Suy niệm Lời
Chúa
CHÚA NHẬT 1 MÙA CHAY NĂM A.
Chúa Nhật: Mt 4, 1-11
+ Chúa Nhật 26/02/2023 – Chúa Giêsu chiến thắng cám dỗ.
26/02
– CHÚA NHẬT 1 MÙA CHAY NĂM A
"Chúa Giêsu nhịn ăn bốn mươi ngày đêm, và chịu cám dỗ".
Lời Chúa: Mt 4, 1-11
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu được Thánh Thần hướng
dẫn vào hoang địa để chịu ma quỷ cám dỗ. Khi Người đã nhịn ăn bốn mươi
đêm ngày, Người cảm thấy đói. Và tên cám dỗ đến gần, nói với Người rằng:
"Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy khiến những hòn đá này biến thành bánh".
Nhưng Chúa Giêsu đáp lại: "Có lời chép rằng: 'Người ta sống không nguyên
bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra'".
Bấy giờ ma quỷ đưa Người lên Thành thánh,
và đặt Người trên góc tường Ðền thờ, rồi nói với Người rằng: "Nếu ông là
Con Thiên Chúa, hãy gieo mình xuống đi, vì có lời chép rằng: Ngài đã ra
lệnh cho các Thiên Thần đến với ông, và chư vị đó sẽ nâng đỡ ông trên
tay, để ông khỏi vấp chân vào đá". Chúa Giêsu đáp: "Cũng có lời chép
rằng: "Ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi".
Quỷ lại đưa Người lên núi rất cao, và chỉ
cho Người xem thấy mọi nước thế gian và vinh quang của những nước đó,
rồi nói với Người rằng: "Tôi sẽ cho ông tất cả những cái đó, nếu ông sấp
mình xuống thờ lạy tôi". Bấy giờ Chúa Giêsu bảo nó rằng: "Hãy lui đi,
hỡi Satan! Vì có lời đã chép: "Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa
ngươi, và chỉ phụng sự một mình Ngài".
Bấy giờ ma quỷ bỏ Người. Và các thiên thần
tiến lại, hầu hạ Người.
CHÚA NHẬT 1 MÙA
CHAY A 2023
Lời Chúa: St 2,7-9;
3,1-7; Rm 5,12-19; Mt 4,1-11
1.
Quỷ bỏ
Người mà đi---‘Manna’--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.
PAGEREF _Toc128054313 \h 3
2.
Những
cơn cám dỗ--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
PAGEREF _Toc128054314 \h 5
3.
Cám
dỗ--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
PAGEREF _Toc128054315 \h 7
4.
Trở về--TGM. Giuse Vũ Văn Thiên.
PAGEREF _Toc128054316 \h 9
5.
Chiến
thắng tử thần--ViKiNi--‘Xây Nhà Trên Đá’--Lm. ViKiNi
PAGEREF _Toc128054317 \h 12
6.
Thân phận con
người--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.
PAGEREF _Toc128054318 \h 14
7.
Mong manh mỏng
dòn--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.
PAGEREF _Toc128054319 \h 15
8.
Chúa nhật 1 Mùa Chay Mt 4,1-11 –Lm Carôlô Hồ Bạc Xái
PAGEREF _Toc128054320 \h 17
9.
Đức Giêsu bị cám
dỗ--Lm Giuse Đinh Lập Liễm..
PAGEREF _Toc128054321 \h 19
10.
Đứng
về phía Chúa Giêsu để chống lại tên cám dỗ--Lm.
Antôn Nguyễn Văn Độ.
PAGEREF _Toc128054322 \h 27
11.
Sức
mạnh của hồng ân Lời Chúa--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ.
PAGEREF _Toc128054323 \h 29
12.
Phương cách chống trả cám dỗ của ma quỷ--Lm Đan Vinh.
PAGEREF _Toc128054324 \h 31
13.
Thử thách và lựa
chọn—Lm. G. Nguyễn Cao Luật OP.
PAGEREF _Toc128054325 \h 37
14.
Ma quỷ--Lm.
Giacôbê Phạm văn Phượng, OP.
PAGEREF _Toc128054326 \h 40
15.
Xa-tan cám dỗ--Lm. Giacôbê
Phạm Văn Phượng.
PAGEREF _Toc128054327 \h 42
16.
Ba cám
dỗ niềm tin--Lm. JB. Lê Ngọc Dũng.
PAGEREF _Toc128054328 \h 44
17.
Những cuộc cám dỗ bất tận--R. Veritas--‘Sống Tin Mừng’.
PAGEREF _Toc128054329 \h 46
18.
Nguy
cơ đáng sợ nhất đời--Lm. Inhaxiô Trần Ngà.
PAGEREF _Toc128054330 \h 47
19.
Theo
Ađam hay theo Chúa Giêsu?--‘Cùng Đọc Tin Mừng’--Lm Ignatiô Trần Ngà.
PAGEREF _Toc128054331 \h 49
20.
Hãy
chọn Chúa--Lm Giuse Tạ Duy Tuyền.
PAGEREF _Toc128054332 \h 51
21.
Chiến thắng cám
dỗ--‘Cùng Nhau Suy Niệm’--Lm Giuse Tạ Duy Tuyền.
PAGEREF _Toc128054333 \h 53
22.
Những
cuộc cám dỗ bất tận--Cố Lm. Hồng Phúc.
PAGEREF _Toc128054334 \h 55
23.
Dám
nói "không"--“Như Thầy Đã Yêu”--Thiên Phúc.
PAGEREF _Toc128054335 \h 56
24.
Cám dỗ--Lm Hưng
Long, CRM...
PAGEREF _Toc128054336 \h 58
25.
Cám dỗ của ngày
hôm nay--An Phong.
PAGEREF _Toc128054337 \h 60
26.
Những cơn cám dỗ.
PAGEREF _Toc128054338 \h 61
27.
Vượt thắng cám
dỗ--Lm Giuse Nguyễn Hữu An.
PAGEREF _Toc128054339 \h 63
28.
Phương thế chiến
thắng cám dỗ--Lm Giuse Nguyễn Hữu An.
PAGEREF _Toc128054340 \h 66
29.
Chúa Giêsu bị
cám dỗ và Ngài đã vượt qua thành công--Lm. Laurensô Chu Văn Quang.
PAGEREF _Toc128054341 \h 69
30.
Cám dỗ--Lm.
Giuse Trần Việt Hùng.
PAGEREF _Toc128054342 \h 71
31.
Không để cho
lòng trung tín với Chúa bị đem ra tranh luận--‘Lương Thực Ngày Chúa
Nhật’--Achille Degeest
PAGEREF _Toc128054343 \h 73
32.
Khởi đầu từ điều
nhỏ mọn--‘Niềm Vui Chia Sẻ’.
PAGEREF _Toc128054344 \h 74
33.
Trông bạn khác
quá--Mark Link.
PAGEREF _Toc128054345 \h 76
34.
Trả lại cho Chúa
chỗ ngự của Ngài--Lm. Antôn Hà Văn Minh.
PAGEREF _Toc128054346 \h 78
35.
Suy niệm của JKN..
PAGEREF _Toc128054347 \h 79
36.
Hãy cậy trông
vào Thiên Chúa--Cao Nhất Huy.
PAGEREF _Toc128054348 \h 82
37.
Sống Mùa Chay--Lm.
Vũ Thái Hoà.
PAGEREF _Toc128054349 \h 85
38.
Suy niệm của Lm.
Trần văn Trợ.
PAGEREF _Toc128054350 \h 87
39.
Cám dỗ--Lm. Bùi
Quang Tuấn.
PAGEREF _Toc128054351 \h 88
40.
Cùng Đức Kitô
vượt qua thử thách trong đời--Fr. Jude Siciliano.
PAGEREF _Toc128054352 \h 90
41.
Nếu
ông là con Thiên Chúa!--Fr. Jude Siciliano.
PAGEREF _Toc128054353 \h 94
42.
"Ngươi phải bái
lạy Đức Chúa..."--Chiara Lubich.
PAGEREF _Toc128054354 \h 97
43.
Không chỉ bằng
cơm bánh--Lm Nguyễn Hồng Giáo.
PAGEREF _Toc128054355 \h 99
44.
Suy niệm của Lm.
Antôn Nguyễn Huy Điệp.
PAGEREF _Toc128054356 \h 101
45.
Sống mùa chay--Lm
Giuse Vũ Thái Hòa.
PAGEREF _Toc128054357 \h 103
46.
Chúa Nhật I Mùa
Chay--Nguyễn Bình An.
PAGEREF _Toc128054358 \h 105
47.
Sa mạc, nơi giúp
khám phá sự thật--Lm. Phêrô Trần Minh Đức.
PAGEREF _Toc128054359 \h 107
48.
Suy niệm của Lm.
Đaminh Trần Đình Nhi
PAGEREF _Toc128054360 \h 109
49.
Đừng sợ, Thầy đã
chiến thắng ma quỷ--Giuse Lê Xuân Hiệp.
PAGEREF _Toc128054361 \h 112
50.
Cám dỗ
quyền lực--Đỗ Lực.
PAGEREF _Toc128054362 \h 114
51.
Ma quỷ
cám dỗ Chúa Giêsu--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT..
PAGEREF _Toc128054363 \h 118
52.
Đương đầu với
cám dỗ--‘Tin Vui Xuân Lộc’.
PAGEREF _Toc128054364 \h 119
53.
Chúa Nhật I Mùa
Chay--Lm. Inhaxio Hồ Thông.
PAGEREF _Toc128054365 \h 122
54.
Cám dỗ
tại hoang địa--Lm FX. Vũ Phan Long.
PAGEREF _Toc128054366 \h 133
55.
Cám dỗ--Lm Trần
Xuân Lãm..
PAGEREF _Toc128054367 \h 138
56.
Suy niệm của Lm.
Anthony Trung Thành.
PAGEREF _Toc128054368 \h 139
57.
Cám dỗ trong đời--Lm.
Joshepus Quang Nguyễn.
PAGEREF _Toc128054369 \h 141
58.
Chiến đấu để
đừng sa cơn cám dỗ--Lm. Joshepus Quang Nguyễn.
PAGEREF _Toc128054370 \h 143
59.
Liên hệ--Lm. Vũ
Đình Tường.
PAGEREF _Toc128054371 \h 145
60.
Cám dỗ.
PAGEREF _Toc128054372 \h 147
61.
Cám dỗ.
PAGEREF _Toc128054373 \h 148
62.
Là người thật và
là Thiên Chúa thật
PAGEREF _Toc128054374 \h 150
63.
Satan.
PAGEREF _Toc128054375 \h 152
64.
Cám dỗ.
PAGEREF _Toc128054376 \h 154
65.
Cám dỗ.
PAGEREF _Toc128054377 \h 156
66.
Nếu
bạn không làm, thì ai?.
PAGEREF _Toc128054378 \h 158
67.
Cám dỗ.
PAGEREF _Toc128054379 \h 159
68.
Người
ta sống.
PAGEREF _Toc128054380 \h 160
69.
Cám dỗ
trong đời thường.
PAGEREF _Toc128054381 \h 161
70.
Cám dỗ.
PAGEREF _Toc128054382 \h 163
71.
Cám dỗ thời nay.
PAGEREF _Toc128054383 \h 164
72.
Chiến thuật của
ma quỷ qua trình thuật “trái cấm”--Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy.
PAGEREF _Toc128054384 \h 166
73.
Chúa Nhật I Mùa
Chay.
PAGEREF _Toc128054385 \h 168
74.
Cám dỗ.
PAGEREF _Toc128054386 \h 170
75.
Cám dỗ, nguy cơ
và cơ may--Lm Pietro Nguyễn Hương.
PAGEREF _Toc128054387 \h 172
76.
Chú
giải của Noel Quesson.
PAGEREF _Toc128054388 \h 174
77.
Chú
giải của Fiches Dominicales.
PAGEREF _Toc128054389 \h 177
78.
Cám dỗ
trong sa mạc--Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
PAGEREF _Toc128054390 \h 182
79.
Cám dỗ.
PAGEREF _Toc128054391 \h 188
80.
Cám dỗ.
PAGEREF _Toc128054392 \h 189
81.
Hãy cảnh giác
trước cám dỗ--Jos. Vinc. Ngọc Biển.
PAGEREF _Toc128054393 \h 190
82.
Tôi đi
tìm tôi--Như Hạ.
PAGEREF _Toc128054394 \h 194
83.
Khiêm
tốn sám hối và sửa mình--Huệ Minh.
PAGEREF _Toc128054395 \h 196
Suy Niệm
Sống là chịu tác động
của hoàn cảnh bên ngoài.
Có những điều nâng đời
sống của ta lên,
và cũng có những điều
khiến ta ngã qụy.
Chấp nhận làm người là
chấp nhận bị cám dỗ.
Cám dỗ từ bên ngoài,
từ quỷ dữ, từ tha nhân...
Cám dỗ từ bên trong,
từ đòi hỏi của bản năng tự nhiên, của thân xác,
từ sự khép kín của trí
tuệ và lạnh giá của con tim.
Phận người chênh vênh
vì luôn bị cám dỗ,
nhưng phận người lại
cao cả hào hùng
vì con người có thể
thắng được mọi cơn cám dỗ
bằng một lựa chọn đầy
tự do.
Nhìn lại ba cơn cám dỗ
tiêu biểu của Đức Giêsu,
ta thấy chúng có một
mẫu số chung.
Đó là Ngài bị lôi kéo
sống cho mình,
lo cho mình, xây đắp
cho mình.
Dù là dùng
quyền năng Cha ban
để biến đá
thành bánh ăn cho đỡ đói.
Dù là nhảy
xuống từ nóc Đền thờ
như một
thách đố đối với Thiên Chúa yêu thương,
hay như một
biểu diễn ngoạn mục để thu hút quần chúng.
Dù là sấp
mình bái lạy Satan
để được nắm
mọi quyền hành trên muôn nước.
Giàu sang,
quyền lực, khoái lạc
vẫn là những
cám dỗ muôn thuở,
cho mọi
người, mọi tập thể đạo đời.
Đức Giêsu đã
thắng được các cơn cám dỗ.
Cơn cám dỗ
lớn nhất là quay vào mình, chọn mình
thay vì chọn
Chúa và anh em.
Chúng ta cần
nhận ra những cơn cám dỗ hiền lành,
mang một lớp
vỏ bên ngoài vô hại.
Một số bạn
trẻ Thái Lan mơ ước có được 7 điều,
tất cả đều
bắt đầu bằng chữ C theo tiếng Anh:
xe hơi, điện
thoại di động, quần áo, máy vi tính,
một căn hộ
sang trọng, thẻ tín dụng, thuốc ngừa thai.
Không phải
vật chất là điều xấu.
Nhưng nếu
con người bị ám ảnh bởi vật chất
và coi đó là
mục đích duy nhất của đời mình,
thì cuộc
sống sẽ nghèo nàn biết chừng nào!
Sống đâu
phải chỉ để hưởng thụ, mà còn để hiến trao.
Con người
đâu phải chỉ là thân xác, mà còn là tinh thần.
Cuộc sống
đâu phải chỉ ở đời này, mà còn ở đời sau.
Cần tập
chiến thắng cơn cám dỗ bằng cầu nguyện, hy sinh.
Hy sinh là
làm chủ các giác quan và trí tưởng tượng,
là khiêm tốn
nhận mình yếu đuối, mỏng dòn,
là dám cương
quyết từ chối: "Hãy xéo đi, Satan."
Gợi Ý Chia
Sẻ
Chúng ta
thường đứng trước những chọn lựa: chọn giữa cái tốt và cái xấu, giữa cái
chính và cái phụ; chọn cái tốt hơn giữa những cái tốt; chọn cách tốt hơn
để làm một điều tốt... Có khi nào bạn bị giằng co khi phải chọn lựa
không?
Chúa có thể
gửi đến cho ta những thử thách. Nếu vượt qua được, chúng ta sẽ trưởng
thành và lớn lên trong tình yêu. Bạn có khi nào vượt được một thử thách
nho nhỏ hay lớn lao không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa
Giêsu,
giàu
sang, danh vọng, khoái lạc là những điều hấp dẫn chúng con.
Chúng
trói buộc chúng con
và không
cho chúng con tự do ngước lên cao
để sống
cho những giá trị tốt đẹp hơn.
Xin giải
phóng chúng con khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất,
nhờ cảm
nghiệm được phần nào sự phong phú của kho tàng trên trời.
Ước gì
chúng con mau mắn và vui tươi bán tất cả những gì chúng con có,
để mua
được viên ngọc quý là Nước Trời.
Và ước gì
chúng con không bao giờ quay lòng
trước
những lời mời gọi của Chúa,
không bao
giờ ngoảnh mặt để tránh cái nhìn yêu thương
Chúa
dành cho từng người trong chúng con. Amen.
2.
Những
cơn cám dỗ--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Có nhiều người thắc
mắc: Ăn chay là gì? Phải chăng là để dằn vặt thân xác, hành khổ con
người cho Chúa vui lòng? Hỏi như vậy là chưa hiểu đạo, chưa hiểu hết ý
nghĩa của việc ăn chay. Chúa đâu phải quá độc ác, bệnh hoạn, vui lòng
khi thấy con người chịu khốn khổ. Ăn chay một phần để hy sinh đền tội,
nhưng mục đích chính của việc ăn chay là để thao luyện tâm hồn chống lại
quỷ dữ.
Ngày nay người ta quên
sự có mặt của ma quỷ. Nhưng ma quỷ vẫn có đó và và vẫn tích cực hoạt
động nhằm phá huỷ thế giới, tiêu diệt con người. Ma quỷ rất tinh ma xảo
quyệt nên người ta khó nhận ra âm mưu, dấu vết của chúng.
Nhìn vào ba cuộc ma
quỷ cám dỗ Đức Giêsu, ta thấy ma quỷ rất tinh khôn. Nó có kế hoạch, có
chiến thuật, tấn công nhiều đợt, nhiều bước.
Thoạt tiên ma quỷ tấn
công vào những bản năng sơ đẳng nhất nơi con người: bản năng sinh tồn,
bản năng thống trị, bản năng đối nghịch. Những bản năng ấy gắn liền với
những nhu cầu căn bản, chính đáng của con người.
Kéo chú ý của người ta
vào những nhu cầu rồi, ma quỷ tiến bước thứ hai, đó là phóng đại những
nhu cầu đó lên, làm cho người ta lầm tưởng rằng, đó là những nhu cầu cấp
bách, phải thoả mãn ngay tức khắc.
Khi ta đã hoàn toàn mê
mẩn vì cái bẫy nhu cầu, ma quỷ mới đẩy ta đến bước thứ ba, đó là tìm
thoả mãn những nhu cầu theo ý riêng mình. Cách giải quyết đó ngược lại
với ý muốn của Thiên Chúa. Mục đích sau cùng của ma quỷ là xúi giục ta
phản loạn, không sống tâm tình người con hiếu thảo với Chúa, chống lại
Chúa và sau cùng lìa xa Thiên Chúa.
Ông bà nguyên tổ đã
rơi vào bẫy của ma quỷ nên đã không sống tâm tình của người con hiếu
thảo, muốn lìa bỏ cha mình, muốn ngang bằng cha mình, muốn chống lại cha
mình.
Chúa Giêsu, trái lại,
đã sáng suốt vạch trần âm mưu của ma quỷ và kiên quyết sống tâm tình của
người con hiếu thảo.
Khi ma quỷ phóng đại
nhu cầu, muốn cho Chúa Giêsu tưởng rằng con người chỉ là vật chất, chỉ
sống nhờ bánh vật chất, vật chất là tất cả đời sống. Chúa Giêsu đã sáng
suốt chỉ cho ta thấy vật chất không phải là tất cả, bánh vật chất của
trần gian là cần, nhưng bánh tinh thần của trời cao còn cần hơn.
Khi ma quỷ thúc giục
Chúa Giêsu hãy thoả mãn tức khắc nhu cầu của mình, Chúa Giêsu đã biết
kiên nhẫn chờ đợi. Khi ma quỷ khích Chúa Giêsu dùng quyền năng riêng của
mình để thoả mãn nhu cầu, Chúa Giêsu đã từ chối. Người muốn vâng phục
Đức Chúa Cha, tin tưởng phó thác vận mệnh trong tay Chúa Cha, để mặc
Chúa Cha quyết định.
Tuy đã thắng trong
cuộc đọ sức đầu tiên, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục bị ma quỷ cám dỗ trong
suốt cuộc đời. Cơn dỗ khi thì đến từ những người tin theo Chúa, muốn tôn
Chúa làm vua để được ăn no nê bánh vật chất, khi thì đến từ những người
chống đối đòi xin phép lạ từ trời xuống. Có lúc ma quỷ mượn chính những
người thân tín như Phêrô để ngăn cản Chúa Giêsu thực hành ý Chúa Cha. Có
lúc ma quỷ dùng cái chết ghê sợ để uy hiếp tinh thần, mong Chúa Giêsu
lùi bước để tìm ý riêng mình. Chúa Giêsu đã chiến thắng mọi cơn cám dỗ
vì Người luôn tìm thánh ý Chúa Cha. Dù khi phải chiến đấu trong mồ hôi
pha máu, Người vẫn nói: “Lạy Cha, xin đừng theo ý Con, xin vâng theo ý
Cha mà thôi”.
Ma quỷ vẫn đang tiếp
tục tạo nên những cơn cám dỗ. Và nhiều khi chúng ta đã mắc bẫy ma quỷ.
Ta mắc bẫy ma quỷ khi mải mê đuổi theo những nhu cầu tiêu thụ quá đáng.
Ta rơi vào âm mưu ma quỷ khi ta muốn có tất cả và có tức khắc. Ta hoàn
toàn nằm trong vòng tay ma quỷ khi ta dùng mọi phương tiện để thoả mãn
những nhu cầu, bất chấp ý Thiên Chúa.
Thay vì tuân phục ý
Chúa, tôi luôn luôn bắt Chúa làm theo ý tôi. Thay vì vâng lời Chúa, tôi
luôn luôn muốn sai bảo Chúa.
Mùa Chay này, Chúa kêu
gọi tôi trở về với Chúa. Muốn trở về với Chúa, tôi phải chiến đấu chống
lại ma quỷ. Muốn đủ sức chống lại ma quỷ, tôi phải luyện tập bỏ ý riêng
mình và tìm vâng phục ý Chúa.
Hãy đặt ra cho mình
một chương trình sống Mùa Chay bằng tăng cường hy sinh, cầu nguyện, ăn
chay và làm việc bác ái.
Thiên Chúa Cha, Đấng
giàu lòng thương xót đang chờ đón tôi trở về, và sẽ ban sức mạnh để tôi
đủ sức chống lại mọi chước cám dỗ, nếu tôi biết sống trọn tình con thảo,
tin cậy phó thác vào Người.
Lạy Thiên Chúa là
Cha của con, xin đón nhận tâm hồn khiêm nhường sám hối của con.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Theo bạn, ngày nay
ma quỷ còn hoạt động trong thế giới không? Nếu có, bạn cho một ví dụ.
2) Bạn thường thua hay
thắng cuộc khi gặp phải cám dỗ. Thua, tại sao? Thắng, nhờ đâu?
3) Đâu là âm mưu của
ma quỷ che dấu đàng sau những cơn cám dỗ?
Cám dỗ là chuyện xưa
như trái đất. Từ khi có con người, đã có cám dỗ. Hẳn ta không thể quên
chuyện hai ông bà nguyên tổ sa chước cám dỗ của ma quỷ. Dân Do Thái, khi
bị nô lệ dưới ách người Ai cập thì muốn được tự do. Nhưng khi lang thang
40 năm trong sa mạc, phải chịu đói khát, lại bị cám dỗ quay trở lại Ai
cập để được no ấm. Nhưng có thể nói, 3 cơn cám dỗ mà Đức Giêsu phải
đương đầu hôm nay gồm tóm tất cả mọi thứ cám dỗ mà ta thường gặp.
+ Cơn cám dỗ thứ
nhất: thoả mãn tức khắc mọi nhu cầu.
Sau khi Đức Giêsu ăn
chay 40 đêm ngày. Ma quỷ đề nghị Người biến đá thành bánh mà ăn. Thật là
một đề nghị hợp lý. Đói thì phải ăn. Muốn ăn thì phải có bánh. Nhưng có
bánh bằng cách nào mới là vấn đề. Không phải cứ có nhu cầu là phải thoả
mãn ngay. Và nhất là không được dùng những cách không hợp đạo lý để thoả
mãn những nhu cầu của mình. Cơm bánh tượng trưng cho những nhu cầu thiết
yếu của con người. Nhu cầu của con người thì có nhiều và có khuynh hướng
ngày càng gia tăng. Vì thế cơn cám dỗ thoả mãn nhu cầu ngày càng lớn.
+ Cơn cám dỗ thứ
hai: muốn có quyền lực thống trị.
Ma quỷ biết Đức Giêsu
muốn cứu độ loài người, nên đề nghị tặng Người tất cả các nước trên trần
gian. Có lẽ nhiều người nghĩ rằng đề nghị của ma quỷ là hợp lý. Cứ có
quyền thống trị trên hết mọi dân nước rồi nói gì người ta chẳng nghe.
Chúa sẽ không phải mất công chịu đau khổ chịu chết. Chỉ cần quỳ xuống
thờ lạy ma quỷ, vua quan dân chúng các nước sẽ răm rắp tuân theo. Thật
là tiện lợi. Quyền lực là một cơn cám dỗ muôn đời của nhân loại. Từ ngàn
xưa, vua chúa các nước đã không ngừng gây chiến để tranh giành quyền
lực. Ngày nay, trong các cuộc chiến mới, người ta không còn giết nhau
bằng gươm đao, súng đạn, nhưng bằng quyền lực kinh tế, khoa học, kỹ
thuật. Tuy êm đềm nhưng cuộc chiến vô cùng khốc liệt. Cơn cám dỗ về
quyền lực thống trị không những không suy giảm mà còn mãnh liệt hơn.
+ Cơn cám dỗ thứ
ba: tìm những điều kỳ lạ.
Muốn những chuyện thần
kỳ. Muốn làm được những việc kinh thiên động địa. Muốn có những thành
công lẫy lừng. Cơn cám dỗ này thúc đẩy người ta đổ xô đi tìm phép lạ.
Cơn cám dỗ xây tháp Ba ben từ ngàn xưa vẫn còn tiếp diễn. Xuyên qua
những cơn cám dỗ ấy ta thấy ma quỷ thật vô cùng tinh khôn và hiểm độc.
Với cơn cám dỗ thứ
nhất, ma
quỷ muốn xô đẩy con người làm nô lệ cho dục vọng. Xúi giục con người chỉ
tìm thoả mãn những bản năng thấp hèn. Giới hạn con người vào sự sống xác
thịt. Đức Giêsu đã vạch trần âm mưu của ma quỷ khi Người cho biết con
người không chỉ có đời sống thể lý mà còn có đời sống tâm linh. Người
nâng cao phẩm giá con người khi quyết tâm chống lại cơn cám dỗ thoả mãn
những nhu cầu thân xác để chăm lo cho sự sống tâm linh.
Với cơn cám dỗ thứ
hai, ma quỷ
muốn biến con người thành nô lệ cho tham vọng, nô lệ cho ma quỷ. Vì ham
hố chức quyền, vì mưu cầu danh vọng mà đánh mất tự do của mình, cam tâm
làm nô lệ cho ma quỷ. Vì tham vọng mà đánh mất chính mình. Đức Giêsu
vạch trần âm mưu đen tối của ma quỷ khi cương quyết chối từ danh vọng
quyền thế. Người còn chỉ cho ta con đường duy nhất phải theo đó là thờ
phượng Thiên Chúa. Chỉ có thờ phượng Thiên Chúa mới đem đến cho con
người tự do đích thực, tự do trong tâm hồn, không bị nô lệ một tham vọng
nào.
Với cơn cám dỗ thứ
ba, ma quỷ
đẩy con người vào nô lệ cho cuồng vọng. Điên cuồng đến chống lại Thiên
Chúa. Dùng Thiên Chúa để phục vụ cho những ước vọng ngông cuồng của
mình. Không đến với Chúa trong tâm tình của người con thảo đối với Cha
hiền. Đức Giêsu đã vạch trần âm mưu của ma quỷ. Người chỉ cho ta con
đường của người con hiếu thảo. Người con hiếu thảo tin cậy phó thác và
luôn làm theo ý Cha, chứ không bao giờ dám thách thức Cha. Người con
hiếu thảo vâng lệnh Cha sai bảo chứ không bao giờ dám sai bảo Cha.
Cám dỗ của ma quỷ hiểm
độc vì nó tiến từng bước: Từ hạ thấp phẩm giá con người khi khiến con
người làm nô lệ cho dục vọng đến cướp mất tự do của con người khi xúi
giục con người nô lệ cho ma quỷ. Và sau cùng đi đến chỗ tận cùng là chối
bỏ Thiên Chúa, không coi Thiên Chúa là cha. Cám dỗ càng hiểm độc vì ma
quỷ đã khéo léo học những âm mưu thâm hiểm trong lớp vỏ nhung lụa, êm ái,
hợp lý và đầy quyến rũ của những nhu cầu, quyền lực và uy tín.
Ngày nay, những cơn
cám dỗ của ma quỷ vẫn như những chiếc bẫy giăng ra để trói buộc con
người trong vòng nô lệ. Cám dỗ càng ngày càng tinh vi và càng ngọt ngào
hơn nên càng hiểm độc hơn. Muốn chống trả được những cơn cám dỗ, ta phải
bắt chước Đức Giêsu dùng những vũ khí sắc bén, đó là ăn chay cầu nguyện,
thấm nhuần Lời Chúa và luôn sống tâm tình của người con thảo đối với
Chúa.
Lạy Chúa, xin đừng
để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen.
Cầu Nguyện:
Lạy Chúa, xin đừng
để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ.
Amen.
Nếu người lữ
khách cần dừng chân để xác định phương hướng và nhìn lại chặng đường đã
qua, mỗi chúng ta cũng cần phải có những điểm dừng để nhìn lại cuộc đời
đang sống. Như bản nhạc cuộc đời có những dấu lặng để tăng thêm âm điệu
sâu lắng, cuộc sống của chúng ta cũng phải có những giây phút thinh lặng
để trở về với chính mình. Mùa Chay chính là điểm dừng chân để nhìn lại
chặng đường đời đã qua. Mùa Chay cũng chính là dấu lặng trong bản nhạc
cuộc đời, để giúp chúng ta suy xét những hay dở, những phải trái trong
cuộc đời đầy đa đoan này. Phụng vụ của Giáo Hội đã mượn lời thánh Phaolô
để gọi Mùa Chay là “mùa Thiên Chúa thi ân, đây là ngày Thiên Chúa cứu
độ” (x. 2 Cr 62b).
Bốn mươi
ngày của Mùa Chay phác họa nhiều sự kiện quan trọng trong Cựu Ước. Đó là
40 ngày mưa lớn gây trận Đại hồng thủy để xóa sạch nhân loại vương tội
lỗi. Đó cũng là 40 ngày ngôn sứ Elia chạy trốn trước sự săn đuổi của vua
Achab và hoàng hậu Isabel, sau khi ông “đơn thương độc mã” chiến đấu với
450 tiên tri của thần Baal và 400 tiên tri của thần A-sê-ra. Ông đã
chiến thắng và làm cho những tiên tri này hổ thẹn và bị giết. Mùa Chay
cũng nhắc lại 40 năm dân Do Thái lữ hành về Đất hứa. Đặc biệt, 40 ngày
của Mùa Chay nhắc lại 40 ngày Chúa Giêsu vào hoang địa ăn chay và cầu
nguyện. Ở đó, Người chịu cám dỗ và đã chiến thắng cám dỗ.
Thực ra,
Thiên Chúa thi ân và ban ơn cứu độ trong mọi nơi, mọi lúc và cho mọi
người. Ơn cứu độ và phúc lành của Chúa như mưa xuống cho mọi tạo vật,
như ánh mặt trời chiếu soi khắp mặt đất. Tuy vậy, Mùa Chay là thời điểm
thuận lợi để chúng ta đón nhận phúc lành của Chúa. Phụng vụ Mùa Chay là
lời mời gọi chúng ta hãy trở về.
Trước hết là
trở về với Chúa: Giáo lý Công giáo dạy chúng ta: mỗi khi phạm tội là
chúng ta đi lạc đường. Dù thuộc nền văn hóa hay chủng tộc nào, Thiên
Chúa luôn mời gọi con người bước đi trên con đường công chính, trung
thành tuân giữ những giáo huấn Ngài đã truyền dạy. Phạm tội là đi ngược
lại với những gì Chúa muốn. Tội lỗi làm cho con người xa Chúa, không còn
sống trong mối thân tình mật thiết với Ngài nữa. Tác giả sách Sáng Thế,
trong Bài đọc I của Phụng vụ hôm nay đã viết về sự sa ngã của đôi bạn
đầu tiên của nhân loại, tức là ông Ađam và bà Evà. Đây là trang sử buồn,
để lại dấu ấn không phai mờ về sự phản bội của con người đối với những
lệnh truyền của Chúa. Đây cũng biến cố đau thương, làm cho con người và
Thiên Chúa xa nhau. Trình thuật này được đọc lên trong phụng vụ của Chúa
nhật thứ nhất Mùa Chay đề giúp chúng ta nhận ra thận phận hèn yếu của
mình.
Có lẽ bà Evà
nghĩ rằng: ăn một trái cây có quan trọng gì! Tuy vậy, vấn đề ở đây không
phải chỉ là một trái cây mà là lệnh truyền của Thiên Chúa. Con rắn là
tác nhân trực tiếp của cám dỗ. Ở đây nó được trình bày giống như một con
người, cũng lý luận, kích động, gieo rắc nghi ngờ. Không chỉ là thèm
muốn một trái cây “ăn thì ngon, trông thì đẹp mắt”, mà bà Evà còn nghi
ngờ lòng tốt của Thiên Chúa. Thế ra, Ngài không tốt lành như bà nghĩ
trước đây, vì Ngài sợ bà trở nên khôn ngoan biết mọi sự nên Ngài cấm bà
không được đụng vào trái của cây ở giữa vườn. Một khi bà nghi ngờ Thiên
Chúa, thì bà cũng phủ nhận hết những điều tốt đẹp Chúa đã làm cho hai
ông bà. Sự nghi ngờ lòng tốt của Chúa là lý do dẫn đến việc bà phạm tội,
tức là ăn trái cấm.
Trình thuật
cám dỗ của tác giả sách Sáng thế cho chúng ta thấy sự bất hạnh của thân
phận con người khi họ phạm tội. Sự bất hạnh này được diễn tả qua mâu
thuẫn trái ngược giữa lời hứa của con rắn với thực trạng của ông bà sau
khi phạm tội. Mắt ông bà mở ra, nhưng thay vì họ trở nên như những vị
thần như con rắn hứa hẹn, thì ông bà lại thấy mình trần truồng. Một sự
thật nghiệt ngã mà ông bà phải chứng kiến đó là sự bất hạnh và xấu hổ
nhục nhã của ông bà sau khi phạm tội. Xấu hổ về sự trần truồng là hậu
quả của tội, vì trước đó ông bà cũng trần truồng mà không xấu hổ. Điều
ông bà khám phá sau khi phạm tội không phải là phẩm giá cao quý của mình
như con rắn đã rủ rê, mà là sự bất hạnh, sự yếu hèn, cô độc và đáng
thương.
Trở về với
Chúa chính là tâm tình sám hối, nhận ra thân phận tội lỗi và yếu hèn của
mình, để xin Chúa tha thứ.
Tinh thần
trở về của Mùa Chay cũng là trở về với chính mình: con người bôn ba vật
lộn với cuộc sống, đầy những toan tính bon chen, nhiều khi đánh mất
chính mình. Họ không nhận ra mình là ai trong vũ trụ mênh mông này. Ađam
và Evà đã chối bỏ thân phận thụ tạo, muốn nên ngang hàng với Thiên Chúa.
Con người ngày nay đánh mất mình khi chối bỏ sự hiện hiện của Chúa trong
cuộc đời và không muốn nhận mối tương quan giữa thụ tạo với Đấng Tạo
Hóa. Khi đánh mất mình, con người cũng phủ nhận mối tương quan với anh
chị em mình, để rồi sống ích kỷ, hận thù, bất bao dung và chia rẽ oán
hờn. Mùa Chay nhắc chúng ta hãy trở về với chính mình nhận ra mình chỉ
là một “đóa hoa vô thường” trong vũ trụ. Như một đóa hoa nay còn mai
mất, chúng ta cần phải hướng về vĩnh cửu, bằng những cố gắng nên hoàn
thiện trong đời sống hiện tại.
Sau cùng,
Mùa Chay là mùa trở về với tha nhân: Con người sống trên trần gian không
phải là những ốc đảo cô đơn, nhưng có liên đới với anh chị em mình.
Những mâu thuẫn nảy sinh ở mọi lãnh vực khác nhau đều phát xuất từ tính
ti tiện, ích kỷ và ghen tương. Trở về với tha nhân là nhận ra nơi họ
những điểm tốt lành, đồng thời nhận ra nơi chính bản thân chúng ta cũng
có những khuyết điểm. Trở về với tha nhân là thực thi lòng bao dung nhân
hậu đối với những lầm lỗi của người khác. Thánh Phêrô đã hỏi Chúa Giêsu:
“Nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? có
phải bảy lần không?. Chúa trả lời: “Thày không bảo là đến bảy lần, nhưng
đến bảy mươi lần bảy” (Mt 18,21-22). Như thế, sự tha thứ không dừng lại
ở những con số, nhưng là tha thứ vô điều kiện. Hơn nữa, cùng với sự tha
thứ bao dung, chúng ta còn thể hiện tình yêu mến đối với người xúc phạm
mình. Nếu con người biết thực thi lòng bao dung đối với nhau, thì cuộc
đời này sẽ tươi đẹp biết bao, và vương quốc Đức Giêsu rao giảng sẽ được
thực hiện trên trần gian này.
Để thực sự
trở về với Chúa, với chính mình và với tha nhân, con người phải trải qua
những chiến đầu kiên cường. Phụng vụ Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay giới
thiệu với chúng ta Đức Giêsu chiến đấu chống lại những cám dỗ của ma
quỷ. Tên cám dỗ, đã xuất hiện ở đầu lịch sử để cám dỗ ông Ađam và bà
Evà, giờ đây lại tái xuất để cám dỗ Chúa Giêsu trong hoang địa. Thánh
Matthêu đã gọi đích danh tên cám dỗ là “quỷ”. Khi đặt ra những điều hấp
dẫn gọi mời, không phải quỷ có ý thử xem Chúa có phải là Đấng Thiên Sai
hay không, nhưng nó muốn phá vỡ chương trình của Thiên Chúa. Thực ra,
quỷ biết rõ Chúa Giêsu là ai. Sau này nhiều lần chúng đã hô lên trước
đám đông để nói về thân phận và nguồn gốc của Người. Ví dụ trường hợp
được thánh Mác-cô ghi lại: khi Chúa Giêsu chữa cho người bị thần ô uế
nhập tại Hội đường Caphanaum, thần ô uế đã la lớn tiếng rằng: “Ông Giêsu
Nagiarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệu chúng
tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Mc
1-23-24). Theo trình thuật của thánh Mátthêu, ma quỷ đã cám dỗ Chúa
Giêsu cùng một cách thức như nó đã cám dỗ bà Evà. Cũng vuốt ve, cũng lý
luận, cũng hứa hẹn. Như chúng ta thấy, Chúa Giêsu không chịu khuất phục
trước những lời ngon ngọt của ma quỷ. Người đã chiến thắng cám dỗ. Người
không để cho quỷ lừa đảo bằng những “lời nói có cánh” dịu ngọt của nó.
Lịch sử
không may có Ađam là nguyên nhân gây nên tội ảnh hưởng mọi thế hệ, nhưng
lại may mắn vì có Chúa Giêsu. Thiên Chúa không bỏ rơi con người dưới ách
của sự chết. Ngài đã có sáng kiến sai Con Một của Ngài đến trần gian để
phục hồi phẩm giá của họ, dẫn họ về với tình trạng thánh thiện của thời
ban đầu, thời mà Chúa hằng ngày đi dạo với con người trong làn gió hiu
hiu thổi của buổi chiều hôm. Nhờ Đức Giêsu mà hôm nay, chúng ta không
chỉ đi đàm đạo với Chúa, mà được Chúa nhận làm con, được Chúa nuôi dưỡng
và yêu thương ấp ủ vỗ về. Thánh Phaolô, trong Bài đọc II đã khẳng định:
“Tình yêu thương của Chúa mãnh liệt đến nỗi ở đâu tội lỗi lan tràn, ở
đó ân sủng càng chứa chan gấp bội. Thánh nhân cũng đã so sáng giữa ông
Ađam ở khởi đầu lịch sử với Đức Giêsu Kitô, đấng được gọi là Ađam thứ
hai, cũng là Ađam cuối cùng. Nếu Ađam thứ nhất là nguyên nhân của sự
chết, thì Đức Giêsu là nguyên lý của sự sống. Nhờ Đức Giêsu và trong Đức
Giêsu, mà nhân phẩm và danh dự của chúng ta được phục hồi.
Ma quỷ đã
xuất hiện ở khởi đầu lịch sử để cám dỗ bà Evà. Nó cũng đã xuất hiện khi
Chúa Giêsu bắt đầu cuộc đời công khai để loan báo Tin Mừng. Ma quỷ cũng
vẫn đang hiện diện trong cuộc đời để lừa lọc, gây chia rẽ và làm cho
chúng ta xa cách Chúa. Vì thế, Mùa Chay là mùa chiến đấu thiêng liêng
giữa ánh sáng với tối tăm, giữa thánh thiện với tội lỗi. Mùa chay cũng
là mùa trở về để nối lại tình xưa nghĩa cũ với Thiên Chúa trước khi con
người phạm tội, để nối lại tình huynh đệ thân thương với anh chị em mình.
Nhờ thành tâm trở về, mỗi chúng ta sẽ được canh tân, hòa giải và trở nên
tạo vật mới trong Đức Kitô.
Ngày 24/05/1979,
Ông Mc. Namara, chủ tịch Ngân hàng Thế giới 11 năm, đã cảnh giác thế
giới mỗi năm phung phí vào việc sản suất võ khí giết người 30 tỷ đô la
với 500.000 bác học và kỹ sư.
Ngày 26/08/1986,
đài Hànội loan tin Mỹ dự trù 1.000 tỷ đô la vào nghiên cứu chiến tranh
tinh cầu. Mỹ dã ba lần thử bắn hỏa tiễn phá vệ tinh đang bay. Đó là cách
hủy diệt loài người.
Lúc nào thế giới cũng
chọn sự chết hơn sự sống. Adam Eva dù được sống sung sướng trong vườn
thượng uyển đầy của ngon vật lạ dưới bóng cây sự sống, cây sự thiện của
Thiên Chúa, ông bà vẫn chạy theo tử thần (Bài 1).
Phần Đức Giêsu, Người
đã chạy theo Thánh thần, theo thần Sự sống. Dù phải sống trong hoang địa
khô cằn kham khổ, Ngài vẫn chọn lối sống hiến dâng toàn thân cho Cha
trên trời. Ngài không màng chi lương thực lạc thú danh vọng và của cải
vật chất. Ngài thực sự chỉ chuyên lo sống mật thiết trọn vẹn trong tình
cha con với Thiên Chúa. Trong những giờ phút linh thiêng nhất đó, quỷ dữ
đã mò tới tấn công mãnh liệt để phá vỡ mối tình thắm thiết giữa Đức
Giêsu và Thiên Chúa, như nó đã phá vỡ cuộc sống thân thiết giữa Adam và
Thiên Chúa. Nó không muốn Người được làm Con Thiên Chúa nên nó nói: Nếu
ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho hòn đá này hóa nên bánh,... thì hãy
gieo mình xuống... Nó tôn Ngài làm Con Thiên Chúa để phỉnh lừa Ngài theo
nó. Nếu trổ tài làm theo quỷ, tất nhiên là thuộc về quỷ, đâu còn thuộc
về Thiên Chúa nữa. Ôi, lậy Chúa, quỷ dữ cực kỳ xảo quyệt!
Đức Giêsu sống trên
dương thế như một vị cứu tinh đứng giữa sự sống và sự chết, giữa trời và
hỏa ngục, như Adam Eva đứng giữa cây sự sống và sự chết, giữa Thiên Chúa
và quỷ dữ. Adam Eva đã bị quỷ dữ đánh lừa. Trái lại, Đức Giêsu đã luôn
luôn chọn Thiên Chúa không để quỷ dữ đánh bại, Người phải đánh bại quỷ
dữ để giải phóng loài người thoát ách tử thần quỷ dữ.
Tử thần thứ nhất là
cơn đói khát của thân xác, lúc nào cũng đòi lạc thú, nấp bóng dưới dạng
no say, si mê tứ khoái: mê rượu, mê dâm, mê bạc, mê ma túy. Càng mê càng
khổ, đến tan xác mới hết mê. Đức Giêsu đã chiến thắng quỷ dữ đó bằng
sống lời Chúa: “Người ta sống không nguyên bởi bánh nhưng bởi mọi lời
Thiên Chúa phán ra”.
Tử thần thứ hai là
kiêu ngạo thử thách Thiên Chúa phải làm cho mình những điều lạ lùng càn
dở: “Cứ gieo mình xuống Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ nâng đỡ bạn
khỏi vấp chân vào đá”, làm theo quỷ nịnh hót chắc chắn tan xác, nên Đức
Giêsu đã nói: “Ngươi đừng thử thách Thiên Chúa”. Người đã đánh bại quỷ
dữ bằng đường lối sống hoàn toàn hạ mình xuống, phó thác trọn vẹn vâng
theo thánh ý Chúa, dù phải chịu đau khổ và chết trên thập giá.
Tử thần thứ ba là tiền
của, biết bao nhiêu kẻ đã phục mình xuống luồn cúi chạy chọt vì tham ô,
móc ngoặc, phạm những tội tầy trời. Salômôn hàng năm thâu vào kho 666 tạ
vàng, cứ ba năm ông cho đoàn tầu đi chở vàng bạc châu báu ngọc ngà về.
Sống trên núi vàng tiền của, ông phục mình xuống thờ lạy tà thần trụy
lạc, làm ô danh Thiên Chúa đã ban cho ông được khôn ngoan nhất thiên hạ.
Mạc đăng Dung, một kẻ vũ phu, ham giầu, ham danh, đã chiếm ngôi vua Lê
chiêu Tôn, tưởng được hưởng mọi vinh hoa phú quý. Ai ngờ phải tự trói
mình đi đến tận ải Nam Quan quỳ lậy nộp mình cho quân Minh xin tha chết.
Một vết nhơ nhất trong lịch sử Việt Nam. Quỷ đã dùng bả vinh hoa đó nhử
bao nhiêu người xuống hố diệt vong.
Trước những mưu mô
hiểm độc của quỷ dữ, Đức Giêsu đã quyết liệt đuổi quỷ cút đi lập tức:
“Quỷ satan kia, xéo đi! vì ngươi phải thờ lậy Thiên Chúa là Chúa ngươi,
và thờ lậy một mình Người mà thôi”.
Lậy Chúa Giêsu,
Chúa đã thẳng tay xua đuổi quỷ xéo đi, nhưng “chúng vẫn còn rình mò
chúng con như sư tử gầm thét rảo quanh tìm mồi cấu xé” (1Pr. 5). Xin
Chúa mau đến giải thoát chúng con khỏi nanh vuốt tử thần quỷ dữ, cho
chúng con an tâm vững chí sống theo lời Chúa và tiến bước trên đường
phụng sự Chúa đến hơi thở cuối cùng. Amen.
mục lục
Satan đột
nhập lòng người, vì con người khi phạm tội đã trở nên giống ma quỷ trong
hành vi chống đối Thiên Chúa. Tội lỗi đã đột nhập thế gian. Đây là cách
nói nhân hình, nhân cách hóa tội.
Tội là
một thuộc tính của hành vi, khi người ta không hành xử như một con người,
không sống như Thiên Chúa muốn con người sống!
Adam và
Eva đã không vâng phục Thiên Chúa khi ăn trái cấm, và hơn nữa đã không
tin rằng Thiên Chúa yêu thương mình, đã tin vào satan hơn tin vào Thiên
Chúa, đã muốn tự mình quyết định và không tùy thuộc Thiên Chúa nữa. Con
người phạm tội và sống bất hạnh, khi con người lấy mình làm tiêu chuẩn,
cho mình là nhất!
Không tin
vào Thiên Chúa, thì làm sao con người có thể tin vào nhau?! "Một lần bất
tín, vạn lần không tin". Bất hạnh!
Đức Yêsu
đã tới. Qua Ngài, con người có thể thắng được cám dỗ, khi người ta chọn
Thiên Chúa trên tất cả, khi người ta cậy dựa vào Đức Yêsu. Nếu Thiên
Chúa là nhất, nếu xác thịt và những thú vui của xác thịt tôi không phải
là nhất, thì tôi không phạm tội và tôi sống hạnh phúc.
Như mỗi
người chúng ta, và như tất cả mọi người, Đức Yêsu đã bị cám dỗ về của
ăn, đòi cho mình là nhất, và quyền hành.
. Người
ta lo cho tìm kiếm của ăn, tìm kiếm những gì thuộc về trần thế! Thực sự
của ăn là cần, và chính Chúa Yêsu cũng dạy chúng ta cầu xin cho được
bánh ăn hằng ngày trong kinh "Lạy Cha", nhưng của ăn không là tất cả!
"Con người không chỉ sống bằng cơm bánh mà còn bởi Lời Chúa". Người ta
còn một nhu cầu khác quan trọng hơn! Có bao người giầu có, cơm dư gạo
thừa, mà họ vẫn sống chán nản và đau khổ. Cơm bánh thôi, chưa đủ.
. Có bao
lần người ta đòi Thiên Chúa làm theo ý người ta! "Chớ thử thách Chúa là
Thiên Chúa ngươi". Con người phải làm theo ý Thiên Chúa chứ không đòi
hỏi Thiên Chúa phải làm theo ý mình.
. "Tôi
hiến cho Ngài tất cả, nếu Ngài phục mình bái lạy tôi"! Chỉ một hành vi
nhỏ không chính đáng nhưng được lợi tất cả, tại sao Đức Yêsu không làm?
Đức Yêsu không làm, vì nếu Đức Yêsu làm, thì Ngài không thể là Ngài, thì
Ngài không thể thực hiện ý Thiên Chúa Cha được.
Chúa Yêsu
đã bị cám dỗ, không chỉ trong hoang địa mà còn trong suốt đời, nhất là
giây phút cuối đời Ngài trên thập giá "nếu ông là Con Thiên Chúa, thì
hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng tôi tin" (Mt.27, 42), và Ngài chiến
đấu chống cám dỗ đến độ đổ máu (Dt.12, 4).
Xin cho
chúng ta biết nhìn lên Đức Yêsu và noi theo gương Ngài, tựa vào Ngài để
chiến đấu chống mọi cám dỗ xúi ta phạm tội, làm ta mất nhân phẩm, và mất
sự bình an hạnh phúc với Thiên Chúa và tha nhân.
Đã là
người, ai cũng bị cám dỗ, kể cả Đức Yêsu. Bị cám dỗ, và bị cám dỗ liên
lỉ, cũng không hàm nghĩa người bị cám dỗ là người yếu hèn. Chỉ khi nào
con người phạm tội, thuận theo cám dỗ, con người mới trở nên xấu mà thôi.
Tuy dù mỏng dòn, nhưng con người được mời gọi để trở nên cao thượng và
tuyệt vời hơn.
1. Con
người đầu tiên đã phạm tội
“Thiên
Chúa nắn con người từ bùn đất, thổi sinh khí vào, và con người trở nên
sinh vật sống động”. Khoa học chấp nhận thuyết tiến hoá. Vật chất tiến
hoá từ vật chất vô cơ đến hữu cơ, vô sinh đến hữu sinh, từ loài không có
xương sống đến có xương sống, từ động vật không có vú (vô nhũ) đến động
vật có vú (hữu nhũ), từ khỉ đến người. Có một số người không hiểu biết
nhiều về Kinh Thánh muốn đối kháng Kinh Thánh và khoa học, cho rằng Kinh
Thánh sai lầm và dạy những điều ấu trĩ trái khoa học. Thực ra Kinh Thánh
không nhằm dạy những kiến thức khoa học, nhưng Kinh Thánh dùng những
kiến thức đương thời để truyền đạt sứ điệp mặc khải. Điều Kinh Thánh
muốn nói ở đây, không là con người được tạo dựng thế nào, nhưng là con
người được Thiên Chúa tạo dựng, con người vừa là vật chất vừa là tinh
thần, vừa mong manh như đất sét vừa tuyệt vời vì có Thần Khí của Thiên
Chúa.
Trong
cuộc chiến với với ma quỷ, được biểu trưng qua con rắn, con người đã bị
thua. Tuy nhiên, dù bị cám dỗ, nhưng con người vẫn hoàn toàn tự do, con
người có thể không phạm tội. Phạm tội là hành vi tự do của con người. Ai
cũng bị cám dỗ, nhưng không phải ai cũng phạm tội. Cám dỗ, thuộc bản
chất con người; nhưng phạm tội không là bản chất con người. Tín điều Đức
Maria vô nhiễm nguyên tội dạy Kitô hữu biết Mẹ đã không phạm tội. Cám dỗ
là cuộc chiến nội tâm, nơi đó con người được mời gọi để siêu vượt, để
vươn lên theo tiếng gọi thần linh, để sống cao thượng hơn. Một cách cụ
thể, cám dỗ là khuynh chiều sống theo bản năng chứ không theo lý trí
“hướng thiện”. Chính khi sống theo lý trí “hướng thiện”, con người trở
nên cao thượng hơn, hạnh phúc hơn, giúp người khác vui và hạnh phúc hơn.
Adam và
Evà đã phạm tội, không vâng lời Thiên Chúa, không tin vào lời Chúa mà
tin vào lời con rắn, tin vào ma quỷ hơn tin vào Thiên Chúa, nghi ngờ
Thiên Chúa yêu thương mình, cho rằng Thiên Chúa muốn ngăn cản mình thành
“thần”. Tội lớn nhất, là không tin rằng Thiên Chúa yêu thương mình. Tin
vào mình hơn tin vào Thiên Chúa, muốn làm chủ đời mình chứ không muốn
phó thác đời mình trong tay Thiên Chúa yêu thương. Hậu quả của tội, là
bất an, không hạnh phúc. Ai không tin rằng Thiên Chúa yêu thương mình,
ai không sẵn sàng phó thác đời mình nơi Thiên Chúa, người đó không thể
sống bình an và hạnh phúc.
2. Thiên
Chúa muốn cứu độ con người
Khi con
người phạm tội, không tin rằng Thiên Chúa yêu thương mình, con người
loay hoay với chính mình, sợ người khác chiếm điều tốt của mình, nên tìm
cách tiêu diệt người khác, kể cả những người thân yêu của mình. Cain đã
giết Abel, con người giết hại lẫn nhau. Không tin vào Thiên Chúa, không
tin vào con người, làm sao sống hạnh phúc, làm sao sống bình an! Con
người phạm tội đã sống trong “hoả ngục” ngay tại trần gian.
Thiên
Chúa đã yêu thương, và vẫn luôn yêu thương con người. Khi con người phạm
tội, con người phá huỷ chương trình của Thiên Chúa; nhưng Thiên Chúa vẫn
tiếp tục công trình cứu độ con người. Tình yêu Thiên Chúa lớn hơn sự bất
trung và thất tín của con người. Thiên Chúa tiếp tục công trình cứu độ
mỗi người qua những tác động mời gọi, yêu thương, tha thứ. Ngài luôn
luôn tỏ cho con người thấy, Ngài vẫn yêu thương dù con người bất trung
thất tín, dù con người quay lưng lại với Ngài. Ngài vẫn dùng người này
người kia, để nói với mỗi người về sự quan phòng và yêu thương tha thứ
của Ngài. Qua những biến cố trong đời, Thiên Chúa luôn nói với con
người: Ngài vẫn đang yêu thương và mời gọi con người trở lại với Ngài,
đáp lại tình yêu của Ngài bằng tin tưởng phó thác đời mỗi người cho
Ngài.
Hành vi
tuyệt đỉnh của tình yêu Thiên Chúa đối với con người, là Ngài cho Con
Ngài nhập thể. Đức Yêsu là người hoàn toàn như bất cứ ai. Ngài cũng chịu
những cám dỗ mà con người phải chịu, Ngài bị cám dỗ mạnh và nặng nề như
bất cứ người nào bị cám dỗ nặng nề và dai dẳng nhất. Qua cuộc sống tại
thế, Đức Yêsu dạy con người con đường sống để hạnh phúc đích thực.
3. Đức
Yêsu bị cám dỗ nhưng Ngài vượt thắng
Cám dỗ
cơm bánh, là cám dỗ bình thường và gần gũi nhất đối với con người. “Có
thực mới vực được đạo”. Đã bốn mươi ngày đêm ăn chay, nếu không ăn có
thể sẽ chết. Cám dỗ biến đá thành bánh là một cám dỗ rất “hợp lý”. Đức
Yêsu chấp nhận thân phận làm người. Là người, không thể làm đá thành
bánh được. Chấp nhận giới hạn con người, là một điều kiện giúp con người
hạnh phúc.
Nhẩy từ
đỉnh đền thờ xuống, sẽ được mọi người kính phục, giúp họ dễ dàng đón
nhận những gì Đức Yêsu rao giảng. Đức Yêsu đã không làm theo điều ma quỷ
đề nghị; Ngài không bắt Thiên Chúa phải làm theo suy nghĩ của mình cho
dù “hợp lý” theo một khía cạnh nào đó. Khiêm tốn, không đòi trổi trang,
không buộc Thiên Chúa phải làm theo ý mình, là cách hành xử giúp con
người hạnh phúc.
Cám dỗ về
quyền hành cũng là một cám dỗ thường xảy ra với mọi người, kể cả nơi các
đấng bậc trong Giáo Hội và nơi gia đình. Có người nghĩ rằng một khi có
quyền hành, họ sẽ làm người khác sống tốt, và giới hạn được sự dữ. Chỉ
cần đánh đổi một chút xíu: bái lạy ma quỷ, là được những gì mình cần để
làm cho thế giới này tốt hơn. Sự thật không phải vậy. Suy phục Thiên
Chúa, mới làm cho con người hạnh phúc thật.
Câu hỏi
gợi ý chia sẻ:
1. Theo
bạn, tội là gì? Tội huỷ hoại con người đến độ nào?
Xin cho ví
dụ.
2. Cám dỗ là
gì? Bị cám dỗ nhiều, có là dấu chỉ mình sa đoạ và thấp hèn không? Tại
sao?
3. “Xin chớ
để chúng con sa chước cám dỗ”. Bạn hiểu sao về lời kinh “Lạy Cha” này?
A. Hạt
giống...
Những cơn
cám dỗ mà Đức Giêsu chịu là tiêu biểu cho những cám dỗ chính mà ai ai
cũng có thể gặp. Cho nên cách Ngài chiến đấu với chúng và chiến thắng
chúng cũng là gương mẫu cho mọi người noi theo:
- Cám dỗ thứ
nhất (biến đá thành bánh) là tiêu biểu cho cám dỗ chỉ sống dựa vào những
nhu cầu vật chất của thân xác. Đức Giêsu chiến thắng nhờ biết rằng
“Người ta không chỉ sống nhờ cơm bánh”.
- Cám dỗ thứ
hai (nhảy từ nóc đền thờ xuống) là tiêu biểu cho ý muốn quá ỷ lại vào
quyền phép Thiên Chúa, buộc Ngài phải làm phép lạ cho mình. Đức Giêsu
nói “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa ngươi”.
- Cám dỗ thứ
ba (trên núi cao nhìn xuống các nước thiên hạ) là tiêu biểu cho lòng ham
muốn quyền hành và vinh hoa lợi lộc với điều kiện là phải thỏa hiệp với
sự dữ (thờ lạy Satan). Đức Giêsu nói “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là
Thiên Chúa của ngươi và chỉ tờ phương một mình Ngài mà thôi”.
B.... nẩy
mầm.
1. Trong
tiếng do thái, chữ “cám dỗ” có nghĩa là “thử thách”, “thử tài”, giống
như chữ “đi thi” của chúng ta ngày nay. Cám dỗ là đi thi: ai thắng cám
dỗ là thi đậu, ai sa ngã là thi rớt. Bởi thế cám dỗ là dịp tốt để ta
“lấy bằng cấp”. Tuy nhiên ta đừng khinh địch, hãy nhớ lời Chúa Giêsu căn
dặn “Thứ quỷ này chỉ có thể thắng nhờ ăn chay cầu nguyện”, nhớ lời trong
Kinh Lạy Cha “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”, và nhớ Chúa Giêsu
trong bài Tin Mừng này đã chiến thắng được nhờ sự trợ giúp và che chở
của Thiên Chúa.
2. Có người
nói rằng đạo Công giáo đầy mặc cảm tội lỗi cho nên bao giờ cũng bắt đầu
Thánh lễ bằng lời kêu gọi sám hối. Thực ra chính Chúa Giêsu cũng luôn
kêu gọi sám hối. Cho nên đây không phải là mặc cảm mà là một thực tế:
con người dễ đi lạc, cho nên cần luôn ý thức tình trạng lạc đường ấy để
quay về.
3. “Người ta
sống không chỉ nhờ cơm bánh”: rất nhiều khi chúng ta bận rộn kiếm ăn đến
nỗi không còn nghĩ đến việc tìm kiếm những giá trị tinh thần và đạo đức
gì nữa. Như thế là chúng ta chỉ lo cho cuộc sống thân xác chứ không lo
cho cuộc sống linh hồn.
4. “Ngươi
chớ thử thách Thiên Chúa”: thay vì tìm biết và vâng theo ý Chúa, chúng
ta lại thường buộc Chúa phải làm theo ý mình, và khi đòi không được như
thế thì giận hờn Thiên Chúa.
5. “Ngươi
chỉ thờ lạy một mình Thiên Chúa”: rất nhiều khi chúng ta đã tôn thờ
những thứ khác thay chỗ Thiên Chúa, như tiền bạc, thú vui, danh vọng
v.v.
6. Đức Giêsu
đã dựa vào Lời Chúa trong Thánh Kinh để tìm được ánh sáng soi dẫn quyết
định của mình, nhờ đó mà không vướng cạm bẫy của Satan. Lời Chúa là ánh
đèn soi bước con đi.
7. Trong
vườn, một gốc nho héo úa giữa bao cây xanh tươi mơn mởn. Tưới bao nhiêu
phân cũng chẳng thấy khá hơn. Cuối cùng, người chủ đào gốc lên xem, thì
thấy có miếng gỗ nằm chắn ngang gốc nho.
Có lẽ đời ta
cũng vậy. Nếu không đâm rễ sâu vào lòng đất là Lời Chúa, đời ta cũng sẽ
tàn úa. (Góp nhặt)
8. Một đêm
giáng sinh nọ, Thánh Giêrônimô đang quỳ bên máng cỏ để suy niệm về mầu
nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người thì bỗng Chúa Hài Đồng
hiện ra trong vầng sáng chói loà. Ngài hỏi thánh nhân:
- Giêrônimô,
con có gì làm quà cho Ta trong ngày Ta giáng sinh không?
- Lạy Chúa
Hài Đồng, thánh nhân đáp, con xin dâng Chúa trái tim của con.
- Được lắm,
nhưng còn gì khác nữa không?
- Lạy Chúa,
con xin dâng Chúa tất cả những gì con có và tất cả những gì con có thể.
- Con còn
điều gì khác nữa không?
- Con có
điều gì khác để dâng Chúa nữa đâu. Thánh nhân khẩn khoản thưa.
Chúa Hài
Đồng bảo:
- Này
Giêrônimô, hãy dâng cho ta cả những tội lỗi của con nữa.
- Ô lạy Chúa,
Thánh nhân hốt hoảng hỏi lại, làm sao con dâng cho Chúa tội lỗi của con
được?
- Được chứ!
Ta muốn con dâng cho Ta tội lỗi của con để Ta có thể tha thứ cho con. Đó
là điều Ta rất mong đợi.
Nghe thế,
thánh nhân bật khóc vì sung sướng.
(Trích "Món
quà giáng sinh")
A. DẪN
NHẬP.
Chúng ta
bắt đầu bước vào mùa Chay thánh. Mùa chay kéo dài trong 40 đêm ngày. Đây
là thời gian chiến đấu, chiến đấu với ngọai cảnh, chiến đấu với chính
bản thân mình. Thánh Kinh gọi chung là chiến đấu với sự dữ. Lịch sử đã
chứng minh: Adong và Eva – những con người đầu tiên – bị ma quỉ cám dỗ
và đã bị sa ngã. Hậu quả đem lại cho lòai người là mất quyền làm con
Chúa, phải sống dưới quyền lực của ma quỉ và tội lỗi và sau cùng là sự
chết.
Đức Giêsu
– được gọi là Adong mới – cũng bị ma quỉ cám dỗ trong sa mạc, nhưng đã
kiên cường chống trả và sau cùng đã chiến thắng vẻ vang. Chúng ta cũng
bị ma quỉ cám dỗ vì Chúa cho phép ma quỉ cám dỗ để chúng ta trở nên con
người trưởng thành và có giá trị, bởi vì như Kinh Thánh nói: “Lửa thử
vàng, gian nan thử đức”. Chúa đòi chúng ta phải chiến đấu kiên cường để
chống lại các chước cám dỗ.
Chúng ta
phải nhận định rằng Thiên Chúa yêu thương con người, ban cho con người
mọi ơn lành hồn xác, nhưng yêu thương không có nghĩa là không bị thử
thách. Thử thách là điều kiện cần để làm cho con người có giá trị, mới
biết rõ vàng thau, mới biết ai trung thành, ai phản bội. Thử thách đòi
con người phải “lựa chọn”. Chọn lựa có thể đúng, có thể sai. Chọn đúng
theo ý Chúa thì được hạnh phúc, chọn sai ý Chúa, nghĩa là theo ý mình,
thì bất hạnh. Sự lựa chọn làm cho con người phải băn khoăn, đắn đo vì
phải lãnh lấy hậu quả. Adong đã lựa chọn, Đức Giêsu cũng lựa chọn, nhưng
ai đã chọn đúng, ai đã chọn sai? Chúng ta hãy đọc các bài Sách Thánh để
rút ra bài học thực hành.
B. TÌM
HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc
1: St 2,7-9.
Thiên
Chúa yêu thương và thánh thiện vô cùng không bao giờ cám dỗ để làm hại
ai, nhưng Ngài để con người bị cám dỗ với mục đích có quyền tự do lựa
chọn để con người tỏ lòng trung thành hay chống lại Ngài.
Ma quỉ đã
nắm lấy cơ hội này, lấy hình dạng con rắn để cám dỗ bà Evà. Lý do đưa ra
rất đơn giản: cứ ăn đi, chẳng chết chóc gì đâu vì Thiên chúa biết ngày
nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra và ông bà sẽ trở nên như
vị thần biết điều thiện ác. Chính sự kiêu ngạo đã thúc đẩy ông bà đến
chỗ không muốn tôn trọng thánh ý Thiên Chúa mà muốn sống tự lập, không
qui phục Thiên Chúa nữa.
Đúng là
gieo gió thì gặt bão, ông bà đã sa ngã, phải lãnh nhận lấy trách nhiệm
về việc làm của mình, hậu quả của sự sa ngã ấy là mất quyền làm con
Chúa, phải mang thân phận tôi đòi dưới quyền lực tội lỗi, chịu đau khổ
hồn xác, và sau cùng phải chết. Hậu quả tai hại này là do sự lựa chọn
sai lầm.
+ Bài đọc
2: Rm 5,12-19.
Thánh
Phaolô so sánh Đức Kitô với Adong để nhìn thấy sự khác biệt giữa hai vị.
Adong vì bất trung đã sa ngã phạm tội, làm cho mọi người trở thành tội
nhân, đã đem sự chết đến cho mọi người kể cả những người không trực tiếp
lỗi luật Chúa. Còn Đức Kitô nhờ sự vâng phục và sự dâng hiến mình làm
cho mọi người tìm lại sự sống, hạnh phúc và tình yêu.
Thánh
Phaolô ca tụng vai trò của Đức Kitô, sự hy sinh chịu chết của Ngài lớn
lao hơn tất cả tội lỗi của nhân lọai. Nhờ Ngài mà nhân lọai nên công
chính, được tái lập tình trạng nghĩa thiết với Thiên Chúa và được đón
lại sự sống của Thiên Chúa.
+ Bài tin
mừng: Mt 4, 1-11.
Thiên
Chúa thì không bao giờ bị cám dỗ, nhưng Đức Giêsu với tính cách là một
con người thì vẫn bị cám dỗ như thường. Ma qủi đã cám dỗ Đức Giêsu đừng
thi thành thánh ý Chúa Cha hoặc thi hành sứ vụ cứu thế của mình bằng
một đường lối khác với kế họach của Thiên Chúa Cha: thay cho sự khiêm
hạ và khổ nạn bằng quyền lực thế gian và sức mạnh vật chất.
Qua bài
tường thuật, thánh Matthêu cho biết ma quỉ đã cám dỗ Đức Giêsu xoay
quanh 3 vấn đề:
a) Chuộng
những thứ vật chất thỏa mãn cho nhu cầu cuộc sống thân xác mà bỏ quên
lương thực nuôi dưỡng cuộc sống thần linh.
b) Đối
với Thiên Chúa thì không chú ý vâng theo ý Ngài mà lại bắt Ngài phải
chiều theo ý riêng của mình.
c) Không
thờ phượng một mình Thiên Chúa, nhưng lại tôn thờ những vinh hoa lợi lộc
của thế gian.
Đức Giêsu
đã cương quyết tuân phục thánh ý Chúa Cha nên đã chiến thắng tất cả các
cơn cám dỗ. Khác với Adong-Evà, Đức Giêsu, một Adong mới, đã biết lựa
chọn đúng và kết quả là đem lại ơn cứu rỗi và sự sống cho lòai người.
C. THỰC
HÀNH LỜI CHÚA.
Sống là
lựa chọn.
I. ĐỨC
GIÊSU BỊ MA QUỈ CÁM DỖ.
1. Đức
Giêsu vào hoang địa.
Khởi đầu
sứ vụ rao giảng Tin mừng, Đức Giêsu được Thánh Thần đưa vào hoang địa. Ở
đó sống trong cô tịch, ăn chay 40 đêm ngày, sau đó Ngài cảm thấy đói và
nhân cơ hội này quỉ hiện ra cám dỗ Ngài.
Đức Giêsu
đi vào trong hoang điïa, xa chốn kinh thành để tĩnh tâm. Hoang địa hay
sa mạc là nơi trơ trọi, vắng vẻ, thiếu thốn, khác hẳn với phố thị ồn ào,
tiện nghi, nơi mà con người phải đối diện với chính mình và Thiên Chúa.
Nếu khám phá và phó thác nơi tình yêu Thiên Chúa, con người lại cảm nhận
được tình yêu lớn lao ấy. Do đó, theo quan niệm Thánh Kinh, sa mạc hay
hoang địa tiềm ẩn một giá trị thật to lớn vì giúp con người dễ “gặp gỡ
Thiên Chúa”. Nhưng cũng là nơi mà con người phải chiến đấu chống các cám
dỗ do ma qủi bầy ra để làm ta xiêu lòng.
Đức Giêsu
ăn chay 40 đêm ngày. Đây là con số biểu tượng thường được Thánh Kinh
dùng để chỉ một khỏang thời gian: 40 ngày lụt đại hồng thủy (St 7,4), 40
năm dân Do thái trong sa mạc (Xh 16,35), Maisen lên úi cầu nguyện 40 đêm
ngày (Xh 24,18)… Ở đây muốn nói lên việc phải có thời gian cần thiết để
huấn luyện và thử thách trước khi nhận lãnh một sứ mệnh.
2. Ngài
bị ma qủi cám dỗ.
a) Ai
tiết lộ việc Đức Giêsu bị cám dỗ?
Không ai
đọc câu chuyện này lại không nhớ rằng nguồn cung cấp duy nhất mọi dữ
kiện này phải do từ chính Đức Giêsu. Trong hoang địa Ngài ở một mình,
trong cơn chiến đấu không có ai ở bên cạnh Ngài nên không ai biết được;
như vậy phải do chính Đức Giêsu kể lại cho các môn đệ Ngài nghe. Từ cuộc
chiến đấu cá nhân Ngài đã vén màn để giúp chúng ta trong cuộc chiến đấu
của mình.
b) Ý
nghĩa chước cám dỗ.
Thông
thường cám dỗ có nghĩa xấu, bao giờ cũng bao hàm ý xúi giục làm điều
quấy, tìm cách lôi cuốn vào đường tà. Nhưng trong nguyên ngữ “peirazein”
có nghĩa là thử nghiệm (khác hẳn với cám dỗ). Một trong những truyện
tích vĩ đại nhất của Cựu ước là truyện Abraham súyt phải dâng Isaac là
con trai độc nhất làm của lễ: “Khi mọi việc kia đã xong thì Thiên Chúa
thử Abraham”(St 22,1). Rõ ràng chữ “thử” ở đây không có nghĩa là dụ dỗ
làm điều ác.
Nói rõ
hơn, trong tiếng Do thái, chữ “cám dỗ” có nghĩa là “thử thách”, “thử
tài”, giống như chữ “đi thi” của chúng ta ngày nay. Cám dỗ là đi thi: ai
thắng cám dỗ là thi đậu. Ai sa ngã là thi rớt. Bởi thế cám dỗ là dịp tốt
để ta “lấy bằng cấp”. Người qua thử thách mới có giá trị, người chưa qua
thử thách chưa hẳn là người đã đứng vững:
Có gió
lung mới biết tùng bá cứng,
Có lửa
hừng mới biết thức vàng cao.
c) Có
người hồ nghi việc Đức Giêsu bị cám dỗ.
Cách cám
dỗ diễn ra, có người bảo là không thể tin được. Nhưng xét ra nó rất hợp
với tính tình con người. Con Thiên Chúa dám xông pha vào nguy cơ của con
người hay gặp nhất để con người nhận thấy rằng Ngài ở bên cạnh mà nâng
đỡ, Ngài hiểu rõ người ta khi bị cám dỗ: “Vì Ngài bị cám dỗ, Ngài có thể
cứu giúp những ai bị cám dỗ”(Dt 2,18).
3. Ba
chước cám dỗ diễn ra.
Cũng cần
nhớ sự khác biệt giữa Cựu ước và Tân ước về cám dỗ. Quan niệm trong Cựu
ước là chính Thiên Chúa đã thử thách con người. Tân ước minh định tác
nhân cám dỗ con người là ma quỉ. Vì thế, trong bài Tin mừng hôm nay,
thánh Matthêu đã mô tả Đức Giêsu đã phải trải qua ba cơn cám dỗ.
a) Cám dỗ
thứ nhất (Mt 4,3-4) “Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy khiến những hòn đá
này biến thành bánh”. Qua cám dỗ này, chúng ta thấy ma quỉ không có ý
cám dỗ Chúa về sự mê ăn uống mà cám dỗ Ngài làm phép lạ cho đá hóa thành
bánh, nghĩa là chúng muốn cám dỗ Ngài dùng sai khả năng, sai mục đích,
dùng uy quyền vô lý mà biểu diễn một phép lạ không có lý do chính đáng.
Nếu Ngài nghe nó mà làm phép lạ thì Ngài mắc mưu nó vì Ngài không còn
tin vào sự quan phòng của Chúa nữa. Ngài đã chiến thắng và dựa vào Kinh
Thánh mà bảo nó: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh nhưng còn nhờ mọi
lời miệng Thiên Chúa phán ra”(Mt 4,4).
b) Cám dỗ
thứ hai (Mt 4,5-7). “Nếu ông là Con Thiên Chúa hãy gieo mình xuống đi”.
Trong cơn cám dỗ này, ma quỉ xúi giục Đức Giêsu về sự kiêu ngạo, muốn
tôn mình lên. Trong cám dỗ thứ nhất, Đức Giêsu đã dựa vào sự quan phòng
che chở của Thiên Chúa để chiến thắng ma quỉ. Trong cơn cám dỗ này, quỉ
lại lợi dụng sự che chở ấy để dụ dỗ Đức Giêsu đòi hỏi Thiên Chúa can
thiệp để che chở cho mình (Tv 91,13). Và như vậy, con người áp đặt ý
muốn của mình trên Thiên Chúa, muốn Thiên Chúa phải theo ý mình mà thực
hiện một phép lạ, tức là thử thách Thiên Chúa. Đức Giêsu đã trả lời cho
ma quỉ qua Thánh Kinh: “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của
ngươi”(Mt 4,7).
c) Cơn
cám dỗ thứ ba (Mt 4,8-10). “Nếu ông sấp mình thờ lậy tôi”. Đây là cám dỗ
mà xưa kia dân Do thái đã sai phạm. Khi con người ham mê bất cứ thứ gì
đến độ lơ là, xem nhẹ bổn phận làm con Chúa là đã sa vào cám dỗ này. Đức
Giêsu đã từ chối thờ ngẫu tượng để được vinh quang trần thế. Đối lại,
Ngài sẽ chinh phục thế giới không phải bằng cách “sấp mình thờ lạy
Satan”, nhưng bằng thập giá. Vì vậy, Ngài đã từ chối bằng câu Thánh
kinh: “Ngươi phải thờ lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ
phượng một mình Người mà thôi”(Mt 4,10).
4. Sau
cùng, Đức Giêsu đã chiến thắng.
Đức Giêsu
đã không thể thắng các cơn cám dỗ nếu Ngài chỉ qui hướng về mình. Ngài
sẽ thua ma quỉ nếu Ngài tìm vinh danh mình khi hóa đá thành bánh. Ngài
sẽ bị sập bẫy Satan khi nhảy xuống từ nóc cao đền thờ để được khen ngợi
tung hô. Ngài sẽ thất bại thảm thương khi quỳ lạy ma quỉ để được vinh
hoa thế gian. Nhưng không, không bao giờ Ngài làm thế, vì tinh thần chủ
đạo của Ngài, vũ khí sắc bén của Ngài chính là: “Thánh ý Cha”. Ngài suy
nghĩ, nói năng, hành động bất cứ điều gì cũng là để theo thánh ý Cha.
Chính trong cơn cám dỗ khốc liệt nhất của Ngài trước cái chết, Ngài cũng
chỉ thốt lên: “Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng
xin đừng theo ý con, mà theo ý Cha”(Mt 26,39).
II. CHÚNG
TA CŨNG BỊ MA QUỈ CÁM DỖ.
1. Mọi
người đều bị cám dỗ.
Nếu không
có bài Tin mừng hôm nay, người ta dễ dàng nghĩ rằng sở dĩ Đức Giêsu hòan
tòan vô tội là vì Ngài không hề bị cám dỗ. Nhưng đọan Tin mừng này cho
thấy chính Đức Giêsu – dù là Con Thiên Chúa, có bản tính thần linh hòan
tòan trong sạch – cũng bị ma quỉ cám dỗ. Thật là một mạc khải bất ngờ,
đáng ngạc nhiên và lý thú, đồng thời cũng là điều an ủi chúng ta, tạo
động lực cho chúng ta thắng những cơn cám dỗ xẩy đến. Đức Giêsu là Thiên
Chúa mà cũng bị cám dỗ, nên chúng ta vốn là người phàm, nếu có bị cám
dỗ, dù nặng nề tới đâu, cũng là chuyện dễ hiểu. Điều đó có nghĩa: đã là
con người thì đều bị cám dỗ.
Cám dỗ
không phải là xấu. Nó có thể giúp người ta nên tốt hơn. Cám dỗ không
phải là tội. Nó sẽ giúp thấy rõ hơn sự thánh thiện nơi một con người.
Cám dỗ cũng không phải là hình phạt, song nó sẽ là triều thiên vinh
quang cho những ai chiến thắng (W. Barclay). Kinh Thánh nói: “Lửa thử
vàng, gian nan thử đức”. Có qua cám dỗ mới biết được ai là người thánh
thiện, ai là kẻ đê hèn. Waterstone có viết: “Đầu hàng cám dỗ là hành
động của thú tính, chiến thắng nó mới là con người”.
2. Sự cao
quí của cám dỗ.
Người Do
thái có câu nói: “Hỡi Đấng Thánh, nguyện danh Ngài được chúc tụng, vì
Chúa không hề nâng một người nào lên chức vị cao trọng cho đến chừng
Ngài đã tra xét và thử nghiệm người ấy và nếu người ấy đứng nổi trong
cơn cám dỗ, lúc ấy Ngài sẽ nâng người ấy lên địa vị cao trọng”.
Đây là
một chân lý lớn lao và cao quí. Điều chúng ta gọi là cám dỗ không có mục
đích khiến ta phạm tội mà để ta vượt thắng tội lỗi. Nó không có mục
đích làm ta xấu, mà làm chúng ta trở nên tốt, không nhắm làm ta suy yếu
mà để khi ta ra khỏi cơn thử nghiệm sẽ trở nên mạnh mẽ hơn. Chúng ta nên
nhớ sự cám dỗ không phải là một hình phạt mà là vinh hiển, nên xem cả
biến cố và kinh nghiệm này không phải là sự cám dỗ mà là cuộc thử nghiêm
của Đức Giêsu.
3. Sách
lược của cơn cám dỗ.
Sách
lược, đường lối và mưu mẹo của ma quỉ phải nói là tinh vi thâm hiểm. Nói
khác đi, ma quỉ là lòai thông minh quảng bác hơn hẳn con người nhiều,
nên những cách thức dụ khị con người thì thiên hình vạn trạng. Do đó,
chúng không bao giờ cám dỗ con người phạm tội ngay vì làm như thế con
người dễ phản ứng, nhưng chúng lại rất khôn khéo chỉ xúi giục con người
phạm những lỗi nhẹ, cứ thế tăng dần lên cho đến lúc con người dễ dàng
phạm tội trọng, tức là sa ngã hòan tòan vào vòng phong tỏa của chúng.
Ngòai ra, ma quỉ rất kiên nhẫn chịu khó, thất bại lần này chúng sẽ bầy
keo khác, không chỉ cám dỗ đôi ba lần, nhưng mãi mãi, liên tục cho đến
khi đánh gục con người mới thôi. Ma quỉ nguy hiểm như thế, ai dám tự hào
và coi thuờng?
Truyện:
Từ bước khởi đầu nhỏ.
Hắn giết
một cảnh sát viên. Bây giờ hắn phải trả bằng giá hình phạt. Người ta cột
buộc hắn vào ghế điện trong nhà tù Sing Sing. Người ta buộc những miếng
kim khí vào cái vòng trên đầu hắn và bắp chân hắn. Một lát nữa, dòng
điện mạnh sẽ chạy qua thân xác hắn, đủ gây nên một sự mất ý thức ngay
lập tức và chết luôn. Viên chức phụ trách hỏi tội nhân bị kết án xem
hắn có muốn nói gì cuối cùng không! Hắn nói buột ra với giọng điệu đau
đớn cực độ: “Đây, tất cả đã khởi đầu khi tôi ăn cắp đồng năm xu ở túi áo
của mẹ tôi. Rồi tôi ăn cắp hai đồng năm xu. Tôi đã bắt đầu ăn cắp đồ vật
ở trường học, ở tiệm tạp hóa, tiệm thuốc. Hai đứa bạn và tôi bắt đầu tập
luyện, muốn kiếm được càng ngày càng nhiều hơn. Chúng tôi quyết định
cướp ngân hàng, và lần đó tôi đã bắn viên cảnh sát. Đó, tất cả bắt đầu
với một đồng năm xu” (A. Tonne, Bài giảng TM Chúa nhật A, tr 39).
Chúng ta
sẽ bị cám dỗ, không ai có thể thể thóat được. Khi bị cám dỗ, câu đầu
tiên chúng ta phải biết nói ba chữ “không”: không chiều theo đòi hỏi của
xác thịt, không chiều theo sự tự tôn tự đại và không đặt mammon lên làm
Chúa tể.
4. Phương
pháp chống cám dỗ.
Mùa Chay
là mùa dọn mình để chiến đấu với các cơn cám dỗ. Cám dỗ từ ma quỉ, từ
nơi người khác, và nhất là từ ngay chính bản thân. Có bao nhiêu giác
quan là có bấy nhiêu cửa ngõ cho cám dỗ đi vào. Nếu so sánh vũ khí để
chiến đấu với cơn cám dỗ là “cung và tên” thì “cung”chính là lòng khiêm
tốn nhận mình yếu hèn cần nhờ ơn Chúa, và “tên” chính là ý chí cương
quyết nói “không” trước cơn thử thách. Trong các kế sách để thắng cám dỗ
có một diệu kế mà chúng ta cần thực hiện: đó là “Đào vi thương sách”.
Diệu kế này đặc biệt phải dùng khi bị cám dỗ về đức trong sạch.
Ngòai ra,
chúng ta phải luôn đề cao cảnh giác, đừng xông pha vào nơi nguy hiểm,
nơi dễ dẫn đến dịp tội. Hãy tránh xa những hòan cảnh có thể đưa chúng ta
đến phạm tội. Cổ nhân của ta đã từng khuyên: “Cẩn tắc vô ưu”: cẩn thận
đề phòng thì bớt phải ưu phiền.
Truyện:
Đề phòng sụt lún.
Trên một
số bãi biển xứ Bretagne bên Pháp, đặc biệt quanh vùng Mont Saint-Michel,
đôi khi xẩy ra những biến cố mà du khách không có kinh nghiệm gặp phải
một cái chết rất đáng sợ: đó là sự sa lầy. Nhà đại văn hào Victor Hugo
đã từng chứng kiến và đã mô tả lại cảnh tượng ghê rợn đó như sau: “Thủy
triều xuống anh ta đi dạo trên cát không xa bờ biển bao nhiêu. Ban đầu
chưa cảm thấy gì nên anh ta không để ý lắm, nhưng dần dần đôi chân anh
ta dường như càng lúc càng nặng hơn. Bất thình lình anh ta lún xuống,
đôi chân ngập sâu trong cát. Anh ta định rút chân quay lại thì càng lún
sâu hơn. Cát đến mắt ca,ù rồi đến nửa chân. Mỗi lần cử động là mỗi lần
lún xuống. Bấy giờ anh mới nhận ra anh đang bị sa lầy trong bể cát di
động. Anh cầu cứu nhưng vô ích. Anh la hét. Anh khóc than. Anh cầu khẩn.
Anh khua đôi tay. Càng lúc cát đến ngực, đến vai. Giờ đây chỉ còn lại
cái mặt. Anh định mở miệng kêu cứu lần cuối thì cát đã lấp đầy miệng.
Chỉ còn im lặng và đôi mắt trợn tròn thao láo, nhưng rồi cát cũng đóng
chúng lại: thế là đêm tối và cái chết”(Quê Ngọc).
5. Cám dỗ
với giới trẻ ngày nay.
Xét về
mặt đạo đức càng văn minh tiến bộ bao nhiêu thì hình như con người càng
gặp lắm thử thách, cám dỗ bấy nhiêu. Đối với giới trẻ ngày nay thì cái
từ “cám dỗ” là chuyện cổ lỗ, lỗi thời rồi… Vì cho là nó xưa mãi cái thời
bà Evà trao quả cấm cho ông Adong ăn… Thời nay con người văn minh tiến
bộ, bận tâm làm chi tới chuyện cám dỗ nữa? Phải chăng vì nghĩ như thế mà
tuổi trẻ hôm nay có khuynh hướng sống bất cần, tùy tiện, theo sở thích
riêng – Mà sở thích của tuổi trẻ thì có mấy khi được lâu?
Thế nên
nếu bình tâm suy nghĩ chúng ta sẽ khám phá ra rằng cũng chính vì con
người ngày nay “văn minh, tiến bộ” mà các cám dỗ cũng “đa dạng” và “tinh
vi” hơn, thậm chí nó được núp bóng dưới các mác “văn hóa”, “nghệ thuật”,
“giải trí”, “thời trang”, “vật lý trị liệu”… Trong khi thực chất chỉ vì
“tiền” hoặc “các tham vọng bất chính” mà thôi! Chúng ta chỉ cần phân
tích các lọai hàng hóa, văn hóa nghệ thuật… thì chúng ta sẽ thấy nó bị
động lực kim tiền khống chế đến độ nào. Mọi yêu cầu, thị hiếu… đều có
thể được đáp ứng nếu chịu “chi”.
III. THÁI
ĐỘ SỐNG CỦA CHÚNG TA: PHẢI LỰA CHỌN.
1. Sống
là lựa chọn.
Người ta
nói: cuộc sống là một chuỗi những lựa chọn. Con vật không có quyền lựa
chọn, nó chỉ hành động theo bản năng. Con người chúng ta thì khác, Chúa
ban cho chúng ta có lý trí và tự do để hiểu biết, suy tính, đắn đo rồi
đi đến quyết định tự do của mình: làm hay không làm, làm thế này hay thế
khác…
Lựa chọn
có hai yếu tố đi liền nhau: “lựa” và “chọn”. Lựa mới là phân ra từng
lọai, từng cái một để dễ so sánh. Còn chọn mới là quyết định nhận hay
không nhận, nhận cái này hay cái kia, hay chọn một trong nhiều cái.
