc. Ngài đi khắp nơi rao giảng về vương quốc công bình tình thương của Thiên Chúa, làm các dấu lạ, chữa các tật bệnh phần hồn phần xác cho người đời.

Noi gương Chúa Giêsu, mỗi người cũng cần chăm chỉ làm tốt công việc hằng ngày của mình.

Có những người làm việc quên chết để trở nên giàu có và nổi tiếng, như các chính khách, các cầu thủ, các ca sĩ, các ngôi sao thể thao... Họ là những con người thành đạt, được người đời hăm mộ. Nhưng như ông Albert Einstein nhận định:"Con người thành đạt là một con người đã nhận rất nhiều ân huệ từ đồng loại mình, thường là nhiều vô kể so với cái anh chị ta đáp lại đồng loại mình. Giá trị của một con người ở nơi khả năng dâng tặng, chứ không phải ở khả năng lãnh nhận".

Vậy ý nghĩa của sự làm việc, ngoài mục đích mưu sinh, còn là để góp phần với đồng bào đồng loại, làm cho xã hội ta sống phát triển ngày một cao hơn về hai mặt tâm linh lẫn vật chất.

Ngày mùng ba là ngày nghỉ chót, chúng ta chuẩn bị bắt đầu lại một năm làm việc cần mẫn. Thánh hóa công ăn việc làm, chính là mặc cho nó một ý nghĩa, đó là: làm việc để phục vụ. Phục vụ mình, phục vụ gia đình, và nhất là phục vụ đồng bào đồng loại. (CgvDt, số đặc biệt Giáng sinh 99)

2. Cảm nghĩ đầu xuân

Bầu khí của những ngày đầu năm rất đặc biệt khiến cho lòng chúng ta nao nao và gợi lên trong ta nhiều cảm nghĩ.

--Cảm thấy lòng mình nao nao vì cảnh kẻ đến người đi

Cõi đời này giống như một sân khấu và người đời giống như những diễn viên. Mỗi diễn viên được đạo diễn dành cho một khoảng thời gian diễn xuất trên sân khấu cuộc đời. Diễn xong thì rút lui nhường chỗ cho diễn viên khác bước lên. Nhưng có một điều không hoàn toàn giống sân khấu, đó là cuộc đời không phải chỉ là đóng kịch. Bởi vậy điều quan trọng không phải là mình đóng vai chính hay vai phụ và thời gian đóng của mình dài hay ngắn, nhưng là mình có đóng trọn vai trò của mình đúng ý đạo diễn hay không, mình có hoàn thành sứ mạng mà Thiên Chúa đã giao cho mình thực hiện trong khoảng thời gian mà Thiên Chúa ban cho mình ở cõi đời này hay không.

--Nghĩ tới vai trò và sứ mạng của mình

Tôi không được biết vị Đạo diễn đời tôi là Thiên Chúa sẽ dành cho tôi bao nhiêu thời gian. Nhưng tôi biết chắc Chúa cho tôi thời gian sống không phải chỉ để ăn để ngủ để vui chơi và để hưởng thụ, mà để đóng trọn vai tuồng của mình, để hoàn thành nhiệm vụ Ngài giao. Sự có mặt của tôi trên sân khấu đời này không phải chỉ làm cho đời này tốn thêm một phần cơm áo, không phải để bắt một số người phải cực nhọc phục vụï tôi, phải khổ sở vì tính tình ích kỷ khó chịu của tôi. Trái lại Chúa muốn sự có mặt của tôi trên đời sẽ làm cho đời được tốt đẹp hơn, những người sống chung với tôi được hạnh phúc hơn. Chúa cho tôi sống trên đời là để tôi làm đúng theo ý Chúa, và sứ mạng của tôi là góp phần làm cho Nước Chúa trị đến.

Lời Chúa khuyên trong Tin Mừng thật chí lý: Chúng con đừng mãi lo sẽ ăn gì uống gì mặc gì, cũng đừng lo làm sao kéo dài mạng sống của mình. Tiên vàn chúng con hãy lo tìm sự công chính (tức là tìm làm theo thánh ý Chúa) và xây dựng Nước Chúa. Rồi mọi sự khác Cha sẽ lo cho chúng con. Khi nào màn kịch của đời tôi chấm dứt, vị Đạo diễn Thiên Chúa sẽ đánh giá đời tôi: Ngài không đánh giá xem tôi sống ở đời dài hay ngắn, tôi làm ăn có khá không, nhưng chỉ đánh giá xem tôi có dùng thời gian Ngài ban để làm đúng ý Ngài và để góp phần xây dựng Nước Chúa không. Rồi Ngài sẽ thưởng phạt tôi. Một khoảng thời gian ngắn ngủi trên đời sẽ là thước đo định đoạt số phận của tôi muôn đời.

--Nghĩ rằng thời gian dành cho mình đang hết dần

Khi tôi đi nhổ một cái răng hư, tôi chợt nghĩ "Thế là một phần cơ thể của mình đã từ giã mình ra đi". Khi tôi mua mắt kiến để đọc chữ cho được rõ hơn, tôi tự nhủ "Thêm một phần cơ thể của mình suy yếu nữa". Và khi bác sĩ cho tôi biết bao tử của tôi đang có vấn đề, tôi lại nghĩ "Đây là tiếng còi báo hiệu chuyến tàu đời mình đã đi xong một chặng đường nữa để dần dần tiến đến chặng cuối". Thực vậy, mỗi một phần cơ thể bị bệnh đều là những tiếng Chúa nhắc chúng ta nhớ rằng mình không sống mãi, mình đang tiến dần đến cái chết. Những người hơi cao tuổi chắc cảm nghiệm điều này rõ hơn.

Nhưng chúng ta không nên sợ, trái lại càng phải cám ơn Chúa, vì nếu Ngài không nhắc để rồi đột ngột một ngày nào đó Ngài gọi chúng ta vĩnh viễn ra đi thì chúng ta sẽ chới với rụng rời. Ra đi vào cõi đời đới mà không kịp chuẩn bị hành trang gì cả, đó mới là đáng sợ. Bởi đó chúng ta phải cám ơn Chúa vì những tiếng chuông nhắc nhở của Ngài cho chúng ta lo chuẩn bị. Chuẩn bị thế nào " Tiên vàn chúng con hãy tìm làm theo ý Chúa và góp phần xây dựng Nước Ngài, rồi mọi sự khác Chúa sẽ lo cho chúng con".

2. Cần lao St 1,11-12 ; Ga 5,1-18

Ca dao có câu "Tháng giêng là tháng ăn chơi, tháng hai trồng đậu trồng khoai trồng cà". Có lẽ thời trước người ta nhàn hạ hơn nên dám bỏ ra cả một tháng để "ăn chơi". Còn thời nay chúng ta chỉ ăn Tết một vài ngày. Nhưng dù xưa hay nay, dù ăn Tết cả một tháng hay chỉ một vài ngày thì sau đó cũng phải làm việc trở lại.

Nghĩ đến công việc phải làm trong năm mới, có người thì ngao ngán, nhưng dù ngán cũng vẫn phải làm ; có người thì dửng dưng chẳng suy nghĩ gì cả, làm thì làm vậy thôi. Phần chúng ta, Giáo Hội dành ra ngày mồng 3 Tết để cầu nguyện cho công ăn việc làm trong năm. Hôm nay chúng ta hãy dựa vào Lời Chúa để suy nghĩ về việc làm của chúng ta trong năm sắp tới.

Nếu đọc kỹ bài đọc thứ nhất trích sách Sáng thế có lẽ chúng ta sẽ ngạc nhiên. Xưa nay chúng ta tưởng rằng 2 ông bà nguyên tổ trong vườn Địa đàng chỉ ở không và hưởng thụ, không phải làm gì cả. Nhưng sách Sáng thế nói Thiên Chúa cho ông bà ở trong vườn địa đàng để "canh tác và giữ vườn". Địa đàng là hình ảnh của hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc ấy con người phải "canh tác" nghĩa là phải làm việc để tạo ra. Và con người cũng cần phải "giữ vườn" nữa, nghĩa là hạnh phúc ấy con người phải gìn giữ thì nó mới tồn tại và con người mới tiếp tục được hưởng nó.

Như vậy, bài trích sách Sáng thế cho ta thấy mục đích thứ nhất của việc làm là để tạo ra hạnh phúc và gìn giữ hạnh phúc cho mình. Nói cách khác, mục tiêu thứ nhát của làm việc là "vì mình" và những người thân trong gia đình mình.

Còn bài Tin Mừng thì ghi lại một cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và những người biệt phái. Vì Chúa Giêsu chữa bệnh trong ngày Sabát nên những người biệt phái trách rằng Ngài vi phạm luật nghỉ làm việc trong ngày đó. Để trả lời họ, Chúa Giêsu nói "Cha tôi vẫn làm việc luôn, cho nên tôi cũng làm việc". Trong cuộc tranh luận này, cách suy nghĩ của những người biệt phái và Chúa Giêsu khác nhau.. Những người biệt phái chỉ biết có mỗi một việc làm của Thiên Chúa là tạo dựng, sau khi tạo dựng xong trời đất muôn vật thì Thiên Chúa nghỉ ngơi. Suy nghĩ như thế thật thiếu sót. Chúa Giêsu cho biết thêm rằng ngoài việc tạo dựng, Thiên Chúa còn quan phòng nữa, nghĩa là tiếp tục chăm sóc những loài Ngài đã dựng nên. Và việc chăm sóc này thì Ngài làm không bao giờ nghỉ. Nếu Chúa chỉ buông lơi một phút thôi không chăm sóc chúng ta thì chúng ta sẽ chết liền. Bởi thế Chúa Giêsu nói "Cha tôi làm việc liên lỉ". Ngài còn nói tiếp "Cho nên tôi cũng làm việc". Chúa Giêsu làm việc gì ? Thưa Ngài giảng dạy và cứu chữa những người bệnh tật đau khổ.

Như vậy, Chúa Giêsu cho ta hiểu việc làm còn có mục đích thứ hai nữa, là "vì người khác", đặc biệt là những người khốn khổ. Lời Chúa hôm nay soi sáng cho chúng ta thấy rõ hơn một số điều:

**Thứ nhất, làm việc là điều tốt đẹp cao cả. Ngay từ khi mới tạo dựng con người, dù Thiên Chúa cho nguyên tổ được sống hạnh phúc trong vườn Địa đàng, nhưng nguyên tổ vẫn phải canh tác và gìn giữ hạnh phúc được tượng trưng bằng khu vườn Địa đàng ấy. Chúa Giêsu và ngay cả Thiên Chúa cũng phải làm việc liên lỉ. Huống chi là chúng ta.

**Thứ hai, noi gương Thiên Chúa, chúng ta làm việc, không chỉ làm việc vì mình và những người thân của mình, mà còn để phục vụ và giúp đỡ những người khác, nhất là những người khốn khổ. Phải thành thật nhìn nhận rằng từ trước tới nay, chúng ta làm việc hầu như chỉ nhắm đến mỗi một mục tiêu là "vì mình" chứ không nhắm đến "vì người khác".

Chúng ta hãy dâng lên Chúa tất cả những việc chúng ta sẽ làm trong năm cùng với những lao nhọc cực khổ chúng ta sẽ gặp phải khi làm việc.

- Xin Chúa giúp chúng ta cảm thấy hạnh phúc trong công việc

- Xin Chúa giúp để việc làm của chúng ta đem lại đủ nuôi sống bản thân và gia đình chúng ta.

- Xin Chúa mở rộng lòng, rộng tay của chúng ta để chúng ta biết chia sẻ thành quả công việc cho những người túng thiếu.

3. Xin gì dịp đầu năm ? Mt 6,31-34

Trong những ngày đầu năm, chắc hẳn mỗi người chúng ta đều có chung một ước muốn, đó là xin Chúa ban ơn cho mình trong năm mới. Phần Chúa thì chắc hẳn cũng sẵn sàng ban ơn cho chúng ta. Vậy hôm nay chúng ta nên xin gì ?

Một người kia cứ xin Chúa ban ơn hoài. Chúa nghe mãi đến nỗi phải mệt. Vậy để giải quyết anh này, Chúa nói: "Bây giờ Ta quyết định ban cho con bất kỳ 3 điều nào mà con xin. Sau đó thì thôi Ta không ban ơn gì nữa cả". Anh rất vui sướng và xin ngay: "Xin cho vợ con chết đề con cưới một người vợ khác tốt hơn". Chúa nhậm lời, vợ anh chết. Nhưng khi bà con và bạn bè đến lo chôn cất vợ anh, họ nhắc lại những phẩm chất tốt của chị, khi đó anh mới tiếc và biết rằng mình đã quá hấp tấp khi xài lời xin thứ nhất. Anh đành phải xài thêm lời xin thứ hai: Xin cho vợ con sống lại. Chúa cũng nhậm lời. Thế là anh chỉ còn có một lời xin thôi. Đây là cơ hội cuối cùng nên anh suy nghĩ rất kỹ phải xin gì ?

Một người bạn góp ý hãy xin cho được bất tử. Nhưng người khác nói bất tử có ích lợi gì nếu không có sức khoẻ tốt. Vậy hãy xin sức khoẻ.

Nhưng một người khác nói sức khoẻ thì làm gì được nếu không có tiền. Vậy hãy xin tiền.

Người thứ ba phản đối: tiền bạc có nhiều cũng vô ích nếu không có bạn. Hãy xin có thật nhiều bạn. Ý kiến này cũng có người khác phản đối nữa.

Tóm lại, muốn xin cái gì thì thoạt đầu thấy cái đó là tốt nhưng suy nghĩ lại thì thấy nó cũng chưa phải là tốt nhất. Anh chàng bối rối quá, chạy tới nói với Chúa "Xin Chúa dạy con biết phải làm gì bây giờ ?". Chỉ vì bối rối quá nên anh mới nói với Chúa vậy thôi chứ anh nào ngờ đây là lời xin thứ ba và cũng là lời xin cuối cùng. Từ nay anh không còn được quyền xin gì nữa cả. Anh tiếc quá sức, gãi đầu gãi cổ và tự trách mình. Nhưng khi đó xảy ra một điều bất ngờ, bất ngờ hơn cả sự bất ngờ của anh khi thốt lên lời xin thứ ba. Sự bất ngờ này là Chúa mỉm cười hài lòng. Chúa nói: Con thật là khôn ngoan khi xin như vậy. Từ nay Ta sẽ chỉ cho con biết phải làm gì. Con chỉ việc nghe theo lời Ta chỉ dạy, và đời con sẽ được hạnh phúc, hạnh phúc muôn đời, hạnh phúc mãi mãi.

Câu chuyện trên đủ trả lời cho câu hỏi chúng ta đặt ra hồi nảy: Trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta nên xin gì với Chúa.

Xin cho được nhiều tiền chăng ? Nhưng phải chăng có nhiều tiền là hạnh phúc ? Chúng ta đã thấy nhiều gia đình rất giàu nhưng vợ chồng con cái đối xử với nhau rất tệ.

Xin cho được sống lâu chăng ? Nhưng phải chăng sống lâu là hạnh phúc ? Có nhiều người sống lâu quá đến nỗi con cháu phát chán.

Chúng ta đang rơi vào tình trạng bối rối của anh chàng kia rồi. Vậy hãy hỏi Chúa xem ta nên xin gì.

Trong Tin Mừng, Chúa bảo: "Tiên vàn hãy lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính. Rồi mọi thứ khác Cha trên trời sẽ lo cho chúng con". Trong ngữ vựng của Tin Mừng, "tìm sự công chính" có nghĩa là tìm thánh ý Chúa. Như thế, câu trả lời này giống y câu Chúa đã trả lời cho anh chàng kia: xin cho mình được biết ý Chúa và làm theo ý Chúa, đó là lời xin khôn ngoan nhất, tốt đẹp nhất, quý giá nhất, vì xin điều này là sẽ được tất cả mọi điều khác.

Chắc là có người không tin. Vậy chúng ta hãy lý luận một chút. Những ai đã làm cha làm mẹ chắc hiểu rất rõ cha mẹ lo gì cho con cái và mong muốn gì nơi chúng. Có phải chăng ông bà anh chị em sẵn lòng lo cho con cái mình tất cả những gì cần thiết cho nó như cơm nước, quần áo, tiền bạc, vui chơi, sức khoẻ, học hành, tương lai v.v. Tóm lại là lo hết mọi thứ, dù cho mình thiều thốn nhưng mình cũng sẵn sàng lo cho con, miễn là nó hạnh phúc thôi. Và khi lo cho nó tất cả như vậy, ông bà anh chị em mong muốn gì nơi con cái mình ? Phải chăng chỉ mong muốn một điều duy nhất là nó biết nghe theo lời dạy bảo của mình. Nếu chúng ta có một đứa con thông minh, làm được rất nhiều việc nhưng luôn cãi cha cãi mẹ, thì chắc chúng ta không vui vẻ gì. Trái lại một đứa con ít thông mình, ít tài nhưng ngoan ngoãn, chịu khó làm theo lời mình dạy bảo thì một mặt nó làm vui lòng mình và mặt khác đời nó cũng thành đạt, bởi vì thực ra tất cả những gì mình chỉ dạy nó đều là để cho nó được tốt mà thôi, nếu nó nghe thì nó tốt.

Thì Thiên Chúa cũng thế. Có khác một điều là vì chúng ta là người phàm nên có nhiều điều chúng ta muốn lo cho con cái nhưng lo không nổi, một số điều ta dạy bảo chúng cũng chưa hẳn là hay nhất, tốt nhất. Phần Chúa thì toàn năng quyền phép vô cùng Chúa muốn lo cho chúng ta điều gì là Ngài thừa sức lo được. Ngài thông minh vô cùng nên Ngài dạy ta điều gì thì chắc chắn đó là đều hay nhất và tốt nhất.

Bởi vậy Chúa có đầy đủ lý do để nói rằng: chúng ta chẳng cần lo gì cả ngoài lo tìm biết và làm theo ý Chúa. Chúng ta cũng có đầy đủ lý do để tin một cách chắc chắn rằng xin cho được biết ý Chúa và làm theo ý Chúa, đó là điều xin khôn ngoan nhất, được điều này là được tất cả những điều khác.

Tóm lại, điều chúng ta cần xin nhất là xin Chúa cho ta biết Ngài muốn ta làm gì ; điều chúng quyết tâm là trong năm nay ta sẽ lo tìm biết để thi hành ý Chúa, còn mọi sự khác chúng ta giao hết cho Chúa xin Ngài lo liệu cho chúng ta.

IV. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI

CT: Anh chị em thân mến

Sau những ngày nghỉ Tết, chúng ta sắp trở lại với công ăn việc làm thường ngày. Chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện với Chúa.

1- Người kitô hữu không chỉ có trách nhiệm xây dựng gia đình mình mà còn phải xây dựng Hội Thánh / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi kitô hữu ý thức trách nhiệm của mình / và mỗi người tích cực góp phần xây dựng Hội Thánh.

2- Trong xã hội / vẫn còn rất nhiều người thất nghiệp / hoặc làm những nghề nghiệp bất chính / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những người có trách nhiệm lãnh đạo Đất Nước / có thể đề ra những đường lối tạo công ăn việc làm tốt cho hết mọi người.

3- Chúng ta hãy đặc biệt hiệp lời cầu xin cho những người nghèo khổ / không có công ăn việc làm xứng đáng / xin Chúa thương ban cho họ luôn có lương thực hằng ngày.

4- Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi người trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết thánh hóa việc làm hằng ngày của mình / và biết chia xẻ thành quả lao động cho những người túng thiếu hơn mình.

CT: Lạy Chúa, sau mấy ngày nghỉ ngơi, chúng con sắp trở lại với công ăn việc làm. Chúa đã ban cho chúng con đôi tay và khối óc. Xin Chúa giúp chúng con sử dụng chúng để siêng năng lao động, vừa lo cho cuộc sống bản thân, vừa phục vụ mọi người. Chúng con cầu xin nhờ công nghiệp Đức Giêsu Kitô là Chúa chúng con. Amen.

 

12.       “Đi làm ăn buôn bán”--Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc, S.J.

1. Thánh hóa công ăn việc làm

Trong ba ngày đầu năm mới, Mồng Một, Mồng Hai và hôm nay Mồng Ba, chúng ta được mời gọi vừa tạ ơn Chúa và vừa xin ơn Chúa, như thánh Phao-lô mời gọi chúng ta trong bài đọc hai của Thánh Lễ Tân Niên: «Trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn mà giải bày trước mặt Thiên Chúa… (Ph 4, 6)

Vậy, trong ba ngày đầu năm mới, chúng ta tạ ơn Chúa và xin ơn Chúa về điều gì, nếu không phải là ba điều thiết yếu cho cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Thật vậy:

Trong Thánh Lễ Tân Niên, Mồng Một Tết, chúng ta vừa tạ ơn Chúa đã ban thêm cho chúng ta sự sống của một năm mới, vừa xin Chúa ban ơn bình an cho năm mới, bởi vì cuộc sống của chúng ta không thể tồn tại, nếu không có bình an, bình an giữa người với người, bình an giữa dân tộc với dân tộc, bình an khỏi mọi tai họa và tai nạn, và sâu sa hơn, bình an trong tâm hồn chúng ta.

Trong Thánh Lễ Mồng Hai Tết hôm qua, chúng ta vừa tạ ơn Chúa đã ban cho chúng ta Tổ Tiên và Ông Bà Cha Mẹ và vừa cầu nguyện cho các ngài, bởi vì ai trong chúng ta cũng có nguồn có gốc, và chúng ta được mời gọi: “Uống nước nhớ nguồn, làm con phải hiếu, công cha như núi thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra, một lòng thờ mẹ kính cha, cho trọn chữ hiếu, mới là đạo con.”

Và hôm nay, trong Thánh Lễ Mồng Ba Tết chúng ta đang cử hành, chúng ta được mời gọi tạ ơn Chúa đã ban cho chúng ta “công ăn việc làm” và vừa xin Chúa thánh hóa công ăn việc làm của chúng ta. Trong cuộc sống, chúng ta không thể sống hạnh phúc mà không có công ăn việc làm, và nếu được có công ăn việc làm thích hợp. Vậy trong Thánh Lễ này, chúng ta hãy đem đến đặt trước mặt Chúa:

Công ăn việc làm của chúng ta, để xin Chúa thánh hóa: công ăn việc làm chúng ta ưa thích hay không ưa thích, công ăn việc làm sinh lợi nhiều hay sinh lợi ít, công ăn việc làm chúng ta đang vất vả đảm nhận, công ăn việc làm chúng ta đang cất công tìm kiếm hay công ăn việc làm chúng ta hằng mơ ước…

Và chúng ta cũng được mời gọi trong Thánh Lễ hôm nay, đặt trước mặt Chúa mọi công việc của chúng ta và xin Chúa thánh hóa: những công việc phục vụ lớn nhỏ trong Giáo Xứ, trong cộng đoàn hay trong hội dòng, những việc không tên và nhỏ bé hằng ngày trong gia đình, những công việc nhiều khi nặng nhọc mất nhiều thời gian, nhưng không lương bổng…

Và, với những người trẻ, là các em thiếu nhi, thiếu niên và thanh niên còn đang đi học, chúng con cũng được mời gọi dâng cho Chúa việc học tập ở trường và những bổn phận nhỏ bé hằng ngày của chúng con trong gia đình, để xin Chúa thánh hóa.

Trong Thánh Lễ của ngày đầu năm mới hôm nay, chúng ta xin Chúa thánh hóa công ăn việc làm và chúng ta được mời gọi tìm kiếm và đảm nhận công ăn việc làm của chúng ta như là “của thánh”. “Của thánh” là điều được thánh hóa, nghĩa là đến từ Chúa, thuộc về Chúa và hướng về Chúa.

Và Lời Chúa mà Giáo Hội cho chúng ta nghe trong Thánh Lễ hôm nay sẽ giúp chúng ta tìm kiếm và đảm nhận công ăn việc làm của chúng ta như là “của thánh”.

2. Sứ mạng Chúa trao

Tìm kiếm và đảm nhận công ăn việc làm của chúng ta như là “của thánh”, nghĩa là tìm kiếm và đảm nhận “công ăn việc làm” như là sứ mạng Chúa trao. Thật vậy, theo mặc khải của bài đọc một trích sách Sáng Thế, “công ăn việc làm” của loài người chúng ta được chính Thiên Chúa, Đấng Tạo Dựng, trao phó và trao phó như một sứ mạng: ‘‘ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn Ê-đen, để cày cấy và canh giữ đất đai’’. (St 2, 15)

Và sứ mạng “cày cấy và canh giữ đất đai” được Thiên Chúa trao cho Adam, đại diện cho loài người chúng ta, trước khi Người ban lệnh truyền và trước khi con người vi phạm lệnh truyền. Như thế, trước khi phạm tội, đã có “công ăn việc làm” rồi; trong khi đó, chúng ta nhiều khi lại hiểu rằng, trước khi loài người phạm tội, con người rảnh rỗi, vui chơi, không phải làm việc, và chúng ta hiểu “công ăn việc làm” như là hình phạt!

Sứ mạng “canh tác đất đai, tương tự như sứ mạng làm vườn nho trong dụ ngôn “Vườn nho và các tá điền” (x. Mt 21) là ơn huệ Thiên Chúa ban, để cộng tác với Người trong công trình sáng tạo, nghĩa là làm cho sinh hoa trái phục vụ cho sự sống của con người.

Ngoài ra, còn có sứ mạng “canh giữ”, mà chúng ta ít để ý, nhưng trong thực tế, lại rất cần thiết. “Canh giữ” ở đây không phải là canh giữ của cải mình làm ra, nhưng là canh giữ Con Rắn, Ma Quỉ, Sự Dữ và tất cả liên quan đến Sự Dữ trong cách thức chúng ta đảm nhận “công ăn việc làm”, trong cách thức chúng ta làm ra của cải: đó là canh giữ khỏi lòng ham muốn, nô lệ cho tiền bạc của cải, bất chính, gian lận, lừa đảo, làm hại người khác, tôn vinh bản thân…

Sứ mạng “canh giữ” được trao cho Adam, nhưng ông đã canh giữ làm sao mà để cho con rắn nó vào cám dỗ bà Evà!

3. Làm sinh lợi “yến vàng” Chúa trao

Tìm kiếm và đảm nhận công ăn việc làm của chúng ta như là “của thánh”, nghĩa là tìm kiếm và đảm nhận “công ăn việc làm” nhằm mục đích làm cho sinh hoa kết quả “nén bạc” Chúa trao. Trong bài Tin Mừng của Thánh Lễ hôm nay, Đức Giê-su kể một dụ ngôn: “Người kia sắp đi xa, liền gọi đầy tớ đến mà giao phó của cải mình cho họ. Ông chủ cho người này năm yến, người kia hai yến, người khác nữa một yến, tuỳ khả năng riêng mỗi người”. Theo các nhà chuyên môn, mỗi yến bạc trị giá sáu ngàn ngày công, tương đương với hai mươi năm làm việc. Số vốn quá lớn! Điều này có nghĩa là, dù có sự khác biệt khách quan năm, hai hay một nén, tất cả những gì Chúa ban cho mỗi người chúng ta tự bản chất đều quá lớn, có thể nói được là vô giá, vô giá như chính sự sống.

Chúng ta có thể hiểu những yến bạc là những năm tháng cuộc đời Chúa ban cho mỗi người, dài ngắn khác nhau. Chúng ta cũng có thể hiểu những yến bạc là tất cả những gì Chúa ban cho chúng ta trong cuộc sống: chủng tộc, xã hội, gia đình, giới tính, ngoại hình, khả năng, số phận… Như vậy, tất yếu có sự khác biệt. Chúng ta vẫn mơ là ai cũng y trang như nhau, thế là hết rắc rối. Không phải như vậy, sẽ rắc rối to hơn nữa, bởi vì sẽ chẳng còn niềm vui mở ra và chung hiệp, chẳng còn hạnh phúc đón nhận và trao ban, chẳng còn kinh ngạc và thán phục trước những điều kì diệu Chúa thực hiện đặc biệt cho mình hoặc cho người khác, chẳng còn tâm tình ca tụng và tạ ơn, chẳng còn lời kêu cầu tín thác, chẳng còn tương quan tình bạn, tình yêu… Hơn nữa, cung lòng của Thiên Chúa và cung lòng của mẹ chúng ta không thể như cái lò làm bánh mì, làm ra sản phẩm y như khuôn mẫu.

Dụ ngôn của Đức Giêsu, và nhất là cuộc đời của Ngài mời gọi chúng ta sống tâm tình tạ ơn, mỗi Thánh Lễ là một lời tạ ơn, là Lễ Tạ Ơn, là lời kinh Tạ Ơn: tạ ơn về chính mình, mình y như thế đó, tạ ơn vì sự tin tưởng quá lớn Chúa trao tặng cho chúng ta, tạ ơn vì quà tặng Đức Giêsu Kitô Chúa cho chúng ta mỗi ngày thật quảng đại và nhưng không. Chính với tâm tình tạ ơn mà chúng ta mới có thể bao dung và quảng đại làm sinh hoa kết quả cho vinh quang Thiên Chúa.

Khi cho đi, như dụ ngôn mời gọi chúng ta nhận ra, thì kết quả tất yếu sẽ viên mãn, năm nén sinh năm nén, hai nén sinh hai nén, và đáng lẽ ra, một yến cũng phải sinh ra một yến. Tuy nhiên, kết quả dù ít dù nhiều không quan trọng, miễn là chúng ta đã cho đi tất cả, và lời hứa Chúa dành cho chúng ta đều như nhau, nghĩa là “gấp trăm” do lòng quảng đại của Thiên Chúa:

Hưởng niềm vui khôn tả của Chúa.

Niềm vui mà Chúa cho chúng ta cảm nếm ngay hôm nay, trong những ngày họp mặt đầu Năm Mới.

4. Để chia sẻ

Tìm kiếm và đảm nhận công ăn việc làm của chúng ta như là “của thánh”, nghĩa là tìm kiếm và đảm nhận “công ăn việc làm” để có thể giúp đỡ người khác. Đó chính là chiều kích thánh thiêng thứ ba, mà Lời Chúa, trong bài đọc hai, trích sách Công Vụ Tông Đồ kể lại lời khuyên nhủ của thánh Phao-lô, mời gọi chúng ta đảm nhận “công ăn việc làm” của chúng ta: ‘‘Tôi luôn tỏ cho anh em thấy rằng phải giúp đỡ những người đau yếu bằng cách làm lụng vất vả như thế, và phải nhớ lại lời Chúa Giê-su đã dạy: “cho thì có phúc hơn là nhận.” (Cv 20, 35)

Thánh Phao-lô mời gọi chúng ta “làm lụng vất vả” để giúp đỡ những người đau yếu; và chúng ta có thể hiểu rộng hơn, để giúp đỡ những người nghèo, những người thiếu may mắn hay thiếu khả năng, hay đơn giản là để nuối sống nhau, nuôi sống những người già yếu, nuôi sống những em bé, những người trẻ trong xã hội, trong gia đình và trong cộng đoàn, hội dòng.

Chúng ta làm như thế, chính là để sống theo lời của Đức Giê-su, vì Người nói: “Cho thì có phúc hơn là nhận”; và hơn thế nữa, để nên giống chính Đức Giê-su, vì Người đã và vẫn cho đi chính mình Người, chính sự sống của Người trong mầu nhiệm Nhập Thể và mầu nhiệm Thánh Thể, được hoàn tất bởi Mầu Nhiệm chết và phục sinh.

Xin Chúa thánh hóa “công ăn việc làm” của chúng ta; và xin Chúa ban ân sủng và tình yêu của Người, để mỗi ngày và suốt năm mới, chúng ta có thể sống chiều kích thánh thiêng của “công ăn việc làm”, nghĩa là:

“công ăn việc làm” là sứ mạng Chúa trao,

“công ăn việc làm” là để sinh hoa kết quả nén bạc, là cuộc đời và ơn gọi của chúng ta,

và “công ăn việc làm” là để có thể phục vụ, chia sẻ và giúp đỡ.

Như Lời Chúa mời gọi chúng ta. Amen.

 

13.       Chúa thánh hoá công ăn việc làm--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Những ngày tết là những ngày vui chơi, nghỉ ngơi, giãn xả về mặt thể xác, nhưng Giáo Hội là người Mẹ luôn khôn ngoan hướng con người nhìn xa thấy rộng hơn, thể xác thảnh thơi đôi chút sau những ngày tháng làm việc vất vả, Giáo Hội hôm nay muốn nhắc nhớ mọi người phải hướng về Đấng tối cao, hướng về Thiên Chúa vì Ngài là Đấng có quyền ban phát mọi sự. Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên, câu tục ngữ của Pháp quả mang một ý nghĩa thâm sâu, cao vời. Hội Thánh Việt Nam dành ngày mồng ba tết để cầu xin Chúa thánh hoá công ăn việc làm.

LAO ĐỘNG LÀ LẼ SỐNG CỦA CON NGƯỜI:

Được Thiên Chúa tạo dựng, con người sống trong cảnh địa đàng hạnh phúc, huy hoàng và êm đềm không vất vả. Tuy nhiên, khi ông bà nguyên tổ phạm tội, con người mất hạnh phúc địa đàng trần gian, Thiên Chúa đuổi ông bà tổ tiên ra khỏi vườn Éđen và bắt đầu một cuộc sống trần thế với bao truân chuyên, thử thách, vất vả vì tội lỗi ông bà tổ tiên gây ra. Tuy nhiên Chúa không bỏ rơi nhân loại, con người mà đã sai Con của Người là Đức Giêsu Kitô đến để mang lại cho cuộc đời trần thế một ý nghĩa mới, biến công ăn việc làm trở nên có ý nghĩa cứu rỗi vì nó không còn là lời nguyền rủa mà là hạnh phúc khi con người biết làm ra của cải để mang lại giầu sang, phú quí và hạnh phúc cho cuộc sống, miễn là con người biết làm theo ý Thiên Chúa. Vì thế, trong ngày mồng ba tết, thánh Matthêu đã thuật lại dụ ngôn của Chúa Giêsu về các nén bạc Chúa trao cho mỗi người tùy theo khả năng, mức độ và trí tuệ mà họ được nhận lãnh, miễn là họ biết sinh lợi theo ý của ông chủ, và không lười biếng, ngồi chờ sung rụng…Chúa muốn mỗi con người dù trí thức, lao động bình thường: chân tay, trí óc đều phải sinh lợi theo mức độ khả năng Chúa trao cho.

XIN CHÚA THÁNH HÓA VIỆC LAO ĐỘNG VÀ CÔNG ĂN VIỆC LÀM CỦA MỖI NGƯỜI:

Để được Chúa thánh hóa công ăn việc làm, con người phải biết tùy theo khả năng siêng năng, lanh lẹ làm cho của cải sinh hoa kết quả tốt. Con người phải hiểu rằng Chúa đến trong thế giới, nhận một gia đình để được sinh ra và để sống là vì Chúa đem lại cho lao động, cho cuộc sống một giá trị, một ý nghĩa hoàn toàn mới. Chúa nâng đời sống lao động và thánh hoá đời sống lao động, Chúa làm gương về đời sống phục vụ, mỗi giọt mồ hôi, mỗi sự mệt mỏi trong lao động của Chúa Giêsu đều mặc một giá trị cứu rỗi.Con người luôn phải ý thức lời Kinh Thánh viết, hướng dẫn và chỉ bảo: “ Bao lâu trái đất này còn, còn gieo còn gặt, còn vun còn trồng; bốn mùa xuân hạ thu đông, ngày đêm thời tiết không ngừng luân phiên” hoặc: ” bốn mùa Chúa đổ hồng ân, Ngài gieo mầu mỡ ngập tràn lối đi” (Tv 64, 2).

Mồng ba tết xin Chúa thánh hóa công ăn việc làm, chúng ta mỗi người tạ ơn Chúa vì Ngài đã ban cho chúng ta người năm nén, người hai nén, người một nén. Tất cả đều do hồng ân Chúa. Xin Chúa giúp chúng ta biết làm lợi cho Chúa, cho bản thân, cho gia đình, cho xã hội. Làm biếng, chơi bời lêu lổng không chịu lao động để sinh lợi theo khả năng Chúa ban là lỗi với Chúa và đáng Chúa khiển trách: “ Hỡi tôi tớ lười biếng…”.

Lạy Chúa, chúa đã muốn cho con người phải lao động để làm chủ thiên nhiên. Xin cho chúng con được thấm nhuần Kitô giáo, để công ăn việc làm của chúng con trong năm mới này nêu cao tình tương thân tương ái, và góp phần vào sự nghiệp chung là hoàn thành chương trình sáng tạo của Chúa (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh hoá công ăn việc làm).

 

14.       Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Từ lâu người Việt Nam đã biết có ông Trời. Tin ông Trời. Cầu khẩn ông Trời. ông Trời trở thành một thần linh luôn đồng hành với con người qua mọi thăng trầm. Tuy không rõ Ông Trời thế nào nhưng không ai lại không kính Trời. Ai cũng sợ Trời và cố gắng làm vui lòng Trời. Vì ông trời làm chủ vận mệnh muôn loài. Ông Trời quyền phép vô cùng. Thế nên,

Mưu sự tại nhân – Thành sự tại Thiên.

Trời cho ai nấy hưởng

Sống nhờ ơn Trời – Chết về chầu Trời.

Khi làm ăn mùa màng không được như ý thì người ta cầu trời:

“Lạy trời mưa xuống

Lấy nước tôi uống

Lấy ruộng tôi cày

Lấy đầy bát cơm

Lấy rơm đun bếp”

Làn mưa từ Trời sẽ mang lại niềm vui cho công việc, cho cuộc sống con người:

 “Nhờ Trời mưa thuận gió hoà

Nào cày, nào cấy trẻ già đua nhau

Người Việt cũng luôn tin vào Trời rất công bình, hoạ phúc công minh; Ông Trời như một ông chủ luôn thưởng phạt công minh:

“Trời nào có phụ ai đâu

Hay làm thì giầu, có chí thì nên”

Hôm nay Giáo hội mời gọi chúng ta trao phó công việc làm ăn cho Thiên Chúa. Chúng ta tin rằng Thiên Chúa quyền năng, Ngài điều khiển mọi loài. Ngài là Đấng cho mưa thuận gió hoà trên kẻ lành người dữ. Ngài là Đấng ban lại cho chúng ta sự thành công trong công việc mà thánh vương Đa-vít đã từng nói: “Nếu Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng bằng uổng công”.

Lịch sử nhân loại đã từng chứng minh có biết bao công trình mà không có bàn tay Thiên Chúa, hay cố tình loại trừ Thiên Chúa sẽ khó hoàn thành, đôi khi còn bị huỷ diệt.

Đó chính là sự kiện xây tháp Babel. Con người đã từng không chấp nhận thua Thiên Chúa. Họ muốn chống lại Thiên Chúa nên hợp lực với nhau để xây tháp tới Trời. Thế nhưng, lực bất tòng tâm. Công trình của họ đã bị dang dở. Họ chia rẽ nhau ngay khi công việc còn dở dang.

Gần đây nhất là sự kiện con tàu Titalic. Con tàu của sự kiêu hãnh của con người có thể chống lại phong ba bão tố. Người ta tưởng rằng với sự văn minh của nhân loại, người ta không cần ơn Trời vẫn có thể đi biển bình yên. Thế nhưng, con tàu đó đã bị chìm xuống đại dương cùng với sự ngạo nghễ của con người khi đâm vào một tảng đá ngầm mà không ai học được “chữ ngờ”.

Thế nên, việc cầu Trời, khấn trời dù ở khung trời văn minh hay chốn hồng hoang vẫn là cần thiết. Con người luôn bất lực trước sức mạnh của thiên nhiên. Con người như cảm thấy mình quả nhở bé so với vạn vật được tạo thành. Sự khiêm tốn đòi hỏi con người phải cần đến Đấng Tạo Thành, cầu xin Đấng Tạo, Khấn vái Đấng Tạo Thành. Sự khiêm tốn để nhìn nhận những gì mình có không phải do tài năng của mình, không phải do mưu trí của mình mà có mà là do ân ban của Thiên Chúa.

Tất cả là hồng ân. Thiên Chúa luôn tưới gội hồng ân của Ngài xuống trên con người. Thiên Chúa luôn làm biết bao việc kỳ diệu cho con người. Con người chỉ là loài thụ tạo được thừa hưởng muôn ơn lộc Chúa ban mà thôi.

Hôm nay, ngày xin ơn thánh hoá công ăn việc làm. Chúng ta dâng lên Chúa những ưu tư hoài bão của chúng ta lên Thiên Chúa. Chúng ta cầu xin Chúa ban cho một năm “mưa thuận gió hòa”, mùa màng trĩu hạt. Xin Chúa là Đấng quyền năng chúc lành cho công việc của chúng ta từ khởi sự cho đến hoàn thành đều nhờ bởi ơn Chúa. Amen

 

15.       Mọi sự đều nhờ ơn Chúa--Lm Giuse Tạ Duy Tuyền

Ngày Mồng Ba Tết, chúng ta dành để dâng lên Chúa những dự định và tương lai của chúng ta. Chúng ta xác tín rằng mọi sự đều nhờ ơn Chúa, vì “nếu Chúa không xây nhà thì thợ nề vất vả cũng bằng uổng công”.

Thực vậy, nhìn lại năm 2010 với biết bao thiên tai giáng xuống địa cầu, cho chúng ta thấy con người thật nhỏ bé trước bao sóng gió của thiên nhiên. Con người cần phải có ơn Chúa để gìn giữ, chúc lành cho chúng ta một năm bình an.

Vâng, có thể nói năm 2010 đã vụt qua, nhưng đã để lại nỗi hãi hùng cho con người với những trận thiên tai kinh thiên động địa nhất.

Xin được lướt qua những thiệt hại về nhân mạng cũng như vật chất:

1) Trận động đất 7 độ Richter ở Haiti xảy ra ngày 24-01, đã giết chết 230,000 người, hơn 300,000 người bị thương và hơn một triệu người màn trời chiếu đất. Đến nay, một năm sau, vẫn chưa hồi phục dù thế giới đã đổ hàng tỷ đô-la vào xứ sở nghèo đói bệnh tật này.

2) Ngày 27-2, lại một trận động đất mạnh tới 8.8 độ Richter, đã xảy ra ở vùng duyên hải Chí Lợi (Chile), rung chuyển 6 tiểu bang lớn và một phần của Á Căn Đình. Động đất kéo theo sóng thần, quét qua các thị trấn ven biển, khiến 500 người thiệt mạng, hơn 200.000 người mất nhà cửa, gây thiệt hại 30 tỷ đô.

3) Ngày 21-3, núi lửa ở Băng đảo (Iceland) bỗng nhiên thức giấc sau 200 năm, phun bụi và khói ngập trời khiến hàng ngàn người phải di tản. Thiên tai này đã ảnh hưởng nặng nề tới hoạt động hàng không, làm cho 100.000 chuyến bay của các nước Âu Châu bị hủy bỏ và 8 triệu hành khách bị mắc kẹt ở các sân bay trong suốt 6 ngày, thiệt hại gần 2 tỷ đô-la.

4) Tháng Bảy, sau những trận mưa dai dẳng đã gây ra lụt lội tại Pakistan. Trận mưa lụt này được coi là thiên tai lớn nhất trong 100 năm tại Pakistan. Một phần năm (1/5) diện tích quốc gia này đã chìm trong biển nước, hơn 2.000 người bị cướp đi sinh mạng. Con số này còn tăng cao vì dịch bệnh, gây thiệt hại lên tới 10 tỷ đô-la, khiến ít nhất 9 triệu người, trong đó phần lớn là trẻ em, lâm vào cảnh đói khát.

5) Cũng vào tháng Bảy, nóng chưa từng có đã kéo theo nạn cháy rừng nhiều nơi ở Nga. Bầu trời thủ đô Moscow bị bao phủ khói đen, nhiều chuyến bay đã bị hủy bỏ. Hỏa hoạn và cháy rừng làm cho 50 người thiệt mạng và 3.000 người mất nhà cửa. Nguyên nhân của thảm họa cháy rừng là do mức nhiệt độ lên cao kỷ lục trong hơn 100 năm qua.

Đó là những trận thiên tai lớn đã xẩy ra trong năm 2010, khiến thế giới phải lo ngại sẽ tạo thêm khủng hoảng tài chánh, vì hai năm qua kinh tế thế giới đã gặp nhiều khó khăn chưa giải quyết nổi. Các nhà tiên tri cho rằng, năm 2010 chỉ là năm bắt đầu của những thiên tai, bệnh tật mà nhân loại sẽ phải gánh chịu vào những năm kế tiếp.

Người Việt thì nói rằng: mỗi năm, làm ăn càng ngày càng khó khăn hơn. Người đông của ít, khiến con người phải bon chen vật lộn với cuộc sống nhiều hơn. Thêm vào đó lại thiên tai, lũ lụt, thời tiết khắc nghiệt khiến ngành chăn nuôi, trồng cấy càng mong manh. Như dịch bệnh cùm gia gia cầm, dịch tai xanh… tràn lan suốt năm qua.

Hôm nay, Ngày Đầu Năm, chúng ta hướng về Cha trên trời, là Đấng làm chủ mọi loài, là Đấng quan phòng kỳ diệu, xin Chúa chúc lành cho chúng ta một năm bình an hạnh phúc, một năm an khang thịnh vượng.

Xin Chúa chúc lành cho những dự định tương tai của chúng ta được thành toàn.

Chúng ta hãy trao vào tay Chúa những lo toan vất vả của đời người.

Chúng ta hãy bước đi trong sự tín thác vào tình thương quan phòng của Chúa.

Xin Chúa là Chúa của mùa xuân chúc lành cho những ước nguyện đầu xuân của chúng ta. Amen

 

16.       “Ơn Trời Mưa Nắng Phải Thì”--Lm Giuse Tạ Duy Tuyền

Có một câu chuyện huyền thoại về con trâu như sau:

Thuở xưa, Ngọc Hoàng sai một vị thần xuống trần gian mang theo 1 bao hạt giống lúa và 1 bao cỏ để gieo xuống trần gian. Trước khi xuống trần, Ngọc Hoàng đã tỉ mỉ căn dặn, đến trần gian phải gieo rắc bao hạt giống lúa trước để dân có dư giả mà ăn, còn bao cỏ thì gieo sau để nuôi thú vật. Nhưng khi vị thần này đến trần gian, thấy phong cảnh khác lạ, nên mãi mê xem mà quên lời căn dặn của Ngọc Hoàng, để rồi gieo bao cỏ trước và bao hạt giống lúa sau. Từ đó, cỏ không cần trồng cũng mọc tràn lan khắp mọi nơi, các thú vật ăn không bao giờ hết vì quá dư thừa và không làm sao diệt cỏ hết được. Còn lúa phải gieo trồng rất cực khổ và khó khăn mới có ăn, bởi vì bị cỏ mọc lấn áp làm lúa phát triển chậm hơn cỏ. Bởi lỗi ấy của vị thần, làm cho người trần gian trồng lúa rất khó nhọc mới có ăn và cỏ thì mọc tự nhiên quá nhiều, cho nên Ngọc Hoàng mới đày vị thần này xuống trần gian hóa thành con Trâu để giúp người trần gian cày bừa trồng lúa và ăn cỏ, chừng nào hết cỏ sẽ được tha thứ cùng phục hồi địa vị cũ, nhưng ăn hoài vẫn không bao giờ hết cỏ được, nên Trâu chưa thoát kiếp trở về thiên đường.

Câu chuyện này phải chăng muốn dạy chúng ta: “Có làm thì mới có ăn – Không dưng ai dễ mang phần cho ta”. Vì ở trần gian, cỏ thì nhiều, lúa thì ít. Cây ăn được thì ít, cây không ăn được thì nhiều. Xem ra con người vất vả hơn con vật. Vì người làm lụng vất vả mới có mà ăn, còn vật thì không cần làm mà trời vẫn cho ăn.

Hôm nay ngày Mồng Ba Tết, Giáo hội mời gọi chúng ta trao phó công việc làm ăn cho Thiên Chúa. Chúng ta xin Chúa ban cho một năm “thuận buồm xuôi gió”. Chúng ta xin Chúa chúc lành cho công việc chúng ta được mọi sự như ý, ân phước dư đầy. Chúng ta tự ý thức sự nhỏ bé, giới hạn của con người trước biết bao công việc mưu sinh hằng ngày. Chúng ta cần ơn ban của trời cao. Chúng ta xác tín như người xưa đã xác tín vào trời: “Mưu sự tại nhân – Thành sự tại Thiên”. Đó là thái độ khiêm tốn cần có của con người trước vũ trụ bao la. Con người nhỏ bé giới hạn nên cần phó dâng trong tay Thiên Chúa. Tổ tiên chúng ta xưa cũng từng làm như thế. Không phải vì lạc hậu. Không phải vì thiếu ý thức khoa học mới tin vào Trời, nhưng vì cảm nghiệm sự nhỏ bé của con người trước sự lớn lao của Trời:

“Đèn Trời đèn sáng bốn phương

Đèn tôi sáng tỏ đầu giường nhà tôi”.

Hơn nữa niềm tin của tổ tiên còn xác tín về lòng nhân ái của Trời. Trời không phụ lòng người. Trời không bao giờ bỏ quên con người:

“Trời nào có phụ ai đâu

Hay làm thì giầu, có chí thì nên”.

Biết được lòng trời rộng rãi bao la. Tổ tiên xưa còn biết lợi dụng mưa nắng phải thì của Trời mà trồng cấy:

Trời nắng tốt dưa

Trời mưa tốt lúa.

Nhất là biết cầu khẩn cùng Trời cho một năm:

“Nhờ trời mưa gió thuận hoà

Nào cầy nào cấy trẻ gia đua nhau”

Thực vậy, cuộc sống mưu sinh thật khó khăn. Nếu không có ơn trời thì công việc chúng ta cũng tựa như “dã tràng xe cát biển đông”. Nhìn lại một năm qua, chúng ta thấy thật rõ điều đó. Việc làm ăn mỗi ngày một khó. Không chì là do suy thoái kinh tế toàn cầu, mà quan yếu còn do thiên tai lũ lụt hoành hành. Ở Việt Nam ngay từ đầu năm Mậu Tý đã xảy ra rét đậm, rét hại khiến hàng ngàn trâu bò bị chết, hàng ngàn hecta hoa màu không thể đơm bông kết trái. Rồi thiên tai lũ lụt trong năm đã phá huỷ biết bao ruộng lúa, vườn rau. Nhiều người nói rằng: năm nay làm ăn không chỉ trắng tay mà con nợ nần chồng chất. Cuộc sống vốn dĩ đã khổ lại khổ thêm do không gặp thời vận của Trời ban.

Đó là lý do mà hôm nay chúng ta cùng nhau dâng lên Thiên Chúa công việc và dự định của chúng ta trong năm nay. Chúng ta trao gởi công việc chúng ta cho Thiên Chúa. Xin Chúa chúc phúc và thánh hoa công việc chúng ta được mọi sự như ý. Chúng ta xác tín rằng: “Nếu Chúa không xây nhà, thợ nề vất vả cũng bằng uổng công”. Xin Chúa thương đón nhận những ước nguyện đầu năm chân thành của chúng ta. Amen

 

17.       Lời Chúa Ngày MỒNG BA TẾT--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Thiên Chúa ban cho mỗi người một nén bạc. Nén bạc tượng trưng cho khả năng, cho điều kiện của mỗi người khác nhau. Thế nên, phải biết “liệu cơm gắm mắm” cho phù hợp với khả năng và điều kiện của mình. Đừng mơ tưởng những sự viễn vông, vì điều đó vượt ngoài khả năng. Đừng làm những việc không trong tầm tay kẻo uống phí thời gian, vì uổng công vô ích.

Có một con Dê tự tách ra khỏi đàn, bị con Sói đuổi theo. Dê quay lại, nói với Sói:

- Thưa ngài, tôi biết thân phận mình phải hiến dâng cho ngài. Nhưng để ngài thưởng thức món ăn đựơc ngon, ngài hãy thổi sáo và tôi múa nhảy cho mà xem.

Sói bắt đầu thổi sáo cho Dê nhảy quay cuồng. Lũ chó nhà nghe tiếng huyên náo bèn nhảy ra đuổi Sói.

Sói vừa chạy vừa quay đầu lại nói với Dê:

- Ta chịu thua ngươi vì ta vốn anh hàng thịt lại giở trò làm nhạc công, nên bỏ lỡ mất thời cơ.

Hóa ra khi chúng ta làm những việc ngoài khả năng thì chúng ta chỉ là một anh hề mà thôi. Có khi vất vả mà chằng nên công trạng gì. Thế nên, hãy nắm bắt những gì mình có thể làm được và trong tầm tay của mình. Đừng làm những chuyện “vá trời” mà chẳng được công ích gì! Hãy làm những chuyện trước mắt, những chuyện cần làm ngay mới đem lại hiệu quả cao. Con sói đã sổng mất con mồi khi làm việc không đúng khả năng của mình. Con người cũng sẽ thất bại nếu không biết làm đúng chuyên môn, hay đúng khả năng của mình.

Hôm nay, ngày Mồng Ba Tết, chúng ta hướng lòng lên Đấng Tạo thành để cúi xin Ngài chúc phúc cho công việc một năm được thuận buồm xuôi gió. Chúng ta tin rằng “Mưu sự tại nhân, Thành sự tại Thiên”. Con người chúng ta dù mưu lược đến đâu! Dù cần cù đến đâu mà không có sự chúc phúc của Thiên Chúa thì cũng chỉ là “dã tràng xe cát biển Đông” mà thôi! Hơn nữa, sự vất vả lao nhọc của chúng ta nếu được hỗ trợ bởi ơn trên phù hộ, chắc chắn công việc của chúng ta sẽ được thành toàn, được viên mãn theo dự định.

Chúa ban cho chúng ta mỗi người một khả năng, tựa như mỗi đóa hoa làm cho vườn hoa đa sắc. Cuộc đời con người nếu biết dùng khả năng của mình cũng vẽ lên bức tranh đẹp cho cuộc đời. Sự cần cù lao động cũng là dịp để chúng ta thể hiện vai trò cộng tác vào công trình sáng tạo và cứu chuộc của Thiên Chúa. Thiên Chúa tạo dựng con người để con người tiếp tục hoàn thiện công trình mà Ngài đã tạo dựng. Sự hoàn thiện đòi con người phải cần mẫn, phải sáng tạo. Tuy nhiên, Thiên Chúa vẫn đòi chúng ta quy hướng về Ngài, Ngài vẫn đòi chúng ta trao phó mọi sự trong tay Ngài, tựa như người con chỉ làm theo sự xếp đặt của cha mẹ, dầu vẫn phải sáng tạo và làm tốt hơn cho công việc.

Ngày đầu năm chúng ta hãy dâng cho Chúa những công việc và dự định của chúng ta. Xin Chúa hãy làm vơi đi những gánh nặng cuộc đời bằng ân sủng của Chúa. Xin Chúa hãy chúc lành cho những dự định của chúng ta sớm được hoàn thành. Chúng ta tin vào Thiên Chúa quyền năng. Chúng ta tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa sẽ chăm sóc từng cuộc đời chúng ta theo lòng nhân ái của Ngài. Trong niềm tin đó, chúng ta hãy để cho Ngài an bài mọi sự theo thánh ý Ngài, còn chúng ta hãy làm mọi sự theo khả năng của mình. Amen.

 

18.       Thánh hóa công ăn việc làm (Mt 25, 14-30)--Giuse Trần Công Thượng

Kính thưa cộng đoàn,

Từ thuở khai thiên lập địa Thiên Chúa sáng tạo con người và ủy thác cho con người nhiệm vụ cai trị trái đất. “Ngài đặt con người vào vườn Eđen để cày cấy và canh giữ đất đai”. (St 15,2) Như vậy, Thiên Chúa gắn liền lao động với con người, coi lao động như một sứ vụ, một tương lai. Con người tiếp tục công cuộc tạo dựng lưu truyền đời sống và biến đổi thiên nhiên.

Lao động là hoạt động đặc thù của con người, giúp con người tạo ra của cải vật chất và tinh thần, góp phần phát triển khoa học, văn hóa và đạo đức. Vì vậy, lao động mang một ý nghĩa lớn đối với đời sống con người.

Chính Đức Giêsu là một người lao động. Ngài làm nghề thợ mộc tại làng Nazaret, một nghề tầm thường trong xã hội bấy giờ, để dễ dàng gần gũi với người lao động nghèo. Tin Mừng của Ngài là “Tin Mừng của lao động”, vì người rao giảng Tin Mừng ấy chính là một người lao động. ngài thuộc về thế giới lao động, ưa chuộng lao động, tôn trọng sự lao động của con người. Trong lời giảng của Ngài ta thấy toát lên chân lý căn bản về vấn đề lao động, một chân lý đã được diễn tả trong tất cả truyền thống, ngay từ sách sáng thế. (X. Tông huấn Lao động của con người, của Đức Thánh Cha Gioan Phao lô II, ngày 14.9.1981). Các bài giảng của Ngài cũng thật gần gũi với người lao động.

Gương mẫu và giáo huấn của Chúa Giêsu đã ảnh hưởng tới các môn đệ theo Ngài, đặc biệt là thánh Phaolô. Thánh nhân không ngừng nêu gương và khuyên nhủ các tín hữu về giá trị của lao động. Khi ngỏ lới các kỳ mục ở Êphêsô, thánh Phaolô nói: “Chính anh em biết rõ: những gì cần thiết cho tôi và cho những người sống với tôi, đôi tay này đã tự cung cấp. Tôi luôn tỏ cho anh em thấy rằng phải giúp đỡ những người đau yếu bằng cách làm lụng vất vả như thế, và phải nhớ lại lời Chúa Giê-su đã dạy: cho thì có phúc hơn là nhận.” (Cv 20, 34-35). Trong thư gửi tín hữu Thêxalônica, thánh nhân khẳng định: “Chúng tôi đã chẳng ăn bám ai, trái lại đêm ngày đã làm lụng khó nhọc vất vả, để khỏi nên gánh nặng cho người nào trong anh em”(2Tx 3,8) hay ngài chỉ thị “ai không chịu làm thì cũng đừng ăn” (2Tx 3,10).

Tất cả chúng ta là những người lao động. Hằng ngày chúng ta vẫn bán mặt cho đất bán lưng cho trời trên đồng ruộng, vất vả trong các nhà máy, miệt mài với những trang sách, tất bật ngược xuôi ngoài chợ. Đó là vinh dự cũng là một trách nhiệm Thiên Chúa trao cho chúng ta để cộng tác với Ngài trong việc xây dựng thế giới này.

Hôm nay, mồng 3 Tết – những giây phút đầu tiên của năm mới, Mẹ Giáo Hội dành cho con cái một ngày đặc biệt cầu xin Thiên Chúa thánh hóa công ăn việc làm. Đây là dịp thuận lợi để chúng ta suy nghĩ về sứ vụ lao động của mỗi người, dâng lên Thiên Chúa thành quả lao động trong một năm qua đồng thời có những quyết tâm cho năm mới.

Năm mới, chúng ta đưa ra bao nhiêu dự tính cho công việc phải làm. Nhưng những dự tính đó có thành công hay không, chúng ta không hoàn toàn quyết định. Quả thế, cổ nhân nói: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”. Tuy nhiên, với niềm tin vào ơn Chúa giúp, chúng ta phải cố gắng hết mình để chu toàn công việc.

Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu kể cho các môn đệ nghe dụ ngôn các nén bạc. Ông chủ đi xa, trao cho các đầy tớ những nén bạc: người năm nén, người 2 nén, người một nén. Người thứ nhất và người thứ hai đã cố gắng và hăng say làm việc để sinh lời cho ông chủ. Đó là những người có tinh thần trách nhiệm: trách nhiệm với ông chủ và trách nhiệm với bản thân. Người thứ ba thì ngược lại: vì lười biếng, nghi ngờ ông chủ nên anh đã chôn giấu số bạc đã được giao, phụ lòng tin tưởng của ông chủ. Và kết quả, khi ông chủ về, người thứ nhất và người thứ hai được vào hưởng niềm vui của chủ vì đã trung tín, còn người thứ ba vì biếng nhác nên bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng.

Qua dụ ngôn Chúa Giêsu muốn nhắc nhở chúng ta điều gì trong ngày cầu xin Chúa thánh hóa công ăn việc làm hôm nay.

Thiên Chúa là chủ tể mọi loài mọi vật, con chúng ta là những tôi tớ của Ngài. Ngài trao cho mỗi người chúng ta những nén bạc là: đức tin, sức khỏe, tài năng, cơ hội, nghị lực, tiền của, ân nhân, nền giáo dục…Mỗi người được trao những nén bạc khác nhau, kẻ nhiều người ít, nhưng Thiên Chúa muốn chúng ta phải cố gắng hết mình để sinh lời tùy theo cuộc sống và hoàn cảnh của mỗi người. Chúng ta sử dụng tài năng, sức khỏe, tiền của, cơ hội Chúa ban để làm việc và tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho bản thân, gia đình và xã hội hầu làm vinh danh Chúa và mang lại lợi ích cho tha nhân.

Ngày đầu năm mới này, chúng ta ngẫm xem Chúa trao cho mình bao nhiêu nén bạc. Dưới cái nhìn đức tin, có lẽ cuộc đời chúng ta chìm ngập trong hồng ân của Chúa quan phòng và khôn ngoan. Ngài ban cho chúng ta đủ điều kiện để làm tốt công việc phù hợp với khả năng của mình. Năm mới này, chúng ta phải quyết tâm bắt chước người đầy tớ thứ nhất và thứ hai trong dụ ngôn, cố gắng làm việc tốt để sinh lời từ “nén bạc” Chúa trao. Muốn vậy, chúng ta phải sử dụng những ơn riêng như lời khuyên của thánh Phêrô: “Ơn riêng Thiên Chúa đã ban, mỗi người trong anh em phải dùng mà phục vụ kẻ khác. Như vậy, anh em mới là những người khéo quản lý ân huệ thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa. Ai có nói, thì nói lời Thiên Chúa; ai phục vụ, thì phục vụ bằng sức mạnh Thiên Chúa ban. Như thế, trong mọi việc, chúng ta tôn vinh Thiên Chúa nhờ Đức Giê-su Ki-tô” (1Pr 4,10-11). Đồng thời chúng ta cũng quyết tâm xóa bỏ tư tưởng biếng nhác, nghi ngờ của người đầy tớ thứ ba để luôn làm việc theo tinh thần Tin Mừng. “Bất cứ làm việc gì, chúng ta làm tận tâm như thể làm cho Chúa, chứ không phải cho người đời, vì biết rằng chúng ta sẽ nhận được phần thưởng Chúa ban, là gia nghiệp dành cho dân Người “. (x.Cl 3,23-24)

Lạy Chúa Giêsu, khi ở trần gian, Chúa là một người lao động để nêu gương nên thánh cho chúng con trong công việc lao động thường ngày. Trong năm mới này, xin cho chúng con biết học nơi Chúa, luôn cố gắng và siêng năng làm việc để những nén bạc Chúa trao không trở nên vô hiệu.

Lạy Chúa Giêsu, biết bao người khổ công trên đồng ruộng, tất bật trong các nhà máy, xuôi ngược trên thương trường mà không đủ ăn, bao người lo lắng vì thiếu việc làm – trong giây phút đầu năm mới này, xin chúc lành cho hoa màu ruộng đất, cho các phương tiện làm ăn, cho các công việc chúng con đang làm và sẽ làm, hầu mong cuộc sống chúng con luôn hòa nhịp với lời thánh vịnh:

“Bốn mùa Chúa đổ hồng ân

Ngài gieo mầu mỡ ngập tràn lối đi”. (Tv 65,12).

 

19.       Cha Tôi không ngừng làm việc (Mt 25,14-30)--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Ngày mồng ba tết mỗi năm, Hội Thánh luôn dành riêng một ngày đầu năm để cầu nguyện xin Thiên Chúa thánh hóa công ăn việc làm của mọi người giữa lúc con người đang mải mê ăn tết, có khi quên cả mặt thiêng liêng, đạo đức. Sở dĩ Hội Thánh dùng ngày mồng ba tết để cầu xin Thiên Chúa đổ muôn ơn phúc xuống trên mùa màng bởi vì Hội thánh ý thức: “ Làm bởi bay, ban bởi Ta ” (L’homme propose, Dieu dispose). Hội Thánh cũng nhắc nhở tấm gương lao động của Thiên Chúa khi Ngài miệt mài sáng tạo vũ trụ, thế giới và con người. Giáo Hội cũng cho ta thấy gương lao động của Chúa Giêsu ở Nagiarét để chúng ta noi gương, bắt chước. Do đó, ngày mồng ba tết Giáo Hội dành riêng để xin ơn thánh hóa công ăn việc làm là để dạy con người: “ Không làm thì đừng có ăn” như thánh Phaolô tông đồ đã viết.

THIÊN CHÚA TẠO DỰNG CON NGƯỜI ĐỂ CON NGƯỜI LAO ĐỘNG LÀM RA CỦA CẢI: Tất cả ba bài đọc trong thánh lễ ngày mồng ba tết đều xoay chung quanh việc lao động. Bài sách sáng thế cho thấy Thiên Chúa đặt con người trong vườn Eden và dạy con người trồng trọt nghĩa là lao động để làm ra của cải. Thiên Chúa muốn con người xây dựng thế giới, tô đẹp thế giới và làm cho thế giới càng ngày càng trở nên phong phú, tươi xinh theo ý của Thiên Chúa. Đoạn Tin Mừng nói về việc ông chủ trao cho đầy tớ các nén bạc để các đầy tớ làm lợi ra những nén bạc khác, làm ra nhiều lợi nhuận. Tuy nhiên lao động chắc chắn đòi hỏi sự cố gắng của con người và nhiều khi làm cho con người mệt nhọc, nhưng lao động quả thực mang lại nhiều ý nghĩa thiết thực cho cuộc sống:

LAO ĐỘNG LÀ BÀI CẢM TẠ TRI ÂN: Nói đến lao động là nói đế sự làm việc mà làm việc dù trí óc hay tay chân đều làm cho con người mệt mỏi, đòi hỏi con người phải phấn đấu hy sinh, có khi phải đổ mồ hôi sôi nước mắt mới có miếng cơm mà ăn, có cần cù lao động với óc sáng kiến, với khả năng, với kỹ thuật mới mong có của ăn của để. Mặc dù như thế, nhưng lao động vẫn là sự vinh quang bởi vì phải lao động mới tốt đẹp được, mới đem lại cho con người sức sống. Giầu đâu đến kẻ ngủ trưa, sang đâu đến kẻ say sưa tối ngay, ca dao tục ngữ Việt Nam quả thực đã nói đến lý tưởng của lao động và đề cao giá trị của lao động. Đối với người công giáo lao động là bài ca tình yêu bất tận bởi vì con người làm nhưng chính Thiên Chúa định đoạt thành quả của việc làm. Do đó, lao động nói theo ngôn ngữ nhà đạo là bài ca tình yêu, là lời cảm tạ tri ân không ngừng bởi Thiên Chúa không ngừng lao động và Chúa Giêsu cũng đã lao động không ngừng.

LAO ĐỘNG NÂNG CAO PHẨM GIÁ CON NGƯỜI: Con người sẽ chẳng ra chi nếu không chịu làm việc. ” Đừng ngồi chờ sung rụng “, vâng, Thiên Chúa đã lao động không ngừng, Chúa Giêsu cũng đã noi gương Chúa cha làm việc không mệt mỏi. Do đó, con người cũng phải làm việc vì việc làm do trí óc, do bàn tay con người sẽ nâng cao giá trị của con người và làm cho việc làm có giá trị. ” Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho con người phải lao động để làm chủ thiên nhiên. Xin cho chúng con được thấm nhuần tinh thần Kitô giáo, để công ăn việc làm của chúng con trong năm mới này nêu cao tình tương thân tương ái, và góp phần vào sự nghiệp chung là hoàn thành chương trình sáng tạo của Chúa” (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh hóa công ăn việc làm). Lao động Chúa sẽ chúc lành nếu con người luôn hướng lao động theo ý Chúa: “ Bốn mùa Chúa đổ hồng ân. Ngài gieo mầu mỡ ngập tràn lối đi ” (Tv 64, 12) hoặc ” Bao lâu trái đất này còn, còn gieo còn gặt còn vun còn trồng. Bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông, ngày đêm thời tiết không ngừng luân phiên “.

LAO ĐỘNG MANG Ý NGHĨA GIẢI THOÁT, CỨU RỖI: Kinh tiền tụng ngày mồng ba tết viết: “ Chính Cha đã dựng nên con người giống hình ảnh Cha và giao trách nhiệm trông coi trái đất. Cha còn sai Con Một giáng trần để chia sẻ thân phận người lao động, và thực hiện chương trình cứu độ muôn dân. Quả vậy, Người đã bắt chước Cha hoạt động không ngừng, nêu gương cho chúng con biết chuyên cần làm việc, không những để no cơm ấm áo, và góp phần xây dựng xã hội loài người, mà còn để làm rạng danh Cha, và mở rộng Nước Trời ngay tại trần thế “. Con người làm ra vật chất không chỉ để nuôi sống mình nhưng còn để chia sẻ cho những kẻ khó nghèo và như thế của bố thí với ý ngay lành sẽ có ý nghĩa cứu rỗi.

ÁP DỤNG VÀO THỰC TẾ: Con người được Chúa tạo dựng để góp tay với Chúa làm cho vũ trụ, thế giới đẹp hơn, ấm hơn. Bởi vì, khi làm ra của cải, con người tạo được no ấm và hạnh phúc cho mình, cho gia đình mình. Nhưng còn hơn thế, con người biết nghĩ đến kẻ khác nhờ đó họ sẽ làm cho của cải có giá trị đẹp và có tính cứu rỗi. Chính vì thế, giầu quý thực nhưng nếu không biết chia sẻ cho những người nghèo thì lời của Chúa: “ Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu có vào được nước Thiên Chúa ” quả thực sẽ là lời cảnh cáo mạnh mẽ đối với những con người ích kỷ, bo bo giữ của mà không biết sẻ chia cho những người bé nhỏ, khó nghèo.

Lạy Chúa, nhân dịp đầu xuân, cộng đoàn chúng con dâng lên Chúa lễ phẩm này, cùng với mọi công việc chúng con sẽ làm trong năm mới.Cúi xin Chúa vui lòng chấp nhận, và cho chúng con được cộng tác với Con Một Chúa, để thực hiện công trình cứu độ của Người.Amen.

 

20.       Thánh hóa công ăn việc làm (Mt 25, 14-30)--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Bao lâu trái đất này còn,

Còn gieo còn gặt còn vun còn trồng;

Bốn mùa xuân hạ thu đông,

Ngày đêm thời tiết không ngừng luân phiên (St 8, 22).

Hằng năm Giáo Hội không ngừng dùng ngày mồng ba tết để cầu xin cho công ăn việc làm, xin Chúa thánh hóa công việc của mỗi người,đặc biệt xin ” Chúa gieo mầu mỡ ngập tràn lối đi “. Có người nghĩ rằng công việc là do bàn tay lao động của mình. Trí óc là do khả năng tích lũy của mình. Đất đai tự nó tốt, tự nó có mầu có mỡ. Không, Giáo Hội là người Mẹ hiền luôn nhìn thấy những gì do mình, điều gì do Chúa. Chính vì vậy, giữa bôn ba của cuộc đời, giữa những ngày vui chơi ăn tết, con người vì vẻ bề ngoài, vì lao mình vào các thú vui, vì say xưa chè chén, họ sao nhãng việc thiêng liêng, quên đi ” Làm bởi bay, ban bởi Ta “. Chính vì thế, Giáo Hội dành ngày mồng ba tết để xin Chúa thánh hóa ruộng vườn, mùa màng, cây cối và xin Chúa thánh hóa công ăn việc làm. Thánh Phaolô đã viết một câu mạnh mẽ nhưng hoàn toàn hợp lý: “ Không làm việc thì đừng ăn “, na ná như câu: “ Đừng nằm chờ sung rụng “…

THIÊN CHÚA SAI CON CỦA NGÀI ĐẾN TRẦN GIAN ĐỂ NÊU GƯƠNG LAO ĐỘNG CHO CON NGƯỜI: Khi tạo dựng vũ trụ, dựng nên con người, Thiên Chúa đặt con người trong vườn địa đàng và cho con người hưởng dùng mọi vật Ngài tạo dựng nên. Tuy nhiên, khi Ông bà Ađam và Evà phạm tội, Ông bà phải lao động cực nhọc, vất vả mới có của ăn để nuôi thân và nuôi con cái. Lao động bắt đầu từ khi con người sa ngã, ngang nhiên chống lại Chúa. Lao động vất vả nhưng luôn có giá trị bởi vì không có Chúa, con người dù có làm mấy đi nữa cũng không mang lại hiệu quả bao nhiêu…

Khi Con Thiên Chúa là Đức Giêsu Kitô được sai đến trần gian qua cung lòng thanh sạch của Đức Trinh Nữ Maria bởi phép Chúa Thánh Thần. Chúa Giêsu lớn lên ở Nagiarét, Ngài đem lại cho lao động một ý nghĩa cao vời. Chúa lao động để nêu gương cho nhân loại bởi vì lao động mang lại ý nghĩa thiết thực cho cuộc sống con người. Một ngày Chúa trao ban cho mỗi người 24 tiếng đồng hồ để con người như nhau nhưng tùy khả năng, tài trí làm lợi cho Chúa, cho Giáo Hội, cho bản thân, cho tha nhân. Chúa Giêsu đã cùng thánh cả Giuse và mẹ Maria lao động để mang lại cho lao động ý nghĩa cứu rỗi.

CON NGƯỜI LUÔN PHẢI LAO ĐỘNG: Dù làm việc bằng chân tay, hay làm việc bằng trí óc, mọi người đều phải làm việc. Chúa Giêsu đã nói: “ Cha Ta làm việc, Ta cũng làm việc không ngừng “. Chắc chắn, ở Nagiarét, Chúa Giêsu có lúc cũng đã phải đổ mồ hôi, mệt nhọc, vất vả vì lao động. Tuy nhiên, gia đình Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse đã lao động với tất cả tình yêu, với tất cả niềm tin và đem lại cho lao động một ý nghĩa tôn giáo tuyệt vời. Khi Chúa làm việc lao động, Ngài muốn chúng ta hãy luôn kết hợp với Ngài, như Ngài luôn kết hợp với chúng ta. Ai luôn kết hợp với Ngài, Chúa luôn kết hợp với người ấy, thì người ấy sinh hoa kết quả dồi dào (Ga 15, 45b). Con người noi gương Chúa luôn phải lao động không ngừng vì theo thánh Phaolô dạy: “ Không làm việc thì đừng có ăn “.Câu nói xem ra mạnh mẽ đấy, nhưng quả thực không lao đ8ộng làm sao có lương thực để nuôi thân, có của cải để độ trì. Do đó, bất cứ ai đã sinh ra ở trần gian muốn tồn tại phải làm việc hoặc bằng trí óc hoặc bằng chân tay.

LAO ĐỘNG MANG Ý NGHĨA CỨU RỖI: Khi nhìn vào gia đình thánh Giuse, Mẹ Maria và Chúa Giêsu, ai cũng hiểu rất rõ dù Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Ngài đã làm người, nên Ngài làm việc không ngừng. Thánh Giuse lao động để nuôi gia đình. Mẹ Maria làm việc nội trợ để tạo nên hạnh phúc gia đình. Cả gia dình thánh đã làm việc để nâng lao động lên tầm cao mới, nghĩa là làm cho lao động có một ý nghĩa cứu độ.Chính Thiên Chúa đã nêu gương lao động cho con người. Do đó, con người làm việc không chỉ để nuôi sống bản thân mình mà còn góp tay vào công trình cứu độ nhân loại…Thực tế, Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người giống hình ảnh Ngài và giao cho con người trông coi vũ trụ, tô đẹp vũ trụ.Lao động và tín thác nơi Chúa vì chính Chúa là mục tử chăn dắt chúng ta, nên chúng ta không còn thiếu thốn gì (Tv 22, 1).