Chính sự lựa chọn làm cho chúng ta phải băn khoăn, lo âu vì có những sự
lựa chọn liên quan đến cả cuộc sống tương lai, ví dụ: có nên dâng mình
cho Chúa trong đời sống tu trì hay không, làm Linh mục hay tu sĩ. Có nên
lập gia đình hay không hoặc lập gia đình với ai.
Ngày nay
người ta nói nhiều đến dấn thân. Dấn thân, nhập cuộc là thân phận của
con người. Sống là lựa chọn. Mà lựa chọn là liều lĩnh vì không bao giờ
ta nắm được một cách rành rọt như 2 với 2 là 4 tất cả những lý do lựa
chọn và những điều tương lai dành cho sự lựa chọn của ta. Nhưng không
phải vì thế mà ta không dám liều mình. Khi đã dùng trí khôn để duy nghĩ,
cân nhắc như ta có thể rồi, ta có quyền hành động.
2. Thử
thách và lựa chọn.
Bình
thường chúng ta nói rằng con người phải được thử thách để nên người hòan
thiện, nó có tính cách tích cực, còn cám dỗ xem ra có tính cách tiêu
cực. Nhưng trong đạo chúng ta có thể gọi thử thách là “cám dỗ” vì chính
cám dỗ làm cho con người nên lành thánh hơn hay xấu xa hơn, phân biệt
được ai trung thành, ai phản bội Chúa.
a) Thử
thách cần thiết.
Con người
chỉ có giá trị khi đã được thử thách đầy đủ. Đứng về phương diện triết
học, người ta đánh giá một người: không ai hỏi anh LÀ gì nhưng anh đã
LÀM được một cái gì và làm được bao nhiêu. Chính cái LÀM mới đem giá
trị đến cho con người chứ không phải cái LÀ. Cho nên thử thách là điều
cần thiết để đánh giá con người.
- Kinh
Thánh nói: “Lửa thử vàng, gian nan thử đức”.
- Chí sĩ
Phan bội Châu cũng nói:
Nếu phải
đường đời bằng phẳng hết,
Anh hùng
hào kiệt có hơn ai.
- Thi sĩ
Nguyễn công Trứ, một thi sĩ của chủ nghĩa anh hùng, một con người đã
từng lên voi xuống chó, cuộc đời ông đã trải qua đầy gian nan khốn khó,
đã từng nếm mùi thất bại chua cay, nhưng ông đã kiên trì chịu đựng và đã
vượt qua, ông đã từng khuyên thanh niên phải sống can trường, vượt qua
mọi gian nan thử thách theo châm ngôn “vô họan nạn, bất anh hùng”:
Cũng có
lúc mưa dồn sóng vỗ,
Quyết ra
tay buồm lái với cuồng phong.
Chí những
toan xẻ núi lấp sông
Làm nên
đấng phi thường đâu đấy tỏ.
b) Ích
lợi của thử thách.
Thử thách
hay cám dỗ làm cho người ta trưởng thành hơn, nghị lực hơn, làm chủ được
con người của mình. Vàng thau chỉ là đống quặng hỗn độn nhưng nhờ lửa
thiêu đốt mới chọn ra được thứ vàng ròng. Chưa vượt qua gian nan thử
thách, chưa ai được gọi là anh hùng:
Văn vô
sơn thủy vô kỳ khí,
Nhân bất
phong sương vị lão tài. (Nguyễn công Trứ)
Ông
Abraham đã bị Chúa thử thách cực kỳ gây cấn về lòng tin của ông vào Chúa.
Bình thường không ai chấp nhận được cuộc thử thách ấy vì nó đi ngược lại
với lối suy luận của con người: giết con một duy nhất đi thì làm sao có
con nối dõi tông đường? Nhưng ông đã đặt hết tin tưởng vào Chúa, để cho
Chúa lo, còn ông thì cứ thực hiện theo ý Ngài… và ông đã thành công. Vì
vậy, Abraham được gọi là tổ phụ của các kẻ tin (Pater credentium).
c) Phải
biết lựa chọn.
Trong thử
thách, con người phải biết lựa chọn để đi đến quyết định: tiến hay lùi,
tiếp tục hay tháo lui? Trong thử thách, hễ không tiến là lùi, không
thắng thì thua.
Truyện:
thần Hercule.
Theo thần
thọai Hy lạp, Hercule một lần đứng giữa ngã ba đường và tự hỏi đi về
đâu? Hai người chỉ đường đến với ông. Một người nói: “Hãy theo tôi, đây
là con đường thỏai mái, hạnh phúc và lối đi dễ dàng”. Người thứ hai nói:
“Đây là con đường cố gắng, nỗ lực, khó khăn. Tuy là đường khó khăn,
nhưng đưa tới hạnh phúc”. Hercule đã chọn con đường khó khăn. Và quả
thực ông khôn ngoan vì khó khăn đưa tới vinh quang theo châm ngôn của
đạo chúng ta “Per crucem ad lucem”: qua thập giá tới vinh quang.
3. Lựa chọn
của chúng ta.
Không ai
trong chúng ta là không bị thử thách, không bị cám dỗ. Chúng ta phải
biết chọn lựa, thành công hay thất bại là do lựa chọn đúng hay sai.
Trong các bài đọc hôm nay, chúng ta đã có một bài học về lựa chọn đúng
hay sai: Adong đã lựa chọn sai vì không chọn ý Chúa mà chọn ý mình, nên
đã để hậu quả tai hại cho con cháu. Đức Giêsu – một Adong mới – đã chọn
lựa đúng vì biết lựa chọn thánh ý Chúa Cha chứ không theo ý mình, nên đã
dành được chiến thắng lẫy lừng và đã đem ơn cứu độ đến cho lòai người.
Đức cha L.
Daloz, trong cuốn Le Règne des cieux s’est approché” đã viết: “Chúng ta
thấy: những cám dỗ của Đức Giêsu cũng là của chúng ta hôm nay. Chẳng có
gì phải ngạc nhiên, chúng ta biết rằng nơi Đấng là Đầu, tòan Thân Mình
đã chiến thắng cám dỗ. Chính nhờ cậy dựa vào Người, mà đến lượt mình,
chúng ta có thể thóat được cạm bẫy của tên cám dỗ. Đức Giêsu dạy ta phải
đương đầu như thế: bằng cách chạy đến với Lời Chúa. Lời Chúa soi đường
chỉ lối cho chúng ta đó. Lời Chúa che chở, bảo đảm cho chúng ta khỏi bị
lầm lạc. Thật là nguy hiểm nếu chúng ta để mình buông theo xu hướng tự
nhiên của lòai người: ma quỉ cũng không mong gì hơn chúng ta đồng lõa
với chúng như thế. Khi ấy, Lời Chúa sẽ là thành lũy bảo vệ chúng
ta”(Fiches dominicales, năm A, tr 172).
Truyện: Ngọn
đuốc Vân Trường.
Đời Tam quốc,
Quan Vân Trường bị thất thủ thảm bại ở Hạ bì. Thân đơn nhất mã, phò hai
người chị dâu (tức vợ của Lưu Bị) qua nương nhờ nhà Tào Tháo. Đêm đến,
Tào Tháo cho ba người ngủ chung một phòng, dụng tâm là muốn cho chị em
lọan luân, chủ tôi phải thất lễ.
Quan vân
Trường một dạ thẳng ngay không để tà tâm vật dục quyến rũ, tay cầm đuốc,
tay cầm sách Xuân Thu đọc đến sáng.
Mọi người
thấy vậy khen Vân Trường là người chính trực. Từ đó, “Ngọn đuốc Vân
Trường” được dùng để ám chỉ những kẻ ngay thẳng, không để vất dục quyến
rũ lòng mình (Thiên Phúc).
Con người ai
cũng bị vật dục quyến rũ, đấy là một sự kiện hiển nhiên, vấn đề đặt ra
là có thắng đuợc nó hay không. Dù thế nào đi nữa, cám dỗ vẫn là số phận
của con người ở trần thế. Đối với người Kitô hữu, cám dỗ càng đeo đuổi
họ như hình với bóng, nó chỉ buông tha khi họ đã đi hết cuộc hành trình
trần gian. Tuy nhiên thành công hay thất bại cũng tùy thuộc họ chiến
thắng hay đầu hàng các cơn cám dỗ. Số phận đời đời sẽ căn cứ vào việc họ
đã vượt qua cuộc thử thách hay buông xuôi bỏ cuộc.
Cám dỗ nào
cũng dẫn chúng ta đến một lựa chọn: hoặc chọn thánh ý Chúa hoặc chọn
chính mình. Hãy để cho Lời Chúa hướng dẫn cùng với sự cầu nguyện, ăn
chay, hãm mình. Tuy Chúa sẽ hướng dẫn và giúp đỡ, chúng ta cũng phải
khôn ngoan tránh những dịp đưa đến cám dỗ, chớ khinh thường vì “Họa mạc
đại ư khinh địch”: không có cái hại nào to bằng khinh địch (Đại học).
Chúng ta bắt
đầu buớc vào mùa Chay của năm Phụng vụ. Nhưng thật ra, cuộc sống của mỗi
người là một mùa chay liên lỉ, bởi vì chúng ta thường xuyên gặp cám dỗ
và phải luôn chiến đấu, để sống tinh thần của Chúa Kitô. Chúng ta nhiều
lúc phải cam chịu thiếu thốn, đói khát mà không sử dụng tự do, khả năng
của mình để tìm thỏa mãn, phụng sự cho chính bản thân mình và sống ích
kỷ. Đôi lúc chúng ta bị coi như thất thế, ngu dại và bị giới hạn, yếu
đuối bởi vì chúng ta đang tôn thờ và tùng phục đường lối của Thiên Chúa.
Và rất nhiều khi chúng ta phải chịu thiệt thòi, từ chối những vui thú và
vinh dự của trần gian để trung thành phụng sự Chúa.
mục lục
Bước vào Mùa
Chay Thánh, Giáo hội quen gọi là mùa tập luyện chiến đấu thiêng liêng
với những việc tốt lành theo truyền thống là ăn chay, cầu nguyện và bố
thí. Chúa nhật thứ I Mùa Chay hôm nay, thánh Matthêu trình bày cho chúng
ta cơn cám dỗ của Chúa Giêsu: "Chúa Giêsu được Thánh Thần hướng dẫn vào
hoang địa để chịu ma quỷ cám dỗ" (Mt 4,1), cho thấy dù là Con Thiên Chúa,
Ngài đã nhận lấy thử thách, chiến đấu với chống lại tội lỗi để cứu chúng
ta là kẻ có tội. Sau khi Chúa Giêsu đã nhịn chay bốn mươi đêm ngày, Ngài
cảm thấy đói, ma quỷ bắt đầu cám dỗ (x. Mt 4, 2), nó bắt Ngài lựa chọn
giữa những gì có thể. Cảnh đối nghịch giữa tên cám dỗ và Chúa Giêsu thể
hiện rõ căn tính và nguồn gốc của Chúa Giêsu trong lịch sử Israel.
Ba phen
cám dỗ
Trình thuật
ghi rõ "Ma quỷ lìa bỏ Người" (Mt 4,11) Điều này muốn nói rằng, cuộc chạm
trán giữa Chúa Giêsu và tên cám dỗ được lặp lại, nhưng chắc chắn kết
thúc và phần thắng thuộc về Chúa Giêsu qua việc thánh hiến, hoàn tất
bằng cuộc khổ nạn và Phục sinh.
Ma quỷ cám
dỗ Chúa Giêsu theo một trình tự rõ ràng. Một bên Chúa Giêsu, bên kia là
ma quỷ. Cả hai nhân vật không cần giới thiệu. Chúa Giêsu được độc giả
biết đến khi tin vào Ngài. Ma quỷ là thành phần của thế giới quen thuộc
nơi người Dothái. Ma quỷ tiếng Dothái là "Satan" (tiếng Hylạp là "Quỷ")
ám chỉ tên đối phương. Đó là một nhân vật mà bản tính là đối đầu. Nó đối
đầu với ai? Với Thiên Chúa trước hết.
Phen
thứ nhất (c. 1-4)
Khung cảnh
diễn ra tại samạc. Samạc tự nhiên gợi lên thời Xuất hành và sự đối diện
giữa Thiên Chúa và dân Ngài. 40 ngày nhắc lại 40 năm trong samạc và 40
ngày Môsê ở trên núi. Chúa Giêsu ăn chay 40 ngày. Chúa Giêsu đang ở
trong tình trạng cần thiết "Người cảm thấy đói" (Mt 4,2). Ma quỷ đặt vấn
đề: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy khiến những hòn đá này biến thành
bánh" (Mt 4,3). Như là một gợi ý cho Con Thiên Chúa.
- Ma quỷ cám
dỗ Chúa về quyền lực: "hãy khiến những hòn đá này...". Đá chỉ đá và bánh
chỉ là bánh, Ma Quỷ yêu cầu Chúa làm trái tự nhiên "khiến đá thành
bánh". Khi từ chối khiến đá thành bánh, Chúa Giêsu mạc khải rõ Ngài là
Con Thiên Chúa.
- Chúa ra
lệnh: "Có lời chép rằng: ‘Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa
ngươi’"(Mt 4,10). Nó ẩn chứa một cách hành văn theo kiểu Sách Thánh để
làm sáng tỏ thái độ. Đây là cả một chương trình, Chúa Giêsu là Con Thiên
Chúa, đúng như lời Kinh Thánh, Ngài đã trở nên người vâng lời Thiên Chúa
Cha, chấp nhận đói để mạc khải cho con người biết rằng, cuộc sống của họ
còn đói một thứ rất quan trọng, đó là: đói Lời Chúa. Thật vậy, "Người ta
sống không nguyên bởi bánh" (Mt 4, 4).
Phen
thứ hai (c. 5-7)
Ma Quỷ đưa
Chúa Giêsu lên nóc Đền thờ Giêrusalem, đặt Chúa vào một vị trí ngược lại
với bản chất của Ngài: mục tiêu tối hậu của nó là chỉ cho Ngài thấy rõ
Đền thờ Giêrusalem, thử thách Ngài về thực tại quyền lực, yêu cầu Ngài
gieo mình từ Đền thờ xuống để chiếm được ngay lập tức với sự giúp đỡ
tuyệt vời của các Thiên Thần, và qua sự thể hiện uy quyền đó, người Do
thái nhận biết Ngài là Con Thiên Chúa.
Ma Quỷ biện
minh rõ về danh tính của nó là kẻ chống đối Thiên Chúa. Lời đề nghị của
nó rất thô thiển. Khi ấy, phải đặt sự cám dỗ vào đâu và tại sao Chúa
Giêsu lại đẩy lùi cơn cám dỗ? Nếu Chúa Giêsu chịu thua tên cám dỗ, thì
Ngài trở về với những niềm mong đợi của dân chúng, họ đi tìm một Đấng
Messia huy hoàng và quyền lực. Chúa Giêsu đã từ chối Messia theo kiểu
trên. Con đường mà Ngài chọn bao hàm sự chôn vùi trong nhân thế. Thái độ
của Chúa Giêsu thật rõ ràng: được mời gọi xác định căn tính tiên tri của
mình. Ngài khẳng định cách từ chối của mình thật tuyệt vời lạ thường khi
đặt ra một khoảng cách căn bản giữa quyền lực thế gian và nước Thiên
Chúa.
Phen
thứ ba (c. 8-11)
Cuối cùng ma
quỉ đưa Chúa Giêsu lên núi cao. Sau cuộc cám dỗ lần thứ nhất về kinh tế,
lần thứ hai về tôn giáo và lần thứ ba cám dỗ về chính trị. Tư thế ở đây
chuyển biến cách đột ngột. Từ trên cao sấp mình xuống (trả lại) sự thống
trị cho Ma Quỷ. Ma quỷ chỉ cho Đức Giêsu xem thấy mọi nước thế gian và
vinh quang (trong chốc lát), nó hứa "Tôi sẽ cho ông tất cả những cái đó,
nếu ông sấp mình xuống thờ lạy tôi" (Mt 4,9).
Nếu ông là
con Thiên Chúa (4,3)
Nếu ông thờ
lạy tôi (4,9).
Ở đây, ma
quỷ tự vạch trần Con Thiên Chúa mà nó thách thức và mời gọi tôn thờ nó,
có nghĩa là bắt Chúa Giêsu tôn thờ thần tượng thế gian.
Với lời đề
nghị này, Chúa Giêsu đặt ma quỷ vào vị trí của nó: " Ngươi phải thờ lạy
Chúa là Thiên Chúa người, và chỉ phụng sự một mình Ngài"(Mt 4,10).
Phần kết:
Cuộc gặp gỡ
của Chúa Giêsu và tên cám dỗ kết thúc bằng sự chiến thắng của Chúa Giêsu:
"Ma quỷ lìa bỏ Người. Và các thiên thần tiến lại hầu hạ Người".
Đứng
về phía Chúa Giêsu
Chúa Giêsu
bị Ma Quỷ cám dỗ đủ cả ba phen, đó cũng là những cơn cám dỗ của chúng ta
ngày hôm nay. Chúng ta được Thiên Chúa phú ban cho tự do lựa chọn giữa ý
Chúa và ý chúng ta, chúng ta ngần ngại giữa thiện và ác. Chúa Giêsu hoàn
toàn chiến thắng điều ác vì Ngài đã vâng lời Chúa Cha vô điều kiện.
Chúa nhật
này đưa chúng ta vào ngay trung tâm của mầu nhiệm vượt qua: "Cũng như do
một người mà tội lỗi đã nhập vào thế gian, và do tội lỗi mà có sự chết,
và thế là sự chết đã truyền tới mọi người, vì lẽ rằng mọi người đã phạm
tội" (Rm 12, 17). Và đây, phía sau của mầu nhiệm: Nhưng "Vì như bởi tội
không vâng lời của một người mà muôn người trở thành những tội nhân thế
nào, thi do đức vâng lời của một người mà muôn người trở thành kẻ công
chính cũng như thế." (Rm 12, 19) Tất cả lịch sử nhân loại trải dài giữa
hai sự kiện này: trước là tội nguyên tổ, ảnh hưởng đến chúng ta; sau là
mầu nhiệm cứu chuộc được ban tặng cho chúng ta trong Chúa Giêsu Đấng Cứu
Thế.
Bước vào Mùa
Chay Thánh, mùa chiến đấu thiêng liêng, vậy chúng ta đứng về phía nào,
đứng về phía Chúa Giêsu là chắc rồi. Đứng về phía Ngài, lắng nghe lời
Ngài để chống lại tội lỗi, đương đầu với trận chiến thiêng liêng chống
lại thần dữ, ba thù: Ma Quỷ, thế gian và xác thịt.
Lạy Mẹ
Maria và Thánh Cả Giuse, xin giúp sức cho chúng con trong suốt Mùa Chay
Thánh này. Amen.
Chủ nhật thứ
nhất Mùa Chay đặt chúng ta trước một thảm kịch, mà thảm kịch ấy ảnh
hưởng đến sự hiện hữu của chúng ta đó là: tội lỗi và hành động của con
người nhằm phá vỡ sự hiệp thông với Thiên Chúa.
Trình thuật
chương đầu tiên của sách Sáng thế cho thấy nguyên tổ của chúng ta đã
khước từ Thiên Chúa. Nguyên nhân này nảy sinh từ "con rắn ", ma quỷ hay
còn gọi là Satan. Con rắn muốn thực hiên ý định dụ dỗ Adam tự sức mình,
lập luật cho mình và trở nên Thiên Chúa, mà không cần sự trợ giúp của
Thiên Chúa. Lời nói dối thuần túy ấy đưa con người đến chỗ diệt vong,
bóp nghẹt ý muốn hiệp thông với sự sống thần linh của Ađam và cắt đứt
mạch sống với Thiên Chúa khi bóp méo Lời Thiên Chúa.
Tin Mừng
Matthêu cho thấy Chúa Giêsu được Chúa Thánh Thần hướng dẫn vào hoang địa
để chịu ma quỷ cám dỗ. Nếu như nguyên tổ Ađam và Evà bị Satan ba lần
dùng các chiến thuật cám dỗ với mục đích làm cho ông bà nguyên tổ hiểu
lầm rằng nó đã làm những điều việc rất tốt cho Ađam và Evà. Nay nó cũng
ba lần tấn công vào tương quan tình cha con giữa Chúa Giêsu với Cha
Ngài.
Lần thứ
nhất, nó đề nghị Chúa Giêsu tách khỏi Chúa Cha,
tự khẳng định mình là Thiên Chúa khi nói: "Nếu ông là Con Thiên Chúa,
hãy khiến những hòn đá này biến thành bánh." Nhưng Chúa Giêsu đáp lại:
"Có lời chép rằng: Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi
lời do miệng Thiên Chúa phán ra." (Mt 4). Ngài đã vượt qua thử thách
và chiến thắng ma quỷ và tuyên xưng rằng sự sống đích thực chỉ có ở nơi
Thiên Chúa, cần phải tin tưởng vào lời hứa của Chúa Cha. Nên Ngài hành
động và tin tưởng vào sự quan phòng của Chúa Cha, vì Ngài biết rằng Chúa
Cha là Đấng trung thành. Nơi hoang địa, dân Israel đã chết vì bị cám dỗ
sợ thiếu bánh ăn nên tích lũy manna. Dù Thiên Chúa đã yêu cầu không nhặt
bánh thừa mỗi ngày. Nhưng họ vẫn nhặt bánh thừa vì nghi ngờ rằng: nếu
Thiên không ban cho bánh nữa thì sao? Nếu Thiên Chúa không giữ lời hứa?
Một con chim ở trong tay tốt hơn hai con còn trong bụi rậm. Phần chúng
ta, đã bao lần chúng ta bị cám dỗ mất lòng tin vào Thiên Chúa! Chúa
Giêsu nhắc nhở cho chúng ta rằng Chúa Cha là Đấng luôn trung thành, giữ
lời hứa và quyết hối hận vì những gì Người ban tặng cho ta.
Cơn cám
dỗ thứ hai, con rắn đẩy Chúa Giêsu vào thế buộc Chúa Cha phải can thiệp
cho Ngài:
"vì có lời chép rằng: Ngài đã ra lệnh cho các Thiên Thần đến với ông",
điều này ngầm thể hiện sự nghi ngờ mối quan hệ hiệp nhất với Chúa Cha.
Chúa Giêsu đã không làm, Ngài không bắt Chúa Cha thực hiện phép lạ cho
Ngài để dạy chúng ta phải khiêm nhường trước mặt Thiên Chúa. Hậu quả của
tội nguyên tổ một lần nữa nghi ngờ rằng Thiên Chúa còn giữ cho mình một
cái gì đó mà không ban cho ông bà. Như Thiên Chúa nói với Adam: "Ngươi
có thể ăn tất cả các trái cây trong vườn." Con rắn đã bóp méo lời Thiên
Chúa khi nói ngược lại với Evà: "Thiên Chúa nói rằng ngươi không thể ăn
tất cả các trái cây trong vườn". Không, Thiên Chúa không nói thế, vì từ
nguyên thủy, Người đã cho chúng ta mọi thứ.
Con rắn đã
nói dối, bởi nó phát hiện ra động cơ thực sự, chuyển hướng sang tôn thờ
nó thay vì thờ phượng một mình Thiên Chúa như là nguồn gốc mọi điều
thiện hảo. Ở đây chúng ta thực sự bị cám dỗ phạm thượng chống lại Thiên
Chúa, từ chối Người để theo ma quỷ là kẻ có thể ban sức mạnh cho ta.
Cơn cám
dỗ thứ ba: Đỉnh cao của sự cám dỗ này là ngọn núi cao và vương quyền phổ
quát của Chúa Kitô.
Trên núi này, Chúa Giêsu mạc khải tròn đầy sự từ bỏ trong niềm tin tuyền
đối ở tay Cha. Và Chúa Cha đã biểu lộ tình phụ tử viên mãn của mình khi
phục sinh Đức Giêsu. Adam mới là Chúa Giêsu đã chiến thắng sự chết và
tội lỗi nhờ tin tưởng và phó thác trong tay Chúa Cha. Adam đầu tiên tự
cao tự đại, quên đi thân phận thụ tạo của chính mình " là hình ảnh Thiên
Chúa " có nghĩa là không bình đẳng hoặc đồng bản tính trong tương quan
với Thiên Chúa, dẫn đến sự sụp đổ của chính mình. Thay vào đó, Chúa
Giêsu Kitô, Adam thứ hai, đã vâng lời Thiên Chúa, hạ mình xuống nên được
suy tôn khi phục hổi phẩm giá là con của chúng ta với Cha trên trời (x.
Pl 2: 6-11).
Phụng vụ
Chúa nhật đầu tiên của Mùa Chay đưa chúng ta trở lại với căn nguyên của
tội lỗi là: ý muốn tự chủ, từ chối Hồng ân Lời của Thiên Chúa là Cha,
Đấng là nguồn gốc mọi điều thiện hảo với tình con thảo.
Câu hỏi đặt
ra cho chúng ta là: đâu là vị trí của Thiên Chúa trong tất cả điều ấy?
Vậy chúng ta
hãy chọn Chúa, đứng về phía Chúa, đón nhận Lời Chúa như là một hồng ân
để chống lại tội lỗi, đương đầu với trận chiến thiêng liêng chống lại
thần dữ, ba thù: Ma Quỷ, thế gian và xác thịt.
Lạy Mẹ
Maria và Thánh Cả Giuse cùng Các Thánh Nam Nữ của Thiên Chúa, xin giúp
sức cho chúng con trong suốt Mùa Chay Thánh này. Amen.
I. HỌC LỜI
CHÚA
Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng
hôm nay thuật lại việc Đức Giêsu như một Mô-sê Mới, lãnh đạo một cuộc
Xuất Hành Mới. Người còn là hiện thân của dân Ít-ra-en Mới vào sa mạc để
sống lại kinh nghiệm của dân Ít-ra-en xưa trong sa mạc và trên núi
Xi-nai (x Đnl 8,2-4). Có điều khác với Ít-ra-en xưa đã vấp ngã trước cám
dỗ của ma quỷ khi trải qua sự đói khát, kiêu ngạo và tôn thờ tà thần,
Đức Giêsu đã qua các cơn thử thách cám dỗ mà vẫn trung thành với sứ mạng
của mình. Người muốn nêu gương cho chúng ta hôm nay về phương cách chống
trả các cơn cám dỗ thế nào.
CHÚ THÍCH:
- C
1-4:
+ Được Thần Khí dẫn vào hoang địa: Thần khí đã ngự xuống trên Đức Giêsu,
giờ đây lại hướng dẫn Người vào nơi hoang vắng, có lẽ là một hang núi
gần thành Giê-ri-cô. + Để chịu quỷ cám dỗ: Cám dỗ đồng nghĩa với sự thử
thách do ma quỷ thực hiện. Khi bị cám dỗ mà chiều theo thì mới phạm tội.
Còn nếu bị cám dỗ mà chống trả được thì lại có công. Đức Giêsu cũng trải
qua sự thử thách, nghĩa là phải lựa chọn giữa tốt và xấu. Thần Khí đã
đặt Đức Giêsu vào một hoàn cảnh để Người tự khẳng định lập trường và
chứng tỏ là Con hiếu thảo luôn làm đẹp lòng Chúa Cha. + Bốn mươi đêm
ngày: Cũng như Mô-sê trước khi nhận hai bia đá Giao ước, đã lên núi bốn
mươi ngày đêm, ăn chay cầu nguyện (x. Đnl 9,9), và sau đó lại ăn chay
thêm bốn mươi ngày đêm để nài xin Đức Chúa nguôi giận mà tha tội cho dân
Ít-ra-en đã vi phạm Giao ước khi đúc tượng bê vàng mà thờ lạy (x. Đnl
9,18). Ngoài ra con số bốn mươi trong Thánh Kinh nhằm để ám chỉ một thời
gian khá dài như: lụt đại hồng thủy suốt bốn mươi ngày đêm, dân Ít-ra-en
đi trong hoang địa bốn mươi năm, Vua Đa-vít cai trị bốn mươi năm, bốn
mươi ngày giữa lễ Phục Sinh và lễ Thăng Thiên… Sở dĩ Đức Giêsu có thể ăn
chay nhịn đói suốt bốn mươi ngày đêm là nhờ ơn Chúa nâng đỡ. + Nếu ông
là Con Thiên Chúa: Tước hiệu này thuộc nội dung các lời hứa về Đấng
Mê-si-a con vua Đa-vít (x. Tv 2,7; 89,27). Ngoài ra tước hiệu này nới
Đức Giêsu còn mang ý nghĩa về Thần tính của Người. + Hãy truyền cho
những hòn đá này hóa bánh đi: Ma quỷ xúi giục Đức Giêsu hãy biến các
viên đá cuội thành bánh mì mà ăn. Chúng hy vọng có thể do bị đói khát,
Người sẽ quên vai trò Đấng Mê-si-a để làm theo ý riêng hơn là vâng theo
thánh ý Thiên Chúa. + Đã có lời chép: Người ta sống không chỉ nhờ cơm
bánh…”: Đây là lời trong Sách Đệ Nhị Luật (8,3) mà Đức Giêsu đã chọn để
sẵn sàng vâng phục Thiên Chúa, nhờ đó Người đã chiến thắng cơn cám dỗ
của ma quỷ. Sau này Người cũng nói: “Lương thực của Thầy là thi hành ý
muốn của Đấng đã sai Thầy” (Ga 4,34).
- C
5-7:
+ “Hãy gieo mình xuống đi”: Ma quỷ xúi Đức Giêsu thử thách quyền năng
Thiên Chúa khi gieo mình từ trên cao rơi xuống để buộc Thiên Chúa phải
ra tay làm phép lạ cứu cho khỏi chết. + Có lời chép rằng: “Thiên Chúa sẽ
truyền cho thiên sứ lo cho bạn…”: Ma quỷ đã nêu ra câu Thánh Vịnh này
theo nghĩa đen (Tv 91,11-12). + Nhưng cũng đã có lời chép rằng: Ngươi
chớ thử thách…”: Đây là câu lời Chúa trong sách Đệ nhị luật: “Anh em
đừng thách thức Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, như anh em đã thách
thức ở Ma-xa” (Đnl 6,16). Trái với dân Ít-ra-en xưa đã đòi Đức Chúa phải
làm dấu lạ để chứng minh quyền năng của Ngài, còn Đức Giêsu hoàn toàn
tin cậy và không thử thách quyền năng của Chúa Cha bằng việc đòi Ngài
phải làm dấu lạ bề ngoài (x. Ga 6,30-33).
- C
8-11:
+ Đem Người lên một ngọn núi rất cao, và chỉ cho Người thấy tất cả các
nước thế gian…: Câu này nhắc lại sự kiện xưa kia Mô-sê lên núi Nê-bô và
đã được Đức Chúa cho nhìn thấy tất cả Miền Đất Hứa (x. Đnl 31,1-4). Nay
ma quỷ cũng tác động làm cho Đức Giêsu tưởng tượng ra mình đang ở trên
núi và nhìn thấy những của cải châu báu để cám dỗ Người hãy thờ lạy nó
như chúa tể để được nó ban cho của cải trần gian. + Xa-tan kia, xéo đi!:
Xa-tan nghĩa là “tên cám dỗ”. Sau này Đức Giêsu cũng xua đuổi Phê-rô
giống như thế khi ông cám dỗ Người đừng chấp nhận con đường thập giá
theo ý Chúa Cha (x. Mt 16,23). + Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên
Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi: Đây là câu
trích trong sách Đệ nhị luật (6,4.13), cho thấy chỉ duy có một Thiên
Chúa độc nhất mà mọi người đều phải tôn thờ phụng sự Ngài.
HỎI ĐÁP:
1) HỎI: Cám
dỗ là gì? Bị cám dỗ thì đã phạm tội chưa? Ta cần làm gì để khỏi sa chước
cám dỗ của ma quỷ, thế gian và xác thịt mình?
ĐÁP: - Cám
dỗ là việc ma quỷ xúi giục một người phạm tội chống lại Thiên Chúa khi
cố tình không vâng lời Chúa dạy để vi phạm các giới răn Ngài truyền.
- Mỗi cơn
cám dỗ thường có ba giai đoạn: Một là ma quỷ gợi lên một hình ảnh, một
tư tưởng xấu trong tâm trí người ta. Hai là ma quỷ xúi người ta thỏa mãn
đam mê dục vọng ấy bằng sự ưng thuận. Ba là sự chọn lựa tự do: nếu chiều
theo ma quỷ tức là phạm tội và làm Chúa buồn. Còn nếu từ chối không nghe
theo ma quỷ, họ sẽ được Chúa chúc phúc và sẽ làm cho Chúa vui.
- Để khỏi sa
chước cám dỗ của ma quỷ, chúng ta hãy noi gương Chúa Giêsu: Năng hãm
mình và ăn chay để tập làm chủ bản năng của mình, siêng năng học sống
Lời Chúa, vì Lời Chúa sắc bén như thanh gươm hai lưỡi có thể chiến đấu
với ma quỷ như Đức Giêsu đã nêu gương (x. Mt 4,4.7.10), năng cầu xin ơn
Chúa ban ơn trợ giúp và luôn làm theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần
như Đức Giêsu đã luôn theo sự hướng dãn của Thần Khí (x.Mt 4,1).
2) HỎI: Đức
Giêsu bị ma quỷ cám dỗ trong tâm trí hay trong thực tế?
ĐÁP: Việc
quỷ đặt Đức Giêsu lên nóc Đền thờ, đem Người lên một ngọn núi cao và chỉ
cho Người xem tất cả vinh hoa lợi lộc của các nước trên thế gian… cho
thấy Đức Giêsu có bị ma quỷ cám dỗ, nhưng chúng chỉ cám dỗ Người trong
tâm trí, chứ không thực sự đem Người từ nơi này đến nơi kia.
3) HỎI: Đức
Giêsu trải qua cơn cám dỗ của ma quỷ nhằm mục đích gì?
ĐÁP: Sau khi
chịu phép Rửa của Gio-an và được Thần Khí hiện xuống xức dầu thiêng
liêng tấn phong làm Đấng Ki-tô, Đức Giêsu đã được Thần Khí dẫn vào hoang
địa ăn chay 40 đêm ngày và chịu ma quỷ cám dỗ. Sở dĩ Người chịu ma quỷ
cám dỗ là nhằm ba mục đích như sau:
- Một là để
trải qua những sự thử thách của nguyên tổ A-đam E-và xưa trong vườn địa
đàng (x St 3,1-24), và của dân Ít-ra-en trong cuộc Xuất Hành (Đnl
8,2-4). Vì Người là A-đam Mới và là Ít-ra-en Mới của Thiên Chúa trong
thời Tân Ước (x Rm 5,18-19).
- Hai là để
nêu gương ăn chay cầu nguyện cho các tín hữu, nhờ đó chúng ta sẽ làm chủ
được bản thân và sẽ dễ dàng chiến thắng ma quỷ cám dỗ chúng ta hưởng thụ
các lạc thú bất chính (x Mt 17,21; Mc 9,29)..
- Ba là để
nêu gương vâng theo sự hướng dẫn của Thần Khí hay Chúa Thánh Thần: Nếu
chúng ta biết nghe theo sự hướng dẫn của Thần Khí qua việc siêng năng
học sống Lời Chúa, chúng ta sẽ luôn vâng lời Chúa phán hơn là nghe theo
ma quỷ để làm theo ý mình, như Đức Giêsu có lần đã quở trách ông Si-mon
Phê-rô (x Mt 16,21-23).
II. SỐNG LỜI
CHÚA
1. LỜI CHÚA:
Đức Giêsu liền nói: “Xa-tan kia, xéo đi! Vì đã có lời chép rằng: Ngươi
phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một
mình Người mà thôi” (Mt 4,10).
2. CÂU
CHUYỆN: Tam thập lục kế: đào vi thượng sách
Ở núi Phong
Khê đất Thục có một giống đười ươi có bộ mặt giống như người. Chúng biết
nói cười và máu của chúng được người ta dùng làm thuốc nhuộm quần áo rất
tốt, nên các thợ săn thường tổ chức săn bắt chúng. Biết được loài đười
ươi này thích uống rượu và đi guốc, thợ săn đã đem rượu và guốc đến bày
la liệt trên một cánh đồng trống để nhử chúng, rồi ẩn núp ở nơi kín đáo
chờ đợi. Dù sống sâu trong rừng, nhưng loài đười ươi lại có khứu giác
rất nhậy nên chúng đã ngửi thấy mùi rượu thơm liền kéo nhau tìm đến cánh
đồng uống rượu. Tuy các con già đời đoán biết đó là bẫy của bọn thợ săn,
nên đã nhắc nhở cho cả bầy rằng: “Hãy cảnh giác, đừng khờ dại uống rượu
đi guốc kẻo bị mắc mưu của bọn người độc ác kia đó”. Cả bầy nghe vậy
liền buồn bã bỏ đi. Nhưng rồi một con bị mùi rượu thơm hấp dẫn không thể
cưỡng lại, liền tỏ ra bất chấp lời khuyên khôn ngoan kia và rủ đồng bọn
quay trở lại. Rồi “quen mui thấy mùi ăn mãi”, chúng tranh giành nhau chí
choé nốc cạn hết bầu rượu này đến bầu rượu khác. Đến lượt các con già cả
khôn ngoan tuy biết là nguy hiểm, nhưng không thể cưỡng được sự hấp dẫn
của rượu, cũng lao vào uống no say. Sau đó chúng xỏ chân vào guốc bên
cạnh bước tới bước lui ngả nghiêng trông thật tức cười. Bấy giờ bọn thợ
săn liền hò nhau từ chỗ ẩn nấp, nhất tề xông đến vây bắt. Thấy bọn thợ
săn, bầy đười ươi đáng thương liền bỏ chạy tán loạn. Nhưng chân đi guốc
không quen, bị té nhào vào nhau và bị bọn thợ săn bắt gọn không sót một
con.
Than ôi!
Biết rõ người ta đặt bẫy hại mình, mà vẫn lao vào ăn uống đến nỗi tất cả
đều bị mất mạng thì thật ngu dại hết sức! Đối với nhiều người hôm nay
thì rượu chè, cờ bạc, trai gái, hút chích sì-ke ma túy… là những thứ làm
mất nhân tính, biến mình trở thành những kẻ bất lương trộm cướp giết
người, rồi còn có thể bị lây nhiễm HIV-AIDS. Thế mà vẫn có không ít
người nhắm mắt lao mình vào những đam mê chết người đó thì không phải
khờ dại lắm sao?
Đối với các
cơn cám dỗ về đam mê sắc dục và ma túy, thì đừng bao giờ nghĩ rằng mình
có đủ bản lãnh để chống trả lại được, và cần phải theo lời cổ nhân dạy:
“Tam thập lục kế: Đào vi thượng sách” (Ba mươi sáu phương thế thì chạy
trốn là phương thế hay nhất). Đừng bao giờ thử hút chích sì ke ma túy,
thử đi bia ôm, thử đánh số đề một lần… Vì nếu thử dù chỉ một lần mà thôi
thì đã bắt đầu trở thành con nghiện và là người xấu thuộc về ma quỷ rồi
vậy!
3. SUY NIỆM:
Sống là một
cuộc chiến đấu không ngừng: Chiến đấu với thiên nhiên để tồn tại, chiến
đấu với kẻ thù để khỏi bị tiêu diệt, chiến đấu với xác thịt để trở nên
người tốt. Hôm nay Giáo Hội còn dạy chúng ta phải chiến đấu với một loại
kẻ thù vô hình nguy hiểm là ma quỷ. Chính Đức Giêsu đã chiến đấu và
chiến thắng ma quỷ để nêu gương cho chúng ta. Vậy ngày nay ma quỷ thường
cám dỗ chúng ta về những vấn đề gì? Và chúng ta phải làm gì để chiến
thắng nó?
1) Cám dỗ
xưa và nay: Cũng như xưa, ngày nay ma quỷ thường cám dỗ chúng ta về ba
phương diện như sau:
+ Một là về
THÚ VUI: Ma quỷ xúi Đức Giêsu biến các viên đá cuội trở thành bánh mì mà
ăn, tức là dùng quyền năng Thiên Chúa để thỏa mãn các nhu cầu vật chất
thể xác, giống như dân Ít-ra-en trong hoang địa ngày xưa đã kêu trách
Đức Chúa và Mô-sê khi họ bị đói khát và thèm thịt thà và các thứ rau
thơm mà họ đã từng ăn khi còn ở Ai cập (x. Xh 16,3). Ngày nay ma quỷ
cũng thường cám dỗ chúng ta tìm thỏa mãn các đam mê xác thịt bất chính
như ăn chơi sa đọa, rượu chè say xỉn, chơi cờ bạc số đề và hút chích sì-ke
ma túy…
+ Hai là về
DANH VỌNG: Ma quỷ xúi Đức Giêsu nhảy từ nóc Đền thờ xuống để được người
đời khen ngợi và để thử thách đòi Thiên Chúa phải chứng tỏ quyền năng
bằng việc ra tay làm phép lạ cứu ngài thóat chết (x. Lc 23,35). Ngày nay
ma quỷ cũng thường cám dỗ chúng ta thử thách quyền năng Thiên Chúa khi
đòi Ngià làm phép lạ trái với định luật tự nhiên do Ngài an bài chung
trong vũ trụ thiên nhiên để chiều theo sở thích cá nhân riêng tư của
chúng ta!
+ Ba là
QUYỀN LỢI: Ma quỷ xúi Đức Giêsu sấp mình thờ lạy nó để được nó ban cho
quyền hành trên muôn nước và được hưởng các thứ lợi lộc giàu sang (x. Xh
32,6). Ngày nay ma quỷ cũng thường cám dỗ chúng ta chối bỏ Thiên Chúa và
tôn thờ sức mạnh của tiền tài, chọn làm những việc bất chính miễn là có
nhiều tiền như: buôn bán sì ke ma túy, mở quán bia ôm, cà phê tươi mát,
tin theo thầy bói, đồng bóng, cầu cơ, buôn lậu, tham nhũng, sản xuất
hàng nhái…
2) Phương
thế để chiến thắng ma quỷ cám dỗ:
Đức Giêsu đã
chiến thắng các cơn cám dỗ của ma quỷ bằng các phương thế như sau:
+ ĂN CHAY
CẦU NGUYỆN: Người đã vào hoang địa ăn chay cầu nguyện suốt 40 đêm ngày.
Ma quỷ đã đánh thẳng vào điểm yếu của Đức Giêsu là tình trạng bị đói để
xúi Người biến đá thành bánh ăn. Nhưng nhờ nội lực mạnh mẽ do ăn chay
cầu nguyện, mà Người đã chiến thắng ma quỷ. Sau này Người cũng dạy các
môn đệ phải dùng phương thế chay tịnh cầu nguyện như sau: “Giống quỷ ấy
chỉ trừ khử được bằng lời cầu nguyện thôi” (Mc 9,29).
+ HỌC SỐNG
LỜI CHÚA: Để đáp lại sự trích dẫn Lời Chúa của ma quỷ, Đức Giêsu cũng
dùng Lời Thánh Kinh để bắt chúng phải câm miệng. Lời Chúa chính là ánh
sáng chỉ đường và là nguyên tắc ứng xử của Đức Giêsu. Chẳng hạn: Đáp lại
lời xúi biến đá thành bánh, Đức Giêsu nêu cao Lời Chúa trong Sách Thánh:
“Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh” (Đnl 8,3). Đáp lại cám dỗ thờ lạy
ma quỷ để được hưởng quyền hành lợi lộc của nó, Đức Giêsu nêu ra Lời
Chúa trong Sách Thánh: “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của
ngươi, và thờ phượng một mình Người mà thôi” (x. Đnl 6,13). Đáp lại cám
dỗ gieo mình từ nóc Đền thờ xuống, Đức Giêsu đưa ra Lời dạy của Chúa
trong Sách Thánh: “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi”
(x. Đnl 6,16).
3) ÁP DỤNG
CỤ THỂ:
a) Bị thử
thách cám dỗ là thân phận của con người: Đức Giêsu tuy là Con Thiên Chúa
nhưng Tin Mừng cho thấy Người cũng đã trải qua cơn cám dỗ của ma quỷ.
Người chịu cám dỗ để nêu gương chiến đấu và chiến thắng các chước cám dỗ
của ma quỷ cho loài người chúng ta học tập noi theo. Qua việc bị ma quỷ
cám dỗ, Đức Giêsu cho thấy Người cũng là một con người giống như chúng
ta mọi đàng nên sẽ thông cảm với sự yếu đuối cũng như tội lỗi của chúng
ta như tác giả thư Do thái đã viết: “Vị Thượng Tế của chúng ta không
phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã
chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội” (Dt
4,15). Tuy nhiên dù bị cám dỗ như ta, nhưng Người đã chiến thắng ma quỷ
cám dỗ để nêu gương sáng cho chúng ta.
b) Phân biệt
giữa cám dỗ và phạm tội
Thực ra cám
dỗ không nhất thiết là điều xấu, và có thể lại còn cần thiết nữa. Thật
vậy, bị ma quỷ cám dỗ chính là dịp để chứng tỏ tình yêu của chúng ta đối
với Thiên Chúa và tha nhân và chứng tỏ sự vâng phục của ta. Vì loài
người chúng ta không thể chứng tỏ lòng yêu mến, vâng phục nếu không bị
thử thách, nghĩa là chưa có cơ hội để có thể không vâng lời và không yêu
mến như lời Thánh Kinh: “Lửa thử vàng, gian nan thử người công chính”
(Cn 17,3).
Đối với
người bình thường thì hay gặp cám dỗ chọn lựa giữa hai điều tốt xấu, qua
đó sẽ chứng tỏ họ thuộc loại người nào. Còn đối với những người ở trình
độ cao hơn, thì cám dỗ là sự lựa chọn giữa hai điều đều tốt, và họ phải
chọn điều nào tốt hơn, để chứng tỏ quyết tâm lên bậc thánh thiện hơn.
Thiên Chúa cũng muốn ta chứng tỏ rằng ta coi tình yêu của Ngài giá trị
hơn nhà cửa, ruộng vườn, của cải, thậm chí hơn cả tình cảm anh em, cha
mẹ, vợ con của ta, bằng cách cho ta có dịp chọn giữa Ngài và những giá
trị ấy.
3. Chọn điều
nào khi bị cám dỗ giữa hai điều tốt:
a. Ứng với
cám dỗ thứ nhất của Đức Giêsu là nhu cầu sự sống: Chẳng hạn giữa tình
yêu Thiên Chúa và mạng sống của mình, các thánh tử đạo đã chọn tin yêu
Thiên Chúa và sẵn sàng chấp nhận chịu chết. Trong cuộc đấu tranh cho
công lý, mục sư Martin Luther King đã coi công lý, tình yêu đối với
người bị áp bức hơn sự an toàn và mạng sống. Cuối cùng ông đã chết và
được cả thế giới ngưỡng mộ tôn vinh. Những người nói trên đã chọn về
phía đấu tranh cho công lý và tình thương những kẻ bị áp bức. Ngược lại,
nếu vì muốn được an toàn, muốn bảo vệ nồi cơm hay sự thoải mái đang có
mà chọn im lặng trước sai trái bất công, đồng nghĩa với sự lõa với điều
xấu là chúng ta đã chịu khuất phục trước sự cám dỗ của quỷ dữ.
b. Ứng với
cám dỗ thứ hai của của Đức Giêsu là nhu cầu muốn được nổi danh: Thực ra
chuộng danh thơm tiếng tốt để gia tăng uy tín và là người có sĩ diện...
đều là những giá trị cao quí, như Nguyễn công Trứ đã viết: ”Đã mang
tiếng ở trong trời đất, phải có danh gì với núi sông”. Nhưng vẫn có
những giá trị cao hơn công danh, uy tín nói trên... Đó là những giá trị
về tâm linh. Nếu để được thăng tiến bản thân mà “thượng đội hạ đạp” là
ta đã coi những giá trị tự nhiên cao hơn giá trị tâm linh. Tội lỗi phát
sinh từ sự lựa chọn không chính đáng ấy.
c. Ứng với
cám dỗ thứ ba của Đức Giêsu là nhu cầu quyền lực, muốn mọi sự xảy ra
theo ý của mình: Trong xã hội, cũng cần phải có chính quyền như lời
thánh Phao-lô. Nếu tranh giành quyền lực bằng phương thế chính đáng để
có thể phục vụ lợi ích xã hội thì là điều đáng khuyến khích. Nhưng nếu
tranh giành quyền hành vì vụ lợi ích kỷ thì lại không tốt, như ông kinh
sư đã phát biểu hợp ý Đức Giêsu: “Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí
khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn
mọi lễ toàn thiêu và hy lễ “ (Mc 12,33). cám dỗ chính là dịp để chứng tỏ
lòng “mến Chúa yêu người” của các tín hữu chúng ta.
4. Phương
cách chống trả cơn cám dỗ: Ngày nay khi bị cám dỗ, chúng ta cần chống
trả bằng những phương cách như sau:
+ “Đào vi
thượng sách”: Tránh tò mò truy cập các trang phim ảnh xấu trên mạng
internet
+ Tránh ở
không: Chăm chỉ làm việc bổn phận và tránh ở không, vì "Sự lười biếng là
cha của mọi thói hư tật xấu".
+ Năng đọc
kinh Lạy Cha để cầu xin Chúa: “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”.
+ Xin ơn
Chúa Trợ giúp khi bị cám dỗ: Làm dấu thánh giá và kêu cầu ơn Chúa như
thánh Phê-rô xưa: “Thưa Ngài, xin cứu con với!” (x. Mt 14,30-32); Dứt
khoát xua đuổi ma quỷ noi gương Đức Giêsu: “Xa-tan kia, xéo đi! Vì đã có
lời chép rằng: “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và
phải thờ phượng một mình Người mà thôi!” (Mt 4,10).
+ Chọn một
việc hợp sở thích như đọc sách, xem phim truyền hình, đi bơi lội hay
chơi một môn thể thao lành mạnh, thăm bạn bè, tham gia hội đoàn Công
giáo Tiến hành để cùng “hiệp sông Tin Mừng” hằng tuần và chu toàn công
tác tông đồ truyền giáo được cấp trên trao phó.
4. THẢO
LUẬN: Bạn nên chọn ơPhương thế nào hiệu quả và dễ áp dụng nhất trong các
phương thế trên để chiến thắng ma quỷ cám dỗ trong Mùa chay này?
5. NGUYỆN
CẦU:
- Lạy Chúa
Giêsu. Hôm nay con rất cảm phục thái độ cương quyết không khoan nhượng
của Chúa khi đương đầu với ma quỷ cám dỗ. Chính nhờ ăn chay cầu nguyện
suốt bốn mươi đêm ngày, mà Chúa đã được gia tăng nội lực tinh thần.
Chính nhờ luôn vâng theo sự hướng dẫn của Thần Khí, mà Chúa đã luôn chọn
làm theo thánh ý Chúa Cha và cương quyết xua đuổi ma quỷ cám dỗ: “Xa-tan
kia, xéo đi!”.
- Lạy Chúa.
xin giúp con biết nghe theo lời khuyên của thánh Phê-rô: “Anh em hãy
sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ thù địch của anh em, như sư tử gầm
thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé. Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà
chống cự” (1 Pr 5,6-9). Nhờ đó, con sẽ trở nên con ngoan hiếu thảo, luôn
làm đẹp lòng Chúa Cha, noi gương Chúa khi xưa.
X) Hiệp
cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Trình
thuật về các lần cám đỗ được coi như phần mở đầu giúp người tín hữu hiểu
được điều sâu kín nhất trong tâm hồn Đức Giêsu. Đó là một bản Tin Mừng
thu gọn, một thứ hướng dẫn. Những ai muốn hiểu rõ về cuộc đời công khai
của Đức Giêsu, cần phải để ý điều này: nếu muốn hiểu biết điều gì trong
đó, hãy luôn nhớ lại 3 lựa chọn căn bản này của Đức Giêsu, những điều
Người còn lựa chọn lại trong suốt cả cuộc đời.
Cuộc thử thách và lòng trung thành
Thời gian
40 đêm ngày Đức Giêsu trải qua trong sa mạc đánh dấu việc khởi đầu một
cuộc phiêu lưu, cuộc phiêu lưu của Giao Ước Mới. Cuộc phiêu lưu này tái
hiện quãng thời gian 40 năm dân Do-thái đã trải qua trong cuộc Xuất
hành, đồng thời nhắc lại 40 ngày đêm ông Mô-sê đã ở trên núi Xi-nai.
Còn hơn
thế nữa, khoảng thời gian này không chỉ là một cuộc khởi đầu, nhưng còn
là một cuộc sáng tạo với những yếu tố như cuộc sáng tạo vũ trụ: sa mạc
(miền đất trống rỗng, hoang vu), và sự thử thách.
Trong
cuộc sáng tạo, A-đam đã phải chịu thử thách, đã đứng trước một lựa chọn,
trong đó ông phải bày tỏ tự do của mình. Cũng vậy, với biến cố hôm nay,
với cuộc thử thách và lựa chọn trong sa mạc, Đức Giêsu đã bày tỏ tự do
của mình, đã thể hiện sự gắn bó với Thiên Chúa, và cho thấy bản tính sâu
xa của Người: Con Thiên Chúa và Con Loài Người.
Thực vậy,
sa mạc và thử thách luôn là những cơ hội để bày tỏ lòng trung thành hay
thái độ bất trung (A-đam, sự kiện con bò vàng...). Lần đầu tiên trong
suốt lịch sử cứu độ, Đức Giêsu thực hiện điều mà trước đây, cả A-đam lẫn
ÍT-RA-EN không thể thực hiện: lòng trung thành với Thiên Chúa.
Nhờ sự
trung thành với căn tính Con Người và Con Thiên Chúa, Đức Giêsu mở ra
con đường cho Giao ước Mới, con đường đặt nền tảng trên lòng trung
thành, một yếu tố mà con người có thể thực hiện được với nỗ lực và tự do
của mình. Và lòng trung thành này được biểu hiện qua việc nhìn nhận Lời
Chúa là của ăn, nhìn nhận thánh ý Chúa Cha có giá trị ưu tiên tuyệt đối,
nhìn nhận Thiên Chúa là Chúa duy nhất.
Một
cuộc chiến đấu
Con người
vẫn thường nghĩ về Đức Giêsu như Đấng có uy quyền, Đấng bày tỏ các mầu
nhiệm và thực hiện những điều lạ lùng. Về phần mình, Đức Giêsu lại đề ra
một cuộc chiến đấu.
Quả thực,
qua các cám dỗ tại sa mạc, Đức Giêsu đã thể hiện trọn vẹn tính cách con
người. Mặc dù có thể, Người đã không sử dụng các phép lạ cho riêng mình
để loại bỏ đi những yếu tố vẫn gắn liền với thân phận con người.
Đức Giêsu
muốn uống lấy chén đắng, Người muốn cứu nhân loại chứ không cứu lấy bản
thân mình. Chính ý tưởng này còn đưa đến cho Người nhiều thử thách khác,
không kém phần cam go, nhưng Người đã vượt qua. Thử thách cuối cùng là
cái chết, Người cũng đã đón nhận, bởi vì Người hiểu rằng, chính trong
tâm tình tự hiến vì yêu thương, Người nhận lấy vinh quang của cuộc chiến
đấu, đồng thời đem lại vinh quang cho tất cả những ai bền lòng vững chí.
Suốt cuộc
đời của Đức Giêsu là một cuộc chiến đấu liên lỉ chống lại sự dữ, chống
lại quyền lực xấu xa đang đè nặng trên cuộc sống của con người. Người
muốn giải phóng họ khỏi những quan niệm, những cách sống đang làm vướng
bận mối tương giao của họ với Thiên Chúa, hay làm cho mối tương giao đó
không được trong sáng, không đạt tới ý nghĩa thâm sâu. Chẳng hạn như sau
khi chứng kiến phép lạ hoá bánh ra nhiều, dân chúng đã muốn tôn Người
làm vua, nhưng Người đã lánh đi (Ga 6,15) hoặc khi Phê-rô lên tiếng can
ngăn Đức Giêsu, xin Người đừng lên Giê-ru-sa-lem, Người đã không xiêu
lòng trước thử thách, nhưng đã quyết liệt khước từ và nặng lời trách móc
Phê-rô (x. Mt 16,23).
Như thế,
Đức Giêsu không muốn sống an toàn, trái lại, Người lao vào một cuộc đấu
tranh, chấp nhận những mất mát thua thiệt về phía mình, kể cả sự sống.
Người hiểu rằng, để khai sinh một nhân loại mới, một ý nghĩa mới cho
cuộc sống của con người, cần phải chiến đấu, phải hi sinh, phải liều
lĩnh. Nếu không có can đảm vượt lên trên cái nhìn bình thường, vượt lên
trên sự an toàn cho riêng mình, thì nhân loại không thể nào được cứu vớt,
được giao hoà với Thiên Chúa.
Cuối cùng,
cuộc chiến đấu này đã dẫn đưa Người tới cái chết trên thập giá, và Người
đã chiến thắng nhờ sự Phục sinh. Sự kiện này cho thấy rằng cuộc chiến
đấu của Người không phải là vô nghĩa, và con người có thể đạt tới chiến
thắng vinh quang nhờ lòng trung thành, nhờ thái độ tuân phục thánh ý
Thiên Chúa.
Vì vậy,
xét theo cái nhìn bình thường, Đức Giêsu đã hành động như là không yêu
mến con người; Người đã mở ra một cuộc chiến và mời gọi họ dấn thân, chứ
không đem đến cho họ sự an toàn. Tuy nhiên, chính cuộc chiến do Đức
Giêsu khởi đầu lại là con đường duy nhất để đạt tới vinh quang đích
thực. Trong cuộc chiến đấu của mình, Đức Giêsu đã liên đới với tất cả
những người đau khổ, liên đới với thân phận làm người của nhân loại;
Người hành động như thế vì yêu mến họ, yêu mến cách tận tình, muốn đưa
họ tới sự sống chân thật. Bình an do Đức Giêsu đem đến là bình an được
chiếm đoạt bàng sức mạnh, bằng sự trung tín với Lời Chúa.
Chiến dấu từng ngày và suốt đời
Ba cám
dỗ, hay ba chọn lựa, vẫn thường xảy ra trong suốt dòng lịch sử. Mỗi
người sẽ gặp phải những thử thách và họ sẽ ngã gục như A-đam và dân
It-ra-en, nếu họ không nhìn vào Đức Giêsu, và không noi theo gương của
Người.
Cuộc
chiến đấu ấy, thử thách ấy vẫn diễn ra cách này cách kia theo nhiều hình
thức khác nhau; mỗi thời mang một vẻ khác, mỗi giai đoạn lại có vẻ tế
nhị hơn, quyết liệt hơn, nhưng bao giờ cũng vẫn là sự chọn lựa giữa
Thiên Chúa và trần gian. Đó là một cuộc chiến đấu dài, rất dài, không
bao giờ chấm dứt; người ta phải chiến đấu đến giây phút cuối cùng, mà
không được quyền bỏ cuộc, rút lui.
Vậy, đâu
là những thử thách vẫn thường xảy ra và không khi nào Đức Giêsu nhượng
bộ?
Thứ nhất:
Con người được dựng nên không phải chỉ vì những lương thực trần gian. Họ
còn có những lương thực thiêng liêng và chính thứ lương thực này mới cần
thiết.
Thứ hai:
Con người được dựng nên không phải để cảm nghiệm về Thiên Chúa mà thôi.
Họ cần phải hiệp thông với Người, như một đứa con, với lòng tin tưởng
tuyệt đối. Đó không phải là mối tương giao đặt nền tảng trên lòng yêu
mến. Họ ở trong Người, không một chút nghi ngờ, không một khoảng cách.
Thứ ba:
Con người được dựng nên không phải để thống trị anh em mình, không phải
để bắt người khác thần phục mình. Trái lại, mọi người đều là con một
Cha; tất cả đều quy hướng về Thiên Chúa. Hơn nữa, họ không được dựng nên
để phục lạy các ngẫu tượng, nhưng là để thờ phượng Thiên Chúa:
Như vậy,
vấn đề được đặt ra chính là căn tính của con người. Họ được sáng tạo
theo hình ảnh của Thiên Chúa Ba Ngôi và Ba Ngôi Chí Thánh không ngừng
làm cho họ nên giống hình ảnh của Người. Đó là chương trình đã có từ
thời sáng thế, và hôm nay vẫn đang được thực hiện. Chương trình này vẫn
đang bị đe doạ vì những ham muốn chống đối của con người, và Thiên chúa
không ngừng bày tỏ lòng yêu thương của Người:
Chính
trong việc cử hành Thánh Thể,
Đức Kitô
ban mình làm lương thực để nuôi sống con người.
Đức Kitô
xoá tan mọi khoảng cách và nghi ngờ,
Ngài đến
ở với chúng ta qua việc rước lễ.
Đức Kitô
quỳ gối trước mặt chúng ta,
rửa chân cho
chúng ta,
biến chúng
ta thành một dân biết phục vụ,
sắn sàng quỳ
gối để rửa chân và giúp đỡ người khác.
Con người
không được dựng nên cho riêng mình. Cộng đoàn ngày Chúa Nhật là cơ hội
để chúng ta thấy rõ căn tính của mình. Trong cộng đoàn này, chúng ta
chia sẻ với nhau những thành quả do cuộc chiến đấu của Đức Kitô, đồng
thời trở nên hình ảnh của Thiên Chúa.
Đi vào Mùa
Chay
là cùng với
Đức Kitô
lao vào cuộc
chiến đấu.
để bày tỏ
lòng trung thành
đặt nền
tảng trên Lời Chúa.
Trước khi
bắt đầu sứ vụ rao giảng công khai, Chúa Giêsu vào hoang địa ăn chay cầu
nguyện bốn mươi đêm ngày. Sau đó ma quỷ đến cám dỗ Chúa về ba thứ: miếng
ăn, kiêu ngạo và danh vọng.
CÁM DỖ VỀ
MIẾNG ĂN: Biết Chúa trong suốt bốn mươi đêm ngày không ăn uống gì, chắc
hẳn phải đói lắm, ma quỷ khôn khéo lợi dụng cái đói bụng để cám dỗ Chúa.
Chúng đưa ra một hòn đá và bảo Chúa hãy truyền cho nó biến thành bánh mà
ăn. Tại sao ma quỷ không đem ngay bánh tới để cám dỗ mà lại dụ dỗ Chúa
làm phép lạ cho đá hóa thành bánh? Điều đó cho chúng ta biết ma quỷ
không cám dỗ Chúa về sự mê ăn uống, bởi vì một người ăn chay trường được
thì không phải là người mê ăn, một tấm bánh có gì đáng mê ăn, hơn nữa,
một người đói cần ăn, không có gì là xấu, cho nên, ở đây ma quỷ muốn cám
dỗ Chúa dùng sai khả năng, sai mục đích, dùng uy quyền vô lý, ma quỷ
muốn Chúa biểu diễn một phép lạ không có lý do chính đáng. Nếu Chúa làm
phép lạ thì Chúa không còn uy quyền trên ma quỷ nữa, vì đã vâng phục
chúng. Nếu Chúa làm phép lạ thì chứng tỏ Chúa không còn tin vào sự quan
phòng của Thiên Chúa Cha nữa. Nếu Chúa làm phép lạ thì mắc mưu ma quỷ,
nghĩa là chúng bảo Chúa hãy sử dụng quyền phép mà giải quyết việc đói
bụng. Nhưng chúng thất bại hoàn toàn, Chúa không chê cơm bánh, Chúa cũng
không làm phép lạ, Chúa đã dùng sức mạnh của chính lời Chúa trong Kinh
Thánh để chiến thắng cám dỗ. Chúa bảo cho ma quỷ biết: " Người ta sống
không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra".
CÁM DỖ VỀ
KIÊU NGẠO: Ma quỷ đưa Chúa lên nóc đền thờ Giêrusalem và xúi bẩy Chúa
nhảy xuống. Nếu Chúa nhảy xuống thì thật là một hành động ngoạn mục, giả
như bị chết hay bị thương thì càng tốt, còn nếu không hề hấn gì như lời
Thiên Chúa nói là Thiên Chúa sẽ ra lệnh cho thiên thần đỡ nâng, thì Chúa
sẽ được mọi người ở dưới vỗ tay tung hô ca tụng và được biết đến như một
người Thiên Chúa sai đến. Như vậy, khi xúi giục Chúa nhảy xuống là ma
quỷ đã khích động lòng kiêu ngạo vốn thường có nơi mỗi người. Quả thực,
ma quỷ muốn Chúa kiêu ngạo như chúng. Tính kiêu ngạo thường ẩn núp dưới
hai hình thức: là tôn trọng mình cách vô lối và muốn mọi người khác phải
đề cao mình. Ma quỷ là cha thần kiêu ngạo, chúng đem kiêu ngạo vào mọi
lãnh vực, đó là điểm rắc rối của cuộc đời. Biết bao người đã là nạn nhân
của lòng tự ái, lòng háo danh, tự hào tự phụ về tài năng, sắc đẹp và cả
nhân đức nữa. Nhưng một lần nữa Chúa Giêsu lại chiến thắng ma quỷ và bảo
cho chúng biết qua lời Kinh Thánh: "Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là
Thiên Chúa của ngươi", nghĩa là đừng đòi hỏi Thiên Chúa làm phép lạ vô
ích.
CÁM DỖ VỀ
DANH VỌNG: Ma quỷ lại đưa Chúa lên núi cao, chỉ cho Chúa thấy khắp bàn
dân thiên hạ, thấy mọi vinh quang phú quý uy quyền, rồi hứa biếu Chúa
tất cả nếu bằng lòng uốn gối quỳ thờ lạy chúng. Thờ lạy tức là vâng phục,
là đầu hàng. Lời dụ dỗ của ma quỷ rất hấp dẫn, vì dân Do Thái lúc bấy
giờ đang trông đợi một Đấng Mêsia trần thế, một anh hùng, một vị cứu
tinh đến giải thoát dân tộc khỏi ách thống trị của đế quốc. Vì thế, ma
quỷ xúi Chúa thờ lạy chúng đi là được ngồi ngay vào ghế đó. Cờ đến tay
rồi, còn chờ gì nữa không cầm mà phất lên. Nhưng Chúa Giêsu đã từ chối
bằng câu Kinh Thánh: "Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của
ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi".
Sự kiện
cám dỗ này dạy chúng ta nhiều điều, chúng ta hãy nhớ ba điều sau đây:
Thứ
nhất,
là con người, chúng ta có rất nhiều nhu cầu, nhưng vấn đề là phải biết:
đâu là nhu cầu chính yếu đâu là nhu cầu phụ thuộc. Kinh Thánh cho biết
chỉ có hai thứ nhu cầu mà thôi: nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần.
Nhu cầu vật chất là cơm ăn, áo mặc, nhà cửa, nhu cầu tinh thần là sự
sống vĩnh cửu, con người phải có hai nhu cầu đó mới sống được. Chúa đã
dạy: "Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Trời". Nghĩa là trong khi lao động để
tìm kiếm những nhu cầu vật chất chúng ta đừng quên tìm kiếm những nhu
cầu tinh thần trước hết.
Thứ
hai,
chúng ta cần phải cảnh giác trước những gì là hình thức hào nhoáng bên
ngoài. Nhiều người dễ bị lầm, đến khi nhận ra thì đã quá muộn và đụng
phải một thực tế phũ phàng. Vì thế, đừng để cho vẻ hào ngoáng bên ngoài
cám dỗ. Những ai chạy theo vẻ bên ngoài thì sẽ chỉ gặp cái vỏ bên ngoài.
Cái thực chất mới đáng theo đuổi. Thực chất nằm ở trong những gì giá trị
lâu dài chứ không nằm trong những gì hào nhoáng nhất thời.
Thứ
ba,
là con cái Chúa, mặc nhiên chúng ta trở thành mục tiêu tấn công của ma
quỷ. Ma quỷ rất tinh quái và xảo quyệt, thánh Phaolô gọi chúng là một kẻ
thù hiểm độc, một nhà chiến lược đầy tội ác, chúng dùng mọi cách để cám
dỗ chúng ta. Vì thế, chúng ta phải đứng về phe Chúa, phải nương nhờ vào
sức mạnh của Chúa mà chiến đấu, nếu không chúng ta sẽ dễ dàng bị thất
bại. Nương nhờ vào Chúa bằng cách chăm chỉ cầu nguyện, ăn chay, sống
chân thật, ngay thẳng, đọc Kinh Thánh và dùng Lời Chúa để chiến thắng
cám dỗ như Chúa đã làm gương.
mục lục
Năm nào
cũng vậy, cứ vào Chúa Nhật thứ nhất Mùa Chay, Giáo Hội cho chúng ta nghe
đọc đoạn Tin Mừng kể về việc Chúa Giêsu bị cám dỗ và chiến thắng Xa-tan.
Giáo Hội cho chúng ta nghe đoạn Tin Mừng này để mời gọi chúng ta chiêm
ngắm hình ảnh Chúa Giêsu như kiểu mẫu và bảo đảm cho chúng ta trong cuộc
chiến đấu với Xa-tan và những cám dỗ của nó.
Đời người
được ví như một đấu trường, ở đó con người phải luôn chiến đấu với ngoại
cảnh, chiến đấu với nhiều thứ, nhất là chiến đấu với chính mình. Tại sao
vậy? bởi vì mang thân phận con người, ai cũng bị giằng co, xâu xé bởi
hai khuynh hướng mâu thuẫn nhau, một cái kéo con người lên và một cái
lôi con người xuống. Hai khuynh hướng đó đều nội tại trong con người,
khiến cho nội tâm con người trở thành chiến trường, đôi khi rất cam go
làm con người đau khổ.
Khuynh
hướng đi lên là khuynh hướng căn bản của ý chí con người. Ai cũng muốn
mình là người tốt, ai cũng muốn mình làm điều thiện, chứ không ai muốn
mình xấu hay làm điều ác cả. Nhưng muốn là một chuyện, còn có làm điều
tốt hay không lại là chuyện khác. Thánh Phaolô đã nói: “Tôi không hiểu
nổi việc tôi làm: điều tôi muốn thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét
thì tôi lại cứ làm”. Vì thế, muốn đi lên, con người phải cố gắng, phải
dùng chính sức mạnh của mình, phải hao tổn năng lực của mình.
Còn
khuynh hướng đi xuống cũng ở trong nội tâm, nhưng kể từ khi nguyên tổ
phạm tội, khuynh hướng này đã được ma quỷ tăng cường làm cho mạnh lên,
khiến con người muốn đi lên phải chiến đấu rất vất vả. Còn muốn đi xuống
thì chẳng cần phải cố gắng gì cả, chỉ cần buông thả, không cố gắng nữa
là tự động đi xuống. Chính vì thế làm thiện khó hơn làm ác rất nhiều. Và
cái lực hấp dẫn mọi người làm ác hoặc không làm thiện là lực của ma quỷ.
Tác động của ma quỷ hấp dẫn người ta làm ác gọi là cám dỗ.
Đúng vậy,
đằng sau bối cảnh chiến trường mà con người phải chiến đấu, ẩn hiện chập
chờn một nhân vật rất nguy hiểm mà Kinh Thánh gọi là kẻ thù, ấy là
Xa-tan.
Xa-tan là
quỷ, nó là “xếp sòng” của loài quỷ. Xa-tan hay quỷ trước kia là các
thiên thần, nhưng vì làm loạn cùng Thiên Chúa, nên bị tống cổ ra khỏi
thiên đàng, bị đày xuống hỏa ngục. Từ ngày thất thế, Xa-tan và bè lũ trở
nên những kẻ thù nguy hại của loài người. Chúng chuyên môn áp đảo, quấy
phá để làm cho người ta hư hỏng theo chúng.
Chúng đã làm
hư hỏng biết bao nhiêu người, chúng đã du nhập vào trần gian này đủ thứ
gian tham, lừa lọc, tội ác, bất công và những lối sống lố bịch, nham
nhở, nhăng nhít. Đó là một sức mạnh vô hình luôn tác động trong tâm trí
chúng ta, lôi kéo, xúi bẩy chúng ta đến chỗ hành động xấu xa tội lỗi.
Chiến thuật hay phương thế ma quỷ sử dụng để lôi kéo, xúi giục, thúc đẩy
chúng ta phạm tội là cám dỗ. Chúng không kiêng nể ai hay buông tha ai,
vì thế, không ai thoát khỏi cám dỗ của chúng.
Ma quỷ cám
dỗ thế nào? Chúng lợi dụng chính những nhu cầu, ham muốn, sở thích, đam
mê của chúng ta để cám dỗ, để đưa chúng ta vào bẫy của chúng. Nếu chúng
ta không cần gì, không thích gì, không ham muốn gì, thì ma quỷ khó lòng
cám dỗ chúng ta được. Ma quỷ biết rất rõ những gì chúng ta cần, chúng ta
thích, chúng ta ham mê, nếu không tỉnh táo, chắc chắn chúng ta sẽ bị sa
bẫy cám dỗ của chúng vì chính những nhu cầu và sở thích của mình. Vì
vậy, để đề phòng cám dỗ, chúng ta nên đề phòng chính những nhu cầu và
ham muốn của chúng ta. Những người nào giảm thiểu nhu cầu của mình tới
mức tối đa và tập luyện không ham muốn ước vọng nhu cầu gì cả thì ít khi
bị cám dỗ, và nếu có bị cám dỗ thì cũng thắng được dễ dàng.
Chúng ta
thấy ma quỷ đã lợi dụng ngay những nhu cầu căn bản nhất của con người là
ăn uống để cám dỗ Chúa. Ngài nhịn ăn đã 40 ngày, nên nhu cầu ăn uống lúc
đó thật là khẩn thiết và chính đáng… nhưng Chúa Giêsu đã làm chủ được
nhu cầu thể xác của mình và không sa chước cám dỗ. Tiếp đến, ma quỷ nhằm
vào những gì mà tất cả mọi người đều ham muốn, thậm chí đam mê, đó là sự
giàu sang, quyền bính, địa vị, danh vọng. Hễ đã là người thì ai cũng
thích cái tôi của mình được đề cao, được tôn vinh, được triển nở, được
thăng tiến. Rất nhiều người đã nhượng bộ ma quỷ để có một đời sống dễ
dãi, giàu có, sang trọng, uy quyền. Nhưng Chúa Giêsu đã không để những
ham muốn đó làm chủ, nên đã không sa bẫy của chúng. Rồi ma quỷ lại nhằm
vào khuynh hướng thích khoe khoang, tỏ mình ra, nhất là sự khoe khoang
đó là đúng sự thật. Nhiều khi chỉ cần một câu nói thách thức hay chạm tự
ái là người ta làm theo thách thức đó. Nhưng Chúa Giêsu đã làm chủ tính
khoe khoang của mình, Ngài không bị mắc bẫy ma quỷ.
Đành rằng ma
quỷ cám dỗ chúng ta, nhưng chúng chỉ là kẻ thù nguy hiểm thứ hai sau xác
thịt của chúng ta: thế gian, ma quỷ, xác thịt, đó là ba kẻ thù ghê gớm.
Ma quỷ chỉ là kẻ xách động, cám dỗ, thúc đẩy, xúi giục chúng ta phạm
tội, nhưng chúng có gặp được sự đồng tình đồng ý của chúng ta hay không?
tức là chúng ta có chấp nhận và chiều theo chước cám dỗ hay không. Nói
khác đi, ma quỷ chỉ có thể cám dỗ được chúng ta khi chúng ta có nhu cầu,
ham thích, đam mê đối với những thực tại trần gian. Chúng ta có làm chủ
được những nhu cầu thể chất ấy, chúng ta mới dễ dàng thắng lướt được
những cám dỗ, và không để cho những khuynh hướng xấu làm chủ mình. Và
nếu chẳng may thất bại, nghĩa là sa chước cám dỗ, phạm tội, chúng ta
phải lập tức đứng dậy ngay, nghĩa là hối hận, ăn năn, xưng tội, xin Chúa
tha thứ và cố gắng hơn nữa để khỏi tái phạm.
Chúa Giêsu
cũng đã bị cám dỗ. Con người chúng ta cũng luôn bị cám dỗ. Chúng ta hãy
thử khảo sát ba cám dỗ dưới ba chiều kích tương quan với Chúa, với con
người và với tạo vật và cách ứng xử của Chúa Giêsu để học đòi, theo
gương của Ngài.
Trong cám dỗ
thứ nhất, ma quỷ nói: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì truyền cho những
hòn đá này hoá bánh đi!” (Mt 4,3).
Cám dỗ thứ
nhất có thể được nhìn thấy như là một loại cám dỗ tin vào khả năng của
mình. Nó biểu hiện ở chỗ cám dỗ Đức Giêsu tin rằng mình có thể làm hòn
đá trở nên bánh. Đây là một loại cám dỗ chỉ tin vào mình mà thôi.
Nhiều người
không tin tưởng vào Thiên Chúa. Họ tin vào khả năng sức lực của mình. Họ
nói: Bàn tay ta làm nên tất cả. Đối với họ, Ông Trời phải đứng qua một
bên, vì họ tin rằng với khả năng, kiến thức, vào kinh nghiệm, của mình,
mọi việc sẽ được giải quyết ổn thỏa.
Trong cơn
dịch cúm corona đang hoành hành, mang lại tai họa khá nặng nề cho thế
giới, con người mới thấy khả năng của mình hạn hẹp như thế nào. Đối với
một số người đang làm ăn buôn bán phát đạt, nay bị phá sản, cảm thấy
rằng bàn tay ta không làm nên tất cả. Ngược lại, tất cả công lao gắng
sức, bây giờ thì không còn gì cả, chỉ còn mang một gánh nợ.
Chống lại
với cám dỗ này, Đức Giêsu đã tỏ ra tin tưởng vào Thiên Chúa, Ngài nói
“Người ta sống không nguyên bởi bánh nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên
Chúa phán ra” (Mt 4,4).
Trong cám dỗ
thứ hai, ma quỷ đã nói với Đức Giêsu: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì
gieo mình xuống đi! Vì đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho
thiên sứ lo cho bạn, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp
chân vào đá.” (Mt 4,5).
Cám dỗ thứ
hai này, thì ngược lại với cám dỗ thứ nhất, như là loại cám dỗ chỉ tin
vào Thiên Chúa, nhưng với ý nghĩa là chỉ tin vào phép lạ của Thiên Chúa
một cách phi lý. Tự căn bản cám dỗ này hệ tại ở chỗ cậy trông vào phép
lạ, ở chỗ coi mọi vấn đề đều có thể được giải quyết bằng cầu nguyện và
kiên nhẫn chờ đợi; không cần phải lo lắng, suy tính; không cần cố gắng
hay làm chi cả. Cám dỗ này nói rằng Thiên Chúa quyền năng sẽ làm hết;
mọi cố gắng của con người coi như là vô ích.
Đã có một
thời, diễn ra hiện tượng các bà bầu. Một số phụ nữ hiếm muộn, không thể
sinh con, chạy đến cầu xin cùng Chúa. Họ được dặn dò rằng, là phải tin
tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, như là có đức tin chuyển núi dời non. Vì
vậy, họ không được đi siêu âm để xem mình có thai hay không. Quả thật,
bụng họ đã to ra, như là có bầu. Tuy nhiên, họ đã mang bầu vài ba năm
rồi mà vẫn không thể sinh con.
Một bà đã
tâm sự rằng: “Thưa cha, con ngu dại quá, do ăn uống nghĩ ngơi, dưỡng
thai, nên cái bụng nó tích mỡ, to ra, chứ có bầu gì đâu. Con đã bỏ nhà
đi cầu nguyện miết. Chồng con không cho đi, rồi sinh ra cãi cọ với
chồng. Bây giờ chồng con đã ly dị, đã bỏ con rồi, vì con không nghe lời
ổng! Nay con rất đau khổ và ân hận!”
Đối với cám
dỗ thứ hai này, Chúa Giêsu đã trả lời cho ma quỷ rằng: “Nhưng cũng đã có
lời chép rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi.”
(Mt 4,7).
Vì vậy, chỉ
tin vào phép lạ của Thiên Chúa, cũng có nghĩa là thử thách Thiên Chúa,
coi thường Thiên Chúa.
Trong cám dỗ
thứ ba, quỷ nói rằng: “Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp
mình bái lạy tôi.” (Mt 4, 9).
Cám dỗ thứ
ba này lại là loại cám dỗ không tin vào chính mình, cũng chẳng tin vào
Thiên Chúa nhưng tin vào những thần tượng.
Ta không cúi
đầu trước bức tượng thần, nhưng nhiều khi ta đã có thể cúi mình trước
thần tượng của ta mà ta không biết. Khi ta coi khoa học kỷ thuật tiên
tiến mới giải quyết hết mọi vấn đề, thì ta đã cúi mình thờ lạy thần
tượng khoa học kỷ thuật. Khi ta cho rằng, chỉ có những chế độ chính trị
tốt mới giải quyết được những khó khăn của nhân loại, thì ta đã cúi mình
thờ lạy thần tượng chính trị. Khi ta coi vàng bạc sẽ giúp gỉai quyết mọi
vấn đề, thì ta đã cúi đầu trước thần tượng vàng bạc. Khi ta cho rằng
phải học, như một số em học sinh chỉ lo học, cái học là trên hết, học
ngày học đêm, học trường chưa đủ, tranh thủ học thêm, còn việc học đạo
lý, giáo lý thì bỏ qua, thì lúc đó ta đã bái lạy thần tượng phát triển
trí tuệ con người.
Trước cám dỗ
này Đức Giêsu đã từ chối mọi thần tượng để chỉ tôn thờ một Thiên Chúa,
Ngài nói: “Xa-tan kia, xéo đi! Vì đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái
lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người
mà thôi.” (Mt 4,10).
Chúa Đức
Giêsu đã thắng các cơn cám dỗ. Ngài chỉ cho chúng ta thấy là cần phải
vừa tin tuởng nơi Thiên Chúa, vừa tin tuởng vào chính mình, hai điều này
liên kết chặt chẻ với nhau không được tách rời.
Điều này
thật có ý nghĩa trong mùa Chay thánh, mùa của ăn năn thống hối và cải
thiện đời sống. Khi chúng ta cảm thấy mình như thất bại trước những tật
xấu của mình, rồi sinh ra thất vọng, ù lì, thì hãy học cách vượt thắng
như Chúa Giêsu. Đó là tin tưởng vào Thiên Chúa và tin vào sức cố gắng
của mình. Hy vọng rằng phương cách này sẽ giúp chúng ta cải thiện được
đời sống, biến đổi cuộc sống mình được mỗi ngày một tốt hơn.
Khởi đầu
công cuộc cứu chuộc, Chúa Giêsu đã trải qua biến cố chịu thử thách, chịu
ma quỷ cám dỗ, nhưng Ngài đã chiến thắng. Những cám dỗ của Chúa Giêsu
xét cho cùng cũng có thể rút về hai điểm chính, là cám dỗ về thực thể
mình là ai? Đến sống trên trần gian này để làm gì?
Ma quỷ cám
dỗ Chúa Giêsu về thực thể mình là Con Thiên Chúa: "Nếu ông là Con Thiên
Chúa, thì hãy biến những hòn đá này thành thức ăn".
Thử thách
đòi có dấu lạ để trắc nghiệm xem mình có thật là Con Thiên Chúa hay
không. Ma quỷ cám dỗ Chúa nghi ngờ thay đổi sứ mạng đã lãnh nhận từ
Thiên Chúa Cha: "Nếu ông sấp mình thờ lạy ta, thì ta sẽ cho ông tất cả".
Sứ mạng của
Chúa Giêsu là con người trở về cùng Thiên Chúa, chứ đâu phải con người
làm nô lệ cho tội lỗi để củng cố vinh quang cho riêng mình Ngài. Chúa
Giêsu nhắc lại: "Con chỉ tôn thờ một mình Thiên Chúa mà thôi".
Sống vâng
phục Thiên Chúa, thi hành thánh ý Ngài đã là sứ mạng căn bản nhất của
con người, của mỗi người chúng ta đã được dựng nên giống hình ảnh Thiên
Chúa và đã được Chúa Giêsu Kitô cứu chuộc để trở thành con cái Thiên
Chúa, được chia sẻ sự sống Thần Linh của Thiên Chúa. Chúng ta được Chúa
Giêsu chỉ cho chúng ta con đường để chiến thắng những cám dỗ, và chúng
ta không thể nào tránh khỏi con đường này trong cuộc sống của mình, đó
là con đường vâng phục, lắng nghe Lời Chúa.
Hôm nay
chúng ta bắt đầu Mùa Chay, và chúa nhật thứ nhất Mùa Chay, chúng ta dốc
quyết một điều cụ thể cho đời sống của mình trong Mùa Chay này. Mỗi
người chúng ta hãy nhìn về cuộc sống của mình, xem mình đã có ý thức về
thực thể mình là ai và xác tín mình là con của Thiên Chúa, đã được Chúa
Giêsu cứu chuộc hay không? Có ý thức rõ ràng là sứ mạng của mình trên
trần gian này là sống vâng phục Thiên Chúa, sống với Thiên Chúa không?
Chúng ta hãy
dốc quyết một cách cụ thể trong Mùa Chay này, đọc Lời Chúa, ít ra không
đọc hàng ngày thì mỗi tuần một lần để cho Lời Chúa chỉ dẫn cuộc sống
chúng ta, nhắc cho chúng ta luôn luôn nhớ mình là con cái Thiên Chúa và
sống trên trần gian này bằng cuộc sống vâng phục thánh ý Thiên Chúa.
Đối với rất
nhiều người trên thế giới, ma quỷ chỉ là chuyện hoang đường do một số
người bịa ra để hù dọa những người yếu bóng vía. Họ cho rằng ma quỷ
không có thật và cho dù có thật đi nữa, chúng cũng chẳng đáng cho ta
quan tâm, chẳng cần cảnh giác.
Nghĩ như thế
là mắc mưu ma quỷ rồi, vì theo lời Đức thánh Cha Phan-xi-cô, “Sa-tan cố
tìm cách làm cho mọi người tin rằng chúng không còn tồn tại trong thế kỷ
này” để người ta khỏi biết đến chúng và mất cảnh giác với chúng.
Ma quỷ có
thật
Kinh thánh
cho chúng ta biết sự hiện hữu của ma quỷ là một sự thật hiển nhiên.
Ngay từ khi
nguyên tổ loài người được tạo nên, ma quỷ đã xuất hiện để cám dỗ, để lôi
kéo tổ tông loài người đừng vâng theo lời Chúa dạy, đừng đi theo đường
lối Ngài và hai ông bà đã nghe theo lời dụ dỗ của Sa-tan. Thế là thảm
họa đã xảy ra từ đó.
Rồi khi Chúa
Giê-su vào sa mạc ăn chay 40 đêm ngày, ma quỷ cũng đến cám dỗ Ngài,
không chỉ một lần mà là đến 3 lần và sau 3 lần thua trận, “ma quỷ rút
lui để chờ cơ hội khác” (Lc 4,13).
Và trong 3
năm rao giảng, Chúa Giê-su đã nhiều lần trục xuất ma quỷ khỏi nhiều
người bị chúng ám hại và Ngài cũng ban cho các môn đệ quyền năng để xua
trừ ma quỷ.
Gần với thời
đại chúng ta hơn thì phải kể đến việc ma quỷ đã quấy phá cha thánh Gioan
Vianney suốt 35 năm trời bằng đủ mọi hình thức đáng ghê sợ khiến ngài
hầu như không thể nào ngủ được. Sự việc này đã được tòa án tuyên thánh
cho ngài xác nhận là sự thật.
Thánh Phê-rô
cũng xác nhận rằng ma quỷ vẫn đang rình rập quanh ta và dạy chúng ta
phải cảnh giác: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ là thù
địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1Pr
5,8).
Và từ ngày
Đức thánh Cha Phanxicô đảm nhậm trọng trách Giáo hoàng đến nay, ngài đã
nhiều lần nhắc nhở các tín hữu rằng ma quỷ có thật, ma quỷ luôn hiện
diện quanh ta và chúng ta phải luôn cảnh giác với chúng. Ngài nói: "Ma
quỷ đang ở quanh ta … trong thế kỷ 21 này!" Ngài kêu gọi: Xin mọi người
“đừng thờ ơ trong việc này! Hãy luôn luôn cảnh giác.”
Ma quỷ rất
đáng sợ
Chính ma quỷ
đã gieo vào lòng Giu-đa Ít-ca-ri-ốt ý định phản nộp Chúa Giê-su[1] cũng
như đã nhập vào y để thúc đẩy y thực hiện hành vi bán Chúa.[2]
Chúa Giê-su
cũng khẳng định rằng điều xấu là do ác quỷ mà ra.[3]
Hiện nay, ma
quỷ có một đạo binh rất đông đảo, rất hùng hậu, rất tinh nhuệ và rất
thiện chiến… đang bủa ra khắp nơi để tấn công loài người, tàn phá những
giá trị đạo đức, làm suy sụp nền luân lý lành mạnh, làm cho rất nhiều
gia đình tan vỡ…
Ma quỷ lôi
kéo rất nhiều người vào con đường tội lỗi, sa đọa vì rượu bia, ma túy,
mại dâm, đàng điếm, trộm cướp, hận thù, đâm chém, hoang đàng, trác táng…
Ma quỷ xúi
giục người ta tham ô, làm hàng giả, sản xuất thực phẩm độc hại, buôn bán
ma túy, buôn người…
Ngay cả Chúa
Giê-su mà còn bị ma quỷ cám dỗ 3 lần trong hoang địa và sau đó ma quỷ
còn chờ cơ hội để cám dỗ tiếp, thì ma quỷ cũng không buông tha cho bất
cứ ai trong chúng ta.
Ma quỷ là
thù địch đáng sợ hơn bất cứ thù địch nào trên thế gian vì chúng có trăm
phương nghìn kế để lừa dối, để mê hoặc, để lôi cuốn người ta vào con
đường tội lỗi.
Vô vàn phim
ảnh, sách báo, các thể loại ca múa nhạc và văn hóa phẩm đủ loại nhằm
kích động bạo lực, tình dục, chia rẽ, hận thù… tràn lan khắp nơi trên
thế giới là những phương tiện ma quỷ thường dùng để làm băng hoại bao
tâm hồn và xô đẩy nhiều người xuống hỏa ngục.
Trong khi
đó, điều rất đáng quan ngại là nhiều người không hề quan tâm, không hề
cảnh giác trước những nguy cơ rất đáng sợ này.
Chính vì
thế, Đức thánh Cha Phan-xi-cô đã nhiều lần nhắc nhở các tín hữu phải
luôn luôn cảnh giác đối với ma quỷ và ngăn ngừa những tác hại do chúng
gây ra.
Và thánh
Phê-rô cũng nhắc nhở chúng ta luôn tỉnh thức: “Anh em hãy sống tiết độ
và tỉnh thức, vì ma quỷ là thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo
quanh tìm mồi cắn xé” (1Pr 5,8).
Lạy Chúa
Giê-su,
Ma quỷ thì
khôn ngoan xảo quyệt, chúng như sư tử rảo quanh tìm mồi cắn xé, còn
chúng con chẳng khác gì cừu non trước đàn sói dữ, khó lòng thoát khỏi
nanh vuốt kẻ thù nếu không được Chúa bảo vệ chở che.
Xin luôn bảo
vệ chúng con, xin giúp chúng con luôn sống tiết độ và tỉnh thức như lời
Chúa dạy để khỏi sa vào móng vuốt kẻ thù rất đáng sợ này. Amen.
----------------------------------
[1] Ga 13,2
[2] Ga 13,
27. Lc 22,3
[3] Mt 5,37
Điều gì sẽ
xảy ra nếu trái đất không đi đúng quỹ đạo mà Thiên Chúa đã vạch ra cho
nó? Trong trường hợp nầy, một thảm họa lớn nhất trong lịch sử loài người
và lịch sử vũ trụ sẽ xảy ra. Một trận hoả hoạn toàn cầu khủng khiếp chưa
từng thấy sẽ bùng lên thiêu rụi hết mọi thứ nếu trái đất xích lại gần
mặt trời hơn cự ly hiện nay, hoặc giá băng sẽ bao trùm trái đất khiến sự
sống của mọi sinh vật sẽ bị huỷ diệt nếu trái đất trệch ra xa mặt trời
hơn khoảng cách hiện tại.
Điều gì sẽ
xảy ra nếu nước biển không tuân theo quy luật là nước phải tụ về chỗ
trũng thấp? Lúc đó, Thái Bình Dương thỉnh thoảng tràn lên đến tận dãy
Trường Sơn và toàn bộ phố xá ruộng vườn đều bị cào xới bình địa, mọi cư
dân đang sống trên đường đi của nó trở thành lương thực cho các loài tôm
cá.
Điều gì sẽ
xảy ra nếu quy luật giao thông không được người tham gia giao thông tuân
giữ? Lúc đó, xe cộ sẽ trở thành vũ khí huỷ diệt hàng loạt trên toàn cầu
và đường sá trở thành nơi ngốn nhiều nhân mạng hơn hết thảy mọi cuộc
chiến tranh.
Điều gì sẽ
xảy ra nếu ngữ pháp không được người ta tôn trọng lúc giao tiếp? Khi đó,
chỉ có người nói mới hiểu mình nói gì và người chung quanh không thể
hiểu được điều ta nói.
Điều gì sẽ
xảy ra nếu loài người không đi theo con đường mà Đấng sáng tạo đã vạch
ra cho mình? Lịch sử Hội Thánh cho thấy nguyên tổ loài người đã đi trật
đường Chúa... và phải lãnh lấy hậu quả là đau khổ và chết chóc.
Nói tóm lại,
mọi sự đều phải vận hành theo quy luật mà Thiên Chúa đã an bài thì sự
sống mới được duy trì và khi quy luật không được tôn trọng thì thảm hoạ
sẽ xảy ra cho vũ trụ, cho thế giới, cho mọi loài.
Bài trích
sách sáng thế được công bố trong phụng vụ hôm nay khẳng định lại chân lý
nầy. Khi hai ông bà nguyên tổ đi trệch đường lối Thiên Chúa (được minh
hoạ bằng việc Chúa truyền đừng ăn trái cấm mà hai ông bà bất tuân) thì
hậu quả đau thương đã đến với hai ông bà và lan truyền đến toàn thể nhân
loại.
Qua bài đọc
thứ hai, thánh Phao-lô khẳng định lần nữa chân lý nầy: Vì một người (là
Ađam) đã không đi theo đường lối Thiên Chúa mà muôn người trở thành tội
nhân (Rôma 5, 19) và tội lỗi đã gây nên sự chết! (Rôma 5, 12).
Khốc liệt
thay hậu quả của việc bất tuân, của việc đi lệch ra ngoài quỹ đạo!
* * *
Vì loài
người đi lệch quỹ đạo của Thiên Chúa, không đi theo đường lối Thiên
Chúa, nên đau khổ và sự chết là hậu quả tất nhiên đã đến với mọi người.
Để cứu vớt
loài người, Thiên Chúa Cha đã cho Ngôi Hai xuống thế, trở thành một Ađam
mới, sửa lại những sai lệch do Ađam cũ gây nên, hầu cứu nhân loại khỏi
vòng huỷ diệt.
Cũng như
Ađam cũ, Ađam mới cũng bị Sa-tan cám dỗ đi trệch đường của Thiên Chúa
với hy vọng một khi 'Đầu Tàu' bị trật bánh thì toàn thể đoàn tàu cũng sa
xuống vực sâu. Ba lần cám dỗ trong hoang địa mà Tin Mừng hôm nay thuật
lại là tổng hợp của 'trăm chiều thử thách' (Do-thái 4, 15) mà Ađam mới
là Chúa Giêsu phải đương đầu trong cuộc đời dương thế.
Nhưng khác
với Ađam cũ nông nổi nghe lời Sa-tan xúi giục đi trệch đường lối Thiên
Chúa, Đức Giêsu đã kiên quyết tuân theo đường lối Chúa Cha không hề sai
lệch, cho dù phải chấp nhận thập giá và cái chết vô cùng đau thương (Pl
2,8). Nhờ thế, Ngài đã nắn lại những sai trật do Ađam gây ra và đã lôi
kéo được nhân loại về với Thiên Chúa.
Hôm nay, mỗi
người chúng ta cũng phải đương đầu với những cám dỗ, thử thách mà Ađam
cũ cũng như Ađam mới là Chúa Giêsu đã gặp hôm xưa.
Bước theo
vết chân của Ađam cũ (tức là nghe theo lời mời mọc của Sa-tan) để rồi
phải lâm vào cảnh đau thương chết chóc hay kiên quyết chống cự để trung
thành với đường lối của Thiên Chúa là chọn lựa mà mỗi người chúng ta
phải lặp lại mỗi ngày. Bao lâu còn mang thân phận con người, bấy lâu
chúng ta còn phải chịu thử thách và chiến đấu.
Đường vào
thiên quốc hay lối xuống địa ngục, cửa sinh hay cửa tử đang mở ra trước
mặt mọi người. Xin Chúa thương giúp chúng ta đừng mê muội đi vào cửa tử
nhưng khôn ngoan sáng suốt chọn bước vào cửa sinh, theo gót Chúa Giêsu
là Đấng đã vinh thắng khải hoàn.
mục lục
Có một
người nói với tôi: Cô A hay cám dỗ các cha, các thầy lắm đấy!
Tôi nói:
cha, thầy làm sao cám dỗ được, vì họ đã chọn Chúa hơn mọi quyến rũ trần
gian rồi. Họ đâu còn thèm những đam mê trần tục.
Người ấy
nói: Nhưng vậy mà cũng khối cha, thầy bị cám dỗ đấy.
Tôi nói:
Thực ra, nếu “Bụt ở trên cao, gà nào dám mổ”. Sở dĩ có những người bị sa
ngã là họ tự bước xuống nên mới bị sa vào sự dữ. Nếu “Bụt” cứ ở trên cao,
thì gà đâu với được. Nếu những người đi tu không tự mình mở đường để
xuống thì các cô đâu dám đến gần, và cũng chẳng cám dỗ nào làm gì được
các ngài.
Ví dụ:
+ Nhiều
lần tôi vẫn đi qua biết bao hàng quán, họ bày bán đủ thứ bánh, đủ thứ đồ
ăn, nhưng tôi không thèm, thì những cái bầy ra ấy cũng bằng không. Chúng
chả có giá trị gì nếu bản thân tôi không có nhu cầu.
+ Nhiều
lần tôi vẫn đi qua những con phố với biết bao cô gái đứng đường nhưng
không phải ai đi đường cũng dừng lại để mua vui. Chúng chẳng cám dỗ được
ai, nếu một ai đó không tự mình dừng lại để mua vui.
Thực ra, thế
gian thì muôn màu muôn vẻ. Thế gian bày ra trước mắt biết bao cao lương
mỹ vị. Nhưng không phải loại nào cũng phù hợp, cũng có lợi cho cơ thể,
thế nên phải biết chọn lọc, biết dùng những cái được phép cho cơ thể
khỏe mạnh, cho tâm hồn thanh sạch.
Thế nhưng,
con người thường tham lam ôm đồm. Thích mọi sự, thích mọi cái. Dù biết
rằng nó chẳng có lợi cho con người. Dù biết rằng có thể gây nên tai họa
chết người. Con người vẫn thích cái mới, cái lạ nên tự mình sa vào sự dữ
và chết trong đam mê tội lỗi.
Trong muôn
vàn cám dỗ thì cám dỗ về danh lợi thú dễ đánh đổ lòng người nhất. Đó
cũng chính là ba nguyên nhân gây nên biết bao khổ đau cho nhân thế. Vì
nó mà nhiều người “thân tàn ma dại”, đánh mất tình người. Vì nó mà bao
gia đình đau khổ, chia ly. Nhìn vào xã hội, ở nơi này nơi kia đang xảy
ra những bất hoà, tranh chấp, có khi giết hại lẫn nhau và làm khổ cuộc
đời nhau cũng chỉ vì tiền, tình và quyền. Ngay trong gia đình cũng có
thể bị đảo lộn những nề nếp gia phong bởi quá tôn thờ nó. Con cái bỏ cha
mẹ, cha mẹ từ chối con cái. Vợ kết án chồng, chồng ruồng bỏ vợ. Anh em
bạn hữu bất hoà với nhau cũng chì vì tình, vì tiền và vì quyền. Vì nó mà
người ta chà đạp lên nhau, người ta làm khổ nhau và làm hại lẫn nhau.
Ở đời, có
những kẻ vì tiền mà mê muội. Có những người vì tình mà hoá dại. Có những
người vì quyền mà đánh mất tính người. Họ đã sa vào cạm bẫy dẫu biết
rằng: “một phút huy hoàng đau khổ cả đời”. Họ vẫn nhắm mắt để tìm hạnh
phúc dẫu thoáng qua trong những danh lợi thú trần gian.
Ma qủy năm
xưa cũng bày ra trước mắt Chúa Giêsu những thứ rất hấp dẫn về danh lợi
thú. Nó đã mời mọc Chúa ăn đi để quay lưng lại với Chúa Cha như Adam đã
làm năm xưa. Nó hướng mở cho Chúa một tương lai đầy hứa hẹn không chỉ có
của ăn dư đầy từ những hòn đất, hòn đá cũng biến thành của ăn. Nó còn
hứa hẹn cho Chúa nắm gọn trong tay cả và dân thiên hạ. Có kẻ hầu người
hạ. Có cơ hội hưởng dùng mọi vinh hoa phú quý trần gian.
Nhưng xem ra
Chúa Giêsu đã không có những nhu cầu ấy. Ngài cần Thiên Chúa và tìm kiếm
thực thi ý Chúa hơn là những phù hoa trần gian. Ngài đến trần gian không
phải vì những thứ ấy mà là vì muốn ý Chúa Cha nên trọn. Những cám dỗ ấy
dù được bày ra thật hấp dẫn nhưng chỉ là sản phẩm của ma quỷ nên thường
là gỉa tạo và mau qua. Chỉ có Thiên Chúa mới là thật, mới trường tồn qua
mọi thời gian nếu con người biết vâng nghe lời Thiên Chúa.
Có một điều
là chúng ta thường đi ngược lại với chọn lựa của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu
đã khước từ danh lợi thú mau qua để chọn vâng theo thánh ý Chúa Cha, còn
chúng ta lại tự đi tìm danh lợi thú mà sẵn sàng bỏ Chúa, bỏ lề luật của
Chúa. Nhiều người đã vì danh lợi thú mà bán rẻ lương tâm, mà xem thường
đạo lý, và bất chấp luật Chúa. Chính vì những danh lợi thú mà nhân loại
đã gây nên biết bao tang thương cho nhau qua lường gạt, tranh giành, có
khi còn giết hại lẫn nhau.
Sứ điệp lời
Chúa hôm nay mời gọi chúng ta “hãy chọn Chúa”. Hãy chọn Chúa thay vì mải
mê đi chọn những ảo ảnh trần gian. Hãy chọn Chúa để mang lại một thế
giới thanh bình thay cho một thế giới chiếm đoạt, tranh giành lẫn nhau.
Xin đừng vì những danh lợi thú mau qua mà chà đạp lên nhau và gây đau
khổ cho nhau. Ước gì mỗi người chúng ta luôn biết tâm niệm: “tiên vàn
hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa còn những sự khác hãy để Thiên Chúa định
liệu phần tốt nhất cho ta”.
Amen.
Trong
những câu chuyện thường tình khi gặp nhau người ta thường hỏi nhau về
cuộc sống, việc công việc làm ăn, về sức khoẻ, về gia đạo... Chúng ta
luôn mong muốn cho người thân của chúng ta được bình an, được thịnh
vượng. Đó chính là những ước mơ thật bình thường của con người. Và Thiên
Chúa, Ngài cũng luôn chúc lành cho những ước mơ của chúng ta. Ngài luôn
mong muốn con người được an khang thịnh vượng. Thiên Chúa không muốn con
người đau khổ. Ngài tạo dựng con người để được sống trong hạnh phúc.
Ngài cho con người trông coi và hưởng dùng gia sản thiên nhiên mà chính
Ngài đã tạo dựng.
Thế
nhưng, ma quỷ luôn len lỏi vào những ước mơ thật chính đáng đó để xúi
giục con người loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời của mình. Ma qủy
luôn khuyến dụ con người làm theo ý mình và tôn vinh chính mình. Ma qủy
luôn đẩy con người đến lòng tham vô độ về danh lợi thú đến đánh mất tình
liên đới với đồng loại và với Thiên Chúa. Ba cám dỗ mà Chúa Giêsu đã
chiến thắng cũng là ba cám dỗ mà ma qủy vẫn tiếp tục gieo vào tâm hồn
con người hôm nay.
Cám
dỗ thứ nhất
đó chính là của cải và cơm bánh hằng ngày.
Cha ông ta
vẫn nói:
"Có làm
thì mới có ăn
Không
dưng ai dễ mang phần cho ta"
Đó chính là
sự công bằng đích thực. Có làm có hửơng. Có những ngày tháng lặn lội
ngược xuôi bôn ba nơi chốn chợ hay dầm mưa dãi nắng nơi nương đồng mới
có ngày nhàn hạ hưởng dùng hoa trái mình làm nên. Nhiều người đã không ý
thức điều đó. Vì thói tham lam và lười biếng họ muốn "ngồi nhà mát ăn
bát vàng". Họ đang tâm làm giầu bằng thủ đoạn, bằng lừa gạt. Họ vì tiền
mà đánh mất tình bạn. Họ vì miếng cơm manh áo mà đánh mất lương tri. Họ
muốn biến đá thành bánh mà chẳng cần lao động cực nhọc. Lòng tham đã
khiến họ quên đi phẩm giá cao đẹp của loài người là hình ảnh của Thiên
Chúa, thế nên cần phải tìm kiếm những gì cao siêu hơn là những miếng
bánh mau hư nát và cũng chẳng bao giờ thoả mãn lòng tham con người.
Cám dỗ
thứ hai
chính là tính đòi hỏi người khác phục vụ cho những đam mê sở thích của
mình. Đó là lối sống hưởng thụ và thác loạn. Ngày nay người ta vẫn sợ
các cậu ấm cô chiêu. Từ nhỏ đã được cha mẹ cưng phụng, chiều chuộng nên
chỉ biết đua đòi, phóng khoáng. Sống ngông cuồng đến độ bất tuân phục lề
luật. Sống hành xử theo ý mình, cho dù đó là những trò mạo hiểm gây hại
cho bản thân và cho đồng loại như: xì kè, ma túy, mại dâm, đua xe, lạng
lách... Đó chính là con đường mà ma qủy đã gieo vào lòng người: "cứ gieo
mình xuống đi.... và mọi sự sẽ có các thiên sứ lo liệu...". Lời Chúa hôm
nay là lời nhắc nhở họ: "chớ thử thách Thiên Chúa". Thiên Chúa là Đấng
công thẳng. Mọi việc con người làm hôm nay đều phải trả lẽ trước mặt
Chúa trong ngày sau nơi toà phán xét chí công của Thiên Chúa.
Cám dỗ
thứ ba
chính là lòng tự mãn, kiêu căng của con người. Ma qủy luôn cám dỗ con
người "coi trời bằng vung". Họ hành động như thể không có Thiên Chúa. Họ
sống theo ý mình, tệ hại nhất chính là sự nuông chiều theo những đam mê
sở thích của mình. Ma qủy luôn làm cho con người cảm thấy thoả thích
trong những vinh hoa phú qúy trần gian. Nó dẫn con người đi trong những
đam mê bất chính, những hưởng thụ lầm lạc. Con người vì kiêu căng muốn
hưởng thụ tất cả nên dễ dàng bỏ Chúa, bỏ lề luật để tôn thờ những con bò
mộng, lợn vàng là danh lợi thú trần gian. Tôn thờ những tạo vật thấp hèn
nên con người cũng có những lối hành xử đê tiện và thấp hèn.
Chúa Giêsu
Ngài đã chiến thắng ba cám dỗ đó trên nền tảng căn tính của con người.
Con người là hình ảnh Thiên Chúa và vượt xa muôn loài thụ tạo nên chẳng
có vật gì đáng cho con người phải bán rẻ lương tâm để tôn thờ. Chỉ có
Thiên Chúa là Đấng đã tạo dựng nên con người, mới đáng để con người phải
cúi mình tôn thờ. Thế nên, chỉ khi con người sống tôn thờ Thiên Chúa,
con người mới sống đúng phẩm giá của mình hơn, vì "nhân linh ư vạn vật".
Chỉ khi con người thoát ra khỏi sự ràng buộc khỏi những tham sân si, con
người mới sống an bình hơn.
Ước gì Mùa
chay sẽ giúp chúng ta tìm lại đúng phẩm gía cao đẹp của chính mình. Xin
Chúa Giêsu là Đấng đã chiến thắng sự dữ nâng đỡ và giúp chúng ta chiến
thắng những cám dỗ đang đeo đuổi và ràng buộc tâm hồn chúng ta. Xin Chúa
giúp cho mỗi người chúng ta biết thanh luyện chính mình để mỗi ngày nên
hoàn thiện như cha chúng ta ở trên trời là Đấng hoàn thiện. Amen.
Con người
phải luôn luôn chiến đấu, chiến đấu với ngoại cảnh, với chính mình.
Thánh Kinh gọi chung là chiến đấu với sự dữ. Nhưng bên sau bối cảnh
chiến đấu ấy, ẩn hiện chập chờn một nhân vật mà Kinh Thánh gọi là kẻ
thù. Ấy là Satan, là ma quỉ. Ai sẽ cứu thoát nhân loại khỏi nanh vuốt
của Satan?
Từ thuở ban
đầu, sách Khải Nguyên cho biết, nguyên tổ vừa sa ngã thì Thiên Chúa đã
hứa ban ơn cứu rỗi và ơn cứu độ sẽ đến từ giòng họ Adam. Lời hứa sẽ được
thực hiện nơi Chúa Giêsu, “sinh bởi người phụ nữ” (Gal 4, 4), “sẽ đạp
đầu con rắn”.
Sau khi chịu
phép rửa của Gioan ở sông Giođan, Thánh Thần hướng dẫn Ngài vào trong
hoang địa để chịu ma quỉ cám dỗ. Thật là huyền diệu. Thiên Chúa mà phải
đối đầu trực diện với ma quỉ? Đó cũng là gương mẫu cho chúng ta biết
chống lại ma quỉ.
“Ngươi hãy
biến những hòn đá này trở nên bánh, ăn cho khỏi đói” –Không. “Người ta
sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi Lời của Thiên Chúa”.
“Ngươi hãy
gieo mình xuống vực thẳm đi, Thiên Thần sẽ nâng đỡ và ông sẽ được vinh
quang” –Không. “Ngươi đừng thử thách Thiên Chúa là Chúa ngươi”.
“Ngươi hãy
sấp mình thờ lạy ta, ta sẽ cho ngươi tất cả” –Không. “ Phải thờ lạy
Thiên Chúa và phụng sự một mình Ngài”.
Ba tiếng
“không” vọng lên như vũ bão đánh bại Satan.
Cuộc cám dỗ
của Chúa Giêsu cũng là cuộc cám dỗ của chúng ta. Và cuộc chiến thắng của
Chúa cũng là của chúng ta. Ai lại không trải qua ba cơn cám dỗ ấy?
Cơn cám dỗ
thứ nhất là cuộc giao tranh ngàn đời giữa xác thịt và thần trí. Giác
quan của chúng ta đói khát bánh tình nhục dục. Nhưng, loài người “không
sống nguyên bởi bánh mà thôi”.
Cơn cám dỗ
thứ hai tế nhị hơn hướng về “cái tôi” của mình, mình phải là trên hết,
tài giỏi hơn cả, ai cũng phải nể nang kính phục.
Cơn cám dỗ
thứ ba là mộng đô hộ thế giới bằng tiền tài danh vọng, tự cho mình là
Chúa, ngoài ra không có Chúa nào cả.
Như Chúa,
chúng ta hãy chống lại Satan và trả lời bằng ba chữ “không”: Không chiều
theo đòi hỏi của xác thịt, không chiều theo sự tự tôn và không đặt
mammon làm Chúa tể.
Trong cuộc
sống hằng ngày, chúng ta hằng gặp sự cám dỗ. Tiếng của thần dữ vẫn còn
vọng lên: ngươi sẽ trở nên như Chúa. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta trở nên
Con Thiên Chúa sống thân mật với Ngài. Thần dữ mời gọi ăn quả cấm. Chúa
Giêsu khuyên ta lắng nghe lời Chúa và đem thực hành. Chính Ngài là Lời
của Thiên Chúa, là của ăn nuôi linh hồn chúng ta. Vì thế, đầu mùa Chay,
Phụng vụ dạy chúng ta cầu nguyện: “Xin Chúa cho chúng con được đói khát
chính Đấng là Bánh trường sinh chân thật và được sống nhờ mọi lời từ
miệng Chúa phán ra” (Lời nguyện Hiệp lễ).
Ngày nay, có
một số người, khi nghe nói đến ma quỉ cám dỗ, họ bỉu môi cho là việc
tưởng tượng. Cha Ravignan, nhà diễn giả trứ danh nói rằng: Cái khôn
ngoan của ma quỉ thời nay là làm cho người ta tin tưởng rằng nó không
có, để dễ dàng hoạt động.
Đời Tam
quốc, Quan Văn Trường bị thất thủ thảm bại ở Hạ Bì. Thân đơn nhất mã,
phò hai người chị dâu (tức vợ của Lưu Bị) qua nương tựa nhà Tào Tháo.
Đêm đến, Tào Tháo cho ba người ngủ chung một phòng, dụng tâm là muốn cho
chị em loạn luân, chúa tôi phải thất lễ.
Quan Văn
Trường một dạ thẳng ngay không để tà tâm vật dụng quyến rũ, tay cầm
đuốc, tay cầm sách Xuân Thu đọc đến sáng.
Mọi người
thấy vậy khen Văn Trường là người chính trực. Từ đó danh từ “Nguọn đuốc
Văn Trường” được dùng để ám chỉ những kẻ ngay thẳng, không để vật dục
quyến rũ lòng mình.
***
Những con
người anh dũng lướt thắng cám dỗ như Quan Văn Trường quả là hiếm. Càng
hiếm hơn nữa, những con người không để cho vật dục quyến rũ. Vì người ta
đã quen lối sống dễ dãi, thích hưởng thụ, ham khoái lạc. Cho nên, tâm
trí họ lúc nào cũng là là mặt đất, không đủ sức bật để vượt qua những
cám dỗ thử thách, mà vươn lên những ý tưởng cao thượng, những ý nghĩ
thánh thiêng.
Dù thế nào
đi nữa, cám dỗ vẫn là số phận của con người. Đối với người Kitô hữu, cám
dỗ càng đeo đuổi họ như hình với bóng, nó chỉ buông tha khi họ đã đi hết
cuộc hành trình trần gian. Tuy nhiên, thành công hay thất bại cũng tùy
thuộc họ chiến thắng hay đầu hàng các cơn cám dỗ. Số phận đời đời cũng
sẽ căn cứ vào việc họ đã vượt qua cơn thử thách hay buông xuôi bỏ cuộc
Cuộc đời Đức
Giêsu không thiếu những cơn cám dỗ, có lúc nhất thời, có khi dai dẳng.
Những cơn cám dỗ ấy hoặc đến từ ma quỷ, hoặc từ người ta, hay có khi lại
ngay trong bản thân Người.
Tin mừng hôm
nay thuật lại các cơn cám dỗ từ ma quỷ: Chúng dụ dỗ Ngưòi biến thành
bánh mà ăn, vì Người đã ăn chay ròng rã bốn mươi đếm ngày. Chúng khiêu
khích Người hãy gieo mình xuống từ nóc cao đền thờ. Chúng hứa cho Người
vinh hoa lợi lộc các nước, nếu Người sấp mình bái lạy chúng. Cuối cùng,
Đức Giêsu đã oanh liệt chiến thắng các cơn cám dỗ ấy, nhờ trưng dẫn các
câu Kinh Thánh. Thật vậy, cám dỗ nào cũng bị Người đánh bại bởi các lời
Kinh thánh.
Kinh thánh
chính là khiên thuẫn cho người tín hữu trong mọi cơn cám dỗ. Một khi Lời
Chúa đã thấm nhiễm vào con tim, khối óc, và toát ra trong các hành vi
người tín hữu, trhì không một cơn cám dỗ nào mà họ không thể vượt qua,
không một thử thách nào mà họ không lướt thắng.
Cám dỗ nào
cũng dẫn chúng ta đến một chọn lựa. Hoặc là chọn Thánh ý Chúa hoặc là
chọn chính mình. Người không có Lời Chúa hướng dẫn, thường hay chọn mình
lắm: họ chọn danh vọng cho mình, giàu sang cho mình, khoái lạc cho mình.
Khi “cái tôi” đã đầy ứ trong lòng thì Thiên Chúa phải đội nón ra đi.
Đức Giêsu đã
không thể thắng các cơn cám dỗ, nếu Người chỉ qui hướng về mình. Người
sẽ thua ma quỷ nếu Người tìm vinh danh mình khi hóa đá thành bánh, Người
sẽ bị sập bẫy Satan khi nhảy xuống từ nóc cao đền thờ để được khen ngợi
tung hô. Người sẽ thất bại thảm thương khi quỳ lạy ma quỷ để được vinh
hoa thế gian. Nhưng không, không bao giờ Người làm thế, vì tinh thần chủ
đạo của Người, vũ khí sắc bén của Người chính là: “Thánh Ý Chúa”. Người
suy nghĩ, nói năng, hành động bất cứ điều gì cũng là để theo Thánh Ý Cha.
Chính trong cơn cám dỗ khốc liệt nhất của Người trước cái chết, Người
cũng chỉ thốt lên: “Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con.
Nhưng xin đừng theo ý con, mà theo ý Cha” (Mt 26,39).
Muốn vâng
theo ý Cha, cần phải cầu nguyện và ăn chay, hy sinh và hãm mình. Trước
khi chịu ma quỷ cám dỗ, Đức Giêsu đã chẳng ăn chay, cầu nguyện suốt bốn
mươi đêm ngày đó sao?
Mùa chay là
mùa dọn mình để chiến đấu với các cơn cám dỗ. Cám dỗ từ ma quỷ, từ nơi
người khác, và nhất là từ ngay chính bản thân. Có bao nhiêu giác quan là
có bấy nhiêu cửa ngõ cho cám dỗ đi vào.
Nếu so sánh
vũ khí để chiến đấu với cơn cám dỗ là “cung và tên” thì “cung” chính là
lòng khiêm tốn nhận mình yếu hèn cầu nhờ ơn Chúa, và “tên” chính là ý
chí cương quyết nói “Không” trước cơn thử thách. Trong các kế sách để
thắng cám dỗ chỉ có duy nhất một diệu kế. Đó là kế “Đào vi thượng sách”.
Dù bầu trời
đen mênh mông bao trùm địâ cầu, thì trong một bờ đá nào đó, canh hoa
mảnhmai vẫn hồn nhiêu nơ trong đêm khuya. Canh hoa mỏng manh là thê mà
sao dũng mạnh hơn tâm hồn chúng ta nhiều quá! nếu hoa lá là ngôn sứ của
thiên Chúa, thì sứ điệp của chúng là: Hãy mềm mại để cho Lời Chúa đưa
chúng ta vượt qua đêm mưa bão của cám dỗ, thử thách. Và ngày mai trời
lại sáng.
***
Lạy Chúa,
ai trong chúng con cũng có những kinh nghiệm của những sa ngã tồi tệ. Sa
ngã này chưa vực dậy được, thì sa ngã khác lại vùi dập chúng con xuống.
Xin cứu
giúp chúng con và ban cho chúng con tình thần kiên vững của Đức Kitô,
luôn sống theo Lời Chúa và tuan theo Thánh ý Người. Amen.
Trong
một câu chuyện thân mật giữa một tu sĩ già 70 tuổi và một tu sĩ trẻ, tu
sĩ trẻ tâm sự: "Ở cái tuổi của tôi, cơn cám dỗ tôi cảm thấy phải chiến
đấu dữ dằn nhất là làm sao giữ được tâm hồn trong sạch. Không hiểu tới
tuổi nào thì cám dỗ mới chịu tha!" Vị tu sĩ già cười và tếu táo nói:
"Tuổi 70". Thế rồi vào một ngày nọ khi hai tu sĩ đang coi TV giải trí,
bất thình lình hình ảnh hai anh chị yêu nhau thân mật hiện lên. Đêm về
hai tu sĩ chứng kiến cảnh chiến đấu trằn trọc của vị tu sĩ già: "Không
được! Không được! Tội lỗi! Tội lỗi! Xin Chúa thương xót con!". Sáng hôm
sau, tu sĩ gia gặp tu sĩ trẻ và nói: "Bạn còn nhớ những gì tôi nói với
bạn hôm nao về vấn đề cám dỗ không? Về cái tuổi không còn bị cám dỗ nữa
đó? Tôi lầm rồi. Đúng ra là 71 tuổi chứ không phải là 70".
Câu
chuyện cho thấy cám dỗ thử thách là một kinh nghiệm lâu dài trong suốt
cuộc đời tại thế. Cám dỗ đến với mọi người bất kể tuổi tác, nam nữ, hay
cấp bậc văn hoá. Cám dỗ đến với mỗi người cách khác nhau, tùy theo tính
tình, hoàn cảnh sống, và khả năng của mỗi người. Cám dỗ chỉ kết thúc khi
ta nhắm mắt lìa đời.
Thiên
Chúa cho phép cám dỗ xảy ra như phương thế giúp chúng ta chứng tỏ tình
yêu đối với Ngài, lớn lên trong nhân đức, và trưởng thành hơn. Thánh
Phaolô cho biết Thiên Chúa không để cho chúng ta bị cám dỗ quá sức mình,
ám chỉ là Thiên Chúa cho phép cám dỗ xảy ra trong giới hạn của chúng ta.
Vì thế cám dỗ không phải là tội. Chúng ta tin chắc rằng những cám dỗ
chúng ta gặp hàng ngày cũng nằm trong ý định của Thiên Chúa đối với
chúng ta.
Trong bài
Phúc âm hôm nay, thánh Matthêô trình bày cho chúng ta hình ảnh Chúa
Giêsu bị ma quỉ cám dỗ trước khi Người bắt đầu sứ mạng công khai rao
giảng Tin mừng. Trong ba cơn cám dỗ ma quỉ xúi giục Ngài: thứ nhất hãy
biến đá thành bánh, thứ hai hãy thi hành quyền bính trên dân chúng, và
thứ ba hãy cứu mình khỏi phải chết.
Trong cơn cám dỗ thứ nhất
ma quỷ đề nghị với Chúa là Ngài có thể chiếm được sự kính trọng và biết
ơn của dân chúng bằng việc đáp ứng nhu cầu vật chất của họ. Chúa đã
chống lại chước cám dỗ bằng việc nhìn nhận là trong cuộc sống còn nhiều
cái quan trọng hơn thỏa mãn giác quan. Chỉ có của ăn vật chất không thì
chưa đủ.
Trong cơn cám dỗ thứ hai,
ma quỷ đề nghị với Chúa là Ngài có thể biểu diễn quyền lực phi thường để
làm cho dân chúng kinh ngạc và do đó có thể thu hút lôi kéo họ. Chúa
Giêsu đã thẳng thắn khẳng định là Ngài không muốn dùng quyền phép để ép
dân chúng theo ý Ngài. Thứ quyền bính đó là thứ quyền bính của ma quỷ,
chỉ trói buộc dân chúng. Chúa Giêsu muốn tình yêu của con người được tự
do dâng hiến. Ngài mời gọi họ trở nên con cái Chúa chứ không muốn ép họ.
Trong cơn cám dỗ thứ ba,
ma quỷ cám dỗ Ngài tránh né con đường thánh giá đau khổ đưa tới cái chết
thê thảm. Chúa Giêsu đã từ chối con đường vinh quang thế tục và chấp
nhận con đường thánh giá đau khổ. Chính con đường phục vụ và đau khổ
thập giá đã chiến thắng sự chết và dẫn tới sự phục sinh vinh quang.
Chúa
Giêsu bị cám dỗ trong mọi lãnh vực như chúng ta, nhưng Ngài đã không
phạm tội. Ngài được đầy tràn Thánh Thần, Đấng đã nâng đỡ Ngài qua cơn
cám dỗ và giúp Ngài chiến thắng thần dữ. Ngài dựa trên Lời Chúa như một
vũ khí vũng chắc để đối phó với tất cả những cám dỗ thử thách. Ngài thật
là gương mẫu cao cả đáng cho chúng ta noi theo trong việc đối phó với
mọi chước cám dỗ.
Mùa Chay
là cơ hội tốt giúp chúng ta sống gần Chúa và tiến tới sự đầy tràn của
Chúa Thánh Thần. Chúng ta hãy bắt chước Chúa Giêsu chấp nhận của an và
sức mạnh của Thiên Chúa và can đảm từ chối đường lối của ma quỷ, từ chối
của ăn và quyền lực nọ trao tặng. Chúng ta hãy tin tưởng Thiên Chúa sẽ
nâng đỡ chúng ta trong tất cả những gian nan thử thách.
mục lục
Lời Chúa
hôm nay đưa chúng ta về nguồn cội của thân phận con người: tội lỗi.
Nguyên tổ Adong, Evà đã sa chước cám dỗ của Satan, và tội lỗi đã đột
nhập vào thế gian. Chính đó là nguyên nhân của biết bao khốn cực trong
cuộc sống nhân loại: "Chỉ vì một người, tội lỗi đã xâm nhập trần gian,
và tội lỗi gây nên sự chết; như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người,
bởi vì mọi người đã phạm tội" (bài đọc 2).
Nhưng Lời
Chúa hôm nay không dừng lại ở vấn đề tội lỗi, mà muốn trình bày cho
chúng ta biết Ơn Cứu độ trong Đức Giêsu Kitô… "… nhờ một người thực hiện
lẽ công chính, mọi người cũng được Thiên Chúa cho trở nên công chính,
nghĩa là được sống" (Bài đọc 2).
Đây là
một lời khẳng định có liên quan đến tất cả nhân loại: tất cả mọi người
đều bị chi phối dưới quyền lực của tội lỗi; chỉ có một con đường giải
thoát dành cho con người, đó là Ơn Cứu độ trong Đức Giêsu Kitô.
Con đường
mà cả nhân loại đã đi và đã thất bại, thì nay chính Đức Giêsu đã đi lại
con đường đó, con đường làm người, chấp nhận mọi tội lụy của con người;
và Ngài đã chiến thắng cám dỗ của Satan.
Cám dỗ
ngày hôm nay cũng vẫn còn đầy dẫy: đó là những cám dỗ của nẻo đường
Satan, cám dỗ muốn theo cách thức của Satan để giải quyết cuộc đời mình,
cám dỗ tìm niềm vui và sự thành đạt cuộc đời trong lạc thú, quyền lực và
của cải.
Người
kitô hữu chỉ có thể chiến thắng Satan khi hiệp thông vào cuộc chiến
thắng của Đức Giêsu; nhờ tin vào sự hướng dẫn của Lời Chúa, trông cậy
nơi quyền năng của Ngài, và hết lòng yêu mến phụng thờ Ngài: “Người ta
sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán
ra".
"Ngươi
chớ thử thách Thiên Chúa là Chúa của ngươi ngươi phải thờ lạy Thiên Chúa
là Chúa của ngươi". (Chúa Giêsu muốn nhắc nhủ người bị cám dỗ những lời
này)
Hỡi
con nhỏ của Cha
Cha ở
đây, Cha đâu có bỏ con
Sao
con kém tin thế!
Con đã
quá tự phụ!
Con
vẫn còn tin cậy ở con!
Nếu
con muốn lướt thắng tất cả các chước cám dỗ,
Mà
không sa ngã, không suy nhược,
Con
phải ý thức rằng con chưa đủ vững mạnh,
Con
phải để mình được dẫn dắt
như
một trẻ nhỏ, hỡi con nhỏ của Cha!
…
Con
phải rất bé nhỏ, hoàn toàn bé nhỏ
Vì Cha
chỉ yêu thương những trẻ nhỏ.
Michel
Quoist
Chúa
Giêsu được Thánh Thần hướng dẫn vào hoang địa để chịu cám dỗ....
Anh chị
em thân mến,
Mùa Chay
là mùa Hội Thánh kêu mời chúng ta hãy chân thành sám hối, thành tâm lắng
nghe Lời Chúa và chuyên cần cầu nguyện. Mùa chay cũng nhắc nhở mọi tín
hữu hãy tỉnh thức đề phòng mọi thử thách, cám dỗ của ma quỉ, nhất là
không để nó lợi dụng, làm hại mình...
Vì thế,
Lời Chúa của ngày chúa nhật hôm nay, nói đến hai cuộc cám dỗ: một: là
trong vườn địa đàng của Adam + Evà. Kết quả hai ông bà thất bại te tua,
lôi kéo con cháu hư mất đời đời. Hai: là của Chúa Giêsu trong hoang địa,
như là Adam mới, đại diện cho cả nhân loại; kết quả Chúa chiến thắng
hoàn toàn, đem lại ơn cứu rổi cho cả loài người. Đây chính là bài học mà
Hội thánh muốn chúng ta suy niệm trong chúa nhật hôm nay...
a/.
Cuộc cám dỗ đầu tiên: chính ma quỉ gieo vào lòng Adam + Evà, tính tự
kiêu và ngờ vực Thiên Chúa: Ông bà ăn trái đó đi, sẽ không chết đâu;
nhưng mắt ông bà sẽ mở ra và sẽ sáng như TC...Mọi ý định tốt lành của
Thiên Chúa đều bị đặt vấn đề, trở thành những ý xấu. Chúa cấm ông bà ăn
vì sợ ông bà biết điều thiện ác như Thiên Chúa. Ma quỉ là chúa của sự
nham hiểm, quỉ quyệt; vì thế ông bà không hiểu được, nên đã sập bẩy: đó
là tội...
Cuộc
cám dỗ thứ hai:
cũng do chính ma quỉ, đã cám dỗ Chúa Giêsu trong hoang địa. Kết quả: ma
quỉ thua cuộc. Chúa Giêsu, là Adam mới, đã toàn thắng. Trước hết, khi
cám dỗ Chúa Giêsu, nó cũng nhắm vào tính kiêu căng: Nếu ông là Con Thiên
Chúa, hãy truyền cho hòn đá này hóa thành bánh mà ăn...Ma quỉ dựa vào
thực tế vì Chúa đói; nhưng nó rất xảo quyệt muốn tách Chúa Giêsu ra khỏi
sứ mạng cao cả của Người. Chúa thực sự đang đói, nhưng Chúa từ chối
thẳng thừng đề nghị của ma quỉ, vì Người luôn hướng về Thiên Chúa và
luôn tìm làm đẹp Ý Chúa mà thôi, nên Người dùng lời Chúa mà trả lời nó:
Người ta sống không nguyên bởi cơm bánh, mà còn bởi mọi lời do miệng
Thiên Chúa phán ra.
Ma quỉ
chưa chịu thua, nên đề nghị Chúa biểu dương quyền lực mình bằng cách
nhảy từ nóc đền thờ xuống, để mọi người phải thán phục quyền năng Chúa.
Một lần nữa, ma quỉ muốn Chúa Giêsu vì tính kiêu căng, muốn tách ra khỏi
sứ mạng mình, và ra khỏi cả liên hệ mật thiết với Chúa Cha và Chúa Thánh
Thần...nhưng Chúa Giêsu quá rõ tâm địa xảo trá của nó, nên đã dùng lời
Kinh Thánh mà nói: Ngươi không được thử thách Chúa là Thiên Chúa của
ngươi...
Sau
cùng, ma quỉ lại nhắm vào tính kiêu căng, tham lam giàu sang thế gian.
Nó nói: nếu ông thờ lạy tôi, tôi sẽ cho ông quyền trên tất cả các nước
ấy... Dĩ nhiên trận này Chúa cũng thắng, nhưng rõ ràng, cám dỗ này là
cái cám dỗ suốt cuộc đời của Chúa. Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, dân
chúng muốn tôn Chúa lên làm vua... Một lần khác, khi đang giảng dạy, dân
chúng và cả pharisêu thách thức Chúa làm một dấu lạ trên trời hay dưới
đất để họ tin...Rồi trong vườn cây dầu, hấp hối cùng cực, chính Chúa
cũng xin Chúa Cha cho mình khỏi uống chén đắng ô nhục này. Điều đó muốn
nói, các cơn cám dỗ quá nặng nề, dù vậy Chúa vẫn vượt qua được, vì Chúa
hoàn toàn vâng phục Chúa Cha cho đến chết và chết trên thập giá...
b/. Câu
hỏi: Có người nói: tại sao Chúa Giêsu là Thiên Chúa lại chịu để ma quỉ
cám dỗ?- Thưa vì ma quỉ chỉ cám dỗ Chúa trong bản tính loài người mà
thôi; hơn nữa vì khiêm hạ, Chúa chịu cám dỗ, vì Người với tính cách là
Adam mới, là Anh cả của nhân loại, đã sẵn sàng nhận chịu cám dỗ và chiến
thắng chúng, nêu gương cho nhân loại chúng ta...
c/. Gợi ý
sống và chia sẻ: Cám dỗ của Chúa Giêsu cũng là cám dỗ của mỗi người
chúng ta: biến đá thành bánh để, ai cũng tham sống sợ chết - thích sung
sướng ở đời, thích tỏ quyền uy mình hơn mọi người khác - ham thích giàu
sang vinh quang trần gian, muốn mình làm vua, muốn mình trên trước người
khác...
Chúa
Giêsu đã sống khiêm tốn thẳm sâu, nên mới có thể chiến thắng ma quỉ, ta
có muốn bắt chước Chúa Giêsu không?
Trước khi
bắt đầu sứ vụ rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu được Thánh Thần thúc đẩy đi
vào hoang địa. Sau bốn mươi đêm ngày ăn chay và cầu nguyện, Người cảm
thấy đói. Satan xuất hiện, mon men lại gần để cám dỗ. Chúa đã chiến
thắng Satan bằng sức mạnh Thánh Thần và Lời Thiên Chúa.
1.
Ba cơn cám dỗ
- Cơn cám
dỗ I phát xuất từ cái đói. Ma quỷ gợi ý cho Chúa Giêsu “Nếu ông là Con
Thiên Chúa, hãy truyền cho những hòn đá này hóa bánh đi” (Mt 4,3). Cơn
cám dỗ về bánh nói lên ước muốn căn bản nhất là bản năng sinh tồn của
con người. Thân xác với những khát khao thèm muốn luôn đòi hỏi phải được
nuôi nấng, chiều chuộng và vỗ về.
- Trong
cơn cám dỗ II, ma quỷ đưa Chúa Giêsu lên thượng đỉnh đền thờ và nói:
“Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy gieo mình xuống coi! Bởi đã có lời chép
rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn, thiên sứ sẽ tay đỡ
tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá” (Mt 4,5). Ma quỷ dùng Tv 91,11
để gợi ý cho Chúa Giêsu nhảy từ nóc đền thờ xuống, xem Thiên Chúa có
biểu lộ quyền năng của Người hay không. Cám dỗ thách đố Thiên Chúa biểu
lộ quyền năng để tìm vinh quang cá nhân. Đó là bản năng đối kháng lại
những giới hạn của cuộc sống nhân sinh. Con người thường muốn quên đi
những điều kiện sinh sống giới hạn của mình. Họ muốn cất cánh bay lên
cõi thần tiên bằng men rượu, ma túy, lạc thú…
- Trong
cơn cám dỗ III, ma quỷ đem Chúa Giêsu lên một ngọn núi cao và chỉ cho
Người thấy các nước thiên hạ và các thứ phú quý, rồi nói: “Tôi sẽ cho
ông tất cả những cái ấy, nếu ông sấp mình thờ lạy tôi…” (Mt 4,9). Một
cơn cám dỗ đã hằng theo đuổi dân Israel, chẳng những trong thời gian
hành trình sa mạc mà cả khi định cư trên đất Palestina. Đó là thờ lạy
các tà thần mong được giàu sang, quyền thế, có khả năng thống trị các
quốc gia khác. Bản năng thống trị, cái “ý chí quyền lực” nằm sẵn trong
mỗi một con người. Người ta thường muốn cai trị và sai khiến những người
yếu hơn mình. Xưa dân Do thái đã tạc tượng bò vàng và thờ lạy nó. Ngày
nay, ngẫu tượng hay bò vàng chính là tiền tài, danh vọng, lạc thú, vật
chất, tiện nghi, sắc dục.
Ba cơn
cám dỗ của Chúa Giêsu đều đã bắt đầu bằng chữ “nếu”. Chúng khởi sự bằng
một lý luận với những lý do có vẻ chính đáng, hợp lý và đáng ao ước để
tấn công vào những đòi hỏi của bản năng con người Giêsu.
Tuy là ba
cơn cám dỗ, nhưng vẫn chỉ là một. Bởi trọng tâm của vấn đề chính là gieo
rắc sự khủng hoảng của niềm tin. Chúa Giêsu bị cám dỗ nghi ngờ về căn
tính Con Thiên Chúa của chính mình. Cả ba Phúc âm Mátthêu, Máccô, Luca
đều mô tả cơn cám dỗ ngay sau khi Chúa chịu phép Rửa ở sông Giođan, và
có tiếng từ trời phán “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người”
(Mt 3.17). Ma qủy cám dỗ Chúa Giêsu quay lưng lại với sứ mạng đã nhận từ
nơi Chúa Cha (GLTC #394).
Cơn cám
dỗ Chúa Giêsu cũng giống như cơn cám dỗ của Ađam và Eva trong bài đọc
một (St 2,7-9;3,1-7). Ma qủy gieo sự nghi ngờ và mất niềm tin nơi những
kẻ được gọi là con cái Thiên Chúa. Qua bản năng ăn uống thèm khát của
thể xác, nó khơi dậy bản năng phản kháng bất tuân lệnh Chúa và sau cùng,
con người sa ngã ở “ý chí quyền lực”, bản năng đòi bá chủ và thống trị
vì muốn ngang hàng với Thiên Chúa.
Thụ tạo
đầu tiên trong hàng các thiên thần đối diện với cám dỗ là Lucifer. Không
vượt qua được cơn cám dỗ, Lucifer đã trở thành Satan.
Thụ tạo
đầu tiên trong con người là Ađam và Evà cũng đã nếm mùi cám dỗ. Và hai
Nguyên Tổ này cũng đã gục ngã thảm thương trước cám dỗ.
Như vậy
cám dỗ là một cái gì hết sức mạnh mẽ, hết sức lôi cuốn, và rất khó chống
cự.
Chúa
Giêsu sau khi đã trải qua những cám dỗ và thắng các cám dỗ cũng thấy
được điều này, nên Người đã dạy các môn đệ không được coi thường bằng
cách dựa vào sức lực, tài trí, và khả năng của riêng mình. Người dạy
phải cầu nguyện và xin ơn Chúa Thánh Thần: “Xin chớ để chúng con sa
chước cám dỗ. Nhưng cứu chúng con khỏi sự dữ”.
2.
Sức mạnh nào giúp vượt thắng cám dỗ?
Cả ba
Phúc Âm đều đề cập đến một chi tiết rất thú vị, đó là Chúa Giêsu không
đi vào hoang địa một mình, nhưng mà Người đi cùng với Chúa Thánh Thần.
- “Bấy
giờ Đức Giêsu được Thần Khí dẫn vào hoang địa, để chịu quỷ cám dỗ” (Mt
4,1)
- “Thần
Khí liền đẩy Người vào hoang địa. Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày,
chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ
Người” (Mc 1,12-13).
- “Đức
Giêsu được đầy Thánh Thần, từ sông Giođan trở về. Suốt bốn mươi ngày,
Người được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa và chịu quỷ cám dỗ” (Lc
4,1-2).
Khi vào
hoang địa, khi bị ma quỷ cám dỗ, Chúa Giêsu cần đến sự nâng đỡ của Chúa
Thánh Thần. Chúa Giêsu đã dựa vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần và Lời
của Thiên Chúa để đối đáp với ma quỷ và đã chiến thắng.
Khi chúng
ta lâm vào những cuộc thử thách, phải đối diện với những mưu chước của
Satan, rất cần ơn Chúa Thánh Thần trợ lực. Chúa Giêsu mà còn cần đến
Chúa Thánh Thần nữa, thì huống hồ là chúng ta.
Cần phải
cầu nguyện (Lc 22,40; Cv 2,42; LGTC # 2612,2742). Nhờ cầu nguyện, Chúa
Giêsu đã không cô đơn một mình, nhưng “được Thánh Thần hướng dẫn” (Mt
4,1). Nhờ cầu nguyện chúng ta được liên kết với sức mạnh của Thánh Thần
và với các thánh trên trời.
Vai trò
của Chúa Thánh Thần thật quan trọng trong đời sống của chúng ta. Những
lúc bị cám dỗ, những khi sống trong cô đơn, buồn chán và thất vọng…hãy
cậy trông và khẩn cầu với Chúa Thánh Thần xin ơn phù trợ. Chúa Giêsu đã
hứa: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần mà Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy,
Đấng đó sẽ dạy các con mọi điều” (Ga 14,26).
3.
Cầu khẩn và kêu xin Chúa Thánh Thần bằng cách nào?
- Khi
thằng quỷ dâm ô xúi tôi mở những emails lạ, dụ dỗ tôi tò mò đi vào những
websites của Trư Bát Giới… Tôi phải mau mắn và thành tâm xin Chúa Thánh
Thần soi lòng mở trí để tôi nhận ra rằng: “Ai nhìn người phụ nữ mà thèm
muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi. Nếu mắt phải của
anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; vì thà mất một phần
thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục (Mt 5,28-29).
- Khi
thằng quỷ gian dối xúi tôi nói dóc, nói xạo, nói quanh co, nói sai sự
thật, lừa bịp thiên hạ … tôi phải lập tức xin Chúa Thánh Thần ban ơn
khôn ngoan để tôi có thể nhớ lời của Chúa Giêsu phán dạy tôi rằng: “Hễ
‘có’ thì phải nói ‘có’, ‘không’ thì phải nói ‘không.’ Thêm thắt điều gì
là do ác quỷ mà ra!” (Mt 5,37).
- Khi
thằng quỷ kiêu căng, ngạo mạn xúi tôi phê bình chỉ trích người này, xét
đoán người kia, lên án người nọ … thì tôi phải lập tức xin Chúa Thánh
Thần giúp tôi nhớ rằng: “Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị
Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên
án” (Lc 6,37).
- Khi bị
thằng quỷ dâm ô xúi tôi ly dị, bỏ chồng, phụ vợ, làm giấy ly dị giả …
tôi phải cầu xin với Chúa Thánh Thần ngay để Ngài giúp cho tôi hiểu rằng
“[Tôi và người bạn đời của tôi] không còn là hai [nữa], nhưng chỉ là một
xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được
phân ly” (Mc 10,8-9).
- Khi
thằng quỷ kiêu căng xúi tôi khoe khoang, tự kiêu tự đại … thì tôi xin
Chúa Thánh Thần nhắc nhở cho tôi rằng: “Kiêu hãnh đi liền với ô nhục …
kiêu căng đưa đến sụp đổ, ngạo mạn dẫn đến té nhào” (Cn 11,2; 16,18).
- Khi
thằng quỷ giận hờn xúi tôi giận người này, ghét người kia, thù người nọ
… thì tôi phải cần đến sự trợ lực của Chúa Thánh Thần, xin Ngài soi sáng
để tôi hiểu rằng: “Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng
anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai
chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt
(Mt 5,22).
- Khi
thằng quỷ dâm dục xúi bẩy tôi đi ngoại tình, ăn chơi trác táng, quan hệ
bừa bãi … tôi phải van nài Chúa Thánh Thần, xin Ngài nhắc nhở cho tôi
nhớ rằng: “Thân xác [của con] là Đền Thờ của [Ta đấy nhé! Chớ có làm cho
nó ra ô uế!]” (1 Cr 6,19). (x. Suy niệm Mùa Chay, Lm Ansgar Phạm Tĩnh).
Sau khi
chịu phép Rửa tội để trở nên một Kitô hữu, chúng ta dấn thân vào đời với
nhiều thử thách của niềm tin, phải chịu nhiều cám dỗ của phận người lữ
thứ. Nếu chúng ta tin rằng “Thiên Chúa đã tuôn đổ đầy tràn ơn Thánh Thần
xuống trên chúng ta, nhờ Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng ta” (Tt 3,6)
thì hãy vững tâm và tin tưởng tuyệt đối vào quyền năng của Chúa Thánh
Thần. Ngài sẽ không bao giờ xa rời chúng ta đâu! Điều quan trọng là
chúng ta có thánh tâm để cầu xin và nhờ cậy Ngài, hay là không thôi!
Hãy tin
tưởng và trông cậy vào Chúa Thánh Thần. Bảy hồng ân của Chúa Thánh Thần
luôn trao ban cho người: ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết, ơn nhận thức, ơn
chỉ bảo, ơn dũng mạnh, ơn thánh thiện và ơn kính sợ Thiên Chúa.
Hãy mở
rộng tâm hồn đón nhận ơn Chúa Thánh Thần và hăng hái cộng tác với chương
trình của Ngài, nhờ đó “Hoa trái của Thần Thần là bác ái, hoan lạc, bình
an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ” (Gl
5,22-23) sẽ tràn đầy trong tâm hồn và đời sống của chúng ta.
Việc gặp
gỡ Chúa Thánh Thần rất dễ dàng. Chỉ cần hồi tâm lại, ý thức Ngài đang
hiện diện ngay trong bản thân mình, và muốn được tan hòa vào trong Ngài.
Chúa Thánh Thần sẽ mở tung cánh cửa ích kỷ. Ngài sẽ phá tan cánh cửa hẹp
hòi. Ngài sẽ ban thêm sức mạnh. Ngài sẽ quét sạch mọi lớp bụi bặm rêu
phong. Ngài sẽ đổ tràn vào hồn chúng ta nguồn sống mới giúp chúng ta
chiến thắng mọi cám dỗ và hăng hái lên đường.
Hãy cầu
nguyện với Chúa Thành Thần bằng tâm tình của Thánh Augustinô: "Lạy Chúa
là vẻ đẹp ngàn đời, vẻ đẹp cổ xưa nhưng vẫn luôn luôn mới mẻ. Con đã
chạy tìm những cái đẹp bên ngoài vốn chỉ là phản ánh èo uột của vẻ đẹp
vĩnh hằng. Chúa là vẻ đẹp vĩnh hằng ở trong con thì con lại không kiếm
tìm. Vì thế, xin Chúa cho con biết trở về với chính lòng mình mỗi ngày,
để ở đó con gặp được Chúa, hít thở Chúa. Con đón nhận dòng nước ân sủng
và lòng con được đốt cháy ngọn lửa Thánh Thần. Amen.".
Phụng vụ
Giáo hội đã bước vào Mùa Chay Thánh.
Mùa Chay
trải dài 40 ngày. Thời gian này nhắc lại 40 năm của dân Israel trong sa
mạc trước khi đến Đất hứa, 40 ngày ngôn sứ Êlia ở trên núi Horeb, 40
ngày Chúa Giêsu ăn chay cầu nguyện trong hoang địa.Thời gian 40 ngày là
con số tượng trưng nói lên thời gian thử thách và thanh luyện.Trên con
đường về Nước Trời, chúng ta trải qua những thử thách và thanh
luyện.Thời gian 40 ngày chay tịnh thật quí giá để mỗi người nhìn lại bản
thân, đánh giá lại chính mình để sám hối canh tân.
Hàng năm,
Phúc Âm Chúa Nhật I Mùa Chay đều nói về cám dỗ. Chúa Giêsu vào hoang
địa. Sau 40 đêm ngày ăn chay và cầu nguyện, Satan xuất hiện và cám dỗ.
Chúa Giêsu đã chiến thắng Satan.
1.
Chịu cám dỗ
Làm người
ở đời là chấp nhận thân phận chịu cám dỗ. Thánh Kinh đã ghi nhận, từ
buổi đầu sáng tạo đã có cám dỗ. Thụ tạo đầu tiên trong hàng các thiên
thần đối diện với cám dỗ là Lucifer, một thiên thần sáng láng đã không
vượt qua được cơn cám dỗ, và đã trở thành Satan tăm tối. Tiếp đến, thụ
tạo đầu tiên trong con người là Adong và Evà cũng đã nếm mùi cám dỗ.
Nguyên Tổ đã gục ngã thảm thương trước cám dỗ cho nên đau khổ sự chết đã
tràn vào thế gian.Trong hành trình về Đất Hứa, dân Israel đi trong sa
mạc và đã gặp nhiều cám dỗ: cám dỗ trở lại Ai cập để có bánh ăn; cám dỗ
thờ tượng con bê vàng; cám dỗ thử thách Thiên Chúa.Vua Đavit sa ngã
trước cám dỗ sắc dục nên đã phạm tội cướp vợ của Uria và đã giết chết
người anh em này.Giuđa Iscariốt chỉ vì tham tiền nên đã phản bội Thầy và
bán Thầy giá 30 đồng bạc bằng nụ hôn giả dối…Các chước cám dỗ của Satan
đều chung quy về ba mục tiêu: danh, lợi, thú.
Thiên
Chúa cho phép ma qủy cám dỗ để thử thách xem con người ta có trung tín
hay không, và để cho con người có cơ hội lập công phúc, để họ có thể
chứng minh đức tin của mình.
Thiên
Chúa cho có sự cám dỗ để cho con người phấn đấu thanh luyện mình, và
đồng thời, khi Ngài cho phép như thế, ma qủy cũng lợi dụng triệt để mà
cám dỗ con người. Mỗi ngày, chúng bày ra những chước độc mưu thâm, mỗi
lúc một tinh vi xảo quyệt, lắt léo khôn khéo để cám dỗ người ta.
Thiên
Chúa ban ơn thêm sức để con người chúng ta có thể chống lại những cơn
cám dỗ ấy. Không khi nào Chúa để con người phải chịu những cơn cám dỗ
qúa sức mình chịu đựng được. Như vậy, chúng ta phải chiến đấu với những
cơn cám dỗ. Điều cần thiết là chúng ta phải phân định được ma qủy với
những hành động cám dỗ xấu xa của nó để chống trả và xa lánh.
2.
Ma qủy thường cám dỗ như thế nào?
Ma quỷ
lừa dối con người.Ai cũng có trí khôn, biết phân biệt điều nào là xấu,
là nguy hại và chẳng nên làm. Nhưng ma qủy lừa dối cho rằng việc làm đó
là có lợi, là cần thiết nên người ta mới dấn sâu vào. Khi cám dỗ Evà, ma
qủy không nói rằng ăn trái cấm đó là chống lại Thiên Chúa, nó chỉ nói
rằng ăn trái này thì Bà sẽ được trở nên thông minh như Thiên Chúa. Có
nhiều người bước vào nghiện ngập bằng những phút giây sảng khoái thăng
hoa lừa dối. Nếu người ta biết sự xấu xa của tội thì có lẽ không ai lại
đi phạm tội, nhưng người ta tưởng lầm, hoặc bị cám dỗ coi đó là hạnh
phúc. Nếu người ta nhìn thấy những hình khổ nơi hỏa ngục thì chằng ai
dám phạm tội. Ma qủy khiến người ta phạm tội bằng cách dẫn người ta một
cách từ từ. Không khi nào có ai có thể phạm tội trọng ngay tức khắc, tội
trọng chỉ bắt đầu bằng những tội nhẹ. Người ta thường nói, khi còn bé ăn
trộm một qủa trứng, rồi khi lớn lên sẽ ăn trộm cả một con bò. Những tội
trọng bắt đầu từ những nết xấu hay những tội nho nhỏ. Ma qủy cũng vậy,
nó dẫn dắt người ta từ chỗ tưởng chừng vấp phạm những điều nhỏ tới phạm
những điều lớn. Không ai nghiện thuốc ngay từ điếu hút đầu tiên, không
ai nghiện rượu ngay khi uống chén đầu tiên. Nhưng dần dần nếu lập đi lập
lại nhiều lần sẽ dẫn đến chỗ nghiện ngập (x. Buồn vui cùng kiếp người,
ĐTGM Ngô Quang Kiệt, trang 33).
Chuyện
kể rằng: khi ông Nôe trồng nho, Satan lấy làm lạ nên tiến lại gần hỏi:
- Ông
đang trồng cây gì thế?
- Cây
nho.
- Nó
có lợi gì không?
- Có
chứ. Trái nó vừa đẹp mắt, vừa ngon miệng. Từ trái nho ta còn có thể làm
ra rượu giúp lòng người hưng phấn nữa.
- Vậy
thì để tôi giúp ông.
Satan
liền giết một con chiên, một con sư tử, một con lừa và một con heo. Lấy
máu của chúng tưới gốc cây nho. Thế là cây nho lớn nhanh. Nôe lấy trái
nho làm rượu.
Từ đó
trở đi khi người ta uống một chút rượu vào thì sẽ vui vẻ dễ thương như
con chiên; uống thêm chút nữa thì mạnh bạo như sư tử; nếu uống thêm thì
sẽ ngu như lừa; nếu uống nữa thì... hoàn toàn như con heo vậy.
(Truyện cổ Nước Pháp).
Ma quỷ
luôn lừa dối con người. Chúng ta phải luôn cảnh giác.
3.
Phương thế chiến thắng cám dỗ.
Noi gương
Chúa Giêsu, chúng ta phải biết chống cự lại những cơn cám dỗ. Muốn chống
lại, phải có những phương thế để có thể chiến thắng.
a. Lời
Chúa.
Ma qủy
cám dỗ Chúa Giêsu từ những điều thường nhất là cơm bánh hàng ngày. Chúa
nhịn ăn 40 đêm ngày, đói thì cần ăn, đó là điều rất đổi bình thường.Ma
qủy lợi dụng điều đó để cám dỗ, sau đó mới cám dỗ những những điều mạnh
hơn là thử thách Thiên Chúa và chống lại Ngài. Chúa Giêsu dùng Lời Chúa
để chiến thắng.
Gương của
Chúa Giêsu được Tin Mừng Thánh Luca kể rõ: mỗi lần ma qủy đưa ra một
chước cám dỗ thì Chúa Giêsu lại lấy một lời của Kinh Thánh mà đẩy lui
chước cám dỗ ấy:
- Có lời
chép rằng: người ta không sống bằng cơm bánh mà còn bằng lời của Thiên
Chúa nữa.(Lc 4,5)
- Có lời
chép rằng:ngươi phải thờ lạy Chuá là Thiên Chúa ngươi và chỉ phụng thờ
một mình Người.(Lc 4,8)
- Có lời
chép rằng: ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi.(Lc 4, 11).
“Sau khi
đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi, chờ đợi thời cơ". Satan tạm
lánh vào bóng tối, khi có thời cơ thuận tiện sẽ quay lại tiếp tục tấn
công. Có lần, Satan dùng miệng lưỡi của Phêrô để cám dỗ Chúa đừng lên
Giêrusalem chịu khổ nạn. Chúa quay lại quát nạt: “Satan, hãy lui ra đằng
sau, đừng gây cớ cho Ta vấp phạm”. Thời cơ ma quỷ chờ đợi chính là lúc
Chúa Giêsu trải qua cuộc Khổ Nạn. Trong vườn Giêtsêmani, khi đối diện
với cái chết đang cận kề, Chúa Giêsu không khỏi sợ hãi đến nổi “mồ hôi
đổ ra như máu”. Người đã thân thưa cùng Chúa Cha đến hai lần: “ Lạy Cha,
nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng
theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26, 39b); “Lạy Cha, nếu con cứ phải
uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha” (Mt 26, 42b).
Cao điểm là khi Chúa bị treo trên thập giá, Satan dùng miệng lưỡi kẻ qua
người lại để cám dỗ Chúa xuống khỏi thập giá: “Ông Kitô vua Israel, cứ
xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi để chúng ta thấy và tin”. Trong suốt
cuộc đời dương thế, Chúa Giêsu đã phải chiến đấu chống lại nhiều cơn cám
dỗ. Người thực sự là Thiên Chúa nhưng đồng thời Người cũng hoàn toàn là
con người nên "Người cũng phải chịu trăm chiều thử thách y như ta" (Dt
4,15). Chúa Giêsu đã chiến thắng tất cả. Không một cám dỗ, không một
thách thức nào có thể khiến Người lùi bước.
Lời Chúa
là sức mạnh tâm linh, là lẽ sống thần linh và là lời ban sự sống. Đọc và
suy gẫm Thánh Kinh sẽ đem lại cho chúng ta sức mạnh để chiến thắng tội
lỗi.
b. Ăn
chay cầu nguyện.
Ăn chay
cầu nguyện giúp con người chế ngự bản thân.Tội lỗi của con người là do
không biết chế ngự bản thân. Ăn chay cầu nguyện giúp chúng ta biết thanh
luyện con người mình, chế ngự bản thân, hãm dẹp dục vọng. 40 ngày Mùa
Chay nhắc nhớ về 40 ngày đêm chay tịnh của Chúa Giêsu trong hoang địa,
nhắc lại 40 năm dân Do thái lưu đày trong sa mạc chuẩn bị về Đất hứa.
Mùa Chay là mùa tập luyện chiến đấu thiêng liêng, giúp chúng ta trở nên
người thiện chiến, biết chế ngự và làm chủ bản thân.
Cầu
nguyện là nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Khi vào hoang địa, khi bị ma
quỷ cám dỗ, Chúa Giêsu cần đến sự nâng đỡ của Chúa Thánh Thần. Người đã
dựa vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần và đã chiến thắng cám dỗ.
Khi chúng
ta lâm vào những cuộc thử thách, phải đối diện với những mưu chước của
ma quỷ, rất cần ơn Chúa Thánh Thần trợ lực. Chúa Giêsu mà còn cần đến
Chúa Thánh Thần nữa, thì huống hồ là chúng ta!
Cần phải
cầu nguyện (Lc 22,40; Cv 2,42; GLGH #2612,2742). Nhờ cầu nguyện, Chúa
Giêsu đã không cô đơn một mình, nhưng “được Thánh Thần hướng dẫn” (Mt
4,1). Nhờ cầu nguyện, chúng ta được liên kết với sức mạnh của Thánh Thần
và với Các Thánh trên trời.Vai trò của Chúa Thánh Thần thật quan trọng
trong đời sống của chúng ta. Những lúc bị cám dỗ, những khi sống trong
cô đơn, buồn chán và thất vọng…hãy cậy trông và khẩn cầu với Chúa Thánh
Thần xin ơn phù trợ. Chính Chúa Giêsu đã hứa: “Đấng Bảo Trợ là Thánh
Thần mà Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy các con mọi
điều” (Ga 14,26).
Chúng ta
đang sống trong một xã hội có quá nhiều cám dỗ. Một xã hội đầy dẫy các
tệ nạn và có nhiều lối sống buông thả. Đó là môi trường là cơ hội thuận
tiện cho ma quỷ ẩn núp và tấn công. Cám dỗ ngày càng nhiều và ngày càng
tinh vi dưới muôn hình dáng vẻ. Vì thế, lời dặn dò của Chúa Giêsu ngày
càng khẩn thiết: "Hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ". Cơn
cám dỗ độc hại nhất mà con người cần phải luôn tỉnh thức canh phòng và
trường kỳ chiến đấu bằng mọi cách, chính là lòng ích kỷ, quan niệm sống
hẹp hòi, thiển cận của chính mình, chỉ biết có mình mà quên kẻ khác, chỉ
biết thu vén lợi ích cho riêng mình mà quên quyền lợi kẻ khác.
Để tỉnh
thức và cầu nguyện, chúng ta cần sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh
Thần và ánh sáng soi dẫn của Lời Chúa, thực thi những việc đạo đức của
Mùa Chay.
Chúa
Giêsu đã từng căn dặn các Tông Đồ: "Hãy tỉnh thức". Tỉnh thức để nhận ra
mưu mô của ma quỷ, tỉnh thức trước những lôi cuốn của thế gian, tỉnh
thức trước những yếu đuối của con người xác thịt.
Mùa Chay
là thời gian đặc biệt để sám hối canh tân bản thân dưới ánh sáng Lời
Chúa và thực hành ăn chay cầu nguyện theo gương Chúa Giêsu, nhờ đó mỗi
người chúng ta sống đẹp lòng Thiên Chúa hàng ngày.
Trình
thuật cơn cám dỗ của Chúa Giêsu được đặt trong bối cảnh cuộc đời của
Chúa Giêsu trước khi Ngài bắt đầu sứ vụ rao giảng công khai. Địa điểm
của chỗ cám dỗ này là Núi Quruntur vẫn còn ngày nay, một vùng núi đá
chập chùng nằm giữa Jericho và Jerusalem. Nếu một người vào tu viện và
leo lên đỉnh núi, họ có thể nhìn thấy rõ Đền Thờ Jerusalem từ đây. Chúa
Giêsu bị cám dỗ để chọn lựa cách cứu chuộc con người: Cách dễ nhất và
nhanh nhất để con người tin vào Ngài là làm phép lạ cho dân có của ăn và
ban cho họ tất cả những gì họ muốn như của cải, danh vọng, uy quyền...,
như sau khi Chúa làm phép lạ nuôi 5000 người, họ đã toan tính tôn Ngài
làm vua nên Ngài phải bảo các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia, giải
tán dân chúng, còn Ngài lên núi cầu nguyện (Jn 6:); Cách khó nhất và lâu
nhất là giáo dục để họ nhận ra sự thật, giúp họ kiên nhẫn thực hành, và
vượt qua đau khổ để đạt tới ơn cứu độ; cách này đòi hỏi Ngài phải hy
sinh đến giọt máu cuối cùng trên Thập Giá để mang lại ơn cứu độ cho con
người.
1/ Ba
cơn cám dỗ của Chúa Giêsu.
(1)
Cám dỗ thứ nhất về sự ăn uống:
Trình thuật kể “Người ăn chay ròng rã bốn mươi đêm ngày, và sau đó,
Người thấy đói.” Bấy giờ tên cám dỗ đến gần Người và nói: "Nếu ông là
Con Thiên Chúa, thì truyền cho những hòn đá này hoá bánh đi!" Quỉ biết
Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, nó cũng biết Ngài mang bản tính con người
nên cảm thấy đói sau khi ăn chay, và nó biết để bảo vệ sự sống, một
người sẽ không nghĩ tới gì khác hơn là tìm được của ăn cho đỡ đói, nên
nó cám dỗ Ngài làm phép lạ bằng cách hóa đá thành bánh ăn.
Nhưng
Chúa Giêsu đáp lời quỉ và dạy chúng ta một bài học quan trọng: "Đã có
lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi
lời miệng Thiên Chúa phán ra." Con người là một tổng hợp của hồn và xác,
như thân xác cần bánh ăn mới có thể sống cách thể lý, linh hồn cũng cần
được nuôi dưỡng bởi Lời Chúa thì mới có thể sống về phương diện tâm linh
được. Sống phần tâm linh quan trọng hơn sống phần xác, vì đó là cuộc
sống đời đời. Thế mà biết bao nhiêu người sống như không có hồn, như
không phải chết, qua việc họ dành trọn vẹn thời giờ cho việc mưu sinh và
bỏ qua việc học hỏi Lời Chúa. Chẳng lạ gì mà họ bị rơi vào hết cơn cám
dỗ này đến cơn cám dỗ khác, và quằn quại trong đau khổ.
(2)
Cám dỗ thứ hai về làm phép lạ:
Sau đó, quỷ đem Người đến thành thánh, và đặt Người trên nóc đền thờ,
rồi nói với Người: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì gieo mình xuống đi!
Vì đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn, và
thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá." Quỉ biết
người Do-thái rất thích chứng kiến hay được hưởng phép lạ, và đa số dân
chúng, nhất là dân Việt-nam rất thích phép lạ. Nếu muốn con người tin,
Thiên Chúa chỉ cần cho họ thấy phép lạ!
Chúa
Giêsu trả lời quỉ và dạy con người bài học thứ hai: "Nhưng cũng đã có
lời chép rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi."
Phép lạ được làm là để khơi dậy đức tin trong tâm hồn con người: nếu một
người đã có niềm tin, phép lạ không còn cần nữa; nhưng nếu một người
cứng lòng, dù có chứng kiến biết bao phép lạ họ vẫn không tin. Chúng ta
thấy rõ điều này nơi các người trong Thượng Hội Đồng, họ vẫn không tin
Chúa và còn tìm cách hủy diệt Người. Hơn nữa, niềm tin dựa trên phép lạ
không vững bền; nếu không thấy phép lạ nữa, con người sẽ đánh mất đức
tin. Họ muốn biến và điều khiển Thiên Chúa thành máy làm phép lạ thay vì
họ phải biết tin tưởng vào tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa, như
những gì quỉ nói: “Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn, và
thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá.”
(3)
Cám dỗ thứ ba cho giàu sang phú quí:
Quỷ lại đem Người lên một ngọn núi rất cao, và chỉ cho Người thấy tất cả
các nước thế gian, và vinh hoa lợi lộc của các nước ấy, và bảo rằng:
"Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi." Cám
dỗ này cho chúng ta thấy rõ ràng sự gian dối của ma quỉ, vì tất cả những
thứ quỉ hứa cho thuộc về Thiên Chúa, không thuộc về chúng.
Chúa
Giêsu trả lời quỉ và dạy con người bài học thứ ba: "Satan kia, xéo đi!
Vì đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của
ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi." Đây là điều răn thứ
nhất và quan trọng hơn cả. Có thể nói không một tín hữu nào không biết
điều răn này; nhưng thực hành giới răn này trong cuộc sống thì không dễ
dàng, vì biết bao người đã vì lợi lộc không chịu thờ phượng Thiên Chúa,
lại quì sụp lạy ma quỉ. Cám dỗ này phải mở mắt cho con người hiểu rõ họ
được sở hữu điều gì hoàn toàn là do bởi Thiên Chúa, chứ không từ ma quỉ,
hay do bởi sức mình, hay bởi những thế lực khác.
2/
Những điều căn bản cần thiết để vượt qua chước cám dỗ
Trước
tiên, kiến thức về Thiên Chúa và về con người là điều kiện chủ yếu để
vượt qua cám dỗ. Để có kiến thức này, các tín hữu cần bỏ thời giờ để học
hỏi về Thiên Chúa qua Thánh Kinh và những giáo huấn của Giáo Hội. Không
biết Kinh Thánh là không biết Thiên Chúa và không biết những dự tính và
đường lối của Thiên Chúa dành cho con người. Biết những điều này, con
người sẽ nhận ra ngay những cạm bẫy gian dối của ma quỉ và không dễ rơi
vào. Thứ đến, niềm tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa cũng không kém
quan trọng. Con người phải vững tin Ngài sẽ không bỏ mặc con người phải
đương đầu với ma quỉ, nhưng sẽ sai các thiên thần và những người tốt
lành đến giúp đỡ và bảo vệ các con cái của Ngài, như đã sai các thiên
thần đến nâng đỡ và bảo vệ Chúa Giêsu sau cuộc cám dỗ. Sau cùng, nhược
điểm của con người là nghi ngờ sự hiện hữu, tình thương, và sự quan
phòng của Thiên Chúa. Nhiều người lo sợ không biết có Thiên Chúa hay
không, và nếu có, không biết Ngài có để mắt săn sóc đến họ không; vì thế,
họ nghĩ phải tự mình lo liệu lấy cho chắc ăn.
ÁP DỤNG
TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng
ta chỉ là loài thụ tạo vì yêu thương Thiên Chúa đã dựng nên, và có rất
nhiều giới hạn. Chúng ta phải diệt trừ tội kiêu ngạo và bất tuân bằng
cách tập luyện cho có được hai nhân đức khiêm nhường và tuân phục như
Đức Kitô đã làm gương cho chúng ta.
- Chúng
ta cần phải loại trừ cách nhìn ích kỷ và cá nhân của thế gian để học cái
nhìn xả kỷ và tập thể của Thiên Chúa. Một người phạm tội, mọi người đều
chịu; một người làm phúc, mọi người đều thông phần. Chỉ một lối sống như
thế mới giúp chúng ta loại bỏ mọi cãi cọ, ghen tương tranh dành, ly dị,
chiến tranh và đáp ứng được giới luật yêu thương như lời Chúa truyền dạy.
- Mọi cám
dỗ đều có thể thắng vượt được nếu chúng ta chịu khó học hỏi Lời Chúa, và
tập luyện để làm cho đức tin cho chúng ta mỗi ngày một thêm vững mạnh và
kiên cường hơn.
mục lục
Chúng ta
bắt đầu bước vào Mùa Chay Thánh, câu truyện của sách Sáng Thế Ký dẫn
chúng ta trở lại sự khởi nguyên của dòng dõi loài người. Thiên Chúa sáng
tạo con người từ bùn đất và thổi sinh khí ban cho con người có sự sống.
Thiên Chúa đặt sẵn một mảnh vườn tuyệt đẹp để con người được vui hưởng
hạnh phúc. Ngay từ giây phút đầu tiên, Thiên Chúa đã nhắc nhở hai ông bà
tổ tiên Ađam và Evà về sự chọn lựa giữa sự sống và sự chết. Con rắn,
biểu hiện của ma quỉ, đã cám dỗ lòng thèm khát của ông Ađam và bà Evà
muốn trở nên giống Chúa qua sự hiểu biết về sự lành và sự dữ. Ma quỉ mon
men dụ dỗ người đàn bà trước, Người nữ nói với con rắn: "Chúng tôi được
ăn trái cây trong vườn; nhưng trái cây ở giữa vườn thì Thiên Chúa bảo: 'Các
ngươi đừng ăn, đừng động tới nó, nếu không sẽ phải chết'" (Stk 3, 2-3).
Bà Evà đã sa ngã nghe theo lời cám dỗ và cùng kéo lôi Ađam vào bẫy của
ma quỉ. Ông bà đã chọn lựa sự bất tuân lệnh của Chúa và trong phút chốc
sự ngây thơ vô tội đã biến mất.
Cám dỗ là
sự ước muốn một hành động mà chúng ta có thể hưởng lạc ngay trong khoảnh
khắc nhưng sau đó lại hối hận. Cám dỗ là hướng chiều về tội. Cám dỗ cũng
là dịp hay cơ hội dẫn đến những ước muốn tò mò thực hiện những hành động
xấu. Những đòi hỏi ước muốn của bản năng len lỏi vào mọi khía cạnh của
cuộc sống. Chúng ta không thể nào thỏa mãn tất cả mọi khao khát của lòng
ham muốn hay dục vọng. Lòng ước muốn có thể là điều tốt hoặc xấu và điều
phải hoặc trái. Chúng ta có quyền chọn lựa thái độ sống tốt. Dịp tội đưa
dẫn chúng ta thỏa mãn sự tò mò của tâm trí và đáp ứng những khao khát
của ngũ quan thèm muốn. Vì nhùng nhằng với cơn cám dỗ, bà Evà bị rơi vào
bẫy xập của ma quỉ. Người nữ thấy trái cây đẹp mắt, ngon lành và thèm ăn
để nên thông minh. Bà hái trái cây ăn, rồi lại cho chồng, người chồng
cũng ăn (Stk 3, 6). Hậu qủa của sự tò mò tìm kiếm những kinh nghiệm sống
thực là: Mắt họ liền mở ra và họ nhận biết mình trần truồng, nên kết lá
vả che thân (Stk 3,7). Bài học kinh nghiệm sống đời giống như thế đã gây
nên biết bao nhiêu thất bại nơi nhiều người. Thôi lỡ rồi!
Trong
Kinh Lạy Cha, Chúa dạy chúng ta cầu xin: Xin chớ để chúng con xa chước
cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Chúng ta khó có thể tránh
khỏi các cơn cám dỗ, vì nó xảy đến bất ngờ mọi nơi và mọi lúc dưới nhiều
hình thức. Điều quan trọng là chúng ta phải biết tỉnh thức phấn đấu và
thắng vượt. Thường thì các cơn cám dỗ đến rất nhẹ nhàng và xem ra hợp
tình hợp lý. Nó đáp ứng đúng những nhu cầu đòi hỏi của lòng ao muốn thỏa
mãn thân xác và tâm linh. Muốn thắng các cơn cám dỗ, chúng ta cần tỉnh
thức cầu nguyện và ăn chay hãm mình. Đôi khi chúng ta còn phải trốn
chạy, người ta nói: Đào vi thượng sách là thế! Chúng ta phải biết lượng
sức mình, nếu chúng ta coi thường mà cứ quanh quẩn trong thách đố, ma
quỉ sẽ không buông tha cho chúng ta. Chúng ta thường đối diện với những
cám dỗ về danh vọng, ham muốn quyền lực, đức công bằng, sự tham lam của
cải vật chất, sự ghen tương, thù ghét, và lòng ước muốn dâm dục.
Ma quỉ đã
cám dỗ Chúa Giêsu về những ước muốn thỏa mãn của ăn vật chất, quyền lực
và danh vọng. Chúa Giêsu đã dứt khoát chống trả các chước cám dỗ một
cách mau lẹ bằng cách dựa vào lời Kinh Thánh: Nhưng Chúa Giêsu đáp lại:
"Có lời chép rằng: 'Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi
lời do miệng Thiên Chúa phán ra'"(Mt 4,4). Lời Chúa là lẽ sống và là khí
giới vạn năng giúp chúng ta chiến đấu thắng vượt những cạm bẫy của ma
quỉ. Với sức riêng, chúng ta khó vượt qua các mưu mô của quỉ dữ. Chúng
ta cần phải cậy nhờ vào ơn Chúa và luôn tỉnh thức. Hằng ngày chúng ta
đối diện với rất nhiều cơn cám dỗ. Trong khi lựa chọn thái độ sống là
khi chúng ta chạm trán với sự cám dỗ giữa lành và dữ, tốt và xấu. Bảy
mối tội đầu là bảy loại cám dỗ hay xuất hiện: Tội kiêu ngạo, hà tiện,
dâm dục, hờn giận, mê ăn uống, ghen ghét và lười biếng phụng thờ Thiên
Chúa.
Tập trung
hướng nhìn về Chúa và chỉ tôn thờ một mình Ngài. Chúa Giêsu thắng vượt
các cơn cám dỗ dễ dàng bởi sự tỉnh thức và ăn chay nguyện cầu. Chúa đã
dùng lời Kinh Thánh để đối đáp với những lạm dụng của ma quỉ: Bấy giờ
Chúa Giêsu bảo nó rằng: "Hãy lui đi, hỡi Satan! Vì có lời đã chép: 'Ngươi
phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa ngươi, và chỉ phụng sự một mình Ngài'"
(Mt 4, 10). Ma quỉ cũng thấu đạt lời Kinh Thánh, cũng khéo léo áp dụng,
tuy nhiên không đúng nơi đúng chỗ và không có ý hướng ngay lành. Ma quỉ
đã thất bại và bỏ cuộc. Lời Chúa là vũ khí rất lợi hại giúp chúng ta
vượt thắng những mời mọc và khiêu khích của ma quỉ. Trong mùa chay thánh
này, chúng ta hãy cố gắng đọc, học hỏi, suy niệm và tin vào lời Chúa.
Nghi thức xức tro mời gọi: Hãy sám hối và tin vào Phúc âm.
Lòng con
người hay hướng chiều về điều dữ là do bởi bản tính mỏng dòn ô nhiễm bởi
tội nguyên tổ. Thánh Phaolô tông đồ trong thở gởi cho giáo đoàn Rôma đã
viết: Anh em thân mến, cũng như do một người mà tội lỗi đã nhập vào thế
gian, và do tội lỗi mà có sự chết, và thế là sự chết đã truyền tới mọi
người, vì lẽ rằng mọi người đã phạm tội (Rm 5, 12). Nếu ai nói rằng mình
không bao giờ phạm tội, đó là người nói dối và lừa đảo chính mình. Đôi
khi chúng ta chỉ xét mình một cách hời hợt bên ngoài và chỉ xưng thú một
vài lỗi lầm quen thuộc. Thí dụ: Một năm chúng ta có cơ hội xưng tội vào
mùa chay, khi vào tòa cáo giải, có người xưng: Thưa cha, trong năm qua
con có bỏ lễ Chúa Nhật 2 lần, xin hết. Có lẽ chúng ta chưa xét mình cho
đủ. Không dám nhìn vào đời sống nội tâm và không biết cách xét mình.
Chúng ta có thể xét mình bằng cách dựa vào 10 giới răn của Chúa và 6
điều răn của Hội Thánh. Chúng ta có thể xét mình về những tội trong tư
tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu xót. Chúng ta có thể xét
mình về bổn phận đối với Chúa, với tha nhân và với chính mình. Càng xét
mình kỹ, càng xưng thú rõ ràng và thật lòng ăn năn chừa cải, chúng ta
mới có cơ hội thăng tiến trên đường nhân đức.
Truyện
minh họa: Có một thiếu phụ đem quần áo ra giếng chung để giặt nhưng vì
sợ người ta thấy quần áo mình quá dơ bẩn, nên vội vàng giặt sơ sơ rồi
gấp mang về phơi. Vì thế, quần áo không có cái nào sạch cả.
Ngày nay, nhiều người cũng làm như thế trước mặt Chúa và trong tòa cáo
giải với linh mục. Vì sợ linh mục nghe biết tội mình quá ô uế, nên họ
không dám xưng từng tội một và chỉ trình bày cách tổng quát. Họ giấu
những tội trọng hay cố tình nói cho nhẹ bớt, nên linh hồn họ dơ vẫn hoàn
dơ.
Chúa
Giêsu là Con Thiên Chúa đã xuống trần hy sinh chịu chết trên thập giá để
cứu độ. Chúa có uy quyền để tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta đã phạm. Vì
như bởi tội không vâng lời của một người mà muôn người trở thành những
tội nhân thế nào, thì do đức vâng lời của một người mà muôn người trở
thành kẻ công chính cũng như thế (Rm 5, 19). Chúa đến để cứu độ, chứ
không phải để luận phạt chúng sinh. Khi đi rao giảng Tin mừng nước trời,
Chúa Giêsu đã tha tội cho nhiều người: Chúa tha tội cho người đàn bà tội
lỗi khi xức dầu chân Chúa, tha tội cho phụ nữ Samaria tại giếng Giacob,
tha tội cho người bất toại và tha tội cho kẻ trộm bị đóng đinh cùng…
Chúa cũng đã trao quyền tháo cởi cho thánh Phêrô, các tông đồ và những
người kế vị. Chúng ta tin tưởng vào quyền năng tha thứ của Chúa.
Lạy
Chúa, bước vào Mùa Chay Thánh là chúng con bắt đầu bước vào mùa tập
luyện. Xin cho chúng con biết can đảm xét mình và nhận diện tình trạng
tâm hồn yếu đuối và tội lỗi. Chúng con là kẻ tội lỗi cần đến lòng thương
xót của Chúa. Xin Chúa xót thương và tha thứ tội lỗi chúng con.