ÁP DỤNG VÀO CUỘC SỐNG CỦA CON NGƯỜI, CỦA MỖI NGƯỜI: Chúa đã thánh hóa công ăn việc làm do tự lòng tin của chúng ta. Đọc Kinh Tiền Tụng chúng ta nhận ra rằng: “ Chính Thiên Chúa đã dựng nên con người giống hình ảnh Chúa và giao trách nhiệm trông coi trái đất. Chúa còn sai Con một giáng trần, để chia sẻ thân phận người lao động, và thực hiện công trình cứu độ muôn dân “. Chúa đã lao động để làm gương cho nhân loại, cho con người. Chúa giúp con người làm việc làm ra cơm áo và hơn nữa để xây dựng Nước Trời ngay tại trần thế.

Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho con người phải lao động để làm chủ thiên nhiên. Xin cho chúng con được thấm nhuần tinh thần Kitô giáo, để công ăn việc làm của chúng con trong năm Nhâm Thìn này nêu cao tình tương thân tương ái, và góp phần vào sự việc chung là hoàn thành chương trình sáng tạo của Chúa. Amen. (Lời nguyện nhập lễ, lễ ngày Mồng Ba Tết).

 

21.       Xin Chúa Chúc Lành (Mt 25, 14-30)--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Người Pháp có câu nói thật chí lý: “ Làm bởi bay, ban bởi Ta ” (L’homme propose, Dieu dispose). Giáo Hội Việt Nam luôn hướng dẫn, dạy con cái mình: “ Phải cầu nguyện, phải kêu xin không ngừng “. Do đó, làm việc là do bàn tay, do trí óc sáng tạo, lao động của con người nhưng nếu người môn đệ Chúa không được Chúa ban ơn, sức khỏe không có, trí khôn không sáng, chắc chắn công ăn việc làm của mình không tốt đẹp. Giáo Hội Việt Nam dành ngày mồng ba tết âm lịch để cầu xin Chúa thánh hóa công ăn việc làm.

Có nhiều người lầm tưởng, công ăn việc làm cần gì phải được thánh hóa. Làm ăn được là do sự năng nổ, giỏi giang của mình mà. Nói thế cũng đúng một phần mà hoàn toàn không phải thế. Vì, con người luôn có phần hồn phần xác. Xác có khỏe mới lao động được, còn thân xác yếu đuối, đau lên đau xuống hoài, chắc chắn công việc cũng không đi tới đâu. Con người có giỏi, có kỹ thuật cao, nhưng mưa không thuận, gió không hòa thì mùa màng cũng không đem lại nhiều kết quả.Thánh lễ hôm nay xoay quanh việc lao động, sản xuất.Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh của Người và đặt con người trong vườn Eden, rồi dạy con người trồng trọt nghĩa là dạy con người lao động. Thiên Chúa muốn con người góp tay và trí tuệ để làm cho vũ trụ mà Chúa dựng xây càng ngày càng đẹp, càng ngày càng phong phú, mọi người đều có của ăn, của để. Bài Tin Mừng đề cập đến việc ông chủ trao cho mỗi người một số vốn và bắt con người phải lao động để làm lời số vốn ông chủ đã trao. Lao động phải mệt nhọc, lao động đòi hỏi phải cố gắng, phấn đấu hy sinh, nhưng lao động luôn mang ý nghĩa đẹp, ý nghĩa cao sâu, tuyệt vời do Chúa chúc lành: “ Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho con người phải lao động để làm chủ thiên nhiên. Xin cho chúng con được thấm nhuần tinh thần Kitô giáo, để công ăn việc làm của chúng con trong năm mới này nêu cao tình tương thân tương ái, và góp phần vào sự nghiệp chung là hoàn thành chương trình sáng tạo của Chúa ” (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh hóa công ăn việc làm). Hoặc “Bao lâu trái đất này còn, còn gieo còn gặt còn vun còn trồng. Bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông, ngày đêm thời tiết không ngừng luân phiên” và Thánh vịnh 64, 12 cũng viết: “ Bốn mùa Chúa đổ hồng ân, Ngài gieo mầu mỡ ngập tràn lối đi “.

Như thế, đối với người môn đệ Chúa lao động trí óc hay chân tay đều do quyền Chúa. Ngài có chúc lành, có ban ơn thì công việc mới tốt lành được. Chúa Giêsu cũng đã làm việc và làm việc không ngừng. Ngài đã làm việc để nêu gương cho nhân loại và để mang lại cho lao động ý nghĩa cao cả. Lao động đối với Ngài là lời tạ ơn, là cầu nguyện, là cứu độ, là nâng cao phẩm giá con người. Thánh Phaolô đã viết một câu thật chí lý: “ Không làm thì đừng có ăn “.

Chúng ta hãy dùng lời tiền tụng thánh lễ ngày mồng ba tết để cùng nhau cầu nguyện: “ Lạy Chúa, chính Chúa đã dựng nên con người giống hình ảnh Chúa và giao trách nhiệm trông coi trái đất. Chúa còn sai Con Một giáng trần để chia sẻ thân phận người lao động, và thực hiện chương trình cứu độ muôn dân. Quả vậy, Người đã bắt chước Cha hoạt động không ngừng, nêu gương cho chúng con biết chuyên cần làm việc, không những để no cơm ấm áo, và góp phần xây dựng xã hội loài người, mà còn để làm rạng danh Cha, và mở rộng Nước Trời ngay tại trần thế “. Amen.

 

22.       Thánh hóa công ăn việc làm (Mt 25,14-30)--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Thật hạnh phúc biết bao hằng năm Giáo Hội dành ngày mồng ba tết để cầu nguyện cho việc thánh hóa công ăn việc làm. Quả thực, con người làm lụng, Thiên Chúa trao ban. Câu nói của người Pháp rất chí lý (L’homme propose, Dieu dispose). Con người có đầu óc, có kế hoạch, có tài năng, bầy mưu hiến kế, nhưng nếu Chúa không ban ơn, không tiếp sức, không cho sức khỏe, con người cũng không thể hoàn thành công việc theo ý muốn. Hiểu rõ ràng, mọi việc là do Chúa. Giáo Hội là người Mẹ hiền luôn quan tâm tới con cái của mình dành trọn ngày mồng ba để cầu xin Chúa thánh hóa công ăn việc làm.

Vâng, ngay trang Sách Sáng Thế 2,4-9.15, tác giả đã viết: “Đức Chúa là Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn Êđen, để con người canh tác và coi sóc đất đai “. Rõ ràng Thiên Chúa không muốn để con người ở nhưng không, năm chờ sung rụng, nhưng Ngài truyền lệnh hay nói một cách khác bắt con người phải làm việc. Bởi vì, ở nhàn rỗi, nhưng không sẽ gây ra tội lỗi. Nhàn cư vi bất thiện là thế. Sách Tông đồ Công vụ lại viết: “ Bằng mọi cách tôi đã tỏ cho anh em thấy rằng phải giúp đỡ những người đau yếu bằng cách làm lụng vất vả và như thế, và phải nhớ lại lời Chúa Giêsu đã dạy: cho thì có phúc hơn là nhận “. Chính Chúa Giêsu đã làm gương cho nhân loại, cho chúng ta về đời sống lao động. Chúa đã chọn một gia đình để sinh ra. Cha của Ngài làm nghề thợ mộc. Thánh Giuse âm thầm làm việc để nuôi thân, nuôi gia đình Nadarét không quản nhọc nhằn. Mẹ Maria chăm lo việc nội trợ để phục vụ trong yêu thương Chúa Giêsu và thánh Giuse. Chúa Giêsu ngoan ngoãn vâng phục và san sẻ vất vả với Cha mẹ của Ngài. Tại Nadarét, nhân loại tìm lại được giá trị siêu việt của lao động, đó là giá trị cứu rỗi. Những giọt mồ hôi của Chúa trong gia đình Nadarét không hề kém giá trị cứu rỗi hôn việc rao giảng, loan báo Nước Thiên Chúa hay trong cuộc thống khổ tử nạn của Ngài, vì trong tất cả mọi sự Ngài đều tìm làm đẹp lòng Thiên Chúa, Cha của Ngài.

Chúa Giêsu đã dạy nhân loại, dạy chúng ta bài học để đời: “…phàm ai đã có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi”.Dụ ngôn ông chủ đi phương xa, trao cho các đầy tớ các nén bạc, minh chứng rằng: “ Cần cù lao động, chịu khó với công việc, vâng nghe lời chủ, sẽ đem lại hiệu quả tốt đẹp”. Lời kinh tiền tụng lễ ngày mồng ba tết dạy chúng ta nhiều điều: “ …Cha còn sai Con Một giáng trần, để chia sẻ thân phận người lao động và thực hiện chương trình cứu độ muôn dân. Quả vậy, Người đã bắt chước Chúa Cha hoạt động không ngừng, nêu gương cho chúng con biết chuyên cần làm việc, không những để no cơm ấm áo, và góp phần xây dựng xã hội loài người mà còn để làm trạng Danh Cha, và mở rộng Nước Trời ngay tại thế “. Chúa Giêsu đã làm việc để cho Nước Chúa được rạng sáng vinh quang, để cho thế giới được an bình, thịnh vượng. Nên, chúng ta hãy bắt chước Chúa, làm việc và làm việc không ngừng, nhưng phải mặc cho công việc một ý nghĩa cao quý. Đã đành, mọi người làm việc là để cho gia đình, cho bản thân của mình được tồn tại.Tuy nhiên, lao động cũng có nghĩa là góp tay với mọi người thăng tiến cuộc sống và làm cho công việc, lao động có ý nghĩa cứu rỗi…

Ngày mồng ba tết, chúng ta xin Chúa thánh hóa công ăn viêc làm của chúng ta: công việc lao động tay chân và việc làm trí óc vv…Xin Chúa chúc lành cho công ăn việc làm của chúng ta trong năm mới này để chúng ta hiểu rõ: “ làm do chúng ta và ban do Chúa “.

Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho con người phải lao động để làm chủ thiên nhiên. Xin cho chúng con được thấm nhuần Kitô giáo, để công ăn việc làm của chúng con trong năm mới này nêu cao tình tương thân tương ái, và góp phần vào sự nghiệp chung là hoàn thành chương trình sáng tạo của Chúa. Amen.(Lời nguyện nhập lễ, lễ Thánh Hóa Công Ăn Việc Làm).

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:

1. Lao động để làm gì?

2. Làm việc tay chân và làm việc trí óc có mệt ngang nhau không?

3. Chúa Giêsu có lao động?

4. Đối với Chúa Giêsu lao động có ý nghĩa gì?

 

23.       Công ăn việc làm--Lm. Thái Nguyên

Giáo Hội Việt Nam dành ngày mồng Ba Tết để “thánh hoá công ăn việc làm”, nghĩa là để công việc làm ăn của người tín hữu được Chúa chúc phúc, đem lại ý nghĩa thiêng liêng và giá trị cứu rỗi. Vì chúng ta biết rằng, mọi hoạt động của con người đều tùy thuộc vào Thiên Chúa:“Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công” (Tv 126). Nhân gian ai cũng biết:“Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”. Điều này nói lên mối tương quan linh thánh giữa Tạo Hóa và thụ tạo, do Thiên Chúa đã thiết đặt ngay từ đầu khi “dựng nên con người giống hình ảnh Ngài, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất" (St 1,26). Sau đó, chính Ngài đã“đem con người đặt vào vườn Êđen, để cầy cấy và canh giữ đất đai“ (St 2, 15). Trao mọi sự vào tay con người, nhưng Thiên Chúa luôn yêu thương quan phòng và tiếp tục chăm sóc không ngừng, như Đức Giêsu đã cho biết: “Cho đến nay, Cha Ta vẫn làm việc liên lỉ, thì Ta cũng làm việc” (Ga 5,17).

Nhờ lao động, chúng ta được cộng tác vào công trình sáng tạo và cứu độ của Thiên Chúa trong thế giới này. Đây là một vinh dự lớn lao cho con người. Chúng ta làm việc không chỉ vì mình hay vì gia đình, mà còn vì ích lợi chung cho xã hội, cho mọi người. Công Đồng Vaticanô II đã khẳng định: “Trong khi mưu sinh cho mình và cho gia đình, tất cả những người nam cũng như nữ hoạt động để phục vụ xã hội một cách hữu hiệu, đều có lý để tin rằng nhờ lao công của mình họ tiếp nối công trình của Tạo hóa, phụng sự anh em, đóng góp công lao của mình vào việc hoàn thành ý định của Thiên Chúa trong lịch sử” (GS 34).

Lao động như thế không chỉ giúp con người có của ăn nuôi thân, mà còn làm tăng giá trị nhân phẩm, góp phần xây dựng một thế giới yêu thương, huynh đệ và hòa bình. Chính vì vậy mà Đức Giêsu coi việc góp phần của mỗi người là một điều hệ trọng, là một trách nhiệm lớn lao mang tính quyết định về số phận của một cuộc đời. Ngài nói rõ điều đó qua dụ ngôn những nén bạc, mà ông chủ giao cho các tôi tớ để sinh lợi khi ông đi xa. Số nén bạc trao tuy không đồng đều như nhau, nhưng ai cũng phải cố gắng để sinh lợi tối đa. Ngày ông chủ trở về và tính sổ, hai người đầu tiên đã đi làm ăn và sinh lợi xứng đáng với kỳ vọng của ông chủ, được coi là “tôi tớ tốt lành và trung tín”.

Còn người thứ ba lại đào lỗ chôn dấu nén bạc mình đã nhận. Khi ông chủ trở về, anh trả lại nén bạc còn nguyên, không hề đầu tư sinh lợi, vì anh sợ ông chủ “là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi”. Vì nghi ngờ ông chủ là người xấu, nên anh không dại gì bỏ công sức ra để phục vụ. Thật ra, đó cũng chỉ là lý do ngụy biện để che lấp tính cách của một “tôi tớ xấu xa, biếng nhác và vô dụng”. Sự thật là ông chủ không hà khắc như anh nghĩ, mà lại rất hào phóng, vì nén bạc của anh được lấy lại để trao cho người đã có mười nén. Tiếc xót cho anh, vì lười biếng, muốn sống an nhàn, nên trong phút chốc đã đánh mất cơ hội ngàn đời. Quả thật: “Một phút sa chân là ngàn đời ân hận”.

Ông chủ đi xa là hình ảnh của Đức Giêsu, còn những tôi tớ là các Kitô hữu đang chờ Chúa đến vào ngày Quang Lâm. Trong khi chờ đợi, Ngài đòi chúng ta phải đầu tư số vốn là chính cuộc đời mình với mọi khả năng tự nhiên và siêu nhiên. Dù vốn nhiều hay ít không quan trọng. Vấn đề là làm sao nỗ lực hết mình để sinh lợi từ những gì Chúa đã trao ban. Điều này đòi chúng ta phải mạnh dạn, sáng kiến, dám mạo hiểm, và đôi khi liều lĩnh để dấn thân vào những công việc mới mẻ, khó khăn. Đã làm thì không sợ lỗ lã hay thất bại, vì đối với Chúa, sự thành công của chúng ta đã nằm ngay trong chính sự hy sinh tận tụy của mình. 

Chúa đòi chúng ta phải làm việc để sinh lợi không phải vì Ngài nhưng vì chúng ta. Chẳng ai có thể thêm gì cho Chúa. Ngài không đòi ta phải nộp cho Ngài cả vốn lẫn lời. Dâng hiến cho Chúa chỉ là nói lên tình yêu mến đã ngập tràn trong trái tim ta. Hạnh phúc của Chúa là thấy ta trưởng thành qua việc góp phần với Ngài cho ngôi nhà trái đất này tươi tốt hơn, cho cuộc sống con người trở nên phong phú và dồi dào hơn. Và rằng: mọi thành quả do công khó của con người làm nên sẽ không mất đi, nhưng được biến đổi trong ngày sau hết, trong “trời mới đất mới”, nơi Thiên Chúa hiển trị ngàn đời, và Ngài là tất cả cho tất cả.

Lạy Chúa!
Dấu hiệu của người trẻ trưởng thành,
là khi mỗi người có nghề nghiệp,
việc làm khiến cho chúng con,
nâng cao ý thức sống tròn tương quan.

“Ai không làm thì cũng đừng ăn”,
lười biếng không chỉ nhục bản thân,
mà còn hủy hoại ân ban,
như người tôi tớ tiêu tan một đời.

Làm việc để thực hiện những ước mơ,
tự lực cánh sinh không chờ ai giúp đỡ,
cho con có những cơ hội triển nở,
sống trách nhiệm và xoay sở cuộc trần,
chống lại xu hướng chủ nghĩa cá nhân,
và trào lưu hưởng thụ đang bành trướng.

Làm việc là giúp con nên giống Chúa,
không bon chen hay tranh chấp hơn thua,
nhưng góp phần trong công trình sáng tạo,
để con người và vũ trụ nên hoàn hảo.

Nhưng xin cho chúng con đừng quên rằng,
mình đang sống trong đời đầy biến động,
tham lam và dục vọng vẫn không ngừng,
con người bị lung lạc dễ vong thân.

Vì kinh tế được coi như cứu cánh
nên tất cả bị lôi vào sản xuất,
khiến con người đánh mất cả lòng nhân,
mất tình thân và lẽ sống tinh thần.

Xin cho con biết làm việc tận tình,
như một đầy tớ tốt lành và trung tín,
biết hy sinh và sẵn sàng cống hiến,
đền đáp lại những gì Chúa đã ban.

Bằng một tình yêu mến dâng ngập tràn,
vì hạnh phúc đời con là chính Chúa,
xin cho con cứ vui sống bình an,
vượt gian nan về tới bến thiên đàng. Amen.

 

24.       Làm bởi bay, ban bởi Ta (Mt 25,14-30)

Ngày mồng ba tết, Giáo Hội nhắc nhở con người về sự hiện diện của Chúa trong mọi việc, trong mọi trạng huống của cuộc đời: “ Không có Ta các con không thể làm gì được”. Chúa ban cho ta sức mạnh, tài năng, trí tuệ, khả năng để lao động sản xuất. Khoa học kỹ thuật cao, văn minh tiến bộ, nhưng sức riêng con người nào đâu có thể thành công được gì! Chúa ban cho ta vốn liếng để ta sinh lợi, nhưng: “ Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên” (L’ homme propose, Dieu dispose). Ngày tết, người ta có tục lệ lì xì cho trẻ con để lấy hên, mỗi em tùy cách với số tiền mừng tuổi có thể làm nên việc cho bản thân mình.Bài Tin Mừng hôm nay cũng có thể áp dụng vào câu chuyện lì xì ngày tết.

VÍ DỤ NÉN BẠC: Mỗi người chúng ta sinh ra trong trần gian này đều được Chúa ban cho những ơn huệ đặc biệt. Có người Chúa ban cho ơn thông minh, có người được ơn ngôn sứ, được ơn phân giải những điều hay lẽ phải.Có người được Chúa ban cho tài năng làm nên danh phận. Mỗi người dù Chúa trao nhiều hay Chúa trao ít, Chúa vẫn đòi hỏi con người phải sinh lợi ra trên số vốn Chúa trao ban. Tin Mừng hôm nay ra định mức là phải làm lợi ra gấp đôi. Chúa lấy dụ ngôn này để ám chỉ tới Ngài. Ngài đã trao cho người 5 nén, 2nén và 01 nén. Tất cả phải làm ra, sinh lời ra vì làm biếng và xét nét trước lòng nhân hậu của chủ, của Thiên Chúa như người được trao một nén sẽ bị lấy lại nén bạc Chúa đã tặng ban mà còn bị luận phạt vì tính ích kỷ và làm biếng nữa. Đúng là đoạn Tin Mừng cho ta thấy tính cách nghiêm minh của Thiên Chúa, sự công bằng và lòng ngay thẳng của Ngài trước thái độ của mỗi người. Đoạn Tin Mừng này cho thấy tính hài hước, cười ra nước mắt và hạnh phúc đến tột độ của mỗi người được Thiên Chúa trao ban tài năng và kho tàng tài sản của mình. Chúa cũng giúp con người ý thức hơn về việc quản lý những gì Chúa trao ban cho mỗi người: trí khôn, khả năng, vật chất, của cải và cả vũ trụ, tài nguyên Chúa ban nhưng không cho nhân loại, cho mỗi người. Tất cả, những thứ đó đều do Chúa ban, con người phải biết phát huy những thứ đó cho tốt đẹp, để phục vụ chứ không phải để sở hữu riêng cho mình.Ý thức mọi sự là của Chúa ban và con người, loài người chỉ là quản lý những thứ đó, nên con người phải làm sao cho những của Thiên Chúa ban được phát triển tốt đẹp theo ý của Chúa.

MƯU SỰ TẠI NHÂN, THÀNH SỰ TẠI THIÊN: Vật chất, lương thực theo cái nhìn Kitô là của Chúa. Con người có dự tính, có kế hoạch nhưng mưa thuận gió hòa là do Trời, do Thiên Chúa.Chính vì thế, trung thành với ông chủ, với Thiên Chúa sẽ sinh lợi theo ý của Ngài. Đời là vốn và sự sống chính là biết phát triển những gì Chúa đã trao ban nhưng không cho mỗi người. Thánh hoá công ăn việc làm là điều cần thiết để mỗi người nhận ra sự hiện hữu của Chúa trong vũ trụ, trong đời sống, trong mỗi người. Lao động trí óc hay chân tay đều là những khả năng Thiên Chúa ban cho. Con người dù có giỏi đến đâu mà không cậy trông sức thiêng hộ phù chắc chắn khó thành đạt trên bước đường kinh doanh hay trồng cấy.

Mồng ba tết, Giáo Hội dành riêng để cầu nguyện cho việc thánh hóa công ăn việc làm là điều cần thiết nhất để nói lên sự phù trợ của Thiên Chúa và ” Không Thầy, các con không làm được gì “.

Xin Chúa chúc lành cho những công việc con người đang theo đuổi. Xin Chúa ban bình an cho những tâm hồn thành tâm thiện chí. Cuộc sống do Chúa ban. Sự sống của con người thuộc về Thiên Chúa. Xin Chúa chúc lành cho những gì Thiên Chúa tặng ban cho mỗi người. Nếu con người luôn ước mong làm lợi cho cuộc đời, họ phải hiểu rằng người Kitô hữu luôn hướng về bàn tiệc nước trời, bàn tiệc của mùa xuân vĩnh cửu, bất diệt.

Lạy Chúa, xin chúc lành cho công ăn việc làm của chúng con để cuộc đời của mỗi người chúng con luôn nhận ra sự có mặt của Chhúa.Amen.

 

25.       Suy niệm Lời Chúa--Lm. Nguyễn Thể Hiện

Lãnh vực công ăn việc làm là một trong những lãnh vực quan trọng trong đó chúng ta thể hiện mối tương quan đích thực của chúng ta với Thiên Chúa. Chính khi thực hiện các trách nhiệm của mình trong đời sống thực tế hàng ngày, chúng ta tự diễn tả mình là ai trong tương quan với Thiên Chúa; và ngang qua việc thực hiện các trách nhiệm của mình trong đời sống thực tế hàng ngày mà chúng ta sẽ được Thiên Chúa đưa vào hưởng niềm hoan lạc của chính Ngài.

1. Một dụ ngôn được nói cho chúng ta và nói về chúng ta

Với dụ ngôn những yến bạc, Đức Giêsu công bố rằng chúng ta hoàn toàn tuỳ thuộc vào Thiên Chúa như những đầy tớ phải chịu trách nhiệm trước mặt Người; rằng mọi sự chúng ta có đều là của cải Thiên Chúa ký thác cho chúng ta; rằng chúng ta không được tuỳ tiện sử dụng những thứ chúng ta có theo ý riêng mình, song là phải theo đường hướng mà Thiên Chúa muốn; rằng Thiên Chúa sẽ đòi chúng ta phải tính toán sổ sách với Người về những điều thiện hảo đã được trao phó cho chúng ta; và rằng sự thành công hay thất bại của cuộc đời chúng ta tuỳ thuộc vào cách hành xử của chúng ta trong những gì Thiên Chúa trao phó cho chúng ta.

Qua cách hành xử và số phận của hai người đầy tớ tốt lành và trung tín, Đức Giêsu cho thấy đâu là cách hành xử đúng đắn của chúng ta trong cuộc sống hiện tại. Còn qua cách hành xử và số phận của tên đầy tớ xấu xa và biếng nhác, Ngài cho thấy một kẻ xấu xa sẽ đi đến chỗ bị huỷ diệt như thế nào.

2. Điều quan trọng là mối tương quan giữa ông chủ và các đầy tớ của ông

Những người đầy tớ không được tự tại nơi mình, nhưng là ở trong một mối tương quan tuỳ thuộc và phục vụ đối với ông chủ. Chính bản thân họ thuộc về ông chủ, những điều thiện hảo được ký thác cho họ là của ông chủ và những gì họ có thể làm ra cũng xuất phát từ tài sản của ông chủ chứ không phải hoàn toàn xuất phát từ bản thân họ. Như thế là trong những phương diện khác nhau, họ đều được nối kết chặt chẽ với ông chủ. Mà nếu vậy, cách hành xử của họ sẽ vừa tuỳ thuộc vừa biểu lộ cái quan niệm mà họ có về ông chủ của mình.

Hình ảnh những người đầy tớ trong dụ ngôn này cũng là hình ảnh của chúng ta trong tương quan với Thiên Chúa. Hình ảnh này cho thấy rằng chúng ta, và cùng với chúng ta là tất cả những gì chúng ta có, đều là thụ tạo của Thiên Chúa; rằng chúng ta không thể tự tại nơi chính mình; rằng mọi khả năng của ta đều đến từ bàn tay Thiên Chúa.

Nhưng không phải là mọi người đều được đón nhận cùng những ân huệ y như nhau; ông chủ giao phó của cải của mình cho các đầy tớ nhiều hay ít là tùy khả năng của họ. Ông biết rõ từng đầy tớ của mình. Tình yêu tôn trọng tự do và điểm độc đáo riêng của mỗi người. Thật phi lý nếu chúng ta đòi Thiên Chúa phải ký thác tài sản của Ngài cho mọi người theo lối bình quân chủ nghĩa cứng nhắc và phi nhân.

3. Cách hành xử và số phận của hai người đầy tớ tốt lành

Hai người đầy tớ tốt lành lập tức bắt tay vào việc. Họ sử dụng những điều thiện hảo đã được ký thác cho mình phù hợp với ý muốn của ông chủ. Họ đặt mình dưới những mục tiêu của ông chủ và lưu tâm đến những bận tâm của ông chủ. Hoạt động của họ hữu hiệu. Họ đến trình diện với ông chủ trong tư thế đàng hoàng của người đã thực hiện tốt những gì được trao phó cho mình.

Và họ đã nhận được niềm vui trào tràn. Ông chủ đã tuyên bố họ là những đầy tớ tốt lành và trung tín. Người đầy tớ tốt lành là người hoàn toàn đón nhận vị trí của mình trong tương quan với ông chủ và đặt mình trong tư thế phục vụ ông chủ. Anh ta không chạy theo những ý tưởng riêng của chính mình hoặc những tâm trạng riêng của mình, anh ta không giữ khoảng cách xa với ông chủ, nhưng hành động theo những mục tiêu và những mối quan tâm của ông chủ. Người đầy tớ trung tín là người phục vụ ân cần và luôn ý thức rằng những điều anh ta có trong tay là những điều được ký thác cho anh.

Sau khi hai người đầy tớ đã chứng tỏ những phẩm chất tốt lành và trung tín, ông chủ có thể tin tưởng mà trao phó cho họ những nhiệm vụ lớn lao hơn. Ông cho họ vào hưởng hạnh phúc dư tràn: “Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh” (25,21.23). Nhiều lần Tin Mừng Mt nói về sự “vào Nước Trời” (thí dụ 5,20; 7,21; 18,3), về sự “vào cõi sống” (18,8.9; 19,16), còn ở đây thì là “vào niềm vui”. Nước Trời có nghĩa là cõi sống và niềm hoan lạc vô biên dành cho những ai thuộc về Nước ấy. Ông chủ không giữ khoảng cách với những người đầy tớ tốt lành, nhưng ông đón nhận họ vào cõi sống của ông, vào sự hoan lạc đầy tràn của ông. Chúng ta không thể đạt tới cùng đích đó và không thể đi vào trong sự hoàn thành phúc lạc cuộc đời chúng ta chỉ dựa trên sức lực của riêng chúng ta, cũng không phải là ngang qua một cuộc hành trình do chúng ta chọn lựa và quyết định, nhưng chỉ là trong sự phục vụ Đức Chúa. Hai người đầy tớ tốt lành, cho dù khác nhau về kết quả công việc, đã đều được hưởng cũng một niềm hạnh phúc như nhau. Điều đó cho thấy niềm hạnh phúc mà họ được hưởng không được ban phát tuỳ theo điều họ đã làm được, mà là tuỳ theo lòng tốt của ông chủ và lòng trung thành của họ.

4. Cách hành xử và số phận của anh đầy tớ xấu xa

Ngay từ đầu, anh đầy tớ này đã có một mối tương quan sai lạc đối với ông chủ của anh ta. Anh ta coi ông chủ là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, và anh sợ ông chủ (25,24.25). Anh ta biết mình tuỳ thuộc ông chủ, nhưng anh ta không đặt mình dưới quyền bính của ông trong tin tưởng và chuyên cần. Anh ta sống sự tuỳ thuộc của mình vào ông chủ như một sự gì nặng nề, và anh ta bực tức với ông chủ như là với một người chuyên đi áp bức người khác, bắt người khác làm việc cho mình và bóc lột người khác. Trong mắt anh ta, ông chủ là người hà khắc xấu xa. Và anh ta từ chối dịch vụ mà ông chủ muốn anh ta thực hiện. Anh ta không thi hành ý muốn của ông chủ. Tuy anh ta không phung phí của cải đã được trao cho anh ta, anh ta cũng không dùng của cải ấy để tư lợi hay tiêu xài, nhưng anh ta lại đã để cho những của cải mà ông chủ đã ký thác cho anh ta thành ra vô dụng, rồi đem trả lại cho ông chủ đúng như anh ta đã nhận từ ông.

Kết cục, ông chủ gọi anh ta là tên đầy tớ xấu xa, biếng nhác và vô dụng, một người đã hoàn toàn đánh mất chính mình và đánh mất quyền lợi của mình khi không thực hiện bổn phận mình. Như anh ta đã từng cố ý giữ khoảng cách thật xa với ông chủ, thì bây giờ, ông chủ sẽ giữ khoảng cách thật xa với anh ta. Anh ta đã không đặt mình trong sự hiệp thông sâu xa và hữu hiệu với ông chủ, nên ông chủ phải để anh ta bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài, nơi không có niềm vui, không có hạnh phúc, không có sự sống, mà chỉ có khóc lóc nghiến răng vì phải chịu sự huỷ diệt kinh hoàng. Chỗ tối tăm bên ngoài, nơi khóc lóc nghiến răng… chính là sự huỷ diệt dành cho những kẻ bị truất quyền hưởng Nước Trời (x. Mt 8,12). Bị loại khỏi sự hiệp thông với Thiên Chúa, bị loại khỏi ánh sáng, bị loại khỏi sự hiện diện đầy tình yêu của Thiên Chúa, thì không chỉ có nghĩa là không được tràn đầy hạnh phúc, không được sống viên mãn, mà còn là phải ở trong tình trạng khốn khổ, đau đớn, tuyệt vọng và tăm tối.

Chúng ta chỉ có thể đạt tới cùng đích tối hậu của mình nếu chúng ta đặt mình phục vụ Thiên Chúa, bằng cách sử dụng đúng đắn, theo ý Thiên Chúa, tất cả những gì Thiên Chúa ban tặng và trao phó cho chúng ta: sự sống, thời gian, khả năng, cơ hội, của cải… Thiên Chúa đã trao phó cho chúng ta những thực tại tốt lành đó, và chúng ta sẽ phải trả lời về việc sử dụng chúng.

Chúng ta thực hiện cuộc sống mình không phải là trong sự sợ hãi đối với Thiên Chúa, nhưng là trong tin tưởng, phó thác và yêu mến Người. Chính vì vậy mà chúng ta cầu xin Người thánh hoá công ăn việc làm của chúng ta. Lời cầu nguyện như thế sẽ được nhận lời, nếu trong lời cầu nguyện đó, chúng ta tuyên xưng mình chỉ là đầy tớ của Người, luôn chỉ muốn sử dụng, phù hợp với ý muốn của Người, tất cả những điều thiện hảo đã được ký thác cho mình, luôn đặt mình dưới những mục tiêu của Người và luôn lưu tâm đến những bận tâm của Người.

Lời cầu nguyện đó sẽ được mang vẻ đẹp của chính lời nguyện xin của Đức Thánh Trinh Nữ, Mẹ chúng ta: “Này tôi là tôi tá Chúa, xin hãy thành sự cho tôi theo lời Ngài!” (Lc 1,38).

 

26.       Suy niệm Lời Chúa--Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện

Kính thưa cộng đoàn Phụng vụ,

Hôm nay là ngày thứ ba và cũng là ngày cuối cùng trong tam nhật hành hương minh niên của chúng ta kính Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Trong lịch phụng vụ của Hội Thánh Việt Nam, ngày Mồng 3 Tết là ngày cầu xin Thiên Chúa thánh hóa công ăn việc làm của chúng ta. Do đó, hôm nay, khi quây quần bên Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp để cầu nguyện, có lẽ tâm hồn của mỗi chúng ta đều mang nặng những ưu tư, những bận tâm về công ăn viêc làm và về đời sống của chúng ta trong năm mới này. Chính trong mối ưu tư về công ăn việc làm và về đời sống đó, chúng ta hiệp lời với Đức Mẹ nài xin Thiên Chúa thánh hóa tất cả công việc mà chúng ta sẽ làm trong năm mới này.

Bài Tin Mừng vừa được công bố trích trong Tin Mừng theo Thánh Gioan, kể về dấu lạ đầu tiên Đức Giêsu thực hiện tại tiệc cưới Cana. Đối với người Do Thái ngày xưa, rượu trong tiệc cưới là biểu tượng của tình yêu giữa cô dâu với chú rể, giữa chú rể với cô dâu, tức là biểu tượng cho thực tại quan trọng nhất làm cho mọi sự kiện, mọi biến cố, mọi thực tại trong lễ cưới trở nên có ý nghĩa. Tình yêu giữa người vợ và người chồng là yếu tố căn bản làm nên gia đình, làm nên sự thành công của gia đình. Thế mà trong đám cưới này lại xảy ra tình trạng thiếu rượu, tức là thiếu yếu tố quan trọng đem đến sự thành công. Ông quản tiệc là người chịu trách nhiệm về việc tổ chức đám cưới và xử lý những vấn đề nảy sinh ở đám cưới thì lại chẳng biết gì về tình trạng bi đát ấy. Nhưng có một người, là thân mẫu Đức Giêsu, đã nhận ra tình trạng bi đát đó. Thân mẫu Đức Giêsu đã trình bày vấn đề với Đức Giêsu, Con của Người. Mẹ đã không đến với ông quản tiệc để nói cho ông quản tiệc biết mà xử lý vấn đề của tiệc cưới. Mẹ đến với Đức Giêsu, trình bày với Đức Giêsu và chờ đợi sự can thiệp của Đức Giêsu. Và quả thật, Đức Giêsu đã can thiệp để giải quyết tình trạng hết sức cấp bách và bi đát ấy. Người đem lại cho đám cưới Cana sự thành công như lòng Thiên Chúa mong ước.

Kính thưa anh chị em,

Ngày hôm nay, khi chúng ta đến với Đức Mẹ và trình bày với Đức Mẹ về tình trạng của cuộc sống và những ưu tư của chúng ta về công ăn việc làm, là chúng ta đến trong lòng tin rằng Mẹ sẽ can thiệp bên cạnh Chúa Giêsu để Chúa Giêsu chúc lành, thánh hóa và làm cho công ăn việc làm của chúng ta trong năm nay được thành công. Chính trong cái xác tín đức tin ấy mà chúng ta quây quần bên Mẹ. Vậy đâu là những tâm sự mà chúng ta muốn thưa với Đức Mẹ bây giờ, thưa anh chị em?

(1) Trước hết, chúng ta đến đây, trong buổi chiều Mồng 3 Tết này, là để cùng với Đức Mẹ tuyên xưng rằng sự thành công của đời sống chúng ta và của công ăn việc làm của chúng ta trong năm mới này, hoàn toàn tùy thuộc vào Thiên Chúa là Đấng quyết định. Chính Thiên Chúa là Đấng làm cho công ăn việc làm và đời sống của chúng ta trong năm mới này thành công. Nói như lời tác giả Thánh Vịnh: “Nếu như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công; thành kia mà Chúa không phòng giữ, uổng công người trấn thủ canh đêm”. Vậy chính trong lòng tin đó mà chúng ta đặt dưới chân Đức Mẹ những ưu tư của chúng ta về công ăn việc làm trong năm mới này, xin Đức Mẹ can thiệp với Thiên Chúa để Thiên Chúa chúc lành cho công ăn việc làm và cho đời sống chúng ta. Vì thế, vượt xa hơn một lời cầu xin, sự quy tụ của chúng ta chiều hôm nay ở đây là một lời tuyên xưng đức tin vào quyền năng và quyền quyết định của Thiên Chúa trên vận mạng và sự thành công của chúng ta.