Đức Kitô
đã muốn biết đầy đủ về thân phận làm người, kể cả cám dỗ; ngoại trừ tội
lỗi. Nhân tiện, cũng nên ghi chú rằng cám dỗ không phải là tội lỗi; trái
lại, khi đã vượt qua được, thì cơn cám dỗ lại tăng cường lòng trung tín
và làm cho Thiên Chúa càng thêm lòng nhân từ đối với ta (với điều kiện
là ta đã không dại dột gieo mình vào cơn cám dỗ). Người ta có thể thấy
sự khác biệt trong thái độ của Chúa và thái độ của Adong khi đối diện
với ma quỷ: Chúa không tranh luận với nó. Chúng ta biết được các cơn cám
dỗ của Chúa là nhờ chính Người tiết lộ ra. Có thể là các nhà chép Phúc
Âm đã cô đọng lại trong một bài tường thuật mầu mè, nhiều cơn cám dỗ
khác nhau mà Đức Kitô đã gặp. Ta không biết dưới hình dạng nào hay nhờ
phương cách nào satan đã thử thách Chúa. Điều cốt yếu nằm trong bài học
vô cùng quan trọng rút ra từ câu chuyện cám dỗ và bài học ấy kết thúc
bằng lời khẳng định mặc nhiên rằng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa và các
thiên thần phục dịch Người.
Đoạn Tin
Mừng này gợi lên vài ý tưởng:
1)
Khi muốn chịu cám dỗ, mặc dù biết mình không sa ngã được, Chúa lưu ý
chúng ta rằng mối nguy thất bại đe dọa số phận chúng ta. Ta không thiếu
phương tiện đối phó, nhưng ta phải biết rằng thực tại là thực tại.
Thực tại
ấy bị sự thâm độc của ‘thủ lãnh thế gian này’ (ma quỷ) nhiễm vào; chủ
tâm của nó là đưa ta xa lìa Thiên Chúa. Chúng ta càng coi sự đe dọa này
là huyền thoại, lại càng dễ bị sa ngã hơn. “Chúng con hãy tỉnh thức và
cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ” (Mt 26,41).
2)
Chúa chống lại một cách dứt khoát cái tiến trình mà satan muốn đặt vào
trong Người. Satan khêu gợi bằng những mục tiêu giả dối đầy vẻ quyến rũ.
Nó muốn nhân đó khơi dậy một điều ham muốn và lòng chiều theo ham muốn
đó, tức là tội lỗi. Mỗi lần như thế, Chúa đều nghiêm khắc xua đuổi nó đi.
3)
Cơn cám dỗ thứ ba đáng cho ta suy nghĩ cách riêng. Satan tìm cách hạ ơn
gọi của Đức Kitô xuống hàng một với ‘thuyết cứu thế’ mang tính chất
chính trị. Nó thử làm cho Chúa Giêsu thờ lạy một sự vật nào khác thay vì
Thiên Chúa. Đó là một quyến rũ gần giống tội phạm tới Chúa Thánh Thần,
là tội duy nhất không được tha. Tội phạm tới Thánh Linh là sự đồi bại có
ý thức, được mong muốn, được chấp thuận, -sự đồi bại của trí khôn con
người hết còn chịu được ‘thuyết cứu thế’ đích thực, bởi vì nó đã quyết
định rằng sự cứu rỗi của con người hoàn toàn nằm trong tay con người.
Như thế là chuyển sự thờ phượng từ Thiên Chúa qua một đối tượng khác. Mà
lẽ ra “ngươi hãy thờ lạy một mình Chúa là Thiên Chúa ngươi”.
4)
Trong khi chống trả chước cám dỗ, Chúa Giêsu dựa vào uy thế của Người là
Thiên Chúa. Trong cơn chiến đấu với cám dỗ, chúng ta được sự trợ giúp
của Chúa Giêsu.
Hắn là một
tên sát nhân. Hắn đã giết một cảnh sát viên. Bây giờ hắn phải trả giá
bằng hình phạt: Người ta cột hắn vào ghế điện trong nhà tù.
Người ta
buộc những miếng kim khí vào cái vòng trên đầu hắn vào bắp chân hắn. Một
lát nữa, dòng điện mạnh sẽ chạy qua thân xác hắn, đủ gây nên sự mất ý
thức ngay lập tức và chết luôn. Viên chức phụ trách bởi tên tử tội xem
hắn có muốn nói lời gì cuối cùng không. Hắn nói buột ra với giọng điệu
đớn cực độ: “Đây, tất cả đã khởi đầu khi tôi ăn cắp 1 đồng 5 xu ở túi áo
của mẹ tôi. Rồi tôi ăn cắp 2 đồng 5 xu. Sau đó, tôi đã bắt đầu ăn cắp đồ
vật ở trường học, ở tiệm tạp hóa, tiệm thuốc. Rồi, với hai đứa bạn, tôi
bắt đầu tập luyện, món kiếm được càng ngày càng lớn hơn. Cuối cùng,
chúng tôi quyết định cướp ngân hàng, và lần đó tôi đã bắn viên cảnh sát.
Đó, tất cả bắt đầu với 1 đồng 5 xu”.
Thưa anh chị
em,
Đó là câu
chuyện thường của tội ác. Đó là câu chuyện thường của lỗi lầm, nó thường
khởi sự bằng một điều nhỏ mọn – 1 đồng 5 xu – một điếu thuốc, một ly
rượu, một tư tưởng không tốt, một ước muốn dơ bẩn hay sự tò mò, đánh
người nhỏ tuổi, không vâng lời trong những điều nhỏ mọn. Khi không được
ngăn chặn, nó sẽ dẫn tới vụ ăn cướp, lạm dụng ma túy, nghiện ngập say
sưa, trụy lạc đủ loại, bạo lực hành hung…
Tin mừng hôm
nay kể lại việc Chúa Giêsu bị ma quỷ cám dỗ. Qua đó, chúng ta thấy được
chiến thuật quỷ quyệt ngàn đời của ma quỷ: Hắn luôn luôn bắt đầu tấn
công con người ở khía cạnh thấp hèn nhất: sự tham ăn hay nói cách khác,
sự tìm kiếm thỏa mãn xác thịt với những dục vọng đê tiện. Sau khi tấn
công khía cạnh xác thịt đê hèn của con người. Một khi đã mù quáng trong
những dục vọng đê tiện của thể xác, con người sẽ đánh mất đi mọi ý hướng,
mọi ý chí tốt lành để chỉ biết ngụp lặn trong việc tìm kiếm danh vọng,
chức quyền và của cải, tức là con người đi vào vòng nô lệ của những ước
vọng hão huyền.
Đây cũng là
chiến thuật cũ của ma quỷ để tấn công Chúa Giêsu. Thế những, nếu hắn đã
thành công với hai ông bà nguyên tổ loài người thì hắn ta đã thất bại
nặng nề với Chúa Giêsu, Ađam mới của loài người. Ba đợt cám dỗ của Satan
đều nhằm đánh lạc hướng sứ mạng cứu thế của Chúa Giêsu. Satan đã khôn
khéo đưa ra dụ dỗ Chúa ba kế hoạch hấp dẫn để chinh phục dân chúng dễ
dàng: Trước hết là cứ việc biến sỏi đá thành cơm bánh, cứ việc làm phép
lạ cho dân chúng được ăn no thì ai lại không ham, ai lại không muốn chạy
theo Ngài. Rồi đến kế hoạch thứ hai có vẻ hấp dẫn hơn trò xiếc quốc tế:
đó là chỉ cần Chúa biểu diễn quyền phép của Thiên Chúa cho dân chúng
thấy mà lóe mắt thán phục, bằng một pha nhào lộn ngoạn mục từ trên tháp
đền thờ Giêrusalem xuống đất mà không sợ gãy cổ què chân, vì đã có các
Thiên Thần nâng đỡ Ngài. Cuối cùng Satan lại bày ra một kế hoạch thứ ba,
đó là chỉ cần Chúa quỳ xuống phục lạy hắn ta một cái là sẽ đổi lấy tất
cả danh vọng, giàu sang, quyền thế, thống trị muôn dân nước trên thế
giới, bá chủ hoàn cầu…
Trước các
đợt tấn công của Satan, Chúa Giêsu đã dứt khoát gạt bỏ cả ba kế hoạch
hấp dẫn, dễ dàng đó. Chúa không muốn chinh phục người ta bằng miếng ăn,
bằng quyền năng thần thánh hay bằng vinh quang vật chất trần gian. Chúa
đến trần gian nầy là để thi hành sứ mạng cứu độ trần gian theo kế hoạch
của Thiên Chúa Cha. Kế hoạch đó là Ngài phải mang lấy thân phận con
người sống kiếp người nghèo khổ và phải đi đến tận cùng con đường gian
khổ, đến cuộc tử nạn Thập giá. Đó là kế hoạch kỳ diệu của Thiên Chúa Cha
mà Chúa Giêsu phải thực hiện đến hoàn thành để đưa Ngài lên đến tột đỉnh
vinh quang của cuộc chiến thắng phục sinh, nhờ đó mà loài người được cứu
chuộc.
Anh chị
em thân mến,
Ngày nay,
Satan không hiện nguyên hình để dụ dỗ chúng ta, nhưng nó ngụy trang dưới
nhiều hình thức tinh vi và tràn ngập chung quanh chúng ta, để lôi kéo
chúng ta ra khỏi con đường của Chúa, để sống phóng đãng theo ý muốn của
mình. Đi theo Chúa Giêsu, chúng ta chỉ có một con đường Chúa Giêsu đã
chọn và chúng ta phải chọn lại luôn từng ngày, từng giờ trước những cám
dỗ của miếng ăn, của tiền của, của danh lợi, của quyền thế: “Con người
không chỉ sống nhờ cơm bánh mà còn phải được Lời Chúa nuôi dưỡng nữa”.
Chúng ta
quyết tâm biến Mùa Chay nầy thành một cuộc chiến đấu và chiến thắng vẻ
vang như Chúa Giêsu. Đôi khi chúng ta phải đương đầu với những cám dỗ
lớn lao, nhưng thường ra, chúng ta gặp những cám dỗ nhỏ hơn, nhất là lúc
khởi đầu bao giờ cũng là chuyện nhỏ mọn. Nhưng hãy kháng cự ngay lúc
khởi đầu, để được tăng sức chống lại những tấn công lớn hơn sau này của
ma quỷ.
Cũng vậy,
nếu muốn làm điều gì lớn lao cho Chúa, chúng ta hãy khởi đầu từ điều nhỏ
mọn: một tư tưởng, một ước muốn, một lời cầu nguyện. Hãy tìm cách nói
hay làm những điều tốt lành. Hãy chia sẻ chút ít cho người đang túng
thiếu. Hãy đi dự Thánh lễ thường xuyên đều đặn. Mỗi ngày hãy dành ít phú
đọc và suy niệm Tin Mừng. Hãy tìm ra phương thế cụ thể để nên giống Chúa
Giêsu. Hãy bắt đầu bằng những việc nhỏ mọn nhưng rõ rệt. Rồi chúng ta có
thể nói: “tôi đã làm được điều đó hôm qua, tôi có thể làm được hôm nay,
tôi sẽ còn có thể làm được ngày mai”.
Tất cả
chúng ta muốn đứng về phía người chiến thắng. Chúa Kitô luôn chiến thắng.
Ngài chiến thắng trong trận chiến chống Satan. Ngài đã chiến thắng vào
lễ phục sinh đầu tiên. Chúng ta hãy đứng về phía Ngài trong Mùa Chay và
chắc chắn chúng ta sẽ chiến thắng với Ngài vào lễ Phục Sinh.
Chủ
đề:
Các cơn cám dỗ Đức Giêsu trải qua chứng tỏ Ngài là Con Thiên Chúa, là
"Adam mới" trong cuộc tân tạo của Thiên Chúa
Cách đây
một số năm, Doug Alderson có viết một bài rất hay trong tạp chí Campus
Life mô tả cuộc đi bộ suốt hai ngàn dặm xuống dãy núi Appalachi
(Appalachian Trail) của ông.
Lúc đó
Doug vừa mới tốt nghiệp trung học thôi nhưng đã tự đặt cho mình một số
câu hỏi chưa được ai trả lời cho, chẳng hạn: Có Thiên Chúa hay không?
Mục đích cuộc sống là gì? Khi bình luận về tất cả những vấn nạn này,
Doug viết: "Phải có cái gì đó đáng sống hơn là tiền bạc, truyền hình,
tiệc tùng và đua tranh... Cuộc đi bộ lâu ngày của tôi chuyến này là một
cuộc đi tìm an bình nội tâm, là một cuộc hành trình khám phá chính mình".
Cuộc hành
trình gian khổ hơn Doug dự tính. Có đôi chỗ, đường dốc đứng rất là nguy
hiểm. Ban ngày lại thường hay mưa. Áo quần Doug bị sũng ướt nước, chân
cẳng thì ướt át, thân thể thì rét run và đau nhức vào ban đêm. Nhưng
Doug đã không đầu hàng. Những giờ phút đi bộ và leo trèo giúp Doug có cơ
hội suy nghĩ, đồng thời nhờ đó cậu hiểu mình hơn, vì chung quanh chẳng
có ai tác động lên cậu hết.
Năm tháng
sau, Doug về đến nhà. Cậu đã trở thành một người thay đổi khác. Ngay
chính con chó của cậu cũng lạ lùng ngó cậu như muốn nói rằng: "Cậu đã đi
đâu và đã làm gì thế? Trông cậu khác quá!".
Doug quả
là có khác trước. Cậu đã gặp được điều cậu kiếm tìm, đó là có một vị
Thiên Chúa: đời sống có mục đích và cậu có vai trò trong cuộc sống ấy.
Doug tóm tắt kinh nghiệm của mình bằng giòng chữ sau: "Tôi không còn là
tôi như trước đây nữa, tôi yêu thích cái mà tôi nhìn thấy được trong
chính tôi".
Doug
Alderson thuộc về số người trong lịch sử đã từng đi tìm cô tịch để suy
tư về ý nghĩa và mục đích của đời sống. Môisê đã từng làm thế. Các tiên
tri từng làm thế. Gioan Tẩy Giả từng làm thế, và trong Phúc âm hôm nay,
Đức Giêsu cũng làm thế. Suốt bốn mươi ngày dài trong cô tịch, Chúa Giêsu
đã trải qua bao cơn cám dỗ dữ dội. Chúng ta có thể so sánh ba cơn cám dỗ
với đoạn duyệt ở đầu một cuốn phim. Đoạn duyệt này trình bày cho chúng
ta khá đầy đủ về cuốn phim khiến chúng ta chú ý vào phim ấy mà vẫn không
làm cho chuyện phim sau đó bị mất hay đi.
Cơn cám
dỗ Chúa Giêsu đã trải qua cũng tương tự như thế. Chúng kể cho chúng ta
khá đủ về Chúa Giêsu để khiến chúng ta chú ý đến Ngài mà không làm cho
câu chuyện Phúc âm nhạt nhẽo đi. Chẳng hạn, các cơn cám dỗ ấy giúp chúng
ta biết sơ qua bản thân Chúa Giêsu và công việc mà Ngài đến để chu toàn.
Chúng ta
hãy xem điểm thứ nhất liên quan đến bản thân Chúa Giêsu: Chúa Giêsu là
ai?
Thoạt
tiên, các cơn cám dỗ cho chúng ta thấy Chúa Giêsu đã cảm nghịêm trận
chiến nội tâm giữa điều thiện và điều ác giống hệt chúng ta. Ngài cũng
cảm thấy cuộc tranh chấp bên trong giữa điều phải và điều trái giống hệt
chúng ta. Điều này cho thấy Chúa Giêsu cũng là con người như chúng ta.
Nhưng các
cơn cám dỗ không chỉ nói lên điều đó. vì dù bị cám dỗ giống hệt chúng ta
nhưng Chúa Giêsu đã phản ứng lại cơn cám dỗ khác với chúng ta. Ngài
không hề giao động hay do dự khi đương đầu với cám dỗ. Ngài không nhượng
bộ cám dỗ một chút nào hết. Điều này cho thấy điểm đặc biệt nơi con
người Chúa Giêsu. Điểm đặc biệt ấy là gì?
Chính ma
quỷ đã cho chúng ta thấy một mối khi nó nói với Chúa Giêsu: "Nếu ngươi
là Con Thiên Chúa..." ma quỷ gợi cho chúng ta biết Chúa Giêsu không chỉ
là một con người, mà Ngài còn là Con Thiên Chúa đến sống giữa chúng ta.
Nhiều năm sau đó, trong thư gởi tín hữu Philipphê, Thánh Phaolô đã cắt
nghĩa bản tính của Chúa Giêsu như sau: "Chúa Giêsu vốn bản tính là Thiên
Chúa, nhưng Ngài... Đã trở nên giống như loài người và đã xuất hiện như
một con người" (Pl 2: 6-7). Như vậy các cơn cám dỗ Chúa Giêsu đã trải
qua giúp chúng ta nhìn thấy trước câu trả lời cho vấn nạn "Chúa Giêsu là
ai?" hay nói cách khác, Chúa Giêsu có sứ mệnh gì trên trần gian?
Các cơn
cám dỗ ấy cũng giúp ta thấy trước câu trả lời cho vấn nạn vày. Để thấy
rõ điểm này, chúng ta cần nhớ lại bài đọc thứ nhất hôm nay. Ngày sau khi
Adam được Chúa tạo dựng, ma quỷ liền cám dỗ ông ta và Adam đã sa ngã. Kể
từ lúc đó, tất cả mọi người đều làm nô lệ cho ma quỷ. Giờ đây ma quỷ lại
cám dỗ Chúa Giêsu. Tuy nhiên, không như Adam sa ngã, Chúa Giêsu đã đứng
vững. Điều này cho thấy Chúa Giêsu đến để giải thoát chúng ta khỏi vòng
nô lệ, Ngài đã đến để điều chỉnh sai lầm nơi tội lỗi đầu tiên của Adam.
Trong bài đọc thứ hai hôm nay, Thánh Phaolô đã bình luận về sứ vụ này
của Chúa Giêsu như sau: "Cũng như tội lỗi của một người đã kết án toàn
thể nhân loại thế nào, thì hành vi công chính của một người cũng giải
thoát và đem lại nguồn sống cho nhân loại như thế ấy. Nói cách khác,
Chúa Giêsu là "Adam thứ hai". Ngài đã đến để sửa lại lầm lỗi cho "Adam
thứ nhất". Đó chính là cách thức Thánh Phaolô giải thích về sứ mệnh của
Chúa Giêsu trong thư gởi tín hữu Corintô: "Cũng như mọi người phải chết
vì liên kết với Adam thế nào, thì mọi người cũng được sống nhờ kết hiệp
với Chúa Giêsu như thế... Adam thứ nhất bởi đất, Adam thứ hai bởi trời..
Như chúng ta đã mặc lấy hình tượng con người bởi đất thế nào thì chúng
ta cũng sẽ mặc lấy hình tượng của CON NGƯỜI đến từ trời như thế" (1 Cr
15,22.47-49).
Nói cách
khác, Chúa Giêsu đã đến trần gian để trở thành "Adam mới" của một nhân
loại mới.
Như thế,
để kết luận, chúng ta thấy rằng các cơn cám dỗ trong hoang địa Chúa
Giêsu trải qua cho chúng ta thấy trước hai sự kiện quan trọng về Chúa
Giêsu:
Thứ nhất,
Chúa Giêsu là con Thiên Chúa làm người. Thứ đến Ngài là Adam mới mang sứ
mệnh phục hồi sự sống mới cho nhân loại. Các bài đọc hôm nay thật thích
hợp để dẫn nhập chúng ta vào mùa chay. Chúng làm nổi bật được nội dung
của Mùa chay. Mùa chay giúp ta sống lại kinh nghiệm trong hoang địa của
Chúa Giêsu xưa kia về việc chống lại ma quỷ cám dỗ.
Nhưng
không chỉ có thế, mùa chay còn cử hành mừng chiến thắng của Chúa Giêsu
trên ma quỷ. Và bao lâu chúng ta biết kết hợp với Chúa Giêsu trong trận
chiến chống quỉ thì chúng ta cũng sẽ chia xẻ niềm vui chiến thắng của
Ngài.
Lạy Chúa
Giêsu, Chúa là con Thiên Chúa làm người. Chúa đã vào hoang mạc để chịu
ma quỷ cám dỗ, và để bắt đầu sứ mệnh như một Adam mới. Xin giúp chúng
con cùng đi vào hoang mạc với Chúa. Xin giúp chúng con biết chia sẻ trận
chiến mùa chay với Chúa ngõ hầu chúng con cũng được chia sẻ chiến thắng
Phục sinh với Chúa.
Trong
những ngày qua Thành Phố Hồ Chí Minh đang nóng lên chuyện đòi lại vỉa hè
cho người đi bộ, đặc biệt tại Quận I, Ông Phó Chủ tịch UBND Quận I, Đoàn
Ngọc Hải, đã hành động cách quyết liệt để đòi cho được vỉa hè nhằm trả
lại cho người đi bộ. Và sau gần một tháng, vỉa hè Quận 1 thành Phố HCM
thống thoáng hơn, đẹp hơn, người đi bộ cảm thấy thoải mái hơn, không còn
nơm nớp lo sợ bị xe đụng.
Một hình
ảnh gợi cho những người Kitô hữu khi bước vào Mùa chay thánh. 40 ngày
của Mùa chay là thời gian để người tín hữu gột rửa tâm hồn, trả lại cho
Thiên Chúa chỗ đứng của Ngài trong đời sống của người Kitô hữu. Thật
vậy, trong cuộc hành trình tiến về Nhà Cha, không ít người Kitô hữu đã
để cho tâm hồn của mình bị lấn chiếm bởi những điều mà đoạn Tin Mừng hôm
nay trình bày, đó là: danh vọng, tiền bạc và đam mê nhục thú. Bôn ba
trong cuộc sống trần thế, có bao giờ chúng ta tự hỏi, trong tâm hồn của
chúng ta có còn chỗ nào cho Chúa ngự trị không? Hay là những lo toan của
cuộc sống, những tham vọng của cuộc đời, những thú vui trần thế đã
choáng hết chỗ và không còn một chỗ trống nào để Chúa có thể ghé thăm?
Hôm nay,
Giáo Hội mời gọi chúng ta bước vào Mùa Chay Thánh với một khao khát tái
lập lại trật tự trong tâm hồn, trả lại chỗ ngự trị cho Chúa sao cho xứng
hợp, bởi con người được tạo thành giống ảnh Chúa, và thân xác là Đền Thờ
của Chúa. 40 ngày Chay Thánh không là một chu kỳ Phụng Vụ đến rồi đi,
nhưng phải là thời gian hành động với một thái độ dứt khoát, không do dự
hay lưỡng lự. Một sự cương quyết như Đức Kitô khi đối diện với các cám
dỗ mà chúng ta vừa được nghe. Hãy mạnh dạn mở miệng để nói với các cám
dỗ: nầy Satan hãy xéo đi, hãy đi chỗ khác, vì nơi đây không có chỗ cho
người. Một lời minh định như thế là một nhát búa đập nát những thói quen
xấu đang là những chướng ngại cản lối Chúa đến với chúng ta. Hãy mạnh
dạn tuyên xưng: chỉ bái lạy Đức Chúa và chỉ thờ phượng một mình Người mà
thôi, là những động lực lôi kéo chúng ta ra khỏi sự ươn lười, thúc đẩy
chúng ta loại bỏ sự ham mê nhục hú, sự hưởng thụ ích kỷ, để chúng ta
dành lại chỗ cho Chúa trong tâm hồn chúng ta.
Dĩ nhiên
việc làm này không phải là dễ dàng, chắc chắn chúng ta cũng gặp nhiều sự
chống đối là tính ươn hèn, sự ích kỷ, lòng tham lam… Thế nhưng, cuộc đời
Kitô hữu luôn được mời gọi chiến đấu để dạt tới cùng đích của đời sống
Kitô hữu chúng ta, chính là sự sống đời đời. Hãy siêng năng chạy đến với
các Bí tích, nhất là Bí tích Hoà giải và Thánh Thể chúng ta sẽ tìm được
năng lực để chiến đấu dành lại chỗ cho Chúa trong cuộc đời chúng ta.
Lạy Chúa,
cám tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con thời gian 40 ngày của Mùa Chay Thánh
này, vì đây là thời gian thuận tiện để chúng con khám phá lại căn tính
đích thật của đời Kitô hữu chúng con, và nhờ đó chúng con hiểu rằng, đời
này chẳng có ý nghĩa gì nếu thiếu vắng Chúa trong cuộc đời, và vì vậy
chúng con luôn nỗ lực giữ Chúa ở lại với chúng con. Amen.
mục lục
Câu
hỏi gợi ý:
1. Đức
Giêsu cũng bị cám dỗ. Điều ấy mạc khải cho ta biết những gì? Bị cám dỗ
có phải là điều gì xấu xa không?
2. Cơn
cám dỗ đưa ta đến một tình thế phải lựa chọn giữa điều tốt và điều xấu,
hoặc giữa hai điều tốt, tốt nhiều và tốt ít. Như thế những dịp bị cám dỗ
giúp chúng ta chứng tỏ điều gì? Cám dỗ là điều tốt hay điều xấu?
Suy tư
gợi ý:
1.
Đã là con người, ai cũng bị cám dỗ:
Nếu không có bài Tin Mừng hôm nay, người ta dễ dàng nghĩ rằng sở dĩ Đức
Giêsu hoàn toàn vô tội là vì Ngài không bị hề cám dỗ. Nhưng đoạn Tin
Mừng này cho thấy chính Đức Giêsu - dù là Con Thiên Chúa, có bản tính
thần linh hoàn toàn trong sạch - cũng bị ma quỷ cám dỗ. Thật là một mạc
khải bất ngờ, đáng ngạc nhiên và rất lý thú, đồng thời cũng là điều an
ủi chúng ta, tạo động lực cho chúng ta thắng những cơn cám dỗ xảy đến.
Đức Giêsu là Thiên Chúa mà cũng bị cám dỗ, nên chúng ta vốn là người
phàm, nếu có bị cám dỗ, dù nặng nề tới đâu, cũng là chuyện dễ hiểu. Điều
đó có nghĩa: đã là con người thì đều bị cám dỗ. Và sự kiện Đức Giêsu bị
cám dỗ chứng tỏ Ngài đích thực là con người y như chúng ta. Kinh Thánh
cho biết Ngài cũng yếu đuối như chúng ta, nhờ vậy Ngài rất thông cảm với
sự yếu đuối cũng như tội lỗi của chúng ta: "Vị Thượng Tế của chúng ta
không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì
Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm
tội" (Dt 4,15). Qua câu Kinh Thánh trên, ta lại được biết rằng tuy bị
cám dỗ như ta, nhưng Ngài khác với ta ở chỗ không hề phạm tội, nghĩa là
Ngài đã luôn luôn thắng mọi cơn cám dỗ, không bao giờ sa ngã.
2.
Tội lỗi là sự chọn lựa SAI giữa hai điều tốt:
Thiên Chúa đã chấp nhận để cho chúng ta - kể cả Đức Giêsu - bị cám dỗ.
Điều đó cho thấy cám dỗ không phải là một điều xấu. Trái lại có thể đó
là một điều cần thiết. Thật vậy, bị cám dỗ là một dịp để ta chứng tỏ
tình yêu của mình đối với Thiên Chúa và tha nhân, và sự vâng phục của ta
đối với Ngài. Vì một người không thể chứng tỏ rằng mình yêu mến, vâng
phục… nếu không hề bị thử thách, nghĩa là chưa có cơ hội để không vâng
lời, không yêu mến. "Lửa thử vàng, gian nan thử người công chính" (Cn
17,3), "Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai?"
(Nguyễn công Trứ).
Khi bị
cám dỗ, có khi ta phải chọn lựa giữa điều tốt và điều xấu. Điều này
thường xảy ra cho người có tâm linh còn non yếu, để họ có dịp chứng tỏ
họ đứng hẳn về phía tốt. Còn những người đã lên tới những bậc thang tâm
linh cao, thì khi bị cám dỗ, họ thường phải lựa chọn giữa hai điều đều
là tốt cả, nhưng lương tâm buộc họ phải chọn điều tốt hơn, để chứng tỏ
sự quyết tâm tiến tới trọn hảo. Chẳng hạn trong cơn cám dỗ đầu tiên của
Đức Giêsu, việc biến đá thành bánh để ăn khi đói chẳng có gì là xấu.
Trái lại, ăn khi đói còn là một điều cần thiết để sống còn. Sớm muộn gì
thì Ngài cũng phải ăn để sống, nhưng có thể lúc đó chưa tới thời hạn ăn
như Ngài đã quyết định từ đầu. Như vậy Ngài phải chọn lựa giữa hai điều
đều là tốt cả: một là thỏa mãn nhu cầu ăn để sống, hai là tự chủ để thực
hiện đúng điều mình đã quyết định từ trước về thời hạn nhịn ăn khi mà
nhịn thêm ít lâu nữa cũng chẳng hại gì. Quyết định nào cũng đều chứng tỏ
lập trường của mình là đã coi trọng cái nào hơn cái nào.
Nhờ có
hai đối tượng phải lựa chọn mà ta chứng tỏ được ta quí đến mức độ nào
cái giá trị mà ta chọn lựa. Nếu phải lựa chọn một viên kim cương khá to
với một lượng vàng, chắc chắn ai cũng chọn viên kim cương, và sự lựa
chọn ấy không chứng tỏ được giá trị đích thực của viên kim cương. Nhưng
nếu phải lựa chọn giữa 100 lượng vàng với viên kim cương, mà ta chọn
viên kim cương, thì chứng tỏ ta đã coi viên kim cương có giá trị hơn số
vàng ấy (đương nhiên có người chọn khác ta). Thiên Chúa cũng muốn ta
chứng tỏ rằng ta coi tình yêu của Ngài giá trị hơn nhà cửa, ruộng vườn,
của cải, thậm chí hơn cả anh em, cha mẹ, vợ con của ta, bằng cách tạo
dịp để ta lựa chọn giữa Ngài và những giá trị ấy. Và đó chính là cám dỗ.
3. Những nhu cầu chính đáng trong những cơn cám dỗ:
Trong ba
cơn cám dỗ của Đức Giêsu, ta thấy những cơn cám dỗ luôn luôn dựa trên
những nhu cầu và giá trị hết sức thực tế và chính đáng của đời sống con
người. Những cơn cám dỗ luôn luôn đặt ta giữa hai loại giá trị: một là
những giá trị hết sức thực tế của đời sống, hai là những giá trị tâm
linh (tình yêu đối với Thiên Chúa, với tha nhân, chân lý, công lý, lý
tưởng, v.v…). Nhờ đó ta có dịp chứng tỏ ta coi trọng giá trị nào hơn.
Sau đây là những nhu cầu thực tế của đời sống được dùng trong những cơn
cám dỗ:
a. Ứng
với cám dỗ thứ nhất của Đức Giêsu là nhu cầu sự sống (sự an toàn bản
thân, ăn uống, tình dục, sự thoải mái, giàu sang): Sự sống là một giá
trị rất lớn Thiên Chúa ban cho ta, ta có nhiệm vụ quí trọng và bảo vệ nó,
nhưng không phải là với bất cứ giá nào. Có những giá trị còn cao hơn sự
sống. Chẳng hạn giữa tình yêu đối với Thiên Chúa và chính sự sống mình,
các thánh tử đạo xưa đã chọn tình yêu Thiên Chúa và sẵn sàng chấp nhận
cái chết. Trong cuộc đấu tranh cho công lý, chống áp bức bất công, những
người đấu tranh như Martin Luther King (Mỹ da đen), ĐGM Oscar Romero
(Salvador), LM Jerzy Popieluszko (Ba Lan)… đã coi công lý, tình yêu đối
với người nghèo, người bị áp bức hơn sự an toàn bản thân, thậm chí hơn
cả mạng sống. Chắc chắn họ cũng rất quí sự sống và sự an toàn bản thân,
nghĩa là cũng sợ chết, sợ bị tra tấn, phiền nhiễu… Nhiều khi họ bị cám
dỗ chọn lựa sự sống, sự an toàn bản thân hơn những giá trị kia. Nhưng
lựa chọn cuối cùng và dứt khoát của họ là công lý xã hội và tình thương
đối với với những kẻ bị áp bức. Ngược lại, ta cũng thấy có biết bao
người vì muốn được an toàn bản thân, muốn bảo vệ nồi cơm hay sự thoải
mái đang có được của mình, của gia đình mình, mà sẵn sàng câm lặng trước
bất công, sẵn sàng đồng lõa hoặc làm tay sai cho những thế lực gây bất
công… Họ đã quí sự sống và nồi cơm, địa vị của họ hơn công lý.
b. Ứng
với cám dỗ thứ hai của của Đức Giêsu là nhu cầu phình to bản ngã (muốn
được nổi danh, được nể phục, được coi là quan trọng, được khen tặng,
được thỏa mãn tự ái và tính kiêu ngạo): Ai cũng cho "cái tôi" của mình
là quan trọng, muốn mình là "cái rốn của vũ trụ", và không muốn bị ai
xúc phạm. Trong một chừng mực nào đó, thì điều đó là tốt, nhờ đó mới
phát sinh lòng tự trọng, giữ uy tín, muốn thăng tiến, v.v… Nhưng vượt
quá chừng mực đó thì trở thành điều xấu. Nói chung, danh thơm tiếng tốt,
uy tín, sĩ diện… đều là những giá trị hết sức cao quí, đến nỗi Nguyễn
công Trứ để phải thốt lên: "Đã mang tiếng ở trong trời đất, phải có danh
gì với núi sông", hoặc "Không công danh thà nát với cỏ cây", "Trót sinh
ra thì phải có chi chi, chẳng lẽ tiêu lưng ba vạn sáu". So với những
loại giá trị bình thường, ta nên coi danh dự, công danh của mình cao hơn.
Vì không coi trọng danh dự, uy tín, ta sẽ bị coi là tiểu nhân. Nhưng vẫn
có những giá trị cao hơn công danh, uy tín… đó là những giá trị tâm linh
như đã nói trên. Nếu để thăng tiến, phát triển bản thân mà ta phải đối
xử thiếu tình người, phải hạ kẻ khác xuống, coi người khác là công cụ,
là bàn đạp, là vật hy sinh cho mình, sẵn sàng "đội trên đạp dưới", thì
có nghĩa là ta đã coi những giá trị ấy cao hơn công lý và tình thương.
Tội lỗi phát sinh từ sự lựa chọn sai trái ấy.
c. Ứng
với cám dỗ thứ ba của của Đức Giêsu là nhu cầu thống trị (thích quyền
lực, thích làm chủ để điều khiển, muốn mọi sự phải xẩy ra theo ý mình):
đây cũng là một nhu cầu rất lớn trong tâm lý con người. Ai cũng thích
người khác chiều ý mình, thích áp đặt ý mình lên người khác. Quyền lực
cũng là một giá trị. Trong xã hội, cần phải có những người có quyền lực,
có quyền ép buộc người khác làm theo lệnh mình. Nhưng quyền lực ấy là để
phục vụ xã hội, để tạo an ninh, trật tự và công lý trong xã hội, làm xã
hội trở nên tốt đẹp hơn. Quyền lực này có thể đạt được một cách chính
đáng bằng tài năng và đức độ của mình nhằm phục vụ xã hội. Nhưng cũng có
thể đạt được bằng những phương tiện không chính đáng nhằm được hưởng
những đặc quyền đặc lợi trong xã hội chứ không phải để phục vụ. Người sử
dụng quyền lực luôn luôn phải lựa chọn giữa hai giá trị: lợi ích cá nhân
và lợi ích tập thể. Nếu hành động vì lợi ích tập thể thì là thánh thiện,
nếu chỉ vì lợi ích cá nhân thì là tội lỗi.
Thiên
Chúa luôn luôn muốn chúng ta đặt nặng tình yêu đối với Thiên Chúa và tha
nhân trên hết mọi sự, mọi giá trị: "Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí
khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn
mọi lễ toàn thiêu và hy lễ" (Mc 12,33). Chúng ta sẽ có dịp chứng tỏ lòng
yêu mến ấy của chúng ta trong những cơn cám dỗ.
CẦU
NGUYỆN
Chúa nói
với tôi: "Những cám dỗ xảy đến với con là do thánh ý của Cha. Cha muốn
con có dịp chứng tỏ tình yêu của con đối với Cha, và đối với những giá
trị tâm linh mà Cha hằng yêu quí, như "Công Lý, Tình Thương và Lòng
Thành Thật" (Mt 23,23). Nếu con yêu mến Cha thật sự, con phải chứng tỏ
được tình yêu ấy trong những cơn thử thách ấy. Sự thành công hay thất
bại trong những cơn cám dỗ ấy giúp con xác định được tình yêu của con
đối với Cha như thế nào, nó giúp con hiểu biết chính con hơn".
Trang Tin
Mừng hôm nay, trong cơn cám dỗ thứ nhất mà ma quỷ đưa ra cho Chúa Giêsu:
"Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì truyền cho những hòn đá này hoá bánh đi!
".
Chước cám
dỗ này nhằm thúc đẩy Chúa Giêsu sử dụng quyền lực Thiên Sai của Người để
mưu cầu lợi ích riêng, hay đúng hơn là để thoát khỏi cảnh hiểm nghèo mà
thân xác phàm trần đang phải gánh chịu.
Đáp lời
lại, Đức Giêsu xác quyết: "Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ
nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra."
Chúa
Giêsu khẳng định cho ma quỷ biết rằng: Ngài đến trần gian này là tuân
theo ý muốn của Chúa Cha, và Ngài không muốn dùng sức mạnh Thiên Sai mà
chiều theo ước muốn của Thân xác, từ đó lại sa vào chước cám dỗ của ma
quỷ. Chúa Giêsu là một Ađam mới, đến trần gian này để mang lại sự sống
đời đời cho con người, khi bị mất đi bởi Ađam cũ đã thất bại trước cám
dỗ của ma quỷ năm xưa nơi vườn địa đàng.
Chúa
Giêsu không dùng sức mạnh của Thiên Sai để chống lại ma quỷ, nhưng dùng
chính sự yếu đuối của thân xác con người chống lại sự cám dỗ của ma quỷ
bằng việc cậy trông vào Thiên Chúa, hơn là cậy dựa vào sức mạnh của bản
thân: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng
Thiên Chúa phán ra."
Ta thấy,
nhờ cậy trông vào Thiên Chúa Cha, Đức Giêsu đã là người chiến thắng. Sự
cám dỗ đầu tiên này của Đức Giêsu, không có lý do nào để nghĩ rằng nó
chỉ có tính cách thiêng liêng mà thôi: Đức Giêsu đã thực sự thấy đói,
trong chính thân xác của phàm nhân, và không phải chỉ trong quá trình
một cuộc ăn chay khắc khổ trong hơn một tháng, Ngài còn bị đau khổ trong
chính những biến cố của cuộc đời Ngài, thậm chí có lúc còn bị nao núng
ngay trong chính thân xác của mình. Cám dỗ đầu tiên là cám dỗ chống lại
sự cậy trông, nhưng Chúa Giêsu đã chiến thắng được bởi Ngài đã và luôn
cậy trông vào Thiên Chúa.
Trong khi
đó, dân Thiên Chúa bị thử thách vì đói và khát, đã sa ngã trong khi lẩm
bẩm kêu trách Chúa (Xh 6,8). Vì thế, câu trả lời của Đức Giêsu luôn luôn
có tính thời sự, và chất vấn chúng ta một cách mạnh mẽ: Trong những lúc
thất vọng, chán chường hay đau khổ ê chề, chúng ta có dựa vào Thiên Chúa
không hay chúng ta dựa vào chính bản thân rồi quay lại trách móc Thiên
Chúa?
Có lẽ,
một cách thực tế, khi gặp thử thách, gian nan và bế tắc, chúng ta sẽ là
những người lồng lộn trước thử thách, trước đau khổ... Câu đầu tiên của
chúng ta khi gặp những điều đó không phải là xin Chúa cho chúng ta sức
mạnh của Ngài để chiến đấu chống lại những đau khổ và thử thách, nhưng
chúng ta lại xin Chúa bỏ đi tất cả những gì gây đau khổ cho chúng ta, sự
xấu mà chúng ta phải chịu. Khi xin không được thì chúng ta sẽ phản
kháng, trách móc Thiên Chúa.
Không ai
trong chúng ta được tránh khỏi hoạn nạn thử thách ở đời. Người tin Chúa
cũng như người không tin đều phải đối diện với hoạn nạn, thử thách, khó
khăn như nhau. Điểm khác biệt là phản ứng của chúng ta trước hoàn cảnh.
Không phải khi tin Chúa chúng ta được miễn trừ khỏi khó khăn, nhưng khi
sống với niềm tin nơi Chúa, chúng ta sẽ biết xử sự hay đối diện với hoàn
cảnh như thế nào cho thích hợp.
Câu
truyện về Gióp có thể được hiểu như một thử thách đối với đức tin. Gióp
là người rất mực trung thành với Thiên Chúa và vì thế Thiên Chúa rất hài
lòng về ông (G 1,1-5).
Thấy vậy,
Satan xin Chúa để nó được phép thử thách ông, xem trong thử thách ông
còn trung thành với Chúa không. Chúa cho phép. Satan được làm hại mọi sự
ông có, nhưng không được đụng tới ông. Satan liền ra tay.
"Vậy một
ngày kia, các con trai con gái ông đang ăn tiệc uống rượu ở nhà người
anh cả của họ, thì một người đưa tin đến nói với ông Gióp: Trong lúc bò
của ông cày ruộng và lừa cái ăn cỏ bên cạnh, dân Sơva đã xông vào cướp
lấy; còn các đầy tớ, chúng dùng gươm giết chết, chỉ có mình tôi thoát
nạn về báo cho ông hay.
Người ấy
còn đang nói thì một người khác về thưa: Lửa của Thiên Chúa từ trới
giáng xuống đã đốt cháy chiên dê và đầy tớ; lửa đã thiêu rụi hết, chỉ có
mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay.
Người này
còn đang nói thì một người khác về thưa: Người Canđê chia thành ba toán
ập vào cướp lấy lạc đà; còn các đầy tớ, chúng dùng gươm giết chết, chỉ
có mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay.
Người ấy
còn đang nói thì một người khác về thưa: Con trai con gái ông đang ăn
tiệc uống rượu trong nhà người anh cả của họ, thì một trận cuồng phong
từ bên kia sa mạc thổi thốc vào bốn góc nhà; nhà sập xuống đè trên đám
trẻ; họ chết hết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay" (G
1,13-19).
Tuy nhiên,
qua mọi thử thách mà Satan bày ra: mất của cải, mất con cái, rồi nỗi đau
thể xác của chính mình:
"Vậy
Satan hành hạ ông Gióp, khiến ông mắc phải chứng ung nhọt ác tính từ bàn
chân cho tới đỉnh đầu. Ông ngồi giữa đống tro, lấy mảnh sành mà gãi" (G
2, 7).
Trong
cảnh khốn cùng đó, không những là người thân xung quanh xỉa xói ông mà
ngay cả chính người vợ của ông cũng quay lại trách móc và xỉa xói ông,
nhưng Gióp vẫn rất mực trung thành với Thiên Chúa và không hề buông lời
trách móc Thiên Chúa: (G 2,10).
Chính vì
niềm tin tưởng và cậy trông vào Thiên Chúa, nên sau cùng Chúa đã thưởng
công cho ông. Chúa khôi phục lại tất cả tài sản cho ông và Chúa tăng gấp
đôi những gì ông có.
Đó chính
là mẫu gương cho niềm tin của chúng ta ngày hôm nay. Liệu rằng trước đau
khổ, chúng ta có giữ được niềm tin và lòng cậy trông vào Thiên Chúa hay
không?
Xa hơn
nữa, chúng ta thấy hình ảnh Chúa Giêsu khi chịu đóng đinh trên cây thập
tự, cũng giống như lời cám dỗ của ma quỷ trong Tin Mừng hôm nay, đó là,
quân lính chế diễu người và nói: “Nếu ông là vua dân Do-thái, ông hãy tự
cứu mình đi” (Lc 23, 37). Rồi một trong hai kẻ phạm tội cũng cám dỗ Chúa:
“Nếu ông là Đấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa” (Lc 23,
39).
Trước
cảnh bị cám dỗ và thách thức nhự vậy, có lẽ nếu Chúa Giêsu sử dụng quyền
năng của Thiên Chúa để thoát khỏi cảnh hiểm nghèo là điều rất dễ dàng,
nhưng Chúa vẫn một niềm cậy trông vào Thiên Chúa Cha: “Lạy Cha, Con phó
linh hồn Con trong tay Cha” (Lc 23, 45).
Đó chính
là mẫu gương của chính Chúa Giêsu cho chúng ta thấy về những thử thách
trong đời sống đức tin. Trong lúc đau đớn, đói khát nhất trên cây thập
giá, Chúa Giêsu vẫn một niềm cậy trông vào Thiên Chúa Cha của Ngài mà
phó hết cả linh hồn và xác trong tay Cha.
Còn chúng
ta ngày hôm nay thì sao? Mỗi người chúng ta rất dễ dàng oán trách Chúa
và buông xuôi tất cả linh hồn và thân xác khi gặp thử thách, gặp đau khổ.
Bước trên
đường đời, mỗi người chúng ta từng ngày trôi qua đều phải gặp những khó
khăn và thử thách cho riêng mình. Chúng ta có vượt qua được không là do
chúng ta có biết cậy trông vào Thiên Chúa hay chúng ta quay trở lại
trách móc Chúa? Có lẽ kinh nghiệm của chúng ta đều đã từng trải qua
những chuyện đó, và mỗi người chúng ta tự xét lại chính mình xem chúng
ta có đang cậy trông vào Thiên Chúa không? Hay chúng ta thường xuyên
trách móc Chúa?
Nhưng
chúng ta hãy tin rằng, trong mọi hoàn cảnh của thử thách Chúa luôn ở bên
cạnh để giúp ta, và Ngài không để chúng ta quá sức chịu đựng nếu chúng
ta biết trông cậy vào Ngài.
Trong lúc
tuyệt vọng nhất, tên trộm lành đã cậy trông vào Chúa nên anh ta đã được
cứu: “Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi” (Lc 23, 42).
Xin Chúa
cho chúng ta luôn biết cậy trông vào Chúa. Amen.
Từ lễ Tro
vừa qua, chúng ta bước vào Mùa Chay để chuẩn bị mừng lễ Phục Sinh. Mùa
Chay kéo dài 40 ngày, tương ứng vời 40 ngày cầu nguyện và chay tịnh của
Đức Giêsu trong sa mạc trước khi Người bắt đầu cuộc đời công khai rao
giảng Tin Mừng. Tại đây, Người chịu quỷ cám dỗ ba lần: hóa đá thành
bánh, làm phép lạ phi thường, cho mình là vua thiên hạ
Dân Do
thái mong chờ Đấng Mêsia thực hiện những điều đó. Họ muốn Người cung cấp
cho họ mọi nhu cầu vật chất, làm những điều kỳ diệu và bành trướng quyền
thế của Người trên khắp địa cầu. Nhưng Đức Giêsu không làm như thế.
Người chỉ thi hành ý muốn của Thiên Chúa Cha.
Trong
hoang địa cũng như nhiều lần khác mà Tin Mừng đã kể lại, Đức Giêsu chống
trả những cơn cám dỗ. Thí dụ: sau khi Người làm phép lạ hóa bánh ra
nhiều, dân chúng muốn tôn Người làm vua, nhưng Người lánh mặt, lên núi
một mình (Ga 6:15); nhưng người Pharisêu muốn Người cho một dấu lạ từ
trời (Mt 16:1); Người bị cám dỗ không đi Giêrusalem vì biết sẽ phải chịu
nhiều đau khổ và bị giết. Chính ông Phêrô ngăn cản Người thực hiện điều
đó và bị Người khiển trách: "Sa tan, lui lại đàng sau Thầy!" (Mt 16:
21-23). Tại vườn Ghếsêmani, Đức Giêsu bị cám dỗ nặng nề: "Cha ơi, nếu
được, xin cho chén này rời khỏi con..." (Mt 26:39). Và trên thập giá,
Người bị nhục mạ: "Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình. Hắn là
vua Israel! Bây giờ hắn cứ xuống khỏi thập giá đi, thì chúng ta tin hắn
liền!" (Mt 27:42)
Đức Giêsu
đã thật sự bị cám dỗ, nhưng Người luôn trung thành với Chúa Cha và với
sứ vụ mà Cha Người giao phó. Vào đầu Mùa Chay, Tin Mừng muốn chúng ta
noi theo Đức Giêsu chống trả và chiến thắng những cơn cám dỗ này:
1/
Cám dỗ về cơm bánh hằng ngày hoặc cám dỗ về nhu cầu vật chất.
Con người
cần phải ăn uống và cần phải có những nhu cầu vật chất tối thiểu để sống.
Điều đó rất tốt. Nhưng chúng ta thường bị cám dỗ chỉ sống dựa vào những
nhu cầu vật chất của thân xác mà thôi. Nhiều khi chúng ta lo kiếm ăn đến
nỗi không còn nghĩa đến việc tìm kiếm những giá trị tinh thần và đạo đức
nữa, không còn giờ để đọc kinh, cầu nguyện, suy gẫm Lời Chúa, ngay cả
việc tham dự thánh lễ Chúa nhật!
Trong mùa
Chay này, chúng ta hãy suy gẫm Lời Chúa: "Người ta không chỉ sống nhờ
cơm bánh"
2/
Cám dỗ về sự thành công
Thành
công trong cuộc sống là một điều rất tốt và phải làm. Nhưng chúng ta
thường bị cám dỗ chỉ sống để thành công, muốn thành công với bất cứ giá
nào, mặc dầu phải làm những chuyện không tốt như lừa dối, chà đạp người
khác...; thành công để vênh vang, tự đắc, để giữ thể diện và thỏa mãn tự
ái của mình
Ngay ngày
đầu của Mùa Chay, Đức Giêsu mời gọi: "Khi làm việc lành phúc đức, chớ có
phô trương cho thiên hạ thấy... đừng cho tay trái biết việc tay phải
làm... Khi cầu nguyện, anh em đừng làm như bọn giả hình... Thiên Chúa
thấu suốt những gì kín đáo" (Mt 6:1-6)
3/
Cám dỗ về quyền hành hoặc tham vọng thống trị.
Mỗi người
trong chúng ta đều có một trách nhiệm, một quyền hành nào đó mặc dù là
khiêm tốn. Có quyền hành, có trách nhiệm là để phục vụ và bênh vực công
lý. Nhưng chúng ta thường bị cám dỗ là lẫn lộn giữa quyền hành và lòng
tham vọng thống trị. Nếu những nhà lãnh đạo các quốc gia đều có tinh
thần phục vụ dân chúng, thì bộ mặt thế giới sẽ khác hẳn!
Trong Mùa
Chay này, chúng ta hãy kiểm điểm lại tinh thần trách nhiệm và phục vụ
của mình trong gia đình, trong nhóm, trong cộng đoàn...
Những cơn
cám dỗ mà Đức Giêsu chịu trong sa mạc cũng là những cơn cám dỗ của mỗi
người chúng ta về vật chất, hào nhoáng bên ngoài và quyền hành. Đức
Giêsu đã chiến thắng. Người cũng muốn chúng ta tham dự vào chiến thắng
của Người bằng cách bước theo đường của Người và noi gương Người. Đó là
mục đích của mùa Chay.
Kính chúc
mọi người chúng ta sống Mùa chay thánh thiện và đón nhận nhiều hồng ân
của Chúa.
“Ngươi
phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một
mình người mà thôi.” Câu trả lời cuối cùng rất dứt khoát của đức Giêsu
đã khiến cho quỷ Satan phải chào thua bỏ đi.
Satan đã
dùng nhiều cám dỗ để thử thách Đức Giêsu, tuy chúng được biểu lộ qua
nhiều hình thái và hành động khác nhau, nhưng kết cuộc lại đều dẫn đến
một lập trường: trở thành đồng minh của nó! Cạm bẫy càng tinh vi, nghĩa
là càng khéo léo che đậy thì càng dễ bắt được con mồi hơn. Chúng ta đều
quen với câu “Ngọt mật chết ruồi!” Tự bản chất mật đâu phải là thuốc độc,
mà tại sao con ruồi phải bị chết?”
Tuyệt
nhiên trong những mưu chước Satan đưa ra hòng dụ dỗ đức Giêsu, không hề
đá động gì đến việc chống đối Thiên Chúa, nhưng chỉ giục Ngài làm theo ý
riêng của mình. Satan không ngây ngô để lộ tâm địa hiểm độc của nó ngay
từ đầu, nhưng trái lại sẵn sàng cung cấp miễn phí những thứ gì con người
chúng ta vẫn ưa thích, xem ra có vẻ hoàn toàn vô hại, các việc biến đá
thành bánh, nhảy từ nóc đền thờ hay làm chủ hết vinh hoa lợi lộc thế
gian nào có chi là xấu đâu! Cũng giống như hiện tại chúng ta lo lắng làm
giàu hay muốn được nhiều danh vọng, sao có thể cho là xấu được?
Nhưng nó
luôn rình rập lúc họ thỏa thích, say men chiến thắng và mất cảnh giác.
Bấy giờ Satan mới tóm được con người dễ dàng như con ruồi đang say mật!
Những
hình ảnh đức Giêsu bị cám dỗ trong Tin Mừng đầu Chúa Nhật đầu Mùa Chay
thánh nhắc nhở mỗi người hãy luôn đề cao cảnh giác, không nhân nhượng ma
quỷ một chút xíu nào cả. Vì một khi chúng ta nhân nhượng với chúng một
bước, nghĩa là chúng ta đang bỏ ngỏ và cho chúng quyền tự do lui tới nhà
mình. Làm sao chúng ta còn có thể tống khứ chúng ra sau này?
"Lửa thử
vàng, gian nan thử đức". Có qua cám dỗ mới biết được ai là người thánh
thiện, ai là kẻ đê hèn. Waterstone có viết: "Đầu hàng cám dỗ là hành
động của thú tính, chiến thắng nó mới là con người".
Cám dỗ
chưa phải là xấu. Nó có thể giúp người ta trở nên tốt hơn. Cám dỗ không
phải là tội. Nó sẽ giúp thấy rõ hơn sự thánh thiện nơi một con người.
Cám dỗ cũng không phải là hình phạt, song nó sẽ là triều thiên vinh
quang cho những ai chiến thắng (W. Barclay).
Bị cám dỗ
cũng có nghĩa là đứng trước một lựa chọn: tốt hay xấu, chiến đấu hay đầu
hàng, theo ý Chúa hay thuận ý Satan.
Bậc anh
hùng là người nếm chiến thắng và cái giá phải trả cho cuộc chiến. Chẳng
ai trao huy chương cho kẻ bỏ cuộc, nhưng là con người đã can đảm chống
lại kẻ thù.
Trong
cuộc sống, chẳng ai tránh được cám dỗ. Chính Đức Giêsu còn bị cám dỗ,
tức phải làm những cuộc chọn lựa và quyết định trong đời, huống hồ là
tôi. Nơi con người, ai cũng có các động lực vị kỷ, thiển cận, ngại khó,
thích nhàn, thúc đẩy một chọn lựa sai lạc mà kết quả là nỗi niềm bất
hạnh. Adong và Evà đã nếm mùi xấu hổ, khổ đau, và chết chóc vì đã chọn
lựa sai lầm. Bởi chọn theo ma quỷ, chống lại luật Chúa, tôn thờ cái tôi
mà thương đau đã lan tràn đến khắp nhân loại.
Thế
nhưng, "nếu bởi sự sa ngã của một người mà nhiều người phải chết... và
do sự bất tuân của một người mà nhiều người bị liệt hàng tội nhân, thì
cũng nhờ sự vâng phục của một người (Đức Giêsu Kitô) mà nhiều người sẽ
được liệt hàng công chính" (Rm 5:12-19).
Chính Đức
Giêsu, qua các cơn cám dỗ trong sa mạc, đã khẳng định nguồn ơn cứu thoát
cho nhân loại bằng việc lấy chính Lời Chúa làm ánh sáng soi dẫn đường
đi, lấy việc tùng phục thánh ý Thiên Chúa để thánh hóa con người trở nên
"người" hơn, và lấy việc tôn thờ Thiên Chúa trên mọi tạo vật như giá trị
tuyệt đối và hạnh phúc chân thực của cuộc đời.
Mỗi một
ngày sống trên trần gian, tôi sẽ phải không ngừng chọn lựa. Một chọn lựa
ngay chính sẽ giúp cho việc chọn lựa ngay chính kế tiếp của tôi dễ dàng
hơn. Trái lại, một sự nhu nhược đầu hàng cũng dễ kéo theo những đầu hàng
nhu nhược tiếp theo. Và rồi tôi sẽ khó tránh khỏi tình trạng "cây xiêu
bên nào sẽ đổ về bên đó".
Không
phải là "thánh" nghĩa là không bị cám dỗ tấn công. Đức Giêsu là Đấng
Thánh, ấy thế mà Ngài cũng phải trải qua kinh nghiệm của xung khắc giữa
sự lành và sự ác. Thư Do thái ghi nhận rõ ràng: "Không phải Ngài là
người không thể cảm thông với nỗi yếu hèn của chúng ta, song là Đấng đã
dãi dầu bao cơn thử thách, đủ điều như chúng ta" (Dt 4:15). Và thái độ
chọn lựa của Ngài đã làm nên hy vọng lớn lao cho con người mong manh của
tôi. Ấy là "nếu tôi cùng chết với Ngài, tôi sẽ cùng Ngài phục sinh; nếu
tôi chịu khổ với Ngài, tôi sẽ cùng Ngài thống trị" (1 Tim 2: 11-12).
Đứng
trước những lời mời gọi ngọt ngào của thế gian và bao hấp lực quay cuồng
của xác thịt, sự từ khước hay vượt thoát nào cũng hàm ngậm một cân lượng
khổ đau, nếu không nói là "chết" trong lòng ít nhiều. Bất cứ sự thắng
vượt gian dối, điêu ngoa, dục tình, tức giận, ích kỷ, kiêu căng, hay ươn
lười nào cũng đòi hỏi một cuộc chiến gay go, lắm khi phải rướm máu con
tim chứ chẳng chơi.
Thế
nhưng, cần phải chiến đấu để có thể chiến thắng! Cho dù thử thách và cám
dỗ nặng nề đến đâu tôi vẫn xác tín như Thánh Phaolô: "Thiên Chúa trung
tín sẽ không để con người bị cám dỗ quá sức. Trái lại, cùng với cám dỗ
Ngài sẽ chừa cho lối thoát để có thể chịu đựng nổi" (1 Cor 10:13).
Sự "chịu
đựng" đến khi chiến thắng chỉ có thể đạt tới nhờ liên kết chân thành với
Thiên Chúa. Không gì tạo nên gắn bó cho bằng cầu nguyện. Chính nhờ cầu
nguyện mà Chúa Giêsu đã có sức mạnh chịu đựng và chiến thắng tên Cám Dỗ
ngay từ phút đầu.
Bước vào
hành trình mùa Chay, tôi được kêu mời tu chỉnh lại đời sống cầu nguyện,
để nhờ đó sức mạnh của Đức Kitô luôn ở trong tôi, giúp tôi can đảm chọn
lựa những gì thuộc về Thiên Chúa, vững bước vượt bao chông gai trong đời,
tiến đến đích cùng của bình an và hạnh phúc chân thật.
mục lục
Tại sao
chúng ta lại cần đến Mùa Chay, khởi sự bằng thứ tư Lễ Tro? Thứ nghi thức
rắc bụi lên đầu vừa bẩn vừa chẳng giống ai? Tro bếp đâu có sạch sẽ gì,
nó bám vào đầu tóc, rơi xuống cổ, xuống áo coi thật kỳ quặc. Những người
ăn vận lịch sự vội đưa tay phủi cho sạch, nhưng ở trên da thịt thì vết
bẩn dính lâu hơn, phải cần đến tắm rửa. Tuy nhiên, đối với các tín hữu
sùng mộ nó lại là một biểu hiện đạo đức, nhắc nhở chúng ta về tính chất
mỏng dòn của cuộc sống: “Con hãy nhớ con là bụi tro và con sẽ trở về với
bụi tro” (St 4,19). Thực tế là như vậy. Chúng ta lúc nào cũng phải đối
diện với cái chết. Chúng ta được cha mẹ sinh ra và rồi sẽ có ngày tận số.
Chẳng làm thế nào tránh khỏi kiếp phù du. Bao nhiêu vua chúa, nhiều tiền
lắm bạc, đã cố tìm cho ra phương thuốc trường sinh, nhưng đều thất bại
thê thảm. Hàng ngày thiên hạ đo lường thành công, thất bại, quyền lực,
tiền tài, thống trị đều nhận ra chúng có giới hạn. Cuối cùng thì thần
chết xuất hiện cướp đi tất cả, chẳng trừ một ai, một dự phóng nào. Sau
chút ít thời gian thương nhớ tên tuổi cũng bị xoá sạch. Đúng là một suy
tư yếm thế cho chúa nhật này phải không thưa quý vị?
Dầu vậy
chúng ta phải chấp nhận chân lý về thân phận mình, để sống cho đúng ý
nghĩa. Nói cách khác, sống cuộc sống thật của thân phận làm người, chẳng
ảo tưởng, không bi quan. Sách Sáng thế hôm nay nhắc nhớ rằng nếu chúng
ta nhận biết mình là bụi đất, thì có thể tin cậy vào Đấng Tối Cao đã ban
hơi thở cho mình: “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con
người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật.” Hơi
thở này vĩnh cửu bởi nó phát xuất từ Thiên Chúa vĩnh hằng. Nó chính là
linh hồn chúng ta, hướng dẫn chúng ta tới Thiên Chúa, nguồn gốc của mình.
Vì vậy khi nghe theo tiếng gọi của nó, chúng ta đi trên đường lối Ngài.
Nhưng bất hạnh thay thực tế không được như vậy. Cho nên Mùa Chay là cơ
hội thuận tiện để mọi người điều chỉnh lương tâm, tiến hành cải cách nếp
sống. Đó là câu trả lời chính xác cho nhu cầu Mùa Chay của chúng ta.
Những ai nói mình không cần Mùa Chay thì quả thực đã nói dối với chính
bản thân. Không thành thực với mình, thử hỏi thành thực được với ai?
Tình huống này xưa nay không thiếu nơi giáo dân, linh mục, tu sĩ.
Phúc âm
nhắc nhở chúng ta trong suốt Mùa Chay, tuy phải nhìn vào sự chết hoặc
thử thách bất cứ thuộc loại nào đe dọa tinh thần theo ơn Thiên Chúa gọi,
thì không bao giờ nên sợ hãi, bởi vì chính Chúa Giêsu cũng đã bước vào
kinh nghiệm của chúng ta trong ba cơn cám dỗ nặng nề. Cuối cùng Ngài đã
chiến thắng vinh hiển, Ngài đã đi trước Hội Thánh vào hoang địa thử
thách. Nó kéo dài suốt cuộc sống của Ngài, chứ không một vài giây phút:
“Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi, chờ cơ hội khác”
(Lc 4,13). Cho nên chúng ta chẳng thể mơ mộng được cơ hội an bình, bao
lâu còn sống trên cõi đời. Mùa Chay của chúng ta là Mùa Chay của Chúa
Giêsu kéo dài mãi trong mỗi sinh linh. Chính Ngài cầu nguyện, chính Ngài
chịu thử thách, chính Ngài chịu đựng khổ chế trong con người chúng ta.
Vì thế những ai dung dưỡng xác thịt quả là đã phản bội Chúa Giêsu một
cách trắng trợn. Chúng ta chẳng có thể tự phong là đạo đức bao lâu còn
chạy theo những tiện nghi thế gian. Trước mắt, nó không có dáng vẻ nguy
hiểm, nhưng về lâu về dài nó là một loại thuốc độc ngấm dần. Muốn thoát
khỏi phải nhìn vào Chúa Giêsu như mẫu mực đường lối của Thiên Chúa. Ngài
sẽ giúp chúng ta vượt hoang địa thử thách giống như dân Do-thái vượt sa
mạc Sinai. Chúng ta không nên sợ hãi, chúng ta không chịu cam go một
mình. Ở bàn tiệc Thánh Thể hôm nay Chúa Giêsu nuôi dưỡng mỗi linh hồn
bằng bánh manna hoang địa, là chính Mình Máu Thánh Ngài. Dù rằng suốt
Mùa Chay, tư tưởng chúng ta hướng về hãm mình đền tội, nhưng tâm hồn
luôn cảm thấy được an ủi. Bởi lẽ luôn có hy vọng Chúa Giêsu nhìn qua
những tối tăm ấy mà trông thấy thành tâm sám hối. Ngài sẽ giơ tay cứu
vớt giống như Thiên Chúa đã giải phóng Israel khỏi lầm lạc mà đưa về đất
hứa.
Tác giả
John Kavanagh (Dòng Tên) nói rằng Mùa Chay của chúng ta là mùa tự lượng
định mình. Tức thời gian để chúng ta suy nghĩ về bản thân và ngoại vật,
ý thức rõ hơn về các giới hạn của mình, về các nhu cầu vật chất và tâm
linh, cuối cùng về sự chết. Đó là thời gian để nhắc nhở cuộc sống mỗi
người cần phải được ơn thánh biến đổi. Và qua Đức Ki-tô, Thiên Chúa lại
thở hơi ban sự sống cho chúng ta. Bởi vì bụi đất là nguồn gốc nhưng
Thiên Chúa mới là định mệnh. Chúng ta không thể nào có bình an nếu không
đạt tới cùng đích của mình. Vậy thì 40 ngày trước mắt là để lựa chọn
những đường lối phải theo để đi tới Thiên Chúa. Có người gọi nó là hội
tụ tiêu điểm, giống như chúng ta đi đo mắt. Một bảng chữ từ to tới nhỏ
đặt trước mặt. Người y sĩ thay đổi lăng kính, luôn mồm hỏi: “Đã rõ chưa?
Thử cặp kiếng này xem tỏ hơn không?” Cũng vậy 40 ngày tới chúng ta có cơ
hội thay đổi nếp sống để hành động chính xác hơn, lành mạnh hơn. Thánh
Kinh sẽ là tiêu chuẩn để chúng ta điều chỉnh. Chẳng ai nghĩ mình đã hư
hỏng hoàn toàn: Chúng ta còn lương tâm kinh sợ Chúa, nhưng sai lầm về
nhiều điều. Cho nên Kinh thánh ví như một lăng kính tốt, giúp chúng ta
nhìn xem sự vật một cách sáng tỏ. Nhiệm vụ của Mùa Chay này là như vậy.
Chúng ta lắng tai nghe đọc lời Chúa, ghi tạc vào lòng và bắt đầu sửa
chữa những sai lầm. Quỷ dữ đã thử thách Chúa Giêsu ở ba địa điểm khác
nhau: sa mạc, nóc đền thờ và đỉnh núi rất cao. Về các lãnh vực xem ra
rất bình thường của cuộc sống con người: bánh ăn, kiêu căng và quyền
bính. Nó dùng lời Kinh thánh mà cám dỗ Ngài. Đây đúng là những đòn chí
tử, bởi chúng ta cũng thường bẻ cong lời Thiên Chúa để biện minh cho
hành động sai trái của mình. Đức Ki-tô đã toàn thắng “tên cám dỗ” (tentator)
cũng bằng sức mạnh lời Thiên Chúa. Ngài đang ở trong Mùa Chay thiên sai
để chuẩn bị thi hành sứ mệnh. Mùa Chay cần thiết giúp Ngài đủ khả năng
thực hiện thánh ý Đức Chúa Trời. Ngài từ bỏ bản thân bằng cách chối bỏ
bánh ăn. Ngài cư xử khiêm nhường không tự phụ kiêu căng. Ngài hoàn toàn
vâng phục quyền bính Đức Chúa Trời. Tóm lại, Ngài thực hành khổ chế
nghiêm ngặt, cầu nguyện và chiêm niệm lời Thiên Chúa liên lỉ. Bài học
cho mọi tín hữu dấn thân trên cánh đồng truyền giáo. Không có những sinh
hoạt như Chúa Giêsu, chúng ta chẳng thể truyền giáo hiệu quả dù tích cực
đến mấy đi nữa. Xin ghi nhớ lời Chúa: “Người ta sống không nguyên bởi
bánh, mà còn bởi mọi lời Thiên Chúa phán ra”. Chính Thiên Chúa sẽ thổi
hơi thở của Ngài để chúng ta được sức sống mới qua Ngôi Lời ban sinh khí.
Các cầu
thủ bóng chày bắt đầu tập tành từ mùa này. Họ cần thời gian để rèn luyện
thân thể, sẵn sàng cho mùa thi đấu sắp tới. Nếu không sẽ gặp thất bại
thê thảm. Tập luyện tốt sẽ cho họ khả năng chiến thắng giải quốc gia, có
thể cả giải quốc tế. Giống như họ, năm này qua năm khác, chúng ta cần
đến Mùa Chay để tinh thần được rèn luyện và đổi mới. Chúng ta cần tập
trung tư tưởng, nghị lực để thăng tiến những cam kết khi lãnh bí tích
thanh tẩy, từ bỏ satan và các cám dỗ của nó, trung thành với Chúa Ki-tô
và sứ vụ của Ngài. Chúng ta nhận ra tình trạng tội lỗi của lương tâm
mình và tính ù lì trong cách đáp trả lời mời gọi của Chúa Giêsu. Nhưng
hơn hết, nhìn lên Đấng Cứu Thế đầy lòng thương xót, cầu khẩn Ngài giúp
đỡ mình thoát khỏi nếp sống bê tha.
Tiến
trình cải hóa Mùa Chay vừa mang tính cộng đoàn, vừa là việc của cá nhân.
Nguyên cộng đoàn hay cá nhân thôi không đủ. Bởi lẽ, tội lỗi bao trùm
toàn thể loài người sinh ra trên trái đất. Cụ thể trong buổi thờ phượng
này chúng ta được mời gọi lắng nghe và hành động dựa trên lời Chúa. Khi
cử hành như vậy chúng ta mặc nhiên đoàn kết với nhau thành một gia đình,
lắng nghe câu truyện của nhau và xác định đây là nơi chúng ta tin tưởng
và sinh sống nhờ ơn thánh Chúa. Chúng ta gắn bó với các đồng đạo khác
trong đức tin và công việc bác ái, để triều đại Thiên Chúa mau ngự đến.
Trong Mùa Chay này, mọi người sẽ luyện tập thói quen chăm chú nghe lời
Thiên Chúa hơn, thực hành điều Ngài dạy bảo và sửa soạn tâm hồn bằng các
buổi phụng vụ sốt sắng, năng lãnh nhận các bí tích, thăm viếng kẻ đau
ốm, nghèo đói, ở tù. Thiên Chúa rộng rãi hơn lòng chúng ta, sẽ đáp ứng
lại bằng những ơn lành mà chúng ta cần thiếu. Ngài sẽ chỉ rõ những lỗi
lầm quá khứ, tố giác các tội lỗi và tỏ bày lòng xót thương. Như vậy,
thay vì là mùa ảm đạm thì chay tịnh lại là hồng ân cao cả giúp chúng ta
ý thức sâu xa hơn thân phận của mình và ơn cứu rỗi Chúa ban.
Do ảnh
hưởng của bài đọc I, xưa nay người ta vẫn thường đổ lỗi cho Evà về tội
nguyên tổ, và mường tượng bà như một phụ nữ cám dỗ, gây nên cái chết cho
toàn thể nhân loại. Thực ra, nó là tội của bản tính loài người. Thiên
Chúa ban ơn thánh không chỉ riêng cho bà mà cho toàn thể nhân loại. Cho
nên câu truyện ông bà sa ngã là câu truyện chung, không riêng một mình
ai. Trong sách Sáng thế, chúng ta được nghe sự thật về loài người quay
mặt khỏi Thiên Chúa, trong đó chúng ta có phần trách nhiệm. Cũng trong
sách Sáng thế, Thiên Chúa trực tiếp dựng nên nhân loại: “Đức Chúa là
Thiên Chúa lấy bụi đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và
con người trở nên một sinh vật” (2,7). Ngài còn trồng một vườn cây tươi
tốt cho họ hưởng dùng. Rõ ràng họ được Thiên Chúa ưu ái đặc biệt. Nhưng
con người đâu có cảm nghiệm được tình yêu ấy. Họ đã ngoảnh mặt đi và
phạm tội. Truyện còn kéo dài cho tới mãi ngày nay. Cho nên không cần
phải nói với ai về tội lụy. Nó là sự thật tự sáng tỏ, chẳng cần chứng
minh. Hậu quả của nó trên toàn thể xã hội, trên từng cá nhân thật khủng
khiếp, mặc dầu vườn địa đàng của Thiên Chúa vẫn còn đấy, tức thế giới
này. Chúng ta không thể đổ lỗi cho Adam, Evà về những điều họ làm khi
xưa, nhưng phải nhận trách nhiệm trong thời đại hiện nay, những lựa chọn
ngu xuẩn mà chúng ta đã thực hiện, “Quỷ dữ đã xui khiến con làm điều đó”
là lời chạy tội ngớ ngẩn chúng ta thường đưa ra để bào chữa các sai trái
của mình. Giống như Adam, Evà, chúng ta có những bức tường giả dối chống
lại sự tấn công của tội lỗi, danh vọng hão và hứa hẹn suông.
Cảm tạ
Thiên Chúa, chúng ta không đứng một mình trong Mùa Chay này. Tin Mừng
hôm nay, qua chiến thắng của Chúa trên các thử thách, cho chúng ta hay
rằng, Chúa Giêsu quyền năng hơn tội lỗi và Satan. Với Ngài chúng ta có
thể vượt qua mọi trở ngại mà tự thân chẳng thể thực hiện. Ngài đã tỏ
quyền năng chống lại cám dỗ ích kỷ lo liệu bánh ăn cho riêng mình bằng
cách nhân bánh lên nhiều nuôi một lần năm ngàn người ăn, lần khác bốn
ngàn. Ngài chống lại việc làm dấu lạ để lôi cuốn đám đông bằng cách
trông đợi Thiên Chúa cung cấp lương thực cần thiết hàng ngày. Ngài từ
chối một cuộc sống dễ dãi không đau khổ, không lao động khi trông chờ
Thiên Chúa sai thiên thần thần bảo vệ mình. Ngay cả lúc rơi vào tay kẻ
thù ghen ghét, từ chối sứ điệp của mình, Đức Kitô vẫn không hề nghi ngờ
tình mến yêu của Thiên Chúa. Còn chúng ta? Thái độ ra sao khi gặp gian
nan khốn khó? Đứng vững trong đức tin hay kêu ca trách móc? Kiên nhẫn
chờ đợi Chúa trợ giúp hay nản lòng thối chí? Xin hãy nhìn lên Đức Ki-tô
chịu đóng đinh để nhận ra gương mẫu cho cuộc sống như người tín hữu. Đức
Ki-tô với tất cả quyền năng vô biên có thể chiếm hữu thế giới trong vinh
quang hiển hách, nhiên hậu lôi kéo người ta đến với mình, chấp nhận giáo
lý của mình và như vậy dễ dàng cứu chuộc họ. Nhưng ngài chỉ nhìn lên
Thiên Chúa, đón nhận thánh ý Thiên Chúa và kiên trung ‘trong ơn gọi
người tôi tớ Gia-vê, chứ không hề mơ tưởng làm hoàng đế thượng vị thống
trị thế gian như các vua chúa khác. Do đó qua sức mạnh thần linh của
Ngài chúng ta phân biệt được lành dữ, tốt xấu, cái gì chóng qua, cái gì
bền lâu muôn đời.
Thánh
Phao-lô trong bài đọc 2 hết lời khuyên nhủ các tín hữu thành Roma liên
kết với Đức Ki-tô trong ơn thánh, trong sự vâng lời Thiên Chúa để được
cứu rỗi. Đó là điều Giáo hội mong muốn chúng ta thực hiện trong mùa chay
này: “Thật vậy, nếu vì một người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải
chết, thì ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giêsu
Ki-tô, còn dồi dào biết mấy cho muôn người.” Chúng ta liên luỵ với tội
lỗi của Ađam, Evà thì nhờ sức mạnh Chúa Giêsu, lướt thắng được mọi thử
thách của cuộc đời mà thông phần vào vinh quang của Ngài. Cho nên sự lan
tràn của tội lỗi không làm chúng ta thất vọng, trái lại nó là lời kêu
gọi khẩn thiết lòng thương xót của Thiên Chúa. Trước cái “dữ” của tội
lỗi chúng ta ‘nhìn lên Thiên Chúa và chắc chắn sẽ được Ngài xót thương,
chính Đức Ki-tô là bảo chứng cho niềm xác tín ấy. Vậy chúng ta hãy chạy
đến bàn thờ thánh thể, ý thức lòng khao khát sâu xa Thiên Chúa của mình.
Ngài sẽ ban cho chúng ta sự sống của Đức Ki-tô làm sức mạnh và Thánh
Thần làm Đấng hướng dẫn trong cuộc chiến đấu Mùa Chay đặc biệt này.
Amen.
Thưa quý vị.
Trong cuộc
rửa tội vừa qua, tôi có bổn phận hỏi cha mẹ đứa trẻ và những người đỡ
đầu các câu hỏi theo nghi thức: "Anh chị em có từ bỏ ma quỷ và những
sang trọng của nó không?" Mọi người đồng thanh thưa: "Chúng con từ bỏ."
Thực ra, chúng tôi đã tập dượt kỹ lưỡng rồi. Và tôi hy vọng họ thành tâm
chứ không chỉ máy móc, làm theo quy định sách vở. Một tháng nữa, vào đêm
vọng Phục Sinh, mọi người tín hữu đều sẽ có dịp lặp lại công thức thánh
tẩy tương tự như vậy. Tôi cầu mong chúng ta sẽ thành thật trong lời
tuyên xưng của mình. Tuy nhiên chẳng dễ gì để chúng ta nhận ra bộ mặt
của ma quỷ và các việc làm của nó trong cuộc sống đời thường! nó mặc
nhiều hình thức dối trá đến nỗi chúng ta dễ dàng lẫn lộn đen trắng, xấu
tốt.
Các cám dỗ
của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay cũng vậy. Đang đói lả mà tìm bánh
ăn, đâu có gì là xấu? tốt lắm chứ, nhất là lại có bánh dễ dàng, nhanh
chóng! Ba cám dỗ nói chung xem ra hợp lý, dễ chấp nhận đối với hoàn cảnh
của Chúa Giêsu và của chúng ta ngày nay.
Đúng thế,
nếu đọc qua một lần thì chẳng thấy chi là vô luân trong cả ba cơn cám
dỗ. Đối với nhiều người, thì chúng chỉ là truyện bình thường, chẳng thể
được gọi là cám dỗ. Bánh ăn, danh vọng, lợi lộc hàng ngày ai mà không
tìm kiếm? Chúng là những khao khát bình thường của các con tim bình
thường để sống cuộc đời bình thường. Nhưng Tin Mừng nhìn chúng như những
mối nguy hiểm, cực kỳ nguy hiểm. Bởi mục tiêu của chúng là dụ dỗ loài
người chọn đi trên những con đường xác thịt, chứ không phải tuân theo ý
muốn của Thiên Chúa. Trong trường hợp Chúa Giêsu, chúng dụ dỗ Ngài xa
lánh sứ mệnh để đi con đường dễ dãi hơn. Satan cố gắng lừa Chúa Giêsu
vào cái bẫy giống như hắn đã lừa Ađam và Evà: Kiêu ngạo. Nhưng bằng một
phương pháp tế nhị hơn nhiều. Nó muốn lôi kéo Chúa Giêsu về phe với nó
thi hành mọi sự theo đường lối của nó chứ không phải đường lối của Thiên
Chúa.
Ngày nay
cũng vậy thôi, các tín hữu, nhất là linh mục, tu sĩ, hành động rất xa lạ
với đường lối Chúa chỉ dạy mà cứ tưởng thuận theo ý Ngài. Họ hợp lý hóa
tham sân si của mình mà cứ ngỡ đó là ý Chúa. Họ thực hành ý riêng của họ
chứ đâu phải ý Chúa. Ý Chúa là con đường hẹp chứ đâu phải là xa lộ 8 lằn
ranh? Rượu chè, hút sái, say sưa, các tiện nghi văn minh tân thời,… với
trăm nghìn lý do "chính đáng". Các cơn cám dỗ của Chúa Giêsu chẳng phải
một lúc mà chấm dứt. Nó kéo dài suốt đời công khai của Ngài cho đến khi
Ngài có thể hô lên: "Mọi sự đã hoàn tất" (Ga 19, 30). Nó luôn luôn ở bên
cạnh để Ngài lựa chọn. Nó cũng luôn luôn hiện diện để chúng ta bước đi
trong quá trình sống của mình: Đường lối Thiên Chúa hay đường lối của
Hỏa ngục? Thật dễ sợ!
Nó khởi sự:
"Nếu ông là con Thiên Chúa…" Con Thiên Chúa trong ý nghĩa Do thái có thể
là một thiên thần, một vị thần linh, là chính dân Israel hay một vị lãnh
đạo nổi tiếng nào đó, như vua chúa, quan quyền. Nó còn có nghĩa là
"Giống như Thiên Chúa", chẳng hạn ai đó có quan hệ đặc biệt với Gia vê.
Quan hệ cha - con, liên kết bằng tình yêu mến và vâng lời. Người đó hoàn
toàn lệ thuộc và tín thác vào Thiên Chúa ban cho mình của ăn áo mặc cùng
các nhu cầu khác của cuộc sống. Như vậy, đối với quỷ sứ gọi Chúa Giêsu
là "Con Thiên Chúa" đồng nghĩa với việc đặt Ngài vào tình huống tự tôn,
và thách thức tương giao của Ngài với Thiên Chúa. Ngài có quyền năng ra
sao là hệ tại tương giao đó, tình huống đó. Quỷ sứ đang thử thách lòng
tin cậy của Chúa Giêsu vào Cha Ngài: Liệu Chúa Giêsu có lợi dụng chỗ
đứng duy nhất của Ngài trước Thượng đế mà thực hiện một phép lạ nuôi
sống bản thân? Tại sao người được Thiên Chúa dấu yêu lại phải chịu đựng
đói khát? Tai sao Thiên Chúa không che chở những kẻ gần cận Ngài khỏi
đau khổ, tai ương, địch họa? Liệu khổ đau có phải là dấu chỉ không được
Thiên Chúa mến thương? Nếu như chúng ta tin tưởng vào Chúa Giêsu thì đức
tin đó có giải phóng chúng ta khỏi lầm than? Cứu thoát chúng ta khỏi mọi
khốn khổ của kiếp sống con người? như bệnh tật, đói khát, thất bại, nghi
nan, sầu thương, lo lắng …
Câu trả lời
của Chúa Giêsu là "không". Không cho bánh ăn, tức sự sống của Ngài,
không cho dụ dỗ của thế gian. Ngài không đòi lại những gì đã hiến dâng
cho phần rỗi nhân loại, để làm đẹp ý Cha Ngài, để đi theo con đường
"hẹp" Cha Ngài đã muốn. Nếu như Ngài nhượng bộ Satan để có nhiều lương
thực, thực phẩm, để khỏi khổ đau, để giải quyết ngàn vạn khó khăn của
cuộc sống nhân sinh thì Ngài vĩnh viễn xa lìa chúng ta. Ngài không thuộc
thành phần nhân loại. Ngài chưa sống thực kiếp con người. Ngài chẳng
phải vật lộn với cuộc đời như chúng ta. Không ai có thể đồng hóa với
Ngài, coi Ngài là gương mẫu, là người chỉ đạo. Ngài không thể mang tước
hiệu cứu thế!
Cách nay ba
mươi năm, ở bang California xảy ra một chuyện mà rồi ai cũng biết. Người
con gái gia đình tỉ phú Heast tên là Patty bị bắt cóc. Những tên bắt cóc
đòi gia đình cô phải mua vài trăm xe bánh mì phân phát cho những người
nghèo đói giữa thành phố để chuộc lấy mạng cô. Lạ lùng là chính cô gái
cũng về phe với kẻ bắt cóc cầm súng dọa bố phải thỏa mãn yêu cầu. Khi
những xe bánh mì vào thành phố, người ta nà ra cướp, các tài xế phải lấy
xẻng hất bánh xuống mặt đường. Truyện kéo dài cả một tuần, sau đó cô gái
được thả. Đó có phải là đường lối văn minh để nuôi kẻ nghèo đói? Đó có
phải là cách Chúa Giêsu biến đá thành bánh mà ăn? Như thế thì ai còn sẵn
lòng nghe theo sứ điệp Ngài rao giảng? Bánh Ngài ban cho kẻ nghèo kiểu
đó ư? Người La mã cổ xưa thu hút thiên hạ đến xem xiếc bằng cách phát
không bánh mì. Nếu Chúa thực hiện kiểu đó thì chẳng hóa ra sứ vụ của
Ngài là một gánh hát trò? Thiên Chúa đã ban cho chúng ta dư dật để chúng
nuôi nấng những kẻ nghèo đói. Có những thời kỳ người ta phải mang lương
thực, thực phẩm đổ xuống biển để giữ giá! vậy thì chúng ta còn phải tìm
kiếm thỏa mãn các nhu cầu căn bản đến nỗi xao nhãng việc lắng nghe "Mọi
điều do miệng Thiên Chúa phán ra?" Tôi nghĩ ngược lại, cái làm cho chúng
ta không để tâm nghe lời Chúa là sắm thêm TV, máy tính hiện đại, xe hơi
kiểu mới, nhà lầu tinh khôn … trăm điều vừa ý xác thịt khác. Chúng chẳng
có chi là cám dỗ, nhưng lối nhìn của Tin Mừng lại không như vậy.
Mùa Chay này
cho chúng ta một cơ hội tốt để dẹp bỏ những thứ đó sang một bên, và tập
chú vào những gì là bánh ban sự sống thật cho chúng ta trong hoang địa
trần gian. Nó là một cơ hội để chúng ta thay đổi tư duy và nếp sống. Đây
là mùa hối cải, là ánh sáng, là cơ hội canh tân. Không phải là mùa buồn
thảm mà là vui mừng. Dĩ nhiên thay đổi đòi hỏi đau đớn và hy sinh. Nhưng
dưới những khó chịu ban đầu là nguồn hạnh phúc khi thánh thần Chúa thổi
luồng gió đầy sinh khí thánh thiện vào linh hồn. Đã thánh thì không thể
buồn được, cũng như đã hạnh phúc thì không thể thiếu vui. Cho nên trong
suốt thời gian chay tịnh chúng ta sẽ được Chúa dẫn dụ những lời ban sự
sống để tổ chức lại cuộc đời mình.
Bài đọc thứ
nhất trích sách Sáng thế, nhưng bỏ trình thuật tạo dựng Evà. Điều này
cho chúng ta cảm tưởng đây là lần đầu tiên "đàn bà" xuất hiện và lại là
người nhượng bộ lời dối trá của Satan. Sau đó bà lôi kéo chồng phạm tội
và cả hai đều sa ngã. Chúng ta chẳng thể hoàn toàn đổ lỗi cho con rắn.
Nó là loài vật tinh khôn Chúa dựng nên. Nó chỉ gợi ý, nói nửa sự thật.
Phần lựa chọn vẫn thuộc về tổ tiên loài người. Cơn cám dỗ khởi sự từ
lòng nghi ngờ động lực của Thượng đế. Thực sự Ngài có tốt lành hay
không? Ngài rộng lượng và đức độ hay không? Ngài có chăm sóc đến lợi ích
của hai ông bà không? hay cấm đoán vì ích kỷ, độc quyền?
Hai ông bà
đã chẳng thể cưỡng lại viễn tượng được tự do hoàn toàn, không phải lệ
thuộc vào ai, chẳng phải vâng lời ai. Thần linh độc lập thì còn chi
thoải mái bằng! Làm vua một làng hơn làm quan một nước! Cho nên câu hỏi
của con rắn là: "Tại sao không? Ai truyền lệnh cấm? Đó chỉ là chuyện
phịa! Quý vị sẽ hạnh phúc hơn nhiều …" Và câu trả lời không chỉ đơn giản
"có" hoặc "Không". Nó đòi hỏi khôn ngoan lựa chọn. Ở đây rõ ràng ăn táo
là khôn ngoan, từ chối là dại khờ. Phần chúng ta cũng vậy, chúng ta luôn
luôn chọn lựa những gì là tốt, thông minh và tương lai hơn! Hậu quả là
thường thường chúng ta bị lừa dối. Vẻ bề ngoài chưa chắc đã là sự thật.
Chúng ta mở được mắt ra thì đã quá muộn.
Hình phạt là
không thể tránh khỏi. Ông bà bị đuổi ra khỏi địa đàng. Mất hết hạnh
phúc. Ngày nay loài người cũng vậy thôi, chúng ta phải gánh chịu hậu quả
thảm khốc của các lựa chọn ngu xuẩn của mình. Vậy thì Mùa Chay nhắc nhở
nhân loại, Chúa Giêsu đã dùng cây biết lành biết dữ khác mà dẫn đưa loài
người về con đường ngay chính. Sự chọn lựa của Ngài trong bài Tin Mừng
hôm nay là sự chọn lựa về phe với Thượng đế nhờ chính quyền năng khôn
ngoan của lời Chúa. Ngài vâng lời để thắng bất tuân, khiêm nhường để
thắng kiêu ngạo, lệ thuộc Thượng để để thắng tự cao, tự đại. Trên thập
tự Ngài trút hơi thở để ban cho chúng ta thần khí sự thật và sự sống,
thần khí của một người con biết vâng lời, can đảm lựa chọn "Con đường
hẹp" trên dương thế này.
Amen.
“Ngươi
phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một
mình Người mà thôi” (Mt 4,10)
Trong mùa
chay, Hội Thánh nhắc nhở ta rằng đời ta là một cuộc hành trình hướng đến
Phục Sinh, hướng đến thời điểm Đức Giêsu, qua cái chết và sự phục sinh
của Người, sẽ dẫn đưa ta vào cuộc sống đích thực, vào cuộc gặp gỡ với
Thiên Chúa. Đó là một cuộc hành trình đầy khó khăn và thử thách, rất
giống với chuyến đi qua sa mạc.
Chính nơi
sa mạc mà, đang khi tiến về đất hứa, dân Israel đã lãng quên trong chốc
lát Thiên Chúa của họ và bắt đầu thờ lạy con bò vàng.
Đức Giêsu
cũng đi qua sa mạc, và Người cũng bị Xa-tan cám dỗ thờ lạy quyền lực và
thành công. Tuy nhiên, Đức Giêsu đã dứt khoát khước từ mọi quyến rũ của
ma quỷ và cương quyết hướng về sự thiện đích thực duy nhất:
“Ngươi
phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một
mình Người mà thôi”.
Điều đã
xảy ra với dân Israel và với Đức Giêsu thì cũng xảy ra với chúng ta.
Trong cuộc sống hàng ngày, ta cũng bị cám dỗ lựa chọn một giải pháp dễ
dãi hơn. Những cám dỗ này hứa hẹn với ta hạnh phúc và mời mọc ta hãy coi
trọng những gì là hiệu quả nhất, những gì là đẹp nhất và những gì là
khoái lạc, và hãy muốn sở hữu của cải và có quyền lực. Những điều này tự
bản thân chúng có thể là tích cực, nhưng chúng cũng có thể bị tuyệt đối
hóa và thường được xã hội của chúng ta đề cao như những ngẫu tượng đích
thực.
Khi ta
không nhận biết và chẳng thờ lạy Thiên Chúa, thì tất yếu những “thần”
khác xuất hiện, và những kiểu thờ phượng như chiêm tinh và ma thuật bắt
đầu tái xuất hiện.
Đức Giêsu
nhắc nhở ta rằng ta nên tìm sự thành toàn của mình không không phải ở
nơi những cái chung cuộc sẽ qua đi, mà ở việc đặt mình trước mặt Thiên
Chúa, Đấng tác tạo mọi loài, và nhận biết Người là Đấng Tạo Hoá, là Chúa
của lịch sử, là Mọi Sự cho ta, là Thiên Chúa!
Nếu ở
trên Trời, nơi chúng ta đều đang hướng về, ta sẽ không ngừng ca tụng
Người thì tại sao ta không bắt đầu ngay ở đây và bây giờ việc ca tụng
đó?
Đôi khi
ta cảm thấy một nỗi khao khát muốn thờ lạy Người bằng cách ca tụng Người
tận trong đáy lòng ta, trong sự hiện diện thinh lặng của Người nơi nhà
tạm và trong việc cử hành phụng vụ Thánh Thể.
“Ngươi
phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một
mình Người mà thôi”.
Nhưng
“thờ lạy” Thiên Chúa nghĩa là gì? Đó là một thái độ ta cho phép mình chỉ
hướng về Người mà thôi. Thờ lạy nghĩa là thưa với Thiên Chúa: “Chúa là
mọi sự”, nghĩa là “Chúa là Chúa”, và con được ban ơn, đặc ân trong đời
là nhận biết Chúa.
Thờ lạy
cũng có nghĩa là nói: “Con là hư vô”. Và ta không chỉ nói suông. Để thờ
lạy Thiên Chúa, ta cần phải đặt bản thân sang một bên và để cho sự hiện
diện của Người hiển trị nơi ta và trên thế gian. Điều này hàm nghĩa một
cuộc chiến không ngừng nhằm chống lại những thần tượng giả mà chúng ta
bị cám dỗ dựng nên trong cuộc sống của ta.
Cách thế
chắc chắn nhất để trở nên một thí dụ sống động rằng ta là hư vô và Thiên
Chúa là mọi sự, là hãy hết sức tích cực. Ta có muốn hãm dẹp tư tưởng của
ta qua một bên không? Ta chỉ cần nghĩ đến Thiên Chúa và sống theo những
tư tưởng của Người được mạc khải trong Phúc Âm.
Ta có
muốn chết đi cho ý riêng của mình không? Ta chỉ cần ôm chặt lấy thánh ý
của Người được bày tỏ cho ta trong mọi giây phút hiện tại.
Ta có
muốn từ bỏ những ước muốn hỗn độn không? Ta cần đổ đầy tâm hồn của ta
lòng yêu mến Thiên Chúa và yêu thương những người bên cạnh bằng cách
chia sẻ những lo âu, những khổ đau, những vấn đề, và những niềm vui của
họ.
Nếu ta
biết yêu thương, thì việc tự xóa mình đi lúc nào cũng xảy ra mà ta chẳng
hay. Bằng cách sống sự hư vô của mình, cuộc đời ta khẳng định sự vĩ đại
của Thiên Chúa và chứng tỏ rằng Người là mọi sự. Việc này tự nhiên dẫn
đưa ta đến sự thờ lạy chân chính đối với Thiên Chúa.
“Ngươi
phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một
mình Người mà thôi”.
Cách đây
nhiều năm, khi chúng tôi khám phá ra rằng thờ lạy Thiên Chúa nghĩa là
công bố sự vĩ đại của Người trên sự hư vô của mình, chúng tôi đã sáng
tác bài ca này:
“Nếu sao
tắt ngấm trên trời,
Nếu mỗi
ngày đều kết thúc,
Nếu sóng
tiêu tán trong biển,
Không bao
giờ trở lại,
Thì tất
cả điều này là vì vinh quang của Chúa.
Ước gì
mọi thụ tạo ca tụng Chúa:
“Chúa là
mọi sự!”
Và mọi
sinh vật nói với mình:
“Tôi là
hư vô!”
Kết quả
của việc ta trở nên hư vô vì tình yêu là sự hư vô của ta liền được lấp
tràn bởi Đấng là Mọi Sự, bởi Thiên Chúa, Đấng chiếm hữu tâm hồn ta.
Ngoài cơm
bánh, con người còn đói khát nhiều thứ: sự thật, tình thương, phẩm giá,
tự do, lòng kính trọng, kiến thức, lẽ sống, lý tưởng... Các tôn giáo sẽ
làm gì trước tình trạng đạo đức xã hội chúng ta đang sa sút?
"Người ta
sống không nguyên bằng cơm bánh mà thôi..."
Đức Giêsu,
người đã nói ra câu đó, không phải là một kẻ mơ hồ hoặc sống toàn bằng
những lý tưởng cao đẹp hoặc đã có dư ăn dư mặc để có thể dễ dàng lên mặt
dạy đời về sự tầm thường của vật chất. Ngài hiểu rõ giá trị của đồng
tiền bắt gạo và đã khó nhọc làm ăn, nuôi mình và nuôi gia đình mình.
Ngài biết rằng có thực mới vực được đạo, bằng chứng là có lần Người đã
phải cho ăn một đám đông đói khát sau những ngày tìm kiếm đến với mình
để nghe thuyết pháp. Ngài cũng biết nữa rằng bần cùng sinh đạo tặc bởi
đã thường xuyên lui tới với đám người khốn khổ nhất của xã hội, biết rõ
hoàn cảnh sống của họ. Nhưng Đức Giêsu nhất định không để cho nhu cầu ăn
uống, dù là một nhu cầu thiết yếu căn bản, ngự trị trên các nhu cầu khác
của con người; Ngài nhất định không coi của cải vật chất là tất cả, đến
nỗi đã phải bất cứ cách nào cho có được.
"Người ta
sống không nguyên bằng cơm bánh..."
Có một
thời cách đây không xa lắm, chúng ta không khỏi ngạc nhiên tự hỏi tại
sao thanh niên Âu Mỹ lại chán chường, hoặc nổi loạn phá phách, hoặc làm
những chuyện điên rồ, có vẻ vô nghĩa khi mà họ đã có thừa mứa mọi thứ
tiện nghi hưởng thụ, và xã hội đồng loã xoá cho họ nhiều thứ rào cản về
mặt luân lý hoặc luật lệ (như tự do quan hệ tình dục trước hôn nhân, phá
thai...). Người ta giải thích cho chúng ta rằng sở dĩ như thế là vì lớp
thanh niên đó có mọi thứ nhưng lại thiếu lý tưởng, thiếu lẽ sống, thiếu
cái gì đó cao cả để vươn tới... Thời ấy chúng ta nghe, nhưng vẫn cảm
thấy đó là điều hơi xa lạ, viễn vông.
Bây giờ
nhìn thấy một lớp tuổi trẻ sống vô lý tưởng, sống thực dụng, bất chấp
đạo nghĩa, đặc biệt những con ông cháu cha ngay trong xã hội Việt Nam,
chúng ta mới thực sự thấm thía. Và trước viễn ảnh xã hội mở cửa ngày
càng rộng rãi, chính chúng ta bắt đầu biết lo, biết sợ. Do đó mà có
phong trào "trở về nguồn" và "bảo vệ văn hoá dân tộc".
"Người ta
sống không nguyên bằng cơm bánh...".
Cha ông
ta vẫn hiểu điều đó khi nói, chẳng hạn:
- Tốt
danh hơn lành áo
- Chết
vinh hơn sống nhục
- Ở đời
muôn sự của chung,
hơn nhau
một tiếng anh hùng mà thôi...
Và điều
đó, hẳn là mọi người có lương tri cũng đều hiểu. Bởi thế tôi đã gần như
bàng hoàng khi nghe một cô giáo trường B. T. X ở Tp Hồ Chí Minh kể lại
rằng: hồi ấy, nhân dịp học sinh tới nhà cô chơi, cô ta kể cho học sinh
câu chuyện về Cha Maximilien Kolbe đã tình nguyện chết thay cho một
người cha gia đình con trẻ, bị Đức Quốc Xã giam cùng trại với cha, vì
cha nói: "Tôi già rồi, nếu có sống cũng không có ích và cần thiết bằng
người cha gia đình này". Nghe xong, một nam học sinh đã phê phán một câu
sâu sắc như nhát chém: "Đồ ngu!". Tôi lại sửng sốt khi đọc báo trong báo
Thanh Niên số tân niên (tháng 2/92) ý kiến cô Tố Loan, 18 tuổi, làm nghề
chiêu đãi viên và "đã có quan hệ tình dục với nhiều người". Loan chẳng
lo lắng gì về sự lựa chọn này. Vẫn vui vẻ và có ý định tiếp tục. Loan
cũng không mong gì hơn là có thật nhiều tiền, "có tiền người ta không
khinh mình", cô nói. Hôn nhân đối với Loan không quan trọng. Ở được với
nhau trăm năm thì ở, không thì chia tay cũng được, không việc gì phải
nặng nề (tr. 21).
"Người ta
sống không nguyên bằng cơm bánh..."
Ngoài cơm
bánh, con người còn đói khát rất nhiều thứ: sự thật, tình thương, phẩm
giá, tự do, lòng kính trọng, kiến thức, lẽ sống, lý tưởng... Có lẽ hơn
bất cứ tổ chức xã hội nào, các tôn giáo chân chính hiểu rõ điều đó vì
tôn giáo chân chính nào cũng nhằm đưa con người vươn lên, vươn lên khỏi
chính mình, và cứ vươn xa hơn mãi, cao hơn mãi, hướng tới cái Toàn Chân,
Toàn Thiện, Toàn Mỹ...
Các tôn
giáo sẽ làm gì trước tình trạng đạo đức xã hội chúng ta đang sa sút?
Với thứ
Tư Lễ Tro, Mùa Chay Thánh đã khai mạc. Mùa Chay, theo Năm phụng vụ, là
thời gian chuẩn bị cử hành Lễ Vượt Qua. Cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của
Chúa Giêsu là giá cứu chuộc cho tình trạng xa cách của con người đối với
Thiên Chúa và chính mình; và khởi điểm cho tình trạng xa cách này là sự
xuất hiện của tội lỗi nơi con người. Phân tích như thế để thấy được
chúng ta phải khởi đầu từ đâu để đón nhận Ơn Cứu Độ Của Thiên Chúa, và
sống Ơn đó trong suốt cuộc đời làm Kitô hữu của mình.
1.
Tự do và yếu đuối nơi con người – Nỗ lực tấn công của ma quỉ.
Qua bài
đọc 1 (St 2,7 - 9; 3, 1 – 7): Ngay từ đầu, khi con người được dựng nên
theo hình ảnh của Thiên Chúa, ma quỉ cũng đã xuất hiện dướt lốt con rắn
già.
Một trong
những hình ảnh của Thiên Chúa nơi con người là sự tự do. Khi trao ban sự
tự do, Thiên Chúa đã muốn trân trọng giá trị của con người. Con người
đến cùng Thiên Chúa với tất cả ý thức và tự do. Hai ông bà đã rất thanh
thản và tự nhiên khi tiếp xúc với Thiên Chúa. Nhưng cuối cùng, cả hai đã
không còn thanh thản tự nhiên nữa, vì sự tự do đã được xử dụng không
đúng. Có lẽ ông bà chưa ngộ ra: Sự tự do Chúa ban phát xuất từ nơi Thiên
Chúa, và cũng là hiện thân của chính Người. Nếu ông bà xử dụng đúng tự
do của Thiên Chúa, thì cũng đồng nghĩa với tiếng “không” trước trái cây
“biết lành biết dữ”. Vì thế, khi đưa tay hái “trái cấm”, ông bà đã xử
dụng tự do theo ý mình, theo hình ảnh không còn là của Thiên Chúa, mà là
của chính mình. Chắc hẳn hai ông bà không muốn “gây hấn” với Thiên Chúa,
nhưng đã mắc mưu con rắn. Ma quỉ, tên cám dỗ, đã thành công, khi đề ghị
một tự do “giả hiệu”, và chúng đã không ngừng làm điều đó cho đến hôm
nay. Chỉ mình Thiên Chúa mới có, và mới là sự Tự Do tuyệt đối đúng đắn.
Con người phải xử dụng tự do Chúa ban theo đúng ý của Người, cho dù
nhiều lúc cảm thấy như nó không như không phục vụ lợi ích của mình. Bài
học của vườn địa đàng đã rất rõ, nhưng ma quỉ cũng rất tinh khôn và đánh
lừa được nhiều người.
Trong Tin
Mừng, Chúa Giêsu đã khẳng định: “ Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự
Sống” (Ga 14, 6). Như thế, để thỏa mãn nỗi khát vọng sâu xa của con
người là Chân Lý, Sự Sống và Hạnh Phúc, thì không thể tìm kiếm nơi đâu
ngoài Chúa, hay nói cách khác, Thiên Chúa chính là đối tượng của khát
vọng đó.
Cuộc sống
gắn bó và liên kết với Chúa là điều rất quan trọng, không thể tách rời,
không thể nghi nan, cho dù con người phải đi qua muôn nẻo đường đời, qua
bao gian nan và thử thách. Về phần mình, ma quỉ cũng tận dụng mọi thời
cơ để chuyển đổi đối tượng của tự do, chân lý, tình yêu, hạnh phúc…ra
ngoài Chúa. Và nỗi buồn của vườn địa đàng vẫn kéo dài đến hôm nay, nơi
từng người và từng lúc.
2.
“Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó Ân sủng càng chứa chan gấp bội”.
Hình ảnh
của Ađam và Chúa Giêsu, của tội lỗi và ân sủng, hủy diệt và giải thoát,
giết chết và cứu sống… đã sóng đôi nhau trong cuộc chiễn đấu nên thánh
của mỗi người chúng ta. Phần thắng luôn thuộc về Thiên Chúa, cho dù là
cửa hỏa ngục cũng không thể thắng được. Tự do mà Chúa ban cho chúng ta
không phải là muốn làm gì thì làm, nhưng tự do là được lựa chọn. Con
người được hoàn toàn tự do lựa chọn một trong hai đối tượng và tình
trạng của các cặp sóng đôi ở trên. “Thật vậy, cũng như vì một người duy
nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người trở thành tội nhân, thì
nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người sẽ thành người
công chính” (Rm 5, 12 – 19).
3.
“Thế rồi ma quỉ bỏ người mà đi, và có các sứ thần đến hầu hạ Người”.
Nếu Thiên
Chúa, để giải thoát con người, đã từ trời hoặc từ xa, chỉ đưa ra những
mệnh lệnh hoặc chỉ dẫn cho con người khắc phục tình trạng suy thoái, và
biết đường mà về với Chúa và về trời, thì cuộc chiến giữa áng sáng và
bóng tối vẫn sẽ có nhiều cam go, thậm chí con người sẽ cảm thấy bất lực
và bơ vơ khủng khiếp. Khởi đi từ Mầu nhiệm Nhập Thể của Ngôi Hai Thiên
Chúa, Chúa Giêsu Kitô đã soi sáng cho chúng ta ý định và chương trình
thật tuyệt vời và gần gũi của Thiên Chúa. Chúa không vô hình, nhưng thật
hữu hình, Chúa không xa cách, nhưng thật gần gũi. Và nhất là, Chúa không
đóng vai quan tòa nghiêm khắc xét xử, nhưng mặc lấy thân phận con người,
đồng hành với con người tội lỗi và yếu đuối. Qua đó, Chúa Giêsu đi
trước, tay Ngài cầm tay con người, để dẫn đưa con người về bến bình an.
Vì thế:
Ngài đã
sinh xuống làm người như mọi người (Lc 2,1 – 14).
Ngài đã
chịu bách hại bởi vua Hêrôđê (Mt 2, 1 – 12).
Ngài đã
được cha mẹ dâng cho Thiên Chúa theo luật Môisen (Lc 2, 22 – 32).
Ngài đã
xếp hàng chờ được chịu phép rửa của Gioan Tẩy Giả (Mt 3, 13 – 17)…
Và trong
Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu chấp nhận để cho ma quỉ cám dỗ, y như cảnh
ngộ của mọi người chúng ta (Mt 4, 1 – 11). Hình dung lại bối cảnh của
Chúa Giêsu ăn chay 40 ngày và chịu cám dỗ trong hoang địa. Hình ảnh của
“tên cám dỗ” mon men lại gần để thủ thỉ, để khêu gợi, và để đánh bóng
những vui thích cơ bản của cuộc sống con người. Trong lúc cám dỗ, nó
cũng thật thiện chí và năng động, tỏ ra quan tâm và săn sóc đặc biệt:
bưng mâm cỗ, phục vụ tối đa nhu cầu của quí khách, mà theo ngôn ngữ của
thương trường là “ thượng đế”. Sơ hở một chút là con người dễ dàng cảm
thấy như “được đưa lên mây”, nhưng theo ngôn ngữ của ma quỉ là “bị hạ
gục”. Một lần nữa, Chúa cho thấy những cách thức phải học nằm lòng để
“tỉnh thức và đứng vững”: Luôn sống trong tình trạng làm chủ được bản
thân: Nhờ ăn chay và cầu nguyện.
Lời Chúa
phải là đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi (Tv 119,105).
Phát huy
sự tự do đúng đắn Chúa ban, là chỉ lựa chọn những gì Chúa chọn: Chúa và
anh em, đặc biệt những người nghèo và bất hạnh.
Vì thế,
khởi đi từ tình trạng tội lỗi yếu đuối là âm hưởng của nguyên tổ Ađam,
Ađam “mới”, là Chúa Giêsu, đã hoạch định một lộ trình giải thoát và phục
hồi hình ảnh cao đẹp mà Thiên Chúa có khi dựng nên con người. Lộ trình
ấy được diễn tả qua lời cầu nguyện của thánh Augustinô: Lạy Chúa, Chúa
đã dựng nên con cho Chúa, và con chỉ được an nghỉ khi trở về với Chúa.
Mỗi lần
bước vào Mùa Chay Thánh, người Kitô hữu lại đươc mời gọi kiểm tra lại
bước đi của mình, xem có đang đi trong quĩ đạo của hành trình của Chúa
không?, ý thức rõ hơn về sự hiện diện của “tên cám dỗ”, không phải là
thiểu số và thầm lặng (Mc 5, 1 – 20). Nhìn vào thực trạng đời sống đạo
của nhiều người Kytô hữu hôm nay, chúng ta cũng dễ thấy ma quỉ vẫn còn
chiếm được nhiều ưu thế. Cũng chỉ vì sự lơ là, tự mãn, và ngủ quên trên
những “lãnh địa an toàn và giả hiệu”. Chúa đã gửi một ngôn sứ cho Giáo
Hội: Đức Thánh Cha Phanxicô. Với những hành động ngoạn mục, ngài đang
mạnh mẽ thúc đẩy một sự cảnh tỉnh ngay trong lòng Giáo Hội, nơi tất cả
mọi thành phần của Dân Chúa.
mục lục
Từ ngày
thứ Tư lễ Tro vừa qua, chúng ta bước vào Mùa Chay để chuẩn bị mừng lễ
Phục Sinh. Mùa Chay kéo dài 40 ngày, tương ứng vời 40 ngày cầu nguyện và
chay tịnh của Đức Giêsu trong sa mạc trước khi Người bắt đầu cuộc đời
công khai rao giảng Tin Mừng. Tại đây, Người chịu quỷ cám dỗ ba lần: hóa
đá thành bánh, làm phép lạ phi thường, cho mình là vua thiên hạ.
Dân Do
thái mong chờ Đấng Mêsia thực hiện những điều đó. Họ muốn Người cung cấp
cho họ mọi nhu cầu vật chất, làm những điều kỳ diệu và bành trướng quyền
thế của Người trên khắp địa cầu. Nhưng Đức Giêsu không làm như thế.
Người chỉ thi hành ý muốn của Thiên Chúa Cha.
Trong
hoang địa cũng như nhiều lần khác mà Tin Mừng đã kể lại, Đức Giêsu chống
trả những cơn cám dỗ. Thí dụ: sau khi Người làm phép lạ hóa bánh ra
nhiều, dân chúng muốn tôn Người làm vua, nhưng Người lánh mặt, lên núi
một mình (Ga 6:15); nhưng người Pharisêu muốn Người cho một dấu lạ từ
trời (Mt 16:1); Người bị cám dỗ không đi Giêrusalem vì biết sẽ phải chịu
nhiều đau khổ và bị giết. Chính ông Phêrô ngăn cản Người thực hiện điều
đó và bị Người khiển trách: "Sa tan, lui lại đàng sau Thầy!" (Mt 16:
21-23). Tại vườn Ghếsêmani, Đức Giêsu bị cám dỗ nặng nề: "Cha ơi, nếu
được, xin cho chén này rời khỏi con..." (Mt 26:39). Và trên thập giá,
Người bị nhục mạ: "Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình. Hắn là
vua Ít-ra-en! Bây giờ hắn cứ xuống khỏi thập giá đi, thì chúng ta tin
hắn liền!" (Mt 27:42)
Đức Giêsu
đã thật sự bị cám dỗ, nhưng Người luôn trung thành với Chúa Cha và với
sứ vụ mà Cha Người giao phó. Vào đầu Mùa Chay, Tin Mừng muốn chúng ta
noi theo Đức Giêsu chống trả và chiến thắng những cơn cám dỗ này:
1/
Cám dỗ về cơm bánh hằng ngày hoặc cám dỗ về nhu cầu vật chất.
Con người
cần phải ăn uống và cần phải có những nhu cầu vật chất tối thiểu để
sống. Điều đó rất tốt. Nhưng chúng ta thường bị cám dỗ chỉ sống dựa vào
những nhu cầu vật chất của thân xác mà thôi. Nhiều khi chúng ta lo kiếm
ăn đến nỗi không còn nghĩa đến việc tìm kiếm những giá trị tinh thần và
đạo đức nữa, không còn giờ để đọc kinh, cầu nguyện, suy gẫm Lời Chúa,
ngay cả việc tham dự thánh lễ Chúa nhật!
Trong mùa
Chay này, chúng ta hãy suy gẫm Lời Chúa: "Người ta không chỉ sống nhờ
cơm bánh".
2/
Cám dỗ về sự thành công.
Thành
công trong cuộc sống là một điều rất tốt và phải làm. Nhưng chúng ta
thường bị cám dỗ chỉ sống để thành công, muốn thành công với bất cứ giá
nào, mặc dầu phải làm những chuyện không tốt như lừa dối, chà đạp người
khác...; thành công để vênh vang, tự đắc, để giữ thể diện và thỏa mãn tự
ái của mình.
Ngay ngày
đầu của Mùa Chay, Đức Giêsu mời gọi: "Khi làm việc lành phúc đức, chớ có
phô trương cho thiên hạ thấy... đừng cho tay trái biết việc tay phải làm...
Khi cầu nguyện, anh em đừng làm như bọn giả hình... Thiên Chúa thấu suốt
những gì kín đáo" (Mt 6:1-6)
3/
Cám dỗ về quyền hành hoặc tham vọng thống trị.
Mỗi người
trong chúng ta đều có một trách nhiệm, một quyền hành nào đó mặc dù là
khiêm tốn. Có quyền hành, có trách nhiệm là để phục vụ và bênh vực công
lý. Nhưng chúng ta thường bị cám dỗ là lẫn lộn giữa quyền hành và lòng
tham vọng thống trị. Nếu những nhà lãnh đạo các quốc gia đều có tinh
thần phục vụ dân chúng, thì bộ mặt thế giới sẽ khác hẳn!
Trong Mùa
Chay này, chúng ta hãy kiểm điểm lại tinh thần trách nhiệm và phục vụ
của mình trong gia đình, trong nhóm, trong cộng đoàn...
Những cơn
cám dỗ mà Đức Giêsu chịu trong sa mạc cũng là những cơn cám dỗ của mỗi
người chúng ta về vật chất, hào nhoáng bên ngoài và quyền hành. Đức
Giêsu đã chiến thắng. Người cũng muốn chúng ta tham dự vào chiến thắng
của Người bằng cách bước theo đường của Người và noi gương Người. Đó là
mục đích của mùa Chay.
Kính chúc
ông bà và anh chị em sống Mùa chay thánh thiện và đón nhận nhiều hồng ân
của Chúa.
Một
Marylyn Moroe đẹp một hai "nghiêng nước nghiêng thành" của thập niên 60
tại Hoa Kỳ đã rơi vào cạm bẫy của thần vệ nữ và trở thành "đồ chơi" của
giới trưởng giả và chính trị gia. Cái đẹp hấp dẫn, nẩy lửa và mời gọi ấy
còn ám ảnh tâm tưởng nhiều cố nhân, nên dù không là anh hùng dân tộc,
Monroe vẫn được sủng ái và trở thành "chim câu giao liên" tại Hoa Kỳ hôm
nay.
Cái
tài đảm lược "chinh đông phục tây" và "trị quốc an dân" của Caesar đã
biến ông thành người kiêu ngạo khó thương và phách lối. Ông ao ước được
phong thần và trở thành hoàng đế La Mã. Nguyên lão nghị viện đã ám sát
ông dưới chân tượng bại tướng Pompey là kẻ thù của ông.
Các
"đồ tể" và "tay sai" đâm thuê, giết mướn đã hạ sát Tổng Thống Diệm. Họ
huyên hoang tự phong là "anh hùng dân tộc" hay "chính trị gia đại tài".
Họ thay nhau một thời vơ vét để "vinh thân phì gia". Quả báo là họ đã
nếm mùi cùng cực của kẻ mất chức, trốn chạy, qui hàng tủi nhục và tù tội
đau thương.
Ba mươi
năm ẩn dật tại Nazareth, Đức Kitô đã sống quá tầm thường và khiêm tốn.
Không hơn không kém, Ngài chỉ là con bác thợ mộc nghèo khó, vất vả kiếm
ăn từng ngày. Họ hàng không ai rõ, bạn bè chẳng ai hay một điểm phi
thường nào nơi Giêsu. Ngài chỉ thực sự biến đổi sau cuộc gặp gỡ với
Gioan Tẩy Giả bên sông Giordan. Ra khỏi nước, Chúa Cha tuyên phong Ngài
là "Chiên Thiên Chúa" và Thần Linh Chúa đưa Ngài vào hoang địa lập chí.
Tại đây Ngài chìm trong đắm suy tư và cầu nguyện. Cũng tại đây, Ngài
hình thành chương trình giải phóng, chọn lựa phương thế tuyệt hảo để
hành động và mục đích tối hậu phải nhắm tới. Đối thủ nghi vấn về con
người dị kỳ và đặc biệt này. Đối thủ nhận ra những khả năng phi thường,
sự khôn ngoan tuyệt đối và những nhân đức tuyệt vời của con người này.
Nhưng đối thủ vẫn không nhận ra chân tướng "cứu thế" của Ngài. Đối thủ
vì thế mon men đến làm quen và truyện trò.
Thánh
kinh ghi lại 3 thách đố hay 3 trò chơi đối thủ đưa ra liên hệ đến tiền,
danh, chức để thử Ngài hầu "tri kỷ tri bỉ, bách chiến bách thắng". Ngài
đã khôn ngoan đối đáp một là "Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng
bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra", hai là "Đừng thử thách Chúa là
Thiên Chúa ngươi" và ba là "Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa ngươi,
và chỉ thờ phượng duy mình Chúa mà thôi".
Tiền Ngài
không ham, danh Ngài không thích, chức Ngài không thèm. Ba cái nghiệp
chướng ấy: thứ nhất đã đưa đẩy nhân loại vào đường dối trá, biển lận và
tham lam; thứ hai đã biến đổi tâm tính con người từ bất lực, hẹp hòi và
giới hạn thành tự đắc, kiêu căng và phách lối; thứ ba đã tạo những con
người được hình thành từ bụi đất, nay còn mai mất và bất toàn nên những
người lạm dụng quyền bính, bất nhân và vi phạm quyền sống, lạm dụng tự
do và bình đẳng của con người.
Vương
quốc của Đức Kitô lấy công bình, bác ái, và yêu thương làm phương châm
và ơn cứu rỗi làm cùng đích, nên tiền, danh, chức chỉ là phương tiện:
"Ai muốn làm lớn, phải làm tôi mọi người".
Đời chúng
ta vì thế dẫy đầy những cạm bẩy và mâu thuẩn cần chế ngự. Thoát cạm bẫy
của "danh, lợi, dục" là được trưởng thành trong ơn thánh, trở nên vĩ
nhân của Nước trời, vui sống tự do, hưởng công lý, an bình và bác ái.
Như Đức Kitô, chúng ta phải sáng suốt và tự do chối từ những cạm bẫy do
đối thủ giăng ra để sống thánh thiện và hy sinh tuyệt đối cho Thiên Chúa
và tha nhân; để chết an bình và được tái sinh khải hoàn với Đức Kitô.
Thắng đối
thủ và thoát tục là không tìm hư danh hão huyền. Sống trưởng thành là
cộng tác và hy sinh cho tha nhân. Nên thánh thiện là biết thưa "Con chỉ
chu toàn phận sự được giao phó". Như thế thì danh, chức, lộc không còn ở
thế thượng phong, mà chỉ là phương tiện để tín hữu yêu thương, cộng tác,
thông cảm và tha thứ. Tuyệt vời thay!
Trong
cuộc đời làm người ai ai cũng phải trải qua những giây phút khủng hoảng.
Trong những lúc đó tất cả mọi chuyện to nhỏ đều trở thành một vấn nạn.
Kẻ đó tìm một câu trả lời trước khi lựa chọn, quyết định cho tương lai
đời mình. Giai đoạn chuyển tiếp từ tuổi ấu thơ sang tuổi thành niên là
một giai đoạn quan trọng trong đời người. Tuổi dậy thì chứa đầy hỗn
loạn. Thân xác bỗng dưng biến đổi và phát triển khác thường. Con người
bị ép buộc tham dự vào một cuộc phiêu lưu để khám phá ra mình là ai.
Nhiều chuyện thần thoại đã mô tả về giai đoạn này. Dĩ nhiên, nhân vật
chính luôn là một chàng trai. Anh phải từ giã mái ấm gia đình, chấp nhận
mạo hiểm một mình tiến vào rừng sâu nước độc, nơi chứa đầy cạm bẫy của
yêu tinh quỷ nữ! Anh ta phải vượt qua mọi thử thách từ bên trong lẫn bên
ngoài. Anh ta được tôi luyện. Khi trở về, anh giống như được đầu thai
làm một con người hoàn toàn mới, đủ tài trí và khả năng gánh vác những
trọng trách được giao phó.
Bài Phúc
âm hôm nay cũng nói về thời gian thử thách tương tự của Đức Giêsu. Ngài
được Thánh Thần dẫn đưa vào hoang địa, giang sơn của quỷ dữ. Ngài ăn
chay hãm mình, sống trong cô tịch, hoàn toàn không có gì để đề phòng âm
mưu của kẻ xấu luôn bám sát, chờ cơ hội thuận lợi để thu thập. Thử thách
làm nảy sinh một hoài nghi cơ bản: Những gì từ trước tới nay tôi cho là
tốt đẹp bây giờ có vẻ vô nghĩa. Những gì tôi cho là tội lỗi xấu xa giờ
đây hình như chứa đầy hứa hẹn. Khi đối diện đương đầu với dụ dỗ Đức
Giêsu dần dần khám phá ra mình là ai, đâu là sứ mạng của mình. Thời gian
sống trong sa mạc là giai đoạn quan trọng trong đời của Đức Giêsu. Trong
thời gian này Ngài cảm nhận một cách sâu xa sự mỏng dòn trong thân phận
con người. Mặc khác, Ngài đã sống mật thiết thân tình với Chúa Cha, giúp
Ngài ý thức về trọng trách được Chúa Cha giao phó. Ngài trở nên chín
chắn trưởng thành, có thể bước vào cuộc đời công khai, công bố Tin mừng
cứu độ. Bởi vậy, sa mạc không phải chỉ là nơi chết chóc, tăm tối mà còn
là nơi gặp gỡ chính Thiên Chúa.
Trong sa
mạc Đức Giêsu hiểu thấu những yếu đuối cơ bản của con người. Cám
dỗ đầu tiên nhắm vào sự đói khát. Có đầy đủ của ăn là một nhu
cầu căn bản của cuộc sống con người. Thân xác đòi hỏi quyền lợi của nó
và sẽ trở nên kiệt quệ nếu như nhu cầu này bị cự tuyệt, không được đáp
ứng. Dĩ nhiên chúng ta ăn để sống, nhưng chúng ta sống không phải chỉ để
ăn, để uống. Do đó, con người giống như bị bà nhập khi nghĩ rằng, ý
nghĩa của cuộc sống con người chỉ đặt trên cơ bản của vật chất và sự
hưởng thụ. Con người chia sẻ những nhu cầu thuộc thân xác với tất cả mọi
sinh vật khác, nhưng khát vọng của con người còn trổi vượt hơn, đi ra
ngoài giới hạn này. Chính vì thế chúng ta có thể nói rằng, nhu cầu lớn
nhất của con người thuộc về đời sống tâm linh: „Người ta sống không chỉ
nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra". Đời sống
con người không phải là một cuộc sống no say nhưng là một cuộc đời sung
mãn về mọi mặt.
Thử
thách thứ hai nhắm vào khát vọng quyền lực.
Bởi vì muốn chứng tỏ quyền lực của mình, bảo đảm chỗ đứng của mình, kẻ
ấy ra sức tìm cách hạ bệ kẻ khác, ra sức chèn ép, trèo lên đầu lên cổ
người khác và nếu cần sẵn sàng bước qua xác chết! Tranh đấu quyền lực là
chuyện xảy ra như cơm bữa từ trong gia đình đến ngoài xã hội, đặc biệt
trong môi trường chính trị và kinh doanh,... Đức Giêsu không đầu hàng dụ
dỗ. Ngài sẵn sàng từ bỏ quyền thế và bạo lực. Ngài chọn con đường yêu
thương vô vị lợi.
Dụ
dỗ thứ ba nhằm chối bỏ Thiên Chúa là Đấng sáng tạo càn khôn.
Đặc biệt con người ngày nay nghĩ rằng, mình có thể đạt được tất cả mà
không cần đến sự trợ giúp của Thiên Chúa. Tất cả đều dựa vào khả năng
của bản thân. Ngày Chúa nhật không đi lễ nhà thờ chẳng thấy mình mất mát
gì! Nhìn nhận giới hạn của mình, nhìn nhận thân phận thụ tạo của mình là
một điều không dễ dàng. Thiên Chúa đòi hỏi con người tin vào Ngài, mặc
dầu không ai có thể chứng minh và nhìn thấy Thiên Chúa.
Mùa chay
chính là một lời mời gọi sáng tạo một mảnh sa mạc trong cuộc đời mình,
mời gọi xa rời cảnh huyên náo, bon chen, xô bồ để có thể gặp gỡ Thiên
Chúa, lắng nghe tiếng Ngài trong cô tịch. Bởi vì sa mạc, đối với Đức
Giêsu cũng như mỗi người chúng ta, là nơi giúp khám phá sự thật, nơi
chúng ta có thể đối diện với chính mình để nhận biết mình là ai và Thiên
Chúa muốn gì nơi tôi.
Phụng vụ
Lời Chúa mùa Chay và Phục Sinh một đàng hướng về công cuộc cứu độ của
Chúa Giê-su tronng những năm cuối cùng của Người trên trần gian, nhưng
đồng thời cũng nhắm đến nhân loại là đối tượng của việc cứu độ. Trong
lịch sử cứu độ, ta không thể không nói đến cám dỗ và tội lỗi là những gì
đã làm cho nhân loại mất đi căn tính con Thiên Chúa của họ. Sa ngã do
cám dỗ và thắng vượt cơn cám dỗ là hai câu truyện tương phản trong các
bài đọc hôm nay. Ngoài ra, thánh Phao-lô cũng giúp ta hiểu ý nghĩa của
hai biến cố tương phản ấy.
1.
Sa chước cám dỗ (bài đọc Cựu Ước - St 2:7-9; 3:1-7)
Cám dỗ là
sự xúi giục của ma quỷ muốn ta làm điều xấu trái với luân lý và lề luật
đạo đức. Trong câu truyện Cựu Ước hôm nay, ma quỷ được tiêu biểu là con
rắn cám dỗ ông bà nguyên tổ. Câu truyện không nhằm diễn tả tâm lý con
người, mặc dù ta có thể dễ dàng nhận thấy điều ấy, nhưng nó muốn nói lên
ý nghĩa thần học về cám dỗ và tội lỗi. Vì "rắn là loài xảo quyệt" nên
phương thức cám dỗ của nó cũng hết sức tinh vi.
Thiên
Chúa đã tạo dựng A-đam và E-và và Người dạy họ phải tuân phục Người, là
không được ăn "trái trên cây ở giữa vườn". Trái cây ở giữa vườn hay ở
góc vườn thì cũng có gì khác nhau đâu. Cho nên mệnh lệnh "không được ăn
trái cây ở giữa vườn" chỉ là một dấu chỉ nói lên ý muốn của Thiên Chúa
là con người phải tuân phục Thiên Chúa. Không ăn trái cây ấy tức là tuân
phục Thiên Chúa. Còn nếu cứ ăn trái cây ấy tức là không tuân phục Người
và là điều xấu. Vậy ma quỷ đã cám dỗ con người không tuân phục Thiên
Chúa như thế nào? Trước hết đặc điểm của cám dỗ là không vội vàng. Ma
quỷ từ từ đưa người ta đi từ thật tới giả. Nó bắt đầu tấn công người đàn
bà trước. Có lẽ vì tâm lý của người phụ nữ bén nhạy hơn và thích bề nổi
hơn. Nó gợi chuyện và tìm một cánh cửa mở cho cám dỗ, đặt câu hỏi để có
một câu trả lời thật. "Các ngươi không được ăn hết mọi trái cây trong
vườn hay sao?" Dĩ nhiên câu trả lời dần dần đưa tới vấn đề là tại sao
Thiên Chúa chỉ cấm họ ăn trái trên cây ở giữa vườn. Lý do của Thiên Chúa
là nếu ăn vào thì "sẽ phải chết". Nếu họ tuyệt đối tin vào lời Thiên
Chúa bảo "sẽ phải chết" thì đã không có chuyện. Nhưng ma quỷ đã đánh lừa
họ, gieo nghi vấn trong lòng họ về lời Thiên Chúa với cách giải thích
xem ra hết sức có lý: "Chẳng chết chóc gì đâu! Nhưng Thiên Chúa biết
ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên
như những vị thần biết điều thiện điều ác". Cám dỗ dừng lại ở đây và để
cho ý chí tự do của con người cân nhắc lựa chọn. Câu truyện diễn tả giai
đoạn cám dỗ này bằng hình ảnh "người đàn bà thấy trái cây đó ăn thì ngon,
trông thì đẹp mắt và đáng quý vì làm cho mình được tinh khôn". Lý lẽ của
ma quỷ đã mạnh, lại thêm những đặc tính của trái cấm thật hấp dẫn. Thế
là cuộc giằng co của ý chí tự do nơi con người càng thêm sôi động và con
người đã sử dụng ý chí tự do để lựa chọn không tuân phục mệnh lệnh Thiên
Chúa. Đó là đường đi nước bước của cám dỗ, lừa dối bằng cách đặt cái giả
vào cái thật và đưa ra những lý do có vẻ thật để bênh vực cho việc xấu.
Câu truyện Kinh Thánh còn nói lên sự bành trướng và ảnh hưởng của cám dỗ
qua việc không những người đàn bà ăn trái cấm trước, mà còn "đưa cho cả
chồng đang ở đó với mình".
Ông bà
nguyên tổ sa ngã chước cám dỗ là vì không tuyệt đối tin vào lời Chúa và
chỉ lo cho cái tôi của họ. Bao giờ cám dỗ cũng đi theo cùng một thể thức
ấy. Con người có ý chí tự do là chuyện tốt. Nhưng sử dụng nó để chọn lựa
đúng thì đòi hỏi ta phải biết phân định đâu là tinh thần của Chúa và đâu
là tinh thần ma quỷ thế gian.
2.
Thắng vượt cám dỗ (bài Tin Mừng - Mt 4:1-11)
Nếu A-đam
nguyên tổ đã thảm bại trước cám dỗ, thì Chúa Giê-su là A-đam Mới lại đã
hoàn toàn chiến thắng cám dỗ. Tuy câu truyện Tin Mừng chia ra làm ba cám
dỗ khác nhau, nhưng ta có cảm tưởng như chúng muốn trình bày một phương
thức chiến thắng cám dỗ đi ngược lại cách thức đưa tới thảm bại của ông
bà nguyên tổ.
Vậy trong
cám dỗ thứ nhất lúc Chúa Giê-su thấy đói, tên cám dỗ thử thách Người về
nhu cầu sự sống thể lý. Nếu quả thực Chúa Giê-su là Con Thiên Chúa,
Người có thể sử dụng quyền năng Thiên Chúa để biến hòn đá thành bánh,
rồi cũng có thể biến mái lều tranh thành lâu đài sang trọng hoặc bất cứ
cái gì làm cho cuộc sống được tiện nghi thoải mái và hơn những người
khác. Biến hòn đá thành bánh để ăn đang khi đói ở giữa sa mạc là điều
hợp lý. Nhưng nếu Người thực hiện phép lạ ấy thì ta tin rằng Người khó
có thể dừng lại và sẽ tiếp tục lạm dụng quyền năng để làm những điều
không cần thiết! Đối với Chúa Giê-su, sự sống đích thực không phải do
những gì bề ngoài, nhưng là do "mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra". Trong
câu truyện ở vườn địa đàng, lời miệng Thiên Chúa phán ra là: "Các ngươi
không được ăn, không được động tới (trái trên cây giữa vườn), kẻo phải
chết". Nguyên tổ đã không thi hành lời ấy nên đã phải chết. Về phần Chúa
Giê-su, "lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy" (Ga
4:34).
Trong cám
dỗ thứ hai, ma quỷ thử thách Chúa Giê-su về lòng tin vào Thiên Chúa. Tin
là phó thác mọi sự trong tay Chúa để Danh Người được rạng ngời, chứ
không phải là thử thách quyền năng Người để ta được mọi người khâm phục
ngưỡng mộ. Nếu Chúa Giê-su gieo mình từ trên cao xuống mà bình yên vô sự
thì Thiên Chúa đâu có được lợi gì, nhưng Chúa Giê-su sẽ được dân chúng
trầm trồ ca tụng là Đấng đầy quyền năng! A-đam và E-và muốn được khôn
ngoan, thông biết mọi sự, nghĩa là họ không còn muốn nhìn nhận Thiên
Chúa là Đấng tạo dựng ra mình nữa. Nhưng với Chúa Giê-su, Người thực sự
nhìn nhận "bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng
Trinh Nữ Ma-ri-a, và đã làm người" để tuân phục và thi hành thánh ý
Thiên Chúa.
Trong cám
dỗ cuối cùng, Chúa Giê-su đã hoàn toàn nhìn nhận thân phận con người của
Người và bổn phận phải thờ phượng Thiên Chúa. Ông bà nguyên tổ muốn ăn
trái cấm để được mở mắt ra và "sẽ nên như những vị thần biết điều thiện
điều ác". Còn Chúa Giê-su thì muốn làm một người phàm đúng nghĩa và làm
người tôi trung của Đức Chúa. E-và "thấy trái cây đó ăn thì ngon, trông
thì đẹp mắt, và đáng quý vì làm cho mình được tinh khôn" nên đã hái và
ăn. Còn Chúa Giê-su từ trên núi cao "thấy tất cả các nước thế gian và
vinh hoa lợi lộc của các nước ấy", thì lại xác tín bổn phận phải thờ
phượng một mình Đức Chúa mà thôi.
Tóm lại,
để chiến thắng cám dỗ, Chúa Giê-su lúc nào cũng đặt Thiên Chúa trên hết.
Lòng tin của Người nơi Thiên Chúa là tuyệt đối. Lời Thiên Chúa là đèn
soi cho Người bước đi (Tv 118:105). Tuân phục Thiên Chúa là lý tưởng
Người ôm ấp và thực hiện trong suốt cuộc sống từ lúc nhập thể trong lòng
Đức Ma-ri-a cho đến khi tắt thở trên thập giá.
3.
Chỉ vì một người duy nhất và chỉ nhờ một người duy nhất (bài đọc Tân Ước
- Rm 5:12-19)
Suy niệm
về hai biến cố đối nghịch này trong lịch sử nhân loại, thánh Phao-lô
Tông đồ đã tóm tắt thành một chân lý vô cùng sâu xa về lịch sử cứu độ.
Chủ đề cứu độ được ngài kết luận như sau: "Thật vậy, cũng như vì một
người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội
nhân, thì nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng
sẽ thành người công chính" (Rm 5:19). Lịch sử tội lỗi và lịch sử cứu độ
là hai thực tại đối nghịch. Việc làm của hai nhân vật, A-đam và Chúa
Giê-su tương phản nhau, đã không tuân phục và đã tuân phục. Hậu quả của
hai việc làm ấy cũng đối nghịch nhau, căn tính biến thành tội nhân và
căn tính trở nên người công chính. Tuy nhiên khi so sánh, thánh Phao-lô
cho ta cảm tưởng hiệu quả của ơn cứu độ lớn lao hơn hậu quả của tội lỗi.
"Nhưng ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội"
(Rm 5:20). Trong bài Công bố Tin Mừng Phụ Sinh, Giáo Hội đã không ngần
ngại lập lại sự so sánh này. "Ôi! Tội A-đam quả là cần thiết, tội được
xóa bỏ nhờ cái chết của Đức Ki-tô. Ôi! Tội đã hóa thành hồng phúc, nhờ
tội, chúng con mới có được Đấng Cứu Tinh cao cả dường này". Sự trổi vượt
của ân sủng trên tội lỗi đem lại cho ta niềm hy vọng vững chắc rằng ta
sẽ được cứu độ và phải được cứu độ. Đây cũng là nền tảng của Phụng vụ
Mùa Chay và Phục Sinh, là Phụng vụ trình bày lịch sử cứu độ ở cực điểm
của nó và mời gọi ta đáp lại tình yêu cứu độ của Thiên Chúa.
1.
Sống Lời Chúa
Phụng vụ
Lời Chúa hôm nay giống như một luận đề thần học về lịch sử cứu độ. Chắc
chắn Giáo Hội muốn trình bày như thế để ta hiểu được ý nghĩa đích thực
của mùa Chay và Phục Sinh. Tuy nhiên hiểu là một chuyện, nhưng quan
trọng hơn đó là ta có mở lòng đón nhận ơn cứu độ, đồng hành với Chúa
Ki-tô, A-đam Mới, để tiến bước trở về với căn tính đích thực của ta và
được ở lại với Cha trên trời.
2. Suy
nghĩ:
Ma quỷ nói với Chúa Giê-su: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy..." Mỗi
lần như vậy, Chúa Giê-su đã làm ngược lại để chứng tỏ và giữ vững danh
phận Con Thiên Chúa của Người. Vậy mỗi khi bị cám dỗ lớn hay nhỏ, tôi có
nhắc nhở mình thực sự là con Thiên Chúa không?
3. Cầu
nguyện:
Lạy Thiên Chúa toàn năng, hằng năm Chúa ban cho chúng con bốn mươi
ngày chay thánh, để tôi luyện hồn xác chúng con. Xin giúp chúng con sống
những ngày khắc khổ ấy, để học biết Đức Ki-tô và dõi theo gương Người,
hầu xứng đáng hưởng ơn Người cứu độ. Người là Thiên Chúa hằng sống và
hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.
Amen. (Lời nguyện nhập lễ, Chúa Nhật I mùa Chay)
Khởi đầu
Mùa Chay Thánh, người tín hữu được mời gọi “sám hối và tin vào Tin
Mừng”. Lời kêu gọi này được nói với từng tín hữu, khi được chịu tro,
khởi đầu mùa chay thánh. Với tâm tình yêu thương con cái mình, Giáo Hội
cho chúng ta những bài học qua mỗi ngày của Mùa Chay, để mỗi tín hữu có
điều kiện trở về với Chúa, củng cố thêm niềm tin của mình nhất là được
sống trong tình yêu của Thiên Chúa.
Trong
cuộc sống hằng ngày, chúng ta chịu nhiều tác động của hoàn cảnh bên
ngoài, có những điều nâng đời sống của ta lên, và cũng có những điều
khiến cho chúng ta quỵ ngã. Từng ngày sống, ai trong chúng ta cũng đều
bị chước cám dỗ của ma quỷ. Những cám dỗ lúc thì rõ ràng, lúc được nguỵ
trang dưới vỏ bọc khác nhau. Chính vì thế mà ông bà nguyên tổ đã sa
chước cám dỗ, nên bất tuân với Thiên Chúa, và mọi người đều không tránh
khỏi tội tổ tông.
Bốn mươi
ngày chay tịnh trong hoang địa, Chúa Giêsu đã chịu ma quỷ cám dỗ, không
chỉ có thế mà còn cả trong những năm rao giảng đến khi Ngài chịu treo
trên thập giá. Ngày nay con người cũng bị những cám dỗ vây quanh: vật
chất, danh vọng, quyền lực… Nên Giáo Hội mời gọi mỗi tín hữu hãy dùng
bài thuốc để chống lại căn bệnh cám dỗ vật chất là “ăn chay”, lắng nghe
Lời Chúa để cho Lời Chúa tinh luyện tâm hồn.
Mùa Chay
là thời gian thuận tiện để giúp ta nhận diện cơn cám dỗ riêng của bản
thân. Giữa những thách đố, con người vẫn cố sức vươn lên. Vươn lên như
Đức Giêsu trong hoang địa sau khi chiến thắng những thách đố lớn lao
trong thân phận con người. Đức Giêsu đã hoàn toàn tìm thấy cái tôi của
mình ngay khi đành mất chính mình. Người không tìm cách xác định thế
đứng độc lập với Thiên Chúa Cha. Nhưng Người muốn cho mọi người thấy chỉ
có thể tìm được chính mình trong Thiên Chúa mà thôi. Qua những cơn cám
dỗ, Đức Giêsu mạc khải bản lĩnh vô cùng vững chắc của mình trong vũ trụ.
Sau khi "ăn chay ròng rã bốn mươi đêm ngày, Người thấy đói" (Mt 4, 2)
Quỷ liền tấn công vào điểm yếu nhất của con người Chúa lúc đó. Trong cơn
đói cồn cào, Người vẫn mạnh dạn đáp: "Người ta sống không chỉ nhờ cơm
bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra." (Mt 4, 4). Còn
hơn cơm bánh, lời Chúa là nguồn sống của cả vũ trụ, vì "nhờ Ngôi Lời,
vạn vật được tạo thành." (Ga 1, 3). Muốn hay không, con người phải hoàn
toàn lệ thuộc vào ý Chúa.
Chính vì
thế, Người đã tâm sự với các môn đệ: "Lương thực của Thầy là thi hành ý
muốn của Đấng đã sai Thầy." (Ga 4, 34). Nhờ xác định được nguồn sống
đích thực như thế, Đức Giêsu đã đem lại sự sống phong phú cho toàn thể
nhân loại. Thật vậy, "nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa,
muôn người cũng sẽ thành người công chính." (Rm 5; 19) Khác hẳn với
nguyên tổ, Đức Giêsu đã vâng lời Thiên Chúa Cha tuyệt đối. Trước những
lời cám dỗ ngon ngọt của ma quỷ. Mặc dù ý thức mình phải lệ thuộc vào
nguồn sống là Thiên Chúa, Người vẫn không quên mình là Con Thiên Chúa
ngang hàng với Chúa Cha. Nhờ Thần Khí dẫn đường chỉ lối, Đức Giêsu đã
chiến thắng cơn cám dỗ hiểm độc này. Người đã chọn Thiên Chúa như cứu
cánh duy nhất của cuộc đời. Tiếng Người mạnh mẽ vang lên: "Ngươi phải
bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình
Người mà thôi." (Mt 4; 10).
Lạy Chúa
Giêsu Thánh Thể, bị cám dỗ là thân phận của con người, nhưng để thắng
được cám dỗ thì phải nhờ ơn Chúa. Cuộc sống ngày hôm nay cho chúng con
bao cám dỗ ngọt ngào, làm khuấy động những thèm khát nơi chúng con. Cám
dỗ thống trị bằng quyền lực, bằng cuộc sống buông thả theo bản năng, cái
tôi ích kỷ, giàu sang, danh vọng… Những thử thách đó đã trói buộc chúng
con và không cho chúng con tự do ngước lên cao để sống cho những giá trị
tốt đẹp hơn.
Lạy
Chúa, xin giải phóng chúng con khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất,
nhờ tỉnh thức và cầu nguyện, nhờ ăn chay và làm chủ bản thân, hy sinh
phục vụ. Xin cho chúng con được lớn lên trong tình yêu Chúa, sau những
lần chiến đấu vất vả và khi yếu đuối sa ngã. Ước gì chúng con không quay
lưng trước những lời mời gọi của Chúa, không ngoảnh mặt để tránh cái
nhìn yêu thương của Chúa dành cho từng người chúng con, xin cho chúng
con can đảm đứng lên, vững tin vào lòng Chúa thương xót là Đấng hay tha
thứ.
Amen.
mục lục
Bốn mươi năm
đã trôi qua kể từ biến cố Tết Mậu Thân 1968. Nhưng không ai có thể quên
những gì đã xảy ra trên quê hương Việt Nam, nhất là tại Cố Đô Huế. Dù
nhìn từ phía nào, chúng ta không thể phủ nhận quyền lực như một cám dỗ
đã đưa con người vào những sai lầm không thể tưởng tượng được.
Nếu ngày xưa,
Chúa Giêsu cũng bị sa chước cám dỗ về quyền lực như thế, cơn ác mộng còn
ghê gớm hơn. Hậu quả, nhân loại sẽ không thể được cứu độ. Rất may, Chúa
đã chiến thắng tất cả và đã mở đường giải thoát cho toàn thể nhân loại.
Đây là cuộc chiến thắng tà thần cùng với những mưu mô bất chính của nó.
Sự công chính đã chiếu tỏa ánh sáng ra chung quanh. Không có cơn cám dỗ
nào dai dẳng, mãnh liệt và nguy hiểm hơn cơn cám dỗ quyền lực. Bởi đó,
cần nhìn vào cuộc cám dỗ trong sa mạc hôm nay của Chúa Giêsu để tìm một
con đường giải thoát cho chính mình và nhân loại.
BA CƠN CÁM
DỖ MỘT BẢN CHẤT
Trong thân
phận con người, Chúa Giêsu muốn chia sẻ tất cả, kể cả những cám dỗ, để
nên giống chúng ta hoàn toàn. Trên Thiên đàng, Người không bị cám dỗ bao
giờ. Cám dỗ đã ập đến đúng lúc Chúa đói khát kinh khủng sau bốn mươi
ngày đêm ăn chay. Ngày xưa, bốn mươi năm trong sa mạc, dân Israel cũng
đã bị cám dỗ, nhưng họ đã thua cuộc.
Trong cơn
cám dỗ thứ nhất, Satan đánh thẳng vô cơn đói khát cồn cào để kích động
Chúa dùng quyền năng để thỏa mãn nhu cầu vật chất căn bản nhất. Đáp lại,
Chúa cho thấy những điều cần thiết căn bản nhất phải nhường bước trước
Lời mạc khải của Thiên Chúa. Sứ mệnh của Người không phải là cung cấp
những nhu cầu cơ bản, nhưng công bố Lời Chúa cho con người được sống. Đó
là đòi hỏi tự nhiên của đức công chính Thiên Chúa. Đảo lộn trật tự đó,
con người sẽ xúc phạm đến Thiên Chúa.
Cám dỗ thứ
hai càng cho thấy rõ cám dỗ quyền lực mạnh chừng nào. Satan trưng dẫn
Kinh thánh để đưa Chúa Giêsu lên chín tầng mây, cưỡng bức Thiên Chúa
phải hoàn thành một điều Người không hứa. Như thế là thử thách và áp đặt
Thiên Chúa vào một đường lối Người không muốn sử dụng để mạc khải chính
mình. Còn gì áp bức và bất công hơn?! Chính Chúa Giêsu đã xác định mình
xuống trần gian để làm theo thánh ý Chúa Cha, chứ không phải theo ý
riêng. Đó là đường lối công chính. Người đã không sa chước cám dỗ để
dùng quyền Thiên Chúa tạo ra một “dấu chỉ” đặc biệt để khống chế lòng
tin con người. Người tôn trọng tự do con người. Đức tin không thể do
cưỡng bức. Quả thật, “không thể hoan nghênh những gì từ nơi Thiên Chúa,
dù vĩ đại tới đâu, nếu không có tự do.” (1)
Cuối cùng,
khi đưa Chúa Giêsu lên núi cao để chỉ cho Người thấy các vương quốc trần
gian và vinh hoa của chúng, Satan muốn cám dỗ Chúa chấp nhận đóng vai
thiên sai trần thế để sớm hoàn thành những mục tiêu sứ mệnh Thiên Sai
của Chúa Cha. Chúa Giêsu vạch rõ bản chất xấu xa của Satan khi dụ dỗ
Người vào con đường xa lìa Thiên Chúa duy nhất. Muốn được vinh quang
thiên sai trần thế, phải cúi mình phủ phục các tà thần. Người chỉ có một
Vương quốc và vinh quang duy nhât bắt nguồn từ Chúa Cha, chứ không từ
trần gian (x. Ga 18:36). Vương quốc của Người không xuất phát từ những
thực tại mắt thấy tại nghe, nhưng từ trong tâm khảm con người (x. Lc
17:20-21). Như thế, cám dỗ thứ ba muốn Chúa Giêsu dùng quyền năng xây
dựng Vương quốc Thiên Chúa bằng con đường trần gian. Đúng hơn, Satan
quyến dũ Chúa vào cơn mê xây dựng một vương quốc vật chất, trong khi
Nước Thiên Chúa là một Vương quốc thiêng liêng.
Tóm lại,
Satan tìm mọi cách tách lìa Chúa Giêsu ra khỏi Thiên Chúa. Từ những nhu
cầu vật chất cơ bản nhất đến đường lối Thiên Chúa và sứ mệnh Thiên Sai,
Chúa đều bị cám dỗ dùng quyền năng thực hiện theo ý định Satan mà lìa bỏ
Thiên Chúa. Cả ba cám dỗ đều có cùng một bản chất là quyền lực. Thực tế,
chúng ta nhận thấy không gì nguy hiểm hơn quyền lực trong tay con người
thất đức! Nó có thể lôi kéo con người xa lìa Thiên Chúa lẫn anh em, nhục
mạ Thiên Chúa và phá hoại hạnh phúc con người.
Quyền lực
không phải là một điều xấu xa. Nhưng nếu không được dùng đúng chỗ, đúng
cách và đúng hướng, quyền lực có thể trở thành tai họa lớn cho nhân loại.
Khi xúi Chúa dùng quyền biến đá thành bánh, Satan đã muốn hướng Chúa về
một đối tượng không thích hợp. Khi cám dỗ Chúa dùng quyền kinh kông để
bay xuống đất từ nóc đền thờ với lý lẽ vững chắc trong Kinh thánh, Satan
tưởng có thể đẩy Chúa đến một cảnh huống có thể áp đảo cả Thiên Chúa lẫn
con người để đạt mục đích một cách ngoạn mục. Nhất là, khi phóng tầm
nhìn của Chúa về vinh quang vương quốc trần gian, Satan tưởng Chúa sẽ dễ
dàng chấp nhận cho viêc thực hiện sứ mệnh thiên sai và xây dựng Nước
Thiên Chúa theo hướng trần thế. Nhưng như Chúa đã khẳng quyết với
Philatô: “Nước tôi không thuộc trần gian này.”(Ga 18:36) Nếu không thuộc
trần gian, Nước Thiên Chúa chỉ có thể xây dựng theo ý hướng và trong
quyền lực Thiên Chúa mà thôi. Đúng như Lm. Jerzy Popie#uszko khẳng quyết::
“Các bạn không thể bị khuất phục một cách bất công bởi bất cứ quyền lực
bất chính nào của thế gian. Các bạn chỉ quì gối trước một Đấng là Thiên
Chúa mà thôi.” (2)
QUYỀN LỰC ĐỂ
PHỤC VỤ
Khi không
được xử dụng theo đúng ý Thiên Chúa, quyền lực sẽ trở thành sức mạnh áp
bức con người. Quyền lực sẽ biến con người thành chủ nhân ông của con
người. Phương tiện biến thành cứu cánh. Không gì nguy hiểm hơn!
Ngay cả tiền
bạc cũng chỉ nguy hiểm khi được chuyển hóa thành một thứ quyền lực chi
phối mọi hoạt động con người. Hậu quả tệ hại nhất của quyền lực là con
người biến thành phương tiện để củng cố và bảo vệ quyền lực. Nói khác,
chính quyền lực là nguyên nhân hủy diệt quyền làm người của con người.
“Khi vươt
qua giới hạn Thiên Chúa muốn, quyền bính loài người tự biến thành một
thần minh và bắt mọi người tuyệt đối phục tùng. Nó trở thành Con Thú
trong Khải Huyền, một hình ảnh về quyền lực của hoàng đế bách hại ‘say
máu dân thánh và máu các chứng nhân của Đức Giê-su.’(Kh 17:6) Con Thú
được ‘ngôn sứ giả’(Kh 19:20) phục vụ. Nhờ những dấu lạ lừa dối, nó xúi
giục dân chúng thờ phượng Con Thú.” (3)
Hình ảnh Con
Thú diễn tả bản chất của quyền bính nằm ngoài thánh ý Thiên Chúa. Khi
không biết đến giới hạn của mình, quyền bính tự phong thần và cứ tưởng
mình có quyền tuyệt đối trên dân chúng. Đúng là khi tư đề cao như thần
minh, con người sẽ rơi xuống hàng súc vật. Đó là lý do tại sao khi coi
thường công lý và chà đạp nhân quyền, nhà cầm quyền trở thành loài vô
tri và mất hết lương tâm. Họ cố biện minh những hành vi đàn áp nhân
quyền bằng một lý thuyết nhân quyền giả tạo. Họ lừa gạt chính mình để
thủ lợi cá nhân hay tập thể. Giống như Con Thú, họ cắm mắt những lợi lộc
trước mắt và không thấy trước những gì chờ đợi họ trong tương lai.
Mặc dù nắm
quyền tuyệt đối, “Thiên Chúa không muốn dành cho riêng mình việc thực
thi mọi quyền hành. Người trao lại cho mỗi thụ tạo những phận vụ nó có
thể thi hành theo khả năng của bản tính riêng. Xã hội loài người phải
bắt chước cách lãnh đạo này. Cách Thiên Chúa cai trị thế giới cho thấy
Người rất tôn trọng quyền tự do của con người. Đó phải là đường hướng
chỉ đạo cho những ai cầm quyền trong các cộng đồng nhân loại. Họ phải xử
sự như những thừa tác viên của Chúa quan phòng.” (4) Làm đúng như thế,
họ sẽ được Thiên Chúa tôn trọng và đem lại nhiều lợi ích cho con người.
Ngược lại, quyền lực sẽ chỉ là sức mạnh phá hoại khủng khiếp các giá trị
nhân loại mà thôi.
Tự bản chất,
quyền lực được sinh ra để phục vụ công ích. “Muốn tồn tại để phục vụ con
người thuộc mọi cấp độ, xã hội phải nhắm đến công ích như mục tiêu đầu
tiên của mình. Công ích là thiện ích chung của mọi người và của toàn thể
con người. Con người không thể hoàn thiện nơi chính mình, nhưng phải
sống ‘với’ và ‘cho’ người khác.” (5) Khi một cá nhân hay một nhóm người
tập trung và xử dụng quyền bính để đạt cho bằng được quyền lợi riêng của
mình, tất nhiên công ích sẽ biến tan. Lúc đó, mọi người sẽ phải hy sinh
cho một người hay một nhóm người, chứ không ngược lại. Công ích phải hy
sinh cho quyền lợi cá nhân hay một phe nhóm, đảng phái.
Vậy đâu là
công ích? Dĩ nhiên, “những đòi hỏi của công ích tùy thuộc những hoàn
cảnh xã hội của mỗi thời kỳ lịch sử và liên kết chặt chẽ với việc tôn
trọng và thăng tiến toàn diện nhân vị và những quyền căn bản của con
người.” (6) Như thế, tự bản chất công ích luôn nhắm tới đỉnh cao là con
người. Khi con người biến thành phương tiện để phục vụ chế độ, công ích
không thể hiện hữu, vì đã đánh mất bản chất và mục đích tối thượng.
Tự bản chất,
chính quyền không phải là cứu cánh, nhưng là công cụ phục vụ công ích
của toàn dân. Bởi thế, “những ai đang gánh vác trong lãnh vực chính trị
không được quên lãng hay đánh giá thấp chiều cạnh đại diện của những
người làm chính trị. Tư cách đại diện chủ yếu là cam kết chia sẻ hoàn
toàn số phận người dân và tìm những giải pháp cho các vấn đề xã hội. Về
phương diện này, một chính quyền có trách nhiệm cũng là một chính quyền
có những đức tính có thể thực thi quyền bính để phục vụ (kiên nhẫn,
khiêm tốn, điều độ, bác ái, nỗ lực chia sẻ), một chính quyền nằm trong
tay một người có thể chấp nhận công ích làm mục tiêu đích thực, chứ
không phải mong đạt đến uy tín hay những lợi ích cá nhân khi hoạt động.
” (7)
BỐN MƯƠI NĂM
NHÌN LẠI
Thực tế, có
nhiều người quá say mê chiến thắng hay bảo vệ thanh thế và quyền lợi phe
đảng đến nỗi coi thường mạng sống và hạnh phúc của người khác. Đó là
điều đã xảy ra vào dịp Tết Mậu Thân, cách đây bốn mươi năm tại Huế. Cho
đến nay vẫn có người cố biện minh cho hành động man rợ của mình. Tệ hơn
nữa, họ còn hãnh diện vì những hành động điên cuồng đó. Những người chịu
trách nhiệm biến cố Mậu Thân đã lên tiếng, ai còn có thể chối cãi được
nữa? Chỉ có những kẻ vô lương tâm và hèn nhát mới dám chối bỏ trách
nhiệm mà thôi.
Khi vượt
khỏi giới hạn của mình, quyền lực tự biến mình thành cứu cánh. Từ đó,
quyền lực tạo nên những bất công khủng khiếp cho đồng loại. Chỉ có những
kẻ mù quáng và vô liêm sỉ mới cố tạo cho quyền lực một thế đứng như thế.
Quyền lực đã trở thành một cám dỗ ghê gớm đối với con người. Hầu như
không có ai có thể cưỡng lại!
Nhưng trong
hoang địa, sau bốn mươi ngày ăn chay và cầu nguyện, Chúa Giêsu đã chiến
thắng cả ba cơn cám dỗ quyền lực. Kẻ thù đầy mưu ma chước quỷ cũng không
lừa gạt được Người. Những mưu chước đó nằm dưới những chiêu bài đạo đức,
vì luôn được các chứng cứ Thánh Kinh củng cố. Nhưng những bộ dạng đạo
đức đó cũng không qua mặt được Chúa.
Lạy Chúa,
xưa Chúa đã chiến thắng những cám dỗ quyền lực trong hoang địa. Xin Chúa
sai Thánh Thần đến giúp chúng con cũng vượt qua những cám dỗ quyền lực
hôm nay. Xin cho những người đang nắm quyền trong đạo cũng như ngoài đời
biết thức tỉnh như Chúa trước những giới hạn của quyền lực. Amen.
---------------------------------
1. Văn sĩ
Jacob, xứ Syria
2.http://www.danchimviet.com/php/modules.php?name=News&file=article&sid=4580
3. Toát Yếu
Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội, 382.
4. Giáo Lý
Công Giáo, 1884.
5. Toát Yếu
Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội, 165.
6. ibid.,
166.
7. ibid.,
410.
Chúa nhật I
Mùa chay hướng chúng ta về mầu nhiệm vượt qua của Chúa Giêsu. Và Chúa
nhật này cũng đưa chúng ta đến một khung cảnh, đến một sự việc bất ngờ
và kỳ diệu. Chúa Giêsu, Ngôi Hai xuống thế làm người, ngày hôm nay đã bị
ma quỷ cám dỗ. Thực tế, đây là một mầu nhiệm bởi vì ma quỷ làm sao dám
đối diện với Vua Trời Đất cao cả...
Quả thực,
Chúa Giêsu "vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì
địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang
mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế.
Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết
trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban
danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu" (Pl 2, 6-9). Như thế,
ngoại trừ tội lỗi, Chúa Giêsu đã nhập thể trong cung lòng Đức Trinh Nữ
Maria và đã làm người. Nên, Ngài là con người giống chúng ta trong mọi
sự. Chúa Giêsu đã phải đối đầu với cám dỗ và Ngài đã chống trả dứt khoát.
Trái ngược với Ông bà nguyên tổ: Ađam và Evà. Hai Ông bà nguyên tổ trong
vườn địa đàng đã bị con rắn là ma quỷ cám dỗ, nhưng nguyên tổ đã sa ngã
vì bất trung với Thiên Chúa. Còn Chúa Giêsu khi sửa soạn sứ vụ công khai
của Ngài, Ngài đã đi vào nơi hoang địa để đương đầu với ma quỷ trong
những cám dỗ chết người, nhưng Ngài đã một mực trung thành với thánh ý
của Thiên Chúa Cha và ý chí ấy đã đưa Ngài từ Sa mạc hoang vu, tới dòng
sông Giorđăng, từ Giêrusalem đến vườn Cây Dầu, nơi đây, ma quỷ còn thử
thách Ngài nặng nề hơn nữa, cám dỗ Ngài bỏ sứ mạng cứu thế của Ngài. Tuy
nhiên, Chúa Giêsu lúc nào cũng đầy Thánh Thần và Ngài đã luôn chiến
thắng những cám dỗ do ma quỷ bầy ra để kéo Ngài ra khỏi Thiên ý của Chúa
Cha. Ngày Lễ Lá, chúng ta thấy Chúa Giêsu thốt lên trong vườn Cây Dầu
khi Ngài đang hấp hối: "Lạy Cha, nếu có thể được, thì xin cất chén đắng
này khỏi con". Nhưng, Chúa Giêsu luôn kiên nhẫn, luôn kết hiệp mật thiết
với Chúa Cha trong lời cầu nguyện. Chính vì thế, Ngài luôn nhận được sức
mạnh của Chúa Thánh Thần và Ngài luôn hết mình tuân phục Thánh ý của
Thiên Chúa cha: "Nhưng xin theo ý Cha, đừng theo ý của Con".
Chúa Giêsu
đã luôn đi theo con đường của Thiên Chúa Cha. Đó là con đường cứu độ,
con đường tình yêu. Chúa Giêsu đã đi từ đau khổ, chết tới phục sinh. Đó
là Mầu nhiệm Vượt Qua. Đó là cuộc đau khổ hồng phúc của Chúa Giêsu. Bởi
vì, Ngài đi qua thống khổ, bị kết án tử hình, bị treo trên Thập giá, bị
táng trong mồ và sau ba ngày, Ngài đã sống lại khải hoàn. Đây là mầu
nhiệm vì nó được giấu kín trong sự khôn ngoan khôn lường của Thiên Chúa
Cha.
Ba cám dỗ về
của ăn, tiền tài vật chất, danh vọng là ba cám dỗ đã làm cho biết bao
người ngã gục trước nanh vuốt đen tối của ma quỷ. Chúa Giêsu đã anh dũng
chiến thắng tội lỗi, cám dỗ và sự chết. Ngài đã đi từ cõi chết đến cõi
sống, đi từ bóng tối tới ánh sáng trường sinh, vĩnh cửu.
Chúa Giêsu
đã chết và đã vinh thắng sự chết, khải hoàn sống lại vinh quang. Ngài đã
chết cho chúng ta được sống, Ngài đã gánh tội của chúng ta không như tội
nhân mà là Đấng giải thoát nhân loại khỏi tội lỗi. Mầu nhiệm phục sinh
là chân lý hướng dẫn người Kitô hữu trong suốt cả cuộc hành trình đức
tin dưới thế. Đặc biệt, Mùa chay ba phương thế: ăn chay, cầu nguyện, bố
thí là ba phương cách truyền thống giúp người Kitô hữu kết hiệp với Chúa
Giêsu và giúp người Kitô hữu hợp nhất với lời cầu nguyện của Chúa Giêsu,
với lễ Vượt Qua của mỗi người chúng ta để rồi chúng ta có thể thốt lên:
" Xin cho ý Cha được thể hiện dưới đất cũng như trên trời ".
Lạy Chúa
Giêsu, xin cho chúng con luôn biết phó thác vào sự quan phòng của Chúa
và ban cho chúng con sức mạnh của Chúa Thánh Thần để chúng con vững mạnh
trong đức tin mà chiến thắng mọi cạm bẫy của ma quỷ.
Amen.
Người
ta kể câu chuyện: trong ngày họp tổng kết cuối năm, báo cáo của các quỷ
đều sút giảm việc lôi kéo con người, do đó Luxife đã yêu cầu các thành
viên hiến kế làm thế nào để có thể cám dỗ hiệu quả nhất, và lôi kéo được
nhiều người nhất. Một tên nói: Tôi sẽ hiện nguyên hình hoặc tạo ra những
chuyện lạ lùng để làm lung lạc đức tin của người tín hữu. Tên thứ hai
nói: Tôi sẽ lấy những hình ảnh các cô gái đẹp, các chàng trai hấp dẫn,
tạo nên những chỗ vui chơi khiến cho các tín hữu mất cảnh giác. Cả hai ý
kiến đều rất hay và được tất cả hội nghị vỗ tay. Tên thứ ba góp ý: Tôi
sẽ nói cho mọi người tin là không có ma quỷ, cũng chẳng có cám dỗ, cuộc
sống con người làm ra tiền thì phải hưởng thụ. Ý kiến này thật xuất sắc
và nguy hiểm và được cả hôi nghị vỗ tay tán thưởng và chọn để hành động.
Thưa qúy
OBACE, câu chuyện ấy cho thấy một sự thật, đó là ma quỷ có rất nhiều mưu
mô, các cám dỗ thì muôn hình muôn vẻ, và cám dỗ nào cũng nguy hiểm nếu
chúng ta không sẵn sàng để đương đầu với nó, nó sẽ hạ gục chúng ta.
Ngày xưa
khi Thiên Chúa dựng nên con người, và cho con người được hưởng hạnh phúc
trong vườn Địa Đàng, thì dường như Satan đã tức tối với Thiên Chúa, ghen
tị với con người nên nó tìm mọi cách để tách con người ra khỏi Thiên
Chúa. Câu chuyện trong sách Sáng Thế hôm nay đã dùng những hình ảnh hết
sức đơn sơ để nói lên sự thất bại của nguyên tổ loài người trước sự tấn
công của ma quỷ. Mượn hình ảnh con rắn là loài xảo quyệt, ma quỷ đã dụ
dỗ Evà, và bà đã để mình mất cảnh giác trước những lời đưa đẩy ngọt ngào
của nó.
Trước hết
nó gieo vào trong bà Evà sự nghi ngờ Thiên Chúa: Có phải Thiên Chúa cấm
các ngươi không được ăn mọi trái cây trong vười không? Qua một câu nói
vu vơ như thế nó khiến cho bà Evà nghĩ rằng chắc Thiên Chúa không yêu
con người, Ngài còn muốn giữ riêng cho Ngài điều gì đó, Ngài không muốn
ban tất cả cho con người. Kế đến Satan nói với bà: Không chết chóc gì
đâu, ăn trái cây vào, mắt ông bà sẽ mở ra và ông bà sẽ trở nên như thần
linh. Với lời cám dỗ tiếp theo này, nó càng làm gia tăng sự nghi ngờ của
bà Evà, và nó còn đưa ra một cái cám dỗ sâu xa hơn, đó là đụng chạm đến
cái khát khao trở nên như thần linh trong mỗi con người, muốn biết trước
được tương lai, muốn biết điều lành điều dữ, sẽ trở nên quyền phép ngang
hàng như Thiên Chúa, muốn tự định đoạt cho tương lai của mình mà không
cần đến Thiên Chúa, không phải lệ thuộc Thiên Chúa nữa. Bà Evà và đã
xiêu lòng trước cám dỗ ngọt ngào này, bà nhìn trái cây thì đẹp mắt, ăn
thì ngon, và đáng quý vì làm cho mình nên tinh khôn. Bà đã hái trái mà
ăn, rồi còn đưa cho chồng nữa. Cái tội ông bà nguyên tổ gây ra nó không
phải bởi hái một trái táo, mà nó là cái tội nghi ngờ tình yêu của Thiên
Chúa, và muốn đặt mình ngang hàng với Thiên Chúa. Lúc bà tưởng mình nên
như thần linh thì cũng là lúc bà thấy mình thất bại, mắt bà mở ra nhưng
không biết được điều lành điều dữ trong tương lai, mà Thánh Kinh ghi lại,
ông bà nguyên tổ chỉ nhìn thấy sự trần trụi, xấu hổ của mình mà thôi.
Nếu như
nguyên tổ loài người đã thất bại trước cám dỗ của Satan, thì tin Mừng
cho thấy Đức Giêsu là Adam mới đã không cậy dựa vào sức mình, nhưng Ngài
đã dùng Thánh Thần và Lời Chúa làm vũ khí chống lại ma quỷ, và Ngài đã
chiến thắng.
Trước khi
bắt đầu sứ vụ công khai, sau khi chịu phép rửa, Thánh Thần đã dẫn đưa
Ngài vào sa mạc, nơi đó, Ngài sống chay tịnh và chịu ma quỷ cám dỗ.
Cám dỗ đầu tiên chính là cám dỗ về vật chất, cám dỗ về bản năng.
Ma quỷ nhắm đến việc thỏa mãn cho cơn đói, nên nó nói với Chúa: Nếu ông
là Con Thiên Chúa thì hãy truyền cho những hòn đá này nên bánh đi. Nó
muốn Chúa Giêsu nhân danh Thiên Chúa để thỏa mãn cho nhu cầu cái bụng
của mình, và dùng quyền năng để tìm kiếm, thỏa mãn nhu cầu vật chất, để
từ đó dùng vật chất để phục vụ cho nhiệm vụ Mesia của mình. Như thế có
nghĩa là sẽ sự thành công sau này sẽ không phải bởi Thiên Chúa, mà do
vật chất đem lại. Thấy được mưu mô của nó, Chúa Giêsu đã trả lời: Người
ta sống không nguyên bởi bánh, như còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa
phán ra.
Cám
dỗ tiếp theo:
Nếu ông là Con Thiên Chúa thì hãy gieo mình xuống đi, vì Thiên Chúa sẽ
cho Thiên thần đưa tay nâng đỡ ông mà! Cám dỗ này như con dao hai lưỡi,
nếu từ chối, thì có nghĩa là không tin Thiên Chúa sẽ đưa tay ra nâng đỡ,
và nếu nghe theo, thì sẽ rơi vào tình trạng muốn thử thách tình yêu của
Thiên Chúa. Qua cám dỗ này, ma quỷ nó cám dỗ Chúa dùng quyền năng của
Thiên Chúa để phục vụ cho chính mình, để tạo ra những điều hấp dẫn ngoan
mục thu hút dân chúng, làm những việc nổi tiếng để thuyết phục người
nghe. Nhưng Đức Giêsu đã trả lời cho ma quỷ: Ngươi đừng thử thách Chúa
là Thiên Chúa của ngươi.
Cám
dỗ thứ ba
trầm trọng hơn, khi nó tự nhận tất cả mọi vinh quang thế gian là của nó,
và nó nói: Nếu ông sấp mình thờ lạy tôi, tôi sẽ cho ông tất cả. Với cám
dổ này, ma quỷ muốn đặt Đức Giêsu về phía đối nghịch với Thiên Chúa,
dùng quyền bính Mesia để giành lấy vinh quang, danh vọng, quyền lực về
cho mình. Sấp mình thờ lậy nó, thì có nghĩa là hoàn toàn lệ thuộc vào nó,
chịu sự chi phối của nó, tức là hạ bệ Thiên Chúa và đặt ma quỷ vào vị
trị của Thiên Chúa. Với cám dỗ này, Chúa Giêsu đã có một phản ứng mạnh
mẽ và quyết liệt: Satan, hãy cút đi, vì có lời chép rằng: ngươi phải thờ
lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của người và chỉ thờ phượng một mình Ngài mà
thôi. Chúa giêsu đã cương quyết không dung túng cho ý nghĩ sai lạc này,
Ngài đã xua đuổi Sa tan và đã khẳng định vị trí và vai trò độc nhất của
Thiên Chúa trong cuộc đời mình.
Thưa quý
OBACE, cám dỗ chưa phải là điều tội, nó chỉ trở thành tội khi chúng ta
chấp nhận chiều theo nó. Tuy nhiên với sư mưu mô xảo quyệt của ma quỷ và
sự tinh vi của các cơn cám dỗ, chúng ta sẽ khó có thể đương đầu với nó
nếu chúng ta không cậy dựa vào sức mạnh của Lời Chúa. Đó cũng là điều
Tin Mừng muốn minh chứng cho chúng ta, vì chính Chúa Giêsu khi đương đầu
với cám dỗ, Ngài không cậy dựa vào sức riêng của bản thân, nhưng Ngài đã
cậy dựa vào lời Kinh Thánh làm vũ khí để đánh bại mọi cám dỗ ma quỷ bày
ra nhằm làm chệch hướng sứ vụ Mesia của Ngài.
Ngày xưa
ma quỷ đã thất bại trong việc cám dỗ Chúa Giêsu, ngày nay ma quỷ nó cũng
không buông tha những người tin theo Ngài. Ngày nay nó không cám dỗ
chúng ta cách rõ ràng, nhưng nó rất kiên nhẫn để đi từng bước khiến
chúng ta chệch đường, sai hướng và rơi vào bẫy của nó. Chắc chắn nó
không dùng những hình ảnh hết ghê sơ để cám dỗ hay hù dọa chúng ta,
nhưng nó dùng những thứ tưởng chừng như vô hại, những lời lẽ ngọt ngào,
những thói quen không tốt tích tụ từ ngày này qua ngày khác khiến chúng
ta mất cảnh giác.
Nó cũng
đang nhắm vào các bậc cha mẹ với lý do cơm áo gạo tiền để từ chối đến
với Chúa, để nhắm mắt làm ngơ trước những giới răn lề luật của Thiên
Chúa, sống xao nhãng xa lìa Thiên Chúa và để cho gia đình mình trở nên
nguội lạnh vắng tiếng đọc kinh thiếu giờ cầu nguyện, từ đó trở nên mảnh
đất tốt cho ma quỷ gieo vào đó sự bất hòa cãi vã sự gian dối lươn lẹo,
sự bất đồng bất hòa trong gia đình. Nó cũng đang cám dỗ nhiều người chỉ
lo làm giàu mà quyên mất sự hiện diện và quyền năng của Thiên Chúa, muốn
tự mình quyết định cho tương lai của mình mà không cần đến Thiên Chúa,
nó cám dỗ nhiều người muốn biến mình trở nên như thần linh, muốn biết
trước về tương lai của mình, biến mình trở nên những vị thày khôn ngoan
đạo đức để lôi kéo người khác và khiến các tín hữu chạy đến với các thày
bói toán để hỏi ý kiến thay vì đến với Thiên Chúa.
Nhiều bạn
trẻ và nhiều người khác đang bị ngã gục bởi cám dỗ về vật chất danh vọng
và quyền lực, họ đã tìm kiếm vật chất, danh vọng và quyền lực bằng mọi
giá, thích nổi danh nổi tiếng, kể cả việc dẫm đạp lên phẩm giá của mình
và giẫm đạp lên anh em, sẵn sàng cúi xuống để thờ lậy ma quỷ và đồng
minh của nó là thế gian và dục vọng xác thịt, và quay lưng lại với giới
răn lề luật của Thiên Chúa. Những cám dỗ mời chào của ma quỷ, của những
trào lưu trong xã hội ngày nay, nó như viên đạn bọc đường vô cùng nguy
hiểm, nó sẽ hủy hoại và giết chết nhiều tâm hồn không biết cậy dực vào
Chúa mà chỉ cây dựa vào chính mình.
Xin cho
chúng ta biết học nơi Chúa Giêsu, dùng Lời Chúa làm sức mạnh chống lại
với cám dỗ của ma quỷ, và xin cho chúng ta biết noi gương Đức Maria là
Evà mới luôn sẵn sàng thưa tiếng xin vâng để phó thác cuộc đời cho tình
yêu và sư bảo vệ của Chúa. Amen.
Hằng năm,
vào Chúa Nhật I Mùa Chay, Tin Mừng tường thuật cho chúng ta chuyện tích
“Đức Giê-su chịu thử thách trong hoang địa”. Vì thế, Tin Mừng của Phụng
Vụ Lời Chúa Năm A này mời gọi chúng ta lắng nghe và suy gẫm câu chuyện
Đức Giê-su chịu thử thách trong hoang địa theo Tin Mừng Mát-thêu.
St 2:
7-9; 3: 1-7
Bài Đọc
I, trích từ sách Sáng Thế, mô tả sự thử thách của người nữ đầu tiên bằng
ngôn ngữ hình tượng. Trước sự chọn lựa: hoặc nương tựa vào Đấng Tạo Hóa,
hay tự mình quyết định theo sự tự do của riêng mình, người nữ này đã sa
ngã kéo theo nhân loại.
Rm 5:
12-19
Trong Thư
gửi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô gợi lên rằng nhân loại từ nguyên thủy
mang dấu ấn của tội lỗi, nhưng nhờ Đức Giê-su, được thoát khỏi tội A-đam
và được tái sinh trong muôn vàn ân sủng.
Mt 4:
1-11
Tin Mừng
Mát-thêu tường thuật việc Đức Giê-su chịu thử thách trong hoang địa.
Xa-tan đề nghị cho Ngài những con đường cứu thế khác với con đường thập
giá mà Chúa Cha đã chọn.
BÀI ĐỌC I
(St 2: 7-9; 3: 1-7)
Sách Sáng
Thế bắt đầu với hai chuyện tích về Cuộc Sáng Tạo: chuyện tích thứ nhất
(St 1: 1-2: 4a) được biên soạn bởi truyền thống Tư Tế (P) vào thế kỷ IV
trước Công Nguyên và chuyện tích thứ hai cổ xưa hơn (St 2: 4b-25) được
biên soạn bởi truyền thống Gia-vít vào thế kỷ X trước Công Nguyên.
– Chuyện
tích thứ nhất thuật lại cuộc sáng tạo trong sáu ngày theo cái khung của
một tuần lễ Do thái mà đỉnh cao là ngày thứ bảy, ngày sa-bát. Chuyện
tích này hình thành nên một đơn vị nhờ kỷ thuật đóng khung, bắt đầu với
“Lúc khởi đầu Thiên Chúa sáng tạo nên trời đất” (St 1: 1) và kết thúc
với: “Đó là nguồn gốc trời đất khi được sáng tạo.” (St 2: 4a). Diễn ngữ:
“trời đất” chỉ toàn thể vũ trụ.