(2) Nhưng không chỉ như thế, thưa anh chị em. Ngày lễ hôm nay được gọi là ngày xin ơn thánh hóa công ăn việc làm. Chúng ta không chỉ xin sự thành công trong công ăn việc làm. Nhưng còn đi xa hơn nữa, chúng ta xin Thiên Chúa thánh hóa công ăn việc làm của chúng ta, nghĩa là làm cho những hoạt động của chúng ta trong năm mới này trở nên phương thế đem lại ơn cứu độ cho chúng ta. Ơn cứu độ không phải chỉ là thực tại của thế giới mai hậu. Ơn cứu độ không phải chỉ là thực tại siêu nhiên mà thôi. Ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban cho chúng ta là ơn cứu độ con người toàn diện. Trong cái toàn diện và cụ thể trong đời sống chúng ta, Thiên Chúa cứu chúng ta. Và mọi thực tại thuộc về đời sống con người đều có thể trở nên phương thế để đem ơn cứu độ đến cho chúng ta. Thiên Chúa cứu chúng ta là cứu trong cái thực tại thế tạm, thực tế và cụ thể của đời sống chúng ta.

Khi đến đây xin Thiên Chúa thánh hóa công ăn việc làm của chúng ta, khi đến đây xin Thiên Chúa thánh hóa những hoạt động của chúng ta trong năm mới này, chúng ta tuyên xưng một xác tín, rằng ơn cứu độ Thiên Chúa ban cho chúng ta là một thực tại toàn diện. Khi qui tụ đông đảo ở đây để xin Thiên Chúa thánh hóa công ăn việc làm, chúng ta đang tuyên bố với thế giới và với mọi người rằng tôn giáo không chỉ gói gọn trong những thực tại siêu nhiên thuộc thế giới bên kia, vì mọi thực tại thế tạm đều “dính dấp” đến tôn giáo và đời sống tôn giáo của chúng ta cũng “dính dấp” đến mọi thực tại của cuộc sống này. Vậy ai nói rằng Hội Thánh Công Giáo không được quyền lên tiếng về những vấn đề xã hội, hoặc rằng Hội Thánh Công Giáo chỉ nên gói gọn hoạt động của mình trong các lễ hội bên trong nhà thờ, thì người ấy đang phản bội Tin Mừng đấy, thưa anh chị em. Bởi vì Thiên Chúa đến cứu chúng ta và Người muốn thánh hóa mọi hoạt động của chúng ta trong cuộc sống cụ thể của chúng ta. Mọi hoạt động của chúng ta trong cuộc sống thế tạm và cụ thể đều trở thành phương thế cứu độ.

Thành ra, với việc anh chị em qui tụ ở đây bên cạnh Đức Mẹ và xin Đức Mẹ chuyển cầu để Thiên Chúa thánh hóa công ăn việc làm, chúng ta đang tuyên xưng một sự dấn thân làm cho những thực tại thế tạm, những thực tại của công ăn việc làm chẳng hạn, trở thành phương thế cứu độ con người. Đó là ý nghĩa và tâm tình thứ hai mà chúng ta thưa lên với Đức Mẹ và cùng với Đức Mẹ tuyên xưng đức tin trước nhan Thiên Chúa trong buổi chiều ngày Mồng 3 Tết này.

(3) Nhưng, kính thưa anh chị em, tất cả chúng ta ở đây đều không ai sống một mình. Ngay cả trong lãnh vực công ăn viêc làm, chúng ta cũng ý thức rất rõ ràng tác động của cộng đồng và của xã hội trên đời sống riêng của mỗi người chúng ta.

Không ai trong chúng ta có thể phủ nhận được rằng những quyết định của nhà cầm quyền sẽ ít nhiều ảnh hưởng trực tiếp lên công ăn việc làm của chúng ta. Tôi lấy thí dụ: mô hình tăng trưởng nào được lựa chọn để làm mô hình tăng trưởng cho đất nước chúng ta? Điều đó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến công ăn việc làm của chúng ta. Chính sách thuế khóa sẽ trực tiếp ảnh hưởng trên công ăn việc làm của mỗi người chúng ta. Một quy hoạch nào đó của một vùng nào đó sẽ ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ trên cuộc sống và trên công ăn việc làm của cộng đồng cư dân trong vùng đó. Không thể phủ nhận được tác động của các chính sách của những nhà cầm quyền trên công ăn việc làm của chúng ta.

Chúng ta cũng không thể phủ nhận được tác động của những hiện tượng xấu như tệ nạn xã hội, tình trạng an ninh, tệ quan liêu, nạn tham nhũng, sự lãng phí, sự suy thoái trong đời sống đạo đức, cách riêng là sự suy thoái đạo đức của những người có quyền trong các lĩnh vực khác nhau, công cũng như tư. Chúng ta không thể phủ nhận được tác động trực tiếp và tiêu cực của những chuyện đó trên công ăn việc làm của chúng ta. Sự thành công trong công ăn việc làm của chúng ta trong năm mới này sẽ chịu ảnh hưởng và tác động của những điều đó.

Ý thức như thế, chúng ta đến với Đức Mẹ chiều hôm nay để trình bày với Đức Mẹ cuộc sống cụ thể của chúng ta. Xã hội của chúng ta vẫn còn đầy dẫy những bất công. Chính ông Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh trong báo cáo tổng kết 5 năm cầm quyền vừa qua của Đảng Cộng sản tại đại hội lần thứ 11 cũng đã phải thừa nhận rằng: “Nạn quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tệ nạn xã hội, tình trạng tội phạm, sự suy thoái về đạo đức và lối sống … vẫn chưa được ngăn chặn”, có nghĩa là vẫn còn tồn tại đầy dẫy trong xã hội. Đi xa hơn ông Nông Đức Mạnh, ông Nguyễn Văn An – nguyên Chủ tịch Quốc Hội từ năm 2001 đến 2006, cách đây vài tháng, khi trả lời phỏng vấn của báo Vietnamnet, đã không chỉ đề cập đến những sự suy thoái hay những hiện tượng này khác. Ông đề cập đến một lỗi hệ thống và ông bàn đến chuyện sửa sai lỗi hệ thống ấy. Có một số đảng viên cộng sản không đồng ý với cách lý giải của ông Nguyễn Văn An, tức là không đồng ý rằng có một lỗi hệ thống trong đường lối xây dựng xã hội chúng ta. Nhưng tôi chắc rằng không ai trong các đảng viên cộng sản hiện nay và cũng chẳng ai trong chúng ta ở đây mà không đồng ý với ông Nông Đức Mạnh rằng trong xã hội chúng ta còn đầy dẫy tệ quan liêu, nạn tham nhũng, sự lãng phí, tình trạng tội phạm, tình trạng tệ nạn xã hội, tình trạng suy thoái đạo đức của nhiều người, cách riêng là rất nhiều người cầm quyền trong các lĩnh vực khách nhau. Vì đó là thực tế đập vào mắt chúng ta hàng ngày.

Và tất cả những điều đó tác động trực tiếp đến công ăn việc làm của chúng ta.

Thế mà, như lời Kinh Thánh nói: “Khi nền móng cương thường đổ nát, người công chính còn làm được chuyện gì?”.

Vậy, hôm nay, khi chúng ta quây quần bên cạnh Đức Mẹ để cùng với Đức Mẹ đặt những ưu tư của chúng ta về công ăn việc làm và về đời sống chúng ta lên trước nhan Thiên Chúa, là chúng ta xin Đức Mẹ nhìn đến tình trạng đó của chúng ta. Chúng ta xin Đức Mẹ can thiệp trước nhan Thiên Chúa để Thiên Chúa giúp chúng ta ngăn chặn tệ nạn tham nhũng, ngăn chặn tệ nạn hối lộ, ngăn chặn sự xuống cấp về đạo đức của những người có quyền. Chúng ta xin Đức Mẹ ngăn chặn và hơn nữa, triệt tiêu những tệ nạn trong việc phân chia lợi tức xã hội, những tệ nạn trong lĩnh vực giáo dục, trong lĩnh vực kinh tế, trong lĩnh vực giao thông…, tức là những tệ nạn trong tất cả các lĩnh vực của đời sống ảnh hưởng đến công ăn việc làm và ảnh hưởng đến hoạt động của chúng ta trong năm nay. Chúng ta xin Đức Mẹ và chúng ta biết rằng Đức Mẹ đủ quyền năng để giúp chúng ta ngăn chặn và triệt tiêu những tác hại của các tệ nạn đó.

Đàng khác, chúng ta biết rằng sự thành công đích thực của toàn xã hội và vì vậy là của tất cả chúng ta, chính yếu thuộc về điều này: đó là tự do và phẩm giá của con người phải được tôn trọng. Khi nào tự do và phẩm gián của con người được tôn trọng, khi ấy xã hội mới phồn vinh đích thực, mới ổn định đích thực. Còn khi nào tự do, phẩm giá và nhân quyền không được tôn trọng, thì lao động và công ăn việc làm, thay vì là phương thế làm cho chúng ta triển nở và làm cho chúng ta trở nên người hơn, thì lại trở thành gánh nặng, lại trở thành ách nô lệ, lại trở thành yếu tố làm cho con người tha hóa, vong thân. Thành ra, chúng ta đến đây với Đức Mẹ để xin Đức Mẹ phù trợ, để xin Đức Mẹ chúc lành, xin Đức Mẹ cùng với Thiên Chúa thánh hóa công ăn việc làm của chúng ta trong năm này, là chúng ta xin cho sự tự do, xin cho phẩm giá của con người, xin cho các quyền căn bản của con người… ngày càng được tôn trọng, và xin cho xã hội của chúng ta trở nên một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.

(4) Tất nhiên, bên cạnh những tệ nạn, chúng ta cũng biết rằng trong xã hội chúng ta vẫn còn đấy những yếu tố hết sức tích cực, đặc biệt là những yếu tố tích cực từ những phận đời nhỏ bé. Anh chị em hãy nhớ lại: năm vừa rồi, khi bão lụt tràn về miền Trung, rất nhiều người đã cùng nhau góp phần của mình giúp anh chị em miền Trung qua cơn đại nạn lũ lụt. Rất nhiều người trong cộng đồng chúng ta đã góp phần nhỏ bé của mình đề đem lại sự ổn định cho đời sống của anh chị em ở miền Trung. Một ví dụ khác: nhiều người trong chúng ta đã góp phần nhỏ bé của mình để anh chị em dân tộc thiểu số ở bên cạnh dòng sông Pôkô trên Tây Nguyên không còn phải đi học hay vận chuyển những gùi sắn, gùi lúa của mình qua sông bằng cách đu dây cáp. Một chiếc cầu dây đã được bắc qua sông Pôkô từ những tấm lòng của bạn đọc khắp nơi của báo Tuổi Trẻ. Đấy là một bằng chứng về lòng nhân ái và về sự trợ giúp của những người nghèo với nhau. Một ví dụ khác: anh Trương Xuân Thức, người lái tàu trên một chuyến tàu hỏa gặp nạn, đã làm hết cách, thậm chí là hy sinh cánh tay trái của mình, để bảo đảm an toàn cho chuyến tàu ấy. Và khi thấy anh gặp nỗi đau vì hy sinh như thế, nhiều người ở khắp nơi đã an ủi, đã nâng đỡ, đã góp phần cùng với anh xoa dịu nổi đau của sự tật nguyền mà anh phải mang do sự hy sinh cứu những người khác. Đấy là bằng chứng rằng những người nghèo trong xã hội chúng ta, những phận đời bé nhỏ trong xã hội chúng ta, vẫn đóng góp phần mình để làm cho xã hội được nhân bản hơn, văn minh hơn. Rồi chúng ta biết có nhiều luật sư đã dám dấn thân để bảo vệ người nghèo trong các vụ án, cho dù họ phải trả giá bằng sinh mạng kinh tế, sinh mạng chính trị và ngay cả sinh mạng thể lý. Có những nhà báo bất chấp nguy hiểm để phanh phui những tệ nạn, tố giác tiêu cực… để xã hội nên trong sáng hơn… Và còn nhiều lắm. thưa anh chị em, những tấm lòng nhân ái làm cho cuộc sống của chúng ta an bình hơn, làm cho cuộc sống của chúng ta nhân bản hơn và nhờ vậy sự thành công của mỗi người được đảm bảo hơn.

Vậy hôm nay, khi qui tụ về đây để xin Đức Mẹ cầu bầu với Chúa thánh hóa công ăn việc làm, chúng ta xin Đức Mẹ chúc lành và nâng đỡ những tâm hồn ấy, những con người ấy, tức là chính chúng ta và là biết bao người nghèo khác. Đức Mẹ, tại tiệc cưới Cana, đã khích lệ, đã dạy dỗ, đã chỉ dẫn cho các gia nhân để họ cộng tác với Chúa Giêsu mà đem rượu mới cho đám cưới. Xin Mẹ, ngay hôm nay, trong năm này, cũng an ủi, khuyến khích, nâng đỡ chúng ta và tất cả những người thành tâm thiện chí khác, để chúng ta góp phần mình làm cho làm cho tự do, nhân quyền và phẩm giá con người được tôn trọng trong xã hội chúng ta. Và trên cái nền ấy, chúng ta sẽ thành công trong việc xây dựng cuộc sống của mình.

Tóm lại, kính thưa anh chị em, chiều hôm nay,

– thứ nhất, khi đến bên cạnh Đức Mẹ để cùng với Mẹ dâng lên Thiên Chúa những ưu tư của chúng ta về công ăn việc làm, về hoạt động, về đời sống của chúng ta trong năm mới, chúng ta thưa lên với Đức Mẹ xác tín rằng đời sống và sự thành công của chúng ta lệ thuộc vào Thiên Chúa: “Nếu như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công”.

– thứ hai, khi cùng với Đức Mẹ ra trước nhan thánh Thiên Chúa để dâng lên lời cầu xin Thiên Chúa thánh hóa công ăn việc làm của chúng ta, chúng ta xác tín rằng những hoạt động nhỏ bé và trần thế của chúng ta có thể trở thành phương thế cứu độ chúng ta.

– thứ ba, cùng với Đức Mẹ, chúng ta dâng lên Thiên Chúa lời nguyện xin tha thiết, để Thiên Chúa giúp chúng ta ngăn chặn và triệt tiệu những tệ nạn đang tác oai tác quái trên đời sống chúng ta: “Khi nền móng cương thường đổ nát, người công chính còn làm được chuyện gì?”.

– thứ tư, chúng ta nguyện góp phần mình làm cho xã hội ý thức hơn về tự do, về nhân phẩm và nhân quyền. Chúng ta nguyện góp phần vào việc làm cho xã hội ổn định hơn, làm cho xã hội phát triển một cách đích thực hơn như chương trình của Thiên Chúa. Chúng ta xin Đức Mẹ khích lệ, nâng đỡ để giúp chúng ta dám dấn thân xây dựng xã hội tốt lành, trong đó mọi người có cơ hội phát triển đích thực như thánh ý Chúa muốn.

Kính thưa anh chị em,

Ngày xưa, Đức Mẹ đã nhìn thấy tình trạng tiệc cưới Cana thiếu yếu tố căn bản làm cho bữa tiệc ấy có ý nghĩa. Ngày nay, Đức Mẹ cũng đang nhìn thấy những thiếu thốn căn bản để cuộc sống của chúng ta có thể phát triển.

Ngày xưa Đức Mẹ đã thưa với Chúa Giêsu để Người can thiệp tại tiệc cưới Cana và ban rượu ngon làm cho bữa tiệc cưới ấy được thành công và có ý nghĩa. Ngày nay, Đức Mẹ vẫn luôn cầu nguyện với Chúa để Người ban những yếu tố căn bản, giúp cho xã hội chúng ta được vận hành và phát triển một cách đích thực như lòng Chúa muốn.

Xin Đức Mẹ gìn giữ chúng con và ban ơn cho chúng con. Xin Đức Mẹ chúc lành cho công ăn việc làm của chúng con trong năm mới này. Amen.

 

27.       Thánh hóa công ăn việc làm (Mt 25,14-30)

VIỆC LÀM VÀ LÀM VIỆC TRONG NĂM MỚI SẼ NHƯ THẾ NÀO?

Hôm Tĩnh tâm các Linh mục của GP Xuân Lộc, ông Trưởng ban Tôn Giáo cho biết tỉnh Đồng Nai năm vừa qua cũng chịu ảnh hưởng nặng nề bởi nền kinh tế thế giới suy thoái, một trong những vấn đề chính quyền tỉnh quan tâm đó là năm vừa qua có hàng trăm ngàn công nhân mất việc, nghỉ việc vì công ty làm ăn khó khăn thua lỗ. Con số hàng trăm ngàn người mất việc này sẽ còn ảnh hưởng đến các gia đình và bao nhiêu người khác nữa, chưa kể là vấn đề tội phạm xã hội sẽ tỷ lệ thuận với con số này. Nhìn vào bức tranh kinh tế và công ăn việc làm của cả nước năm qua, con số lạm phát đã lên đến mức kỷ lục, tình trạng nợ nần của Nhà nước khá trầm trọng, đồng tiền mất giá, giá cả các mặt hàng tăng mạnh… tất cả những thông tin ấy đang ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của mỗi người, hay nói cụ thể hơn nó ảnh hưởng đến cái túi, đến bữa cơm của các gia đình. Cuối năm vừa qua, các công ty xí nghiệp đều có thưởng, có những người được thưởng cả trăm triệu, nhưng cũng có những ngành nghề chỉ được thưởng mấy ký hạt dưa hạt bí và có những ngành nghề không được đồng nào…

Thưa quý OBACE, vấn đề việc làm ngày càng trở thành vấn đề quan tâm của nhiều người. Có việc làm, và làm việc như thế nào lại là chuyện khác, và việc làm có phù hợp có thoải mái, có đủ sống hay không lại là chuyện khác. Vấn đề chủ và thợ ngày nay cũng đã trở thành một vấn đề nan giải, chủ thì muốn thu hồi vốn nhanh lợi nhuận nhiều, thợ thì muốn lương cao và những điều kiện làm việc thật tốt. … Bài Tin Mừng hôm nay kể cho chúng ta về mối tương quan chủ và thợ:

Có một ông chủ sắp đi xa liền gọi các đầy tớ đến mà trao phó tài sản của ông- Ông chủ này quá tốt, đã tin tưởng trao hết tài sản mình cho công nhân, ông không đắn đo tính toán, ông cho họ có cơ hội để lập nghiệp. Ông cũng rất nhân đạo và biết nhìn người, ông trao cho người này năm nén, người kia ba nén, người khác một nén tùy khả năng mỗi người. Điều đó có nghĩa là ai có khả năng như thế nào thì ông chủ tạo điều kiện cho như thế, ông không bắt ép họ phải chịu trách nhiệm vượt quá khả năng của mình. Điều ông chờ đợi và đòi ở đầy tớ của ông không phải là chuyện lời hay lỗ, vì ông có thiếu gì đâu, mà là sự chăm chỉ làm việc và làm việc trong sự hăng say phấn khởi biết ơn ông, ông không chấp nhận sự lười biếng, không suy nghĩ tính toán, không cố gắng. Câu chuyện cho thấy khi ông chủ trở về, đã gọi đầy tớ đến để tính sổ, người năm nén sinh lời được năm nén khác, người ba nén cũng vậy, những người này đều được ông chủ khen là những đầy tớ tốt lành và trung tín, vì người đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ đặt ngươi làm những việc lớn. Sự tín trung với chủ và giữ chữ tín trong công việc chính là điều những người này được khen thưởng.

Trái lại, sự bất tín biếng nhác, lười suy nghĩ tính toán, ù lỳ thụ động là điều không thể chấp nhận, đó là trường hợp của người lãnh một nén. Anh này đã đem chôn giấu nén bạc ông chủ đã trao, vì anh đã có cái nhìn hoàn toàn sai lạc về chủ của mình. Anh phân bì cho rằng chủ mình keo kiệt tham lam, hà khắc gặt chỗ không gieo thu nơi không phát, và anh còn mang một thái độ khác nữa đó sợ hãi thay vì yêu mến biết ơn ông chủ nên đã chôn giấu nén bạc của chủ. Chính từ cái nhìn không đúng về chủ, nên anh cũng không quan tâm gì đến việc kinh doanh sinh lời vốn liếng chủ trao. Đối với ông chủ, ngay việc giữ huề vốn nguyên vẹn một nén bạc đã không thể chấp nhận, ít ra anh ta cũng phải làm lời theo lãi suất ngân hàng… Ông chủ đã sa thải anh vì anh biếng nhác, không suy nghĩ không tính tóan để làm sinh lời vốn liếng chủ trao.

Qua thái độ của ông chủ và những người đầy tớ trong câu chuyện của Tin Mừng, Chúa Giêsu đã chỉ cho thấy Thiên Chúa chính là ông chủ tốt lành, Ngài đang ban cho chúng ta mỗi người những khả năng và tài năng khác nhau, Ngài còn tạo cho chúng ta có nhiều cơ hội để làm phát triển các khả năng và tài năng đó, và Ngài muốn chúng ta làm việc hết mình với lờng biết ơn và yêu mến Ngài, Ngài chờ đợi chúng ta hãy biết tận dụng thời giờ để làm sinh lời những gì chúng ta đã nhận được từ nơi Chúa. Nén bạc Chúa trao cho chúng ta hôm nay có thể là thời giờ, sức khỏe, tuổi trẻ tài năng và kể cả của cải vật chất nữa, chúng ta đã nhận được gì thì chúng ta phải sinh lời gấp đôi gấp ba những cái chúng ta đã nhận. Có những người Chúa ban cho nhiều cơ hội nhưng vì lười biếng hoặc chần chừ, thụ động nên đã để vuột mất cơ hội ấy, còn có những người khác họ đã nắm bắt được cơ hội và đã sinh lời cho bản thân và cho gia đình của mình.

Bài đọc một cho thấy vốn liếng Thiên Chúa trao cho con người nói chung và cho mỗi người nói riêng là phù với khả năng mỗi người. Vũ trụ này, trái đất này cùng mọi sinh vật tài nguyên khoáng sản trong đó là của Thiên Chúa, do Chúa dựng nên và làm chủ, thế mà Thiên Chúa đã trao tặng hoàn toàn cho con người, với chỉ một mong muốn là con người làm cho nó ngày càng thêm tốt đẹp hơn. Không chỉ trao cho con người tài sản vật chất, Thiên Chúa còn làm nên một vườn Êden, vườn thượng uyển của Chúa, là nơi và là tình trạnh hạnh phúc, cũng được Thiên Chúa trao cho con người làm chủ và chịu trách nhiệm chăm sóc cả khu vườn ấy và cả vũ trụ này. Adam Eva tổ tông của chúng ta đã đứng ra nhận tài sản của Thiên Chúa, nhưng hai ông bà cũng không khác gì người đầy tớ lãnh một nén bạc, đã chôn dấu tài sản của Thiên Chúa, đã làm tổn hại đến tài sản là hạnh phúc, đã hủy hoại sự cân bằng trong vũ trụ và trong tâm hồn mình, làm cho vũ trụ nên gai góc và chai đá vì tội bất tuân, nghì ngờ Thiên Chúa và phản bội lại sự tín trung, nên đã để mình và con cháu bị loại ra ngoài.

Bài đọc một cũng còn cho thấy rằng thiên Chúa của chúng ta như một người thợ, Ngài cũng hăng say tận tụy làm việc để tạo dựng nên vũ trụ, đặc biệt Thánh kinh diễn tả Thiên Chúa như người nghệ sỹ làm việc đổ mồ hôi để tạo nên tác phẩm tuyệt đẹp là con người. Như thế cho thấy rằng nếu thiên chúa của chúng ta là một Thiên Chúa luôn làm việc, thì con người cũng phải biết làm việc và làm việc giúp chúng ta nên giống Thiên Chúa, và làm việc để đem lại sư tốt đẹp cho vũ trụ và sự no cơm ấm áo hạnh phúc cho con người, đó là chúng ta đang sinh lời cho Thiên Chúa và đang cộng tác với Thiên Chúa trong việc tạo dựng và tô điểm cho vũ trụ này thêm tốt hơn, xin nhắc lại là làn cho vũ trụ nên tốt đẹp hơn. Như thế khi chúng ta hủy hoại mội trường xung quanh, làm cho nó ra ô nhiễm bẩn thỉu là chúng ta đã không trung tín với Thiên Chúa và gây tổn hại đến tài sản của Ngài.

Không dừng lại ở đó việc làm và làm việc còn là cách thế để chúng ta bày tỏ lòng yêu mến biết ơn và sự tín trung của chúng ta với Chúa, và còn là để có điều kiện chúng ta thực thi đức bác ái. Thánh Phaolô còn nhắc cho chúng ta một thái độ làm việc khác quan trọng hơn là làm ăn tìm kiếm của cải vật chất để giúp tự mình nuôi sống bản thân, làm tăng phẩm giá con người và còn là để chia sẻ giúp đỡ những người thiếu thốn vì: Cho thì có phúc hơn là nhận. Mỗi người đã nhận lãnh nhận rất nhiều từ Thiên Chúa, chúng ta cũng cần phải biết rộng mở đôi tay để cho đi và chia sẻ.

Thưa quý OBACE, ngày Mồng Ba Tết là ngày thánh hóa công ăn việc làm, có nghĩa là chúng ta xin Chúa giúp chúng ta biết thánh hóa công việc làm của mình, cho chúng ta có việc làm tốt, và giúp chúng ta sống và làm việc theo giáo huấn của chúa, làm việc trong công bình và bác ái, người chủ thì biết tôn trọng sự công bằng và quyền lợi người thợ, người thợ cũng phải biết tôn trọng quyền lợi của chủ để tất cả mọi người làm việc trong sự ý thức rằng Thiên Chúa đã tín nhiệm và trao phó tài sản của Ngài cho ta, và chúng ta chỉ là người quản lý nên phải biết tận dụng cơ hội và khả năng Chúa ban và làm việc hết mình trong tinh thần yêu mến tương thân tương ái.

Cầu chúc cho mọi người có được công việc làm như mong muốn và làm việc thật hiệu quả. Amen

 

28.       Thánh hóa công việc làm

Quý vị và các bạn thân mến,

Hôm nay ngày mùng 3 Tết, Giáo Hội Việt Nam mời gọi mọi người cầu xin Chúa thánh hóa công việc làm ăn. Lời Chúa trong Tin Mừng Thánh Luca, tường thuật việc Chúa Giêsu dùng dụ ngôn “những người đầy tớ và những yến bạc” để dạy dỗ các đồ đệ của mình nhiều điều, liên quan đến công việc làm ăn:

Thứ nhất, Chúa đưa ra dụ ngôn để nhắc nhở các đồ đệ, không phải là “số các yến bạc được trao bao nhiêu”, mà là “những người đầy tớ đã sử dụng chúng như thế nào”. Người lãnh năm nén đã đi làm lợi năm nén khác, người lãnh hai nén làm lợi hai nén khác, riêng người lãnh một nén lại đem chôn. Tất nhiên ông chủ khen hai người đầu và nổi giận vì cách thế biếng nhác của người cuối cùng kia. Ta thấy người thứ nhất và thứ hai khác nhau về số các yến bạc, nhưng giống nhau ở chỗ đã mạnh dạn đem các nén bạc được trao ra sử dụng mặc dù chưa biết thắng bại ra sao. Riêng người cuối cùng không bắt tay vào việc, không tin vào sự nâng đỡ của ông chủ, và rồi đã đem chôn đi cái mình được trao, cái mình đã lãnh nhận. Quan sát ba người đầy tớ ta thấy: người ta không bằng nhau ở “số lượng” nhưng bằng nhau ở “nỗ lực”. Nếu so “số lượng nén bạc” được trao của người thứ nhất và người thứ hai chắc chắn ta thấy khác nhau, nhưng “nỗ lực công việc” và phần thưởng danh dự dành cho hai người chắc chắn giống nhau.

Hẳn điều nhắc nhở này cho các đồ đệ, cũng là điều nhắc nhở mỗi người chúng ta, số yến bạc là các khả năng Chúa trao cho mỗi người rất khác nhau. Có lẽ Chúa chẳng đòi hỏi gì nhiều, Chúa chỉ đòi hỏi mỗi người hải nỗ lực cố gắng làm việc trong tin tưởng phó thác vào quyền năng Chúa.

Thứ hai, dụ ngôn ấy, Chúa cũng nhắc nhở các đồ đệ là: phần thưởng dành cho người hoàn tất công việc được giao cách tốt đẹp, là người đó được giao thêm công việc mới và được hưởng niềm vui hạnh phúc với chủ, chứ không phải là người đó sẽ nghỉ ngơi. Hình phạt dành cho người biếng nhác là ngay cả cái công việc anh ta có, bây giờ cũng bị lấy đi và trao cho người đã có.

Quà tặng cũng như phần thưởng, Chúa chỉ dành cho những người đã nỗ lực cộng tác với Chúa. Và như thế, Chúa sẽ trao thêm cho họ nhiều khả năng khác đang khi họ thi hành điều Chúa muốn.

Sau cùng, qua dụ ngôn Chúa nhắc nhở các đồ đệ là: những khả năng được đem ra sử dụng sẽ phát triển và còn mãi, khả năng cất kỹ sẽ mai một và sẽ mất đi. Ví như bạn có khả năng hội họa, khả năng đàn nhạc,… nếu bạn đem ra sử dụng chắc chắn nó sẽ được thăng hoa, nhưng nếu chôn vùi bạn sẽ đánh mất nó.

Quý vị và các bạn thân mến,

Ngày hôm nay mùng 3 Tết, ngày lễ cầu xin Chúa thánh hóa công việc làm ăn của chúng ta. Chúng ta tin tưởng vào sức mạnh của Chúa đã luôn nâng đỡ chúng ta. Chúng ta cám tạ ơn Chúa vì Chúa đã ban cho mỗi người các nén bạc khác nhau. Nhưng chúng ta cũng xin ơn Chúa và cộng tác với Chúa để làm phát triển các yến bạc mà Chúa đã trao vào tay chúng ta. “Ai trung tín trong việc nhỏ, sẽ trung tín trong việc lớn”.

Lạy Chúa,

Đôi lúc trong cuộc sống, chúng con chưa nỗ lực cộng tác với ơn Chúa, nhưng chúng con lại hay kêu trách Chúa, khi so sánh mình với người khác. Đôi lúc chúng con biếng nhác, nhưng lại ưa đòi phép lạ. Đôi lúc chúng con không xứng đáng Chúa trao những nén bạc lớn, vì thái độ thiếu nhiệt thành của chúng con.

Chúng con xin lỗi Chúa, và xin Chúa đỡ nâng chúng con.

Xin ban cho chúng con có công ăn việc làm ổn định, đời sống an bình tươi vui. Amen.

 

29.       Giọt mồ hôi có Chúa (Mt 25, 14-30)--Nt. Anna Têrêxa Thiên Hoàng

Phụng Vụ Lời Chúa và các lời nguyện trong thánh lễ hôm nay nhắc nhớ chúng ta về bản chất và ý nghĩa công ăn việc làm của con người. Thiên Chúa đặt mỗi người vào một khu vườn phù hợp với họ như ruộng đồng, nhà máy, phòng thí nghiệm, giảng đường, sân khấu, … để thực hiện nhiệm vụ cao cả là hoàn thành công trình sáng tạo của Người (BĐ1). Tuy vậy, con người không lao tác một mình và cho bản thân mình, nhưng cần dùng thành quả lao động để chia sẻ và đỡ nâng những ai túng cực (BĐ2). Muốn vậy, chắc chắn con người phải siêng năng làm việc, phải dùng hết sức lực và trí khôn Chúa ban để sinh lợi theo ý Người muốn (BĐ3).

Nói cách khác, lao động của con người được Thiên Chúa chúc phúc và mặc cho một cùng đích siêu việt: làm việc không chỉ để có phương tiện độ nhật, không chỉ để sống hạnh phúc trên trần gian này, mà còn để đạt được kho tàng vĩnh viễn và hạnh phúc viên mãn, nơi mối mọt không đục khoét và kẻ trộm không lấy đi được. Thành ra, những giọt mồ hôi con người đổ ra khi vất vả làm lụng, khi khổ sở kiếm sống, … là những giọt mồ hôi có Chúa, những giọt mồ hôi đã được Cha Nhân Lành thấu biết và đếm cả rồi. Và khi đó, chúng ta lao động, làm ăn, bán buôn, nghiên cứu, … khác với những người không nhìn biết Thiên Chúa!

Thực vậy, thiên hạ cầu trời khấn phật, coi tướng số, cúng kiếng, xin xăm, … cho công việc được thành đạt. Có người lọc lừa, dối trá, thủ đoạn để cầu lợi; nhưng cũng có người quảng đại chia tài sản mình cho người nghèo; có người dành cả đời cống hiến cho xã hội, cho cộng đồng, …

Người Công giáo chúng ta thì xin lễ, xin khấn,… để Chúa thánh hóa và chúc phúc cho công ăn việc làm của chúng ta…Chúng ta chia sẻ, đỡ nâng biết bao người anh chị em nghèo khổ, bệnh tật, … bằng chính lòng bác ái và đồng tiền thu được trong lao công vất vả. Nhưng thật lòng mà nói, cũng đã có những cạnh tranh không lành mạnh, những mánh khóe, những giành giựt, những đấu khẩu, khấu thủ với nhau trên thương trường, nơi đồng ruộng hay trên nương rẫy, …. Và như thế, vô tình hay cố ý, chúng ta đã tự mâu thuẫn với chính mình, tự trở nên hợm hĩnh trước Chúa: chúng ta mời Chúa ra chỗ khác, cho con tự xoay sở, tự làm việc theo cách của con, dù trước đó chúng ta đã hết lòng cầu nguyện, xin khấn, xin lễ … để phó thác vụ việc cho Chúa.

Nói một chút về những tiêu cực trong tiết xuân tươi mới, để chúng ta kịp lắng lòng lại, kịp giật mình tự hỏi: những giọt mồ hôi tôi đổ ra đêm ngày để kiếm miếng cơm manh áo; để đem lại tương lai tươi sáng cho con cái; để tìm phồn vinh cho gia đình, cho đất nước; … có sự đồng hành của Chúa không? Có giống với giọt mồ hôi của anh thợ mộc làng Nadarét xưa không?

Ước gì trong những rộn rã của hoa quả, của lễ vật người người dâng Chúa Xuân hôm nay, chúng ta nhận ra và khao khát một điều: Xin cho những giọt mồ hôi con đổ ra là giọt mồ hôi có Chúa, hòa vào những giọt mồ hôi của Chúa, mang đậm ước muốn và phúc lành của Chúa.

Giọt mồ hôi có Chúa, là giọt mồ hôi lao tác cật lực với sức khỏe, với trí khôn, nhưng luôn tín thác vào Chúa.

Giọt mồ hôi có Chúa, là giọt mồ hôi tính toán công mua sức bán, nhưng luôn tôn trọng sự thật và luật công bằng của Chúa.

Giọt mồ hôi có Chúa, là giọt mồ hôi tìm kiếm tiền bạc như những đầy tớ tốt, chứ không phải là những ông chủ khắc nghiệt.

Và, giọt mồ hôi có Chúa, là giọt mồ hôi được tích cóp từng ngày, qua năm qua tháng, … để cuối cùng, góp thành một bể yêu thương cho ta vui đùa ngụp lặn, gột rửa ta nên sạch trong, và mở ra dòng chảy vào Biển Yêu Thương của Đấng đã chấp nhận bước xuống Biển Đời lem lấm phận người để thánh hóa, để thay dòng đổi lượng cho nó đượm hương Thiên Đàng và in bóng Người Cha yêu thương đang mở rộng vòng tay đón đợi ta.

 

30.       Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”-- Jos. Vinc. Ngọc Biển

(St 2, 4b-9.15; Cv 20, 32-35; Mt 25, 14-30)

 “Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên”. Ấy là câu nói cửa miệng của những ai tin vào Thiên Chúa, Đấng là chủ tể mọi loài. Với thánh Phaolô, ngài xác tín mạnh mẽ và quy hướng mọi sự về Thiên Chúa. Ngài khẳng định: “Phaolô trồng, A-pô-lô tưới, nhưng chính Thiên Chúa mới làm cho mọc lên” (1Cr 3,6).

Hôm nay, ngày mồng ba tết, cộng đoàn quy tụ nơi đây, để cùng nhau xin Chúa thánh hóa công ăn việc làm cho chúng ta trong suốt năm mới. Tuy nhiên, đây còn là dịp để chúng ta bày tỏ thái độ tích cực về lao động cũng như tìm hiểu về ý nghĩa, giá trị của lao động trong nhiệm cục cứu chuộc của Thiên Chúa.

1. Trở về nguồn để hiểu giá trị của lao động

Ngay từ thủa ban đầu của xã hội loài người, chúng ta thấy Tổ tông Ađam và Eva đã được Thiên Chúa trao ban vườn Địa Đàng để: “Canh tác và giữ vườn” (St 2,15). Mặc dù nơi đây là một nơi đầy đủ và hạnh phúc dồi dào! Tuy nhiên, con người không được ở yên, mà vẫn phải giữ vườn và canh tác...

Sang thời Đức Giêsu,  chính Ngài đã nói với dân chúng rằng: “Cho đến nay, Cha Ta vẫn làm việc, thì Ta cũng làm việc” (Ga 5,17). 

Ngài không chỉ nói, mà chính Ngài đã kinh qua trong suốt thời gian sống ẩn dật 30 năm trường trong gia đình Nazareth. Ngài đã cùng thánh Giuse lao động để kiếm tiền lo cho gia đình... Điều này đã được chính những người đồng hương với Ngài chứng minh: “Ông ta không phải là bác thợ mộc, con bà Maria sao?” (Mc 6,3).

Với thánh Phaolô, ngài coi lao động là một việc làm có giá trị, nên một đàng thánh nhân loan báo Tin Mừng, đàng khác, ngài không ngừng lao động chân tay để tránh sự phiền hà cho tín hữu. Khi lời nói đi đôi với hành động, thánh nhân đã cất lên lời khuyên bảo: “Ai không làm việc thì đừng ăn. Thế mà chúng tôi nghe nói trong anh em có những người sống vô kỷ luật, chẳng làm việc gì, mà việc gì cũng xen vào. Nhân danh Chúa Giê-su Ki-tô, chúng tôi truyền dạy và khuyên nhủ những người ấy hãy ở yên mà làm việc, để có của nuôi thân. Phần anh em, hãy làm việc thiện, đừng sờn lòng nản chí!” (2 Tx 3,10b-13).

Như vậy, lao động là một việc làm chân chính, đáng tôn trọng. Hơn nữa, lao động còn là điều kiện cần để làm người đúng nghĩa. Nếu không lao động, con người không thể thăng tiến! Bởi vì, lao động là vinh quang và khi lao động sẽ làm cho chúng ta trở nên giống Thiên Chúa hơn. Lao động còn cộng tác với chính Thiên Chúa trong công trình sáng tạo, bởi vì, nhờ lao động, con người không ngừng làm cho thế giới này ngày càng đổi mới, thăng hoa và tốt đẹp. Khi lao động, chúng ta làm cho bức tranh nhân loại đã được Thiên Chúa tác tạo trở nên sống động và khởi sắc từng ngày.

Nói như thế không có nghĩa là Thiên Chúa không thể làm cho hoàn thiện? Không! Ngài là Thiên Chúa quyền năng, nên Ngài làm được mọi sự. Tuy  nhiên, Ngài muốn cho con người cộng tác để sinh ích lợi cho chính chúng ta.

Hơn nữa, khi lao động, con người có cơ hội làm cho tinh thần minh mẫn, trí óc hoạt động, và nhờ đó mà có thể có những phát minh hữu ích để phục vụ Giáo Hội và xã hội...

Thi hào Voltaire nói: Lao động xua đuổi xa ta 3 mối họa lớn lao ‘Buồn nản, thói hư và cùng túng’”. Sách Nho cũng nói: “Nhàn cư vi bất thiện”, và sách Tây thêm: “Sự ở nhưng là mẹ sinh ra các nết xấu”.

Với thánh Gioan Kim Khẩu thì: mỗi khi con người lao động, họ được tôn trọng hơn. Ngài ví von: “Con ong được quí trọng, vì nó làm việc không những riêng cho nó và cho cả mọi người nữa”.

Vì thế, chúng ta cần phải loại trừ quan niệm lệch lạc về lao động, coi lao động là bần tiện, khổ sai, nô lệ. Đây là cái nhìn nguy hại không chỉ cho đời sống thể xác, mà nó còn nguy hiểm cho đời sống tinh thần.

2. Ý nghĩa của ngày lễ thánh hóa việc làm

Ngày mồng ba tết được chọn để cầu nguyện xin Chúa thánh hóa công ăn việc làm, Giáo Hội muốn mời gọi con cái mình hãy biết dâng cho Chúa và phó thác nơi Ngài tất cả. Tâm tình này đã được cha ông ta đúc kết thành câu đồng dao vừa để sống, vừa để răn dạy con cháu:

“Lạy Trời mưa xuống

Lấy nước tôi uống

Lấy ruộng tôi cầy

Lấy đầy bát cơm

Lấy rơm đun bếp”.

Chính niềm tin ấy, đã khiến cho tổ tiên ta luôn cậy dựa bám víu và biết ơn Ông Trời:

“Ơn Trời mưa nắng phải thì

Nơi thì bừa cạn, nơi thì cầy sâu”.

Khi được mưa thuận gió hòa, và con người biết sống kết hợp với Ông Trời thì:

“Trời nào có phụ ai đâu!

Hay làm thì giầu, có chí thì nên”.

Tuy nhiên, vẫn có những người tưởng chừng như mọi sự là do mình, nên đã có thái độ kênh kiệu và ngạo mạn với Thiên Chúa. Nhưng kinh nghiệm cho thấy, những người đó không sớm thì muộn, họ sẽ gặp những thất bại thê lương và sẽ chết trong sự ngu dốt của mình. 

Vì thế, ngày mồng ba tết, chúng ta xin Chúa thánh hóa công ăn việc làm là điều hợp lẽ, vì: “Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công. Thành kia mà Chúa không phòng giữ, uổng công người trấn thủ canh đêm” (Tv 127, 1).

3. Thế nào là lao động trong công trình cứu chuộc?

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu dùng dụ ngôn “các nén bạc” để cho thấy rõ giá trị của lao động. Vì thế, với Lời Chúa vừa nghe, ta hiểu rằng: Con người hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa và phải có trách nhiệm trước mặt Người. Vì yêu thương, nên Thiên Chúa ký thác cho ta những nén bạc, và đòi hỏi chúng ta phải sinh lời thêm. Vì thế, không được phung phí cũng như ích kỷ chôn vùi đi. Nhưng phải làm cho nó sinh lợi theo thánh ý Thiên Chúa.

Như vậy, điều quan trọng giờ đây, đó là chúng ta cần đặt ra câu hỏi: Lao động cách nào cho đẹp lòng Chúa và hữu ích cho linh hồn? Câu trả lời, đó là: lao động bằng trí óc và bàn tay chân chính, lao động bằng mồ hôi, khó nhọc của chính mình...

Thiên Chúa không bao giờ chấp nhận những chuyện làm ăn bất chính như: gian tham, hối lộ, bóc lột; buôn gian bán lận, lừa đảo; cờ bạc, số đề, cá độ; thiết lập những khu ăn chơi trác táng để làm giàu trên thân xác phụ nữ chốn lầu xanh...

Những thứ đó không phải là công khó của chính mình, mà là của người khác. Thế nên, không có ý nghĩa và giá trị cứu chuộc, vì không được Thiên Chúa chúc lành. Ngược lại, nén bạc Chúa trao cho chúng ta và đòi hỏi chúng ta phải sinh lời ra, đó là: từ bi, nhân hậu, công bằng, bác ái; liên đới, cảm thông, sống công chính...

Mong sao, mỗi khi xin Chúa thánh hóa công ăn việc làm, chúng ta biết ý thức sự giới hạn của mình và biết cậy dựa vào quyền năng của Thiên Chúa; đồng thời, chúng ta cũng biết lựa chọn cách lao động chân chính, để qua đó, tâm hồn chúng ta được hướng thiện và đáng được hưởng ơn cứu chuộc. Amen.

 

31.       Thánh hóa công việc--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Chính phủ đang cố gắng đưa nước Việt Nam mình từ tình trạng nông nghiệp lạc hậu để bước qua giai đoạn hiện đại, và dần dần sẽ biết đất nước thành một quốc gia công nghiệp. Ước mơ là như thế, còn khi nào thực hiện được thì chưa biết, nhưng có một thực tế là số lượng dân cư bỏ ruộng để lên thành phố làm việc ngày càng gia tăng. Vì không được chuẩn bị cho nếp sống và sự phức tạp của đô thị, nên những người này khi nhập cư đã gặp không ít khó khăn và rủi ro, ngược lại tình trạng nông dân bỏ nông thôn lên thành phố đang kéo theo việc nông thôn hóa thành phố từ đời sống văn hóa đến những vấn đề xã hội.

Trong khi đó tình hình kinh tế xã hội của chúng ta chưa có gì là khả quan lắm, năm vừa qua hàng loạt công ty đã phải đóng cửa, kéo theo hàng triệu người thất nghiệp. Tìm được việc làm vào thời điểm này thật khó khăn, và tìm được việc như ý muốn càng khó khăn hơn nữa, chưa kể vấn đề lương bổng có hợp lý hay không. Cuối năm vừa qua có những công ty thưởng tết cho công nhân bằng nửa tháng lương, bằng mấy chai nước mắm, bằng vài gói giấy vệ sinh…

Ngày nay, công ăn việc làm vẫn là một trong những lo toan hàng đầu của những người trong độ tuổi lao động, vì không ai muốn mình trở thành người vô dụng ăn bám xã hội. Ngược lại làm việc cũng đang là vấn đề gây mệt mỏi cho nhiều người, vì có nhiều người đang bị trói buộc với công việc, khiến họ cảm thấy cuộc sống gò bó, nhàm chán, cuộc sống như một cái máy đã được lập trình ngày nào cũng như ngày đó, khiến cho nhiều người cảm thấy mệt mỏi và căng thẳng vì công việc.

Hôm nay ngày Mồng Ba Tết, Giáo Hội mời gọi chúng ta đến với Chúa, phó dâng công việc và những dự tính của năm mới cho Chúa để xin Chúa chúc lành và xin Chúa giúp chúng ta biết làm việc như thế nào cho đẹp ý Chúa. Chúng ta có thể kinh nghiệm thấy: cùng một công việc và điều kiện làm việc, nhưng công việc ấy trở nên vui tươi phấn khởi hay trở nên nhàm chán là tùy thuộc ở thái độ của người đó với công việc, hay nói khác hơn đó là tùy thuộc người đó làm việc vì mục đích gì và với ý nghĩa nào.

Lời Chúa hôm nay chỉ cho chúng ta thấy những giá trị của công việc theo quan điểm Kitô giáo. Bài đọc một sách Sáng Thế cho thấy, làm việc không phải là một hình phạt, cũng không phải bởi hậu quả tội lỗi, mà khi làm việc chúng ta được trở nên cộng tác viên của Thiên Chúa. Thiên Chúa chúng ta tôn thờ không phải là một vị thần bất động mà là một vị Thiên Chúa làm việc liên tục. Kinh Thánh đã dùng những hình ảnh hết sức con người để diễn tả về một Thiên Chúa như một người thợ, một nghệ nhân, một người nông dân, miệt mài với công việc sáng tạo nên vũ trụ này. Ngài dựng nên mặt trời mặt trăng cùng cây cối, muôn loài động vật và thực vật, Ngài cho nước phát sinh từ lòng đất để tưới giội cho cây cối xanh tươi, Ngài làm cho vủ trũ xoay vần khiến thời tiết mùa màng thuận lợi cho con người, cho cây kết trái nảy mầm. Sau mỗi công việc tạo dựng, Thánh Kinh khẳng định: Thiên Chúa thấy mọi sự Ngài đã dựng nên đều tốt đẹp. Với sự khẳng định này cho thấy rằng mọi vật, mọi loài và vũ trụ thiên nhiên đều tốt đẹp ngay từ lúc ban đầu. Trong khung cảnh tốt đẹp đó, Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người, đặt con người vào vườn địa đàng để con người được hưởng những kỳ công của Thiên Chúa, làm chủ mọi loài và tiếp tục canh tác, cũng như làm cho vũ trụ mỗi ngày được nên hoàn hảo hơn. Như vậy khi chúng ta làm việc, đừng làm như một kẻ nô lệ phải làm, mà hãy làm việc và bắt đầu mỗi ngày mới bằng tư thế của một một cộng tác viên của Thiên Chúa, được Thiên Chúa tín nhiệm cậy nhờ, và hãy làm vì sự hãnh diện đó và vì lòng yêu mến và biết ơn Chúa.

Làm việc vì lòng yêu mến biết ơn và cộng tác với Chúa, là thái độ Chúa Giêsu muốn nhắc cho chúng ta trong câu chuyện của bài Tin Mừng. Thiên Chúa như một ông chủ sắp đi xa đã tin tưởng trao phó tất cả gia sản cho những đầy tớ: Ông cho người này năm nén, người ka ba nén, người khác nữa một nén tùy theo khả năng mỗi người. Điều đó cho thấy Thiên Chúa trao cho ai điều gì, việc gì là theo khả năng của họ, Thiên Chúa không không bất công, và không muốn làm khổ ai khi trao cho họ những trách nhiệm vượt khả năng. Như thế có nghĩa là những hoàn cảnh điều kiện chúng ta đang có, đang được lúc này, là phù hợp với khả năng của mỗi người, khi chúng ta có khả năng hơn, Thiên Chúa lại trao cho ta nhiều hơn.

Tuy nhiên được trao vốn nhiều hay ít điều đó không quan trọng cho bằng mỗi người có thái độ nào khi đón nhận những điều kiện và những nén vàng Chúa trao. Câu chuyện cho thấy người lãnh năm nén ngay lập tức làm ăn sinh lời được năm nén khác, người lãnh ba nén cũng vậy, còn người lãnh một nén thì lại sợ hãi và lười biếng, than thân trách phận, đem chôn vùi số vốn của mình mà không làm gì cả. Đến ngày Thiên Chúa đòi mỗi người tính toán lại sổ sách cuộc đời, khi ấy, người lãnh năm nén đã sinh lời được năm nén khác, người ba nén cũng sinh lời ba nén khác, hai người này đã khiến ông chủ rất vui, đã khen thưởng cho hai người này: Anh là đầy tớ tài giỏi và trung thành, được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh.

Trái lại, người lãnh một nén đã thể hiện thái độ tiêu cực của anh. Anh không hề biết ơn hoặc yêu mến chú, anh mang trả lại cho chủ với lời lẽ cay cú: Tôi biết ông là người hà khắc gặt chỗ không gieo, thu nơi không phát, vì thế tôi sợ nên đem chôn giấu nén vàng của ông, đây của ông tôi trả lại ông. Ông chủ đã không chấp nhận như thế, nên đã gọi anh là tên đầy tớ xấu xa và biếng nhác. Ông chủ còn ra lệnh lấy lại những gì ông đã trao cho hắn để cho người đã có mười nén, còn tên đầy tới lười biếng đó thì bị quăng ra ngoài. Chứng tỏ rằng, vì người đầy tớ này đã không làm việc, và đã không có lòng yêu mến biết ơn chủ đã trao vốn cho mình, mà anh còn quay lại trách móc ông chủ, và vì thế anh tự biến mình thành một kẻ nô lệ thay vì là một người được yêu thương tin nhiệm.

Thưa quý OBACE, trước sự nhắc nhở của Lời Chúa hôm nay, chúng ta sẽ dự đinh làm việc gì và làm việc như thế nào trong năm mới này?

Những ngày đầu năm cũng là ngày người ta tìm kiếm và quyết định cho công việc làm ăn trong năm mới, và khi gặp nhau, mọi người đều cầu chúc cho nhau năm mới bình an, mạnh khỏe và công ăn việc làm được thuận lợi. Chúc cho nhau như thế là cũng ngầm hiểu rằng bình an, sức khỏe và công ăn việc làm thuận lợi không phải do con người đem lại, mà là do Thiên Chúa ban tặng cho mỗi người.

Như thế, chúng ta hãy làm việc trong tinh thần cậy trông tin tường nơi Chúa, biết phó thác công việc cho Chúa. Vì là cộng tác viên của Thiên Chúa, nên hãy làm việc với niềm tự hào là con Chúa, đừng kiêu căng cậy dựa vào sư tài khéo của mình mà vô ơn đối với Thiên Chúa, cũng đừng làm việc với sự chản nản oán trách Thiên Chúa, vì Thiên Chúa trao ban cho mỗi người những nén bạc tùy theo khả năng của họ. Nén bạc Chúa đang trao cho mỗi chúng ta là thời giờ, là trí tuệ, đừng phí phạm thời giờ vào những chuyện chơi bời lêu lổng buông thả, vì Chúa sẽ không thêm cho ai một phút nào trong 24 giờ một ngày, hãy sử dụng khả năng trí tuệ Chúa ban, để học hỏi, để suy nghĩ và để biết chọn lựa phân biệt điều tốt điều xấu, điều đúng điều sai. Nén bạc Chúa trao còn là sức khỏe, là tuổi trẻ, là nghị lực và tất cả những điều kiện hiện tại, hãy cố gắng để làm cho cuộc sống của mình nên tốt đẹp hơn, làm cho mình mỗi ngày nên tốt đẹp xứng đáng với phẩm giá con người và con Chúa hơn.

Đồng thời hãy làm việc với tinh thần tôn trọng thiên nhiên và môi trường sống, vì trái đất và vũ trụ này là tác phẩm của Thiên Chúa, đừng hủy hoại nó, nhưng hãy làm cho môi trường sống thêm sạch sẽ hơn, xinh đẹp hơn. Khi chúng ta sống và làm việc như thế, là chúng ta đang cộng tác với Thiên Chúa, để làm cho cuộc sống và vũ trụ thêm tươi đep hơn theo ý Chúa.

Xin Chúa chúc lành cho những toan tính và công việc của mọi người và cho công việc được thành công theo ý Chúa Amen.

 

32.       Làm việc với lòng yêu mến Chúa, và với tinh thần trách nhiệm--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Cuộc chiến thương mại giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc vẫn chưa hạ nhiệt. Việt Nam là quốc gia lệ thuộc nhiều vào Trung Quốc cũng bị ảnh hưởng không nhỏ trong vấn đề làm ăn với Hoa Kỳ. Cuối năm qua, tổng kết lại tình hình kinh tế cả nước, chính phủ vui mừng báo cáo tổng thu nhập quốc gia đạt được hơn 7%, vượt với chỉ tiêu đề ra. Theo con số này, có nghĩa là kinh tế đang phát triển. Tuy nhiên trong thực tế, nông dân Việt Nam vẫn cứ bị tình trạng được mùa mất giá, bị ép giá. Các nhà kinh doanh đang đối diện với rất nhiều khó khăn, những người lao động lại càng khó khăn hơn vì hàng hóa tiêu dùng tăng giá. Ngày đầu năm dương lịch, ngân hàng chính thức tăng tỷ giá đola, có nghĩa là đồng tiền Việt lại bị trượt giá; nhiều ngân hàng lớn rơi vào tình trạng thiếu vốn phải trông chờ nhà nước bơm tiền để cầm cự. Chính phủ có kế hoạch tăng nhiều loại thuế phí và bán bớt tài sản công để có tiền chi tiêu… những điều đó cho thấy bức tranh kinh tế hình như không mấy lạc quan. Những ngày cuối năm, có dịp hỏi thăm các doanh nghiệp trong xứ về tình hình làm ăn, thì đều có chung một tình trạng đó là sản xuất chậm, hành hóa khó bán…

Thưa quý OBACE, sau những ngày nghỉ tết mọi người đã nghĩ ngay đến công việc làm ăn trong năm mới: Không biết mình sẽ làm gì và làm như thế nào để có lợi nhuận tốt, chu cấp cho các nhu cầu của gia đình. Ngày mồng ba tết, Giáo Hội mời gọi chúng ta xin Chúa thánh hóa, chúc lành, cho những toán tính, dự định và công việc làm ăn của mỗi người, mỗi gia đình trong năm mới. Lời Chúa hôm nay cũng chỉ cho chúng ta biết phải làm việc trong tinh thần nào, để qua công việc hằng ngày, chúng ta có thể sống thánh và thánh hóa gia đình mình.

Đoạn sách Sáng Thế mặc khải cho thấy: Việc làm và làm việc là một vinh dự Chúa ban, để chúng ta được cộng tác với Chúa làm cho cuộc sống và vũ trụ ngày càng thêm tốt đẹp hơn. Thiên Chúa dựng nên vũ trụ thật xinh đẹp, tốt lành. Thiên Chúa vì yêu thương con người, đã trao tặng tuyệt tác của Ngài cho con người, để con người tiếp tục duy trì, bảo vệ và góp phần làm cho vũ trụ xinh đẹp thêm. Sách Sáng Thế diễn tả: Thiên Chúa trồng một vườn cây ơ Eđen về phía đông và đặt vào đó con người do chính mình nặn ra. Qua câu Kinh Thánh này cho chúng ta thấy Thiên Chúa của chúng ta, được so sánh như một nông dân, tự tay Ngài trồng một khu vườn. Thiên Chúa phán một lời là có tất cả, nhưng đoạn Kinh Thánh này lại diễn tả Thiên Chúa như một người luôn làm việc, Ngài lấy bùn đất mà nặn nên con người. Như thế, có nghĩa là khi chúng ta làm việc, không chỉ là cộng tác với Thiên Chúa trong việc bảo vệ và làm cho vũ trụ nên tốt đẹp hơn, mà khi làm việc, chúng ta sẽ làm cho mình trở nên giống Thiên Chúa hơn.

Kinh Thánh còn kể tiếp: Đức Chúa là Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn Eđen để cầy cấy và canh giữ đất đai. Như thế có nghĩa rằng, Thiên Chúa đã tín nhiệm con người, trao cho con người quyền quản lý và canh giữ vũ trụ này. Thiên Chúa không muốn con người sống như một vị khách đi thăm quan khu vườn vũ trụ, nhưng là người làm việc và có trách nhiệm bảo vệ vũ trụ này. Với cách diễn tả bình dân như trên, Sách Sáng Thế chuyển tải những nột dung giáo lý thật sâu xa và nhấn mạnh đến phẩm giá cũng như trách nhiệm của con người đối với vũ trụ. Khi con người làm việc với hết khả năng, trách nhiệm của mình là đang thi hành ý muốn của Thiên Chúa từ khi tạo dựng vũ trụ.

Khi hiểu được những lời Kinh Thánh nói trên, chúng ta thấy rằng: lao động làm việc ngay từ ban đầu, không phải là hình phạt của Thiên Chúa, cũng không phải là cách Thiên Chúa dùng để đày ải con người. Lao động nó chỉ trở thành nỗi nhọc nhằn cho con người, từ sau khi con người phản bội Thiên Chúa. Con người muốn tự mình định đoạt tất cả, làm chủ tất cả, kể cả tương lai của mình, mà không cần Thiên Chúa, khiến cho trật tự của vũ trụ bị đảo lộn. Con người trở nên tham lam ích kỷ, vũ trụ và muôn vật trở nên thù nghịch với con người, đất đai trở nên gai góc và sỏi đá, con người phải đổ mồ hôi mới có miếng ăn.

Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta thái độ làm việc theo gương của Ngài, đó là làm mọi công việc trong tình yêu mến và tín thác nơi Chúa. Khi làm việc vì lòng yêu mến Chúa thay vì sự tham lam ích kỷ, chúng ta sẽ tìm lại được niềm vui trong công việc và qua công việc Thiên Chúa sẽ giúp chúng ta nên thánh.

Chúa Giêsu đã kể câu chuyện các đầy tớ và những nén bạc được trao để nói lên thái độ chúng ta phải có khi làm việc. Trước hết, Thiên Chúa như ông chủ trong câu chuyện, Ngài yêu thương và tín nhiệm mỗi người, Ngài trao gửi cho mỗi người “tài sản” của Chúa. Những nén bạc này chính là những khả năng, điều kiện, thời giớ, sức khỏe, trí tuệ và các cơ hội vv, tất cả là của Chúa. Chúa lại trao cho kẻ nhiều người ít không phải vì Chúa không tín nhiệm hoặc không công bằng, nhưng tùy theo khả năng riêng của họ: Người thì năm nén, người hai nén, người một nén. Điều này có nghĩa rằng, Thiên Chúa không đòi chúng ta làm việc quá khả năng, nhưng Ngài chỉ mong chúng ta làm việc hết mình, với hết trách nhiệm, hết khả năng vì lòng yêu mến Chúa.

Câu chuyện cho thấy thái độ của những đầy tớ khác nhau: Lập tức, người đã lãnh năm nén lấy số tiền ấy đi làm ăn và sinh lời được năm nén khác. Người lãnh hai nén cũng làm như vậy. Điều này cho thấy, các đầy tớ này nhận thấy chủ thương mình, tin mình, nên họ cũng không muốn phụ lòng chủ, họ không để mất thời gian so đo tính toán, không đứng đó ghen tị phân bì. Nhưng ngay lập tức, họ đem số vốn Chúa cho để đi làm ăn và sinh lợi. Trái lại, người lãnh một nén thì chần chừ, đắn đo cân nhắc. Cuối cùng, vì lười biếng, để an phận, anh đã đi đào lỗ chôn giấu nén vàng Chúa trao.

Thiên Chúa là ông chủ quảng đại không quan tâm đến chuyện lời hay lỗ, nhưng ông quan tâm đến việc anh sử dụng khả năng và thái độ của anh đối với Chúa và đối với số vốn trong tay. Khi chủ trờ về, người lãnh năm nén và hai nén đến trình lại cho chủ số lời tương đương. Thiên Chúa không thu lại số vốn và số lời Chúa đã cho họ, nhưng Chúa khen họ: Anh là người tài giỏi và trung thành. Chính sự lanh lợi, biết sử dụng khả năng trí tuệ và sức lực để làm việc và trung thành với Chúa là điều được Chúa khen. Vì sự trung thành này, Thiên Chúa lại còn quảng đại, tín nhiệm trao gấp nhiều lần hơn nữa cho họ: Được trao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ trao nhiều cho anh. Thiên Chúa còn cho những kẻ trung thành được vào hưởng niềm vui với Chúa: Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh.

Còn người lãnh một nén trở lại trình diện Chúa với những suy nghĩ hết sức tiêu cực. Chủ chưa hỏi anh câu nào, thì anh đã càm ràm trách móc chủ: Tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi. Vì thế tội sợ, đem chôn dấu nén bạc của ông dưới đất. Của ông vẫn còn nguyên đây. Người đầy tớ này thiếu hẳn lòng yêu mến và biết ơn ông chủ vì sự tín nhiệm của ông. Trái lại, anh mang trong mình sự sợ hãi, nhìn ông chủ như người hà khắc keo kẹt. Để biện minh cho sự lười biếng của mình, anh chôn giấu nén bạc dưới đất để trả lại cho ông nguyên vẹn. Mặc dù trả lại nguyên vẹn nén bạc, nhưng ông chủ không hài lòng về cách cư xử này. Chủ đòi anh, ít ra cũng phải động não một chút, chứ không thể thụ động lười biếng, phải sinh lời, cho dù lãi suất thấp, chứ không phải là không làm gì với nén vàng Chúa trao. Cuối cùng, không những tên đầy tớ lười biếng này bị phạt, mà còn bị lấy lại những gì chủ đã trao phó, vì hắn đã phụ lòng tin của chủ.

Qua sự chỉ dạy của Lời Chúa hôm nay, xin cho mỗi người biết tích cực siêng năng làm việc, tận dụng hết mọi khả năng và cơ hội Chúa ban để sinh lời vốn liếng Chúa trao. Xin cho chúng ta làm việc trong tâm tình biết ơn, yêu mến đối với Thiên Chúa, làm việc với tất cả trách nhiệm, Chúa sẽ chúc phúc cho công việc và biến nó trờ thành niềm vui và đem lại hạnh phúc ơn cứu độ cho chúng ta. Amen.

 

33.       Thánh hóa công ăn việc làm--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Trong Tiếng Việt có nhiều từ ghép, nhưng có lẽ các từ được ghép với chữ “ăn” là nhiều nhất: ăn tết, ăn gian, ăn cắp, ăn trộm, ăn nói,.. công ăn – việc làm. Sở dĩ chữ ăn được dùng nhiều, có lẽ vì “ăn” là nhu cầu căn bản của con người, nó chi phối, gắn liền với đời sống của con người và cũng là mục tiêu cho nhiều hoạt động của con người. Trong năm vừa qua, tòa án Việt Nam đã xét xử nhiều vụ làm ăn bất chính, ăn gian của công, lên đến hàng ngàn tỉ đồng. Những kẻ có tội phải lãnh những mức án hết sức nặng nề. Trong số các phạm nhân, có những người từng là quan chức cao cấp đã làm ăn không minh bạch, có những kẻ vì hám lợi trước mắt mà đầu tư ồ ạt để rồi thua lỗ nên bị xử phạt. Tình trạng ăn gian, làm gian, làm dối, ăn thật làm giả, đang tràn lan trong xã hội, đến độ có người còn nói: “Ở Việt Nam, nếu cứ khui ra sòng phẳng, chẳng có ai làm giàu mà không ăn gian”.

Việc làm ăn ngày nay đã trở thành việc ăn gian làm dối, lừa đảo. Việc làm và làm việc đã trở thành mưu mô xảo trá để kiếm lợi. Người ta đã đánh mất cái đẹp ban đầu của công việc và việc công. Công việc và việc công, việc làm và làm việc đã bị nhuốm màu gian dối, bất chính. Vì thế, ngày mồng ba tết, Giáo hội mời gọi chúng ta vượt lên trên cái phàm tục thông thường, bằng cách thánh hóa các công việc của mỗi người, biến công việc thường ngày trở thành việc thánh và thành phương thế để nên thánh, đó là mục đích, ý nghĩa của ngày thánh hóa công ăn việc làm hôm nay. Như vậy, Giáo Hội không tổ chức ngày này, như ngày cầu may, hay cầu hên trong công việc, mà mời gọi mọi người biết tin tưởng vào Chúa khi làm việc và phó dâng việc làm hằng ngày cho Chúa để xin Chúa ban ơn lành.

Sách Sáng thế cho thấy, ngay từ đầu, khi tạo dựng nên con người và vũ trụ, Thiên Chúa đã tạo dựng chúng trong sự trật tự, hài hòa, xinh đẹp. Mặc dù được sống trong tình trạng hạnh phúc, vui hưởng thành quả công trình tạo dựng của Thiên Chúa, nhưng khi đặt con người vào vườn địa đàng, Chúa vẫn trao cho con người trách nhiệm phải lao động, canh tác. Việc lao động này, hoàn toàn là một lời mời gọi và là ân phúc Thiên Chúa ban cho con người, được cộng tác với Chúa trong việc bảo tồn và làm phát triển trái đất, vũ trụ, con người lúc đó làm việc với niềm vui và hạnh phúc. Tuy nhiên, sau khi phạm tội, đất đai trở nên cằn cỗi, gai góc, chống lại con người, khiến cho việc lao động của con người trở thành vất vả, phải đổ mồ hôi và nước mắt để kiếm sống. Đồng thời, ma quỷ và tội lỗi đã đẩy con người đến chỗ kiêu căng, muốn chiếm trọn cả vũ trụ về tay mình và loại trừ Thiên Chúa ra khỏi vũ trụ trái đất. Chính sự kiêu ngạo đó, đã khiến việc làm của con người ngày càng trở nên nặng nề, vất vả hơn. Cũng vậy, dục vọng của con người trỗi dậy, ma quỷ xúi giục lòng tham nổi lên, khiến cho con người chỉ còn biết nghĩ đến phần lợi cho mình, chiếm hữu cho mình. Từ đó, việc lao động trở thành gáng nặng cho chính con người, vì họ làm việc mà không vui, sống mà không hạnh phúc, luôn phải đề phòng và tranh giành với người khác. Như thế, việc lao động là hợp tác với Thiên Chúa, là ân phúc cơ hội Chúa ban, đã bị con người làm hoen ố và biến nó trở thành gánh nặng cho chính mình và tổn hại đến người khác.

Ngày mồng ba tết, bắt đầu cho một năm làm việc mới, Giáo Hội mời gọi con cái mình, đừng để việc lao động trở nên phàm tục, mà cần phải thánh hóa chúng. Thánh hóa công ăn việc làm, là thánh hóa công việc lao động, làm ăn thường ngày, để trả lại cho nó ý nghĩa và mục đích thuở ban đầu Thiên Chúa đặt định, đó là những việc thánh thiện. Chúng ta thánh hóa công việc làm ăn bằng cách nào? Lời Chúa hôm nay soi rọi cho chúng ta: Làm việc trong tâm tình tạ ơn vì được cộng tác với Thiên Chúa và tin tưởng vào sự quan phòng của Chúa, phó thác thành quả lao động cho Chúa, cho dù kết quả đó như ý hay không như mong muốn. “Các con chớ áy náy lo lắng, mình sẽ ăn gì, uống gì hay lấy gì mà mặc”, nhắc nhở điều này, Chúa muốn chúng ta nhớ rằng: Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên, đừng tưởng rằng chúng ta có nhiều khả năng, nhiều tài lực, chúng ta không cần Thiên Chúa, nghĩ như thế là tự kiêu, sai lầm. Chúa cũng không muốn chúng ta suy nghĩ theo kiểu dân ngoại, hoặc như kẻ kiêu ngạo, muốn giành tương lai của mình về cho mình quyết định, mà không cần sự trợ giúp của Thiên Chúa. Ngày xưa bà Eva đã bị cám dỗ muốn mình trở nên như thần linh, muốn mình biết trước tương lai của mình và người khác, không cần Thiên Chúa. Bà đã gặp thất bại, đã rơi xuống vực sâu của ham muốn và bị chính sự ham muốn dục vọng dày vò hành hạ.

Chúa muốn ta thánh hóa công việc bằng cách vừa làm việc vừa tìm kiếm nước trời, hay đúng hơn trong khi làm việc thường ngày, vẫn dành ưu tiên cho việc tìm kiếm hạnh phúc nước trời. Vì, của cải và những nhu cầu vật chất, Thiên Chúa vẫn lo liệu cho chúng ta dùng đủ hàng ngày, như Chúa vẫn nuôi sống chim trời và cá biển, Ngài vẫn tô điểm cho cây cối, hoa cỏ muôn màu xinh tươi; chúng ta là con của Chúa không lẽ nào Chúa bỏ quên chúng ta. Nước trời và sự sống đời đời Chúa đã dành cho con người, Chúa còn ban ơn trợ giúp để mỗi người cần nỗ lực cộng tác với sự Chúa để vun đắp mỗi ngày, ngay trên trần gian này. Dạy như thế, Chúa muốn lưu ý chúng ta rằng, cho dù trong cuộc sống vất vả mưu sinh hoặc sung túc, thì cũng phải biết đặt cho mình thứ tự ưu tiên trong cuộc sống. Đặt Chúa và hạnh phúc nước trời là mục tiêu ưu tiên tìm kiếm trước hết và trên hết, còn công việc và chuyện ăn uống, dù cần nhưng cũng chỉ là thứ yếu mà thôi.

Tiên vàn, các con hãy tim sự công chính và nước Thiên Chúa” Tìm sự công chính là “tìm” chu toàn giới răn lề luật của Thiên Chúa, “tìm” sống sao cho đẹp lòng Chúa. Như thế, thánh hóa công ăn việc làm, tức là mỗi người cần làm và ăn trong sự công chính, phù hợp với lề luật và giáo huấn của Chúa. Công việc của chúng ta sẽ trở thành việc thánh khi chúng ta loại bỏ khỏi công việc sự gian dối, bất công, gian ác và nhẫn tâm.

Hơn lúc nào hết sự gian dối đang lan tràn trong xã hội, không chỉ trong đời sống, lời nói, mà người ta gian dối trong hành động và công việc. Ngày nay, hàng giả, hàng gian, hành kém chất lượng đang tràn lan, đánh lừa người tiêu dùng, thu nhiều lợi nhuận. Những cách nói trúng mánh, trúng quả, trúng kèo thơm,… là mỹ từ che đậy cho những phi vụ làm ăn gian dối lừa lọc người khác, con người tìm lợi nhuận bằng mọi giá. Thiên nhiên là quà tặng chung của Chúa cho mọi người, vậy mà, có những nhóm vì lợi ích riêng, đã phá hủy, khai thác thiên nhiên đến kiệt quệ để thu lợi cho cá nhân. Chung quanh chúng ta, môi trường đang bị hủy hoại tàn bạo, nước sông ô nhiễm, khói bụi độc hại do con người thải ra, chính chúng ta đang phải chịu những tác động xấu từ việc làm đó.

Trong lãnh vực nông nghiệp, chăn nuôi, chế biến thực phẩm, nhiều người vì hám lợi, đang đầu độc và giết chết anh em bằng những hóa chất độc hại, gây bệnh tật, ung thư và nhiều thứ bệnh lạ khác. Hậu quả là chính chúng ta phải gánh chịu. Có người nói: "không có khi nào con đường từ bao tử đến nghĩa trang lại gần như lúc này” ăn gì cũng có chất độc, gây bệnh và chết người. Những việc làm gian ác như thế và hậu quả của nó, đều phát xuất từ lòng tham, sự ham muốn chiếm hữu thật nhiều và thống lĩnh thiên hạ, khiến cho chúng ta phải chịu hậu quả.

Trong ngày xin ơn Thánh Hóa Việc Làm hôm nay, chúng ta cầu xin Chúa cho mỗi người, mỗi gia đình có được công việc để có thể lo cho cuộc sống. Nhưng hơn hết, xin cho mỗi người biết làm việc trong tâm tình tạ ơn, cộng tác với Chúa, làm cho trái đất và cuộc sống thêm tốt đẹp hơn. Xin cho mỗi người dù làm việc gì cũng tôn trọng giới răn lề luật của Chúa, làm theo tiếng lương tâm nhắc bảo, để qua đời sống và công việc thường ngày, chúng ta góp phần làm cho Nước Trời hiện diện ngay tại trần gian này, qua một cuộc sống tốt đẹp, hạnh phúc, bác ái và yêu thuơng. Amen.

 

34.       Thánh hóa công việc--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Bước qua ngày mồng ba tết, Giáo hội mời gọi chúng ta xin Chúa thánh hóa công việc làm ăn của mỗi người, mỗi gia đình, trong năm mới. Xin Chúa chúc lành và làm cho những cố gắng, toan tính công việc, của mỗi người mỗi gia đình được thành công, đem lại cơm no áo ấm cho các gia đình. Qua ngày lễ này, Giáo hội nhắc chúng ta biết làm việc trong tinh thần tự do trách nhiệm, cộng tác với Thiên Chúa trong việc làm cho vũ trụ thêm tốt đẹp, đời sống con người được thăng tiến, chia sẻ và góp phần đem lại cuộc sống tốt đẹp cho mọi người. Người Kitô hữu tin rằng: Mưu sự tại nhân, thành sư tại thiên, toan tính bởi con người nhưng Thiên Chúa mới cho thành công.

Tuy nhiên trong thực hành, nhiều người lại không xác tín như thế, họ vừa tin Thiên Chúa, nhưng vẫn tin vào những thần thánh khác, hoặc tin sự thành bại là do hên xui, do chọn ngày, chọn hướng. Vì thế, có những người chọn ngày để khởi công làm nhà, chọn ngày chọn giờ để khai trương đầu năm, chọn ngày để đám cưới. Những tin kiêng chọn lựa như thế đều đi ngược lại đức tin công giáo và là một tội rất năng đến điều răn thứ nhất.