Bằng văn
phong trang trọng có nhịp điệu của một bài thánh thi phụng vụ, tác giả
truyền thống Tư Tế cho chúng ta biết làm thế nào Thiên Chúa đã dựng nên
muôn loài muôn vật một cách tốt đẹp, trong đó con người là loài thụ tạo
tuyệt hảo nhất (St 1: 31), vì Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người sau
cùng như tuyệt đỉnh công trình sáng tạo của Ngài. Thêm nữa, Ngài đã tạo
dựng con người có nam có nữ “theo hình ảnh và họa ảnh của Ngài”.
– Chuyện
tích thứ hai bắt đầu với “Ngày Đức Chúa, là Thiên Chúa làm ra đất và
trời” (2: 4b). Như vậy, với diễn ngữ “đất và trời”, chuyện tích thứ hai
trình bày công trình sáng tạo của Thiên Chúa khởi sự nơi mặt đất, trong
đó con người là trung tâm. Chuyện tích thứ hai này còn tiếp tục kể cho
chúng ta về “Thử Thách và Sa Ngã” (St 3: 1-7). Tuy nhiên, tác giả không
dừng lại ở nơi một tương lai vô vọng không lối thoát do sự sa ngã của
con người đầu tiên, nhưng tiếp tục kể cho chúng ta về án phạt và lời hứa
cứu độ (St 3: 8-24). Như vậy, qua chuyện kể liên tục của mình, tác giả
muốn giới thiệu lịch sử cứu độ và đưa ra lý do đầu tiên: tội của con
người và niềm hy vọng tương lai được thoáng thấy ở nơi lời hứa cứu độ:
“Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng
giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót
nó” (St 3: 15).
Trong
chuyện kể của mình, tác giả Gia-vít sử dụng kiểu nói trực tiếp và cụ
thể: ông trình bày Thiên Chúa như nhân, nghĩa là Thiên Chúa hành xử như
một con người. Ngoài ra, ông cũng không ngần ngại sử dụng ngôn ngữ thần
thoại mà ông đã khai thác rất nhiều ở nơi kho tàng thần thoại rất phổ
biến vào thời ông, nhưng ông sử dụng những chất liệu này cách tự do khi
đặt chúng vào trong bối cảnh mới và ban cho chúng một tầm mức thần học
khác biệt tận căn. Nhờ vận dụng hình ảnh và biểu tượng của khoa thần
thoại, tác giả chuyển tải những suy tư nghiêm trọng nhất về nhân loại,
như lời nhận xét của Đức Gioan Phao-lô II: “Đối với chuyện tích thứ hai
về Cuộc Sáng Tạo, cách thức diễn đạt phù hợp với cách suy nghĩ của thời
đại… Người ta có thể nói… rằng cốt là ngôn ngữ thần thoại. Quả thật,
trong trường hợp này, thuật ngữ thần thoại không chỉ ra một nội dung
huyền thoại, nhưng một cách thức cổ xưa để diễn tả một nội dung sâu xa
hơn… Nội dung này đáng khâm phục ở nơi những điều liên quan đến những
phẩm chất và độ đậm đặc của các chân lý mà nó chứa đựng” (Jean Paul II,
Audience generale du mercredi 7 novembre 1979).
Hai đoạn
văn đề nghị cho chúng ta hôm nay đều được trích từ chuyện tích thứ hai
về cuộc Sáng Tạo, trong đó đoạn văn thứ nhất (St 2: 7-9) liên quan đến
cuộc sáng tạo con người và đoạn văn thứ hai (St 3: 1-7) liên quan đến
cuộc thử thách và tội nguyên tổ.
CUỘC SÁNG
TẠO CON NGƯỜI (St 2: 7-9)
1. Con
người, được sáng tạo đầu tiên trước mọi sinh vật
Trong
chuyện tích thứ nhất, công trình Sáng Tạo diễn ra trong sáu ngày, trong
đó người nam và người nữ được sáng tạo đồng lúc và cuối cùng, như tuyệt
đỉnh của công trình sáng tạo. Trái lại, trong chuyện tích thứ hai, con
người được sáng tạo đầu tiên trước mọi sinh vật, và được sáng tạo một
mình, không người nữ; người nữ sẽ xuất hiện sau này. Đây là cách thức mà
tác giả Gia-vít sử dụng để nhấn mạnh quyền tối thượng của con người.
Đấng Sáng Tạo sắp biểu lộ tất cả niềm ưu ái của mình đối với thụ tạo đầu
tiên của Ngài.
Đức Chúa
sáng tạo con người được mô tả như một thợ gốm thần linh “lấy từ bụi đất
nặn nên con người”; sau này, Đức Chúa sáng tạo mọi sinh vật cũng được mô
tả theo cùng một cách như vậy: Đức Chúa “lấy đất nặn ra chúng” (St 2:
19). Tuy nhiên, sắc thái biệt phân giữa con người và các sinh vật khác
được trình bày rất tinh tế: con người và sinh vật có chung một xác thể,
vì thế, sau này, khi con người phạm tội, Thiên Chúa nhắc nhở cho con
người nguồn gốc mỏng dòn của nó: “Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi
đất” (St 3: 19); nhưng chỉ duy một mình con người mới được Thiên Chúa
“thổi sinh khí vào lỗ mũi”, chính sự khác biệt này nói lên chiều kích
cao cả của con người trên mọi loại thụ tạo.
Việc Đấng
Sáng Tạo được mô tả như một người thợ gốm nhào đất sét mà nặn nên con
người thuộc về di sản chung của nhiều dân tộc xưa. Ở Ai-cập, chính thần
Knoum sáng tạo nên con người bằng cách nặn nên họ hàng loạt trên bàn
xoay của người thợ gốm. Ở Sumer, chính mẫu thần Nammu nặn nên con người
đầu tiên; ở Ba-by-lon, thần Ea “với đôi tay của mình đã sáng tạo nên con
người”; ở Hy-lạp, một bản văn thần thoại kể rằng thần Démiurge nhân ái
đã nặn ra con người bằng đất sét thấm đẫm nước mắt của thần. Con người
sinh ra từ đất, đó là niềm tin tưởng khá phổ biến vào thời đó. Nhưng, về
cơ bản, chuyện tích Kinh Thánh khác biệt với các chuyện tích này, đó là,
người thợ gốm thần linh là Đấng Sáng Tạo, từ đất Ngài nặn nên hình người
và làm sinh động hình người ấy bằng sinh khí của chính Ngài.
2. Con
người, một sinh linh
Đức Chúa
thổi sinh khí vào hình tượng người bất động để làm cho con người sinh
động. Sinh khí mà Đức Chúa ban cho con người phát xuất từ Thiên Chúa, vì
thế, khi trút hơi thở cuối cùng, con người sẽ hoàn lại cho Ngài. Thánh
Gioan diễn tả cái chết của Đức Giê-su trên thập giá cũng bằng dụng ngữ
này: “Rồi người gục đầu xuống và trao Thần Khí” (Ga 19: 30).
Khi mặc
khải ngôi vị của Thần Khí và ân ban của Ngài cho con người trong Đức
Giê-su, Tân Ước đã cho khoa nhân loại của sách Sáng Thế chiều kích đích
thật của nó. Đấng Sáng Tạo lập lại cử chỉ này trên mỗi người lãnh nhận
bí tích Rửa Tội khi Ngài thổi hơi sự sống siêu nhiên vào họ, có nghĩa họ
được tái sinh.
3. Đức
Chúa thiết lập nơi cư ngụ cho con người
Giữa
khung cảnh đất hoang vu trơ trọi, thiên Chúa đã làm nẩy sinh một vườn
cây kỳ diệu. Khu vườn này được gọi là “Ê-đen”, nghĩa là khu vườn xinh
đẹp, và “về phía Đông” nghĩa là ở phía mặt trời mọc, dấu chỉ ánh sáng và
sự sống. Trong khu vườn kỳ diệu này, Đức Chúa cho mọc lên đủ loại cây
đơm bông kết trái xanh tươi nhờ một dòng sông từ vườn chảy ra tưới khắp
bốn phía. Rồi đặt con người vào đó.
4. Cây
trường sinh và cây biết thiện ác
Trong các
loại cây này, có hai loại cây không thuộc vào bất kỳ loại thảo mộc nào:
“cây trường sinh” và “cây biết thiện ác”. “Cây trường sinh” là hình
tượng cổ điển trong vùng Cận Đông xưa, đó là cây bất tử. Tính cách biểu
tượng của nó được hổ trợ bởi bóng dáng tự nhiên (cây cao bóng cả bốn mùa
xum xê cành lá) và bởi chiều kích phụng vụ: trong những thánh điện, các
vị thần linh được cho là nhờ ăn trái của cây này mà bất tử. Điều này
được phản ảnh ở nơi St 3: 22: sau khi con người đã ăn trái cây này, Đức
Chúa là Thiên Chúa nói: “Này con người đã trở thành như một kẻ trong
chúng ta, biết điều thiện điều ác. Bây giờ, đừng để nó giơ tay hái cả
trái cây trường sinh mà ăn và được sống mãi” (St 3: 22).
“Cây biết
điều thiện điều ác” là dụng ngữ sáng tạo của truyền thống Gia-vít. Có
thể tác giả đã được gợi hứng, ít nhiều, từ một vị tiền nhiệm Ba-by-lon:
ở lối vào nơi cư ngụ của các vị thần, có hai cây: cây trường sinh và cây
chân lý. Chúng ta cũng gặp một cặp đối xứng nổi tiếng khác: thi hào
Homère nói với chúng ta rằng trước đền thờ của các thần linh trên đỉnh
núi Ô-lim-píc, có hai chậu được chôn sâu dưới đất; một chậu chứa đựng
những điều thiện, chậu kia chứa đựng những điều ác.
Ở nơi
diễn ngữ “biết điều thiện điều ác”, động từ “biết” chỉ sự hiểu biết do
từ kinh nghiệm. Khác ngôn ngữ của những triết gia, ngôn ngữ Híp-ri thích
liên kết những cặp mâu thuẫn để nói lên cái toàn thể, chẳng hạn như ngày
và đêm, bóng tối và ánh sáng, nam và nữ…, vì thế đây cốt là một sự khôn
ngoan siêu phàm, một phẩm chất đặc biệt mà chỉ mình Thiên Chúa mới có
thể sở hữu tròn đầy.
Đoạn
trích dẫn ngắn hôm nay không kể ra việc Thiên Chúa canh giữ cây biết
điều thiện điều ác này; tuy nhiên, phần tiếp theo câu chuyện cho thấy
điều đó. Thiên Chúa ấn định cho con người một giới hạn bất khả vượt qua,
nhưng Ngài không rào cây này để dành riêng cho Ngài; Ngài phó thác cho
lương tri của con người.
THỬ THÁCH
(St 3: 1-7)
Phần thứ
hai của Bài Đọc I là phần đầu chương 3 của sách Sáng Thế, giới thiệu
chuyện tích về cuộc thử thách và tội nguyên tổ. Đây là một đề tài rất
phổ biến hay ít ra rất gần với đề tài thuộc thể loại anh hùng ca: một vị
anh hùng tìm cách lấy cắp một trong những đặc quyền của các vị thần, như
ở Lưỡng Hà Địa, nhân vật Gilgamesh ra đi tìm kiếm cây trường sinh; ở
Hy-lạp, Prométhée ăn cắp lửa thiêng, hoặc Héraclès đoạt lấy những trái
táo trường sinh. Ngoài ra, cũng có biết bao đề tài tương tự ở Ấn Độ xưa,
vân vân.
Tác giả
kinh thánh biến đổi sâu xa hành động này khi định vị nó vào trong văn
mạch thần học duy nhất và đặc thù. Ông biến đổi tham vọng của con người
thành nguyên mẫu của tội cũng như tiền lịch sử của Sự Ác. Mặt khác, ông
chủ ý mô tả biến cố nội tâm hơn là một biến cố bên ngoài. Bức tranh về
cuộc Thử Thách là một tiểu phẩm kiệt tác về sự phân tích tâm lý.
1. Con
rắn
Chuyện
tích về sự thử thách bắt đầu với câu then chốt gây sửng sốt này: “Rắn là
loài xảo quyệt nhất trong mọi loài vật hoang dã, mà Thiên Chúa đã làm ra
nó”. Như vậy trong tấm thảm kịch sắp diễn ra, người kể chuyện giới thiệu
một nhân vật kỳ lạ, một con rắn biết nói, biểu tượng sự Ác, mà truyền
thống đã nhận ra ở nơi con vật này là quỷ vương (Kn 2: 24). Ngay lập
tức, vị ác thần này bị giảm thiểu đến mức tối đa: kẻ sắp tỏ mình ra là
đối thủ của Thiên Chúa không gì khác hơn là một con vật “trong mọi loài
vật nơi hoang dã”, một thụ tạo giữa mọi loài thụ tạo mà Thiên Chúa đã
dựng nên, chứ không là một hữu thể tối cao, một ác thần như đối thủ của
Thiên Chúa tốt lành. Việc giải thích Cựu Ước theo nhị nguyên: cuộc xung
đột giữa Thiện và Ác, bị loại bỏ ngay từ những trang đầu tiên của bộ
Kinh Thánh.
Tại sao
chọn lựa con rắn? Trước hết, trong hầu hết những chuyện tích thần thoại,
cây trường sinh mà các thần linh giữ lấy cho riêng mình để hưởng dùng,
chung chung được mãng xà, con rồng hay ác thú, đôi khi quái vật, canh
giữ. Truyền thống Gia-vít đã hướng sự chú ý đến cây biết điều thiện điều
ác, chính điều ác mà ông liên kết với con rắn. Nhưng thay vì để cho con
rắn làm kẻ canh giữ không cho con người tiến gần cây biết thiện điều ác,
thì lại mở lối cho người phụ nữ đến gần và kích động lòng ham muốn ăn
trái cây của bà. Con rắn hành xử như một kẻ gian ác. Chính ở nơi nét bút
đặc thù này mà chúng ta đánh giá sự tự do của tác giả Kinh Thánh khi sử
dụng hình tượng ngoại giáo.
Vả lại,
nhiều dân tộc thời xưa đã nêu bật một cách nào đó hình tượng của con
rắn. Họ liệt con rắn vào số những biểu tượng của sự sống và sự tái sinh:
việc rắn thay da theo định kỳ xem ra nó sở hữu những bí quyết đem lại
nguồn thanh xuân vĩnh hằng. Vì thế, bộ ba: người phụ nữ – cây – con rắn
thuộc vào hình tượng của những việc thờ cúng cầu xin sự phong nhiêu và
phồn sinh. Khoa ảnh tượng tôn giáo của thiên niên kỷ thứ hai trước Công
Nguyên cung cấp nhiều ví dụ về đề tài này. Chúng ta không loại trừ rằng
khoa ảnh tượng này đã là nguồn gợi hứng cho tác giả Kinh Thánh phác họa
bức tranh này, nhưng ông đã tách nó ra khỏi ý nghĩa duy nhiên.
Mặt khác,
rắn, con vật ở trong hang sâu dưới lòng đất, gợi lên mối giao du thân
cận với địa giới, âm phủ, nơi ở của những vong hồn và những quỷ thần
đáng sợ. Do đó, con rắn được xem như biết những bí ẩn của việc sinh tử
mà địa giới nắm giữ. Cuộc đối thoại của con rắn với người phụ nữ diễn ra
theo hướng này: con rắn tự phụ là mình biết những thiên cơ hậu vận như
Thiên Chúa.
Cuối
cùng, việc con rắn bị nguyền rủa không phải là không có hậu ý bút chiến.
Vào thời truyền thống Gia-vít soạn thảo câu chuyện này, dân chúng vẫn
còn tôn thờ trong đền thờ con rắn đồng được đồng hóa nó với con rắn đồng
mà ông Mô-sê giương cao trong sa mạc. Phải đợi đến vua Khít-ki-gia, vào
thế kỷ thứ tám, mới phá bỏ việc thờ cúng ngẫu tượng này: “Chính vua đã
dẹp các tế đàn ở nơi cao, đập bể các trụ đá, bổ các bàn thờ và đập tan
con rắn đồng ông Mô-sê đã làm, vì cho đến thời đó, con cái Ít-ra-en vẫn
đốt hương kính nó; người ta gọi nó là Nơ-khút-tan.” (2V18: 4).
2. Người
phụ nữ
Con rắn
ngỏ lời với người phụ nữ: “Có thật Thiên Chúa đã bảo: Các ngươi không
được được ăn mọi thứ cây trong vườn không?”. Tên cám dỗ bắt chuyện với
một mình người phụ nữ, vì bà đã không trực tiếp nghe những lời cảnh báo
của Thiên Chúa. Ngoài ra, chắc chắn nó nghĩ rằng người phụ nữ này dễ bị
xiêu lòng trước lời dụ dỗ ngon ngọt của nó hơn người nam. Mặt khác, đề
tài về người phụ nữ đầu tiên phạm tội được gặp thấy ở nơi khác, chẳng
hạn như ở Hy lạp trong câu chuyện thần thoại Pandore, người phụ nữ đầu
tiên này mở cái chậu chứa đựng những điều xấu không phải lúc; vì thế,
những điều xấu này tràn lan khắp mặt đất, chấm dứt hạnh phúc nguyên thủy
của nhân loại.
3. Lời dụ
dỗ dối trá
Để có thể
gieo nghi ngờ vào lòng người phụ nữ, con rắn khôn khéo giả vờ ngây thơ
hỏi người phụ nữ: “Có thật Thiên Chúa bảo: ‘Các ngươi không được ăn mọi
cây trong vườn không?’” (3: 2). Theo cấu trúc câu của ngôn ngữ Híp-ri,
đây không là một câu hỏi, nhưng là một câu nghi vấn mà người kể chuyện
có dụng ý để nó trong thế lơ lững, nhằm để khích bác. Quả thật, người nữ
phản ứng ngay tức khắc: “Trái cây trong vườn, thì chúng tôi được ăn. Còn
trái của cây ở giữa vườn, thì Thiên Chúa đã bảo: Các ngươi không được ăn,
không được động tới, nếu không, sẽ phải chết” (3: 3). Câu trả lời của
người nữ cho thấy, dù không được Thiên Chúa truyền đạt trực tiếp, người
nữ hiểu rất rõ tính nghiêm trọng của lời cảnh báo này.
Lúc đó,
tên cám dỗ tìm cách tẩy xoá ý tưởng về Thiên Chúa tốt lành và thiện hảo
trong tâm trí của người phụ nữ; nó trình bày Ngài như kẻ ghen tuông và
lừa dối, muốn giữ lấy những đặc quyền cho riêng mình: “Chẳng chết chóc
gì đâu! Nhưng vì Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông
bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác”
(3: 5). Với những lời dụ dỗ bùi tai này, người phụ nữ bắt đầu nghi ngờ
Thiên Chúa; chính ở nơi ý tưởng sai lầm về Thiên Chúa mà tội lỗi sắp bén
rễ.
4. Tấn
thảm kịch của sự tự do
Lúc đó,
người kể chuyện mô tả cuộc đấu tranh đang diễn ra trong lương tri của
người nữ. Ông mô tả nó như cuộc chiến của một con người tự do, có trách
nhiệm, hoàn toàn sáng suốt. Vì thế, không phải vì ăn trái cây biết điều
thiện điều ác mà người nữ – và người nam- đã thủ đắc được sự biện phân
điều thiện điều ác (như vậy sẽ là nghịch lý). Sự biện phân này (kể cả sự
tự do) là một ân huệ của Đấng Sáng Tạo ban cho thụ tạo có lý trí của
Ngài. Thiên Chúa đã quá mạo hiểm khi ban sự tự do cho con người. Một
cuộc độc thoại diễn ra trong lòng của người nữ: “Người đàn bà thấy trái
cây đó ăn thì ngon, trông thì đẹp mắt, và đáng quý vì làm cho mình được
tinh khôn”. Đây thực sự là một trình thuật tinh tế điển hình của sự thử
thách, của cơn cám dỗ. Tội lỗi xem ra luôn luôn có sức quyến rũ đối với
con người.
5. Tội
lỗi
Vì thế,
hành động của người nữ: “Bà liền hái trái cây mà ăn, rồi đưa cho cả
chồng đang ở với mình, ông cũng ăn”, diễn tả ý muốn toàn quyền quyết
định, một sự tự mãn cao ngạo bất cần Thiên Chúa, nỗi khao khát tự mình
quyết định điều thiện điều ác không cần thông qua lề luật của Thiên
Chúa. “Việc cùng ăn một trái cây” liên hết hai người thành một cộng đồng
cùng chung một trách nhiệm và một vận mệnh: “đồng hội đồng thuyền”,
“đồng sinh đồng tử”. Đó chính là những đề tài rất nổi tiếng, và hơn cả
đề tài, đó chính là những hành vi cúng tế và những nghi thức kết nghĩa
huynh đệ trong xã hội.
Thế nên,
trong thần thoại cũng như trong thực tế, những hành vi này – dù là những
nghi thức kết giao đính ước nên vợ nên chồng, kết nghĩa huynh đệ đồng
sinh đồng tử – đều có một điểm chung nhất đó là giới thiệu một tình
huống bất khả đảo ngược. Vậy nên, trong những nghi thức kết giao, ai
chấp nhận thức ăn mà người khác dâng hiến, dù khác nhau về bản tính hay
môi trường, người đó dứt khoát trở nên “có phúc cùng hưởng có họa cùng
chịu” với người này. Theo đó, chúng ta có thể cho rằng chính con rắn
(Xa-tan) dâng hiến trái cây, nó buộc chặt con người vào với nó vô phương
cứu vãn, bởi vì con người, mà hai ông bà nguyên tổ đại diện, đã chấp
nhận quà tặng của nó. Theo cách này, chắc hẳn tác giả của chuyện tích
này đã muốn diễn tả con người đồng lõa với tội lỗi. Vào đầu thiên niên
kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, những người đương thời của tác giả không
phải là không biết tính chất nghiêm trọng của dấu chỉ này.
Mặt khác,
thật là ý nghĩa biết bao khi truyền thống Gia-vít, vốn ý thức sâu sắc về
hậu quả của tội (như phần tiếp theo của tác phẩm này cho thấy điều đó),
đã chọn để mô tả tội đầu tiên, một hành vi cử chỉ bên ngoài xem ra vô
hại như việc hái và ăn một trái cây, một trái duy nhất, từ cây mà người
chủ vườn đã dành riêng cho mình; đáng lẽ ra tác giả đã có thể miêu tả
một tội ác tày trời (ví dụ như tội Ca-in giết em mình là A-ben). Vì lẽ,
ông đã không muốn chúng ta bị nhầm lẫn về bản chất của tội: tội trước
hết là một sự xúc phạm trực tiếp đến Thiên Chúa, tác động đến mối tương
giao theo chiều dọc giữa Thiên Chúa và con người.
6. Họ
thấy mình trần truồng
Tất cả
những gì con người đánh mất do tội, người kể chuyện diễn tả một cách gợi
hình: “Bấy giờ mắt hai người mở ra, và họ thấy mình trần truồng”. Sự
trần truồng theo Cựu Ước có nghĩa sự yếu đuối, sự bơ vơ lạc lỏng, không
nơi nương tựa, bảo vệ và che chở. Vì tội, hai ông bà đã đánh mất sự
nương tựa, tức là Thiên Chúa, đã đánh mất những ân phúc tinh thần mà
vườn địa đàng là biểu tượng; họ ý thức tình trạng tội lỗi của mình. Dấu
chỉ đầu tiên của tội là xấu hổ vì thấy mình trần truồng, điều này đánh
dấu sự đồi trụy trong mối quan hệ phái tính. Vết thương của tội chắc hẳn
đã làm xáo trộn cách đặc biệt trật tự tính dục, và qua đó, tất cả mọi
liên hệ của con người.
7. Tính
lịch sử của tội
Chuyện
tích của sách Sáng Thế không có tính lịch sử. Tuy nhiên, sứ điệp mà nó
trao gửi cho chúng ta mặc khải cho chúng ta rằng thân phận tội lỗi của
con người là một sự kiện không “thuộc về bản tính”, nhưng “thuộc về lịch
sử”. Thiên Chúa đã không tạo dựng con người gian ác; Ngài đã tạo dựng
nên họ tốt lành và tự do (chuyện tích thứ nhất xác định:“theo hình ảnh
và họa ảnh của Ngài”). Thiên Chúa vốn rất mực tốt lành đã không thể tạo
ra Sự Ác. Chính sự tự do của con người đã là mầm móng của mọi điều ác.
Tuy nhiên,
con người không hoàn toàn chịu trách nhiệm về việc Sự Ác xâm nhập thế
gian, còn có tên cám dỗ, đây là một tình tiết giảm tội. Đó không phải là
lý do vì sao đã có sự chuộc tội cho con người, trong khi không có sự
chuộc tội cho Sa-tan sao? Đức Kitô đã gợi lên tấm thảm kịch nguyên tổ
này: “Xa-tan là tên sát nhân ngay từ khởi đầu; nó là tên nói láo và cha
của sự dối trá”.
8. Kinh
nghiệm lịch sử
Chúng ta
có thể nghĩ rằng để xây dựng câu chuyện của mình, nhà biên soạn Kinh
Thánh đã nhận nguồn cảm hứng từ chính lịch sử của dân tộc mình. Dân Chúa
chọn đã được “lấy” từ hoang địa mà đưa vào Đất Hứa “chảy sữa và mật”,
cũng như A-đam đã được “lấy” từ đất hoang dã mà đặt vào trong vườn Địa
Đàng. Đối với Ít-ra-en, ngoài Đất Hứa ra còn có ân ban Lề Luật; cũng như
đối với A-đam, ngoài vườn Địa Đàng ra còn có huấn lệnh của Thiên Chúa.
Chúng ta gặp thấy ở nơi sách Đệ Nhị Luật cũng một cách nói: “Nếu anh em
nghe huấn lệnh của Thiên Chúa, Chúa của anh em, anh em sẽ được sống…
Nhưng nếu anh em thay lòng đổi dạ…thì hôm nay tôi báo cho anh em biết:
chắc chắn anh em sẽ bị diệt vong… Tôi đưa ra cho anh em chọn được sống
hay phải chết, được chúc phúc hay bị nguyền rủa.” (Đnl 30: 15-20).
9. Những
khía cạnh ngôn sứ
Những
khía cạnh ngôn sứ của chuyện tích thì rất nhiều và sâu sắc. Trong một
linh cảm đáng ngạc nhiên, tác giả linh hứng đã định vị tấm bi kịch
nguyên thủy vào trong một cuộc chạm trán giữa người phụ nữ với Tên Cám
Dỗ, ở giữa lòng thiên nhiên còn nguyên sơ. Tin Mừng trình bày một chạm
trán trực diện giữa Đức Giê-su và Xa-tan ở giữa lòng hoang địa. Người nữ
đã vấp ngã trong khi Đức Giê-su lại chiến thắng tên Xảo Trá. Rõ ràng,
bài trình thuật Sáng Thế này là khúc dạo đầu của bài ca khải hoàn dứt
khoát của Chúa Giê-su.
Khi cho
nhân vật phụ nữ một vai trò ưu thế, phải chăng tác giả muốn vén mở cho
chúng ta thoáng thấy một dung mạo nữ giới khác, Đức Ma-ri-a, một tạo vật
duy nhất thuộc dòng giống loài người chúng ta, đã hưởng được tình trạng
vô tội trước khi nguyên tổ phạm tội, tức là tình trạng “tiền a-đam” như
cách nói của các nhà thần học? Đối lại với tiếng “vâng” của bà tổ E-và
với Xa-tan, sẽ là lời đáp trả “xin vâng” của Đức Ma-ri-a với sứ thần. Bà
E-và ở nơi nguyên khởi của tội, Đức Ma-ri-a ở nơi nguyên khởi của Ơn Cứu
Độ. Con người muốn trở thành Thiên Chúa, trong khi Thiên Chúa sẽ trở
thành một phàm nhân, như câu nói bất hủ của thánh Giáo Phụ I-rê-nê:
“Thiên Chúa làm người để con người trở thành con cái của Thiên Chúa”.
Thêm nữa,
làm thế nào sự linh cảm này không làm chúng ta xúc động sâu xa hơn, thấm
thía hơn? Bản văn không gợi ra một cách nào đó: đáp lại “việc ăn sinh
nên tội” của hai ông bà nguyên tổ là bàn tiệc Tân Ước, ở đó “việc ăn
mang lại ơn cứu chuộc”; và đối lại những lời dụ dỗ dối trá của Tên Cám
Dỗ: “Nếu ông bà ăn trái này, ông bà sẽ không phải chết” là những lời hứa
ban sự sống của Ngôi Lời nhập thể: “Nếu các ngươi ăn bánh này, các ngươi
sẽ không chết bao giờ” .
BÀI ĐỌC
II (Rm 5: 12-19)
Bài Đọc
II, trích từ thư của thánh Phao-lô gửi tín hữu Rô-ma, đã đóng một vai
trò quan trọng trong lịch sử tư tưởng Ki-tô giáo. Chính trên bản văn này
mà Giáo Hội đặt nền tảng cho đạo lý của mình về tội nguyên tổ, bằng cách
quy chiếu đến chuyện tích của sách Sáng Thế, như thánh Phao-lô đã làm.
Thánh
Phao-lô đã đọc lại chuyện tích này dưới ánh sáng của mầu nhiệm Nhập Thể:
chính khởi đi từ Đức Giê-su mà thánh nhân khai triển tư tưởng của mình,
sự can thiệp cứu chuộc của Đức Ki-tô hình thành nên cơ sở của tất cả lập
luận; sự liên đới của Đức Kitô với toàn thể nhân loại tội lỗi (liên đới
hữu thể như lời phát biểu của thánh nhân: “Chúng ta là thân thể của Đức
Kitô”), dọi chiếu ánh sáng trên bản văn của sách Sáng Thế. Từ đây, triều
đại tội lỗi đối lập với triều đại ân sủng.
1. Lập
luận của thánh Phao-lô
Sau khi
đã chứng minh rằng tội lỗi thống trị trên toàn thể nhân loại, thế nên
mọi người bất luận là dân Do thái hay dân ngoại đều cần đến ơn cứu
chuộc, thánh nhân truy nguyên đến tận nguồn gốc của tội bằng cách nêu
bật sự tương phản giữa A-đam thứ nhất và A-đam thứ hai (Đức Giê-su).
Thánh
nhân xây dựng lập luận của mình theo phép đối xứng nghịch đảo để nêu bật
sự tương phản giữa A-đam thứ nhất và A-đam thứ hai (Đức Giê-su). Theo
phép đối xứng nghịch đảo này, tiền đề được phát biểu một cách minh
nhiên: “Vì một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội
lỗi gây nên sự chết; như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì
mọi người đã phạm tội” (5: 12), nhưng phản đề lại không hiển hiện, ít ra
không được đặt ngay liền sau đó, bởi vì các câu 13-14 được chen vào. Tuy
nhiên, phản đề này được hiểu một cách mặc nhiên theo trình tự hợp lý của
phép đối xứng nghịch đảo: “Qua A-đam đầu tiên, tội lỗi và sự chết đã xâm
nhập thế gian như thế nào; qua A-đam thứ hai (Đức Kitô) ơn công chính
hóa và sự sống đời đời xâm nhập thế gian cũng như thế”.
Sự gián
đoạn của phép đối xứng nghịch đảo này rất có ý nghĩa. Nó nói lên không
có cùng chung mức độ giữa việc A-đam vi phạm và sự phục hồi được Đức
Ki-tô thực hiện. Đức Ki-tô là nguồn mạch viên mãn của ân sủng trong khi
A-đam chỉ là đường dẫn qua đó “tội lỗi đã xâm nhập thế gian” và “sự chết
đã lan tràn tới mọi người”. Chúng ta có thể dễ dàng nhận ra sự tương
phản không cùng một mức độ này ở nơi những đối xứng nghịch đảo của 5:
15-17 và 5: 18-19, và lần cuối cùng 5: 20 với những ngôn từ và những chi
tiết khác nhau. Chúng ta có thể nói rằng thánh Phao-lô đã nhận được
nguồn cảm hứng từ Kn 2: 23-24:
“Quả thế,
Thiên Chúa đã sáng tạo con người
cho họ
được trường tồn bất diệt.
Họ được
Người dựng nên làm hình ảnh của bản tính Người.
Nhưng
chính vì quỷ dữ ganh tị
mà cái
chết đã xâm nhập thế gian”.
A-đam đã
mở ra một lỗ hỏng qua đó Sự Ác đã ùa vào gây ra những tàn phá. Sự Ác
được trình bày như một quyền năng, hầu như được nhân hóa, có trước
A-đam.
2. Triều
đại của tội lỗi
Tội lỗi
cũng được nhân hóa, như một sức mạnh thù địch chống lại con người: “Vì
một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên
sự chết” (5: 12a). Sự chết cốt yếu là sự chết tinh thần (cho dù thánh
Phao-lô cũng thiết lập mối liên hệ giữa sự chết thể lý và tội lỗi mà sự
chết là dấu chỉ).
Câu phát
biểu nổi tiếng: “Như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi
người đã phạm tội” (5: 12b) này đã gây nên những cuộc tranh luận và
những giải thích khác nhau do cách hiểu “đại từ quan hệ” của Hy ngữ được
đặt sau giới từ chỉ nguyên nhân: “bởi vì”. Chung quy có hai cách đọc và
hiểu đại từ quan hệ này.
Cách đọc
thứ nhất hiểu đại từ quan hệ này quy chiếu đến A-đam: “Như thế sự chết
đã lan tràn tới mọi người, bởi vì ông, mọi người đều phạm tội”. Cách đọc
này đặt mối quan hệ nhân quả trực tiếp giữa tội của A-đam với toàn thể
nhân loại. Cách đọc thứ hai hiểu đại từ quan hệ này quy chiếu đến sự
chết của câu đi trước theo chức năng văn phạm của câu: “Như thế sự chết
đã lan tràn tới mọi người, bởi vì sự chết này, mọi người đã phạm tội”.
Cách đọc này hiểu sự chết như chuẩn y tội phản nghịch của A-đam.
Xin nhắc
lại rằng Công Đồng Tren-tô đã đặt nền móng cho đạo lý về tội nguyên tổ
của mình trên toàn bộ bản văn, chứ không trên một câu. Dù thế nào, thánh
Phao-lô đặt sự chết tinh thần của nhân loại dưới ba mối quan hệ: Sự Ác –
A-đam – mọi người, những mối quan hệ nhân quả được thêm vào mà không
loại trừ nhau. Thêm nữa, thánh nhân nhấn mạnh điều này trong toàn bộ
chương – không một ai “do tự sức riêng của mình” có thể thoát khỏi dòng
giống tội lỗi này: nhân tính đã bị thương tổn. Có mối liên hệ hữu thể
giữa dòng giống loài người.
Thánh
Phao-lô sẽ chứng minh theo cách khác sự thâm căn cố đế của tội. Trước
khi có Lề Luật Mô-sê, tội đã có mặt trong thế gian rồi. Thánh nhân phân
biệt ở đây sự vi phạm và tội lỗi. Khi có Lề Luật, việc không tuân thủ Lề
Luật được xem là vi phạm; nhưng Lề Luật thực sự chỉ làm lộ ra chân tướng
của tội lỗi, bộc lộ tội lỗi ra bên ngoài, vì thế Lề Luật không thể gây
nên tội lỗi, bởi vì tội lỗi có trước Lề Luật.
3. Triều
đại ân sủng
Rõ ràng
A-đam là tiên trưng phản diện của Đức Giê-su. Chúng ta cảm thấy rằng
thánh nhân đã bị đánh động cách mãnh liệt bởi viễn cảnh phi thường này:
Đức Ki-tô tự đặt mình liên đới với nhân loại tội lỗi để phá vỡ mối dây
ràng buộc nhân loại với sự ác và giúp con người có khả năng tìm gặp lại
sự sống thần linh. Thánh Phao-lô phóng chiếu vào trong quá khứ một sự
liên đới đầu tiên thuộc loại suy trên dung mạo của A-đam. Nhưng sự liên
đới thứ hai thì cao vời vô tận so với sự liên đới đầu tiên. Nguồn ân
sủng sung mãn trổi vượt biết mấy trên muôn vàn tội lỗi.
Chính lúc
đó thánh nhân mới có thể lấy lại sự so sánh còn bỏ ngỏ: “Thật vậy, nếu
vì một người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải chết, thì ân sủng
của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giê-su Kitô, còn dồi
dào hơn biết mấy cho muôn người.” (5: 15b). Đó là điểm nhắm mà thánh
Phao-lô muốn đạt đến: triều đại tội lỗi đến hồi kết thúc, trong khi
triều đại ân sủng được thiết lập muôn đời bền vững. Đức Ki-tô, vị lãnh
tụ mới của con cái loài người, hướng dẫn nhân loại đạt đến ơn công chính
hóa và sự sống.
TIN MỪNG
(Mt 4: 1-4)
Chuyện
tích “Chúa Giê-su rút vào hoang địa và chịu ma quỷ cám dỗ” được cả ba
Tin Mừng Nhất Lãm thuật lại. Dù có nhiều chi tiết khác nhau, tuy nhiên
cả ba đều đặt biến cố này ngay sau khi Đức Giê-su chịu phép rửa bởi
Gioan Tẩy Giả. Cả ba Tin Mừng đều nhấn mạnh việc Chúa Giê-su rút lui vào
hoang địa và chịu ma quỷ cám dỗ là dưới tác động của Chúa Thánh Thần.
1. Gốc
tích câu chuyện
Không ai
được chứng kiến tận mắt biến cố này, vì thế phải giả sử rằng nguồn cung
cấp duy nhất của mọi dữ kiện này không ai khác hơn ngoài Đức Giê-su. Đây
là cuộc chuyện trò riêng tư giữa Thầy và trò. Vì thế, chúng ta đến câu
chuyện này với lòng cung kính tuyệt đối, vì qua đó Đức Giê-su đã thổ lộ
những sâu kín trong lòng của Ngài. Ngài đã cho loài người biết kinh
nghiệm của chính Ngài. Đây là câu chuyện thánh hơn hết vì qua đó Đức
Giê-su muốn nói với mỗi người rằng Ngài có thể giúp đỡ chúng ta trong
những chước cám dỗ. Từ những cuộc chiến đấu của chính Ngài, Ngài đã cho
chúng ta thấy Ngài có thể giúp chúng ta trong cuộc chiến đấu của chính
chúng ta.
2. Hoang
địa
Hoang địa
nơi Đức Giê-su rút lui là sa mạc Giu-đê, trải dài giữa Giê-ru-sa-lem và
Biển Chết. Dãi đất hoang vu này toàn cát vàng, đá vôi bễ vụn và đá sỏi
rải rác. Đó là nơi Đức Giê-su thấy mình trơ trọi hơn bất cứ nơi nào khác
trong toàn xứ Pa-lét-tin. Những chước cám dỗ đã có thể mặc lấy hình thức
của cuộc tranh luận nội tâm, diễn ra trong suốt cuộc rút lui vào hoang
địa này như hai thánh Mác-cô (Mc 1: 13) và Lu-ca (Lc 4: 2) gợi ra, đoạn
đạt đến cực điểm, vì sự yếu nhược thể lý của Đức Giê-su, do bởi ăn chay
lâu dài như thánh Mát-thêu gợi ra (Mt 4: 3).
Đức
Giê-su chuẩn bị sứ mạng của mình trong thinh lặng, cầu nguyện và chay
tịnh. Hơn nữa, khi người ta ăn chay, có nghĩa người ta khiêm tốn nhận ra
mình là tội nhân. Việc Đức Giê-su chay tịnh được định vị vào trong tiến
trình nối tiếp sau việc Ngài chịu phép rửa, như vậy Ngài cũng muốn được
liên đới với toàn thể nhân loại tội lỗi.
Đồng thời,
Đức Giê-su cũng bày tỏ ước nguyện của mình là thu tóm ở nơi bản thân
mình vận mệnh của dân Ngài. Như dân Ngài, Ngài đã kinh qua cuộc lưu đày
ở Ai-cập khi còn ấu thơ (Mt 2 : 13-16); giờ đây, Ngài trải qua kinh
nghiệm ở hoang địa bốn mươi đêm ngày, con số này nhắc nhở bốn mươi năm
dân Do thái đã trải qua trong hoang địa, cũng như bốn mươi đêm ngày ông
Mô-sê chuẩn bị để đón nhận những lời Giao Ước trên núi Xi-nai.
Chính ông
Mô-sê mà thánh Mát-thêu đặc biệt nghĩ đến, như được bày tỏ trong chuyện
tích cám dỗ này. Như ông Mô-sê xuống núi Xi-nai để công bố Giao Ước,
Giao Ước này thiết lập dân Ít-ra-en thành dân Chúa chọn; cũng vậy, Đức
Giê-su sẽ rời bỏ hoang địa để thiết lập một Giao Ước Mới và khai sinh
một dân Ít-ra-en mới. Đối chiếu với bốn mươi ngày trong hoang địa, chúng
ta cũng sẽ gặp thấy cùng khoảng thời gian giữa biến cố Phục Sinh và biến
cố Thăng Thiên của Đức Giê-su : “Trong bốn mươi ngày, Ngài đã hiện ra
nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa” (Cv 1: 3).
3. Ba
chước cám dỗ
Một mặt,
ba chước cám dỗ diễn tiến theo trình tự của ba chước cám dỗ chính yếu mà
dân Do thái đã trải qua trong hoang địa: bánh man-na (Xh 16 : 4), điềm
thiêng dấu lạ (Xh 17) và thờ ngẫu tượng (Xh 32); nhưng trong khi dân
Ít-ra-en thất bại trước những chước cám dỗ này, thì Đức Giê-su lại chiến
thắng vẻ vang. Mặt khác, ba chước cám dỗ này đều có một nét chung: cả ba
đều được sắp xếp nhằm trình bày những quan niệm sai lầm về Đấng Mê-si-a
mà Đức Giê-su sẽ gặp phải trong suốt sứ vụ công khai của Ngài. Trong
hoang địa, Ngài có đủ sáng suốt và sức mạnh cần thiết để chế ngự chúng.
A- Đấng
Mê-si-a trần thế
Sau khi đã
ăn chay suốt bốn mươi đêm ngày, Đức Giê-su cảm thấy đói. Quỷ cám dỗ Ngài
biến những hòn đá thành bánh: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì truyền cho
những hòn đá này hóa bánh đi!”. Quỷ muốn thử thách quyền năng của Đấng
đã nhận tước hiệu “Con Thiên Chúa” vào lúc Ngài chịu phép rửa. Cũng một
cách như vậy, những kẻ thù Ngài chế nhạo và thách đố Ngài ở dưới chân
thập giá: “Hãy cứu lấy mình đi, nếu mày là Con Thiên Chúa” (Mt 27: 40).
Hai chước cám dỗ này rất đối xứng với nhau: lạm dụng quyền Con Thiên
Chúa để mưu cầu tư lợi cho riêng mình. Đức Giê-su đã đẩy lùi chước cám
dỗ này: Ngài sẽ chỉ sử dụng quyền năng của mình để phục vụ tha nhân.
Xưa kia khi
dân Do thái phải đói trong hoang địa và đã nhận được bánh man-na, ông
Mô-sê cảnh giác họ đề phòng mọi tham lam của cải vật chất: “Người ta
sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán
ra” (Đnl 8: 3). Đức Giê-su đáp lại Xa-tan cũng bằng những lời này, qua
đó Đức Giê-su không chỉ không để lộ chân tính của Ngài, nhưng tự đồng
hoá mình với nhân loại. Một ngày kia, khi Đức Giê-su đói, các môn đệ mời
Ngài dùng bữa, nhưng Ngài trả lời còn dứt khoát hơn: “Thầy phải dùng một
thứ lương thực mà anh em không biết… Lương thực của Thầy là thi hành ý
muốn của Đấng đã sai Thầy…” (Ga 4: 32-33).
B- Đấng
Mê-si-a đầy quyền năng
Sau khi đặt
Đức Giê-su trên nóc đền thờ Giê-ru-sa-lem, Xa-tan đề nghị với Đức Giê-su
thực hiện một kỳ công ngoạn mục, nhờ đó Ngài có được một uy thế lớn lao
đối với dân chúng: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì gieo mình xuống coi”.
Với sự khôn khéo xảo quyệt, Xa-tan trích dẫn Thánh Vịnh 91 theo đó người
công chính hoàn hảo, được Thiên Chúa phù trì che chở và truyền cho thiên
sứ tay đỡ tay nâng cho khỏi bị vấp chân vào đá (Tv 91: 11-12, 15).
Xưa kia,
trong hoang địa, chính dân Do thái cũng đã thách thức Thiên Chúa như vậy:
nếu Ngài không ban cho họ nước uống ngay tức khắc, thì họ sẽ nghi ngờ sự
hiện diện của Ngài (Xh 17: 1-7), dù trước đó Ngài đã ban cho họ bánh kỳ
diệu. Nhờ quyền năng của Thiên Chúa, ông Mô-sê đã ban cho họ nước phun
ra từ tảng đá, tuy nhiên ông trách cứ nghiêm khắc dân cứng đầu cứng cổ
này: “Anh em đừng thách thức Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em” (Đnl 6:
16).
Đức Giê-su
đã trả lời cho sự thách đố của Xa-tan cũng bằng chính lời của ông Mô-sê:
“Ngươi chớ thách thức Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi”. Qua đó, Đức
Giê-su bác bỏ lời đề nghị của Xa-tan: Ngài không đòi hỏi Thiên Chúa độ
trì che chở Ngài đến độ đặt Ngài ra ngoài thân phận thường tình của con
người. Sau này, Đức Giê-su cũng đã nhiều lần bị thách thức theo chiều
hướng này: những người Biệt Phái đòi hỏi Ngài một dấu lạ ngoạn mục từ
trời để chứng thực Ngài là Đấng Mê-si-a; nhưng Ngài sẽ không ban cho họ.
C- Đấng
Mê-si-a thống trị thế giới
Chước cám dỗ
thứ ba được định vị trong môi trường khải huyền: một ngọn núi tưởng
tượng, Xa-tan chủ tể của mọi vương quốc. Chắc chắn, những hình ảnh được
dùng nhằm nhấn mạnh cuộc chiến nội tâm mà Đức Giê-su phải đương đầu:
chước cám dỗ về một Đấng Mê-si-a thống trị thế giới.
Đấng Mê-si-a
mà dân Do thái chờ đợi mặc lấy nhiều dung mạo; nhưng phần đông hy vọng
một Đấng Mê-si-a khải hoàn và chiến thắng, Đấng sẽ khôi phục lại vương
quốc Đa-vít, qua đó, sẽ cho phép Thiên Chúa thống trị toàn thế giới. Một
chương trình tuyệt vời, nhưng không một chút nào là chương trình của Đức
Giê-su. Ngài đến với tư cách là “Người Tôi Trung” và “Con Người”, đó là
hai tước hiệu Mê-si-a mà Ngài thường quy chiếu về mình. Khi đám đông
phấn chấn muốn tôn Ngài lên làm vua, Ngài liền lánh mặt (Ga 6: 15). Ở
Xê-da-rê Phi-líp-phê khi thánh Phê-rô ra mặt chống đối viễn cảnh về Đấng
Mê-si-a chịu đau khổ, Đức Giê-su mạnh mẽ đẩy lùi cơn cám dỗ này:
“Xa-tan, hãy lui lại đằng sau Thầy!” (Mt 16: 23). Đó cũng là mệnh lệnh
mà Ngài ra lệnh cho Tên Cám Dỗ trong hoang địa: “Xa-tan kia, xéo đi!”.
Trong cuộc đời của Ngài, chưa bao giờ xảy ra một cuộc chiến đấu với
chước cám dỗ nào dữ dội như cuộc chiến đấu tại vườn Ô-liu, khi quỷ tìm
cách cám dỗ Ngài từ chối con đường thập giá.
Thánh Mát-thêu
đồng hoá quyền thống trị thế giới với sự khuất phục dưới quyền Xa-tan.
Sau này, Đức Giê-su vạch mặt chỉ tên Xa-tan là “thủ lãnh thế gian này”
(x. Ga 12: 31; 14: 30; 16: 11; 1 Ga 3: 8). Thánh Phao-lô cũng đồng hoá
những quyền thống trị thế giới với những thế lực Sự Ác: “Hãy mang toàn
bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa, để có thể đứng vững trước nhưng mưu
chước của ma quỷ. Vì chúng ta chiến đấu không phải với phàm nhân, nhưng
là với những quyền lực thần thiêng, với những bậc thống trị thế giới tối
tăm này, với những thần linh quái ác chốn trời cao” (Ep 6: 11-12).
Xưa kia,
ngay cả trước khi vào Đất Hứa, dân Do thái để cho mình bị cám dỗ thờ lạy
ngẫu tượng (thờ bò vàng), ông Mô-sê đã mạnh mẽ xác quyết: “Chính Đức
Chúa, Thiên Chúa của anh em, là Đấng anh em phải kính sợ; chính Người là
Đấng anh em phải phụng thờ” (Đnl 6: 13). Đức Giê-su cũng đáp trả bằng
những lời xác quyết mạnh mẽ như thế: “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là
Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”. Lúc
đó, thánh Mát-thêu ghi lại một chi tiết có ý nghĩa: “Lập tức có thiên sứ
đến gần hầu hạ Ngài”, nghĩa là, Đức Giê-su đích thật là Đấng Công Chính
hoàn hảo mà Thánh vịnh 91 tiên báo.
Đức Giê-su
đã không chọn những của cải trần thế, nhưng sự nghèo khó; Ngài đã không
chọn quyền thế, nhưng sự khiêm hạ; Ngài đã không chọn thờ quyền thống
trị thế giới, nhưng Ngài thích bị kết án một cách bất công là “vua dân
Do thái” hơn.
1.-
Ngữ cảnh
Đoạn văn
này nằm trong Phần Mở của Tin Mừng Mt, mà chúng ta có thể xác định vị
trí theo lược đồ sau đây:
A = Lời
rao giảng của Gioan Tẩy Giả và câu trích Is 40,3 (3,1-4)
B = Gioan
và Đức Giêsu: cuộc đối đầu giữa các niềm hy vọng Đấng Mêsia (3,5-15)
C = Con
yêu dấu của Thiên Chúa Cha đăng quang Mêsia, với câu nhắc đến Is 42,1
(3,16-17)
B’= Đức
Giêsu và ma quỷ: Loại trừ niềm hy vọng Đấng Mêsia trần tục (4,1-11)
A’= Lời
rao giảng của Đức Giêsu và câu trích Is 8,23–9,1 (4,12-17). Kết luận và
chuyển mạch (4,18-25).
Trong
phân đoạn này, tác giả Mt đã vận dụng các đoạn Cựu Ước mà ta có thể thấy
qua bảng đối chiếu sau:
Mt
4,1 - Đnl 8,2-3
Mt
4,2 - Xh 34,28; x. Đnl 9,9
Mt
4,4 - Đnl 8,3
Mt
4,6 - Tv 91,11-12 (LXX)
Mt
4,7 - Đnl 6,16
Mt
4,8 - Đnl 34,1
Mt
4,10 - Đnl 6,13
Mt
4,11 - Xh 11,14; x. Đnl 32,11; Tv 91,10-11
2.- Bố
cục
Bản văn
có thể chia thành năm phần:
1) Mở
(4,1-2);
2) Cám dỗ
thứ nhất (4,3-4);
3) Cám dỗ
thứ hai (4,5-7);
4) Cám dỗ
thứ ba (4,8-10);
5) Kết
(4,11).
3.-
Vài điểm chú giải
-
Thần Khí dẫn vào hoang địa
(1): Chính là Thần Khí đã xuống trên Đức Giêsu tại sông Giođan nay dẫn
(anagô) Người vào hoang địa.
-
hoang địa
(1): Đây là một đề tài quan trọng của Kinh Thánh, vì hoang địa gây ảnh
hưởng trong suốt lịch sử Dân Thiên Chúa. Lịch sử này đã ghi lại hai kỷ
niệm có vẻ mâu thuẫn nhau, nhưng thật ra là hai mặt của cùng một hoàn
cảnh. (1) Thời gian ở trong hoang địa trước tiên được trình bày như là
thời kỳ sống lý tưởng của Dân được Thiên Chúa tuyển chọn. Trong thời kỳ
này, lý tưởng tôn giáo của họ phát triển phong phú và họ sống lý tưởng
này ở mức hoàn hảo. (2) Thời kỳ này cũng còn được coi như một thử thách,
thậm chí một hình phạt dành cho tội lẩm bẩm kêu ca và bất phục tùng. Quả
thật, hoang địa vừa là nơi con người tách mình khỏi trần thế để được
thanh luyện, vừa là nơi thử thách.
-
để chịu quỷ dữ cám dỗ
(1): Đây là một sự chọn lựa nằm trong chương trình của Thiên Chúa. Tư
cách Mêsia của Đức Giêsu cần được thử thách. Và sự thử thách này là một
chặng cần thiết trong ơn gọi của Đức Giêsu, trong tư cách Israel mới.
-
quỷ dữ
(1): Từ ngữ Hy Lạp diabolos có nghĩa là “kẻ vu khống”, “kẻ tố cáo” (động
từ diaballô, “tố cáo”; “kết án”). Bản LXX đã dùng diabolos để dịch từ
Híp-ri satan (HL satanas). Trong Kinh Thánh, “quỷ” xuất hiện ra như là
kẻ tố cáo (x. Dcr 3,1-5; G 1–2; Tv 109,6), ông hoàng của thế gian (Ga
12,31; 14,30), tên cám dỗ (G 1,8-12; 2,1-6; 2 Sm 24,1tt; 1 Sb 21,1; Kn
2,24; 1 Tx 3,5; 1 Cr 7,5; 2 Cr 11,3-15; Rm 16,17-20…). Dù với tên gọi
nào, “quỷ” cũng là một “đối thủ” (nghĩa nguyên thủy của từ satan), một
kẻ thù của Thiên Chúa và của loài người, nghĩa là chống lại sự thiện.
Xem trong Mt: 6,13; 8,28; 12,22; 12,24; 13,25; 16,23…
-
Người ăn chay suốt bốn mươi ngày bốn mươi đêm
(2): Con số 40 chỉ một thời gian khá dài và có sắc thái là một sự hoàn
tất với kết quả tích cực là giải phóng và xây dựng con người. So với Lc,
Mt thêm “bốn mươi đêm” để ám chỉ thời gian Đức Giêsu ở trong hoang địa
tương đương với thời gian Môsê ăn chay trên núi cao để rồi sau đó được
Đức Chúa ban cho các điều khoản của Giao ước (Xh 34,28; x. Xh 25,18).
Nhưng cũng có thể Mt muốn ám chỉ đến Êlia nữa (x. 1 V 19,8: ăn chay
trong hành trình tiến về núi Khôrép). Hai dung mạo vĩ đại này, đại diện
cho Lề Luật và các Ngôn sứ, sẽ tái xuất hiện trong cuộc Hiển Dung của
Đức Giêsu (cuộc Hiển Dung này chính là cuộc thần hiển. Sau đó sẽ có việc
thiết lập Giao Ước mới nhờ cuộc Khổ Nạn–Phục Sinh của Đức Giêsu). Có lẽ
Mt muốn nói rằng việc Đức Giêsu ăn chay đã tóm kết cách nào đó kinh
nghiệm của Môsê và Êlia, cũng như các cám dỗ sẽ tóm kết lịch sử của
Israel tại hoang địa.
-
Nếu ông là Con Thiên Chúa
(3): Cám dỗ này do bởi quỷ và thử thách dưới chân thập giá do bởi người
Do Thái (Mt 27,40) song song với nhau: chúng nhắm đến tư cách Mêsia của
Đức Giêsu. Đây cũng là một lời thách thức Đức Giêsu làm lại các cử chỉ
của Môsê, để chứng tỏ thời đại thiên sai đã đến. Không có lời nhắc đến
man-na, nhưng câu trả lời của Đức Giêsu khiến nghĩ đến man-na.
-
đã có lời chép rằng
(4): Gegraptai là thì hoàn thành (perfect) ở thái bị động của động từ
graphô, “viết”. Thái bị động này thay tên Thiên Chúa, nên có thể hiểu là
“Thiên Chúa đã viết”.
-
vinh hoa của các nước ấy
(8): Doxa (HL), “vinh quang”, đây là một từ ngữ Kinh Thánh để chỉ sự
lộng lẫy huy hoàng hoặc giàu sang, sung túc, được tỏ ra bên ngoài.
4.- Ý
nghĩa của bản văn
*
Mở (1-2)
Bản văn
này được liên kết với bài tường thuật về phép Rửa. Tại sông Giođan, Thần
Khí Thiên Chúa đã được ban cho Đức Giêsu, nay cũng Thần Khí ấy lại dẫn
Người vào hoang địa. Chiều hướng của bản văn là: Bởi vì Đức Giêsu đến
hoàn tất nỗi chờ mong của dân Người, nhất thiết Người phải đảm nhận mọi
chiều kích của lịch sử dân Người: ở tại Ai Cập (2,13-15), đi qua sông
Giođan (3,13-17), cám dỗ trong hoang địa (4,1-11). Qua các cám dỗ, Đức
Giêsu cho thấy Người chấp nhận trọn vẹn thánh ý Chúa Cha; Người loại trừ
mọi thứ cung cách Mêsia mà Thiên Chúa không muốn (mà chính Gioan Tẩy Giả
đã hình dung), để chấp nhận làm một Mêsia chịu đóng đinh.
Tất cả
bài tường thuật về ăn chay và cám dỗ tập trung vào các biến cố của cuộc
Xuất Hành. Dân Israel cũng là “con yêu dấu của Thiên Chúa”, nhưng tất cả
hành trình trong hoang địa cho thấy họ đã là một đứa con nổi loạn và
thất trung (x. Đnl 6,16; 17,2.7; ch. 32–34; Ds 14,22; các Tv: Tv
78,18-41; 81,11; 95,8; 96,6; các ngôn sứ: Gr 7,22; Ed 20,5; Is 63,10.
Xem các tác giả Tân Ước: Dt 3,16; Gđ 5). Quả thật, ngôn ngữ của câu đầu
đã khiến chúng ta nhớ đến Đnl 8,2 (LXX) và như ám chỉ đến hoàn cảnh của
Israel tại hoang địa: “… Thiên Chúa đã dẫn (êgagen; Mt: an-ago) …, như
vậy Người thử thách (ekpeirasê; Mt: peirasthênai)…”. Bản văn Đnl nói
rằng Thiên Chúa “thử thách” dân để “biết lòng dạ anh em, xem anh em có
giữ các mệnh lệnh của Người hay không”. Còn ở đây, trong bản văn Mt,
“thử thách” là để phá hỏng và kẻ “thử thách” là quỷ, chứ không phải là
Thiên Chúa. Tại hoang địa, Đức Giêsu vừa tóm kết kinh nghiệm của Môsê và
Êlia, vừa tóm kết lịch sử của dân Israel trong hoang địa.
Sức con
người có thể nhịn ăn nhịn uống được đến thế? Chắc chắn là có, như trường
hợp thánh Phanxicô Assisi sau này. Nhưng ở đây, tác giả còn muốn nói một
điều khác: cũng như trong trường hợp Môsê, ở đây chính Thiên Chúa nâng
đỡ Đức Giêsu, vì Người tin tưởng gắn bó với Thiên Chúa. Nếu như thế, cảm
giác đói sau bốn mươi ngày, chính là một thử thách: Phải chăng Thiên
Chúa đã bỏ rơi Đức Giêsu? Cám dỗ thứ nhất được tháp vào điểm này.
*
Cám dỗ thứ nhất (3-4)
Trong cám
dỗ này, quỷ thách thức Đức Giêsu lặp lại các cử chỉ của Môsê, nhưng
không phải bằng cách làm mưa man-na, nhưng bằng cách rút bánh ra từ các
tảng đá. Đây cũng là một thách thức nhắm vào tư cách Mêsia của Đức
Giêsu. Từ ngữ “nếu” nhằm gieo một sự hoài nghi vào tâm trí Đức Giêsu (x.
Mt 27,40). Trong cả hai trường hợp, ở đây và trên thập giá, quỷ (ở đây;
trên đồi Sọ: quỷ hiện thân nơi “những người qua lại”) thúc đẩy Đức Giêsu
sử dụng những quyền lực thiên sai để thoát khỏi một hoàn cảnh nguy hiểm
(đói ở hoang địa; chết trên thập giá).
Thiên
Chúa đã để cho Israel đi qua thử thách là cái đói, để kiểm chứng lòng
tín thác của họ (x. Đnl 8,2-3). Họ đã lẩm bẩm kêu ca, tiếc nuối Ai Cập.
Đức Giêsu cũng cảm thấy đói; Người có thể nghĩ rằng Thiên Chúa đã bỏ rơi
mình. Quỷ gợi ý cho Người, trong tư cách là “Con Thiên Chúa”, tin vào
quyền năng làm phép lạ của mình, và như thế là xúi giục Đức Giêsu nghi
ngờ và bất phục tùng Thiên Chúa. Đức Giêsu dứt khoát dựa vào Kinh Thánh
(sách Đnl; gegraptai) để nói “không” với quỷ; Người tiếp tục cậy dựa
hoàn toàn vào Thiên Chúa (x. 27,43). Sách Khôn ngoan nói rằng: “Lời Ngài
mới giữ gìn chăm sóc những ai hằng tin tưởng vào Ngài” (Kn 16,26). Tin
Mừng Gioan cho thấy là lương thực mà Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, vẫn dùng
chính là thi hành ý muốn của Chúa Cha (x. Ga 4,34). Đấng Mêsia không có
nhiệm vụ vun trồng những ảo tưởng dễ dãi, nhưng thức tỉnh niềm tin tưởng
nơi Thiên Chúa.
*
Cám dỗ thứ hai (5-7)
Sau cám
dỗ thứ nhất, Đức Giêsu đã náu mình vào trong sự che chở của Thiên Chúa.
Với câu Tv 91,11, quỷ đề nghị Người, vẫn trong tư cách “Con Thiên Chúa”,
gieo mình từ nóc Đền Thờ xuống đất: đây hẳn là đáp lại sự chờ đợi của
dân chúng, vì họ được loan báo là Đấng Mêsia sẽ xuất hiện trên núi Sion,
cũng được đồng hóa với Đền Thờ (các sách ngụy thư Ét-ra IV [13,34-37];
Khải huyền Barúc [40,12]). Dù sao đây cũng vẫn là xúi Đức Giêsu vận dụng
sự che chở của Thiên Chúa vào hướng xấu, như Israel đã làm, khi đòi hỏi
Thiên Chúa can thiệp (x. Xh 17,1-7; Ds 14,22; Đnl 6,16; Tv 95,8-11). Đây
chính là áp đặt ý muốn của con người cho Thiên Chúa. Cùng một chiều
hướng như thế, trong Mt, có các truyện các đối thủ Đức Giêsu xin những
dấu lạ từ trời (12,38-42) hoặc đề nghị Người xuống khỏi thập giá
(27,49); trong Lc, có giai thoại các môn đệ muốn xin lửa xuống thiêu hủy
thành không hiếu khách (Lc 9,56). Đức Giêsu vẫn dứt khoát trả lời
“không”, bằng câu Đnl 6,16. Người không muốn ép Thiên Chúa phải can
thiệp khi mà Thiên Chúa không định như thế; Người vẫn tiếp tục tín thác
vào Thiên Chúa.
Chúng ta
ghi nhận trong hai cám dỗ đầu, quỷ quy về tư cách “Con Thiên Chúa”, như
thế là xác nhận lời công bố tại sông Giođan (x. 3,17).
*
Cám dỗ thứ ba (8-10)
Cám dỗ
cuối cùng không còn chút che đậy nào nữa: quỷ đề nghị Đức Giêsu thờ
phượng nó. Cám dỗ này gồm tóm khát vọng cổ xưa nhất của Israel (sở hữu
đất Canaan). Để làm thế, hẳn là nó bày ra trong trí của Đức Giêsu tất cả
quang cảnh các nước thế gian, như xưa kia Môsê đứng trên đỉnh Nơvô mà
nhìn vào Đất Hứa (x. Đnl 31,1-4) và gợi ý cho Đức Giêsu một giải pháp:
bái lạy nó. Đây là cám dỗ con bê vàng, muốn tự tạo cho mình một thần
linh mà mình có thể điều khiển. Đức Giêsu vẫn dứt khoát nói “không”,
bằng câu Đnl 6,13: Thiên Chúa không phải là một Đấng mà người ta có thể
mặc cả với; Ngài đòi hỏi tin tưởng và vâng phục vô điều kiện. Dĩ nhiên,
Đức Giêsu, Tôi Trung của Thiên Chúa, không từ bỏ kế hoạch chinh phục thế
giới, nhưng chinh phục bằng thập giá. Đất Hứa là lãnh địa bao la mà
Người sẽ nhận khi sống lại (x. 28,18: theo lời hứa ở Tv 2,6-8). Sau này,
chúng ta thấy các môn đệ Người không hiểu được chọn lựa này (Phêrô: Mt
16,23). Đức Giêsu sẽ chấp nhận cái đói, các nỗi nhục nhã, những thất bại,
cái chết, để chu toàn ý muốn của Thiên Chúa.
* Kết
(11)
Câu kết
của bản văn là một ghi chú thần học hơn là một sứ điệp lịch sử. Sự thống
trị mà Đức Giêsu đã từ chối nay vẫn được ban cho Người. Trong tâm thức
dân gian, các thiên sứ là những tôi tớ của Thiên Chúa (x. Mt 16,27), bây
giờ đến phục vụ Đức Giêsu, lệ thuộc Người. Đức Giêsu không nhận một
vương quyền trần thế, nhưng chia sẻ chính quyền thống trị của Thiên
Chúa.
Rõ ràng
Nước Trời đã đến gần loài người, bởi vì thiên triều đang vây quanh Người
Con yêu dấu của Thiên Chúa. Nhưng các thiên sứ chỉ can thiệp sau khi Đức
Giêsu đã chiến thắng cám dỗ. Sau này, khi Người đã thắng được cám dỗ
muốn vận dụng “hơn mười hai đạo binh thiên thần” (26,53) để tránh thoát
thập giá, khi Người vẫn phó thác cuộc đời vào tay Chúa Cha, các thiên sứ
lại đến hầu hạ Người, qua việc loan báo tin mừng Phục Sinh cho các môn
đệ (x. 28,2-7).
+ Kết
luận
Các cám
dỗ nhắm tấn công Đức Giêsu trong tư cách Mêsia và Người Con vâng phục và
trung thành của Thiên Chúa. Quỷ xúi Đức Giêsu lạm dụng lời quyền năng
của Người, rồi xúi Người ỷ lại vào quan hệ giữa Người với Thiên Chúa, và
cuối cùng, xúi Người bỏ đi lòng trung nghĩa với Thiên Chúa. Chiến thắng
của Người rất quan trọng. Nó xóa đi những bóng tối đã tích tụ lại trong
lịch sử dân Thiên Chúa và nó cũng gợi ra chiều hướng dấn thân phục vụ ơn
cứu độ. Thay vì chọn làm một Mêsia-Phù thủy hay một Mêsia-Thủ lãnh, Đức
Giêsu chọn làm Mêsia-Tôi tớ khiêm nhường. Khi đó, Người vẫn là Người Con
vâng phục, và cũng là Israel chân chính và hoàn hảo.
5.-
Gợi ý suy niệm
1. Trung
thành đọc và suy gẫm Lời Chúa, chúng ta sẽ khám phá ra liên tục lòng
nhân ái của Thiên Chúa đối với chúng ta. Từ đó, chúng ta có thể yên tâm
phó thác cuộc sống cho Ngài, không phải tính toán để bảo vệ cuộc sống
mình, để rồi rơi vào các cám dỗ. Cám dỗ luôn luôn xoay quanh Lời Chúa,
hoặc để vi phạm hoặc để lái Lời Chúa khỏi ý nghĩa đúng đắn. Con rắn mưu
mô trong St 3 đã bóp méo Lời Chúa: “Có thật Thiên Chúa bảo: ‘Các ngươi
không được ăn hết mọi trái cây trong vườn không? … ‘Chẳng chết chóc gì
đâu! Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ
mở ra…” (St 3,1.5). Tên cám dỗ trong bài Tin Mừng Mt đã bảo Đức Giêsu
dùng Lời Chúa để biến đá thành bánh hoặc đã uốn nắn ý nghĩa của Thánh
vịnh để đưa Đức Giêsu đến chỗ thử thách Thiên Chúa. Đức Giêsu không áp
đảo Lời Chúa; Người vâng phục Lời Chúa, Người nhận Lời Chúa từ Thiên
Chúa.
2. Quỷ đã
đề nghị cho Ađam trở thành Thiên Chúa (St 3,5). Nó cũng gợi ý cho Đức
Kitô sử dụng quyền lực thiên sai của mình như một đặc quyền hay như một
vũ khí. Nói cho cùng, tội lỗi luôn luôn là một ý chí hùng cường. Thế mà
Thiên Chúa lại cứu con người khỏi tội lỗi bằng sự yếu đuối của Đức Kitô.
Muốn được Thiên Chúa can thiệp tức khắc vào đời sống mình có nghĩa là
nghi ngờ sự quan phòng thông thường của Ngài, nghi ngờ quyền năng và
lòng nhân lành của Ngài. Ai thử thách Thiên Chúa, thì không có đức tin
hoặc có một đức tin đang chao đảo, nên mới chờ đợi các phép lạ.
3. Các
cám dỗ không chỉ là chuyện một ngày hay bốn mươi ngày, mà là cả đời Đức
Giêsu. Luôn luôn có những sức mạnh bên ngoài, như các môn đệ (Mt 16,22),
các kẻ thù (12,38; 27,41), và cả những khát vọng của bản thân Người
(26,39; 27,46) tìm cách đưa Người đi theo nẻo đường quỷ vạch ra cho
Người. Người đã chọn, Người sẽ phải liên tục chọn nói “không” với quỷ và
thưa “xin vâng” với Chúa Cha (x. Dt 5,8).
4. Đức
Giêsu nói “không” với quỷ, nhưng cũng phải nói “không” với chính mình,
bởi vì con đường Người theo kềm hãm các khát vọng và những đòi hỏi của
bản tính tự nhiên. Các phản ứng của Người trước đau khổ, những tủi nhục,
những thất bại, thì cũng giống như mọi người. Người không thể phạm tội,
nhưng Người có thể chọn con đường chung của mọi người, là sự thỏa thuê.
Vinh quang không phải là một tội, mà còn là một quyền Người có thể dùng.
Sự rút lui của quỷ chứng tỏ đây không những là một chiến thắng của chủ
trương Mêsia khiêm nhường và phục vụ như tôi tớ, mà còn là một chiến
thắng riêng của Đức Giêsu. Người đã không nhường bước cho một nẻo đường
tiện nghi thoải mái, đã không muốn hưởng trước một thành công; nhưng
Người đã tôn trọng con đường đã được chọn cho Người dù phải hy sinh,
thiệt thòi. Rời khỏi hoang địa, không những Người được thánh hiến mà còn
đủ tư cách Mêsia.
mục
lục
Thánh sử
Matthêô, một người Do- thái, nhắm trước hết vào các độc giả Do-thái, ông
muốn nhắc nhở: dân Do Thái đã sa chước cám dỗ khi họ sống trong hoang
địa 40 năm trường, còn Chúa Giêsu đã chiến thắng các cám dỗ của ma quỷ,
sau khi ăn chay 40 ngày nơi rừng vắng.
Có tất cả
3 cám dỗ nặng nề:
1-
Cám dỗ cơm bánh hay vật chất:
Trong hoang địa, dân Do thái kêu ca vì thiếu tiện nghi và lương thực.
Chúa cho manna để nuôi họ. Nhưng họ nhàm chán thứ bánh họ ăn hằng ngày.
Lương thực nói đây tượng trưng nhu cầu vật chất chúng ta muốn hưởng thụ.
Trong cơn cám dỗ vật chất, Chúa Giêsu đã trưng lời sách Đệ nhị luật:
“Người ta sống không chỉ bởi bánh, nhưng bởi lời từ miệng Thiên Chúa”.
Mặc dù Chúa Giêsu cảm thấy đói, nhưng sự đói khát nghe lời Thiên Chúa
còn quan trọng hơn là nhu cầu về cơm bánh. Ngài hơn hẳn dân Do thái xưa,
Ngài tìm ý Thiên Chúa hơn là tìm sự thỏa mãn cho riêng Ngài.
2-
Cám dỗ về sự thử thánh quyền năng Thiên Chúa:
Dân Do thái luôn yêu cầu Chúa ban những dấu lạ điềm thiêng, nhưng Chúa
từ chối vì họ không thực tâm tin vào Ngài, mà đơn thuần chỉ để thách
thức Chúa. Hôm nay, khi ma quỷ cám dỗ Chúa Giêsu gieo mình xuống khỏi
đền thờ, Ngài đã trả lời bằng cách trưng dẫn sách đệ nhị luật: “Ngươi
đừng thử thách Thiên Chúa”. Những gì dân Do Thái khiêu khích Thiên Chúa
nơi hoang địa, nơi đây ta thấy Chúa Giêsu đã chẳng hề làm.
3-
Cám dỗ hạ mình thờ lạy ma quỷ:
Xưa dân Do thái đã tạc tượng bò vàng và thờ lạy nó. Ngày nay, ngẫu tượng
hay bò vàng chính là tiền tài, danh vọng, thú vui, vật chất, tiện nghi,
sắc dục đem chúng ta xa lìa Chúa và dẫn ta đến chỗ thỏa hiệp, phạm tội.
Chúa Giêsu chẳng màng bất cứ điều gì ma quỷ trưng dẫn, kể cả vương quốc
nó muốn dâng tặng Ngài. Ngài đã chẳng cúi đầu thờ lạy nó, trái lại Ngài
dõng dạc tuyên bố: “Ngươi chỉ thờ lạy một mình Thiên Chúa” (Đnl 6:13).
Thánh
Mat-thê-ô chỉ ra rằng, trong khi dân Do thái đã ngã thua cám dỗ trong sa
mạc, thì trái lại, Chúa Giêsu đã chẳng hề sa ngã. Bởi đó, Chúa Giêsu, là
dân Is-diên mới, là con thật của Thiên Chúa, là thừa kế chính truyền của
vương quốc Thiên Chúa. Những ai theo gương Ngài, sẽ vượt qua cám dỗ
trong cuộc đời, và trở nên con cái đích thực của Thiên Chúa.
Chúng ta
đã bước vào Mùa chay thánh. Mùa chay thánh hay còn được gọi là mùa chiến
đấu thiêng liêng. Đối tượng đặc biệt mà chúng ta phải chiến đấu đã được
Tin mừng hôm nay nhắc tới, đó là sự cám dỗ. Vậy, cám dỗ do đâu? Ai bị
cám dỗ? Cám dỗ về điều gì? Làm thế nào để thắng được sự cám dỗ?
1. Cám
dỗ do đâu?
Từ “cám
dỗ” thường được hiểu theo nghĩa xấu. Bởi vì, sự cám dỗ thường đến từ Ma
quỷ hoặc những hình thức khác do Ma quỷ bày đặt ra. Chẳng hạn, ma quỷ
lấy hình con rắn để cám dỗ Adong và Evà phạm tội bất tuân lệnh Thiên
Chúa; Ma quỷ cám dỗ Đức Giêsu như được ghi chép trong Tin mừng hôm nay;
Ma quỷ có thể dùng danh, lợi, thú để cám dỗ con người qua mọi thời đại.
Nhưng
chúng ta cũng có thể thay thế từ “cám dỗ” bằng từ “thử thách”. “Thử
thách” thường được hiểu theo nghĩa tốt. Thử thách được hiểu như là một
cuộc sát hạch, một cuộc thi, ai vượt qua được thử thách ấy là kẻ chiến
thắng, được coi như thi đậu. Ai không vượt qua được thử thách đó là kẻ
thất bại, hay còn gọi là thi trượt. Kinh Thánh nói: “Lửa thử vàng, gian
nan thử đức”. Chí sĩ Phan bội Châu cũng nói:
Nếu
phải đường đời bằng phẳng hết,
Anh
hùng hào kiệt có hơn ai.
Vì thế,
thử thách rất cần thiết trong đời sống thường ngày cũng như trong đời
sống thiêng liêng. Trong đời sống thiếng liêng, thử thách thường đến từ
Thiên Chúa. Thiên Chúa thử thách để biết lòng trung thành của con người.
Thiên Chúa đã thử thách ông Abraham khi đòi hỏi ông sát tế Isaac (St
22,1). Thiên Chúa thử thách ông Gióp khi để ma quỷ làm hại con cái, tài
sản của ông (x. G 1,1-22; 2, 1-13). Đức Giêsu thử thách lòng tin của
người đàn bà Ca-na-an (x. Mt 15, 21-28)…
Như vậy,
trong đời sống thiêng liêng: cám dỗ đến từ ma quỷ còn thử thách thì đến
từ Thiên Chúa. Thiên Chúa để cám dỗ xẩy ra đối với con người và có những
lúc Ngài thử thách con người, nhưng Ngài vẫn luôn muốn con người chiến
thắng thử thách, không sa chước cám dỗ. Bằng chứng là trong Kinh Lạy
Cha, Ngài đã dạy chúng ta cầu nguyện: “Xin đừng để chúng con sa chước
cám dỗ.” (Mt 6,13).
2. Ai
bị cám dỗ? Cám dỗ về điều gì?
Đã là con
người ai cũng có thể bị cám dỗ. A-dong và E-và đã bị cám dỗ. Các thánh
cũng thường xuyên bị cám dỗ. Chính Đức Giêsu bởi mang theo bản tính loài
người nên Ngài cũng bị cám dỗ. Ma quỷ có thể cám dỗ con người về mọi
phương diện. Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết, Ma quỷ cám dỗ Đức Giêsu
về ba phương diện.
Thứ
nhất:
Lợi dụng khi Đức Giêsu đang đói, cần của ăn, Ma quỷ đã cám dỗ Ngài rằng:
“Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy khiến những hòn đá này biến thành bánh”
(Mt 4,3). Chúng ta biết, Đức Giêsu thừa khả năng để làm phép lạ. Sau này,
chính Ngài đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho hàng ngàn người ăn no mà
còn dư thừa. Nhưng, trong trường hợp này, nếu Đức Giêsu làm phép lạ biến
đá thành bánh thì Ngài sẽ mắc âm mưu của Ma quỷ: Thứ nhất, Ngài dùng
quyền năng mình sai mục đích; Thứ hai, Ngài không tin vào sự quan phòng
của Thiên Chúa. Cho nên, Đức Giêsu không làm phép lạ theo yêu cầu của Ma
quỷ, trái lại Ngài đã trích lời Kinh Thánh rằng: “Người ta sống không
chỉ nhờ cơm bánh nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra”(Mt
4,4).
Thứ
hai,
Ma quỷ muốn cám dỗ Đức Giêsu về tội kiêu ngạo, muốn tôn mình lên, nên
mới nói với Ngài rằng: “Nếu ông là Con Thiên Chúa hãy gieo mình xuống đi”
(Mt 4,6). Ở cơn cám dỗ này, Quỷ muốn Đức Giêsu đòi hỏi Thiên Chúa can
thiệp để làm theo ý mình, nghĩa là áp đặt ý Thiên Chúa trên ý mình để
làm phép lạ. Đây là một sự thử thách Thiên Chúa. Đức Giêsu đã biết âm
mưu của Ma quỷ, Ngài đã chiến thắng cơn cám dỗ này bằng lời Kinh Thánh:
“Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi”(Mt 4,7).
Thứ
ba,
Tin mừng kể lại: “Quỷ đưa Người lên núi rất cao, và chỉ cho Người xem
thấy mọi nước thế gian và vinh quang của những nước đó, rồi nói với
Người rằng: ‘Tôi sẽ cho ông tất cả những cái đó, nếu ông sấp mình xuống
thờ lạy tôi’” (Mt 4,8-9). Chúng ta thừa biết rằng, thờ lạy Thiên Chúa là
bổn phận của con người. Nhưng con người thường bị cám dỗ từ bỏ Thiên
Chúa để thờ lạy các thần khác ngoài Thiên Chúa. Ma quỷ đã cám dỗ Đức
Giêsu về phương diện này. Một lần nữa, Đức Giêsu đã chiến thắng Ma quỷ
bằng Lời Kinh Thánh: “Ngươi phải thờ lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của
ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”(Mt 4,10).
Như vậy,
ai cũng bị cám dỗ. Cám dỗ về mọi mặt nhất là về danh, lợi, thú. Đức
Giêsu đã bị cám dỗ và Ngài chiến thắng. Nhờ ơn Chúa, có rất nhiều người
đã thắng được cơn cám dỗ nhưng cũng không thiếu những người đã sa chước
cám dỗ.
3. Làm
thế nào để chiến thắng cám dỗ?
Waterstone có viết: “Đầu hàng cám dỗ là hành động của thú tính, chiến
thắng nó mới là con người.” Nhưng làm sao để chiến thắng cơn cám dỗ của
Ma quỷ?
Thứ
nhất, hãy tránh xa chước cám dỗ:
Ma quỷ rất tinh ranh, thông thường chúng cám dỗ con người theo cách tiệm
tiến. Nghĩa là nó bắt đầu cám dỗ con người phạm các tội nhẹ, đến các tội
ít nhẹ hơn, đến các tội nặng và cuối cùng là phạm tội rất nặng. Chẳng
hạn, để các trẻ em nghiện geam, ma quỷ dụ dỗ chúng đến các quán nét; để
các ông nghiện cờ bạc, ma quỷ dụ dỗ họ thường xuyên lui tới các sòng bạc;
để các thanh thiếu niên lỗi đức trong sạch, Ma quỷ cám dỗ con người xem
những hình ảnh, những trang mạng xấu (gương vua Đa-vít); để ai đó trở
thành kẻ ăn cắp, ma quỷ cám dỗ họ bắt đầu bằng hành động ăn cắp vặt…
Vì vậy,
cần đề phòng những nơi nguy hiểm, tránh xa các chước cám dỗ mà ma quỷ
bày ra, cố gắng nói không với các chước cám dỗ, cho dù đó chỉ là những
lỗi nhỏ nhặt trong cuộc sống hằng ngày. Bởi vì,“Trẻ trộm gà, già trộm
trâu, lâu lâu thành giặc.” Mặt khác, cần biết chọn điều tốt và loại bỏ
điều xấu; chọn điều lành và bỏ điều ác; chọn Chúa và bỏ Ma quỷ.
Thứ
hai, siêng năng cầu nguyện:
Thiên Chúa không bao giờ thử thách hay để cho ma quỷ cám dỗ quá sức chịu
đựng của con người. Thánh Phaolô đã từng nói: “Ơn Ta đủ cho con” (2Cr
12,9). Chính vì thế, con người cần phải cố gắng hết sức mình để chống
trả chước cám dỗ. Đồng thời, hãy dùng những phương tiện Chúa ban để lượt
thắng những thử thách mà Thiên Chúa có thể gửi đến và chiến thắng các
chước cám dỗ do Ma quỷ bày ra. Có nhiều cách thế để xua đuổi Ma quỷ
nhưng cách thế hiệu quả nhất là cầu nguyện. Cầu nguyện để xin Chúa giúp
sức cho chúng ta. Đức Giêsu đã cho chúng ta biết, có những thứ quỷ chỉ
trừ được bằng “cầu nguyện” (x. Mc 9,29). Chính Ngài mời gọi chúng ta:
“Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo phải lâm vào cơn cám dỗ” (Mt
26,41). Vì vậy, hãy siêng năng cầu nguyện và cầu nguyện sốt sắng. Rất
nhiều vị thánh đã chiến thắng được cám dỗ nhờ cầu nguyện. Chẳng hạn,
thánh Gioan Maria Vianay đã phải bị Ma quỷ quấy phá suốt 35 năm, từ
1824-1858, nhưng Ngài đã chiến thắng nhờ cầu nguyện. Thánh Antôn, một
ngày kia, bị Ma quỷ cám dỗ về đàng trái, Ngài đã cầu nguyện sốt sắng và
lấy tay ghi hình thánh giá lên nền nhà thờ, Ma quỷ thấy vậy liền bỏ chạy.
Lạy
Chúa Giêsu, Chúa đã chiến thắng Ma quỷ cám dỗ, xin giúp chúng con đủ sức
để chiến thắng các cơn cám dỗ trong đời sống đức tin của chúng con. Amen.
Bài Phúc
Âm hôm nay thuật lại câu chuyện Chúa Giêsu chịu cám dỗ ba lần, mỗi lần
mỗi khác. Quỷ Satan đã nhắm vào những ba điểm yếu nhất của con người để
cám dỗ Chúa: nhu cầu vật chất, nhu cầu tinh thần và nhu cầu hưởng thụ.
Thứ nhất, sau những ngày Chay tịnh, Chúa Giêsu cảm thấy đói. Đói cần
phải ăn. Lợi dụng cơ hội này quỉ cám dỗ Chúa chiêu bài rằng nó không bảo
Chúa phải ăn nhưng nó dụ Chúa biến đá thành bánh mà ăn. Vì sao? Vì dùng
cơm bánh ăn chống đói là bình thường, nhưng biến đá thành bánh mà ăn đó
là chuyện khác thường. Dùng uy quyền để phục vụ Thiên Chúa là chuyện
bình thường, nhưng dùng quyền mà mưu lợi cho cá nhân của mình chứ không
phải lo cho chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa là sa chước cám dỗ của
nó vì chưng nếu Chúa làm như qủy đề nghị, Chúa sẽ không còn phải là Con
của Thiên Chúa nữa, mà đã trở thành dụng cụ trong tay qủy rồi. Chính vì
thế, Chúa Giêsu đã dứt khoát khước từ và Chúa đã chiến thắng nó. Như nó
không chịu thua, qủy đưa lên một bình diện cao hơn, vươn lên tới lĩnh
vực tinh thần. Cho nên, bằng những lời đường mật, qủy muốn Chúa Giêsu
thách thức Thiên Chúa. "Nếu ông là con Thiên Chúa, thì hãy gieo mình
xuống đi” (Mt 4,6). Nhưng Chúa Giêsu biết chiêu bài nên đã không rơi vào
cạm bẫy của quỉ. Chúa đã thẳng thắng trả lời: “Ngươi chớ thử thách Thiên
Chúa của ngươi”. Chúa lại chiến thắng. Quỉ tấn đến cám dỗ cuối cùng, nó
nham hiểm và ác độc hơn: Thèm muốn quyền hành để được hưởng thụ. Cho nên,
quỉ đề nghị Chúa phải thờ lạy nó thì sẽ có tất cả vinh hoa phú quý quyền
lực. Thật là một đề nghị trớ trêu nhưng không kém phần hấp dẫn vì Thiên
Chúa vốn giàu sang phú quý quyền năng, nay lại phải đói khát chẳng còn
cái gì. Nhưng Chúa đã dạy cho nó bài học đắc giá rằng: “Ngươi phải bái
lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người
mà thôi. Thế rồi quỷ bỏ Người mà đi.
Phần
chúng ta, quỷ dữ cũng không tha. Trong đời sống chúng ta hôm nay chắc
chắn cũng bị quỉ dữ cám dỗ trước 3 lĩnh như Chúa Giêsu xưa: Tiền bạc,
quyền hành và hưởng thụ. Thứ nhất tiền bạc, tiền của có thể là một tên
đầy tớ tốt, nhưng lại trở thành ông chủ xấu. Tiền có thể xây dựng, nhưng
cũng có thể phá đổ. Có thể phát triển nhưng cũng có thể huỷ diệt mọi
công trình vật chất cũng như tinh thần. Tiền của có thể biến con người
trở nên bất hiếu, đánh mất nhân cách, giảm đi nhân phẩm, bất trung, bất
nghĩa và dễ làm mất đức tin. Chẳng hạn, cũng vì tiền mà vợ chồng ông Vua
cà phê Trung Nguyên đưa nhau ra tòa ly dị. Trong phần tranh luận tại tòa,
ông rút ra nhận định: “Con người cần phải có lương tâm, lương tri. Thiếu
cái đó không còn phải là con người nữa”. Khi nói về gia đình, ông chua
xót thốt lên: “Tiền nhiều để làm gì? Giành tiền để làm gì mà giờ đây
phải đưa nhau ra tòa nhục nhã đau đớn như thế này?”. Chúng ta không nói
đến việc ai đúng ai sai, nhưng chúng ta rút ra được một điều: tiền bạc
có sức hút mãnh liệt và cũng là những cám dỗ vô cùng mạnh mẽ trong đời
sống con người và nó có thể biến con người trở nên thù nghịch với nhau,
khiến gia đình tan vỡ. Vì tiền bạc mà nhiều người đi sai đường lạc lối,
đánh mất lương tri và đạo đức kể cả đức tin. Vì thế, Chúa Giêsu cảnh
giác chúng ta: "Anh em không thể làm tôi Thiên Chúa và tiền bạc được" (Lc
16,13).