Lời Chúa hôm nay nhắc cho chúng ta những điểm giáo lý quan trọng: Thiên Chúa của chúng ta là một vị Thiên Chúa hoạt động và làm việc; làm việc là cộng tác với Thiên Chúa trong việc tạo dựng và làm cho vũ trụ trái đất thêm tốt đẹp. Sách Sáng thế muốn khẳng định điều đó, khi tác giả đã dùng hình ảnh và ngôn ngữ rất bình dân để diễn tả quyền năng của Thiên Chúa: Ngày Đức Chúa là Thiên Chúa làm ra đất và trời, chưa có mưa cũng như chưa có bụi cây nào ngoài đồng; có một dòng nước từ đất trào lên tưới khắp mặt đất.Thiên Chúa lấy bùn đất mà nặn ra con người. Đọan Kinh thánh này muốn cho thấy: Thiên Chúa không phải là vị thần bất động chỉ ngồi đó để đón nhận hương khói, nhưng Ngài là Thiên Chúa làm việc. Thiên Chúa làm việc bằng quyền năng, bằng lời của Ngài và con bằng chính đôi tay của Ngài như một người thợ. Nếu so sánh với các loài khác, Thiên Chúa chỉ cần phán hoặc khiến cho có, thì liền có, nhưng đối với con người, Thiên Chúa dường như phải xắn tay áo, phải đổ mồ hôi vất và để làm nên con người từ bụi đất. Thiên Chúa còn thổi sinh khi vào con người, để cho con người có sự sống. Như thế, sự sống của con người là do Thiên chúa trực tiếp trao ban và con người hoàn toàn tùy thuộc vào Thiên Chúa.

Thiên Chúa đã đặt con người vào vướn Eden để con người cầy cấy canh giữ đất đai. Thiên Chúa khi dựng nên con người, Ngài không muốn con người làm nô lệ cho công việc, cũng không làm nô lệ cho vũ trụ này, nhưng trao cho con người làm chủ và có bổn phận chăm sóc, cũng như cầy cấy và làm cho trái đất mỗi ngày một xinh tươi tốt đẹp hơn. Làm chủ và chăm sóc vũ trụ, là trách nhiệm Chúa trao. Tuy nhiên, con người không được phép lạm quyền, để biến vũ trụ, trái đất và tài nguyên thành sở hữu của cá nhân, nhưng là của mọi người và phục vụ cho nhu cầu của mọi người. Đồng thời việc chăm sóc vũ trụ, không cho phép con người tàn phá, khai thác cạn kiệt, nhưng phải chung tay bảo bệ, chăm sóc trái đất này như ngôi nhà chung cho mọi người.

Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta thái độ phải có, khi làm việc và hết mình làm việc trong tin tưởng và yêu mến Thiên Chúa. Dụ ngôn cho thấy: Một ông chủ sắp đi xa, ông gọi các đầy tớ đến và trao cho người này năm nén, người kia hai nén người khác một nén tùy theo khả năng của họ. Thiên Chúa rất công bằng và khôn ngoan, Ngài không ép ai phải làm việc quá với khả năng của mình, ngài trao cho mỗi người những điều kiện, hoàn cảnh, phù hợp với khả năng của họ. Thiên Chúa là ông chủ chờ đợi nơi mỗi người thái độ làm việc hết mình, hết khả năng và với tình yêu dành cho Chúa. Những người đầy tớ này, khi nhận được số vốn của chủ đã lập tức sinh lợi. Còn người nhận một nén, đã không làm gì, anh đem chôn giấu khả năng và số vốn của chủ gửi.

Ngày ông chủ trở về, những người lãnh năm nén đã làm lợi được năm nén, người lãnh hai nén lợi được hai nén. Có nghĩa là những người này đã làm việc hết khả năng sức lực của mình; họ làm việc vì biết rằng ông chủ tin tưởng và yêu thương họ; họ làm việc để đáp đền công ơn của chủ. Trái lại người lãnh một nén đã mang tâm trạng thụ động lười biếng. Anh không có lòng yêu mến ông chủ, anh oán trách ông chủ là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không phát. Anh sống với chủ không với tâm tình là cộng tác viên, nhưng là một người đầy tớ sợ hãi, biếng nhác và có ác cảm với chủ.

Ngày ông chủ trở lại, mọi người sẽ phải trình lại cho ông tất cả những vốn liếng, công việc và thái độ của mình. Người lãnh năm nén, hai nén đã phấn khởi báo cáo với chủ cả vốn lẫn lời. Ông chủ không thu lại những gì ông đã cho các người này, ông khen ngợi họ là những đầy tớ tốt lành và trung tín. Họ tốt lành vì đã làm việc trong thật thà ngay thẳng, không gian dối và hết mực trung thành với chủ và với công việc chủ trao. Vì thế, ông chủ đã ban thưởng lại cho các người này gấp bội và còn cho họ được vào nhà với chủ, đồng hưởng sự vui mừng với chủ.

Còn người lãnh một nén, mang tâm trạng thụ động lười biếng, anh đến trình lại cho chủ số vối của mình và sự ác cảm, hằn học của mình: Tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo thu nơi không phát, tôi sợ nên tôi đã chôn nén bạc của ông. Đây của ông, tôi trả lại ông. Ông chủ không bằng lòng với thái độ thụ động, lười làm việc, lười suy nghĩ tính toán của anh này. Ông đã ra liệnh thu hồi số bạc và đã loại trừ anh vì sự biếng nhác đó.

Thưa quý obace, Lời Chúa ngày mồng ba tết hôm nay nhắc mỗi người phải làm việc trong thái độ yêu mến và biết ơn Thiên Chúa là Đấng đã cho chúng ta điều kiện để làm việc, đó là sức khỏe, trí tuệ, thời gian và nhiều cơ hội khác nữa. Ngài muốn chúng ta làm việc không phải như một kẻ nô lệ sợ hãi, cũng không lười biếng thụ động, nhưng với thái độ là một cộng tác viên và là người nhà của Thiên Chúa. Vì thế, chúng ta không thể biến mình thành kẻ làm việc như một nô lệ cho công việc, không để cho công việc cuốn hút và trói buộc, khiến chúng ta không còn nhớ tới Chúa. Chúng ta phải làm việc trong tinh thần yêu mến, biết ơn và tin tưởng vào sự quảng đại trợ giúp của Thiên Chúa. Đừng kiêu căng tự mãn cho rằng, mình có thể làm được tất cả mà không cần Thiên Chúa. Đồng thời luôn nhớ rằng, sẽ đến ngày chúng ta phải trình nộp lại cho Chúa tất cả công việc, cuộc sống và cả vốn lẫn lời mà Chúa đã ký thác cho ta.

Nhiều người đang tin tường phó thác vào Chúa, làm việc hết mình để sinh lợi cho mình cho gia đình và giúp cho cuộc sống được sung túc hơn. Đó là điều đẹp ý Chúa. Bên cạnh đó có nhiều người đang làm ăn trong sự kiêu căng tự mãn về khả năng, vốn liếng và sự thành công của mình. Họ không nghĩ rằng: đó là do Chúa ban. Vì thế, họ lo hưởng thụ, kể công và không muốn dâng lại cho Chúa những thành quả đã đạt được. Một số người có đạo nhưng trong công việc, họ loại trừ Thiên Chúa, âm thầm bắt tay, thỏa hiệp với ma quỉ với bùa phép, cùng những sự tin kiêng và cho rằng do sự tin kiêng, do chọn được ngày đẹp ngày tốt, do hên xui hoặc thầy phong thủy đã chỉ cho thành công ăn nên làm ra. Sống đạo và tin kiêng theo kiểu dân ngoại như thế là lỗi trầm trong đến điều răn thứ nhất và biến mình trở thành thù nghịch với Thiên Chúa, giống như người lãnh một nén trong dụ ngôn hôm nay.

Xin Chúa cho chúng ta luôn tin tưởng, phó thác cho Chúa tất cả những toan tính dự định và công ăn việc của làm của mình và gia đình trong năm mới này và xin Chúa chúc lành cho chúng ta được bằng an và thành công theo ý Chúa. Amen.

 

35.       Việc làm và làm việc trong năm mới sẽ như thế nào?--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Hôm Tĩnh tâm các Linh mục của GP Xuân Lộc, ông Trưởng ban Tôn Giáo cho biết tỉnh Đồng Nai năm vừa qua cũng chịu ảnh hưởng nặng nề bởi nền kinh tế thế giới suy thoái, một trong những vấn đề chính quyền tỉnh quan tâm đó là năm vừa qua có hàng trăm ngàn công nhân mất việc, nghỉ việc vì công ty làm ăn khó khăn thua lỗ. Con số hàng trăm ngàn người mất việc này sẽ còn ảnh hưởng đến các gia đình và bao nhiêu người khác nữa, chưa kể là vấn đề tội phạm xã hội sẽ tỷ lệ thuận với con số này. Nhìn vào bức tranh kinh tế và công ăn việc làm của cả nước năm qua, con số lạm phát đã lên đến mức kỷ lục, tình trạng nợ nần của Nhà nước khá trầm trọng, đồng tiền mất giá, giá cả các mặt hàng tăng mạnh… tất cả những thông tin ấy đang ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của mỗi người, hay nói cụ thể hơn nó ảnh hưởng đến cái túi, đến bữa cơm của các gia đình. Cuối năm vừa qua, các công ty xí nghiệp đều có thưởng, có những người được thưởng cả trăm triệu, nhưng cũng có những ngành nghề chỉ được thưởng mấy ký hạt dưa hạt bí và có những ngành nghề không được đồng nào…

Thưa quý OBACE, vấn đề việc làm ngày càng trở thành vấn đề quan tâm của nhiều người. Có việc làm, và làm việc như thế nào lại là chuyện khác, và việc làm có phù hợp có thoải mái, có đủ sống hay không lại là chuyện khác. Vấn đề chủ và thợ ngày nay cũng đã trở thành một vấn đề nan giải, chủ thì muốn thu hồi vốn nhanh lợi nhuận nhiều, thợ thì muốn lương cao và những điều kiện làm việc thật tốt. … Bài Tin Mừng hôm nay kể cho chúng ta về mối tương quan chủ và thợ:

Có một ông chủ sắp đi xa liền gọi các đầy tớ đến mà trao phó tài sản của ông- Ông chủ này quá tốt, đã tin tưởng trao hết tài sản mình cho công nhân, ông không đắn đo tính toán, ông cho họ có cơ hội để lập nghiệp. Ông cũng rất nhân đạo và biết nhìn người, ông trao cho người này năm nén, người kia ba nén, người khác một nén tùy khả năng mỗi người. Điều đó có nghĩa là ai có khả năng như thế nào thì ông chủ tạo điều kiện cho như thế, ông không bắt ép họ phải chịu trách nhiệm vượt quá khả năng của mình. Điều ông chờ đợi và đòi ở đầy tớ của ông không phải là chuyện lời hay lỗ, vì ông có thiếu gì đâu, mà là sự chăm chỉ làm việc và làm việc trong sự hăng say phấn khởi biết ơn ông, ông không chấp nhận sự lười biếng, không suy nghĩ tính toán, không cố gắng. Câu chuyện cho thấy khi ông chủ trở về, đã gọi đầy tớ đến để tính sổ, người năm nén sinh lời được năm nén khác, người ba nén cũng vậy, những người này đều được ông chủ khen là những đầy tớ tốt lành và trung tín, vì người đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ đặt ngươi làm những việc lớn. Sự tín trung với chủ và giữ chữ tín trong công việc chính là điều những người này được khen thưởng.

Trái lại, sự bất tín biếng nhác, lười suy nghĩ tính toán, ù lỳ thụ động là điều không thể chấp nhận, đó là trường hợp của người lãnh một nén. Anh này đã đem chôn giấu nén bạc ông chủ đã trao, vì anh đã có cái nhìn hoàn toàn sai lạc về chủ của mình. Anh phân bì cho rằng chủ mình keo kiệt tham lam, hà khắc gặt chỗ không gieo thu nơi không phát, và anh còn mang một thái độ khác nữa đó sợ hãi thay vì yêu mến biết ơn ông chủ nên đã chôn giấu nén bạc của chủ. Chính từ cái nhìn không đúng về chủ, nên anh cũng không quan tâm gì đến việc kinh doanh sinh lời vốn liếng chủ trao. Đối với ông chủ, ngay việc giữ huề vốn nguyên vẹn một nén bạc đã không thể chấp nhận, ít ra anh ta cũng phải làm lời theo lãi suất ngân hàng… Ông chủ đã sa thải anh vì anh biếng nhác, không suy nghĩ không tính tóan để làm sinh lời vốn liếng chủ trao.

Qua thái độ của ông chủ và những người đầy tớ trong câu chuyện của Tin Mừng, Chúa Giêsu đã chỉ cho thấy Thiên Chúa chính là ông chủ tốt lành, Ngài đang ban cho chúng ta mỗi người những khả năng và tài năng khác nhau, Ngài còn tạo cho chúng ta có nhiều cơ hội để làm phát triển các khả năng và tài năng đó, và Ngài muốn chúng ta làm việc hết mình với lờng biết ơn và yêu mến Ngài, Ngài chờ đợi chúng ta hãy biết tận dụng thời giờ để làm sinh lời những gì chúng ta đã nhận được từ nơi Chúa. Nén bạc Chúa trao cho chúng ta hôm nay có thể là thời giờ, sức khỏe, tuổi trẻ tài năng và kể cả của cải vật chất nữa, chúng ta đã nhận được gì thì chúng ta phải sinh lời gấp đôi gấp ba những cái chúng ta đã nhận. Có những người Chúa ban cho nhiều cơ hội nhưng vì lười biếng hoặc chần chừ, thụ động nên đã để vuột mất cơ hội ấy, còn có những người khác họ đã nắm bắt được cơ hội và đã sinh lời cho bản thân và cho gia đình của mình.

Bài đọc một cho thấy vốn liếng Thiên Chúa trao cho con người nói chung và cho mỗi người nói riêng là phù với khả năng mỗi người. Vũ trụ này, trái đất này cùng mọi sinh vật tài nguyên khoáng sản trong đó là của Thiên Chúa, do Chúa dựng nên và làm chủ, thế mà Thiên Chúa đã trao tặng hoàn toàn cho con người, với chỉ một mong muốn là con người làm cho nó ngày càng thêm tốt đẹp hơn. Không chỉ trao cho con người tài sản vật chất, Thiên Chúa còn làm nên một vườn Êden, vườn thượng uyển của Chúa, là nơi và là tình trạnh hạnh phúc, cũng được Thiên Chúa trao cho con người làm chủ và chịu trách nhiệm chăm sóc cả khu vườn ấy và cả vũ trụ này. Adam Eva tổ tông của chúng ta đã đứng ra nhận tài sản của Thiên Chúa, nhưng hai ông bà cũng không khác gì người đầy tớ lãnh một nén bạc, đã chôn dấu tài sản của Thiên Chúa, đã làm tổn hại đến tài sản là hạnh phúc, đã hủy hoại sự cân bằng trong vũ trụ và trong tâm hồn mình, làm cho vũ trụ nên gai góc và chai đá vì tội bất tuân, nghì ngờ Thiên Chúa và phản bội lại sự tín trung, nên đã để mình và con cháu bị loại ra ngoài.

Bài đọc một cũng còn cho thấy rằng Thiên Chúa của chúng ta như một người thợ, Ngài cũng hăng say tận tụy làm việc để tạo dựng nên vũ trụ, đặc biệt Thánh kinh diễn tả Thiên Chúa như người nghệ sỹ làm việc đổ mồ hôi để tạo nên tác phẩm tuyệt đẹp là con người. Như thế cho thấy rằng nếu thiên chúa của chúng ta là một Thiên Chúa luôn làm việc, thì con người cũng phải biết làm việc và làm việc giúp chúng ta nên giống Thiên Chúa, và làm việc để đem lại sư tốt đẹp cho vũ trụ và sự no cơm ấm áo hạnh phúc cho con người, đó là chúng ta đang sinh lời cho Thiên chúa và đang cộng tác với Thiên Chúa trong việc tạo dựng và tô điểm cho vũ trụ này thêm tốt hơn, xin nhắc lại là làn cho vũ trụ nên tốt đẹp hơn. Như thế khi chúng ta hủy hoại mội trường xung quanh, làm cho nó ra ô nhiễm bẩn thỉu là chúng ta đã không trung tín với Thiên Chúa và gây tổn hại đến tài sản của Ngài.

Không dừng lại ở đó việc làm và làm việc còn là cách thế để chúng ta bày tỏ lòng yêu mến biết ơn và sự tín trung của chúng ta với Chúa, và còn là để có điều kiện chúng ta thực thi đức bác ái. Thánh phaolô còn nhắc cho chúng ta một thái độ làm việc khác quan trọng hơn là làm ăn tìm kiếm của cải vật chất để giúp tự mình nuôi sống bản thần, làm tăng phẩm giá con người và còn là để chia sẻ giúp đỡ những người thiếu thốn vì: Cho thì có phúc hơn là nhận. Mỗi người đã nhận lãnh nhận rất nhiều từ Thiên Chúa, chúng ta cũng cần phải biết rộng mở đôi tay để cho đi và chia sẻ.

Thưa quý OBACE, ngày Mồng Ba Tết là ngày thánh hóa công ăn việc làm, có nghĩa là chúng ta xin Chúa giúp chúng ta biết thánh hóa công việc làm của mình, cho chúng ta có việc làm tốt, và giúp chúng ta sống và làm việc theo giáo huấn của chúa, làm việc trong công bình và bác ái, người chủ thì biết tôn trọng sự công bằng và quyền lợi người thợ, người thợ cũng phải biết tôn trọng quyền lợi của chủ để tất cả mọi người làm việc trong sự ý thức rằng Thiên Chúa đã tín nhiệm và trao phó tài sản của Ngài cho ta, và chúng ta chỉ là người quản lý nên phải biết tận dụng cơ hội và khả năng Chúa ban và làm việc hết mình trong tinh thần yêu mến tương thân tương ái.

Cầu chúc cho mọi người có được công việc làm như mong muốn và làm việc thật hiệu quả. Amen.

 

36.       Mt 25,14-30--Ai không làm việc thì cũng đừng ăn--Lm Đan Vinh

1. LỜI CHÚA: "Ơn riêng Thiên Chúa đã ban, mỗi người trong anh em phải dùng mà phục vụ kẻ khác. Như vậy, anh em mới là những người khéo quản lý ân huệ thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa. Ai có nói, thì nói lời Thiên Chúa; ai phục vụ, thì phục vụ bằng sức mạnh Thiên Chúa ban. Như thế, trong mọi việc, chúng ta tôn vinh Thiên Chúa nhờ Đức Giê-su Ki-tô" (1Pr 4,10-11).

2.CÂU CHUYỆN: SỰ TÍCH CON TRÂU ĐI CÀY

Ngày xưa, khi thế gian mới được tạo thành, Thượng Đế đã sai một vị thần từ trời xuống trần mang theo 1 bao hạt lúa và 1 bao cỏ để gieo trên mặt đất. Thượng Đế đã dặn đi dặn lại vị thần gieo trồng là phải gieo hạt lúa làm thức ăn cho loài người trước rồi mới được gieo cỏ làm thức ăn cho loài vật. Nhưng khi xuống tới trần gian, do mãi mê ngắm phong cảnh tuyệt đẹp khác lạ ở trần gian nên thần gieo trồng đã quên lời dặn nên đã gieo cỏ trước gieo lúa. Từ đó, cỏ không cần trồng mà vẫn mọc lên khắp nơi và thú vật không cần lao động vẫn có dư cỏ ăn, đang khi loài người muốn có gạo phải chịu vất vả cày bừa gieo trồng mà vẫn bị bữa no bữa đói. Thượng Đế thấy vậy liền phạt tội vị thần gieo trồng tắc trách này phải bị hóa kiếp thành con Trâu để giúp loài người cày bừa trước khi gieo lúa và khi nào ăn hết cỏ mới được lên thiên đường. Nhưng rồi do cỏ mọc nhanh nên Trâu không sao ăn hết được, nên Trâu cứ phải tiếp tục chịu cảnh vất vả cày bừa để chịu đền tội và không sao thoát được kiếp làm trâu để có thể trở lại thiên đường.

Câu chuyện dạy chúng ta bài học: phải luôn làm việc cách nghiêm túc và chăm chỉ để có cái ăn như câu người ta thường nói: "Tay làm hàm nhai, tai quai miệng trễ". Hoặc như câu tục ngữ phương Tây: “Hãy làm hết sức mình rồi trời sẽ giúp”. Tránh thái độ ở không lười biếng không chịu làm việc mà chỉ biết ngồi “há miệng chờ sung rụng”.

3. THẢO LUÂN: 1) Thánh Kinh dạy gì về việc lao động bằng trí óc và tay chân? 2) Mỗi tín hữu chúng ta cần làm gì trong Năm Mới này?

4. SUY NIỆM:

Có người nghĩ rằng con người làm bá chủ thiên nhiên và có toàn quyền làm chủ trái đất mà quên rằng Thiên Chúa mới là Đấng sáng tạo và làm chủ vũ trụ vạn vật. Tin mừng Gio-an đã cho biết về công trình Thiên Chúa tạo dựng và cứu chuộc như sau: “Lúc khởi đầu, đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa. Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa, nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tao thành” (Ga 1,1-3). Hôm nay, Hội Thánh muốn các tín hữu hiểu biết giá trị của công việc tạo dựng của Thiên Chúa và dạy chúng ta phải tích cực cộng tác với Thiên Chúa để góp phần hoàn thiện thiên nhiên như Chúa đã tự nhủ khi sáng tạo nên loài người: “Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất” (St 1,26).

1) Loài người được trao quyền làm chủ thiên nhiên:

Sau khi sáng tạo trời đất, Thiên Chúa đã trồng một vườn cây ở Ê-đen về phía Đông, và đặt vào đó con người do ngài dựng nên… “Thiên Chúa khiến từ đất mọc lên đủ mọi thứ cây, trông thì đẹp, ăn thì ngon, với cây trường sinh ở giữa vườn, và cây cho biết điều thiện điều ác” (St 2,9). Như vậy, Thiên Chúa không muốn con người ở không, nhưng đòi họ phải làm việc. Bởi vì: “Nhàn cư vi bất thiện”. Từ đây con người phải làm việc theo thánh ý Thiên Chúa và chỉ làm việc thành công khi biết cậy dựa vào ơn Chúa giúp như tác giả Thánh Vịnh đã viết: “Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công”  (Tv 127,1).

2) Gương sáng lao động của thánh gia Na-da-rét:

Khi xuống thế làm người, Đức Giê-su đã được sinh ra trong một gia đình lao động nghèo khó tại làng Na-da-rét: Cha nuôi của Người là ông Giu-se hành nghề thợ mộc, còn mẹ đẻ là bà Ma-ri-a thì chăm lo công việc nội trợ phục vụ chồng con. Riêng trẻ Giê-su thì ngoan ngoãn hiếu thảo vâng lời cha mẹ (x. Lc 2,51), chia sẻ nỗi vất vả của cha mẹ, luôn qui hướng mọi việc theo thánh ý Chúa Cha (x. Lc 22,41), và làm vui lòng Ngài (x. Lc 2,46; Ga 4,34).

Trong khi đi giảng đạo, Đức Giê-su đã đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng Nước Trời, kèm theo việc chữa lành mọi thứ tật bệnh. Người đặt nặng công việc phục vụ hơn là giữ Luật Mô-sê. Do đó Người đã chữa bệnh trong ngày sa-bát là ngày bị Luật cấm làm việc. Người đã trả lời cho các đầu mục Do thái như sau: "Ngày sa-bát được làm ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày sa-bát” (Mc 2,27-28). Đức Giê-su cũng khẳng định vai trò ngang hàng với Thiên Chúa trong công việc như sau: “Cho đến nay Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc” (Ga 5,17).

3) Phải chăm chỉ làm việc để phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân:

Tin Mừng hôm nay thuật lại dụ ngôn của Đức Giê-su về những nén bạc nhằm dạy môn đệ phải cộng tác để làm lợi thêm các nén bạc vật chất tinh thần được Chúa trao phó như sau:

Có một ông chủ sắp đi xa liền gọi các đầy tớ đến mà trao phó tài sản của ông: người này năm nén, người kia ba nén, người khác một nén tùy khả năng mỗi người. Điều ông muốn nơi các đầy tớ là sự chăm chỉ làm việc theo ý của ông và không chấp nhận sự lười biếng. Khi ông chủ trở về và đòi các đầy tớ tính sổ: người đã lãnh năm nén ba nén bạc đều đã làm lợi thêm gấp đôi nên được chủ khen thưởng. Trái lại, người lãnh một nén do bất tín và biếng nhác đã mang nén bạc của chủ đi chôn vì sợ bị phạt thay vì yêu mến làm lợi thêm cho chủ. Cuối cùng anh ta đã bị mất tất cả những gì đang có.

4) “Ai không chịu làm thì cũng đừng ăn!”:

Thời Giáo Hội sơ khai, tông đồ Phao-lô nghe biết có một số tín hữu ở Thê-xa-lô-ni-ca lười biếng làm việc vì nghĩ rằng sắp đến ngày tận thế, ngài đã viết thư khuyên họ như sau: "Khi còn ở với anh em, chúng tôi đã chỉ thị cho anh em: ai không chịu làm thì cũng đừng ăn! Thế mà chúng tôi nghe nói: trong anh em có một số người sống vô kỷ luật, chẳng làm việc gì, mà việc gì cũng xen vào. Nhân danh Chúa Giê-su Ki-tô, chúng tôi truyền dạy và khuyên nhủ những người ấy hãy ở yên mà làm việc, để có của nuôi thân. Phần anh em, hãy làm việc thiện, đừng sờn lòng nản chí!” (2 Tx 3,10-13). Rồi khi từ biệt các tín hữu ở Ê-phê-sô, Phao-lô đã chia sẻ kinh nghiệm về sự làm việc như sau: "Chính anh em biết rõ: những gì cần thiết cho tôi và cho những người sống với tôi, đôi tay này đã tự cung cấp. Tôi luôn tỏ cho anh em thấy rằng phải giúp đỡ những người đau yếu bằng cách làm lụng vất vả như thế, và phải nhớ lại lời Chúa Giê-su đã dạy: Cho thì có phúc hơn là nhận." (Cv 20,33-35).

5) Chúng ta phải làm gì?

Trong Kinh Tiền Tụng Thánh lễ Mùng Ba Tết, Hội Thánh đã ca tụng Thiên Chúa như sau: "Cha còn sai Con Một giáng trần, để chia sẻ thân phận người lao động và thực hiện chương trình cứu độ muôn dân. Quả vậy, Người đã bắt chước Cha hoạt động không ngừng, nêu gương cho chúng con biết chuyên cần làm việc, không những để no cơm ấm áo, và góp phần xây dựng xã hội loài người mà còn để làm trạng Danh Cha, và mở rộng Nước Trời ngay tại thế ".

Ông Tê-tu-li-a-nô dạy người tín hữu phải làm mọi việc với tinh thần đức Tin như sau: “Dù khi thức dậy hay đi ngủ, dù khi ăn hay khi làm một việc gì quan trọng, hãy bắt đầu bằng dấu thánh giá”. Thánh Phao-lô đã khuyên các tín hữu phải làm mọi sự để qui hướng về Thiên Chúa: “Vậy, dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1 Cr 10,31). Mỗi người chúng ta hãy làm việc theo đúng luật và phù hợp với thánh ý Thiên Chúa khi sử dụng những gì Chúa trao như: Sự sống, thời gian, tài năng, của cải, con cái... và cần ý thức rằng: chúng ta sẽ phải trả lẽ trước tòa phán xét sau này.

5. LỜI CẦU:

Lạy Chúa. Trong cuộc sống hằng ngày, đôi lúc chúng con vẫn còn có thái độ lười biếng, chưa tích cực cộng tác với Chúa để chu toàn nhiệm vụ được Chúa và Hội Thánh trao phó. Chúng con cũng thường hay kêu trách Chúa khi cầu xin những điều chúng con nghĩ là tốt mà không được như ý. Xin Chúa giúp chúng con biết sử dụng những gì ở trong tầm tay để phục vụ Chúa và tha nhân. Xin cho chúng con sau này được Chúa cho vào Nước Trời hưởng Tôn nhan Chúa đến muôn đời.- Amen.

 

37.       Ai không muốn làm việc thì cũng đừng ăn--Lm Đan Vinh

1. LỜI CHÚA : “Ơn riêng Thiên Chúa đã ban, mỗi người trong anh em phải dùng mà phục vụ kẻ khác. Như vậy, anh em mới là những người khéo quản lý ân huệ thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa. Ai có nói, thì nói lời Thiên Chúa; ai phục vụ, thì phục vụ bằng sức mạnh Thiên Chúa ban. Như thế, trong mọi việc, chúng ta tôn vinh Thiên Chúa nhờ Đức Giê-su Ki-tô” (1Pr 4,10-11).

2. CÂU CHUYỆN : AI CŨNG ĐỀU LÀ NGƯỜI GIÀU MÀ KHÔNG NHẬN RA :

Có một chàng thanh niên lúc nào cũng ngồi than thân trách phận không may của mình, nên không thể nào giàu có được. Ngày nọ, một ông lão đi qua thấy vẻ mặt ủ ê của anh ta bèn hỏi:

– Chàng trai kia, sao trông cậu buồn bã thế, cậu có điều gì không vui sao?

– Cháu không hiểu tại sao cháu làm việc vất vả mà vẫn nghèo. Chàng trai buồn bã nói.

– Cháu mà nghèo ư, cháu đang giàu có đấy chứ?

– Chưa thấy ai nói với cháu như vậy cả, vì thực sự cháu rất nghèo.

– Này nhé: Giả như ta chặt ngón tay cái của cháu, và trả 3 lượng vàng thì cháu có chịu không?

– Không ạ.

– Giả như ta chặt một bàn tay của cháu và trả 30 lượng vàng, cháu có chịu không?

– Không bao giờ.

– Vậy nếu ta lấy đi đôi mắt của cháu và trả cháu 300 lượng vàng, thì cháu thấy thế nào?

– Cũng không được.

– Vậy nếu ta trả cháu 3000 lượng vàng để hai ông cháu chúng ta hoán đổi số phận, để cháu trở thành một lão già như ta có được không?

– Đương nhiên là không.

– Cháu muốn giàu. Vậy nếu ta trao cho cháu 30,000 lượng vàng để lấy đi mạng sống của cháu, thì cháu thấy thế nào?

– Cháu cảm ơn ông! Cháu đã hiểu cháu đang là một người giàu có mà cháu không biết.

Người ta thường nói : “Đứng núi này trông núi kia cao”. Nhiều người lúc nào cũng mở miệng than thân trách số phận mình đen bạc, đang khi thực ra họ còn đang hạnh phúc hơn nhiều người. Điều quan trọng là mỗi người chúng ta phải cố gắng chu toàn bổn phận của mình bằng hết khả năng Chúa ban. Hãy làm cho nén bạc được trao phó có thể phát sinh thêm nhiều nén bạc khác, thì mới đáng được Chúa ban hạnh phúc Nước Trời đời sau.

3. SUY NIỆM:

Tin mừng Gio-an hôm nay cho biết về công trình tạo dựng và cứu chuộc của Thiên Chúa như sau : “Lúc khởi đầu, đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa. Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa, nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tao thành” (Ga 1,1-3). Hôm nay, Hội Thánh muốn các tín hữu hiểu biết giá trị của công việc tạo dựng của Thiên Chúa và dạy chúng ta phải tích cực cộng tác với Chúa để hoàn thiện thiên nhiên như Chúa đã tự nhủ khi tạo nên loài người : “Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất” (St 1,26).

1) Loài người được trao quyền làm chủ thiên nhiên :

Sau khi sáng tạo trời đất, Thiên Chúa đã trồng một vườn cây ở Ê-đen về phía Đông, và đặt vào đó con người do ngài dựng nên… “Thiên Chúa khiến từ đất mọc lên đủ mọi thứ cây trông thì đẹp, ăn thì ngon, với cây trường sinh ở giữa vườn, và cây cho biết điều thiện điều ác” (St 2,9). Như vậy, Thiên Chúa không muốn con người ở không, nhưng đòi họ phải làm việc. Bởi vì : “Nhàn cư vi bất thiện”. Từ đây con người phải làm việc theo thánh ý Thiên Chúa và chỉ làm việc thành công khi biết cậy dựa vào ơn Chúa giúp như tác giả Thánh Vịnh đã viết : “Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công” (Tv 127,1).

2) Gương sáng lao động của thánh gia Na-da-rét :

Khi xuống thế làm người, Đức Giê-su đã được sinh ra trong một gia đình lao động nghèo khó tại làng Na-da-rét : Cha nuôi của Người là ông Giu-se hành nghề thợ mộc, mẹ đẻ là bà Ma-ri-a thì chăm lo công việc nội trợ phục vụ chồng con. Còn trẻ Giê-su thì ngoan ngoãn hiếu thảo vâng lời cha mẹ (x. Lc 2,51) và sẵn sàng chia sẻ với nỗi vất vả của cha mẹ, qui hướng mọi việc theo thánh ý Chúa Cha (x. Lc 22,41), và luôn làm vui lòng Cha (x. Lc 2,46; Ga 4,34).

Trong khi đi giảng đạo, Đức Giê-su đã đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa lành mọi thứ tật bệnh. Người đặt nặng việc phục vụ tha nhân hơn việc giữ Luật Mô-sê. Do đó Người đã chữa bệnh trong ngày sa-bát là ngày bị cấm làm việc. Người đã trả lời cho các đầu mục Do thái như sau : “Ngày sa-bát được làm ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày sa-bát” (Mc 2,27-28). Đức Giê-su cũng khẳng định vai trò ngang hàng với Thiên Chúa trong công việc như sau : “Cho đến nay Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc” (Ga 5,17).

3) Phải chăm chỉ làm việc để phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân :

Tin Mừng hôm nay thuật lại dụ ngôn của Đức Giê-su về những nén bạc nhằm dạy môn đệ phải cộng tác để làm lợi ra các nén bạc vật chất tinh thần được Chúa trao phó như sau:

Có một ông chủ sắp đi xa liền gọi các đầy tớ đến mà trao phó tài sản của ông: người này năm nén, người kia ba nén, người khác một nén tùy khả năng mỗi người. Điều ông muốn nơi các đầy tớ là sự chăm chỉ làm việc theo ý của ông và không chấp nhận sự lười biếng. Khi ông chủ trở về và đòi các đầy tớ tính sổ: người đã lãnh năm nén ba nén bạc đều đã làm lợi thêm gấp đôi nên được chủ khen thưởng. Trái lại, người lãnh một nén do sự bất tín và biếng nhác đã mang nén bạc đi chôn vì sợ hãi thay vì yêu mến ông chủ. Anh ta đã bị mất những gì đang có.

4) “Ai không chịu làm thì cũng đừng ăn !” :

Thời Giáo Hội sơ khai, tông đồ Phao-lô nghe biết có một số tín hữu ở Thê-xa-lô-ni-ca lười biếng làm việc vì nghĩ rằng sắp đến tận thế, ngài đã viết thư khuyên họ như sau : “Khi còn ở với anh em, chúng tôi đã chỉ thị cho anh em : ai không chịu làm thì cũng đừng ăn ! Thế mà chúng tôi nghe nói : trong anh em có một số người sống vô kỷ luật, chẳng làm việc gì, mà việc gì cũng xen vào. Nhân danh Chúa Giê-su Ki-tô, chúng tôi truyền dạy và khuyên nhủ những người ấy hãy ở yên mà làm việc, để có của nuôi thân. Phần anh em, hãy làm việc thiện, đừng sờn lòng nản chí !” (2 Tx 3,10-13). Rồi khi từ biệt các tín hữu ở Ê-phê-sô, Phao-lô đã chia sẻ kinh nghiệm về sự làm việc như sau : “Chính anh em biết rõ: những gì cần thiết cho tôi và cho những người sống với tôi, đôi tay này đã tự cung cấp. Tôi luôn tỏ cho anh em thấy rằng phải giúp đỡ những người đau yếu bằng cách làm lụng vất vả như thế, và phải nhớ lại lời Chúa Giê-su đã dạy: Cho thì có phúc hơn là nhận.” (Cv 20,33-35).

5) Chúng ta phải làm gì?

Trong Kinh Tiền Tụng lễ Mùng Ba Tết, Hội Thánh đã ca tụng Thiên Chúa như sau: “Cha còn sai Con Một giáng trần, để chia sẻ thân phận người lao động và thực hiện chương trình cứu độ muôn dân. Quả vậy, Người đã bắt chước Cha hoạt động không ngừng, nêu gương cho chúng con biết chuyên cần làm việc, không những để no cơm ấm áo, và góp phần xây dựng xã hội loài người, mà còn để làm rạng Danh Cha, và mở rộng Nước Trời ngay tại thế “.

Ông Tê-tu-li-a-nô dạy người tín hữu phải làm mọi việc với tinh thần đức Tin như sau: “Dù khi thức dậy hay đi ngủ, dù khi ăn hay khi làm một việc gì quan trọng, hãy bắt đầu bằng dấu thánh giá”. Thánh Phao-lô đã khuyên các tín hữu phải làm mọi sự qui hướng về Thiên Chúa: “Vậy, dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1 Cr 10,31). Mỗi người chúng ta hãy làm việc theo đúng luật và phù hợp với thánh ý Thiên Chúa khi biết sử dụng và làm lợi thêm ra những gì Chúa trao như: Sự sống, thời gian, tài năng, của cải, con cái… và cần ý thức rằng: chúng ta sẽ phải trả lẽ trước tòa phán xét sau này.

4. LỜI CẦU :

Lạy Chúa. Trong cuộc sống hằng ngày, đôi lúc chúng con vẫn còn lười biếng, chưa tích cực cộng tác với Chúa để chu toàn các nhiệm vụ được Chúa và Hội Thánh trao phó. Chúng con cũng thường kêu trách Chúa khi cầu xin mà không được như ý. Xin Chúa giúp chúng con biết sử dụng những gì trong tầm tay để phục vụ Chúa và tha nhân. Xin cho chúng con sau này được Chúa cho vào Nước Trời hưởng Tôn nhan Chúa muôn đời.- Amen.

 

1.  Ai không chịu làm thì cũng đừng ăn--tgphanoi

LỜI CHÚA: “Ơn riêng Thiên Chúa đã ban, mỗi người trong anh em phải dùng mà phục vụ kẻ khác. Như vậy, anh em mới là những người khéo quản lý ân huệ thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa. Ai có nói, thì nói lời Thiên Chúa; ai phục vụ, thì phục vụ bằng sức mạnh Thiên Chúa ban. Như thế, trong mọi việc, chúng ta tôn vinh Thiên Chúa nhờ Đức Giê-su Ki-tô” (1Pr 4,10-11).

CÂU CHUYỆN: SỰ TÍCH CON TRÂU ĐI CÀY

Ngày xưa, khi thế gian mới được tạo thành, Thượng Đế đã sai một vị thần từ trời xuống trần mang theo 1 bao hạt lúa và 1 bao cỏ để gieo trên mặt đất. Thượng Đế đã dặn đi dặn lại vị thần gieo trồng là phải gieo hạt lúa làm thức ăn cho loài người trước rồi mới được gieo cỏ làm thức ăn cho loài vật. Nhưng khi xuống tới trần gian, do mãi mê ngắm phong cảnh tuyệt đẹp khác lạ ở trần gian nên thần gieo trồng đã quên lời dặn để gieo cỏ trước lúa. Từ đó, cỏ không cần trồng mà vẫn mọc lên khắp nơi và thú vật không cần lao động vẫn có dư cỏ ăn, đang khi loài người muốn có gạo phải chịu vất vả cày bừa gieo trồng mà vẫn bị bữa no bữa đói.

Thượng Đế thấy vậy liền phạt tội vị thần gieo trồng tắc trách này phải bị hóa kiếp thành con Trâu để giúp loài người cày bừa trước khi gieo lúa và khi nào ăn hết cỏ mới được lên thiên đường. Nhưng rồi do cỏ mọc nhanh Trâu không sao ăn hết được, nên Trâu cứ phải tiếp tục chịu cảnh vất vả cày bừa để đền tội và không sao thoát được kiếp làm trâu để trở lại thiên đường.

Câu chuyện dạy chúng ta bài học: phải luôn làm việc cách nghiêm túc và chăm chỉ để có cái ăn như câu người ta thường nói: “Tay làm hàm nhai, tai quai miệng trễ”.

Hoặc như câu tục ngữ phương Tây: “Hãy làm hết sức mình rồi trời sẽ giúp”. Không có chuyện lười biếng không chịu làm việc và chỉ biết ngồi “há miệng chờ sung rụng”.

THẢO LUẬN: 1) Thánh Kinh dạy gì về lao động trí óc và tay chân? 2) Mỗi tín hữu chúng ta phải làm gì trong Năm Mới này?

SUY NIỆM

Có người nghĩ rằng con người làm bá chủ thiên nhiên và có toàn quyền làm chủ trái đất mà quên rằng Thiên Chúa mới là Đấng sáng tạo và làm chủ vũ trụ vạn vật.

Tin mừng Gio-an đã cho biết về công trình Thiên Chúa tạo dựng và cứu chuộc như sau: “Lúc khởi đầu, đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa. Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa, nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tao thành” (Ga 1,1-3).

Hôm nay, Hội Thánh muốn các tín hữu hiểu biết giá trị của công việc tạo dựng của Thiên Chúa và dạy chúng ta phải tích cực cộng tác với Thiên Chúa để góp phần hoàn thiện thiên nhiên như Chúa đã tự nhủ khi sáng tạo loài người: “Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất” (St 1,26).

1) Loài người được trao quyền làm chủ thiên nhiên:

Sau khi sáng tạo trời đất, Thiên Chúa đã trồng một vườn cây ở Ê-đen về phía Đông, và đặt vào đó con người do ngài dựng nên… “Thiên Chúa khiến từ đất mọc lên đủ mọi thứ cây trông thì đẹp, ăn thì ngon, với cây trường sinh ở giữa vườn, và cây cho biết điều thiện điều ác” (St 2,9). Như vậy, Thiên Chúa không muốn con người ở không, nhưng đòi họ phải làm việc. Bởi vì: “Nhàn cư vi bất thiện”. Từ đây con người phải làm việc theo thánh ý Thiên Chúa và chỉ làm việc thành công khi biết cậy dựa vào ơn Chúa giúp như tác giả Thánh Vịnh đã viết: “Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công” (Tv 127,1).

2) Gương sáng lao động của thánh gia Na-da-rét:

Khi xuống thế làm người, Đức Giê-su đã được sinh ra trong một gia đình lao động nghèo khó tại làng Na-da-rét: Cha nuôi của Người là ông Giu-se hành nghề thợ mộc, còn mẹ đẻ là bà Ma-ri-a thì chăm lo công việc nội trợ phục vụ chồng con. Còn trẻ Giê-su thì ngoan ngoãn hiếu thảo vâng lời cha mẹ (x. Lc 2,51) và luôn sẵn sàng chia sẻ nỗi vất vả của cha mẹ, và qui hướng mọi việc theo thánh ý của Chúa Cha (x. Lc 22,41), và luôn làm vui lòng Ngài (x. Lc 2,46; Ga 4,34).

Trong khi đi giảng đạo, Đức Giê-su đã đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng Nước Trời, kèm theo sự vất vả chữa lành mọi thứ tật bệnh. Người đặt nặng công việc phục vụ hơn là giữ Luật Mô-sê. Do đó Người đã chữa bệnh trong ngày sa-bát là ngày bị cấm làm việc. Người đã trả lời cho các đầu mục Do thái như sau: “Ngày sa-bát được làm ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày sa-bát” (Mc 2,27-28). Đức Giê-su cũng khẳng định vai trò ngang hàng với Thiên Chúa trong công việc như sau: “Cho đến nay Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc” (Ga 5,17).

3) Phải chăm chỉ làm việc để phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân:

Tin Mừng hôm nay thuật lại dụ ngôn của Đức Giê-su về những nén bạc nhằm dạy môn đệ phải cộng tác để làm lợi ra các nén bạc vật chất tinh thần được Chúa trao phó như sau:

Có một ông chủ sắp đi xa liền gọi các đầy tớ đến mà trao phó tài sản của ông: người này năm nén, người kia ba nén, người khác một nén tùy khả năng mỗi người. Điều ông muốn nơi các đầy tớ là sự chăm chỉ làm việc theo ý của ông và không chấp nhận sự lười biếng. Khi ông chủ trở về và đòi các đầy tớ tính sổ: người đã lãnh năm nén ba nén bạc đều đã làm lợi thêm gấp đôi nên được chủ khen thưởng. Trái lại, người lãnh một nén do bất tín và biếng nhác đã mang nén bạc của chủ đi chôn vì sợ hãi thay vì yêu mến chủ. Anh ta đã bị mất những gì đang có.

4) “Ai không chịu làm thì cũng đừng ăn!”:

Thời Giáo Hội sơ khai, tông đồ Phao-lô nghe biết có một số tín hữu ở Thê-xa-lô-ni-ca lười biếng làm việc vì nghĩ rằng sắp đến tận thế, ngài đã viết thư khuyên họ như sau: “Khi còn ở với anh em, chúng tôi đã chỉ thị cho anh em: ai không chịu làm thì cũng đừng ăn! Thế mà chúng tôi nghe nói: trong anh em có một số người sống vô kỷ luật, chẳng làm việc gì, mà việc gì cũng xen vào. Nhân danh Chúa Giê-su Ki-tô, chúng tôi truyền dạy và khuyên nhủ những người ấy hãy ở yên mà làm việc, để có của nuôi thân. Phần anh em, hãy làm việc thiện, đừng sờn lòng nản chí!” (2 Tx 3,10-13).

Rồi khi từ biệt các tín hữu ở Ê-phê-sô, Phao-lô đã chia sẻ kinh nghiệm về sự làm việc như sau: “Chính anh em biết rõ: những gì cần thiết cho tôi và cho những người sống với tôi, đôi tay này đã tự cung cấp. Tôi luôn tỏ cho anh em thấy rằng phải giúp đỡ những người đau yếu bằng cách làm lụng vất vả như thế, và phải nhớ lại lời Chúa Giê-su đã dạy: Cho thì có phúc hơn là nhận.” (Cv 20,33-35).

5) Chúng ta phải làm gì?

Trong Kinh Tiền Tụng lễ Mùng Ba Tết, Hội Thánh đã ca tụng Thiên Chúa như sau: “Cha còn sai Con Một giáng trần, để chia sẻ thân phận người lao động và thực hiện chương trình cứu độ muôn dân. Quả vậy, Người đã bắt chước Cha hoạt động không ngừng, nêu gương cho chúng con biết chuyên cần làm việc, không những để no cơm ấm áo, và góp phần xây dựng xã hội loài người mà còn để làm rạng Danh Cha, và mở rộng Nước Trời ngay tại thế “.

Ông Tê-tu-li-a-nô dạy người tín hữu phải làm mọi việc với tinh thần đức Tin như sau: “Dù khi thức dậy hay đi ngủ, dù khi ăn hay khi làm một việc gì quan trọng, hãy bắt đầu bằng dấu thánh giá”.

Thánh Phao-lô đã khuyên các tín hữu phải làm mọi sự để qui hướng về Thiên Chúa: “Vậy, dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1 Cr 10,31). Mỗi người chúng ta hãy làm việc theo đúng luật và phù hợp với thánh ý Thiên Chúa muốn cứu độ loài người khi sử dụng những gì Chúa trao như: Sự sống, thời gian, tài năng, của cải, con cái… và cần ý thức rằng: chúng ta sẽ phải trả lẽ trước tòa phán xét sau này.

LỜI CẦU:

Lạy Chúa, trong cuộc sống hằng ngày, đôi lúc chúng con vẫn còn lười biếng, chưa tích cực cộng tác với Chúa để chu toàn các nhiệm vụ được Chúa và Hội Thánh trao phó. Chúng con cũng thường kêu trách Chúa khi cầu xin mà không được như ý. Xin Chúa giúp chúng con biết sử dụng những gì trong tầm tay để phục vụ Chúa và tha nhân. Xin cho chúng con sau này được Chúa cho vào Nước Trời hưởng Tôn nhan Chúa muôn đời.- Amen.

 

38.       Xin Chúa sáng soi cho biết việc phải làm Ga 20, 19-31--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Để thánh hóa ba ngày Tết Nguyên Đán, Hội Thánh Việt Nam đã chỉ định Ngày mồng ba Tết, Ngày Cầu Mùa, để xin Chúa chúc lành cho công việc làm ăn được phát đạt.

Sau khi đã vui chơi ăn Tết, đến lúc phải bắt tay vào làm việc. Lời nguyện nhập lễ giao thừa chúng ta cúi xin Chúa rộng ban cho chúng ta một năm mới dồi dào phúc lộc và đầy lòng hăng hái làm việc lành để tôn vinh Danh Thánh.

Thánh Phaolô đã có một kinh nghiệm tuyệt vời khi chia sẻ: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm” (Rm 7,19). Điều này có nghĩa là, chúng ta không thể điều khiển được chính mình, chúng ta không đủ nghị lực để dám chắc mọi điều ta làm đều tốt.

Vì thế, Giáo Hội mời gọi chúng ta đọc “Kinh Sáng Soi” để xin Chúa hướng dẫn, nhất là thánh hóa trước khi bắt đầu việc làm trong năm mới. “Cúi xin Chúa sáng soi cho chúng con được biết việc phải làm, cùng khi làm xin Chúa giúp đỡ cho mỗi kinh mỗi việc chúng con, từ khởi sự cho đến hoàn thành đều nhờ bởi ơn Chúa. Amen”.

Lời kinh này chất chứa niềm tin tưởng và lòng cậy trông vững vàng của những người con Chúa.

Quả thật, khi chúng ta: “Xin Chúa sáng soi cho chúng con được biết việc phải làm” là chúng ta khơi lên niềm khát mong được nguồn ánh sáng của Chúa soi dẫn tâm trí, lời nói, việc làm… cho chính bản thân ta và đồng thời xin Chúa thánh hóa. Bởi đã có không ít lần chúng ta bắt đầu làm việc mà không biết phải làm gì hoặc phải bắt đầu từ đâu. Vì thế, khi giục lòng cậy trông xin ơn Chúa soi sáng là ta nhận biết về uy quyền của Thiên Chúa trong đời sống chúng ta suốt năm tháng ngày giờ.

Thiên Chúa đặt con người làm chủ

Sau khi đã tạo dựng vạn vật muôn loài, Thiên Chúa phán: “Chúng ta hãy dựng nên con người theo hình ảnh giống như Ta, để chúng làm chủ cá biển, chim trời, dã thú khắp mặt đất” (St 1, 26). Thế là “Thiên Chúa lấy bù đất nắn thành con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi và con người trở thành một vật sống. Thiên Chúa lập một vường tại Eđen về phía đông và đặt vào đó con người mà Ngài đã dựng nên” (St 2, …).

Việc con người được dựng nên từ bùn đất cho thấy tính chất yếu hèn, mỏng giòn của thân phận. Nhưng Thiên Chúa lại tạo nên con người và ban cho con người hình ảnh Chúa, cho con người được chia sẻ sự sống của Chúa, phú ban cho con người sự sống siêu nhiên và nhiều đặc ân như trí khôn minh mẫn, ý chí hướng thiện, không phải đau khổ và không phải chết và nhất là đặt con người làm chủ công trình Chúa sáng tạo, làm chủ chính mình trong ơn sủng mà Thiên Chúa đã ban cho.

Việc làm trong chương trình của Thiên Chúa

Công ăn việc làm là một phần trong chương trình của Thiên Chúa Sáng Tạo. Trong sách Sáng Thế, đề tài trái đất như là nhà – vườn được trao phó cho con người săn sóc và canh tác (x. St 2,8.15) đã đuợc diễn tả như sau: “Ngày Thiên Chúa làm ra đất và trời, chưa có bụi cây ngoài đồng nào trên mặt đất, chưa có đám cỏ ngoài đồng nào mọc lên, vì Chúa là Thiên Chúa chưa cho mưa xuống đất và không có người để canh tác đất đai, và Người làm trào lên từ đất nước của các con kinh để tưới” (St 2,4b-6). Vẻ đẹp của trái đất và phẩm giá của công ăn việc làm được làm ra để nối kết với nhau. Cả hai song hành cùng nhau: trái đất trở nên xinh đẹp, khi nó được con người canh tác.

Hình ảnh địa đàng, nơi con người là chủ, sống, cày cấy và canh giữ đất đai (x. St 2,4-15), cho thấy con người nguyên thủy sống trong mối hiệp thông thân tình với Thiên Chúa, hài hòa với chính mình, với nhau và với cả vạn vật chung quanh. Trong tình trạng hạnh phúc và công chính nguyên thủy đó, con người làm chủ chính mình, không phải đau khổ và không phải chết.

Lao động không là gánh nặng nhưng là sự cộng tác của con người với Thiên Chúa, nhằm kiện toàn chính bản thân và cả công trình tạo dựng của Thiên Chúa. Vì “khi chúng ta làm việc là chúng ta cộng tác với Đấng đang làm việc…bởi vì không có Chúa chúng ta không thể làm được gì” (Thánh Augustino – GL HTCG Số 2001). Ý thức được giá trị ấy, con người phải có nghĩa vụ sinh lời từ những ân phúc do Chúa tặng ban.

Làm gì với nén bạc Chúa trao

Tin Mừng hôm nay thuật lại câu chuyện ba người đầy tớ được ông chủ tin tưởng trao phó tài sản của mình trước khi ông bắt đầu một cuộc hành trình dài. Hai trong số họ đã làm rất tốt công việc của mình, vì họ đã làm sinh lợi gấp đôi cái nhận được. Nhưng người thứ ba thì không: “Người lãnh một nén, thì đi đào lỗ chôn giấu tiền của chủ mình” (Mt 25,18). Anh đào lỗ chôn giấu, vì sợ ông chủ, không biết làm thế nào để sinh hoa lợi. Đây có lẽ là trung tâm của dụ ngôn.

Việc gì đến cũng sẽ đến, chủ trở về, ông gọi các đầy tớ lại để tính sổ những gì ông đã trao phó cho họ. Ông hoan nghênh hai người đầu tiên, và tỏ sự thất vọng đối với người thứ ba. Trong thực tế, người thứ ba đã sai lầm khi chôn kín số tiền nhận được, anh hành xử như thể sẽ không có ngày anh sẽ bị hỏi về những việc anh đã làm. Với dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta cách sử dụng tốt những gì chúng ta đã được ban tặng.

Ý nghĩa của dụ ngôn này thật rõ ràng. Ông chủ trong dụ ngôn này là Chúa Giêsu, những đầy tớ là chúng ta và những nén bạc là tài sản mà Thiên Chúa đã giao phó cho chúng ta. Khi thông ban cho chúng ta sự sống, Thiên Chúa cũng phú ban cho chúng ta những nén bạc, có thể là khả năng nhiều hay ít. Các nén bạc tượng trưng cho những ơn ban của Chúa để phát triển cá nhân, đạo đức và tôn giáo. Các nén bạc ấy, Ngài đã ủy thác để chúng ta làm cho chúng sinh lời. Cái hố được đào dưới đất bởi người “đầy tớ xấu xa và biếng nhác” (Mt 25, 26). Chúa không yêu cầu chúng ta phải bảo quản ân ban của Ngài trong két sắt! Nhưng mong muốn rằng, chúng ta sử dụng nó để sinh lợi cho tha nhân.

Những nén bạc không đồng đều, kẻ nhiều người ít. Nhiều hay ít, số lượng không quan trọng. Quan trọng là cách mỗi người làm việc với những nén bạc đó. Chúa chú ý tới cố gắng của mỗi người. Bởi thế, người đã lãnh năm nén và người đã lãnh hai nén mà xử dụng tốt đều được thưởng như nhau, là “vào hưởng sự vui mừng của chủ” (x. Mt 25, 21.23). Bạc Chúa trao cho chúng ta phải ra sức làm việc để sinh lời. Việc sinh lời không hệ tại số lượng nén bạc được gia tăng, mà hệ tại tấm lòng của người tôi tớ, người ấy biết chủ tín nhiệm mình nên để đáp lại anh cũng hết lòng với chủ.

Chúng ta hãy cầu xin Chúa sáng soi, để chúng ta biết việc phải làm. Đồng thới luôn ý thức về sứ mạng Chúa trao ban là làm chủ, để chúng ta mến yêu lao động, cộng tác vào công trình cứu độ của Chúa. Chúng ta không làm việc một mình, nhưng có Chúa cùng hoạt động.

Xin Chúa chúc phúc cho công ăn việc làm của chúng con trong suốt cả năm mới này. Amen.

 

39. Thánh Hoá Công Việc Làm Ăn--Lm. Anthony Trung Thành

Ai cũng phải lao động: Người lao động bằng chân tay, kẻ lao động bằng trí óc. Thời gian lao động chiếm đa số thời gian chúng ta sống. Để việc lao động có ý nghĩa và đem lại hiệu quả hồn xác trong năm mới này, hôm nay mùng ba tết, ngày xin ơn thánh hoá công việc làm ăn, chúng ta cùng nhau suy niệm mấy điểm sau đây:

Trước hết, Thánh Kinh đề cập nhiều về vấn đề lao động: Theo sách Sáng thế, lao động có mặt ngay lúc ban đầu sáng tạo, trước khi con người phạm tội. Cựu ước coi lao động không phải là một công việc hèn hạ mà là vinh dự, là niềm tự hào.

Sang Tân ước, chính Đức Kitô đã lao động. Phần lớn thời giờ của Ngài dành cho lao động: Rao giảng, thăm viếng, chữa bệnh…Ngài dùng lao động để tham gia vào chính công cuộc của Tạo Hoá “Cha tôi làm việc liên lỉ. Tôi cũng vậy”(Ga 5,13). Cha nuôi Ngài (Thánh Giuse) là bác thợ mộc xứng danh với tước hiệu quan thầy của giới công nhân. Các môn đệ của Chúa hầu hết cũng là những người lao động.

Lao động theo Đức Kitô là thành phần không thể thiếu của cuộc sống con người. Trong các dụ ngôn, Ngài thường lấy từ đời sống lao động: Dụ ngôn người gieo giống, người chăn chiên, người đánh cá, người làm thuê vườn nho, người đàn bà xay bột…Các dụ ngôn đều đòi hỏi chăm chỉ, cần mẫn, trung thành, tỉnh thức. Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy: Tên đầy tớ biếng nhác đã chôn dấu nén bạc dưới đất nên bị quở mắng và nghiêm phạt. Những đầy tớ tài giỏi và trung thành thì được tuyên dương công trạng (x. Mt 25,14-30).

Tuy nhiên có những lời cảnh cáo chống lại sự quá bê tha với công ăn việc làm: “Anh em phải coi chừng, phải tránh mọi thứ tham lam, vì không phải dư của cải mà mạng sống con người được bảo đảm đâu”(Lc 12, 15). Vì thế, Mối lo về của cải đời này không được lấn át công việc nước Chúa: “Trước hết, hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho”(Mt 6,33).

Lao động là luật chung cho mọi người. Ai cũng phải làm việc, không được lười biếng, sống vô kỷ luật (1Tx 5,14). Ta chăm chỉ làm việc, sẽ bảo đảm đời sống tự lập và tự do. Thánh Phaolô mời gọi mọi tín hữu phải có nghề nghiệp làm ăn lương thiện, vì chính Ngài cũng đã làm như vậy. Ngài nói: “Đêm ngày chúng tôi đã làm việc để khỏi thành gánh nặng cho một người nào trong anh em”(x. 1Tx 2,9). Sống giữa môi trương ngoại giáo thường khinh rẻ lao động, các tín hữu được khuyến khích nên có một nghề trong tay: “Tôi khuyên những anh em sống thanh nhàn hãy lao động bằng chính chân tay mình. Như vậy lối sống của anh em được mọi người cảm phục”(x. 1Tx 4,10-12). Ngài còn nói: “Nếu có ai không chịu làm thì đừng có ăn. Tôi nghe nói: Trong anh em có người vô kỷ luật, chẳng làm gì cả. Mà việc gì của người ta, thì lại xỉa vô. Nhân danh Đức Kitô, tôi truyền dạy và khuyên họ hãy ở yên và làm việc, để có của nuôi thân”(x. 2 Tx 3, 10-12).

Lao động là một mệnh lệnh của Thiên Chúa để cộng tác vào công trình sáng tạo của Người. Thiên Chúa dựng nên con người có trí tuệ, có sức khoẻ, rồi giao cho con người làm chủ và hoàn thiện vũ trụ. Con chim biết làm tổ, con ong biết xây tầng làm mật nhưng bao nhiêu đời rồi chúng vẫn thế, cứ làm tổ xây tầng y hệt không có gì cải tiến. Còn loài người thì cải tiến không ngừng: Ban đầu con người ở hang, rồi nhà tranh vách đất, dần dần mới có nhà ngói, nhà tầng…Từ tiện nghi này đến tiện nghi khác: Ngày xưa đi lại chủ yếu là đi bộ, sau đó mới có xe đạp, rồi đến xe máy, ô tô, tàu thuỷ, tàu hoả, máy bay…Đó là vì con người có sứ mạng phát huy công trình sáng tạo của Thiên Chúa.

Lao động là để phát triển nhân cách và có của nuôi sống bản thân: “Lao động biểu hiện nhân cách của con người, nên sẽ là một tội nếu coi nó chỉ là một món hàng…(Mẹ và Thầy, 12). Thánh Phaolô đã tự lao động để nuôi sống mình, Ngài nói: “Chính anh em biết rõ: những gì cần thiết cho tôi và cho những người sống với tôi, đôi tay này đã tự cung cấp”(Cv 20,34). Về vấn đề này, chúng ta học nơi những người già thuộc đất nước Nhật Bản. Chính phủ Nhật Bản quy định tuổi nghỉ hưu là 65 tuổi, nhưng phần lớn người lao động Nhật Bản vẫn tiếp tục làm việc khi đã vượt quá độ tuổi này. Năm 2010 gần 1/4 dân số Nhật Bản có độ tuổi trên 65 và tỷ lệ này sẽ còn tiếp tục tăng lên trong các thập niên tới. Thay vì nghỉ ngơi và sống cùng con cháu, nhiều người cao tuổi Nhật Bản vẫn tiếp tục làm việc để có thể tự lo cho bản thân. Bên cạnh thói quen độc lập, lao động giúp người già tránh xa bệnh tật và nguy cơ lão hóa.

Lao động là để phục vụ lẫn nhau vì mọi người đều cần đến nhau: Người công dân cần đến người nông dân để có lương thực. Người nông dân cần đến người công nhân để có dụng cụ làm việc. Người tri thức, nhà bác học cần đến người lao động chân tay. Nói chung, toàn thể trái đất như một công trình vĩ đại, và toàn thể loài người như một đại gia đình trong đó mọi người góp một tay làm một việc để tương trợ lẫn nhau.

Lao động là để góp phần từ thiện, bác ái, giúp người cùng khổ: Thánh Phaolô nói: “Tôi luôn tỏ cho anh em thấy rằng phải giúp đỡ những người đau yếu bằng cách làm lụng vất vả như thế, và phải nhớ lại lời Chúa Giêsu đã dạy: Cho thì có phúc hơn là nhận”(Cv 20, 35). Chúa cho ta khoẻ mạnh, làm ăn may mắn, phát đạt ta phải nghĩ đến những người nghèo khổ, ốm đau, luôn gặp hoạn nạn…Đó là đức công bằng. Mahatama Gandhi đã nói rất chí lý rằng: “Theo quan niệm cá nhân tôi, tất cả chúng ta xét ý nghĩa nào đó đều là tên ăn cắp. Vì, ta có quá nhiều cái dưa thừa không cần thiết, trong khi người anh em quanh ta còn thiếu thốn đang cần đến nó. Chúng ta có vật nào đó không cần, thì vật đó chính là của ăn cắp mà chúng ta lấy từ những người nghèo cần đến nó”.

Tóm lại, dù muốn dù không ta cũng phải lao động. Để việc lao động đem lại lợi ích phần xác và phần hồn chúng ta phải ghi nhớ những điều trên đây. Đồng thời, Giáo Hội dạy ta mỗi buổi sáng thức dậy phải dâng những công việc mình làm trong ngày cho sáng danh Chúa: “Lạy Chúa, con xin dâng mọi việc con sẽ làm trong  ngày hôm nay cho sáng danh Chúa, xin Chúa phù hộ, gìn giữ con để con khỏi sa phạm tội lỗi gì mất lòng Chúa con”. Và ngày hôm đó, ta ý thức về công việc ta làm, nếu khi cảm thấy mệt nhọc thì nên dừng lại, thầm thì với Chúa một hai lời nguyện vắn tắt: “Lạy Chúa, con dâng cho Chúa công việc này vì lòng mến Chúa” hoặc khích lệ bản thân “chịu khó mà đền tội”. Thánh Vinh Sơn Phaolô trước khi làm bất cứ việc gì, Ngài đều tự hỏi: “Nếu Chúa Giêsu trong trường hợp tôi, Ngài sẽ làm gì ?” Và rồi, Thánh nhân làm hay không làm theo ý  hướng đó. Được như thế, tất cả mọi công việc chúng ta làm sẽ bớt nặng nhọc hơn và đem lại lợi ích cho hồn xác chúng ta.

Lạy Chúa, Chúa mời gọi chúng con tích cực làm việc để cộng tác vào chương trình cứu độ của Chúa, để có của nuôi thân và giúp ích cho những kẻ túng thiếu. Xin cho tâm hồn, ngôn ngữ và hành vi của chúng ta đều được thấm nhuần tinh thần của Chúa. Xin chia vui, chia buồn, chia công việc với chúng con. Để tất cả các công việc của chúng con làm trong năm Bính Thân này đều mưu ích cho hồn xác chúng  con và làm sáng danh Chúa. Amen.

  

************************************

Xin điềm lạ.

12/02 – Thứ Hai tuần 6 thường niên.

"Tại sao thế hệ này lại xin điềm lạ?".

 

Lời Chúa: Mc 8, 11-13

Khi ấy, các người biệt phái xuất hiện và bắt đầu tranh luận với Chúa Giêsu. Họ xin Người một điềm lạ trên trời để thử Người.

Người thở dài mà nói: "Tại sao thế hệ này lại xin điềm lạ? Quả thật, Ta bảo các ông hay: Sẽ chẳng cho thế hệ này điềm lạ nào". Rồi bỏ họ đó, Người lại xuống thuyền sang bờ bên kia.

 

Suy Niệm 1: Tìm một dấu lạ từ trời

(Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)

Ai cũng dễ bị hấp dẫn bởi cái lạ thường, cái khác thường.

Còn cái bình thường, như thường, thì ít hấp dẫn, lắm khi tẻ nhạt.

Chỉ cần nghe đâu đó có hiện tượng khác thường là người ta đổ xô đến,

lắm khi chẳng cần suy nghĩ để biết có thực không, có đáng tin không.

Đức Giêsu đã làm nhiều phép lạ trong mấy năm sứ vụ.

Những phép lạ đó không nhằm ra oai biểu diễn quyền uy,

cũng không nhằm lôi kéo sự tôn vinh của dân chúng.

Ngài đã từ chối nhảy xuống từ nóc đền thờ:

một cám dỗ làm điều ngoạn mục để thu hút quần chúng.

Ngài cũng từ chối xuống khỏi thập giá:

một hành vi đủ làm bẽ mặt những kẻ giết Ngài.

“Cứ xuống khỏi thập giá để chúng ta thấy và tin” (Mc 15, 32).

Đức Giêsu không mua niềm tin của đám đông bằng sự phản bội Cha.

Ngài đã ở lại trên thập giá như một người có vẻ thua cuộc…

Kitô giáo không đặt nền trên những chuyện dị thường, ma quái.

Đức Giêsu đã làm phép lạ chữa bệnh và trừ quỷ

vì Ngài chạnh lòng thương trước nỗi khổ đau của con người,

vì Ngài muốn đáp lại lòng tin quá lớn của bệnh nhân,

và vì Ngài muốn cho thấy Nước Thiên Chúa đã đến rồi.

Phép lạ lớn nhất của Đức Giêsu là Tình Yêu.

Các ông Pharisêu không phủ nhận chuyện Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ.

Sau này các thượng tế cũng nhìn nhận:

“Hắn đã cứu được người khác…” (Mc 15, 31).

Nhưng họ thấy điều đó vẫn không đủ hoành tráng và gây ấn tượng.

Họ đòi một dấu lạ từ trời, một dấu lạ lớn hơn để họ tin vào Ngài.

Đức Giêsu đã mạnh mẽ từ chối đòi hỏi ấy.

Làm sao chúng ta nhìn ra được những điều bình thường, nho nhỏ

mà Chúa vẫn làm cho chúng ta mỗi ngày?

Nhiều khi chúng ta vẫn đòi những điều lạ lùng hơn, lớn lao hơn.

Như người Pharisêu, chúng ta chẳng hề mãn nguyện.

Chúng ta vẫn muốn thử Thiên Chúa, bởi lẽ chúng ta không tin Ngài.

Xin cho tôi thấy được sự kỳ diệu của Tình Yêu

nơi những điều tưởng như là tự nhiên của cuộc sống.

 

Cầu nguyện:

Lạy Cha là Đấng Tạo Hóa nhân từ,

xin cho chúng con thấy sự hiện diện của Cha

trong vũ trụ vô cùng lớn, trong những hạt tử vô cùng nhỏ,

và trong bộ óc vô cùng phức tạp của con người.

Cha từ ái biết bao

khi ban cho chúng con một thế giới đầy mầu sắc.

Mầu xanh cỏ non, mầu hồng trái chín, mầu vàng mặt trời xế chiều.

Cha từ ái biết bao

khi ban cho chúng con một thế giới đầy âm thanh.

Tiếng suối róc rách, tiếng chim hót véo von,

tiếng gió rì rào qua kẽ lá.

Cha từ ái biết bao

khi ban cho chúng con một thế giới đầy hương thơm.

Hương của đồng lúa mới, của hoa bưởi, hoa cau,

hương thơm của nắng xuân dìu dịu.

Chúng con ca ngợi đôi tay khéo léo của Cha

khi tạo nên sự trong ngần ngời sáng của viên ngọc,

sự lộng lẫy phong phú của muôn loài hoa lan,

sự rực rỡ hài hòa nơi đôi cánh của loài bướm,

và nhất là sự đẹp đẽ cao cả nơi con người.

Dưới lòng đất, trên núi cao,

giữa biển sâu, trong rừng vắng,

chỗ nào chúng con cũng thấy bóng dáng Cha.

Xin cho chúng con

biết chung sống với thiên nhiên này

như một người bạn, một quà tặng Cha ban,

biết giữ gìn ngôi nhà trái đất

để nó khỏi hư hỏng, cạn kiệt,

và biết chia sẻ cho nhau bao tài nguyên còn tiềm ẩn.

Ước gì đến ngày cả trái đất, cả vũ trụ này

và muôn loài Cha đã dựng nên

được cùng với cả nhân loại chúng con

vui hưởng tự do và vinh quang trong Nước Cha. Amen.

 

Suy Niệm 2: Đòi một dấu lạ

(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Suy niệm:

Trong Tin Mừng Máccô, ngay sau phép lạ bánh hóa nhiều lần thứ hai,

các ông Pharisêu đã đến và tranh luận với Đức Giêsu.

Đơn giản họ muốn đòi Ngài làm một dấu lạ từ trời.

Có vẻ phép lạ nuôi đám đông vừa qua và những phép lạ trước đó

không đủ để thuyết phục họ tin vào con người Ngài.

Họ vẫn muốn thử thách Đức Giêsu (c. 1).

Chẳng trách Đức Giêsu đã thở dài não nuột

và quyết liệt từ chối một cách trịnh trọng: “Tôi bảo thật cho các ông biết:

thế hệ này sẽ không được cho một dấu lạ nào cả.” (c. 12).

Toàn bộ cuộc sống của Đức Giêsu đã là một dấu lạ từ trời rồi.

Trong nỗi muộn phiền, Ngài đặt câu hỏi với các ông Pharisêu:

“Tại sao thế hệ này lại đòi một dấu lạ?” (c. 12).

Hóa ra họ lại vấp vào tội của cha ông họ thời xưa trong hoang địa:

“Tổ phụ các ngươi đã từng thách thức

và dám thử thách Ta, dù đã thấy những việc Ta làm.

Suốt bốn mươi năm, dòng giống này làm Ta chán ngán.” (Tv 95, 8-11).

Bất chấp bao việc lạ Chúa làm (Ds 14, 10-12. 22),

dân Chúa hôm qua cũng như hôm nay vẫn không ngớt đòi thêm.

Các vị lãnh đạo Do Thái giáo đòi thêm vì họ không muốn tin Đức Giêsu.

Chính vì lòng họ chai đá, không muốn tin,

nên các phép lạ lớn lao trước mắt chẳng ảnh hưởng gì trên họ.

Họ mong một phép lạ lớn hơn nữa, rõ hơn nữa, ấn tượng hơn nữa.

Nhưng dù dấu lạ manna rơi xuống từ trời có xảy ra lại

thì chưa chắc họ đã tin Đức Giêsu.

Thay vì đòi Ngài làm thêm phép lạ để minh chứng,

con người cần ra khỏi sự chai đá của lòng mình

Cần có mắt sáng để thấy được ý nghĩa sâu xa của phép lạ.

Cũng như cần có tai tốt để hiểu được các dụ ngôn của Đức Giêsu.

và đi vào mầu nhiệm Nước Thiên Chúa (Mc 4, 11).

Phép lạ của Đức Giêsu không chỉ hấp dẫn vì yếu tố kỳ diệu, lạ lùng,

nhưng vì chúng khai mở Nước Thiên Chúa

và vén mở cho ta thấy Đức Giêsu là ai.

Chẳng phải chỉ người Do Thái mới đòi hỏi những dấu lạ (1 Cr 1, 22).

chúng ta cũng dễ đặt đức tin mình trên nền tảng dấu lạ, phép lạ.

Chúng ta không thích cái bình thường, cái đều đặn xảy ra mỗi ngày,

vì chúng ta không tin Chúa hiện diện và hoạt động trong thầm kín.

Thay vì quá tìm kiếm và đòi hỏi những dấu lạ,

chúng ta được mời gọi nhận ra những dấu chỉ của thời đại mình sống.

Qua những thao thức và khát vọng của con người hôm nay,

chúng ta nghe được tiếng gọi mời của Thiên Chúa.

Qua dấu chỉ của một thế giới đang biến chuyển từng ngày,

chúng ta thấy Giáo hội cần thích nghi và đáp ứng những nhu cầu mới.

Người Pharisêu không đọc được ý nghĩa những dấu lạ Đức Giêsu làm.

Chúng ta xin ơn đọc được những dấu chỉ của Thiên Chúa cho thời hôm nay.

 

Cầu nguyện:

Lạy Chúa, đây là ước mơ của con về thế giới:

Con mơ ước tài nguyên của cả trái đất này

là thuộc về mọi người, mọi dân tộc.

Con mơ ước

không còn những Ladarô đói ngồi ngoài cổng,

bên trong là người giàu yến tiệc linh đình.

Con mơ ước mọi người đều có việc làm tốt đẹp,

không còn những cô gái đứng đường

hay những người ăn xin.

Con mơ ước

những ngưòi thợ được hưởng lương xứng đáng,

các ông chủ coi công nhân như anh em.

Con mơ ước

tiếng cười trẻ thơ đầy ắp các gia đình,

các công viên và bãi biển đầy người đi nghỉ.

Lạy Chúa của con,

con ước mơ một thế giới đầy màu xanh,

xanh của rừng, xanh của trời, xanh của biển,

và xanh của bao niềm hy vọng

nơi lòng những ai ham sống và ham dựng xây.

Nếu Chúa đã gieo vào lòng con những ước mơ,

thì xin giúp con thực hiện những ước mơ đó. Amen.