Cám dỗ
thứ 2 mà quỷ hôm nay luôn giăng bãy chúng ta đó là hưởng thụ cụ thể là
thế giới ảo. Đây cũng là một vật cản không nhỏ giăng bẫy đời sống tâm
linh của chúng ta. Thật thế, một mặt, thế giới mạng giúp chúng ta mở
rộng tầm mắt ra thế giới xung quanh với nhiều thông tin một cách nhanh
chóng, giúp con người “biết” và “gần gũi” nhau hơn, cung cấp nhiều thông
tin đa dạng và phong phú, đầy đủ các chức năng để giải trí, học hành
mang tính hiện đại… Tuy nhiên, mặt trái nó làm cho chúng ta dễ dàng rơi
vào cơn cám dỗ triền miên của thái độ sống hưởng thụ, sống ảo và tự kỷ.
Chúng ta mải mê với thế giới ảo mà không còn thiết tha với việc đi lễ,
cầu nguyện, không tìm được hứng thú và niềm vui khi gặp gỡ Thiên Chúa và
ra đi tìm đến và gặp gỡ tha nhân. Cho nên, chúng ta có thể bỏ nhiều giờ
trên thế giới ảo nhưng dành ít thời gian viếng Chúa, cầu nguyện, đọc
kinh… rồi chúng ta sẵn sàng tỏ bày tâm tư, tình cảm, vui buồn sướng khổ
của ta cho những người trên thế giới ảo trong khi đó với Chúa và cha mẹ
hay những người sống quanh ta không hề quan tâm, thăm hỏi và bày tỏ tâm
tình...
Kính thưa
anh chị em, không cần phải nói nhiều, cũng không cần phải dẫn chứng, anh
chị em cũng có thể thấy cơn cám dỗ về quyền hành và hưởng thụ ngày hôm
nay nó mạnh như thế nào và đồng thời anh chị em cũng thấy được những hậu
quả của nó ra sao. Nếu không can đảm chiến đấu, sớm muộn gì rồi chúng ta
cũng sẽ trở thành nô lệ cho nó, và lúc đó, chúng ta sẽ không biết nó sẽ
lôi kéo ta đi tới đâu và bắt chúng ta làm cho nó những gì. Chúng ta
không thể lường trước được. Qủy dữ rất khôn khéo và xảo quyệt: từ người
đạo đức có thể trở thành tội nhân và tội lỗi. Từ một ngụm rượu cho đến
con ma men say sưa, từ một lần hút thử mà rồi rơi vào con nghiện ngập
lúc nào không hay, từ một lần thói quen phim xấu trở thành quen thói tội
lỗi, từ một việc ăn cắp vặt thành một tên trộm cướp giết người, và từ
một câu chửi tục với chồng vợ con trở thành một kẻ bạo lực gia đình…
Chúng ta
hãy can đảm lên! Như Chúa Giêsu, chúng ta hãy chiến đấu để giành chiến
thắng cơn cám dỗ của quỷ dữ và để chiến thắng cả sự chết. Chúa đã chiến
thắng và bước vào cõi vinh quang để trở thành Cứu Chúa của mọi người.
Mùa chay là mùa tập luyện và chiến đấu với những cám dỗ của quỷ dữ trong
đời sống. Chúng ta hãy can đảm cầm lấy vũ khí là Lời Chúa, hy sinh, hãm
mình ăn năn và sám hối để chiến đấu trước mọi cám dỗ và rồi sẽ chiến
thắng như Chúa Giêsu, để cũng được chia sẻ vinh quang với Người, đúng
như Lời Chúa trong bài đọc 2, Thánh Phaolô xác quyết: “Những ai được
Thiên Chúa ban ân sủng dồi dào và cho trở nên công chính, thì sẽ được
sống và được thống trị với Người”.
Hôm nay
chúng ta bước vào Chúa Nhật thứ 1 Mùa Chay. Mùa chay kéo dài 40 ngày.
Con số 40 tượng trưng cho một cuộc khởi đầu mới: lụt đại hồng thủy 40
đêm ngày; 40 năm dân Do Thái đăng trình trong sa mạc để tiến về Đất Hứa;
40 ngày 40 đêm ngôn sứ Elia đi bộ về núi Hôrép để lãnh nhận sứ mạng tái
lập giao ước. Và Chúa Giêsu làm cuộc hành trình cá nhân 40 đêm ngày
trong hoang địa để sau đó bắt đầu một cuộc xuất hành mới dẫn dân mới về
Đất Hứa là Quê Trời. Bốn mươi ngày cũng là hình ảnh của cuộc đời mỗi
người chúng ta. Thật vậy, như Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay, sau khi
chịu phép rửa, liền được Thần khí đẩy vào sa mạc chịu Satan cám dỗ,
chúng ta cũng vậy, sau phép rửa tội liền bắt đầu chiến đấu với các cám
dỗ.
Chúa
Giêsu là Chúa cũng không thoát khỏi cơn cám dỗ nhưng Ngài đã chiến đấu
và chiến thắng cơn cám dỗ nhờ Ngài liên lỉ lựa chọn giữa ý Cha và ý
Người. Trong bài Tin mừng chúng ta vừa nghe hôm nay, thánh sử Mátthêu
nói về việc Chúa Giêsu chiến thắng cám dỗ. Ma quỷ đã cám dỗ Chúa Giêsu
điều gì? Thưa, ma qủy đã tìm cách lôi kéo Chúa Giêsu quay lưng lại với
Chúa Cha; khước từ sống vâng phục thánh ý Chúa để được thoả mãn cơn khát
– đói và thèm muốn xác thịt và tinh thần của mình. Cụ thể, qủy đã hướng
mở cho Chúa một tương lai đầy hứa hẹn không chỉ có của ăn dư đầy từ
những hòn đất hòn đá cũng biến thành của ăn, từ sỏi đá cũng thành cơm,
mà vượt xa hơn nữa là nắm gọn trong tay thiên hạ, kẻ hầu người hạ và
thừa hưởng mọi vinh hoa lợi lộc trần gian. Năm xưa trong vườn địa đàng
nó đã thắng ông bà nguyên tổ, khi nó đưa ra những lời dụ dỗ đầy ngọt
ngào, đầy hấp dẫn, nhưng hôm nay, màn trình diễn này đã hoàn toàn thất
bại bởi Người Con duy nhất của Thiên Chúa là Ðức Giêsu, Ngài không những
đã khước từ những lời mời mọc của ma quỷ nhưng còn cho ma quỷ nhận ra
rằng không có gì cao qúy hơn là được sống trong tình nghĩa với Thiên
Chúa, sống trong sự quy phục Thiên Chúa, vì “Người ta sống không nguyên
bởi bánh, nhưng còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4,4).
Tuy ma
quỷ đã thất bại với Chúa Giêsu, nhưng nó vẫn dùng những chiêu thức đó để
tấn công con người hôm nay. Trước hết nó gieo vào lòng ta mối nghi ngờ
Thiên Chúa, về lòng thương xót và quan phòng của Thiên Chúa. Nó mở ra
cho chúng ta một sự so sánh, tính toán thiệt hơn và cuối cùng là đưa ra
phương tiện để quyến rũ chúng ta là: danh vọng, tiền tài, địa vị, thú
vui. Kết quả là nhiều người vì ham tiền, ham lợi lộc đã trở thành tay
sai cho ma qủy, không chỉ mình làm điều ác mà còn lôi kéo, dẫn dụ nhiều
người khác đi vào con đường tội lỗi. Ma qủy đã thành công khi sai khiến
chúng ta làm sự dữ, là những điều trái với luân thường đạo lý như: trộm
cắp, đánh nhau, hận thù ghen ghét, tự cao tự đại .. . Ðó là những mối
tội đã gây nên biết bao đau khổ cho chính mình và cho những người xung
quanh. Chẳng hạn, ngày 28/1 vừa qua một vụ cướp của giết người gây chấn
động thành phố Hồ Chí Minh đó là tên Nguyễn Công Bảo 15 tuổi giết nghệ
sĩ cải lương Đỗ Linh để cướp tài sản. Đau đớn thay cho xã hội nay đó là
kẻ giết người chưa đến tuổi thành niên!
Hôm nay
khởi đầu Mùa Chay, chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu bị ma quỷ cám dỗ, Giáo
hội mời gọi chúng ta ý thức về thân phận tội lỗi của mình và sức mạnh
của ma quỷ luôn rình rập để lôi kéo chúng ta xa rời Thiên Chúa, đi trong
tối tăm của đam mê lầm lạc. Vì thế, chúng ta luôn phải sám hối và tin
vào tình yêu của Chúa. Sám hối để nhận ra sự khiếm khuyết của mình mà
cầu xin ơn Chúa bổ túc những thiếu sót của chúng ta. Sám hối để canh tân
đời sống sao cho phù hợp với Tin Mừng của Chúa. Sám hối để chúng ta nhận
ra sự giới hạn của kiếp người để nhờ ơn Chúa giúp chúng ta sẽ hoàn thiện
con người của mình nên thánh thiện như Cha trên trời là Ðấng hoàn thiện.
Vì thế, Thánh Phêrô khẳng định: “Khi chúng ta Lãnh nhận phép rửa, không
phải là được tẩy sạch vết nhơ thể xác, mà là cam kết với Thiên Chúa sẽ
giữ lương tâm trong trắng, nhờ sự phục sinh của Đức Giê-su Ki-tô, Đấng
đang ngự bên hữu Thiên Chúa sau khi đã lên trời, đã bắt các thiên sứ và
toàn thể thần minh phải phục quyền”.
Ước gì
qua Lời Chúa hôm nay, xin cho mỗi người chúng ta biết luôn cầu xin Thiên
Chúa gìn giữ chúng ta khỏi sa chước cám dỗ. Biết cầu xin để Người hằng
gìn giữ chúng ta khỏi những cuộc tấn công của sa tan, khỏi những phản
bội của sự yếu đuối của chính chúng ta và xin Người ban cho chúng ta đủ
sáng suốt và sức mạnh để chống lại và khỏi sa chước cám dỗ trong suốt
Màu Chay và cuộc đời chúng ta. Amen.
Chương
đầu sách Sáng Thế Ký tường thuật sự việc Chúa tạo dựng con người phỏng
theo hình ảnh Chúa. Trình thuật cho biết từ nguyên thuỷ Chúa lấy bùn đất
tạo nên con người và thở hơi vào lỗ mũi ban Thần Khí Chúa cho con người.
Nhờ Thần Khí đó mà con người có sự sống.
Nguyên
việc sáng tạo cũng đủ cho biết con người có quan hệ rất mật thiết với vũ
trụ do Chúa tạo dựng. Đây là lí do chính giải thích tại sao con người
lại có khuynh hướng yêu mến, quyến luyến trần thế.
Nguyên
do
Ngoài ra,
thân xác con người bởi đất mà ra. Con người nhận biết mình là bụi tro và
sau cuộc đời khổ ải này sẽ trở về bụi tro. Nói cách khác thân xác con
người là một phần của vũ trụ do Chúa tạo thành. Yêu thích vật chất, của
cải thế gian chính là yêu thích cái cội nguồn thân xác trần thế của
chính mình.
Chúa phán
cho nhân loại con người hãy làm chủ chim trời, cá biển và những sinh vật
trên mặt đất. Con người thi hành giáo huấn tích cực đến độ cạnh tranh,
tranh nhau làm chủ và ngay cả tàn sát nhau để được quyền làm chủ trên
đất, biển và không gian. Thực ra con người được mời gọi làm quản gia,
chứ không phải là chủ gia. Nhiệm vụ của quản gia là bảo quản, coi sóc,
bảo vệ, canh tác và hưởng thành quả của lao tác. Đòi làm chủ vượt quá
quyền hạn của quản gia. Mầm mống của phản loạn chống lại chủ nhân vũ trụ,
chống lại Đấng sáng tạo ra vũ trụ. Mình Chúa làm chủ tất cả. Mọi người
đều là quản gia, công nhân của vườn nho Chúa.
Con người
nhận biết của cải, vật chất trần thế rất thực tiễn. Hữu dụng cho cuộc
sống và thoả mãn những nhu cầu con người. Chính những gì trái đất cung
cấp làm con cho người trở nên thèm khát và muốn chiếm đoạt, chiều theo
lòng ham muốn của cải.
Đam mê
Khuynh
hướng đam mê của cải, chức tước tác động mãnh liệt cho một số thành phần
vì họ khát khao có chúng. Với họ bao nhiêu vật chất cũng chưa vừa, sống
bao lâu cũng chưa đủ. Vì ham của cải, vật chất trần thế nên họ chối bỏ
Đấng sáng tạo vũ trụ. Đơn giản nhất là chối bỏ Ngài hiện hữu, để thay
Ngài làm chủ vũ trụ. Từ đó họ tự do xưng mình là chủ mọi loài, kể cả sự
sống. Tự trao trong tay quyền ban phát sự sống cho người khác. Để ai
sống người đó sống, bắt ai chết người đó chết. Quả là lộng quyền, lộng
ngôn. Ngày nào đó họ cũng chết, không cứu được mình. Phúc Âm vạch rõ ma
quỉ cầm đầu kẻ lộng quyền, lộng ngôn khi nó hứa cho Đức Kitô vinh quang
phú quí trần thế. Nó không có gì để cho ngoại trừ gian dối, lừa gạt.
Chính lừa gạt, gian dối này mà nó hứa cho cả những gì nó không có. Điều
ngạc nhiên là có người tin lời hứa hão huyền. Sẵn sàng gây chiến với anh
em. Dùng thủ đoạn đối xử với nhau. Thủ đoạn đi chung với chém giết, thủ
tiêu, khai trừ. Chết chóc, khổ đau, goá bụa, con côi, phát sinh từ lòng
tham, từ đam mê làm chủ sinh ra.
Vũ trụ do
Chúa tạo dựng là nơi con người sống và là nơi cung cấp nguồn thực phẩm
cho thân xác. Vì thế con người cố gắng làm chủ càng nhiều của cải càng
tự tin. Họ tin vật chất bảo vệ sự sống vì nó nuôi và làm đẹp thân xác.
Chúa trao quyền cho con người làm chủ chim trời cá biển và mọi sinh vật
trong mặt đất. Lời chúc phúc này chung cho mọi người, không riêng cho
một cá nhân, tập thể nào. Mọi cố gắng tranh giành cho riêng mình, tập
thể mình đều sai. Tranh chấp, bất hoà và tàn sát lẫn nhau vì của cải,
vật chất; danh vọng, chức tước vì thiếu ơn Chúa và sa vào cạm bẫy, chước
cám dỗ của satan.
Cám dỗ
Ma quỉ
biết rõ lịch sử hình thành nhân loại ra sao. Bởi đất mà ra nên chúng
dùng miếng ăn, hoa mầu ruộng đất và vinh quang phú quí trần thế cám dỗ
con người. Cả ba chước cám dỗ đều có chung mục đích là lo cho thân xác:
thực phẩm nuôi thân, mong nổi tiếng và lắm vàng, nhiều bạc. Vừa có tiếng
vừa có miếng quả là một thách đố lớn. Tiếng và miếng đều đến từ môi
miệng. Ma quỉ dậy con người quên đi con tim và nhắm vào hầu bao và bao
tử. Chúng cố tình làm ngơ sự sống Chúa ban cho con người vì mục đích
chúng là bóp nghẹt sự sống trường sinh.
Đức
Kitô
Đức Kitô
nhắc cho ma quỉ biết ngoài phần thân xác ra Chúa còn in dấu ấn tình yêu
Ngài vào trong con tim ta. Nhờ dấu ấn tình yêu này mà con người có sự
sống. Khi tạo dựng con người bằng bùn đất. Bùn đất đó chưa có sự sống.
Sự sống chỉ xuất hiện khi Chúa thở hơi vào hình bụi đất đó. Từ đó bụi
đất có sự sống do Chúa ban. Vì thế đừng quá lo lắng cho thân xác bụi đất
mà hãy chú trọng vào sự sống trường sinh, cõi lòng con người. Đức Kitô
nhắc con người ta sống không chỉ bởi cơm bánh mà còn do lời Chúa nữa.
Cơm bánh cần cho thân xác; Lời Chúa cần cho tâm linh. Cơm bánh nuôi thân
xác; Lời Chúa nuôi tâm linh.
Ngôn ngữ
của môi miệng không mang lại sự sống; ngôn ngữ của con tim nối kết tình
Chúa, tình người. Thiếu ngôn ngữ của con tim mọi sự sẽ trở về hư vô. Hỡi
người hãy nhớ mình là bụi tro, khi qua đời thân xác cũng sẽ trở về nguồn
gốc của chúng là bụi tro. Sự sống trường sinh đến từ Chúa sẽ trở về với
Chúa. Vì phát xuất từ Chúa nên tâm linh ví như cành cần thường xuyên
liên kết với thân là Chúa để nhận sự sống, được thánh hoá hầu sống mạnh
khoẻ, tinh tuyền.
Đức Kitô
xua đuổi ma quỉ và nhắc cho chúng biết Thiên Chúa có quyền bắt chúng
phải tùng phục Ngài. Ngài nhắc con người cần để ý, lưu tâm đến phần tâm
linh nhiều hơn vì đó là sự sống trường sinh. Thần khí đó không bao giờ
chết. Một là sống thảnh thơi trong tình yêu Chúa. Hai là lạc xa tình yêu
Chúa. Bị lạc nó sống trong đau khổ, khắc khoải, nửa sống nửa chết, vì nó
luôn muốn tìm về cội nguồn mà không được.
mục lục
Bấy
giờ ma quỷ đem Chúa Giêsu lên nóc đền thờ Giêrusalem, cao cách mặt đất
chừng bốn mươi mét, rồi bảo Chúa nhảy xuống, biểu diễn tài nghệ để người
ta khâm phục, ca tụng.
Như vậy là ma quỷ muốn cám dỗ Chúa về tính tự phụ tự cao, thích hư danh
và thích phô trương ưu thế của mình. Đây cũng là một điểm yếu của con
người. Lịch sử cổ kim đã ghi lại đầy dẫy những con người mang bệnh “muốn
làm lớn”, muốn trở thành “mặt trời” để kẻ khác xoay quanh mình. Chẳng
hạn, vua Babilon đã từng tuyên bố: “Ta sẽ lên trời, trên các vì sao của
Thiên Chúa, ta sẽ bắc ngai ta, ta sẽ ngự trên núi Tao phùng, nơi bồng
lai cực bắc, ta sẽ lên chót vót các tầng mây, ta sẽ đồng hàng với thượng
đế”. Cũng vậy, ông Xêda, khi chưa lên ngôi hoàng đế Lamã, đã nói một câu
phần nào trở thành kinh điển cho hậu thế: “Thà làm số một trong một làng
nhỏ bé hẻo lánh bên xứ Gôn (Gaule), còn hơn làm số mười một ở kinh đô
Lamã”. Và ngày nay, hằng năm, trên thế giới có xuất bản cuốn Ghi-nét (Guiness),
sách ghi các kỷ lục thế giới: người nào chạy nhanh nhất, sống lâu nhất,
ăn nhiều nhất, cao lớn nhất, có râu xịn nhất… nghĩa là chỉ những ai số
một ở một lãnh vực nào đó mới được ghi tên vào cuốn sách ấy để hậu sinh
biết. Từ ngày có cuốn Ghi-nét này, nhiều người đã cố gắng lập kỷ lục kỳ
cục cốt chỉ để nổi danh, để thế giới biết tiếng. Đó, chúng ta thấy, bản
tính con người muốn thần thánh hóa mình mà lại được ma quỷ thổi phồng
lên nữa, thì còn gì bằng. Vậy Chúa có mắc bẫy của ma quỷ không? Không,
ma quỷ muốn Chúa nổi danh sớm hơn chương trình đã định, và muốn Chúa nổi
nang như một tài tử, một nhà làm xiếc có tài để dân Do thái tôn lên bậc
thầy, và như vậy là làm trật được mục đích cứu rỗi nhân loại. Ý đồ thâm
hiểm là như thế. Nhưng một lần nữa, Chúa dùng lời Kinh thánh để phản
công lại ma quỷ: “Ngươi chớ thử thách Chúa là Thiên Chúa của ngươi”. Ma
quỷ lại thất bại.
Có hai
người buôn ngọc quí gặp nhau tại một sa mạc vắng vẻ. Người nào cũng muốn
khoe sự giàu sang của mình bằng cách, trong lúc chuyển hàng từ lưng lạc
đà xuống, làm bộ đánh rơi những viên ngọc của mình. Thế là chẳng ai bảo
ai, cả hai đều cúi xuống nhặt những viên ngọc ấy, rồi trao lại cho khổ
chủ và không ngớt ca tụng sự giàu sang của nhau.
Một
người mục tử theo dõi thái độ của họ, bèn cười thầm trong bụng. Ông bắt
một con bê béo làm thịt, rồi mời cả hai người lái buôn đến dùng bữa với
mình. Khi rượu đã sưởi ấm cõi lòng, người mục tử mới đem câu chuyện của
mình ra mà kể lại cho hai người lái buôn cùng nghe:
Trước
kia tôi cùng là một người buôn ngọc quí như hai ông. Thế rồi một ngày
nọ, khi băng qua sa mạc, tôi bị cuốn tung trong một cơn lốc xoáy. Gió
mạnh đến nỗi cuối cùng tôi đã bị lạc mất đoàn lạc đà và những người cùng
đi với tôi.
Lang
thang giữa sa mạc, tôi không còn biết đâu là phương hướng để trở về. Đến
lúc kiệt sức vì đói lả, tôi mở cái túi mà tôi vẫn mang theo bên mình.
Tôi hy vọng có thể tìm thấy một chút nước hay một mẩu bánh. Thế nhưng,
ngón tay run rẩy của tôi chỉ chạm tới những đồ vật mà lúc bấy giờ tôi đã
chán ngán, đó là những hạt ngọc quí mà trước kia tôi đã từng nâng niu.
Từ câu
chuyện trên, chúng ta đi vào đề tài chia sẻ hôm nay: Vậy đâu là cơn cám
dỗ, đâu là thần tượng của mỗi người chúng ta?
Thánh
Kinh kể lại rằng: Giũa lúc lang thang trong sa mạc, dân Do Thái đã gom
góp tất cả vàng bạc và nữ trang để đúc thành một con bò, rồi quì gối sụp
lạy nó. Về sau, việc thờ phượng con bò vàng ấy còn được tái diễn nhiều
lần, mỗi khi dân Do Thái từ bỏ Thiên Chúa để tìm đến với những thần minh
khác của các dân tộc chung quanh.
Sự bất
trung này thường kéo theo những thảm họa mà họ phải gánh chịu. Đất nước
họ thì bị ngoại bang chiếm đóng, bản thân họ thì bị đi lưu đày với một
kiếp sống lầm than cực khổ.
Thờ lạy
con bò vàng, đó cũng là cơn cám dỗ triền miên của nhân loại. Nó không
phải chỉ là việc khước từ Thiên Chúa, mà còn là việc khước từ chính bản
thân mình.
Thực vậy,
khi con người loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống, để chạy theo những
thần tượng giả trá, thì con người cũng đánh mất chính bản thân. Và ở bất
cứ thời đại nào, chúng ta cũng thấy có những con bò vàng mà con người
quì gối thờ lạy và dám hy sinh cả mạng sống mình vì chúng
Những con
bò vàng của thời đại mới là tiền tài, danh vọng, quyền lực và lạc thú…
Càng chạy theo những thần tương giả trá này, con người càng chuốc lấy
cho mình khổ cực. Bởi vì có tiền của nào khả dĩ lấp đầy túi tham của
lòng người. Có danh vọng nào khả dĩ thỏa mãn được tự ái không biên giới
của con người. Có quyền bính nào khả dĩ mang lại cho con người sự bình
an đích thực. Có lạc thú nào khả dĩ làm cho con người được hạnh phúc.
Mùa Chay
là mùa của sa mạc, là mùa của thử thách và cám dỗ, nhưng đồng thời cũng
là mùa của ơn sủng, là mùa của tình thương và kết hiệp mật thiết với
Chúa. Những cố gắng chúng ta thực hiện từng ngày sẽ giúp chúng ta định
hướng lại cuộc đời và xác định lại xem đâu là hạnh phúc và đâu là giá
trị đích thực chúng ta cần phải theo đuổi trong cuộc sống hôm nay? Đâu
là lý tưởng của cuộc đời và đâu là chỗ đứng của Chúa trong tâm hồn chúng
ta.
Trái đất
xoay quanh mặt trời thế nào, thì cuộc đời chúng ta cũng phải xoay quanh
Thiên Chúa như vậy. Chiếc kim địa bàn luôn hướng về phương bắc, thì bản
thân chúng ta cũng phải hướng về Thiên Chúa như vậy. Chúng ta chỉ sống
với Ngài và chỉ làm vinh danh cho Ngài, như lời Đức Kitô đã xác quyết:
- Ngươi
phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi và phải thờ phương một
mình Ngài mà thôi.
Trước khi
thuật lại hoạt động và việc giảng dạy của Chúa Giêsu, các thánh sử muốn
chúng ta hiểu rõ hơn Ngài là ai. Chúa Giêsu không phải là một nhân vật
lịch sử trong số nhiều nhân vật khác; người ta sẽ không gợi lại một
chuỗi lịch sử giữa hàng trăm nhân vật khác. Người ta sắp nói đến một ai
đó tuyệt đối duy nhất và về một biến cố đảo lộn lịch sử đến độ từ nay về
sau người ta sẽ nói một sự kiện nào đó xảy ra “Trước Giêsu Kitô” và “Sau
Giêsu Kitô”.
Đó là lý
do tại sao đã có tiếng chuông này: “Lúc bấy giờ Chúa Giêsu xuất hiện!”.
Và việc tỏ bày thiên tính lúc chịu phép rửa cùng với sự mạc khải phi
thường này: “Đây là Con Ta”. Anh thanh niên 30 tuổi này, anh thợ
mộc tầm thường người Nazarét này là Con Thiên Chúa! Nhưng tức thì tiếng
nói của quỷ dữ vang lên suốt những thế kỷ ở nơi nào người ta nói về
Giêsu: “Nếu Ngài là Con Thiên Chúa...”. Đó là tiếng đồn nghi ngờ.
Đó cũng là tiếng nói của chúng ta. Chúng
ta khó thích ứng với Chúa Giêsu. Chúng ta không thực sự sống với Ngài
theo cách của Ngài. Chúng ta thường lơ là đối với Ngài, ít tin chắc vào
Ngài. Và đột nhiên, theo kiểu của Satan, chúng ta bắt Ngài chứng minh
quyền lực của Ngài: “Xin Chúa làm cái này cho con, thay đổi cái nọ, tỏ
mình ra nhiều hơn nữa, chế ngự thế giới cho tốt hơn. Nếu Ngài thật sự là
Con Thiên Chúa”. Như vậy, khi chúng ta là quỷ đối với Chúa Giêsu, thì
chúng ta cũng là quỷ đối với chính chúng ta, chúng ta mất cơ may sống
điều gì đó với Ngài. Một ngày kia Ngài đã phải nói với Phêrô: “Hỡi
Satan, hãy cút đi!” (Mt 16,23). Phêrô không muốn Chúa Giêsu phải đau
khổ và phải chết. Chúng ta muốn Chúa Giêsu như thế nào? Chúng ta xen vào
lời này điều gì, một lời có thể là ca tụng hoặc quỷ quái:
“Vì Ngài là Con Thiên Chúa?”
Không bao
giờ chúng ta chú ý đủ đến Chúa Giêsu của Phúc Âm. Chính vì điều này mà
các Phúc Âm đã được viết ra, để cùng chiêm ngắm và suy niệm, chúng ta
càng có thể sống mầu nhiệm này: Thiên Chúa ở trong một con người. Bản
văn nổi tiếng viết về ba cám dỗ trước hết là để làm sáng tỏ con người
của Chúa Giêsu. Ta đừng vội tìm trong đó những cuộc đấu tranh của chính
chúng ta. Chắc chắn chúng có trong đó, vì rằng Chúa Giêsu là mẫu mực của
chúng ta nơi mọi sự. Nhưng chúng ta trước hết hãy xét đến cuộc đấu tranh
của Ngài đã, chúng ta sẽ biết được nhiều điều về Ngài.
Trước khi
phát hiện Ngài qua thái độ và lời nói của Ngài, Ngài cho chúng ta thâm
nhập vào trong con tim của Ngài, nơi mà một con người thực hiện những
lựa chọn quyết định. Chúa Giêsu như thế nào lúc bị cám dỗ thì Ngài sẽ
như vậy suốt cuộc đời công khai của Ngài, không gì lay chuyển được. Do
đó tầm quan trọng của đoạn văn này không chỉ đơn giản là một khúc dạo
đầu mà là một cuộc đấu tranh triệt để trong đó chúng ta khám phá ra
sức mạnh của một con người trong sức mạnh của Chúa Giêsu.
Phải,
Ngài là Con Thiên Chúa, nhưng cũng là người thật, và chúng ta khó lòng
chấp nhận Ngài. A! Nếu chúng ta có thể bịa ra Chúa Giêsu! “Vì Ngài là
Con Thiên Chúa, Ngài có thể làm được tất cả”. Không, Ngài không thể làm
được tất cả, không hơn gì chúng ta; những câu trả lời trong cuộc cám dỗ
chứng tỏ Ngài thuộc “thân phận con người”. Ngài sẽ sống trọn cuộc sống
thực của con người bị hạn hẹp và chuốc lấy thất bại.
Mặc dầu có sự yếu đuối, sự yếu đuối thực
sự của con người, Ngài sẽ chiến thắng bởi vì Ngài hoàn toàn phó thác vào
Cha Ngài. Chiêm ngắm Chúa Giêsu chính là được nâng lên với Chúa Cha và
bước vào niềm hy vọng. Trước giờ phút hoang mang cuộc khổ nạn, Phúc Âm
tức khắc muốn cho chúng ta một mẫu mực thân hữu với Chúa Giêsu: chúng
tôi hay lui tới một kẻ chiến thắng. Vào lúc đen tối nhất, Phúc Âm
nói: “Hãy tin tưởng!”
Chúa
Giêsu là người tin vào Chúa Cha và có sứ mạng khắc sâu vào trí não chúng
ta cũng niềm tin đó: tin vào Cha chúng ta ở trên trời. Đó là điều mà các
câu trả lời ngắn, chắc chắn và dứt khoát của Ngài cho ta thấy. Ngài là
Con (Thiên Chúa), vâng, và với tư cách là Con, Ngài chờ đợi tất cả nơi
Cha. Nhưng Ngài vất bỏ ý tưởng của Satan: cám dỗ sử dụng quyền lực của
Thiên Chúa cho riêng Ngài, cho cái đói, cho vinh quang của riêng Ngài.
Còn
tệ hơn nữa là cho vinh quang của Satan! Ngài chỉ tìm cách vâng theo dự
định của Cha, và chính như thế mà Ngài mạc khải Cha cho chúng ta: điều
mà Thiên Chúa muốn sẽ nói cho chúng ta biết Thiên Chúa là như thế nào.
Cuộc đấu
tranh chống Satan làm chúng ta khám phá ra nơi Chúa Giêsu sự khôn ngoan
Lời Chúa và sự tuyệt đối trong niềm tin của Ngài: con người sống vì
Thiên Chúa, con người không thử quyền năng của Thiên Chúa và con người
chỉ tôn thờ Thiên Chúa mà thôi. Có được ba xác tín này. Chúa Giêsu có
thể tiến bước trên những con đường khó khăn nhất, cuộc sống của Ngài sẽ
không được bảo vệ và dầu vậy cuộc sống của Ngài sẽ vinh quang. Chúng ta
sẽ khám phá ra chính sự trộn lẫn giữa cuộc sống khó khăn và cuộc sống
khải hoàn này khi đọc sách Phúc Âm. Chúng ta sẽ biết được làm thế nào
một con người có thể là Con Thiên Chúa: là người thật và là Thiên
Chúa thật.
Thánh Phaolô
đã khuyên nhủ chúng ta: Anh em hãy cầm lấy khí giới của Thiên Chúa mà
chống cự với ma quỷ, vì đây là một cuộc chiến đấu chống lại với thủ lãnh
của thế gian.
Lời khuyên
nhủ này, cho đến ngày hôm nay, vẫn không mất đi giá trị của nó. Thực
vậy, ma quỷ hay Satan không phải là một nhân vật huyền thoại hoang đường
để hù dọa con nít. Sự hiện diện và quyền năng của chúng là một tín điều
căn bản của Kitô giáo.
Bài Tin mừng
hôm nay đã để lại một dấu ấn sâu đậm. Ma quỷ đã dùng ba phương tiện để
tấn công Chúa Giêsu, Giáo hội và cá nhân mỗi người chúng ta.
Trước
hết là Chúa Giêsu.
Thánh Phaolô
đã viết: Đức Kitô cần phải nên giống anh em trong mọi hoàn cảnh, nhờ đó
Ngài trở thành vị Thượng tế đầy lòng thương xót và trung thành trước tôn
nhan Thiên Chúa, cốt để xá tội cho dân chúng.
Chính Ngài
cũng đã từng bị thử thách, cũng đã từng bị cám dỗ, nên Ngài có dư tình
thương để cảm thông với chúng ta và có dư quyền năng để giúp đỡ chúng
ta, như chúng ta thường nói: Có đau khổ thì mới dễ dàng cảm thông với
người khổ đau vì đoạn trường ai có qua cầu mới hay.
Nơi hoang
địa, ma quỷ đã xuất hiện để cám dỗ Chúa Giêsu. Cơn cám dỗ thứ nhất được
coi như là bình thường, bởi vì đói thì phải ăn, khát thì phải uống. Đói
khát và no thỏa là những cảm giác rất tự nhiên. Chúa Giêsu có quyền làm
phép lạ, nhưng Ngài đã không làm. Sau này Ngài mới làm để nuôi sống dân
chúng qua phép lạ bánh hóa nhiều. Ngài không lợi dụng quyền năng để thủ
lợi, bởi vì Ngài luôn chu toàn thánh ý Chúa Cha hơn là làm dịu bớt cơn
đói khát của riêng tư.
Tiếp đến, ma
quỷ đã gợi lên sự kiêu ngạo, đòi Chúa Giêsu phải thực hiện những việc
phi thường cho bản thân mình. Thế nhưng, Chúa Giêsu thì khác. Ngài không
muốn được người ta ca tụng, cũng không muốn được người ta tuôn đến chỉ
vì những dấu lạ cho thỏa tính tò mò. Và thế là Ngài đã không chiều theo
lời xúi giục của ma quỷ.
Sau cùng, ma
quỷ đã dùng tới tham vọng cá nhân. Chúng sẽ cho Ngài mọi vương quốc trần
gian, nếu Ngài quì gối xuống thờ lạy chúng. Đây chính là một ý đồ nham
hiểm. Thế nhưng, Chúa Giêsu đã dứt khoát:
- Hãy cút
đi, hỡi Satan.
Tiếp
đến là Giáo hội.
Thực vậy,
qua dòng thời gian ma quỷ cũng đã tấn công Giáo hội. Đây là một sự thật
đã được Chúa Giêsu nói trước cho các môn đệ:
- Satan đòi
sàng các con như sàng gạo.
Thế nhưng,
Chúa Giêsu luôn ở với Giáo hội để nâng đỡ chở che va đem lại chiến
thắng:
- Trên đá
này, Thầy sẽ xây Giáo hội của Thầy và các cửa hỏa ngục sẽ không thắng
nổi.
Sau
cùng là cá nhân mỗi người chúng ta.
Kinh nghiệm
cho thấy: con người qua dòng thời gian vẫn không thay đổi là mấy, nên ma
quỷ cho tới ngày hôm nay vẫn dùng những độc chiêu cũ, đó là đói khát,
tham vọng và uy quyền để cám dỗ. Ba khuynh hướng này đã làm đổ biết bao
nhiêu máu và nước mắt trong dòng lịch sử.
Thánh Phêrô
với kinh nghiệm bản thân cũng đã nhắc nhở chúng ta phải đề cao cảnh
giác: Ma quỷ như sư tử lượn quanh tìm mồi cắn xé. Vì thế hãy tỉnh thức
và luôn bước đi dưới sự soi dẫn của Chúa.
Kể từ khi
Adong Eva sa ngã, con người luôn hướng chiều về tội lỗi. Nhưng kể từ
Chúa Giêsu, con người sẽ chiến thắng tội lỗi. Bây giờ là lúc Ngài xét xử
trần gian và thủ lãnh trần gian đã bị đánh bật ra ngoài. Chúa Giêsu đã
chiến thắng ma quỷ. Chúng ta hãy bắt chước Ngài, chiến đấu một cách
quyết liệt trước mọi cơn cám đỗ, để rồi chúng ta luôn trung thành cùng
Chúa và cũng sẽ được chiến thắng như Ngài.
Chàng
thanh niên vừa lên 18 tuổi khi giết viên cảnh sát. Trước khi tuyên án,
quan tòa đã hỏi anh có muốn nói điều gì không. Bằng một giọng nức nở,
anh đã nói lên một sự thật kín đáo chưa bao giờ tiết lộ: “Thưa quan tòa,
tôi rất ân hận vì việc tôi đã làm. Tất cả mọi sự đã bắt đầu khi tôi ăn
cắp một đô la trong bóp đựng tiền của mẹ tôi. Rồi tôi ăn cắp hai đô, năm
đô, rồi 10 đô, và mỗi lần số tiền ăn cắp cứ tăng lên. Tôi đã bắt đầu lấy
trộm đồ dùng của nhà trường và cửa hàng tạp hóa. Một ngày nọ, tôi đã gia
nhập vào một nhóm du đãng. Sau cùng chúng tôi quyết định ăn cướp ngân
hàng. Đó là khi tôi bắn ông cảnh sát chết. Tất cả mọi sự đã bắt đầu khi
tôi ăn cắp một đô la trong cái bóp đựng tiền của mẹ tôi.
Đây chính là
câu chuyện diễn tả cơn cám dỗ đã ảnh hưởng đến đời sống của chúng ta như
thế nào. Một cách rất chậm chạp và từ từ, nó đã làm cho chúng ta đi vào
con đường sai lạc và tội lỗi. Bài Phúc âm hôm nay, diễn tả rất chi tiết
cơn cám dỗ của Chúa Giêsu sau bốn mươi ngày ăn chay, cầu nguyện. Suy
niệm về cơn cám dỗ của Chúa Giêsu, văn hào Dostoievesky đã viết rằng ba
cơn cám dỗ được diễn tả trong Phúc âm thống trị toàn thể lịch sử nhân
loại và vạch ra những mâu thuẫn đối nghịch trong bản năng của mỗi người
chúng ta.
“Nếu là Con
Thiên Chúa, hãy khiến những hòn đá này biến thành bánh”: Cơn cám dỗ về
bánh nói lên cái ước muốn căn bản nhất, bản năng sinh tồn của con người.
Thân xác với những sự khát khao thèm muốn luôn đòi hỏi phải được nuôi
nấng, chiều chuộng và vỗ về.
Sau đó ma
quỷ đưa người lên nóc đền thờ: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy gieo mình
xuống đi…” Con người thường muốn quên đi những điều kiện sinh sống giới
hạn của mình, muốn tránh khỏi thực tại phũ phàng. Họ muốn cất cánh bay
lên cõi thần tiên bằng men bia rượu, thuốc lá, á phiện, thuốc kích
thích… Ngay cả trẻ con cũng say mê những chuyện thần tiên, mộng mị, và
muốn làm siêu nhân, thần thánh. Tất cả đều nói lên cái bản năng đối
kháng lại những giới hạn của cuộc sống nhân sinh.
Sau cùng, ma
quỷ lại đưa Chúa Giêsu lên đỉnh núi cao xem thấy mọi nước thế gian cùng
vinh quang của chúng và nói: “Nếu ông sấp mình thờ lạy tôi…” Bản năng
thống trị, cái “ý chí quyền lực” nằm sẵn trong mỗi người chúng ta. Người
ta thường muốn cai trị và sai khiến những người yếu hơn mình. Bắt đầu từ
tội nguyên tổ muốn ngang bằng Thiên Chúa, bạo lực lan tràn trên khắp thế
giới.
Ba cơn cám
dỗ của Chúa Giêsu đều đã bắt đầu bằng chữ “nếu”. Chúng khởi sự bằng một
lý luận với những lý do có vẻ chính đáng, hợp lý và đáng ao ước để tấn
công vào những đòi hỏi của bản năng con người Giêsu. Tuy là ba cơn cám
dỗ, nhưng vẫn chỉ là một. Bởi trọng tâm của vấn đề chính là gieo rắc sự
khủng hoảng của niềm tin. Chúa Giêsu bị cám dỗ nghi ngờ về căn tính Con
Thiên Chúa của chính mình. Cả ba Phúc âm, Matthêu, Marcô và Luca, đều mô
tả cơn cám dỗ ngay sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa ở sông Giocđan, và
có tiếng từ trời phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người”.
Ma quỷ cám dỗ Chúa Giêsu quay lưng lại với sứ mạng đã nhận được từ nơi
Chúa Cha.
Cơn cám dỗ
của Chúa Giêsu cũng giống như cơn cám dỗ của ông Adong và bà Eva trong
bài đọc thứ nhất, trích từ sách Sáng Thế Ký. Ma quỷ gieo sự nghi ngờ, và
mất niềm tin nơi những kẻ được gọi là con cái Thiên Chúa. Qua bản năng
ăn uống thèm khát của thể xác, nó khơi dậy bản năng phản kháng bất tuân
lệnh Chúa, và sau cùng, con người sa ngã ở “ý chí quyền lực”, bản năng
đòi bá chủ và thống trị vì muốn ngang hàng với Thiên Chúa.
Sau khi chịu
phép rửa tội để trở nên một Kitô hữu, chúng ta dấn thân vào đời với
nhiều thử thách của niềm tin. Ở đó chúng ta phải chịu nhiều cám dỗ.
Những cám dỗ của chúng ta đều là những thử thách của niềm tin, của căn
tính người Kitô hữu, con cái Thiên Chúa, môn đệ Chúa Giêsu.
mục lục
Trong một
khu phố nơi thường có những chiếc xe hơi phóng rất nhanh qua những con
đường yên tĩnh gây nguy hiểm cho trẻ em, người già và khách bộ hành qua
lại, những người dân cư ngụ tại đây rất lo lắng cho tính mạng của thân
nhân và chính họ. Họ họp nhau lại, làm đơn thỉnh nguyện lên trạm cảnh
sát, yêu cầu cảnh sát phải thường xuyên tuần tiễu trong khu vực và phạt
những tài xế vượt quá tốc độ ấn định. Bởi đó, cảnh sát phải chấp hành
theo lời yêu cầu của người dân trong vùng. Vào ngày đầu tiên, cảnh sát
bắt được năm tài xế chạy quá tốc độ. Tuy nhiên, tất cả năm tài xế này đã
nổi giận vì hình như cả năm người đều đã ký tên trên thỉnh nguyện thư
yêu cầu phải áp dụng luật giao thông và phạt gắt gao những ai đã vi phạm.
Biết mình là
những con người yếu đuối. Giáo Hội dùng Mùa Chay để giúp chúng ta ăn năn
sám hối tội lỗi, và ý thức về ơn gọi của mình hơn. Chúng ta là ai? Sống
để làm gì? Có mục đích gì? Hy vọng của ta là gì? Có những người mà thánh
Phaolô gọi là: “Những người sống đối nghịch với thập giá của Đức Kitô”,
“Chúa của họ thờ là cái bụng, và cái họ lấy làm vinh quang lại là cái
đáng hổ thẹn. Họ là những người chỉ nghĩ đến những sự thế gian”, vì thế,
“chung cục của họ là sự diệt vong”. Chúng ta có phải là những người này
không? Chúng ta có là một người Kitô hữu đích thực, người công dân của
Vương Quốc Thiên Chúa đang sống và tuân giữ những luật lệ yêu thương của
Người, thờ phượng một mình Thiên Chúa và phụng sự Người không?
Theo gương
chiến thắng của Chúa Giêsu trong cơn cám dỗ, các nhà tâm lý đạo đức
thường khuyên chúng ta những điều thực hành như sau:
1.
Không bao giờ đối chọi một mình với cơn cám dỗ.
Cần phải cầu
nguyện. Cuộc đời của Chúa Giêsu từ lúc nhập thể cho đến lúc lên trời
luôn được các thiên thần bao quanh và thờ lạy, vì Ngài luôn liên kết với
Thiên Chúa Cha. Nhờ cầu nguyện Chúa Giêsu đã không cô đơn một mình,
nhưng “được Thánh Thần hướng dẫn”. Nhờ cầu nguyện chúng ta được liên kết
với sức mạnh của Thiên Chúa và với các thánh trên trời.
Đừng để ma
quỷ tấn công bạn một mình. Trước khi xa cách Thiên Chúa, người ta thường
bị cám dỗ rằng mình không cần đến người khác giúp đỡ, hay cho rằng những
người đi nhà thờ đi lễ chỉ là những người đạo đức giả, hoặc nghĩ rằng
bạn cũng có thể là một người Kitô hữu tốt mà không cần phải đến nhà thờ.
Cô lập hóa là chiến lược của ma quỷ. Bởi Thiên Chúa không cứu rỗi một
cách riêng lẻ những ai thiếu liên kết. Hãy liên kết chặt chẽ với gia
đình của Thiên Chúa là Giáo Hội.
2.
Đừng đùa giỡn với cám dỗ.
Nó rất nguy
hiểm và chết người. Chúng ta thường nghĩ rằng cám dỗ phải lén lút và rón
rén đến cửa sau nhà chúng ta. Có thể là như vậy nhưng không hẳn. Nhiều
khi nó đến ngay trước cửa nhà. Chúng ta biết đó là sai và không nên làm.
Nhưng chúng ta tự nhủ: đâu có sao, nhằm nhò gì, đâu có ai biết. Hay tệ
hại hơn, chúng ta lại tự biện minh rằng thực sự đâu có gì là sai. Con
người có một tài năng vô cùng khéo léo để lý lẽ và biện minh cho cái
cách mình phạm tội. Hãy nhận diện ra sự nguy hiểm của cám dỗ ngay khi nó
mời gọi và quyết định dứt khoát.
3. Hãy
nương tựa vào Chúa mà chống trả với cơn cám dỗ.
Chúa Giêsu
đã dựa vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần và Lời của Thiên Chúa để đối đáp
với ma quỷ. Ngoài những nhu cầu vật chất, con người còn cần đến những
nhu cầu tinh thần, những truyền thống tốt đẹp, và những kho tàng thiêng
liêng mà Thiên Chúa đã ban cho nhân loại như Công đồng Vatican II đã
khuyên dạy trong Hiến Chế Gaudium et Spes, đoạn 86.
Thiên Chúa
muốn chúng ta có đời sống tốt đẹp, làm việc lành thánh thiện, bác ái yêu
thương, để cảm nghiệm sự trọn vẹn hoàn hảo của cuộc sống, chứ không phải
chỉ sống dựa vào những lời hứa trống rỗng và dối trá của ma quỷ. Do đó,
Ngài luôn giúp đỡ chúng ta chống lại cơn cám dỗ, và nhất là việc biết
quay trở về với Ngài sau khi đã lỡ sa ngã phạm tội. Ở cuối bài Phúc âm
hôm nay, Thánh Kinh viết: “Và các thiên thần tiến lại, hầu hạ Người”.
Các thiên thần ở đó để giúp đỡ Ngài cũng như giúp đỡ chúng ta. Hãy tin
tưởng rằng Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa của tình yêu thương
nhân hậu. Một Thiên Chúa biết rõ sự yếu đuối và thất bại của chúng ta,
nhưng vẫn yêu thương chúng ta.
Có một nhóm
người leo núi chuyên nghiệp. Đang khi leo lên lưng chừng núi, họ gặp một
ông lão đốn củi với cây rìu trên vai. “Ông lão đi đâu vậy?” những người
leo núi hỏi ông. “Ta leo lên đỉnh núi để chặt cây về sửa lại nhà”.
“Nhưng tại sao ông lại phải leo lên tới đỉnh núi làm gì?” họ nghi ngờ
hỏi lại. “Có rất nhiều cây gỗ lớn ở xung quanh đây, leo lên cao làm gì
cho tốn sức!” “Ta biết chứ”, ông lão nói, “nhưng ta cần một loại gỗ cứng
và tốt, nó chỉ mọc trên những đỉnh núi cao nhất, nơi đó những cây gỗ quý
đã bị thử thách và dẻo dai chịu đựng được thời tiết nắng mưa gió bão.
Càng mọc trên cao, cây gỗ càng cứng chắc”.
Thiên Chúa
muốn chúng ta là những cây gỗ quý cứng cáp và mạnh mẽ để phục vụ Thiên
Chúa trong đức tin, đức cậy và đức mến. Hãy gắn bó chặt chẽ với nhau,
tham dự các buổi thờ phượng đạo đức thường xuyên của Giáo Hội, tránh né
mọi dịp cám dỗ khi xảy đến, và đổ đầy tâm trí chúng ta Lời Chúa. Được
như vậy chúng ta sẽ đứng vững như Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta đã chịu
cám dỗ của ma quỷ và đã chiến thắng.
Giáo sư
đại học Abraham Maslow là người nổi tiếng về các tác phẩm khoa học xã
hội thường hay hỏi thử các sinh viên của ông như: ai trong các anh chị
sẽ là nhà văn nổi tiếng? là Phanxicô Khó Nghèo? là nhà nhân chủng vĩ đại
như Albert Shweitzer? Khi gặp những câu hỏi khúc mắc như thế thì các
sinh viên thường hay rụt rè và xầm xì với nhau. Nhưng nhà tâm lý gia nổi
tiếng ấy thường nói với họ rằng đó không phải là những câu hỏi vu vơ mà
thật sự ông ta có ý như thế và muốn các sinh viên trả lời thành thật.
Ông nói: "Nếu các anh chị không làm thì ai sẽ làm đây"?
Cũng thế,
trong một khía cạnh nào đó khi chúng ta tụ họp để nghe công bố Lời Chúa,
chúng ta cũng phải đối diện với những câu hỏi như vậy; như chúng ta
thường nghe các tác giả Tân Ước lập đi lập lại với chúng ta là: chúng ta
hiện hữu không phải là do những cơ may thay đổi mù mờ; chính tình yêu
Thiên Chúa đặt để chúng ta ở đây là một phần trong chương trình của Ngài
để làm hoàn hảo chương trình tạo dựng của Ngài; bởi mỗi một người là một
cá thể riêng biệt nên mỗi người được ban tặng một cuộc sống để sống và
một công việc để thực hành mà mỗi một người một khác nhau; bất kể chúng
ta là ai, chúng ta đều có một cơ hội sống để xây dựng thế giới mà chúng
ta đang sống; mọi người trong chúng ta đều có một cơ hội sống để làm
giàu cho đời sống tha nhân, mà họ cũng giống như chúng ta là những tác
phẩm riêng biệt của Thiên Chúa tạo thành; và trong sự đáp trả tình yêu
Thiên Chúa là Đấng đã ban sự sống cho chúng ta, mỗi người chúng ta có
một cơ hội sống để "chiến thắng sự dữ bằng sự tốt lành" (Rom 12:21).
Chúa Giêsu
đã gồm tóm tất cả những điều ấy trong bài Tin Mừng hôm nay. Ma quỷ đã ra
sức cám dỗ Ngài mạnh mẽ để Ngài từ bỏ sự sống mà Thiên Chúa đã ban cho
Ngài là "chiến thắng sự dữ bằng sự tốt lành". Ma quỷ xúi giục Đức Giêsu
quên đi bản tính và chối bỏ chức năng của Ngài là Đấng Thiên Sai. Nhưng
sau khi ma quỷ trưng bày toàn thể thế giới trước mặt Chúa Giêsu thì Ngài
đã trả lời cách đơn giản và tuyệt vời là: "Satan hãy cút đi, vì ngươi
phải thờ Chúa là Thiên Chúa ngươi và chỉ phụng sự một mình Ngài mà thôi"
(Mt 4:10).
Cũng như
Chúa Giêsu khi phải đối diện vói những cám dỗ của ma quỷ thì Ngài đã tự
do lựa chọn tự đặt Ngài dưới Luật Thiên Chúa và sống đúng như vậy; thì
giờ đây sự tự do lựa chọn ấy cũng là của chúng ta.
Hôm nay,
Chúa Giêsu đang hỏi các bạn, "Ai trong các con sẽ là vị đại thánh đây?"
Bất kể quí vị có ngại ngùng hay trốn lánh thế nào đi nữa thì đây vẫn
không phải là câu hỏi vô ý thức hay tầm phào, mà thật sự Chúa Giêsu có ý
hỏi các bạn như thế. "Con sẽ là một vị đại thánh chứ? Con sẽ mang lấy
trong thân mình con tất cả các chức năng của Thân Mình Mầu Nhiệm Chúa
Kitô chứ? Con sẽ tự chọn cho mình trở thành máng chuyển Tình Yêu Thần
Linh xuống cho tha nhân chứ? Nếu không là con, thì ai sẽ làm đây?"
Con người ngay từ buổi
đầu được dựng nên, đã bị cám dỗ và con người đã sa ngã trong cơn cám dỗ
ấy. Lịch sử của dân Do Thái, từ sa mạc cho đến miền đất hứa là một chuỗi
những bất trung không ngừng. Là người tín hữu, chúng ta không xa lạ gì
với những thử thách và cám dỗ, bởi vì chính Chúa Giêsu cũng đã trải qua
cái kinh nghiệm sống động ấy. Với những cám dỗ gặp phải, Chúa Giêsu cho
chúng ta thấy mức độ dấn thân làm người của Người, đồng thời tăng thêm
sức mạnh để chúng ta lướt thắng những gian nguy thử thách giữa lòng cuộc
đời.
Con đường cứu độ của
Chúa không phải là một con đường trải thảm, không phải là một con đường
với những hoa thơm cỏ lạ, nhưng là một con đường đấu tranh đầy cam gọ,
đầy lựa chọn. Những cơn cám dỗ Chúa Giêsu đã gặp phải là của cải, danh
vọng và quyền lực. Đó cũng là những cám dỗ muôn thuở của con người, cũng
như của bản thân chúng ta.
Tuy nhiên điều đã trở
thành niềm tin, và cũng là bài học cho chúng ta, đó là Chúa Giêsu đã
chiến thắng những cám dỗ nói trên. Người đã có những chọn lựa của Người
đứng trước những cảnh huống đòi phải chọn lựa. Thực vậy, trước cơn cám
dỗ về của ăn, Người đã trả lời: Người ta sống không nguyên bởi bánh mà
còn bởi những lời do miệng Thiên Chúa phán ra. Trước cám dỗ về quyền
lực, Người đã khẳng định: Hỡi Satan, ngươi phải thờ lạy và phụng sự một
mình Thiên Chúa. Và Người cũng đã có câu trả lời dứt khoát khi Satan cám
dỗ Ngài về sự ỷ lại có tính cách thách thức Thiên Chúa.
Tin Mừng còn cho thấy
Người đã chọn lựa không phải bằng những lời tuyên bố suông, mà là bằng
chính mạng sống của Người. Người đã phải trả giá cho điều Người lựa chọn
bằng chính cái chết nhục nhã trên thập giá. Sự chọn lựa của Chúa Giêsu
cũng phải là sự lựa chọn của mỗi người chúng ta. Không chấp nhận miếng
ăn ngon, nhà cao cửa rộng, tiền bạc đầy túi, địa vị cao sang bằng cách
gian tham, bóc lột và chà đạp kẻ khác. Phải biết chia sẻ và giúp đỡ
người khác với tâm tình tôn trọng phẩm giá và quyền lợi của họ. Phải
biết sử dụng địa vị và quyền hành của mình hầu góp phần xây dựng cho xã
hội này, cho giáo xứ mỗi ngày một tốt đẹp hơn. Có vượt qua cám dỗ như
thế, thì rồi chúng ta mới được chia sẻ phần vinh quang phục sinh với
Ngài.
Người ta sống
không nguyên bởi bánh.
Chúa Giêsu người đã
nói câu đó, không phải là một kẻ mơ mộng hoặc chỉ sống bằng những lý
tưởng cao đẹp, hoặc đã có dư ăn dư mặc để có thể dễ dàng lên mặt dạy đời
về sự tầm thường của vật chất. Ngài hiểu rõ giá trị của đồng tiền bát
gạo vì đã khó nhọc làm ăn nuôi sống gia đình. Ngài biết rằng có thực mới
vực được đạo, bằng chứng là có lần Ngài đã phải nuôi ăn cho một đám đông
đói khát sau những ngày tìm đến với mình để được nghe giảng dạy. Ngài
cũng biết rằng bần cùng sinh đạo tặc, bởi vì Ngài đã thường xuyên lui
tới với những đám người khốn khổ nhất của xã hội, biết rõ hoàn cảnh đời
sống của họ. Thế nhưng Ngài vẫn nhất định không để cho nhu cầu thiết yếu
và căn bản ngự trị trên các nhu cầu khác của con người. Ngài nhất định
không coi của cải vật chất là tất cả đến nỗi phải làm bất cứ cách nào
cho có được.
Người ta sống
không nguyên bởi cơm bánh.
Có một thời cách đây
không lâu, chúng ta ngơ ngác không hiểu tại sao thanh niên Âu Mỹ lại
chán chường, nổi loạn, phá phách hay làm những chuyện điên rồ, có vẻ vô
nghĩa, khi mà họ đã có thừa mứa mọi tiện nghi hưởng thụ. Sở dĩ như thế
vì lớp thanh niên này có mọi thứ, nhưng lại thiếu lý tưởng, thiếu lẽ
sống, thiếu cái gì cao cả để mà vươn lên. Thời ấy, chúng ta nghe, nhưng
vẫn cảm thấy đó là những điều hơi xa lạ và viễn vông. Bây giờ, khi nhìn
thấy một lớp trẻ sống thực dụng, không lý tưởng, bất chấp đạo nghĩa, đặc
biệt là những hạng con ông cháu cha trong xã hội, thì chúng ta mới thực
sự thấm thía. Cha ông chúng ta vốn thường dạy: Tốt danh hơn lành áo.
Chết vinh hơn sống nhục. Ở đời muôn sự của chung, hơn nhau một tiếng anh
hùng mà thôi. Còn giới trẻ hôm nay thì đã phản ứng ngược lại.
Thầy giáo kể lại
câu chuyện về cha Maximilien Kolbê, người đã tình nguyện chết thay cho
một bạn tù, là người cha còn trẻ trong gia đình, bị Đức quốc xã giam
cùng trại với cha. Vị linh mục nói: Tôi già rồi nếu có sống thì cũng
không có lợi ích và cần thiết bằng người cha gia đình này. Nghe xong,
một cậu học trò đã phê bình một câu sắc như nhát chém: Sao mà ngu thế.
Ngoài cơm bánh, chúng
ta còn đói khát rất nhiều thứ khác, chẳng hạn như đói khát sự thật, đói
khát tình thương, đói khát tự do, đói khát phẩm giá, đói khát lòng kính
trọng, đói khát kiến thức, đói khát lẽ sống và lý tưởng.
Chúng ta cần phải giúp
cho bản thân cũng như cho người khác, để chúng ta cùng nhau vươn lên,
vươn lên mãi, cho đến khi gặp được nguồn chân thiện mỹ mới thôi.
Sống kiếp con người
nơi trần thế này, ai trong chúng ta cũng thường gặp những thách đố và
cám dỗ trong cuộc sống. Có nhiều người ý thức và nhẹ nhàng vượt qua,
nhưng cũng có rất nhiều người đã rơi vào những cạm bẫy của ma quỷ và trở
thành kẻ nô lệ của chúng một cách đáng thương. Vấn đề đặt ra cho chúng
ta bây giờ là làm sao có thể vượt qua những cám dỗ đó. Đâu là sức mạnh
và trợ lực an toàn cho chúng ta?
Chúng ta đang bước vào
Chúa nhật thứ I Mùa Chay, mùa dành riêng cho việc kêu gọi con người hãy
ăn năn sám hối và trở về với Thiên Chúa để nhận lãnh lòng thương xót và
ơn tha thứ của Ngài.
Bài Tin mừng hôm nay
cho chúng ta một mẫu gương tuyệt vời về sự chiến đấu trước những cơn cám
dỗ đụng chạm trực tiếp đến những nhu cầu thiết yếu và phổ biến nhất của
con người. Mẫu gương đó chính là Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm
người. Trước khi khởi đầu sứ mạng rao giảng Tin mừng, Ngài đã được dẫn
vào sa mạc để chịu ma quỷ cám dỗ. Có lẽ có rất nhiều ý nghĩa xung quanh
vấn đề này, nhưng có lẽ chúng ta thấy được nhất là ý nghĩa nêu gương của
Chúa Giêsu qua những cơn cám dỗ mà Ngài đã chịu. Ma quỷ rất gian xảo và
tinh vi trong mọi cố gắng nhằm quyến dụ con người đi vào con đường chết,
trở thành những kẻ chống đối Thiên Chúa hay thử thách Thiên Chúa. Đức
Giêsu Kitô, Người Con vẹn toàn của Thiên Chúa đã chiến thắng Ma Quỷ và
vạch trần những âm mưu xảo trá của chúng vì chúng vốn là cha của những
kẻ gian trá.
Cơm áo bạc tiền luôn
là nổ băn khoăn và lo lắng của biết bao nhiêu con người. Cuộc sống bận
rộn suốt ngày đêm cũng chỉ xoay quanh vấn đề này. Người còn nghèo khó
thì muốn cố gắng làm sao để có đủ cơm ăn áo mặc. Người khá giả một chút
thì muốn giàu có hơn. Còn người đã giàu có rồi thì tìm cách làm sao để
giữ vững cơ nghiệp của mình, tìm cách hưởng thụ và làm sao để cho danh
tiếng của mình vang xa, cho thiên hạ nể nang mình... Có thể nói, không
ai tìm thấy thoả mãn với những nhu cầu vật trong cuộc sống này. Chính vì
lý do này mà con người dễ dàng rơi vào những cơn thèm khát mang tính
danh, lợi, thú do ma quỷ giăng mắc khắp nơi. Khắp nơi đều nghe thấy con
người kêu khổ: nghèo cũng khổ, giàu cũng khổ, cũng khóc như ai. Như vậy
hạnh phúc đích thực không có nơi trần gian này, mà chỉ tồn tại nơi Thiên
Chúa mà thôi.
Có một anh nông dân
rất nghèo, làm việc vất vả suốt ngày quanh năm nhưng cơm không đủ ăn, áo
chẳng đủ mặc. Rồi anh nghe người ta đòn rằng, ở trên núi có một thiền sư
pháp thuật cao lắm, ông có thể làm cho người nghèo trở nên giàu có dễ
như trở bàn tay. Thế là anh nông dân này bèn hỏi han đường sá để tìm đến
với vị thiền sư đó. Cuối cùng thì anh cũng gặp được vị thiền sư tài giỏi
ấy. Anh liền bày tỏ với vị thiền sư nổi khổ tâm của anh và ước nguyện
được giúp cho thoát khỏi cảnh nghèo túng. Vị thiền sư nói: "tưởng chuyện
gì khó chứ chuyện ấy thì quá dễ. Nhưng mà không được, vì nó nguy hiểm
lắm". Anh nông dân ấy nói: Chỉ có cái nghèo mới nguy hiểm và tôi chỉ sợ
cái nghèo thôi. Ngoài ra tôi không sợ gì nữa cả.
Cuối cùng thì vị
thiền sư cũng bằng lòng làm theo yêu cầu của anh ta và căn dặên: "Đây ta
truyền cho ngươi câu thần chú này. Mỗi lần ngươi đọc câu thần chú này
thì lập tức có một con quỷ hiện ra và nó sẽ làm tất cả những gì ngươi
sai khiến nó. Nhưng hãy nhớ. Khi nó hiện ra rồi thì ngươi phải có cái gì
đó cho nó làm, nếu không nó sẽ vặn cổ ngươi đó". Thế là anh nông dân
nghèo đó hí hửng ra về mang theo câu thần chú mà anh cố gắng nhớ trong
đầu. Về đến nhà, anh liền niệm câu thần chú ấy, và lập tức có một con
quỷ hiện ra để sẵn sàng chờ lệnh của anh. Anh liền bảo nó xây cho anh
một toà lâu đài lộng lẫy vào hạng bậc nhất thế giới. Tưởng đâu mấy tháng
mới xong, không ngờ chỉ có 3 phút là xong. Anh liền bảo nó đi tìm cho
anh một cô mỹ nữ về làm vợ, vì trước đây chẳng có ai thèm lấy anh. Tưởng
mấy ngày mới xong, nào ngờ cũng chỉ có 2 phút là xong. Anh liền bảo nó
dọn cho anh một bữa ăn ngang hàng với các bậc vua chúa trần gian. Tưởng
mấy tiếng đồng hồ mới xong, ai ngờ chỉ có 1 phút là xong. Lúc này anh ta
mới sợ hãi và cuống cuồng lên vì biết lấy gì mà sai nó làm nữa đây. Con
quỷ liền thúc giục anh ra lệnh cho nó làm, nếu không nó sẽ vặn cổ anh
ngay đấy. Anh nông dân sợ hãi quá liền sai nó đưa anh ta đi gặp vị thiền
sư ngay. Khi gặp được vị thiền sư thì anh khóc lóc thảm thiết và nói lên
nổi sợ hãi của anh. Vị thiền sư mới nói với anh: "Ta đã nói với anh rồi,
nó nguy hiểm lắm mà anh không chịu nghe ta. Thôi ta chỉ cho ngươi cách
này là ngươi hãy về nhà và sai nó ngồi vuốt đuôi chó cho thẳng ra. Thế
là con quỷ đó ngồi vuốt đuôi con chó cho đến vĩnh cửu!
Chúng ta hay tưởng
tượng và cho rằng ước mơ của mình và của con người trong cuộc đời này nó
lớn lắm. Nhưng quay đi quẫn lại cũng chỉ là chuyện làm sao tôi được giàu
có, được ăn sung mặc sướng, được vợ đẹp con ngoan mà thôi. Nó không lớn
như chúng ta tưởng đâu! Vì thế, nếu chúng ta không biết làm cho cuộc đời
của mình có những ước mơ cao thượng hơn chuyện cơm áo bạc tiền thì chúng
ta quả là những con người đáng tội nghiệp ở trần gian này!
Ma quỷ vì hiểu rõ
những suy tính và ước muốn của con người là chỉ quanh quẩn trong những
chuyện như thế, nên chúng không ngừng cám dỗ con người làm sao có thật
nhiều của cải, hưởng thụ thật nhiều, cố tạo uy quyền cho mình thật
nhiều... bất chấp những thủ đoạn gian ác và nguy hiểm.
Chúng ta hãy nhìn vào
gương của Chúa Giêsu để học cùng Ngài và xin Ngài giúp chúng ta biết
cách chiến đấu và chiến thắng trước những cơn cám dỗ tinh vi và nguy
hiểm của ma quỷ trong cuộc sống đời thường của chúng ta. Phương thế đế
chúng ta có thể chiến thắng với những mưu chước của ma quỷ là hãy hướng
về Thiên Chúa, kiếm tìm thánh ý Thiên Chúa trong cuộc đời này như Đức
Giêsu đã nêu gương cho chúng ta. Hãy cảnh giác với việc lạm dụng Lời
Chúa hay giải thích sai lệch Lới Chúa để đi tìm những điều nhằm thoả mãn
cho mình.
Có rất nhiều người mở
miệng ra là nói Lời Chúa nhưng chỉ toàn tìm những câu Lời Chúa nghe có
vẻ là lạ rồi giải thích theo ý của mình và cuối cùng là dẫn anh đến một
cuộc sống hoàn toàn sai lệch. Ma quỷ trong khi cám dỗ Đức Giêsu cũng
không ngừng trích dẫn Lời Chúa hầu giăng lưới chụp bắt Đức Giêsu và làm
cho Đức Giêsu trở thành người thách thức Thiên Chúa và nghi ngờ Thiên
Chúa. Nhưng Đức Giêsu đã tỉnh thức trước những mưu chước đó và đã chiến
thắng cách vẻ vang nhờ Ngài áp dụng Lời Chúa cách đúng đắn.
mục lục
Adong Eva
được Thiên Chúa đặt ở vườn địa đàng, sống trong hạnh phúc và tình nghĩa
với Chúa. Hai ông bà không biến đến đau khổ, bệnh tật và chết chóc. Trái
lại hai ông bà là những người bạn,là những người con của Thiên Chúa bởi
vì mỗi khi chiều xuống, Ngài thường hiện ra đàm đạo với hai ông bà.
Chính vì vậy, mà quỷ đã ghen tương và muốn phá huỷ cái thế cân bằng hài
hoà ấy. Nó đã cám dỗ hai ông bà về tội kiêu ngạo, muốn trở nên bằng
Thiên Chúa. Và rồi hai ông bà đã nghe theo lời quyến rủ đường mật ấy,
phản bội cùng Thiên Chúa qua hành động giơ tay bứt trái cấm mà ăn, để
rồi phải cúi đầu nhận lãnh hình phạt của đau khổ và chết chóc. Và tệ hại
hơn cả là đã làm mất đi tình nghĩa với Thiên Chúa, làm mất đi ơn thánh
tức là sự sống của Ngài trong tâm hồn. Cái hậu quả thảm khốc này được
truyền cho nhân loại trong suốt dòng thời gian.
Thế nhưng
rất may mắn cho chúng ta, bởi vì Thiên Chúa là Đấng nhân từ và giàu lòng
thương xót, Ngài không muốn để chúng ta sống trong sự đau khổ và tuyệt
vọng, vì thế ngay sau khi hai ông bà sa ngã, Ngài đã hứa ban cho nhân
loại một Đấng cứu thế, tức là Đức Kitô. Ngài sẽ đến để sửa lại những hậu
quả thảm khốc do tội Adong gây nên, Ngài sẽ đến để nối lại nhịp cầu cảm
thông giữa trời và đất, giao hoà chúng ta lại với Thiên Chúa. Bởi đó,
trong đêm thánh vọng phục sinh, chúng ta đã gọi tội Adong là tội hồng
phúc vì nhờ đó mà chúng ta có được Đấng Cứu thế.
Cũng
trong chiều hướng ấy thánh Phaolô đã viết: Bởi một người mà tội lỗi đã
đột nhập vào thế gian, và cùng với tội lỗi là sự chết. Thì cũng vậy, bởi
một người mà sự công chính đã ngự trị trên thế gian, và cùng với sự công
chính là sự sống. Sự sống này được chuyển thông cho hết thảy mọi người.
Ba chữ "bởi một người" đã trở nên một điệp khúc được lặp đi lặp lại.
Thực vậy, bởi một người mà nhân loại đã bị dẫn vào vòng tội lỗi, nhưng
đồng thời cũng bởi một người mà nhân loại được dẫn vào miền đất sống.
Thánh Phaolô đã đưa ra sự tương phản giữa Adong và Chúa Giêsu. Adong thì
kiêu ngạo, còn Chúa Giêsu thì khiêm nhường. Adong thì sa ngã, còn Chúa
Giêsu thì chiến thắng. Kết quả là Adong thì dẫn đến sự chết, còn Chúa
Giêsu thì dẫn đến sự sống. Và thánh Phaolô đã kết luận: Nơi nào tội lỗi
ngập tràn thì ân sủng lại càng tràn ngập hơn.
Qua đoạn
Tin Mừng vừa nghe, chúng ta nhận thấy Satan đã cám dỗ Chúa Giêsu cũng
với cái chiến thuật mà nó đã dùng để dụ dỗ hai ông bà nguyên tổ. Từ của
ăn vật chất, đến khát vọng kiêu căng muốn thử thách Thiên Chúa và trở
nên ngang hàng với Ngài.
Chúa
Giêsu đã chiến thắng và nêu gương cho chúng ta. Bởi đó mỗi khi gặp phải
những cám dỗ và thử thách, chúng ta hãy xin Chúa nâng đỡ, để chúng ta
cũng sẽ chiến thắng, hầu nhờ đó mà trung thành với Chúa mãi mãi.
Cám dỗ là
một trong những thực tại khó nhận biết nhất trong cuộc sống của mỗi
người chúng ta. Khó nhận biết là vì nó vô hình vô dạng, vì nó muôn màu
muôn vẻ. Nguy hiểm hơn thế nữa là vì nó rất êm ái, dịu dàng và nó lại
rất phù hợp với bản năng và sở thích của mỗi người chúng ta.
Bài Phúc
Âm hôm nay ghi nhận ba cơn cám dỗ mà Chúa Giêsu đã phải chịu, Thật ra,
ba cơn cám dỗ này là đại diện tiêu biểu cho tất cả các cơn cám dỗ thường
ngày của mỗi người chúng ta. Nó bao gồm ba lãnh vực mà có lẽ con người
quan tâm nhiều nhất đó là: tiền tài, danh vọng và quyền lực.
1.
Cơn cám dỗ thứ nhất: Hoá đá thành bánh.
Nhiều
người nghĩ rằng, cơn cám dỗ này chỉ có thể xảy ra với Chúa Giêsu chứ làm
sao mà cám dỗ chúng ta được. Vì chúng ta làm sao mà hoá đá thành bánh
được? Thưa không. Hơn bao giờ hết, cơn cám dỗ này thường xuyên đeo bám
chúng ta, không những thế nó còn được tinh vi hoá một cách đa dạng và
phong phú. Nó len lỏi vào trong cuộc sống chúng ta với đủ mọi thứ hình
thức mời gọi hấp dẫn, với những lý lẽ rất thuyết phục, nó được đội lốt
dưới những sự việc xem ra rất đạo đức. Ai trong chúng ta chẳng muốn "ngồi
mát mà ăn bát bát vàng", muốn có được đủ mọi thứ mà không phải lao động
vất vả, muốn Chúa làm phép lạ cho ta khỏi phải cực nhọc. Tệ hơn nữa, đôi
khi chúng ta còn tham lam vơ vét, bóc lột hoặc là chèn ép anh em để tích
luỹ, làm giàu cho một mình chúng ta. Muốn biến hoá tất cả tài sản cua
người khác thành của chúng ta. Đó chính là cơn cám dỗ hoá đá thành bánh
thời nay của mỗi người chúng ta.
2.
Cơn cám dỗ thứ hai: Nhảy từ trên nóc đền thờ xuống.
Đền thờ
lúc đó là nơi tập trung rất nhiều người, nếu nhảy từ trên nóc xuống mà
không hề hấn gì, chắc chắn mọi người sẽ trầm trồ thánh phục và khen
ngợi. Danh tiếng sẽ nổi nang lừng lẫy.
Chúng ta
cũng vẫn thường bị cám dỗ nhảy từ trên nóc đền thờ xuống mỗi khi chúng
ta sống phô trương. Đây cũng chính là căn bệnh của thời đại. Người ta
đua nhau phô trương. Phô trương tài cán, phô trương bằng cấp, phô trương
thành tích, phô trương tiền của, phô trương thế lực, thậm chí phô trương
cả thân thể...
Không ít
người đã bỏ ra hàng trăm triệu cho một bữa tiệc sinh nhật, mua chiếc
điện thoại với giá 120 triệu, kinh khủng hơn có người còn dám bỏ ra 20
triệu đô để thực hiện chuyến du lịch lên cung trăng... Tất cả những điều
này với mục đích gì nếu không phải là muốn chứng tỏ mình là người giàu
sang, sành điệu, làm cho người đời kính nể, thán phục. Hay nói cách khác
là để lôi kéo sự chú ý về mình. Đó là cơn cám dỗ về danh vọng.
3.
Cơn cám dỗ thứ thứ ba: Bái lạy quỷ sẽ có được quyền lực.
Cơn cám
dỗ thứ ba này nghe có vẻ lộ liễu, trắng trợn, xem ra khó mà thuyết phục
được ta. Vì chẳng ai muốn bỏ Chúa để bái lạy ma quỷ đâu. Nhưng trên thực
tế thì khác, nhiều khi chúng ta vẫn bái lạy ma quỷ mà chúng ta không
biết hoặc chúng ta biết mà chá chẩn làm ngơ như không biết vậy, để lương
tâm khỏi bị cắn rứt.
Thật vậy,
nhiều người công giáo khi buôn bán vẫn đặt tượng thần tài trong góc nhà,
vẫn cúng bái ông địa để được ăn nên làm ra. Nhiều người vẫn đi xem bói
toán, vẫn coi ngày coi tháng, vẫn tin dị đoan nhảm nhí. Nhiều người vẫn
phủ nhận mình là người công giáo để được thăng quan tiến chức. Như vậy
một cách nào đó chúng ta đã gạt Chúa ra một bên và bái lạy ma quỷ rồi.
Mùa chay
là mùa sám hối, hãy mau trở về với Chúa vì Chúa đang chờ đợi từng người
chúng ta. Lời Chúa hôm nay là một nhắc nhở rất đúng lúc, là một cảnh báo
khẩn thiết cho chúng ta. Nhiều khi chúng ta cũng bận rộn mải mê trong
vòng xoáy của xã hội, với những trói buộc của tiền tài danh vọng và
quyền lực mà chúng ta không nhận ra, chúng ta cứ nghĩ đó là những chuyện
thường tình, bởi vì ai cũng làm như vậy mà chứ có phải mình tôi đâu. Tôi
không làm thì người khác cũng làm... Chúng ta cũng thường đưa ra những
lý do rất thuyết phục cho những việc làm sai trái của chúng ta để rồi
chúng ta cứ an tâm sống trong tội lỗi mà không biết.
Chúng ta
hãy tha thiết xin ơn Chúa giúp chúng ta hồi tâm trở về với Chúa, và luôn
luôn cảnh giác trước những mời gọi hấp dẫn của thế gian, trước những cơn
cám dỗ của thời đại. Chúng ta hãy xét xem những cám dỗ nào đang trói
buộc chúng ta và giúp ta can đảm nói "không" trước những cám dỗ đó như
gương của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay. Chúng ta hãy bắt chước
Chúa Giêsu, dứt khoát:
Không
nghe theo ma quỷ để được thoả mãn nhu cầu cá nhân, mặc dù rất cần.
Không
tìm danh vọng để được tung hô, mặc dù nó nằm trong tầm tay.
Không
màng quyền lực để tránh khỏi thập giá, mặc dù rất dễ.
Nhưng một
lòng vâng theo thánh ý Chúa Cha, cho dù có phải đau khổ và phải chết.
Amen.
Tin mừng
Mt 6: 24-34: Chúa Giêsu đã chiến thắng oai hùng trong Hoang Địa, còn bà
Eva đã thất bại thê thảm trong Vườn Địa Đàng. Tại sao bà Eva đã thất
bại?...
Chúa
Giêsu đã chiến thắng oai hùng trong Hoang Địa, còn bà Eva đã thất bại
thê thảm trong Vườn Địa Đàng. Tại sao bà Eva đã thất bại? Chúng ta hãy
theo dõi chiến thật của ma quỷ trong trình thuật "Trái Cấm".
Có lẽ
không có trang Kinh Thánh nào mô tả cách rõ ràng chiến thuật của ma quỷ
khi cám dỗ như trình thuật cám dỗ bà Evà. Cuộc cám dỗ này đã gây hậu quả
tai hại cho toàn thể nhân loại. Chúng ta hãy khảo sát trình thuật này và
từ đó rút ra một số kết luận quan trọng.
Con rắn
nói với người đàn bà: "Có phải thực sự Thiên Chúa bảo bà không được ăn
quả của bất cứ trái cây nào trong vườn không?" (St 3,1). Cho đến lúc đó,
ma quỷ chưa cám dỗ người đàn bà nhưng cuộc đối thoại đã hoàn toàn nằm
trong phạm vi vấn đề mà nó đã có sẵn trong trí. Ngày nay, ma quỷ vẫn
luôn luôn dùng chiến thuật đó. Đối với những người hướng chiều về thú
vui nhục dục, hoặc nghi ngờ chống lại đức tin, thì ma quỷ chỉ khơi gợi
bằng những lời nói xa xôi và không cần xúi giục họ làm điều xấu.
Nếu ý
thức được sự nguy hiểm thì linh hồn sẽ không dừng lại trong cơn cám dỗ,
nhưng sẽ hướng ý nghĩ và trí tưởng tượng tới những vấn đề khác. Khi ấy,
cám dỗ gặp trở ngại và linh hồn chiến thắng dễ dàng. Nhưng nếu linh hồn
thiếu khôn ngoan mà đối thoại với cơn cám dỗ, thì sẽ bị sa vào bẫy.
Đây là
lỗi của bà Evà, bà trả lời con rắn: "Chúng tôi được phép ăn quả trong
vườn", nhưng Thiên Chúa đã nói: " Các ngươi được phép ăn quả cây trong
vườn, còn quả cây ở giữa vườn, các ngươi không được đụng đến kẻo các
ngươi phải chết" (St 3,2-3).
Linh hồn
ý thức rằng Thiên Chúa nghiêm khắc ngăn cấm linh hồn thực hiện hành động
đó, khơi dậy ước muốn đó, hoặc nuôi dưỡng tư tưởng đó. Linh hồn không
muốn bất tuân lệnh Thiên Chúa, nhưng lại mất thời giờ gợi lại những bổn
phận luân lý. Linh hồn có thể huỷ diệt cám dỗ ngay lúc ban đầu, không
cần phải lo lắng, cân nhắc lý do tại sao phải làm như vậy.
Linh hồn
đã nhường bước cho kẻ thù và bây giờ kẻ thù tập trung sức mạnh tấn công
trực tiếp: "Nhưng con rắn nói với người đàn bà: 'Bà sẽ không chết, vì
Thiên Chúa biết khi nào bà ăn nó thì mắt bà sẽ mở ra, và bà sẽ giống như
Thiên Chúa, biết lành biết dữ “ (St 3,4-5).
Ma quỷ
bày ra một tương lai đầy hấp dẫn. Hắn sẽ không nói với ta rằng, ta sẽ
giống Thiên Chúa, nhưng hắn bảo ta sẽ được hạnh phúc nếu buông thả mình
vào tội lỗi. Tên cám dỗ có thể thêm: "Trong bất cứ trường hợp nào, Thiên
Chúa đầy lòng từ bi sẵn sàng tha thứ cho bạn. Hãy nếm thử trái cấm lần
nữa đi. Bạn có nhớ kinh nghiệm trong quá khứ của bạn không? Lúc đó, bạn
thú vị dường nào, và rồi bạn đã từ bỏ tội lỗi do lòng thống hối tức khắc
cách dễ dàng như thế nào?".
Linh hồn
vẫn có thời giờ rút lui vì ý muốn chưa ưng thuận, nhưng nếu không chấm
dứt cuộc đối thoại, linh hồn sẽ có nguy cơ sa ngã. Sức mạnh dần dần suy
yếu và tội được bày ra ngày càng hấp dẫn.
"Người
đàn bà đã nhìn thấy trái ăn ngon, nhìn sướng mắt, và đáng thèm để được
tinh khôn. Linh hồn bắt đầu dao động và bị xáo trộn mạnh. Nó không muốn
xúc phạm đến Chúa, nhưng cám dỗ hấp dẫn đến nỗi, sau đó xảy ra một cuộc
chiến đấu đôi khi diễn ra trong thời gian dài. Nếu linh hồn hết sức cố
gắng và nhờ ảnh hưởng của ơn hiện sủng, quyết định trung thành với nhiệm
vụ mình thì sẽ chiến thắng, nhưng thường một linh hồn bị dao động đến
mức đó thì sẽ bước tới liều lĩnh phạm tội.
Vì thế bà
đã hái lấy quả ăn, và cũng đã trao cho ông chồng ở cạnh bà và ông đã ăn
(St 3,6). Linh hồn sa chước cám dỗ. Nó đã phạm tội và thường do gương mù
hay do sự đồng loã, đã làm cho người khác phạm tội.
Khi vừa
phạm tội, linh hồn ý thức ngay được sự lừa dối tai hại "và mắt cả hai đã
mở ra và họ biết là họ trần truồng. Họ đã khâu lá và làm khố cho mình"
(St 3,7). Bấy giờ, linh hồn ý thức được rằng mình đã mất tất cả. Nó thấy
mình hoàn toàn trần trụi trước Thiên Chúa, mất ơn thánh sủng, mất hết
các nhân đức thiên phú, không có ơn Chúa Thánh Thần, không có nơi ở cho
Chúa Ba Ngôi. Nó đánh mất tất cả công trạng đã lập được trong suốt cuộc
đời. Những gì còn lại là dối trá, đắng cay và tiếng cười chế nhạo của
tên cám dỗ.
Ngay lúc
đó, linh hồn nghe thấy tiếng nói khủng khiếp của lương tâm quở trách vì
tội nó đã phạm: "Họ nghe thấy tiếng chân Chúa đi tản bộ trong vườn với
gió hiu hiu thổi chiều hôm và họ đi núp mình khuất mặt Giavê Thiên Chúa
giữa những cây trong vườn. Giavê Thiên Chúa gọi người đàn ông và phán
với ông: "Ngươi ở đâu?" (St 3,8-9).Câu hỏi không lời đáp này cũng là câu
hỏi mà lương tâm tội nhân đặt ra. Điều duy nhất tội nhân có thể làm là
quỳ gối xin Chúa thứ tha vì sự bất trung của mình và học từ kinh nghiệm
đáng buồn này, để trong tương lai biết cách thế chống lại tên cám dỗ
ngay từ giây phút đầu. Nhờ đó mới dễ dàng chiến thắng và được bảo đảm
sống dưới cái nhìn yêu thương của Chúa[1]. Amen.
--------------------
[1]
Jordan Aumann, Spirirual Theology (thần học về đời sống tâm linh) tập I,
trg.249-251
Hôm nay
cùng với Giáo Hội, chúng ta bước vào Mùa Chay. Mùa Chay kéo dài 40 ngày,
tương ứng vời 40 ngày cầu nguyện và chay tịnh của Đức Giêsu trong sa mạc
trước khi Người bắt đầu cuộc đời công khai rao giảng Tin Mừng.
Mở đầu
Mùa Chay, Giáo Hội trình bày cho chúng ta thấy Đức Giêsu chịu ma quỷ cám
dỗ. Mặc dù thật sự bị cám dỗ, nhưng Đức Giêsu luôn trung thành với Chúa
Cha và với sứ vụ mà Cha Người giao phó.
Đời sống
của chúng ta là một cuộc thử thách, là một cơn cám dỗ triền miên, từ
ngày này qua ngày khác. Chúng ta sẽ gặp phải những khó khăn, chúng ta sẽ
phải đương đầu với những quyến rũ, lôi cuốn hấp dẫn của ma quỷ. Vì thế,
thử thách và cám dỗ là một cái gì gắn liền với bản tính nhân loại, nó
làm thành thân phận của mỗi người chúng ta. Cùng nhìn lại những cơn cám
dỗ Đức Giêsu, ta dễ dàng nhận thấy:
Khởi đầu ma quỷ đánh ngay vào nhu cầu vật chất,
nó cám dỗ về cơm bánh là những nhu cầu thiết yếu nhất của con người.
Thật vậy, con người chúng ta cần phải ăn uống và cần phải có những nhu
cầu vật chất tối thiểu để sống. Điều đó không xấu. Nhưng chúng ta nhìn
kỹ lại thì nhận thấy rằng chúng ta thường bị cám dỗ chỉ sống dựa vào
những nhu cầu vật chất của thân xác mà thôi. Nhiều khi chúng ta lo kiếm
ăn, đến nỗi không còn nghĩa đến việc tìm kiếm những giá trị tinh thần và
đạo đức nữa. Tôi lo đi làm việc kiếm tiền suốt ngày kể cả ngày Chúa Nhật
không còn giờ để đọc kinh, cầu nguyện, suy gẫm Lời Chúa, ngay cả việc
tham dự thánh lễ Chúa nhật! Khi ma quỉ phóng đại nhu cầu, muốn cho Đức
Giêsu tưởng rằng con người chỉ là vật chất, vật chất là tất cả đời sống,
vật chất nên sống chỉ nhờ cơm bánh vật chất. Đức Giêsu đã chỉ cho chúng
ta thấy: "Người ta không chỉ sống nhờ cơm bánh", vật chất không phải là
tất cả, cơm bánh vật chất của trần gian là cần, nhưng còn có thứ cao
hơn, nâng con người một bước cao hơn đó là bánh tinh thần của trời cao
và nó cần thiết hơn. Vì thế, bên cạnh chăm lo của ăn vật chất, chúng ta
cần phải chăm lo của ăn thiêng liêng cho phần tinh thần, linh hồn của
chúng ta nữa. Đó chính là Lời Chúa và Mình Máu Người.
Kế
đến chúng ta cũng dễ bị cám dỗ về danh vọng, về sự thành công trong cuộc
sống.
Đồng ý rằng thành công trong cuộc sống là một điều rất tốt và nên làm.
Nhưng chúng ta thường bị cám dỗ chỉ sống để thành công, muốn thành công
với bất cứ giá nào, mặc dù phải làm những chuyện không tốt như lừa dối,
gian lận, chà đạp người khác... thành công để vênh vang, tự đắc, để giữ
thể diện và thỏa mãn tự ái của mình. Chắc chắn Đức Giêsu không muốn
chúng ta bị lạc vào đường cám dỗ như thế.
Cuối cùng, chúng ta dễ bị cám dỗ về quyền lực thống trị.
Chúng ta muốn mình làm Vua thiên hạ, làm Vua của mọi người. Đôi khi
chúng ta lại muốn ý kiến mình là quan trọng trong đám đông, mọi người
phải nghe mình nói, ý kiến của tôi là số một, không còn ai hơn tôi
cả...Thực tế mà nói, là con người, mỗi người trong chúng ta đều có một
trách nhiệm, một quyền hành nào đó đối với gia đình hay trong xã hội,
đúng hơn là một bổn phận mà mình phải chu toàn. Có quyền hành, có trách
nhiệm là để phục vụ, để hoàn thành trách nhiệm và bênh vực công lý.