 

Suy Niệm 3: Đức Tin

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Chúa Giê-su buồn và than phiền về thế hệ này. Họ chỉ đòi dấu lạ. Nhưng không có đức tin. Có đức tin thì không cần dấu lạ. Không có đức tin thì dấu lạ cũng vô ích. Nên Chúa quyết định: “Thế hệ này sẽ không được một dấu lạ nào cả. Rồi bỏ họ đó, Người lại xuống thuyền qua bờ bên kia”. Chúa Giê-su bỏ họ lại đó với sự cứng lòng chết chóc của họ. Chúa sang bờ bên kia của đức tin. Chỉ có đức tin mới nối kết được con người với Thiên Chúa.

Nhưng đức tin luôn gặp thử thách vì những khó khăn trong đời sống. Những thử thách Chúa gửi đến có mục đích thanh luyện đức tin, kiểm nghiệm đức tin và ban thưởng đức tin.

Người có đức tin có Thiên Chúa ở cùng. Nên vui tươi trong mọi hoàn cảnh. Vui tươi khi gặp khốn khó. “Anh em hãy tự cho mình là được chan chứa niềm vui khi gặp thử thách trăm chiều. Vì như anh em biết: đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn”. Vui tươi chấp nhận mọi thăng trầm thành bại trong đời. Vì biết rằng mọi sự mau qua. “Người anh em phận hèn hãy tự hào khi được Chúa nâng lên; còn người giầu có hãy tự hào khi bị Chúa hạ xuống, vì họ sẽ qua đi như hoa cỏ”. Vì thế người có đức tin không do dự. Luôn cầu xin ơn khôn ngoan để biết phân định trong đời sống. Nhờ đó sống trung tín trong mọi hoàn cảnh. Luôn trung tín (năm chẵn).

Người không có đức tin sống như không có Chúa. Ca-in giết em, tưởng Chúa không biết. Nên chối “Con không biết. Con là người giữ em con hay sao?”. Không có đức tin nên không chiến đấu để vượt qua cám dỗ. Dù đã được cảnh báo: “Nếu ngươi hành động không tốt, thì tội lỗi đang nằm phục ở cửa, nó thèm muốn người; nhưng ngươi phải chế ngự nó”. Không chế ngự được mình. Không có đức tin. Nên Ca-in sống trong buồn rầu, thất vọng. “Giờ đây ngươi bị nguyền rủa bởi chính đất đã từng há miệng hút lấy máu em ngươi,... Ngươi có canh tác đất đai, nó cũng không còn cho ngươi hoa màu của nó nữa” (năm lẻ).

Đức tin như thế là một cuộc vượt qua. Vượt qua những gì khả giác để thấy thế giới siêu nhiên. Vượt qua những giá trị mau qua để chiếm được vương quốc vĩnh cửu. Vượt qua được những cám dỗ rình rập. Vượt qua chính mình để đạt tới Chúa.

 

Suy Niệm 4: Dấu lạ của tình thương

(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Thánh Marcô đặt cuộc tranh luận giữa Chúa và những người Biệt phái, sau một loạt phép lạ Chúa Giêsu đã thực hiện khi bắt đầu sứ vụ công khai của Ngài. Phép lạ mới nhất là việc hóa bánh và cá ra nhiều cho đám đông theo Ngài. Những người Biệt phái đã bắt đầu nghe nói đến hoặc chính mắt họ chứng kiến các phép lạ của Chúa Giêsu, nhưng họ không tin.

Ở đây, chúng ta thấy rõ tương quan giữa phép lạ và lòng tin của con người. Chúa Giêsu không làm phép lạ như một trò ảo thuật; Ngài làm phép lạ trước hết là để biểu lộ quyền năng của Thiên Chúa, loan báo những dấu chỉ của Nước Trời và kêu gọi lòng tin nơi con người, do đó phép lạ là một lời mời gọi hơn là một cưỡng bách.

Khi những người Biệt phái đòi hỏi một dấu lạ, thái độ đó gợi lại sự thử thách mà người Do thái trong thời kỳ lang thang trong sa mạc cũng đã đòi hỏi nơi Thiên Chúa; thái độ đó cũng tương tự thái độ của Satan khi đến cám dỗ Chúa Giêsu. Thật thế, Satan đã bảo Chúa Giêsu hãy gieo mình xuống từ thượng đỉnh Ðền thờ như một cử chỉ vừa ngoạn mục vừa cả thể. Nhưng Chúa Giêsu đã mượn lời của chính Thiên Chúa nói với dân Do thái trong Cựu Ước để khước từ cám dỗ của Satan: "Ngươi chớ thử thách Thiên Chúa là Chúa của ngươi". Trước sự cứng lòng tin của những người Biệt phái, Chúa Giêsu đã khước từ mọi phép lạ, hay đúng hơn, Ngài không làm phép lạ nào để nói với họ hơn là cái chết của Ngài trên Thập giá, bởi vì chỉ cái chết ấy mới có thể lôi kéo mọi người về với Thiên Chúa.

Giáo Hội tiếp tục công cuộc cứu rỗi của Chúa Kitô; qua cuộc sống của mình, Giáo Hội cũng đang lặp lại những phép lạ của Chúa Giêsu như một lời mời gọi. Thế nhưng, đâu là dấu chỉ đáng tin cậy nhất mà Giáo Hội có thể chứng tỏ cho con người thời nay? Với những phát minh mỗi ngày một tân tiến, con người thời nay dường như vẫn đang tự hào thực hiện được nhiều phép lạ trong mọi địa hạt. Do đó, đối với con người ngày nay, không một dấu lạ nào đáng tin hơn nơi Giáo Hội cho bằng chính cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá mà Giáo Hội có thể lặp lại nơi chính mình. Giáo Hội chỉ đáng tin cậy khi Giáo Hội khước từ vẻ hào nhoáng bên ngoài, để mặc lấy thái độ vâng lời và phục vụ của Chúa Kitô; Giáo Hội chỉ đáng tin cậy khi Giáo Hội là thể hiện của một tình yêu vô vị lợi, một tình yêu của Ðấng sẵn sàng hy sinh và chết cho người mình yêu.

Dấu lạ cả thể mà có lẽ con người thời nay đang chờ đợi nơi Giáo Hội chính là dấu lạ của tình thương. Nói như Staline, thế giới này chỉ cần mười người như thánh Phanxicô Assisi, thì cũng đủ để thay đổi bộ mặt. Người ta mãi mãi vẫn nhớ khuôn mặt từ tốn, nhân hậu của một Gioan XXIII; hoặc chỉ như một ánh sao băng, người ta khó mà quên được nụ cười hiện thân của lòng nhân từ nơi Ðức Gioan Phaolô I; lòng hy sinh quảng đại của Mẹ Têrêsa Calcutta cũng là một dấu lạ cả thể mà con người thời đại đang tìm thấy nơi Giáo Hội.

Trong sự đóng góp khiêm tốn của mình trong cuộc sống hiện tại, xin Chúa cho mỗi Kitô hữu chúng ta luôn ý thức rằng mình đang là một dấu hỏi, một lời mời gọi đối với những người chưa nhận biết Chúa Kitô.

 

Suy Niệm 5: Chúa Giêsu thở dài

Những người Pha-ri-sêu kéo ra và bắt đầu tranh luận với Đức Giêsu, họ đòi Người một dấu lạ từ trời để thử Người. Người thở dài não nuột và nói: “Sao thế hệ này lại xin một dấu lạ? Tôi bảo thật cho các ông biết: Thế hệ này sẽ không được một dấu lạ nào cả.” (Mc. 8, 11-12)

Than vắn thở dài là chuyện thường tình. Có ai đã không nghe tiếng thở than của một người bệnh, một người hấp hối? Ai trong chúng ta đã không bao giờ buông ra tiếng thở dài não nuột? Khi lòng ta gặp chuyện trái ý, đau buồn, thất vọng, hoặc thân xác ta phải đau đớn, thở dài một tiếng, ta cũng cảm thấy được vợi bớt phần nào. Chính nỗi đau thái quá ta phải chịu, khiến ta bộc lộ những phản ứng thái quá. Làm như thế ta coi như tâm hồn được giải thoát phần nào.

Trong Phúc âm hôm nay, ta thấy Chúa Giêsu cũng phải buông tiếng thở dài. Người cảm thấy chán quá rồi. Ngay khi Người vừa mới ở dưới thuyền lên, những người Pharisiêu đã xấn lại và bắt đầu chất vấn Người. Họ đòi Người làm cho họ một dấu lạ từ tròi, bởi lẽ theo họ quan niệm, một vị ngôn sứ phải chứng tỏ mình có sứ mệnh Chúa trao bằng một dấu lạ từ trời. Họ đòi một điều như thế đó, khi mà Chúa Giêsu vừa mới làm phép lạ hóa bánh rá nhiều cho bốn ngàn người ăn no. Họ còn muốn được thấy từ trời đổ xuống một trận mưa những miếng bánh mì, như dấu chỉ có giá trị và chứng minh cho sứ mạng chân chính về ngôn sứ của Chúa Giêsu.Trước một yêu sách như thế, chứng tỏ họ cứng lòng và ngoan cố không tin, nên Chúa Giêsu phải thở dài não nuột.

Một thái độ cự tuyệt

Trong những điều kiện như vậy, để phản đối những người Pharisiêu, Chúa Giêsu tỏ một thái độ cự tuyệt, một sự từ chối thẳng thừng: “Thế hệ này sẽ khong được một dấu lạ nào cả”. Biết được lòng dạ xấu xa của họ, Chúa Giêsu không tranh luận, không tự biện bạch, Người từ chối điều họ yêu cầu. Và như để tỏ rõ lập trường hơn nữa, Người nói là làm ngay: Người để họ đứng trơ ra đó, xuống thuyền, đi ngược chiều về phía bờ bên kia. Nguyên sự có mặt của họ cũng đủ làm cho Người bực mình rồi, nên Người muốn thoát đi cho mau lẹ. Chúa Giêsu tỏ ra rất cương nghị, Người tàn nhẫn xua đuổi những kẻ đến trò chuyện với mình. Vì đây là trường hợp hi hữu, trái với thái độ thường xuyên của Người là vốn niềm nở tiếp đón và hiền từ với mọi người: xưa nay Người vẫn hay để cho dân chúng chen lấn xô đẩy, trẻ em “quấn quýt”, bệnh nhân tràn ngập.

Là những tín hữu, chúng ta có thể bắt chước thái độ ngoan cường, cứng rắn đó của Chúa không? Tất nhiên là có, khi danh dự của Chúa – chứ không phải của ta – bị coi thường. Người ta vẫn tố cáo là Kitô giáo đã làm cho con người trở nên nhu nhược, mất tính nam nhi, ta cần phải chứng minh điều ngược lại, khi biết tỏ thái độ cương quyết, lúc cần phải tỏ. Người Kitô hữu là người có khả năng chọn lựa, thì cũng phải có khả năng từ chối. Nhưng người Kitô hữu cũng phải biết cho người ta những dấu lạ ở trần gian khi người ta đòi mình những dấu lạ từ trời.

 

Suy Niệm 6: Cần có đức tin để đón nhận tình thương

Chúng ta thấy trong Tin Mừng, gần như đã trở thành quy luật để Đức Giêsu thi hành phép lạ, đó là đức tin và lòng mến. Nếu không có đức tin thì ắt không thể có lòng mến, mà không có lòng mến thì làm sao có thể hoán cải? Như thế sẽ không bao giờ có phép lạ!

Hôm nay, bài Tin Mừng cho thấy những người Pharisêu cũng đến để nghe Đức Giêsu giảng và họ đã chứng kiến rất nhiều phép lạ cả thể Đức Giêsu đã làm. Một trong những phép lạ mới nhất, đó là phép lạ hóa bánh ra nhiều cho bốn ngàn người từ bẩy chiếc bánh và mấy con cá nhỏ. Tuy nhiên, thay vì tin vào quyền năng của Thiên Chúa, thì họ lại trai cứng và tiếp tục đi vào vết xe đổ như Tổ tiên họ đã thách thức Thiên Chúa trong Samạc; hay đi theo con đường của Satan khi chúng thử thách Đức Giêsu sau khi Ngài ăn chay 40 đêm ngày! Trước sự chai lỳ và u mê do thói kiêu ngạo, ghen tỵ và sự giả dối nơi họ, nó đã làm cho lương tâm những người Pharisêu bị phủ lấp và không còn nhạy bén để nhận ra tình thương của Thiên Chúa ngang qua Đức Giêsu. Vì thế, Đức Giêsu đã phải thốt lên: “Sao thế hệ này lại xin một dấu lạ?” Và Ngài đã không làm phép lạ theo như yêu cầu của những người Pharisêu, bởi vì họ không tin và phép lạ không thể diễn ra trong sự thách thức và cưỡng bách được.

Trong đời sống đức tin của chúng ta thường ngày cũng vậy. Nhiều khi cũng thách thức Thiên Chúa khi chúng ta đem Ngài ra để so sánh với ông nọ, thần kia; hoặc có lúc chúng ta cũng ra những điều kiện cho Ngài khi nhủ rằng: nếu Chúa có mặt thực sự, thì Chúa làm cho con được thế này hay thế kia thì con sẽ tin? Những lúc như thế, chúng ta đã bị sự kiêu ngạo thúc bách và khi đó trong ta chỉ còn những yêu cầu phát xuất từ sự tham vọng và thực dụng thuần túy mà không hề nghĩ đến ơn cứu chuộc là hạnh phúc vĩnh cửu!

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho con ơn khiêm tốn và lòng yêu mến Chúa để chúng con nhận ra tình thương của Thiên Chúa và luôn sống trong sự an bài của Ngài. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 7: Cần phải có lòng tin

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Để được Chúa Giêsu làm phép lạ, cần phải có lòng tin.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, những người Pha-ri-siêu đòi hỏi Chúa một dấu lạ từ trời nhưng Chúa đã thở dài não ruột và Chúa bỏ họ mà đi.

Con nhìn thấy họ có thái độ thử thách Chúa. Họ không khác ma quỷ thử thách Chúa nơi hoang địa. Họ còn giống những người ở Na-da-rét thách thức Chúa làm phép lạ như đã xảy ra ở Ca-phác-na-um. Họ thử thách Chúa như những thượng tế và luật sĩ thách thức Chúa xuống khỏi thập giá để cứu lấy mình.

Những thái độ trịnh thượng dù ở thời đại nào và dù ở đâu đi nữa cũng đều là những thái độ bất tín và tự cao. Con biết Chúa không thích những thái độ đó. Vậy mà, lạy Chúa, con dễ tự cao tự đại. Con cũng dễ thử thách Chúa lắm. Những khi cầu nguyện, con hay đặt điều kiện cho Chúa. Con thường đòi hỏi Chúa phải ban theo ý con. Rất hiếm khi con cầu nguyện như người con thảo khiêm cung phó thác…

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đầy lòng từ bi và thương xót, xin Chúa cho con biết tin vào Chúa một cách vô điều kiện. Để sống trên đời này, cần phải tin nhau, huống nữa là sống đời làm con Chúa. Xin cho con hoàn toàn tin Chúa. Con muốn tin vào Chúa để có thể nói chuyện với Chúa và thực sự gắn bó với Chúa. Khi ấy Chúa chẳng còn tiếc gì với con. Có gì buồn cho bằng con thử thách Chúa để Chúa phải bỏ con mà đi ?

Lạy Chúa Giêsu, xin cứu giúp con. Xin cho con mỗi ngày càng yêu mến Chúa hơn. Xin cho con biết trọn vẹn tin yêu phó thác nơi Chúa. Amen.

Ghi nhớ: “Tại sao thế hệ này lại xin điềm lạ ?”

 

Suy Niệm 8: Một dấu lạ từ trời

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Một nhà thám hiểm Tây phương lạc hướng giữa sa mạc. Nguồn lương thực và nước uống đã khô cạn. Ông lê từng bước mệt mỏi trên cát nóng... Thình lình ông nghe tiếng suối róc rách và thấy trước mặt mình một ốc đảo xanh tươi. Thế nhưng, với lối suy nghĩ khoa học của người phương Tây, ông tự nghĩ: “Đây chỉ là một ảo ảnh... trong thực tế trước mắt ta làm gì có nước và cây cối”. Nghĩ như vậy, ông lại tuyệt vọng lê bước... Không bao lâu sau đó, hai người du mục tình cờ đi qua. Họ bắt gặp một xác người. Một người thốt lên “Chỉ còn hai bước nữa là người này đã có thể tới ốc đảo và tha hồ uống nước cũng như thưởng thức những trái ngọt cây lành. Tại sao lại có chuyện thế này?”. Nhưng người bạn lắc đầu giải thích “Ông ta là một người phương Tây. Thế giới của chúng ta đầy ánh sáng và mầu nhiệm, nhưng con người lại dùng bàn tay nhỏ bé của mình để che đậy chúng.

Thảm trạng của con người thời đại: Con người có nhiều kiến thức hơn, nhưng lại dùng bàn tay nhỏ bé của mình để che đậy ánh sáng và mầu nhiệm... con người không còn biết đọc ra những dấu chỉ của thời đại” (Trích “Mỗi ngày một tin vui”).

Suy niệm

Theo văn mạch của Tin Mừng Maccô, Chúa Giêsu vừa làm nhiều phép lạ trong đó có những phép lạ lớn (x. Mc 4,35-5,43): Dẹp yên bão táp, trục xuất quỷ ám ra khỏi người ta, chữa một bà loạn huyết, làm cho đứa con gái ông Giairô sống lại. Phép lạ hóa bánh ra nhiều lần thứ hai (x. Mc 8,1-10). Thế mà những người pharisiêu vẫn chưa tin Ngài, họ lại thách Ngài làm một “dấu lạ từ trời”, nghĩa là một phép lạ xuất phát từ chính Thiên Chúa.

Họ không chú ý tìm chân lý nhưng chỉ để thử Ðức Giêsu, họ thiếu thiện chí, họ không tin là vì họ ngoan cố. Nơi lòng dạ những người cứng tin này, Ðức Giêsu buồn lòng, Ngài không làm gì được cho họ.

Trong phần tiếp theo của Tin Mừng Maccô, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục làm thêm những phép lạ khác. Những phép lạ đó không phải làm cho những người pharisiêu cứng lòng, nhưng cho những người tin. Phép lạ không sinh ra đức tin mà chỉ là những dấu chỉ dẫn chúng ta tới đức tin. Bởi thế, nếu sống đạo mà chỉ quan tâm tới phép lạ chưa phải là sống đạo thật. Sống đạo thật là sống bằng đức tin.

Xin cho chúng ta biết tin vào Chúa một cách vô điều kiện, đức tin soi chiếu từng bước chân đi vào đời.

Ý lực sống: “Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con” (Lc 17,5).

 

Suy Niệm 9: Biệt phái xin Chúa phép lạ từ trời

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

1. Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều (8,1-10) lần thứ hai ở phía đông biển hồ Bétsaiđa, Chúa Giêsu cùng môn đệ xuống thuyền sang phía tây hồ. Nhưng vừa cập bến được ít lâu, một nhóm biệt phái, có cả nhóm sađucêu nữa, kéo nhau đến rình mò , tranh luận và thử thách Ngài.

Trước đó Người cũng đã làm nhiều phép lạ, trong đó có những phép lạ lớn (Mc 4,35 – 5,43: dẹp yên bão táp, trục xuất quỉ ám  ra khỏi người ta, chữa một bà loạn huyết, làm cho đứa con gái ông Giairô sống lại). Thế mà những người biệt phái vẫn chưa tin Người. Hôm nay họ lại thách thức Người làm một “dấu lạ từ trời” nghĩa là một phép lạ phát xuất từ chính Thiên Chúa.

2. “Người thở dài não nuột mà nói...”

Thực ra những phép lạ Người làm, nhất là những phép lạ lớn vừa kể trên, đã đủ minh chứng Người là Đấng có quyền phép “từ trời”. Sở dĩ họ không tin là chỉ vì họ ngoan cố. Bởi đó Chúa Giêsu nói  sẽ chẳng cho họ một dấu lạ nào nữa .

Trong phần tiếp theo, Tin Mừng Mc vẫn tiếp tục cho thấy Chúa Giêsu làm thêm nhiều phép lạ khác. Tuy nhiên những phép lạ đó cũng chẳng phải làm cho  những người biệt phái ấy. Nói cách khác, những phép lạ ấy chỉ có ý nghĩa và giá trị cho những người khác chứ không cho những người biệt phái cứng lòng.

3. Vấn đề phép lạ - dấu lạ.

Đành rằng trong công cuộc truyền giáo, Chúa ban cho một số chứng nhân của Người có khả năng làm một số phép lạ hay dấu lạ để minh chứng lời rao giảng và nâng đỡ niềm tin cho người nghe, nhưng phép lạ hay dấu lạ không là điểm chính yếu và đóng vai trò quyết định cho việc đón nhận Lời Thiên Chúa. Vì thế, sẽ tầm thường hóa niềm tin và hậu quả là sự hời hợt không có chiều sâu cũng như không có sự yêu mến đích thực.

Thánh Phaolô từng dạy rằng, đã trông thấy rồi mới tin thì không còn là đức tin nữa. Nói cách khác, chỉ là sự bất đắc dĩ phải chấp nhận khi chuyện đã tỏ tường mà thôi. Thiên Chúa ban phép lạ hay dấu lạ là do lòng nhân hậu của Người và có giá trị trong chương trình cứu độ, chứ không chiều theo sở thích của con người đòi hỏi Người phải ban dấu lạ điềm thiêng.

Thật vậy, một đức tin trưởng thành không hệ tại ở dấu lạ, mà kiên trì trong thử thách và sự trung tín bền vững vào Chúa. Đó mới là điều hữu ích cho linh hồn tín hữu.

4. Những phép lạ kể trên  đã đủ chứng minh Chúa Giêsu là Đấng có quyền phép từ trời rồi. Thế nhưng, họ không tin là vì họ ngoan cố, bởi đó Ngài nói sẽ chẳng cho họ một dấu lạ nào nữa.

Chúng ta phải nói lại, phép lạ Chúa như vậy, Tin Mừng hôm nay cho thấy phép lạ “không sinh ra đức tin” mà chỉ là “dấu chỉ dẫn người ta tới đức tin”. Bởi thế, Sống đạo mà chỉ quan tâm tới phép lạ (như Lộ Đức, Fatima, La Vang...) thì chưa hẳn là sống đạo thật. Sống đạo thật là sống bằng đức tin. Ngược lại, người có đức tin thật thì nhìn thấy phép lạ trong tất cả mọi việc, kể cả việc nhỏ và tầm thường nhất.

5. Niềm tin thì chúng ta dễ có, và có thể tạo ra niềm tin, còn Đức tin thì phải đến từ Thiên Chúa, đó là một hồng ân Thiên Chúa ban cho con người, chứ không phải con người tạo ra Đức tin. Trong hành vi đức tin, Thiên Chúa vừa cho có ánh sáng, vừa cho bóng tối. Đức tin, vì thế đòi hỏi phải có sự khó nhọc, chọn lựa, hy sinh và dấn thân. Một Đức tin mà đòi hỏi một chứng cớ rõ ràng, thì không phải là Đức tin nữa. Vả lại, Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa của tình thương, mà trong tình yêu thì không có sự ép buộc hay cưỡng bức, nhưng là sự tự do, tự nguyện.

6. Truyện: Hãy cho tôi thấy Thiên Chúa.

Một ông vua thông minh tài giỏi, nhưng rất ngạo ngược. Ngày kia, ông bèn nảy ra ý kiến hiểm độc. Ông cho triệu các nhà lãnh đạo tôn giáo đến và ra lệnh trong một tuần lễ phải cho ông thấy được Thiên Chúa, nếu không sẽ bị chém đầu.

Thật là một đòi hỏi nan giải và hóc búa. Làm sao có thể thực hiện cho nhà vua được? Vì không thiếu phép lạ, nhưng phép lạ không phải để đáp lại cái ý muốn điên rồ và thách  thức ấy.

Biết được nỗi lo âu ấy, một kẻ chăn chiên đến xin các vị lãnh đạo  cho phép để chỉ cho nhà vua thấy Thiên Chúa. Họ không tin tưởng lắm, nhưng cũng đành lòng chấp nhận.

Buổi sáng ngày ấn định, anh chăn chiên dẫn nhà vua đến cánh đồng cỏ nơi anh thường thả đàn vật. Họ cùng nhau đi bộ. Lúc đến nơi thì mặt trời đã gần lên tới đỉnh đầu. Người chăn chiên đưa tay chỉ mặt trời và nói: “Tâu bệ hạ, xin hãy nhìn”.

Nhà vua tức giận quát lớn: “Thằng điên! Ngươi muốn ta mù sao? Ai có thể nhìn vào mặt trời chói chang như vậy”?

Lúc ấy, người chăn chiên liền quì gối xuống trước mặt vua mà nói: “Muôn tâu bệ hạ, với một vật Chúa làm ra và ánh sáng của nó còn chói chang, đến nỗi bệ hạ chẳng dám nhìn, thì làm sao bệ hạ có thể nhìn thấy chính Thiên Chúa được?

 

Suy Niệm 10: Ý nghĩa và giá trị của phép lạ

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

A. Hạt giống...

Chuyện này xảy ra sau phép lạ Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều lần thứ hai. Trước đó Ngài cũng đã làm nhiều phép lạ trong đó có những phép lạ lớn (Mc 4,35—5,43 dẹp yên bão táp, trục xuất quỷ ám ra khỏi người ta, chữa một bà loạn huyết, làm cho đứa con gái ông Giairô sống lại). Thế mà những người pharisêu vẫn chưa tin Ngài. Hôm nay họ lại thách Ngài làm một "dấu lạ từ trời" nghĩa là một phép lạ xuất phát từ chính Thiên Chúa.

Thực ra những phép lạ Ngài làm, nhất là những phép lạ lớn vừa kể trên, đã đủ chứng minh Ngài là Đấng có quyền phép "từ trời". Sở dĩ họ không tin là chỉ vì họ ngoan cố. Bởi đó Chúa Giêsu nói sẽ chẳng cho họ một dấu lạ nào nữa cả. Trong phần tiếp theo, Tin Mừng Mc vẫn tiếp tục cho thấy Chúa Giêsu làm thêm những phép lạ khác. Tuy nhiên những phép lạ đó cũng chẳng phải làm cho những người pharisêu ấy. Nói cách khác, những phép lạ ấy chỉ có ý nghĩa và giá trị cho những người khác chứ không cho những người pharisêu cứng lòng.

B.... nẩy mầm.

1. Bài Tin Mừng này cho ta thấy rõ phép lạ không sinh ra đức tin mà chỉ là những dấu chỉ dẫn người ta tới đức tin. Bởi thế, sống đạo mà chỉ quan tâm tới phép lạ (Lộ Đức, Fatima, Cha Diệp v.v) chưa hẳn là sống đạo thật. Sống đạo thật là sống bằng đức tin.

2. Ngược lại, người có đức tin thật thì nhìn thấy phép lạ trong tất cả những việc Chúa làm, kể cả những việc nhỏ nhoi và tấm thường nhất.

3. Bà nội và cháu trai 5 tuổi buổi sáng đi dạo ở vùng thôn quê, sương giá nhuộm trên cành lá tạo cho chúng màu sáng lấp lánh thật quyến rũ.

Bà ngạc nhiên, nhìn lên sườn đồi trong màu vàng đỏ tươi lấp lánh: "Hãy nghĩ xem, Thiên Chúa đã sơn tất cả cảnh đó".

Cháu đồng ý: "Vâng, và Ngài đã thực hiện với cánh tay trái của Ngài".

- Cháu muốn nói gì?

- Ồ, vào ngày Chủ nhật, chúng con được dậy rằng Chúa Giêsu đang ngồi bên tay hữu Thiên Chúa. (Góp nhặt)

4. "Chúa Giêsu nói: ”Thế hệ này sẽ không được một dấu lạ nào cả" (Mc 8,12)

Sáng nay, lời của ông thấy dạy chính trị làm mình rất khó chịu: "Tôi thấy cũng lạ, đã tin là có Chúa, có Mẹ, làm sao các nóc nhà thờ trồng cột thu lôi làm gì. Chẳng lẽ cha mẹ phá huỷ con cái mình sao?" Và mọi người bàn tán xôn xao.

Khi người ta tôn thờ vật chất và tôn vinh con người cách quá đáng thì dễ đi tới kết luận tôn giáo là mê tín, hoang tưởng. Họ khó mà có được lòng khiêm tốn để nhận biết Thiên Chúa, và dễ trở thành những con người độc tôn. Vô ích nếu chỉ đôi co và biện lý.

Dứt khoát tôi không thể chỉ cho họ thấy một Thiên Chúa nhân hậu khi tôi chưa sống như một người nhân hậu.

Lạy Chúa, xin cho con biết tin vào Chúa một cách vô điều kiện, để với niềm tin này con sẽ giúp người khác nhận ra Chúa. (Epphata)

 

Suy Niệm 11: Phép lạ từ trời

(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

Chuyện này xảy ra sau khi phép lạ Chúa Giêsu hoá bánh ra nhiều lần thứ hai. Trước đó, Ngài cũng làm nhiều phép lạ, trong đó có những phép lạ lớn như dẹp yên bão táp, trục xuất quỷ ám ra khỏi người ta, chữa một người đàn bà loạn huyết, làm cho đứa con gái ông Giairô sống lại (Mc 4,35.5,43) vậy mà những người Pharisêu vẫn chưa tin Ngài. Hôm nay, họ lại thách thức Ngài làm một “phép lạ từ trời”.

Thực ra những phép lạ Chúa làm, nhất là những phép lạ lớn vừa kể đã đủ chứng minh Ngài là đấng có quyền phép “từ trời” rồi. Thế nhưng, họ không tin là chỉ vì họ ngoan cố. Bởi đó Chúa Giêsu nói sẽ chẳng cho họ một dấu lạ nào nữa.

Phép lạ Chúa làm chỉ có ý nghĩa và có giá trị cho những người thành tâm thiện chí chứ không cho những người Pharisêu cứng lòng.

1. Như vậy, theo bài Tin Mừng hôm nay thì chúng ta thấy, phép lạ không sinh ra đức tin mà chỉ là những dấu chỉ dẫn người ta tới đức tin. Bởi thế, sống đạo mà chỉ quan tâm tới phép lạ (như Lộ Đức, Fatima, cha Diệp) thì chưa hẳn là sống đạo thật. Sống đạo thật là sống bằng đức tin.

Ngược lại, người có đức tin thật thì nhìn thấy phép lạ trong tất cả việc Chúa làm, kể cả những việc nhỏ nhoi và tầm thường nhất.

Bà nội và cháu trai 5 tuổi, buổi sáng đi dạo ở vùng thôn quê, sương giá nhuộm trên cành lá tạo cho chúng màu sáng lấp lánh thật quyến rũ.

Bà ngạc nhiên nhìn lên sườn đồi trong màu vàng đỏ tươi lấp lánh:

- Hãy nhìn xem, Thiên Chúa đã sơn tất cả các cảnh đó.

Cháu đồng ý:

- Vâng, và Ngài đã thực hiện với cánh tay trái của Ngài.

- Cháu muốn nói gì?

- Ồ! Vào ngày Chúa nhật, chúng con được dạy rằng: Chúa Giêsu đang ngồi bên hữu Thiên Chúa.(Góp nhặt)

Một ông vua thông minh tài giỏi, nhưng cũng chẳng kém phần ngạo ngược. Ngày kia, ông bỗng nảy ra một ý kiến hiểm độc. Ông cho triệu các nhà lãnh đạo tôn giáo đến và ra lệnh trong một tuần lễ phải làm thế nào cho ông thấy được Thiên Chúa, nếu không sẽ bị ông chém đầu.

Thật là một đòi hỏi nan giải và hóc búa. Làm sao có thể thỏa mãn được đòi hỏi càn dở của nhà vua đây? Không thiếu những phép lạ, nhưng phép lạ không phải để đáp lại cái ý muốn điên rồ và thách thức ấy.

Biết được nỗi lo âu của vị lãnh đạo, một kẻ chăn chiên đến xin các ngài cho phép để anh ta được chỉ cho nhà vua thấy Thiên Chúa. Các vị lãnh đạo không tin tưởng ở anh ta, nhưng trong hoàn cảnh đang bế tắc, cũng chẳng biết làm sao hơn được.

Buổi sáng ngày ấn định, anh chăn chiên dẫn nhà vua đến cánh đồng cỏ nơi anh thường thả đàn vật. Họ cùng nhau đi bộ. Lúc đến nơi thì mặt trời đã gần lên tới đỉnh đầu. Người chăn chiên đưa tay chỉ mặt trời và nói:

- Tâu bệ hạ, xin hãy nhìn.

Nhà vua tức giận quát lớn:

- Thằng điên! Ngươi muốn ta mù sao? Ai mà có thể nhìn thẳng vào mặt trời chói chang như vậy?

Lúc ấy, người chăn chiên liền quỳ xuống trước mặt vua mà nói:

- Muôn tâu bệ hạ, với một vật Thiên Chúa làm ra và ánh sáng của nó còn chói chang, đến nỗi bệ hạ chẳng dám nhìn, thì làm sao bệ hạ có thể nhìn thấy chính Thiên Chúa được?

Ngay lúc ấy nhà vua đã nhìn thấy Thiên Chúa, không phải bằng đôi mắt, nhưng bằng đức tin.

2. Vũ trụ muôn màu muôn vẻ, vạn vật muôn sắc muôn hương. Tất cả là hình ảnh rạng ngời của Thiên Chúa. Mỗi vật diễn tả một nét đẹp của Đấng tạo thành. Mỗi hữu thể là một chứng từ về Đấng Hiện Hữu tối cao.

Thế nhưng, còn biết bao người chưa nhìn ra được Thiên Chúa.

Thiên Chúa hiện diện giữa muôn loài và trong từng tạo vật Ngài đã dựng nên. Thế mà đa số nhân loại không nhận ra Ngài. Có người lại cố ý làm ngơ, coi như không hề có Thiên Chúa. Người khác lại muốn tìm Thiên Chúa ở mãi đâu xa xôi.

Chúng ta không thể nào quên được Lời Chúa Giêsu quả quyết: “Ai yêu mến Thầy sẽ được Cha Thầy yêu thương và chúng ta sẽ đến cư ngụ trong người ấy”

Thánh Augustinô không ngừng than thở: “Lạy Chúa, Chúa ở trong con, và con lại cứ đi tìm Chúa bên ngoài”.

Khi xác tín vào sự hiện diện của Chúa nơi mình và gặp được Chúa trong nội tâm, chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra Chúa khắp nơi, trong mọi tạo vật.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con thấy Chúa thật lớn lao,

để đối với con, mọi sự khác trở thành bé nhỏ.

Xin cho con thấy Chúa thật bao la,

để cả mặt đất cũng chưa vừa cho con sống.

Xin làm cho con thật đầy ắp,

để ngay cả một ước muốn nhỏ

cũng không còn có chỗ trong con.Xin làm cho con thật lặng lẽ,

để con chỉ còn loan báo Chúa mà thôi.

Xin Chúa ngự trong con thật sống động,để không phải là con,

mà là chính Ngài đang sống. Amen. 

  

Bài cùng chuyên mục:

+ Chúa Nhật 10/11/2024 – CHÚA NHẬT 32 THƯỜNG NIÊN năm B. – Hai đồng tiền của bà góa nghèo. (09/11/2024 10:00:00 - Xem: 3,763)

CHÚA NHẬT 32 THƯỜNG NIÊN năm B.

Thứ Bảy 09/11/2024 – Thứ Bảy tuần 31 thường niên – CUNG HIẾN THÁNH ĐƯỜNG LATÊRANÔ. Lễ kính. – Ðền thờ mẹ của tất cả mọi nhà thờ. (08/11/2024 10:00:00 - Xem: 3,516)

CUNG HIẾN THÁNH ĐƯỜNG LATÊRANÔ. Lễ kính.

Thứ Sáu 08/11/2024 – Thứ Sáu tuần 31 thường niên. – Khôn ngoan để tích cực xây dựng Nước Trời. (07/11/2024 10:00:00 - Xem: 3,749)

Thứ Sáu tuần 31 thường niên.

Thứ Năm 07/11/2024 – Thứ Năm đầu tháng, tuần 31 thường niên. – Lòng thương xót vô biên của Chúa. (06/11/2024 10:00:00 - Xem: 3,685)

Thứ Năm đầu tháng, tuần 31 thường niên.

Thứ Tư 06/11/2024 – Thứ Tư tuần 31 thường niên. – Dứt khoát đi theo Chúa. (05/11/2024 10:00:00 - Xem: 3,738)

Thứ Tư tuần 31 thường niên.

Thứ Ba 05/11/2024 – Thứ Ba tuần 31 thường niên. – Bàn tiệc Nước Trời. (04/11/2024 10:00:00 - Xem: 3,868)

Thứ Ba tuần 31 thường niên.

Thứ Hai 04/11/2024 – Thứ Hai tuần 31 thường niên. – Thánh Carôlô Borômêô, giám mục. Lễ nhớ. – Ân Huệ Tặng Không. (03/11/2024 10:00:00 - Xem: 3,738)

Thánh Carôlô Borômêô, giám mục. Lễ nhớ.

+ Chúa Nhật 03/11/2024 – CHÚA NHẬT 31 THƯỜNG NIÊN năm B. – Giới răn trọng nhất. (02/11/2024 10:00:00 - Xem: 6,026)

CHÚA NHẬT 31 THƯỜNG NIÊN năm B.

Thứ Bảy 02/11/2024 – Thứ Bảy tuần 30 thường niên – CẦU CHO CÁC TÍN HỮU ĐÃ QUA ĐỜI. – Bên kia sự chết. (01/11/2024 10:00:00 - Xem: 4,649)

CẦU CHO CÁC TÍN HỮU ĐÃ QUA ĐỜI.

Thứ Sáu 01/11/2024 – Thứ Sáu tuần 30 thường niên – CÁC THÁNH NAM NỮ. Lễ trọng. Lễ HỌ. Cầu cho giáo dân. – Phúc thay!!!!. (31/10/2024 10:00:00 - Xem: 4,394)

CÁC THÁNH NAM NỮ. Lễ trọng. Lễ HỌ. Cầu cho giáo dân.

Bài viết mới
Câu chuyện chiều thứ 7