Nhưng xem kỹ lại, chúng ta thấy mình thường bị cám dỗ là lẫn lộn giữa
quyền hành và lòng tham vọng thống trị. Do đó, Lời Thiên Chúa còn vang
vọng: "Ngươi phải bái lạy Đức Chúa". Bái lạy có nghĩa ở đây là nhìn nhận
mình là thần dân của Chúa, bổn phận mình là làm đẹp lòng Chúa, vừa ý
Chúa, đó còn là làm sáng danh Chúa. Vì thế, trong Mùa Chay này, chúng ta
hãy kiểm điểm lại con người mình, xem lại những lỗi lầm mà chúng ta đã
phạm. Nó cũng giống với những con cám dỗ của Chúa Giêsu. Nói cách khác,
những cơn cám dỗ mà Đức Giêsu chịu trong sa mạc cũng là những cơn cám dỗ
của mỗi người chúng ta về vật chất, hào nhoáng bên ngoài và quyền hành.
Đức Giêsu đã chiến thắng. Người cũng muốn chúng ta tham dự vào chiến
thắng của Người.
Mục
đích cuối cùng của ma quỉ là xúi giục ta phản loạn, không sống tâm tình
người con hiếu thảo với Chúa, chống lại Chúa và sau cùng là lìa xa Thiên
Chúa.
Người ta đã rơi vào bẫy của ma quỉ nên đã không sống tâm tình người con
hiếu thảo, muốn lìa bỏ cha mình, muốn lên bằng cha mình, muốn chống lại
cha mình. Tuy đã thắng trong trận đầu tiên, Đức Giêsu vẫn bị ma quỷ cám
dỗ trong suốt cuộc đời. Cơn cám dỗ có khi thì đến từ những người tin
theo Chúa, muốn tôn Chúa làm vua để được ăn no nê bánh vật chất. Khi thì
đến từ những người chống đối, xin phép lạ từ trời xuống. Có lúc ma quỷ
mượn chính những người thân tín như Phêrô, để ngăn cản Chúa Giêsu thực
thi ý Đức Chúa Cha. Có lúc ma quỷ dùng cái chết ghê sợ để uy hiếp tinh
thần, mong Chúa Giêsu lùi bước để tìm ý riêng mình. Nhưng Đức Giêsu đã
chiến thắng cơn cám dỗ vì Người luôn tìm ý Chúa Cha. Dù phải chiến đấu
trong mồ hôi vất vả, Người vẫn nói: "Lạy Cha xin đừng theo ý con, nhưng
xin theo ý Cha". Ma quỷ vẫn đang tiếp tục tạo nên những cơn cám dỗ, và
nhiều khi chúng ta phải mắc bẫy của ma quỷ. Ta mắc bẫy của ma quỷ khi ta
đuổi theo, mải mê những nhu cầu tiêu thụ quá đáng. Ta rơi vào âm mưu của
ma quỷ khi ta muốn có tất cả và có tức khắc. Ta hoàn toàn nằm trong vòng
tay ma quỷ, khi ta dùng mọi phương tiện để thỏa mãn những nhu cầu, bất
chấp ý Thiên Chúa.
Mùa Chay
này Chúa kêu gọi chúng ta trở về với Chúa nghĩa là chống lại ma quỷ.
Muốn đủ sức chống lại ma quỷ, tôi phải luyện tập bỏ ý riêng mình để làm
theo ý Chúa. Biết mình là những con người yếu đuối nên Giáo Hội dùng Mùa
Chay để giúp chúng ta ăn năn sám hối tội lỗi, và ý thức về ơn gọi của
mình hơn. Noi gương Chúa Giêsu, chúng ta cảnh giác mình như:
Một
là chỉ tin tưởng một mình Chúa, thờ phượng Chúa.
Tin tưởng vào vào Chúa sẽ giúp ta biết nương tựa Chúa mà chống trả với
cơn cám dỗ. Ta cần phải cầu nguyện, liên kết với Chúa Thánh Thần để
Người hướng dẫn ta biết sống đẹp lòng Chúa.
Hai là
không cộng tác với ma quỷ.
Hãy mạnh dạn nói không với cám dỗ ngay từ đầu. Chúng ta thường nghĩ rằng
cám dỗ phải lén lút và rón rén đến cửa sau nhà chúng ta. Có thể là như
vậy nhưng không hẳn. Nhiều khi nó đến ngay trước cửa nhà. Chúng ta biết
đó là sai và không nên làm. Nhưng chúng ta tự nhủ: đâu có sao, nhằm nhò
gì, đâu có ai biết. Hay tệ hại hơn, chúng ta lại tự biện minh rằng thực
sự đâu có gì là sai. Con người có một tài năng vô cùng khéo léo để lý lẽ
và biện minh cho cái cách mình phạm tội. Hãy nhận diện ra sự nguy hiểm
của cám dỗ ngay khi nó mời gọi và quyết định dứt khoát.
Ba là
chúng ta đặt ra cho mình một chương trình sống cho mùa Chay
bằng việc cầu nguyện, làm việc bác ái, hy sinh, giúp đỡ tha nhân nhiều
hơn. Thiên Chúa sẽ ban sức mạnh để chúng ta đủ sức chống lại mọi chước
cám dỗ, nếu chúng ta biết sống trọn tình con thảo, tin cậy, phó thác vào
Người.
Lạy Chúa,
xin giúp chúng con biết cậy dựa nhờ sức mạnh của Chúa. Nhờ đó, chúng con
sẽ chiến thắng những con cám dỗ đang rình rập, tấn công và lôi cuốn
chúng con. Amen.
Đời sống của
chúng ta là một cuộc thử thách, là một cơn cám dỗ triền miên, từ ngày
này qua ngày khác. Chúng ta sẽ gặp phải những khó khăn, chúng ta sẽ phải
đương đầu với những quyến dũ, để rồi cuối cùng, nếu trung thành với
Chúa, chúng ta sẽ được Ngài yêu thương và ân trao ban phần thưởng Nước
trời.
Vì thế, thử
thách và cám dỗ là một cái gì gắn liền với bản tính nhân loại, nó làm
thành thân phận của mỗi người chúng ta. Và nếu đọc lại Kinh thánh, chúng
ta thấy thử thách và cám dỗ đã xuất hiện ngay từ những trang đầu tiên,
vào một thuở rất xa xưa.
Thực vậy,
các thiên thần lúc ban sơ cũng đã bị thử thách về lòng trung thành của
mình đối với Thiên Chúa. Chúng ta không biết rõ cuộc thử thách ấy như
thế nào, nhưng theo tương truyền, thì Lucifer, vị thiên thần mang ánh
sáng, thấy mình vinh quang rực rỡ, nên đã ngang nhiên tuyên bố:
- Tôi không
phục tùng Thiên Chúa nữa.
Một số các
thiên thần khác về hùa với Lucifer đã quay lưng chống lại Thiên Chúa.
Trong khi đó tổng lãnh thiên thần Micae cùng với các thiên thần lành
thánh đã khiêm nhường xác định lập trường của mình qua lời nói bất hủ:
- Ai bằng
Thiên Chúa.
Và hình phạt
nào đã dành cho ma quỷ, nếu không phải là hình phạt hỏa ngục đời đời.
Thứ đến
là Adong Eva. Sách Sáng thế ký kể lại rằng: ngay từ đầu, Thiên Chúa đã
dựng nên và cho hai ông bà được sống trong vườn địa đàng, có nghĩa là
sống trong tình yêu thương và hạnh phúc tuyệt vời của Thiên Chúa.
Tuy
nhiên, để xứng đáng lãnh nhận tình yêu và hạnh phúc, hai ông bà đã cũng
đã phải trải qua một cuộc thử thách. Và thử thách đã có mặt qua lệnh
truyền của Thiên Chúa:
- Ngươi
được ăn mọi thú trái cây trong vườn, ngoại trừ cây biết lành và dữ, vì
ngày nào ngươi ăn trái cây ấy, ngươi sẽ phải chết.
Thế
nhưng, ma quỷ dưới vóc dáng của một con rắn, đã cám dỗ hai ông bà:
- Ngày
nào ăn trái cây ấy, mắt các ngươi sẽ mở ra và các ngươi sẽ biết được
điều lành điều dữ.
Và như
chúng ta đã biết: hai ông bà đã nghe lời dụ dỗ của ma quỷ, vi phạm lệnh
truyền của Thiên Chúa, giơ tay ngắt trái cấm mà ăn. Bản chất của tội
nguyên tổ không phải chỉ là một sự tham ăn bình thường, hay một khuynh
hướng đam mê về tình dục mà hình ảnh trái cấm là một biểu tượng. Nhưng
hơn thế nữa, bản chất thực sự của tội nguyên tổ chính là sự kiêu ngạo,
muốn trở nên bằng Thiên Chúa, muốn tự giải thoát mình khỏi quyền năng
của Ngài. Hậu quả của hành vi bất trung ấy là gì nếu không phải là hai
ông bà đã bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng, sống trong tình trạng thù
nghịch cùng Thiên Chúa, phải cúi đầu lãnh nhận bản án của đau khổ và
chết chóc. Cái chết phần xác cũng như cái chết phần hồn. Án phạt này còn
được lưu truyền cho con cái loài người.
Từ hai sự
kiện trên, chúng ta thấy: phản bội cùng Thiên Chúa thì sẽ bị trừng phạt,
trái lại trung thành với Ngài thì sẽ được ân thưởng.
Abraham
ngày xưa đã vâng nghe lời Chúa, từ bỏ quê hương xứ sở, lên đường theo
tiếng gọi của Chúa, tới một vùng đất xa lạ mà Ngài sẽ ban cho làm sản
nghiệp, sẵn sàng sát tế Isaac, người con trai duy nhất trong tuổi già,
làm lễ vật dâng kính Ngài. Vì thế, lời hứa đã được thực hiện:
- Ông đã
trở thành cha của một dân tộc hùng mạnh và đông đúc như sao trên trời và
như cát biển, cũng như ông đã có một mảnh đất chảy sữa và mật làm sản
nghiệp.
Rồi ông
Gióp, đang sống trong tình trạng giàu sang: lắm của nhiều con, thế
nhưng, chỉ trong một ngày tất cả đều đã tiêu tan. Con cái bị giết chết,
tài sản bị cướp bóc hay bị thiêu rụi, còn bản thân ông bị ghẻ lở nhức
nhối. Thế nhưng, ông vẫn luôn trung thành cùng Chúa để rồi cuối cùng ông
đã được Chúa yêu thương và trao ban cho gấp bội.
Sự thử
thách không phải chỉ có trong phạm vi cá nhân, mà hơn thế nữa, còn có cả
trong phạm vi dân tộc và nhân loại nữa. Lịch sử dân Do thái là một bằng
chứng cụ thể. Bao lâu trung thành phụng thờ Chúa, họ được sống trong
thanh bình và hạnh phúc, trái lại nếu xa lìa và phản bội Ngài, lập tức
bản thân họ bị đau khổ và đất nước họ bị tan hoang.
Thế
nhưng, như chúng ta thường nói:
- Lửa thử
vàng, gian nan thử đức.
Cám dỗ và
thử thách, tự bản chất, không phải là một cái gì xấu xa, trái lại nó còn
là một cái gì hữu ích, giúp thanh luyện tâm hồn và làm cho chúng ta được
trở nên trưởng thành, đồng thời gia tăng công nghiệp cho chúng ta.
Chính vì
thế, Chúa Giêsu cũng đả chấp nhận bị cám dỗ và thử thách. Phúc âm kể
lại: sau khi ăn chay bốn mươi đêm ngày, Chúa Giêsu cảm thấy đói và ma
quỷ đã cám dỗ Ngài. Tuy nhiên, cơn cám dỗ cam go nhất đối với Ngài chính
là cái chết trên thập giá. Ngài cũng đã phải trải qua những giây phút lo
sợ và giàng co, để rồi cuối cùng thánh ý Chúa Cha đã được thực hiện và
chương trình cứu độ được hoàn tất:
- Xin
đừng theo ý Con, một theo ý Cha mà thôi.
Sống là
chọn lựa. Không phải chọn lựa một lần thay cho tất cả, nhưng phải chọn
lựa luôn mãi trước mỗi công việc cũng như trước những thử thách và cám
dỗ. Chúa đòi chúng ta trung thành với Ngài, không phải chỉ trong những
việc lớn lao, mà còn trong những việc tầm thường và nhỏ mọn.
Có như
vậy, trong ngày sau hết chúng ta mới được nghe những lời nói ân tình của
Chúa:
- Hỡi đầy
tớ trung thành và khôn ngoan, vì ngươi đã trung thành trong việc nhỏ, Ta
sẽ đặt ngươi coi sóc việc lớn. Hãy vào vui hưởng hạnh phúc của chủ ngươi.
mục lục
Với Chúa
nhật I mùa Chay năm A, phụng vụ Lời Chúa hướng sự chú ý của chúng ta tới
một chủ đề chính đáng suy nghĩ đó là CÁM DỖ. Chủ đề này như là sợi chỉ
đỏ xuyên suốt tất cả các bài đọc. Nếu ma quỉ xuất hiện như làm một kẻ
thù rất nguy hiểm của con người, thì Đức Giêsu là người chiến thắng tất
cả các cám dỗ và cạm bẫy của Ma quỉ, trở thành khuôn mẫu và là Đấng cứu
độ duy nhất và phổ quát của nhân loại.
Bài Đọc I
từ Sách Sáng Thế (St 2,7-9. 3,1-7), kể cho chúng ta nghe lại câu chuyện
sa ngã của tổ tiên chúng ta do những lời mời mọc ngọt ngào của con rắn.
Adam va Eva bị cám dỗ ăn trái cấm của “cây biết lành biết dữ” (St 3,2).
Họ đã sa ngã, xa rời Thiên Chúa, đánh mất sự sống và sự hiệp thông mật
thiết với Thiên Chúa, Đấng là nguồn mạch của mọi sự thiện hảo. Câu
chuyện này cũng nhắc nhở chúng ta về một sự kiện lịch sử là nhân loại
ngay từ đầu đã phạm tội và không có khả năng giải phóng mình khỏi tội
lỗi và sự giữ. Nhân loại cần đến ơn cứu độ, sự hoàn nguyên đến từ Thiên
Chúa.
Thánh
Phaolô trong thư gửi các tín hữu Rôma (Rm 5,12-19), cho chúng ta lời
giải đáp về mầu nhiệm cứu độ của nhân loại mà Đức Kitô đã mang lại qua
mầu nhiệm thương khó, tử nạn và phục sinh của Đức Kitô: «Thật vậy, cũng
như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người
thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn
người cũng sẽ thành người công chính» (Rm 5,19).
Bài Tin
mừng (Mt 4,1-11) giới thiệu với chúng ta kinh nghiệm của Đức Giêsu trong
sa mạc, nơi Người bị cám dỗ và chống lại Satan như thế nào.
Chúng ta
hãy nhìn vào ba cơn cám dỗ của Đức Giêsu: cơn cám dỗ thứ nhất,
trong lúc đói lã, Ma quỉ đề nghị Người biến những viên đá thành bánh để
ăn. Đấy là cám dỗ đặc trưng về vật chất. Nhưng Đức Giêsu trả lời: «Người
ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa
phán ra» (Mt 4,4). Đức Giêsu đã từ chối cám dỗ này và sống phó thác vào
Chúa Cha, vì đối với Người có một thức ăn quan trọng hơn “bánh mì” đó là
Lời Chúa và thi hành theo Ý Cha.
Trong cơn cám dỗ thứ hai:
"Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì gieo mình xuống đi!» (Mt 4,6). Đây là
cám dỗ về lòng kiêu ngạo. Ma quỉ gợi lên sự ngờ vực, thách thức về Tình
Yêu của Chúa Cha đối với Người, và để nghị Người sử dụng quền của mình
để làm những cảnh ngoạn mục, tìm kiếm sự vỗ tay của đám đông. Trong câu
trả lời: «Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi», Chúa
Giêsu cho thấy Người là Con đích thực của Thiên Chúa, đã chọn một cách
sống trong khiêm tốn, trong ẩn dật, và không cần phải bắt Thiên Chúa làm
theo ý mình để biểu lộ tình yêu đối với mình. Cách đơn giản Người sống
tin tưởng vào Cha.
Cuối
cùng, Cám dỗ thứ ba liên quan đến sự khát khao quyền lực:
"Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi. (Mt
4,9). Một cách công khai Ma quỉ để lộ mục đích của nó: hãy thờ lạy tôi
chứ không phải Thiên Chúa, bạn sẽ có tất cả. Chúa Giêsu trả lời bằng một
lối sống thực sự chỉ có tôn thờ và phục vụ một mình Thiên Chúa mà thôi.
Quả thật,
cả ba cám dỗ của Đức Giêsu là “ba con đường dễ dãi để không trải qua
Thập Giá” (Fulton Sheen), nhưng Đức Giêsu đã chấp nhận con đường Thập
Giá, với một tình yêu và lòng phó thác hoàn toàn vào Cha. Như thế, Người
đã chiến thắng và như thế qua Thập Giá, Người cứu độ chúng ta.
Cũng như
Đức Giêsu, ngày hôm nay chúng ta sống trong thế giới này, một thế giới
đầy cám dỗ, và cám dỗ hôm nay được mặc nhiều dáng vẽ hấp dẫn và đẹp đẽ.
Đằng sau những cám dỗ là Ma quỉ, kẻ thù luôn dấu mặt. Kẻ được định nghĩa
bởi Gioan như là cha đẻ của sự dối trá (Gv 8,44), một kẻ thù rất nguy
hiểm không bao giờ ngủ, luôn sẵn sàng để thử thách chúng ta. Và như nhà
thơ Baudelaire nói: “Sự quỉ quyệt nhất của ma quỉ là làm cho con người
không tin rằng nó hiện hữu”.
Chúng ta
đừng có sợ hãi vì Đức Kitô đã chiến thắng Satan để giải thoát ta khỏi
Satan. Chúng ta hãy học hỏi từ Đức Giêsu, để chiến đấu với Ma quỉ bằng
sức mạnh của Lời Chúa, và khí cụ của việc ăn chay, cầu nguyện và việc
bác ái. Hãy học nơi Người để tĩnh thức luôn, để nói KHÔNG với từng cơn
cám dỗ và nói VÂNG với Thiên Chúa. Đặc biệt là như Đức Giêsu, hãy để cho
Chúa Thánh Thần hướng dẫn cuộc đời chúng ta, hãy trở nên nhảy cảm và dễ
bảo với Người. Tôi xác tín rằng, nếu chúng ta bước đi trong sự hướng dẫn
của Chúa Thánh Thần, chúng ta sẽ chiến thắng các cám dỗ, và qua những
thử thách đó chúng ta sẽ trưởng thành trong Đức Tin và trong Tình Yêu
với Thiên Chúa và với mọi người. Đó là tin vui và cùng với niềm vui đó
chúng ta bắt đầu hành trình Mùa chay hướng về niềm vui phục sinh của Đức
Kitô, Chúa Chúng ta. Amen!
Năm A này
dành hết cho việc đọc sách Tin Mừng theo thánh Matthêu về những cám dỗ
của Đức Giêsu và sự biến hình của Người. Rồi, chúng ta sẽ có ba tin mừng
lớn của Thánh Gioan, theo truyền thống, chuẩn bị cho ‘lễ thanh tẩy’:
nước hằng sống của người nữ Samari, người mù từ lúc mới sinh được sáng
mắt và Ladarô sống lại. Hôm nay, đây là cuộc chiến đấu lớn lao của Đức
Giêsu…sự mời gọi khẩn thiết đi vào trong cuộc chiến đấu riêng của chúng
ta trong Mùa Chay.
Bấy
giờ Đức Giêsu được Thần Khí dẫn vào hoang địa, để chịu quỷ cám dỗ.
Ba tác giả
Tin Mừng nhấn mạnh đến mối liên hệ giữa sự cám dỗ Chúa và phép rửa của
Người. Về lịch sử, chắc rằng Đức Giêsu đã muốn thực hiện một thứ "tĩnh
tâm" trước khi khởi đầu tác vụ của mình. "Hoang địa" là nơi đã tìm thấy
thật sự hay dành cho việc đó: nỗi cô liêu và thanh tĩnh mà con người
thấy mình đối diện một cách khắt khe với chính mình, mà không có lối
tránh né, và tất cả những mặt nạ mà xã hội đem đến cho ta. Matthêu cũng
như hai tác giả Tin Mừng kia, đều nhấn mạnh là Đức Giêsu được Thần Khí
dẫn đến hoang địa này. Cám dỗ là một phần trong dự tính của Thiên Chúa
cho Con Người. Và ở đây chúng ta cũng vậy, chúng ta được cho biết là
phép thanh tẩy không làm cho một ai trong chúng ta được miễn trừ không
phải chịu các thử thách.
Quả thực,
ngoài ý nghĩa có phần ngây thơ của từ "cám dỗ", Kinh Thánh sử dụng từ
này để chỉ "thử thách". Theo nghĩa này, cám dỗ có một cái gì tích cực.
Không phải là một tình yêu được thử thách để biết xem nó có thực sự vững
bền và chân thật sao? Như thế Đức Giêsu sắp chịu thử thách bởi chính
Thánh Thần của Thiên Chúa, cũng như thể xưa kia dân Do Thái trong hoang
địa với cuộc Xuất Hành: "Thiên Chúa của anh em đã dẫn anh em đi suốt bốn
mươi năm nay trong sa mạc, để bắt anh em phải cùng cực; như vậy người
thử thách anh em để biết lòng dạ anh em, xem anh em có giữ các mệnh lệnh
của người hay không? (Đnl 8,2).
Xin Thánh
Thần giúp chúng ta xem xét những thử thách của chúng ta theo cách thế
tích cực này; trong khi nghĩ rằng Đức Giêsu, người Con hoàn toàn, người
công chính vẹn toàn, đã tìm thấy trong những thử thách của con người, sự
nâng cao chính tình yêu của Người, của lòng trung tín của Người với Chúa
Cha.
Người
ăn chay ròng rã bốn mươi ngày và sau đó Người thấy đói.
Trong câu
truyện của Matthêu, ta không phải tìm trước hết một sự mô tả cụ thể về
"điều đã xảy ra". Đàng sau những chi tiết, ta cần khám phá ra một ý
nghĩa thần học. Matthêu rõ ràng đã đạo diễn, trong khúc đầu cuộc đời
công khai của Đức Giêsu, những cám dỗ mà thực sự người đã cảm nghiệm
trong suốt cuộc đời mình: lúc nào cũng vậy, Đức Giêsu phải tự bênh vực
khi sử dụng thiên tính của mình để tránh cho mình khỏi những lo âu của
con người (Mt 12,24-30; 16,23; 26-59 - 27-40).
Kiểu nói
“bốn mười ngày và bốn mươi đêm" chẳng hạn, là một phần của kiểu nói biểu
tượng của Kinh Thánh: con số ước lệ chỉ thời gian cần thiết cho sự
trưởng thành của đời người. "Bốn mươi" là thời gian Israel ở trong sa
mạc, thời gian đi của ngôn sứ Elia đến Núi Chúa, thời gian của Đấng Phục
sinh hiện ra. (Đnl 8,1-5; 1V 19,8; Cv 1,3).
Bấy
giờ tên cám dỗ đến gần Người và nói: Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì
truyền cho những hòn đá này hóa bánh đi!
Không cần
phải làm dịu Tin Mừng đi; ngay như nếu có thể giải thích bằng nhiều
cách, để có thể áp dụng vào cuộc sống chúng ta trên nhiều diện khác
nhau, sự cám dỗ đầu tiên này của Đức Giêsu, chẳng hạn, không có lý do
nào để nghĩ rằng nó chỉ có tính cách thiêng liêng mà thôi: Đức Giêsu đã
thực sự thấy đói, trong quá trình cuộc đời mình. Người đã bị đụng chạm
đến, bị nao núng, bị dày xé ở ngay chính thân xác mình... và không phải
chỉ trong quá trình một cuộc ăn chay khắc khổ trong hơn một tháng. Cám
dỗ đầu tiên là cám dỗ chống lại sự cậy trông: người ta lồng lộn trước
thử thách, trước đau khổ; người ta xin Chúa bỏ đi tất cả những gì gây
đau khổ cho chúng ta. Sự xấu mà chúng ta phải chịu, sự xấu tác động đến
những kẻ vô tội, cái đói bất công của một bộ phận trong nhân loại, đấy
là sự phản kháng lớn lao và sự phản kháng đầu tiên chống lại Thiên Chúa.
Lúc đó người ta bị cám dỗ cáo giác Thiên Chúa... hoặc là xin Người giải
quyết trực tiếp những vấn đề của chúng ta.
Cám dỗ đầu
tiên có thể được giải thích qua cuộc tranh chấp giữa xác thịt và tinh
thần. Các giác quan của chúng ta cảm thấy đói, và chúng ta đi tìm các
thực phẩm trần thế để làm dịu cơn đói. Và đó là điều tốt, làm đẹp lòng
Thiên Chúa. Nhưng trong lãnh vực này đặc biệt, chúng ta biểu sự tự chủ
cạnh ta: sự vui thỏa dễ dãi không nỗ lực xây dựng những người đàn ông và
đàn bà có một giá trị.
Xã hội tiêu
thụ với chủ nghĩa duy vật thực tiễn, có nguy cơ hạ thấp con người xuống
ngang mức với tầm vóc sơ đẳng nhất.
Nhưng
Người đáp: "Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh,
nhưng còn nhờ mọi lời Thiên Chúa phán ra" (Đnl 8,3).
Ba câu trả
lời Của Đức Giêsu cho kẻ cám dỗ được rút ra từ trong sách Đệ Nhị Luật.
Kinh Thánh đề ra một cách đọc lại thần học về 40 năm cuộc đời trong sa
mạc Sinai, và những đòi hỏi của Giao ước. Đức Giêsu được giới thiệu đây
như một Israel mới. Nhưng Đức Giêsu là người chiến thắng, trong khi dân
Thiên Chúa, bị thử thách vì đói và khát, đã sa ngã trong khi lẩm bẩm kêu
trách Chúa (Xh 6,8). Câu trả lời của Đức Giêsu luôn luôn có tính thời
sự, và chất vấn chúng ta một cách mạnh mẽ: chúng ta cảm thấy đói cái gì
nhất? Những thỏa mãn trần thế có thể sẽ khiến chúng ta hư mất? Hay lời
Thiên Chúa có thể cứu chúng ta khỏi mọi thử thách? Lạy Chúa, xin giúp
chúng con, tin cậy vào Chúa cho đến cùng. Xin ban cho chúng con lòng cậy
trông.
Sau đó
quỷ đem Người đến thành thánh, và đặt Người trên nóc đền thờ, rồi nói
với Người: Nếu ông là Con Thiên Chúa. thì gieo mình, xuống đi! Vì đã có
lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền thiên sứ lo cho bạn, và thiên sứ sẽ
tay đỡ tay nâng cho bạn thỏi vấp chân vào đá (Tv 91,11-12). Nhưng cũng
có lời chép rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi
(Đnl 6,16)
Nếu sự đau
khổ (cơn đói) thử thách lòng tin của chúng ta vào Chúa, thì bây giờ đây
là cám dỗ thứ hai, có tính điển hình của dân Chúa, của Đức Giêsu, Con
Thiên Chúa, và của những tín hữu chúng ta; đó là thử thách về lòng tin.
Israel trong sa mạc 40 năm đã xin Chúa cho những dấu hiệu lạ lùng để
Thiên Chúa chứng tỏ là mình có hiện hữu không! Chúa có ở với chúng tôi
không, có hay không? (Xh 17,1-7). Và Đức Giêsu, suốt cuộc đời Người đã
bị cám dỗ thoát ra khỏi thân phận con người của mình, đạt tới kết quả
sau cùng của sứ mệnh Người bằng các phương tiện dễ dãi là phép lạ: công
luận của thời đại người ta trông đợi một Đấng Mêsia siêu việt, Người sẽ
tỏ ra một cách rõ ràng quyền năng của Thiên Chúa; có lời cho những tín
hữu bằng cách thực hiện những dấu hiệu chói lòa: họ xin Đức Giêsu cho họ
một dấu chỉ xuống từ trời (Mt 16,1; 12,39; 24,3).
Bằng tất cả
sức mạnh sống động của con người trai trẻ và năng động, Đức Giêsu đã
luôn bị cám dỗ để làm ra vẻ Thiên Chúa Toàn Năng. Và không phải là không
bị dày xé mà Người đã chọn làm Đấng Mêsia nghèo nàn, bị hạ nhục bị đè
nén bởi đám đông và những nhà chức trách ở thời Người.
Mọi tín hữu
đến lượt mình đều phải chờ đợi lúc mình phải chịu cám dỗ "chống lại lòng
tin" này: đó là sự cám dỗ và sự chân không, cái ấn tượng gieo mình vào
chân không khi người ta tin vào Chúa. Người ta có lẽ muốn rằng Thiên
Chúa phải hiển nhiên hơn. Và Người là Thiên Chúa ẩn giấu. Có lẽ người ta
muốn cảm nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa trong những kinh nguyện hay
trong việc phụng tự của chúng ta. Và Thiên Chúa thinh lặng... và sự "tự
mập mờ" không làm cho người ta thích thú. Thiên Chúa không gây thú vị
lắm bởi vì Người không đáp ứng cho họ những chuẩn mực của chúng ta. Có
lẽ người ta muốn tác động lên Người, làm ra một Thiên Chúa phục vụ chúng
ta, một Thiên Chúa có lẽ làm chân chúng ta khỏi vấp vào đá trên đường đi.
Và Thiên Chúa để cho chúng ta tự trị và tự chịu trách nhiệm: chính bạn,
bạn hãy tránh những hòn đá và nếu bạn vấp phải, đừng chờ phép lạ: nhưng
không phải vì thế mà Tôi không hiện hữu... bởi vì Tôi là thực thể hoàn
toàn khác. Lạy Chúa, xin giúp con tin tưởng. Xin cho chúng con đức tin.
Quỷ
lại đem Người lên một ngọn núi rất cao và chỉ cho Người thấy tất cả các
nước thế gian, và vinh hoa lợi lộc của các nước ấy, và bảo rằng: Tôi sẽ
cho ông tất cả những thứ đó nếu ông sấp mình bái lạy tôi. Đức Giêsu liến
nói: Xatan kia, kéo đi! Vì đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức
Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi.
Thế rồi quỷ bỏ Người mà đi, và có các thiên sứ tiến đến hầu hạ Người.
Ta hãy lột
bỏ tất cả những tưởng tượng về các biểu tượng ấu trĩ quá đơn giản. Thật
hiển nhiên là Matthêu, không hơn chúng ta, đã không bị lừa về ngôn từ
của nó. Không có ngọn núi nào ở thế gian mà từ đó người ta có thể trông
thấy "tất cả" các nước trên trái đất! Đó là một cách nói. Đó là một thị
kiến nội tâm, mà không phải là một hiện tượng vật lý. Sau thử thách về
lòng cậy trông và lòng tin, thì đây có lẽ là ‘thử thách về tình yêu’.
Dân Israel trong cuộc xuất hành của mình, bị cám dỗ bỏ giao ước, một hôn
ước tình yêu với Thiên Chúa thật, để hiến thân cho các "thần tượng”
ngoại tình một cách nào đó (Xh 23,20-33). Thứ ngôn từ biểu trưng của
Matthêu, nó có sức gợi cảm mạnh mẽ biết mấy! Xatan đã đòi các vương quốc
trên thế gian làm tài sản riêng của nó. Nó là chủ, là ông hoàng của thế
giới này. Đức Giêsu đã lột mặt nạ đối phương. Ở đây Chúa Giêsu, chỉ
thẳng tên Xa-tan; đó là một tên phản Thiên Chúa! Chính y là kẻ đòi loài
người phải thờ phụng y.
Đúng thế,
chúng ta bị cám dỗ Thiên Chúa hóa tất mọi sự vật. Đông đảo biết bao các
thần tượng của chúng ta. Tất cả những thứ luôn cố đoạt lấy địa vị của
Thiên Chúa: tiền bạc, tiện nghi, uy tín, thống trị, quyền lực, thú vui,
các ý thức hệ, môi trường của chúng ta... hay là nhiều thứ ba láp này
kia mà chúng ta gán cho tầm quan trọng lớn lao biết bao!
Chỉ một mình
Thiên Chúa là Thiên Chúa. Mùa chay này được ban cho chúng ta để chúng ta
được giải thoát những thần linh giả.
Chịu ma quỷ
cám dỗ, Đức Giêsu đã có lựa chọn của một Người Con, phó thác trọn vẹn
thân phận trong tay Cha. Câu chuyện được xem như điển hình cho tất cả
những thử thách Người phải chịu cho đến hơi thở sau cùng.
VÀI ĐIỂM
CHÚ GIẢI:
1.
Trung thành với phép rửa đã nhận, một chọn lựa trước sau như một của Đức
Kitô.
Cả ba Tin
Mừng Nhất lãm đều thuật lại câu chuyện Đức Giêsu chịu ma quỷ cám dỗ
trong hoang địa, và cả ba đều nối kết chặt chẽ câu chuyện này với phép
rửa Người đã nhận trong dòng sông Giođan. Thánh sử Máccô viết: "Thần Khí
liền đẩy Người vào hoang địa. Người ở đó bốn mươi ngày, chịu Satan cám
dỗ" (Mc l,12). Thánh Luca kể: "Đức Giêsu được đầy Thánh Thần, từ sông
Giođan trở về, và được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa bốn mươi ngày,
chịu quỷ cám dỗ” (Lc 4,1). Còn thánh sử Matthêu cũng nhấn mạnh rằng nếu
Chúa Giêsu, sau khi đã chịu phép rửa, chịu quỷ cám dỗ, là vì Người được
Thần Khí đưa dẫn. Cũng chính Thần Khí ấy đá đáp xuống và ngự trên Người,
bên bờ sông Giođan, trong lúc có tiếng từ trời phán rằng: "Đây là Con
yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người”.
Câu chuyện
Đức Giêsu chịu cám dỗ J.Guillet nhận định theo cả ba Tin Mừng Nhất lãm,
gắn liền với câu chuyện Chúa chịu phép rửa. Matthêu viết rõ: "Ngay sau
khi ngự trên Đức Giêsu, Thần Khí dẫn Người vào hoang địa chịu quỷ cám dỗ
(Mt 4,1). Bài tường thuật về cơn cám dỗ và phép rửa của Chúa làm thành
một tập hợp riêng, liên can đến quãng thời gian Đức Giêsu chưa thực sự
bắt đầu sứ vụ công khai của Người. Không hoàn toàn lặng lẽ ẩn mình như
trong thời thơ ấu, nhưng Chúa có vẻ như để mình bị động từ bên ngoài: Từ
Thiên Chúa là Đấng đã lên tiếng phán, từ Thần Khí dẫn Người vào hoang
địa, và điều lạ lùng là ngay cả từ ma quỉ, cho nó lân la lại gần, dụ dỗ
Người, và hình như có thể điều khiển được cả thân xác Người. Người ta có
thể xem lúc này chỉ giai đoạn chuẩn bị. Thực ra đây là một luồng sáng
chiếu rọi trước vào suốt lịch sử đang đến: lịch sử của Con Thiên Chúa và
lịch sử của cả nhân loại. Toàn thể cuộc đời của Đức Giêsu, diễn ra trong
ánh sáng của tiếng Chúa Cha xác nhận: đây là Con yêu dấu của Ta, dù bên
cám dỗ cứ tha hồ rên rỉ: "Nếu ông là Con Thiên Chúa".
Trong lúc
bài tường thuật của Máccô rất ngắn gọn vỏn vẹn chỉ có một câu, thì
Matthêu và Luca không ngần ngại dàn dựng cả một câu chuyện đầy tính biểu
tượng. Đây là một hình thức văn chương khá quen thuộc đối với những độc
giả của các ông, là những người đã thấm nhuần văn hóa Do Thái. Xung
quanh ba cơn cám dỗ con số tượng trưng cho sự viên mãn đầy đủ. Câu
chuyện muốn tổng hợp tất cả cơn cám dỗ liên lỉ mà Chúa Giêsu phải chịu
cho đến giây phút cuối cuộc đời.
Và để cho
thấy rõ ràng, Đức Giêsu với tư cách là Môsê mới, đang thực hiện lại cuộc
hành trình của Dân Thiên Chúa tiến về Đất hứa, Matthêu và Luca đã cố ý
lựa chọn mặc dù khác nhau đôi chút về thứ tự "ba nơi chốn có tính cách
biểu tượng của lịch sử Israel, đó là: Hoang địa, là nơi Dân Chúa chịu
thử thách đầu tiên; Đền Thờ, là chỗ Dân Chúa tụ họp để tôn thờ sự hiện
diện của Thiên Chúa, Núi Cao là nơi Môsê sẽ nhận lệnh Lề luật của Chúa,
và núi Nê-bô là địa điểm từ đó ông đã nhìn về Đất Hứa" (J.Potin, Jésus,
l'histoire vraie, Centurion, 1994 trang 114).
2.
Giữa hoang địa - Niềm cậy trông tuyệt đối vào Thiên Chúa.
Cơn cám dỗ
đầu tiên có khung cảnh là "hoang địa". Đối với dân tộc Do Thái, đây là
nơi chốn tượng trưng cho sự gần gũi Thiên Chúa, đồng thời cho sự thử
thách làm sáng tỏ đáy lòng con người (chay tịnh, nhịn đói là nhằm thử
lòng mình đối với Thiên Chúa); Hoang địa còn là nơi có tính cách biểu
tượng cho mọi khởi đầu: Đức Giêsu ăn chay ở đây suốt bốn mươi đêm ngày,
cũng như Môsê ngày xưa trên núi Sinai, trước khi đón nhận luật Giao ước.
J.Guillet viết: đối với cư dân miền Palestine, hoang địa vừa là một
phong cảnh cụ thể, nhìn thấy được từ đỉnh của dãy núi chính, vừa là một
kỷ vật gợi nhớ lại thời các tổ phụ, đồng thời cũng là hình ảnh đầy ý
nghĩa về những cách Thiên Chúa đã xử sự với dân Người. Có khi là những
tai họa khổ đau Người để dân phải chịu, có khi là niềm an ủi, vỗ về
Người dành cho họ. Trong ký ức của người Do thái, hành trình đi qua
hoang địa vừa là quãng thời gian thiêng liêng của biến cố núi Sinai,
cũng như của việc ban bố Lề luật, vừa là giai đoạn đen tối của thói kêu
ca lẩm bẩm và những hành động chống đối của dân chúng, thời gian của
Thiên Chúa và cũng là thời gian của ma quỉ, chính Đức Giêsu đã tự ý bước
vào đó" (sđd, trang 44-45).
- Trong
hoang địa, khi chịu cái đói thử thách "để cho biết lòng dạ chúng ra sao"
(Nhị Luật 8,2), con cái Israel đã nghi ngờ Thiên Chúa. Họ đã tỏ ra không
dám cậy dựa vào một mình Lời Chúa, không dám tin tưởng vào các lời hứa
của Người. Họ lẩm bẩm kêu ca: "Thà rằng chúng ta chết bởi tay Thiên Chúa
ở đất Ai Cập thời ấy được ăn uống no nê" (Xh 16,3). Và Người đã ban mana
xuống cho họ.
- Trong
hoang địa, Đức Giêsu cũng phải trải qua cơn cám dỗ như thế: cơn cám dỗ
về sự dễ dãi tiện nghi, muốn ‘có tất cả, có liền’. Hãy truyền cho những
hòn đá này hóa bánh đi, tên cám dỗ đã dụ Người.
-
J.Radermakers giải thích: "Tiếng nói đã mời mọc Đức Giêsu biến đá sỏi sa
mạc thành mâm đồ ăn ngon, thành tiếng nói của bản năng và xác thịt loài
người luôn có xu hướng bóp nghẹt sự sống của Thiên Chúa" (Au fil de
l'Evangile selon saint Matthieu”, trang 67). Nhưng Đức Giêsu đã có lựa
chọn của "Người Con"; Người đáp lại bằng cách trích dẫn sách Đệ Nhị Luật,
chương 8 câu 3, liên hệ đến câu chuyện về bánh manna; "Người ta sống
không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra".
Trái với dân Israel trong hoang địa xưa, Đức Giêsu hoàn toàn phó thác
nơi Chúa Cha, Người chỉ cậy dựa vào một mình Lời của Thiên Chúa. Rồi đây
trong suốt cuộc đời hoạt động của Người, Đức Giêsu sẽ trở thành mục tiêu
công kích của những, đối thủ. Họ đòi Chúa phải cho họ thấy những dấu chỉ
tỏ tường, để minh chứng điều Người tự xưng về mình. "Bấy giờ, có những
người thuộc phái Pharisêu là phái Xa-đốc lại gần Đức Giêsu”, Matthêu
dùng lại từ ngữ của bài tường thuật Cám Dỗ, và để thử Người, thì xin
Người cho thấy một dấu lạ từ trời" (Mt 16,1). Nhưng cho đến giây phút
cuối, Đức Giêsu vẫn muốn là một Đấng Cứu Thế nghèo, nhận lãnh tất cả từ
Chúa Cha.
3.
Trên nóc Đền Thờ - Chấp nhận con đường đau khổ.
Cơn cám dỗ
thứ hai có khung cảnh là nóc "Đền Thờ", nơi là dấu chỉ Thiên Chúa hiện
diện và che chở Dân của Người.
- Trong
hoang địa, khi chịu cái khát thử thách, con cái Israel đã phải trải qua
đêm tối của đức tin, khiến họ nghi ngờ và chống đối. Thiên Chúa đã dẫn
họ vào hoang địa phải chăng để bỏ rơi họ trong cảnh tuyệt vọng "Có thực
Thiên Chúa ở với chúng ta hay không? (Xh 17), họ lẩm bẩm với nhau như
thế. Họ đã đi đến chỗ "thách thức" Thiên Chúa xem Người: có thể cung cấp
nước uống cho họ trong hoang địa, họ "thử thách Người".
- Đức Giêsu
cũng phải trải qua cơn cám dỗ như thế: cơn cám dỗ về quyền lực. "Gieo
mình xuống đi!", tên cám dỗ xúi Người bằng cách xuyên tạc một câu của
thánh vịnh 90: "Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn, và thiên
sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá”.
Một lần nữa,
Đức Giêsu đã có chọn lựa của "Người Con"; Người đáp lại bằng cách trích
dẫn sách Nhị Luật, chương 6, câu 16, liên hệ đến chuyện dân Do Thái kêu
ca, và Thiên Chúa đã ban cho họ mạch nước tràn trề từ tảng đá: "Ngươi
chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi”. Khác với Israel trong
hoang địa xưa, Đức Giêsu không bao giờ tìm cách thử xem Thiên Chúa có
hiện diện trong cuộc đời mình hay không. Người bước đi mà không cho dấu
chỉ nào, không yêu cầu bằng chứng nào, trong suốt sứ vụ, và nhất là trên
thánh giá, vào giờ phút đen tối nhất, khi chính Chúa Cha cũng lặng
thinh, Đức Giêsu đã chịu cơn cám dỗ: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy tự
cứu lấy mình và xuống khỏi thập giá đi”, những đối thủ của Chúa đã buông
lời thách thức, lập lại lời của tên cám dỗ trước kia. Nhưng Đức Giêsu,
cho đến cùng vẫn trung thành với chọn lựa là một vị Cứu Thế khiêm cung,
hoàn toàn phó thác mình cho Chúa Cha.
4.
Trên núi cao - chọn lựa một đường lối cứu thế, bằng phục vụ.
Cơn cám dỗ
thứ ba, theo Tin Mừng Matthêu, có khung cảnh "một ngọn núi rất cao".
Nghe nói đến địa điểm này, người Do Thái chắc chắn sẽ liên tưởng đến
ngọn núi Nê-bô ông Môsê đã lên để nhìn từ biệt Đất Hứa. Trên đó, Thiên
Chúa đã chỉ cho ông xem thấy toàn bộ miền đất (Đnl 34,1), và thêm: "Miền
đất này, ngươi sẽ chẳng được vào” (Đnl 34,4). Ở đây, Đức Giêsu là Môsê
mới, đang chuẩn bị dẫn dắt đoàn dân của Người đến Đất Hứa Nước Trời,
Người được tên cám dỗ chỉ cho thấy tất cả các nước thế giới và vinh hoa
lợi lộc của các nước ấy.
- Trong
hoang địa, con cái Israel bị hoang mang trước tương lai bất định, đã
chịu thua cơn cám dỗ. Họ đã bỏ quên Thiên Chúa độc nhất, Đấng đã cứu họ
khỏi đất Ai Cập, để chạy theo các thần ngoại khác dễ dãi, dễ sai khiến,
dễ chiều theo ý muốn của họ, sẵn sàng bảo đảm cho họ giấc mơ quyền lực
và mộng bá chủ: "Hãy làm cho chúng tôi những vị thần để đi trước chúng
tôi", họ yêu cầu ông Aaron (Xh 32,33); và Aaron đã làm cho họ một con bò
vàng.
- Chính Đức
Giêsu cũng đã phải trải qua cơn cám dỗ như thế: cơn cám dỗ về sức mạnh
trần thế, dụ dỗ Người theo đuổi một đường lối cứu thế kiểu trần gian,
chiều theo những mong đợi và tham vọng loài người. "Tôi sẽ cho ông tất
cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi", tên cám dỗ hứa hẹn với
Chúa như thế. Lần thứ ba, Đức Giêsu lại có chọn lựa của "Người Con".
Người đáp lại bằng cách trích dẫn Sách Nhị Luật, chương 8, câu 17-18,
hiển nhiên có liên can với câu chuyện bò vàng: "Satan kia, xéo đi! Vì có
lời chép rằng: ngươi phải bái lạy Đức Giêsu là Thiên Chúa của ngươi, và
phải thờ phượng một mình Người mà thôi. Khác xa dân Israel xưa trong
hoang địa, Đức Giêsu khước từ mọi thỏa hiệp: Người dứt khoát đi theo con
đường cứu thế bằng phục vụ chứ không phải bằng sức mạnh thống trị.
- Trong suốt
sứ vụ, Đức Giêsu phải thường xuyên đương đầu với cơn cám dỗ ấy. Cơn cám
dỗ đến không chỉ từ phía những đối thủ hay đám đông dân chúng đi theo mà
thôi, nhưng còn ngay từ những bạn hữu của Người, những kẻ Người sẽ giao
trách nhiệm kế tục sứ mạng của Người. "Xin Thiên Chúa thương đừng để
Thầy gặp phải chuyện ấy”, Phêrô đã lên tiếng can ngăn, thay mặt cho cả
nhóm không muốn thấy Đức Giêsu, Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống, mà
phải rơi vào số phận bi đát như thế. Đức Giêsu Kitô bắt đầu tỏ cho các
môn đệ biết Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ bởi các kỳ
mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba
sẽ sống lại". Và Đức Giêsu đã nghiêm khắc đáp lại, tương tự lời Người đã
nói với tên dỗ: "Satan, lui lại đằng sau Thầy! Anh cản lối Thầy vì tư
tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài
người (Mt 16,16-23). Cho đến cùng, Đức Giêsu vẫn chọn làm một vị Cứu Thế
tôi tớ đau khổ mà các ngôn sứ đã loan báo.
J. Potin kết
luận: "Nếu Đấng được Thiên Chúa chọn đã vẻ vang vượt qua được cơn cám dỗ
lần này, thì thử thách thực sự vẫn còn trước mắt. Như thánh sử Luca kết
ở cuối câu chuyện: "Sau khi đã xoay hết cách để cám Người, quỷ bỏ đi,
chờ đợi thời cơ (Lc 4,13). Đâu là khuôn mặt cứu thế mà Đức Giêsu phải
đảm nhận. Phải chăng là khuôn mặt của Đavit, người của Thiên Chúa, và
cũng là người của những cuộc chinh chiến chống lại quân thù. Phải chăng
là khuôn mặt của Người Tôi Tớ Thiên Chúa mà chúng ta sẽ thấy được khắc
họa ngày càng rõ nét. Matthêu và Luca có ý cho thấy ngay trước bắt đầu
sứ vụ, vừa lãnh phép rửa xong, Đức Giêsu đã chọn lựa. Đấng được Thiên
Chúa chọn, là Con Thiên Chúa, đã dứt khoát chọn lấy sự vâng phục trọn
vẹn Lời của Thiên Chúa" (Sđd, trang 117).
BÀI ĐỌC
THÊM
1. Mối liên
lạc thâm sâu giữa Phép Rửa và cám dỗ: (“J.Guillet, "Jésus la foi des
premiers disciples" Desclée de Brouwer, 1995, trang 46-47).
"Mối liên
lạc thâm sâu giữa Phép Rửa và cám dỗ chính là mối liên lạc của đức tin,
nơi Đức Giêsu và nơi chúng ta. Cơn cám dỗ rõ ràng là một trong những chỗ
mà người ta không thể nào hiểu được Đức Giêsu nếu không nói đến niềm tin
của Người. Sống nhờ những gì Thiên Chúa ban cho, hoàn toàn vâng phục
Thiên Chúa, một mình đối diện trước hư không, trước một tương lai vô
định, dưới nhiều dạng khác nhau, đó chính là kinh nghiệm của đức tin. Và
nếu, theo các sách Tin Mừng, kinh nghiệm ấy đi liền với biến cố Phép Rửa,
là bởi vì trong biến cố ấy, nó đóng một trai trò rất quan trọng. Và bằng
chứng đây là vấn đề của đức tin, đó là những cám dỗ của Đức Giêsu cũng
chính là những cám dỗ của Dân Chúa trong hoang địa. Khi thắng những cám
dỗ ấy, Chúa muốn đồng thời chỉ cho họ thấy họ đang thiếu cái gì và hôm
nay Người mang đến cho họ cái gì. Bây giờ nếu trung thành với những chỉ
dẫn của các sách Tin Mừng, đối chiếu hai biến cố phép rửa và cám dỗ của
Đức Giêsu, người ta sẽ có thể nhận ra được chỗ đứng đặc biệt của đức tin
nơi cả hai đoạn. Kết quả đối chiếu bề ngoài có vẻ mâu thuẫn: phép Rửa là
nơi tràn ngập sự hiện diện của Thiên Chúa, là nơi vang rền tiếng phán từ
trời cao, trái lại, cám dỗ là chỗ của sự xa vắng, của đói khát, của
trống trải hư không. Phải nói rằng Đức Giêsu đã lần lượt nếm qua cả hai
kinh nghiệm chính yếu trên.
Đối lại với
lối giải thích nông cạn đó, chúng ta phải để ý đến cách suy luận rất rõ
của các Tin Mừng, đến sự nhấn mạnh của các sách ấy vào mối liên lạc thâm
sâu giữa hai khoảng khắc. Không phải chỉ đơn giản là sự tương phản ở
hiện tượng bên ngoài, nhưng là một sợi dây nối hết sâu bên trong. Trong
câu chuyện này hay câu chuyện kia, nội dung vẫn là Chúa Con trong tương
quan với Thiên Chúa. Là Con Thiên Chúa, điều đó mang đến một lúc hai ý
nghĩa không thể tách rời nhau: là lắng nghe tiếng nói yêu thương của
Chúa Cha, và trọn vẹn vâng phục thánh ý Người. Cả hai làm thành đức tin,
đức tin của Con Thiên Chúa.
Đúng là
người tín hữu thường phải sống đức tin trong tâm trạng xa vắng và đêm
tối tâm hồn. Không có sự xa vắng đó, đức tin sẽ biến chất và tiêu tan
thành một thứ thị kiến ảo ảnh. Nhưng ngay trong tâm trạng xa vắng đó
người tín hữu kinh nghiệm một sự gặp gỡ, một sự hiện diện. Thánh Gioan
Thánh Giá đã xây dựng toàn bộ học thuyết của mình trên lời dạy này: nhận
biết Thiên Chúa qua đức tin chính là đã đạt được Người trong chân lý của
Người, ngay từ cuộc đời này. Cuộc gặp gỡ trong đêm tối này, niềm xác tín
thường chỉ là vô thức này, chính là trung tâm, cốt lõi của đức tin chân
thực, chỉ với một đức tin như vậy chúng ta mới nhận biết một vị Thiên
Chúa thật. Đức tin một trật vừa là ánh sáng rực rỡ, Vừa là bóng tối thẳm
sâu. Cũng thế, một cách bất khá phân ly, ánh sáng của Phép Rửa cùng với
đêm tối của Cám Dỗ, làm nên đức tin của Đức Giêsu Kitô, mầm mống của đức
tin chúng ta.
2.
“Những cám dỗ của Đức Giêsu cũng là của chúng ta hôm nay”.
"Chúng ta
thấy: những cám dỗ của Đức Giêsu cũng là của chúng ta hôm nay. Chẳng có
gì phải ngạc nhiên. Chúng ta biết rằng nơi Đấng là Đầu, toàn Thân Mình
đã chiến thắng cám dỗ. Chính nhờ cậy dựa vào Người mà đến lượt mình
chúng ta có thể thoát được cạm bẫy của tên cám dỗ. Đức Giêsu dạy chúng
ta phải đương đầu như thế nào: bằng cách chạy đến với Lời Chúa. Lời Chúa
soi đường chỉ lối cho chúng ta đi. Lời Chúa chở che, bảo đảm cho chúng
khỏi bị lầm lạc. Thật là nguy hiểm nếu chúng ta để mình buông theo xu
hướng tự nhiên của loài người? ma quỉ cũng không mong gì hơn chúng ta
đồng lõa với chúng như thế. Khi ấy Lời Chúa sẽ là thành lũy bảo vệ chúng
ta.
CÂU HỎI GỢI
Ý
1) Đối với
người Do thái thế kỷ I, "sa mạc" và "cám dỗ" gợi lên điều gì?
2) Trình
thuật này liên hệ với trình thuật Phép Rửa nhờ chữ nào? Chữ đó có nghĩa
mạnh hay chỉ có nghĩa thuần túy thời gian?
3) Phải đọc
lại Đệ Nhị Luật chương 8 và ý nghĩa cuộc thử thách trong sa mạc.
4) Phải hiểu
như thế nào việc Chúa Giêsu vượt thắng cách vẻ vang cơn cám dỗ mà dân Do
thái đã vấp ngã? Dựa trên hậu cảnh Cựu Ước, hãy rút ra ý nghĩa thần học
ba cuộc cám dỗ Chúa Giêsu?
5) Cơn cám
dỗ phải chăng chỉ nhắm đến sự nghiệp của Đấng Messia, bằng cách gợi lên
một thiên sai chủ nghĩa giả tạo thần kỳ hoặc chính trị? Hay là nhắm đến
chính con người Đấng Messia, bằng cách tách Người khỏi Thiên Chúa với
một thứ chủ trương vô thần thực tiễn?
6) Làm sao
Chúa Kitô có thể bị cám dỗ? Điều đó có nghĩa gì? Hãy so sánh với cơn hấp
hối, với Pl 2, 6 tt và Dt 5,7tt.
7) Các thiên
sai chủ nghĩa bị Chúa Giêsu chống báng phải chăng chỉ là những hiện
tượng lỗi thời, hay ta vẫn còn thấy giữa thế kỷ XX này quanh ta? trong
ta?
8) Thân phận
người Kitô hữu phải chăng là một thân phận bị cám dỗ triền miên?
*******
1) Có lẽ
Chúa Giêsu đã mặc khải cho các môn đồ Người biến cố mà ngay từ lúc bắt
đầu cuộc sống công khai Người đã trải qua với một kinh nghiệm thấm thía.
Giáo Hội sơ khai đã đón nhận mặc khải ấy về nguồn gốc đích thực của cám
dỗ (Satan) như là lời sửa sai quan niệm Cựu ước, vốn cho rằng cám dỗ là
do Thiên Chúa: Mt đã phóng đại dữ kiện giản lược mà ông đã thu nhận từ
truyền khẩu. Trình thuật của ông có vẻ như là một cấu trúc văn chương,
một sáng tác tưởng tượng nhằm khai thác các giá trị thần học tiềm tàng
trong biến cố có thực. Đây là những dấu chỉ cho thấy trình thuật của ông
thực là một sáng tác: cuộc đối thoại với Satan, việc đem Chúa Giêsu lên
thượng đỉnh Đền thờ, ngọn núi cao từ đó có thể trông thấy "tất cả các
nước thiên hạ", lối trích dẫn nhiều câu trong diễn từ thứ hai của
Môisen nói với dân (Đnl 8,3; 6,16; 6,13). Sáng tác văn chương này đặt cơ
sở trên ba cuộc cám dỗ của Israel trong sa mạc:
- Sau khi
được ăn manna một thời gian, Israel đòi ăn thịt (Ds 11, 4-34)
- Môisen gõ
phiến đá hai lần (Ds 20, 1 -13)
- Giai
thoại con bò vàng (Xh 32, 1- 8)
Matthêu
cho thấy Chúa Giêsu tổng lược cả ba kinh nghiệm của dân Isarel và đã
chiến thắng vẻ vang trong khi Israel lại vấp ngã. Xin nói qua là sách Đệ
Nhị Luật cũng là sách chỉ nam của cộng đoàn thiên sai là Giáo Hội: các
chương đầu của Công Vụ Sứ Đồ ghi lại những bước đầu của Giáo Hội sơ
khai, đã cảm hứng theo Đệ Nhị Luật.
2) Giữa
phép rửa Chúa Giêsu và cơn cám dỗ, có một liên hệ rõ ràng: chính Thánh
Thần ngự xuống trên Chúa Giêsu lúc ở sông Giođanô đã đưa người vào sa
mạc, không phải để tra cứu lề luật và tìm lại tinh thần Giao ước như
nhóm Essêni, cũng chẳng phải để tổ chức kháng chiến như phái Nhiệt
thành, song để chịu ma quỷ cám dỗ (4,1). Học thuyết thiên sai của Chúa
Giêsu phải được thử thách. Và cuộc thử thách này là một giai đoạn cần
thiết trong ơn gọi làm Israel mới của người. Vì là Đấng đáp ứng nỗi chờ
mong của dân, Người phải sống tất cả chiều kích của lịch sử họ: tạm trú
tại Ai cập (2,13-15), vượt sông Giođanô (2, 13-17 -so sánh với Gs 3),
cám dỗ ở sa mạc (4, 1-11).
3) Giai
thoại cám dỗ trong sa mạc xảy ra như để xác nhận việc Chúa Kitô hoàn
toàn chấp nhận thánh ý Chúa Cha: gạt bỏ mọi hình thức thiên sai chủ
nghĩa mà Thiên Chúa không muốn (trước hết là thứ thiên sai chủ nghĩa
cánh chung có tính cách báo phục của Gioan Tẩy giả và của Qumrân, thứ
đến là thiên sai chữ nghĩa xác thịt, uy hùng hay chính trị mà Israel
trông chờ), Chúa Kitô chấp nhận đường lối thiên sai khổ đau, là đường
lối duy nhất phù hợp với thánh ý Chúa Cha.
4) Lối
giải thích mang màu sắc thiên sai về ba chước cám dỗ (tức lối giải thích
liên kết trình thuật này với trình thuật phép rửa trước đây) là lối giải
thích lưu ý nhiều đến chỗ đứng của đoạn văn trong văn mạch của các
chương này cũng như của các vấn đề tổng quát của một. Tuy nhiên lối giải
thích này không loại bỏ các lối giải thích khác đã từng được truyền
thống công nhận như:
- Lối
giải thích luân lý: Chúa Kitô tự nguyên chịu các chước cám dỗ lớn của
nhân loại: những dục vọng của xác thịt và tinh thần, để rồi vượt thắng
các cám dỗ đó cách khải hoàn, và nhờ dấy nên gương mẫu cho đời ki tô
hữu; Lối giải thích song đối kiểu mẫu: Chúa Kitô, Ađam mới, chịu một cơn
cám dỗ "tổ tông" mới, để nhờ lòng vâng phục hiếu thảo của Người mà chuộc
lại cuộc nổi loạn nguyên thủy (x. trình thuật mạc về cuộc cám dỗ này và
thần học của Phaolô về Ađam mới);
- Lối chú
giải cánh chung học: qua cuộc chiến đấu này, Chúa Kitô tiên báo cuộc
khải hoàn vinh thắng cuối cùng của Người trên các quyền lực sự dữ (lối
giải thích của Lc).
5) Chủ đề
sa mạc chiếm một chỗ đứng đáng kể trong Kinh Thánh, vì sa mạc là một dữ
kiện địa lý quan trọng trong thế quân bình kinh tế và nhân chủng của xứ
Palestine. Ảnh hưởng của địa thế này không phải là nhỏ đối với lịch sử
dân Thiên Chúa. Lịch sử này lưu lại hai kỷ niệm xem ra mâu thuẫn, mà có
người đã muốn coi như. là hai chủ đề có nguồn gốc khác nhau, nhưng kỳ
thực chỉ là hai phương diện của một thực trạng. Cuộc lưu ngụ trong sa
mạc trước tiên được trình bày như là thời kỳ lý tưởng trong cuộc sống
của tuyển dân, thời kỳ mà tuyển dân được các điều kiện thuận lợi nhất ớể
phát huy lý tưởng tôn giáo của mình, và đã sống lý tưởng đó cách tuyệt
hảo. Đàng khác thời gian lưu ngụ trong sa mạc cũng. được xem như là một
thử thách, như một hình phạt, phạt tội phàn nàn và bất tuân. Sa mạc vừa
là nơi tĩnh tâm và thanh luyện, vừa là nơi phát sinh chước cám dỗ và xóa
tội. Vì thế trong suốt lịch sử dân Israel, sa mạc vẫn là nơi hun đúc sức
mạnh sinh động của quốc gia (tất cả các khuôn mặt lớn trong dân đều đến
sa mạc lập kế hoạch, hay nung nấu lại lòng nhiệt thành) và cũng là nơi
thử thách.
CHÚ
GIẢI CHI TIẾT
"Bấy giờ Chúa Giêsu được Thần khí dẫn vào sa mạc":
Chữ bấy giờ nói lên mối liên hệ giữa trình thuật này với trình thuật
Chúa Giêsu chịu phép rửa. Lát nữa ta sẽ thấy mối tử hệ thần linh của
Chúa Giêsu đã được công bố lúc người chịu phép rửa) hệ tại chỗ nào.
Trạng từ "bấy giờ" ở đây (cũng như ở 3, 13 chẳng hạn) có một giá trị
chuyển mạch hơn là giá trị thời gian. Tiếng "để chịu cám dỗ" nói rõ ràng
ý định của Thiên Chúa, như trong đoạn văn trước. Bởi ma quỷ: một chữ
Hy-lạp trước tiên có nghĩa là "đứa vu khống" rồi "kẻ buộc tội". Vì thế
bản 70 đã dùng chữ này để dịch chữ "Satan". Ngữ vựng của phần dẫn nhập
trình thuật này tương tự với ngữ vựng của Đnl 8,2 (bản 70) và ám chỉ đến
cảnh huống của Israel trong sa mạc: "Hãy hồi tưởng lại tất cả con đường
mà Giavê Thiên Chúa của ngươi đã dẫn ngươi đi (cùng một động từ Hy lạp
như Matthêu) trong sa mạc, với dụng ý là hạ ngươi uống, thử thách ngươi
(cùng một động từ Hy lạp như Matthêu) và biết đáy lòng ngươi".
"Người
đã giữ chay 40 ngày và 40 đêm":
40 là con số chẵn thường được Kinh Thánh dùng để chỉ một thời gian khá
dài: 40 ngày lụt đại hồng thủy (St 7,4), 40 năm Israel lưu trú trong sa
mạc (Xh 16, 35; Ds 14, 33; Đnl 29, 5), 40 năm trị vì của Đavít (1Sm
5,4), 40 ngày trước khi phá hủy thành Ninivê (Gn 3), 40 ngày giữa cuộc
Phục Sinh và Thăng Thiên của Chúa Giêsu... Chi tiết xác định "40 đêm "
là của riêng Matthêu (Luca chỉ nói "40 ngày") và ám chỉ đến 40 ngày và
40 đêm mà Môisen đã trải qua trên núi của Giavê "không ăn bánh cũng
chẳng uống nước" (Xh 24, 1-8: giữ chay sau cuộc thần hiển, và trong
34,28: giữ chay sau cuộc tái lập Giao ước). "40 đêm" có lẽ cũng ám chỉ
đến cuộc chay trường của Elia trên núi Horeb (1V 19,8: sau khi được thần
hiển và trao sứ mệnh). Cả hai nhân vật lên này của Cựu ước, những vị gồm
tóm trong bản thân Lề luật và Ngôn sứ, sẽ tái xuất hiện trong cuộc Biến
hình của Chúa Giêsu (biến hình = thần hiển; cuộc thần hiển này được tiếp
nối với việc thiết lập Giao ước mới bằng Tử Nạn-Phục Sinh). Chắc hẳn
Matthêu muốn cho thấy việc giữ chay của Chúa Giêsu một cách nào đó tổng
lược kinh nghiệm của Môisen và Elia, cũng như cuộc cám dỗ sẽ tổng lược
lịch sử Israel trong sa mạc. Ở đây không nên hỏi cơ thể con người, xét
về mặt tự nhiên, có thể giữ chay trong bao lâu! Cũng như trong trường
hợp Môisen (suốt 40 ngày không uống nước!), chính Thiên Chúa trực tiếp
nâng đỡ Chúa Giêsu. Chúa Kitô sống nhờ lòng tín thác vào Thiên Chúa.
Thành ra việc cảm thấy đói sau 40 ngày được xem như là một cuộc thử
thách: Chúa Giêsu có thể nghĩ Thiên Chúa đã bỏ rơi mình. Và đó là điểm
đưa đến cám dỗ đầu tiên.
Cám dỗ
đầu tiên
(cc. 3-4)
"Nếu
Ngài là Con Thiên Chúa".
(c.3) là công thức dẫn vào chước cám dỗ thứ nhất và thứ hai. Tiếng "Con
Thiên Chúa”; nhắc lại lời phán từ trời trong cảnh trước đây và đầu tiên
có nghĩa là "Đấng Messia" (x.ghi chú BJ). Công thức này cho thấy ma quỷ
cám dỗ Chúa Giêsu như là Đấng Messia, thủ lãnh của dân mới Thiên Chúa.
"Nếu Ngài là..." không nhằm nói lên nỗi nghi ngờ của ma quỷ, nhưng cố
khơi lên trong Chúa Giêsu niềm hoài nghi. Dưới chân thập giá, chính
người Do thái sẽ thay thế Satan để cám dỗ Chúa Giêsu một cách tương tự:
"nếu ông là con Thiên Chúa" (Mt 27,40). Hai chước cám dỗ này song song
với nhau: chúng nhằm thúc đẩy Chúa Giêsu sử dụng các quyền lực thiên sai
Người có để mưu cầu tư lợi, hay đúng hơn để thoát khỏi cảnh hiểm nghèo
(đói trong sa mạc, chết trên thập giá).
"Hãy
truyền cho các viên đá này thành bánh”:
Cơn đói mà Chúa Giêsu đột nhiên cảm thấy đã là một chi tiết giúp ta giải
thích cơn cám dỗ đang bủa vây Người. Tuy nhiên, còn có một chi tiết giàu
ý nghĩa hơn trong câu trả lời của Chúa Giêsu trích lại Đnl 8,3. Văn mạch
của Đnl 8,3 cho thấy dân Israel nghi ngờ Giavê, thay vì tự hạ và chấp
nhận tùy thuộc một mình Ngài: “Hãy hồi tưởng lại tất cả con đường Giavê
Thiên Chúa của người đã dẫn ngươi đi, qua sa mạc, trong 40 năm, với dụng
ý là hạ ngươi xuống cùng để thử cho biết ngươi có gì nơi đáy lòng, xem
người có giữ các lệnh truyền của Ngài chăng. Ngài đã hạ ngươi xuống, đã
để ngươi phải chịu đói; rồi Ngài lại cho ngươi ăn manna ngươi chưa từng
biết và cha ông ngươi cũng không hề biết, để dạy cho ngươi hay là người
ta không sống nhờ bánh mà thôi, nhưng sống nhờ mọi điều xuất ra từ miệng
Giavê" (Đnl 8, 2-3).
Chước cám dỗ
mà Israel phải. chịu, đó là cơn đói khát Thiên Chúa cho dân trải qua để
thử lòng tín thác của họ. Nhưng dân đã phàn nàn, đã hối tiếc các thức ăn
của xứ Ai cập, và càu nhàu đòi lương thực. Chúa Giêsu cũng đang sống
trong một tình trạng tương tự như dân Israel. Bị đói, Người có thể nghĩ
Thiên Chúa đã bỏ rơi người. Ma quỷ đến dụ dỗ Người nghi ngờ Thiên Chúa
và hãy cậy dựa vào chính quyền năng thần thông mà Người vừa mới nhận lúc
được thánh hiến làm Đấng Messia. Có thể Chúa Giêsu sẽ dùng quyền đó để
mưu cầu tư lợi trái nghịch với thánh ý Thiên Chúa. Khi dụ dỗ Chúa Giêsu
nghi ngờ và bất tuân, ma quỷ muốn Người cắt đứt liên lạc với Thiên Chúa.
Đáp lời lại, Chúa Giêsu xác quyết Người chẳng muốn dùng các phương thế
riêng của mình để được sống, nhưng muốn hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên
Chúa. Người chỉ cậy dựa vào Thiên Chúa (27,43).
Cám dỗ
thứ hai
(cc.5-7)
"Thành
thánh"
là một thành ngữ Do Thái thông dụng để chỉ Giêrusalem (Mt 27, 53; Kh
11,2). Ma quỷ dụ dỗ dựa vào lại Tv 91,11: điều đã được hứa cho mọi người
đạo đức, càng phải có giá trị hơn đối với Đấng Messia: chắc chắn Thiên
Chúa sẽ bảo vệ Người. Chúa Giêsu trả lời bằng cách trích dẫn Đnl 6,16 là
câu nhắc lại giai thoại Massa (Xh 17, 1-7). Israel đã dám thử thách
Thiên Chúa khi nói: “Có Chúa giữa chúng ta hay không?". Họ không ngại
đòi Thiên Chúa ban cho một dấu chỉ là phép lạ nước đột xuất từ tảng đá.
Nếu gieo mình từ thượng đỉnh Đền thờ theo như lời Satan dụ dỗ, là Chúa
Giêsu đã buộc Thiên Chúa phải thực hiện một phép lạ. Cuối cơn cám dỗ thứ
nhất, Chúa Giêsu đã nép mình dưới sự quan phòng chở che của Thiên Chúa.
Ma quỷ dụ dỗ Người lợi dụng sự che chở này, như Israel ngày xưa, bằng
cách đòi hỏi Thiên Chúa can thiệp Thành ra xét cho cùng đây là việc áp
đặt ý muốn con người trên Thiên Chúa.
Một vài giới
bình dân Do thái hình dung Đấng Messia như sẽ khai mào sứ vụ của mình
trên chóp đỉnh Đền thờ; nơi đó Người phải loan báo việc giải phóng
Israel. Vì thế có lẽ Satan đã gợi ý cho Chúa Giêsu ra mắt dân chúng theo
cách phù hợp với quan niệm bình dân này, đi ngược với kế hoạch của Thiên
Chúa.
Cám dỗ
thứ ba
(cc. 8- 10)
"Một
ngọn núi cao"
từ đó có thể xem thấy "tất cả các nước thiên hạ" là một
điều dị thường. Sở dĩ Matthêu giữ lại chi tiết kỳ quái này của truyền
thống Tin Mừng, là vì muốn trung thành với truyền thống bao quanh con
người Môisen: Thiên Chúa đã chỉ cho Môi sen, đứng trên núi Nêbo, thấy
toàn thể Đất Hứa (Đnl 31, 1-4). Tương quan Môisen-Giêsu, mà Matthêu luôn
đề cập đến, còn được nổi bật ở đây. Đất Hứa ở đây trở thành lãnh địa
tuyệt hảo mà Chúa Giêsu sẽ tiếp nhận lúc Phục Sinh: “mọi quyền năng trên
trời dưới đất đã được ban cho Ta" (28,18) như lời hứa của Tv 2, 6-8.
"Tôi
hiến cho Ngài hết mọi điều đó, nếu Ngài phục mình bái lạy tôi".
Đây là cám dỗ thờ bò vàng, thờ các ngẫu thần, là cám dỗ tự biến mình
thành vị thần dễ xài, trấn an, vị thần được dùng để đem đi giao chiến,
chinh phục địa cầu, vị thần mà ta có thể thương thuyết mặc cả: "Tôi hiến
tất cả điều đó cho Ngài, nếu Ngài phục mình bái lạy tôi". Chính Chúa
Giêsu đã hiểu chước cám dỗ thứ ba này theo nghĩa ấy, vì câu Người trả
lời Satan trích lại một đoạn Đệ Nhị Luật, trong đó rõ ràng đề cập đến
việc thờ ngẫu thần: "Ngươi hãy coi chừng kẻo lãng quên Giavê Đấng đã đem
ngươi ra khỏi Ai Cập, khỏi nhà tôi mọi. Ngươi sẽ kính sợ Giavê Thiên
Chúa của ngươi; ngươi sẽ phụng thờ Ngài, sẽ thề nhân danh Ngài. Đừng đi
theo các thần khác, thần của các dân ở chung quanh ngươi, vì Giavê Thiên
Chúa của ngươi, ở giữa ngươi, là Thiên Chúa ghen tương" (Đnl 6,12-15).
Qua việc trích dẫn đoạn văn này, Chúa Giêsu xác quyết Thiên Chúa đích
thực không phải là một thần tượng mà ta có thể mua chuộc các hồng ân.
Giavê không mua bán mặc cả. Ngài đòi phải tin yêu và vâng phục vô điều
kiện. Ngài chẳng phải là con bò vàng "đi trước chúng ta” mà người ta có
thể sử dụng như một khí cụ để chinh phục. Chúa Giêsu từ chối đi vào con
đường mà Thiên Chúa không muốn Đấng Messia của Ngài dấn thân, là đường
vinh thắng rạng rỡ (bằng việc cậy dựa vào các ngẫu thần), đưa đến việc
thống trị hoàn vũ. Vì bị tiêm nhiễm giấc mơ khải huyền bình dân, Phêrô
sẽ chống đối việc tiến lên Giêrusalem để chịu tử nạn. Chúa Giêsu sẽ trả
lời ông như đang trả lời ở đây: "Hỡi Satan, hãy xéo đi" (16,23 cũng có
cùng động từ như 4,10 những chỉ thêm chữ "sau Ta"). Trong cả hai trường
hợp, Chúa Giêsu xác quyết ý định của Người là hoàn toàn tuân theo kế
hoạch của Thiên Chúa, dù "tư tưởng của Thiên Chúa không phải là tư tưởng
của loài người" (16,23). Đối lại với việc Israel say mê thờ ngẫu thần
(các ngẫu thần được xem như là khí cụ để chinh phục), việc Chúa Giêsu
gắn bó vào Thiên Chúa hệ tại chỗ loại bỏ mọi ngẫu thần để chỉ phụng sự
Thiên Chúa đích thực. Vì thế, Chúa Giêsu sẽ thể hiện kiểu mẫu Messia mà
Thiên Chúa đã trù định, là làm người Tôi tớ bị lăng nhục và đau khổ mà
Isaia đã loan báo. Dĩ nhiên, Người không từ chối việc chinh phục thế
giới, nhưng sẽ chỉ chinh phục bằng thập giá mà thôi.
“Họ
hầu hạ Người":
Việc các thiên sứ hầu hạ Chúa Giêsu nói lên chân lý này: Chúa Giêsu đã
được phong vương ở sông Giođan. Họ cho thấy Nước Trời đã đến bên loài
người vì triều đình thiên quốc đang chầu chực quanh Người Con Yêu Dấu.
Tuy nhiên các thiên sứ này chỉ can thiệp sau khi Chúa Giêsu đã vượt
thắng cơn cám dỗ. Ở đây hình như Matthêu tiên báo điều sẽ xảy ra trong
cuộc Tử nạn. Là Đấng có thể xin cấp ngay "hơn 12 cơ binh thiên sứ"
(26,53) để thoát khỏi khổ hình thập giá, Chúa Giêsu đã muốn hoàn tất
Kinh thánh và phó mình cho Chúa Cha. Sau khi Người đã thắng vượt cơn cám
dỗ, các thiên sư mới đến hầu hạ Người, và sau khi Người phục sinh, các
thiên sứ mới đi báo tin cho các môn đồ (28, 2-7).
KẾT LUẬN
Đoạn Tin
Mừng này của Matthêu trước tiên hoàn toàn mang ý nghĩa thần học. Nó được
soạn thảo và lưu truyền không nhằm cho ta biết về một giai thoại trong
cuộc đời Chúa Giêsu cho bằng giúp ta hiểu cách Người đã thi hành vai trò
Messia ra sao. Satan, một thời gian ngắn trước khi Chúa Giêsu ra mắt
công khai, đã cố làm cho Người bất tuân với Chúa Cha bằng cách gợi lên
trong Người tâm tình tự lập, muốn từ khước địa vị làm Con để tự do sử
dụng các quyền hành Người đã được ban cho. Nhưng thay vì tự chiếm đoạt
quyền lực và ỷ mình được Thiên Chúa tuyển chọn như Biệt phái và Sađucêô,
Chúa Giêsu đã xóa mình trước mắt Chúa Cha, như dã xóa mình trước mặt
Gioan Tẩy giả và sẽ còn xóa mình suốt cả cuộc đời, cho đến lúc chết.
Thay vì chiều theo quan niệm của nhân gian về Đấng Messia uy hùng, vinh
thắng, Chúa Giêsu đã chấp nhận quan niệm Đấng Messia-tôi tớ khiêm cung.
Ý HƯỚNG
BÀI GIẢNG
1) Satan đã
đề nghị Ađam trở thành Thiên Chúa: "Ngươi sẽ nên như các thần minh" (St
3,5). Còn đối với Chúa Kitô, nó đề nghị người sử dụng quyền năng thiên
sai như một đặc quyền, một khí cụ. Xét cho cùng, tội lỗi luôn luôn là
một ý muốn thống trị. Thế mà Thiên Chúa đã cứu thoát con người khỏi tội
lỗi nhờ sự yếu đuối của Chúa Kitô, Đấng đã chọn lấy thân phận tôi tớ, và
hoàn toàn phó thác vào tay Thiên Chúa.
2) Cám dỗ
luôn luôn xoay quanh Lời Chúa, hoặc để vi phạm hoặc để xuyên tạc ý
nghĩa. Con rắn quỷ quyệt trong St 3 đã nói ngược Lời Chúa. Nó bảo:
"Thiên Chúa đã phán: các ngươi chẳng được ăn cây nào trong vườn cả!...
Các ngươi chẳng chết chóc đâu. Nhưng vì Thiên Chúa biết rằng mắt các
ngươi sẽ mở ra...". Tên cám dỗ trong Tin Mừng cũng yêu cầu Chúa Giêsu sử
dụng Lời Chúa để biến đá thành bánh, và giải thích lệch lạc ý nghĩa
Thánh Vịnh để đẩy Người thử thách Thiên Chúa. Nó cám dỗ Chúa Giêsu sử
dụng Lời sáng tạo, Lời cứu rỗi để mưu cầu lợi riêng. Nhưng Chúa Giêsu đã
tuân phục và đón nhận Lời Thiên Chúa: "Đã chép rằng..."
3) Khi tình
nguyện trở nên người Tôi Tớ chứ không trở nên kẻ thống trị, Chúa Giêsu
đã cứu rỗi chúng ta. Người mặc khải cho chúng ta một Thiên Chúa tình yêu,
mà ta có thể bắt chước bằng cách tự hạ, tự chối bỏ chính mình. Thiên
Chúa đã đến gần nhân loại trong con người của Con Ngài, không phải để
bắt nhân loại làm nô lệ, nhưng để phục vụ nhân loại với tư cách là tôi
tớ bị đóng đinh.
4) Chúa
Giêsu bị cám dỗ, bởi vì xét như là con người, Người phải chứng minh mình
là "Con yêu dấu". Chính vì thế Người phải trải qua, cách cụ thể trong
nhân tính của mình, cái kinh nghiệm thế nào là sống như con cái Thiên
Chúa, nghĩa là chỉ chờ đợi hạnh phúc ở nơi Thiên Chúa mà thôi. Người
Kitô hữu cũng phải trải qua cơn cám dỗ tương tự và phải chọn lựa giữa sự
tự tôn cá nhân, coi thường Thiên Chúa và anh em, với thái độ hiếu thảo
phục vụ Thiên Chúa và mọi người.
Chúng ta
đừng nuôi ảo tưởng về một thế giới mà mọi sự đều tốt lành. Thân phận con
người là sống giữa thế gian mà trong đó thiện ác, lành dữ lẫn lộn.
- Chính vì
thế, khi Con Thiên Chúa xuống thế làm người, chính Chúa Thánh Thần đã
dẫn Người vào sa mạc để đối diện với các cơn cám dỗ.
- Người ta
sống tốt không phải bằng cách che mắt giấu mặt để khỏi nhìn thấy điều
xấu, mà trái lại bằng cách nhìn thẳng vào điều xấu và chiến đấu để chiến
thắng nó.
- Trong Mùa
chay, mỗi người hãy nhìn thẳng vào nội tâm mình. Không phải chỉ nhìn
những mặt tốt, mà nhất là hãy nhìn thẳng vào những mặt xấu, những thứ “
tham, sân, si” đang âm thầm nhưng mãnh liệt khống chế mình.
Và hãy nhìn
vào cuộc chiến đấu của Đức Giêsu. Người đã thắng nhờ đâu? Nhờ làm theo
lời Thiên Chúa và thực hiện thánh ý Thiên Chúa.
Có ba
người mục tử, mỗi người coi sóc một đàn chiên.
Một đêm
mùa đông vừa gió vừa mưa. Khi ba người đang ngủ thì nghe có tiếng chó
sói.
- Người
thứ nhất tung chăn thức dậy định ra ngoài xem xét tình hình. Nhưng nghe
tiếng mưa rơi gió rít, anh ngại ngùng và trở vào giường ngủ tiếp.
- Người
thứ hai cũng thức dậy, mặc thêm quần áo mở cửa đi ra. Nhưng một đợt nước
mưa quất ngay vào mặt anh làm anh bỏ ngay ý định ra ngoài. Anh cũng trở
vào giường nằm xuống, kéo chăn đắp kín và ngủ tiếp.
- Người
thứ ba cũng thức dậy, cũng mặc quần áo, và cũng ra ngoài. Dù gió lạnh,
dù mưa ướt, anh vẫn cố chịu đựng, đi đến tận chỗ đàn chiên của anh để
xem. Khi đã thấy chiên mình an toàn, anh mới trở vào nhà ngủ tiếp.
Trong ba
người đó, ai là người hiểu biết rõ nhất về sự khắc nghiệt của gió và mưa?
Dĩ nhiên là người thứ ba.
Cũng thế,
người hiểu rõ nhất về cám dỗ là người đã chiến đấu và chiến thắng nó.
Vì vậy, nếu
ta muốn học cách đương đầu với cám dỗ, đừng học với những kẻ tội lỗi, mà
hãy học với những vị thánh.
Như trong
các bài đọc hôm nay, chúng ta đừng học với dân Israel trong thời xuất
hành ở sa mạc, mà hãy học với Đức Giêsu.
mục lục
Thua keo này bày keo khác. Ma quỷ lại đưa Chúa Giêsu lên cao hơn nữa.
Chúng đưa lên một ngọn núi. Từ ngọn núi này, chúng chỉ cho Chúa thấy tất
cả quyền bính, vinh hoa, giàu sang phú quý, danh vọng và nói: “Tôi sẽ
cho ông tất cả những thứ ấy, nếu ông sấp mình bái lạy tôi”.
Chúng ta thấy, ma quỷ thật tinh khôn, chúng thừa biết rằng: là con người,
ai cũng ham danh vọng, chức quyền, tiền của. Quyền hành là điều kiện để
có danh vọng và cung cấp hay đem lại hầu hết các nhu cầu vật chất. Ngược
lại, tiền của cũng là điều kiện để có được quyền hành và danh vọng: đồng
tiền là tiên là phật, là sức bật của tuổi trẻ, là sức khỏe của tuổi già,
là cái đà của danh vọng, và là cái lọng để che thân. Sống ở đời, hầu hết
con người đều mang túi tham không đáy: người có tiền bạc, nhưng không có
quyền hành, danh vọng, thì ra sức chiếm đoạt, giành giựt cho được địa vị,
để có quyền, có danh gì với núi sông. Ngược lại, người có quyền hành, có
địa vị, nhưng chưa có nhiều tiền thì dùng đủ mọi mánh lới, thủ đoạn, để
kiếm cho thật nhiều. Còn người không có tiền bạc, cũng không có quyền
hành, địa vị, thấy người khác có, nóng mũi cũng phải tranh giành cho
được. Mọi người đều đầy tham vọng, mọi người đều bị quay cuồng trong
những cám dỗ của danh vọng: “Cái vòng danh lợi cong cong. Kẻ hòng ra
khỏi, người mong bước vào”. Vậy Chúa Giêsu có mắc bẫy của ma quỷ không?
Không, đứng những thứ phù vân đó, Chúa Giêsu đã chịu cám dỗ, nhưng Ngài
đã chiến thắng cám dỗ. Ma quỷ thất bại hoàn toàn và bị Chúa đuổi đi:
“Xéo đi, hỡi Sa tan, ngươi phải bái lạy Chúa là Thiên Chúa của ngươi và
phải thờ phượng một mình Người”.
Là con
người nói chung và là con cái Chúa, chúng ta đã gặp những chước cám dỗ,
đang gặp những chước cám dỗ, hay sẽ gặp những chước cám dỗ. Tuy nhiên
chúng ta hãy nhớ: bị cám dỗ chưa phải là xấu. Nếu chúng ta thắng cuộc là
chúng ta thành công và được Chúa khen thưởng. Chỉ khi thua cám dỗ mới là
xấu. Nhưng để chiến thắng được chước cám dỗ, thắng được ma quỷ, chúng ta
phải luôn đề cao cảnh giác trước dịp tội, đừng đùa với lửa, phải cầu
nguyện xin Chúa trợ giúp, phải kiên quyết giữ vững lập trường: “Dù ai
nói ngả nói nghiêng. Thì ta vẫn vững như kiềng ba chân”, “Dù ai nói
ngược nói xuôi, ta đây vẫn giữ đạo trời khăng khăng”,”Dù ai sang cả mặc
ai, thân này nước chảy hoa trôi sá gì”.
Chúng ta
đã cùng với toàn thể Giáo Hội bước vào Mùa Chay Thánh hôm thứ Tư lễ Tro
vừa qua. Khởi đầu Mùa Chay Thánh với việc xức tro. Cử chỉ bỏ chút tro
lên đầu và vị chủ sự mời gọi: “Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng”,
Giáo Hội muốn mời gọi con cái của mình khiêm tốn và ý thức thân phận con
người chẳng là gì cả, chỉ là bụi tro mà thôi.
Hôm nay,
với Chúa Nhật I Mùa Chay, bài Tin Mừng thánh Mátthêu trình thuật cho
chúng ta thấy việc Đức Giêsu vào hoang địa ăn chay và sau đó bị Ma Quỷ
cám dỗ, nhưng Ngài đã chiến thắng.
Qua đó,
Giáo Hội muốn nhắc cho con cái của mình là: hãy sám hối để bắt đầu bước
vào hành trình tập luyện và chiến đấu thiêng liêng. Trong hành trình ấy,
mẫu gương của Đức Giêsu trong sa mạc hôm nay được hiện lên như một động
lực, điểm tựa cho mỗi chúng ta.
1.
Ma quỷ cám dỗ Đức Giêsu
Khi đón
nhận thánh ý Thiên Chúa Cha qua việc vâng lời tuyệt đối khi nhập thể và
nhập thế, Đức Giêsu đã trở nên Cứu Chúa của nhân loại. Vì thế, khởi đầu
cuộc sống công khai, Ngài đã vào hoang địa ăn chay 40 đêm ngày, để tìm
thánh ý Thiên Chúa Cha, hầu chu toàn ý định của Người. Sau khi chay tịnh,
Đức Giêsu cảm thấy đói, vì thế, nhân cơ hội này, Ma Quỷ đã tiến đến và
cám dỗ Ngài.
Cám dỗ
đầu tiên mà Ma Quỷ tấn công Đức Giêsu chính là cám dỗ về của ăn nuôi
thân. Lợi dụng lúc Đức Giêsu đói, Ma Quỷ đã không bỏ lỡ cơ hội ngàn năm
có một này, nên hắn đã tiến lại gần và nói: "Nếu ông là Con Thiên Chúa,
thì truyền cho những hòn đá này hóa bánh đi!" (Mt 4, 3). Ma Quỷ thật
tinh vi, nhưng Đức Giêsu đã không bị những thứ lương thực chóng tàn, mau
hết làm cho Ngài sa ngã, vì thế, Ngài đã chiến thắng ngay từ cơn cám dỗ
đầu tiên khi nói cho chúng biết lương thực của Ngài chính là làm theo ý
Thiên Chúa Cha. Ngài nói: “Đã có lời chép rằng: ‘Người ta sống không chỉ
nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra’" (Mt 4,4).
Cơn cám
dỗ thứ hai mà Ma Quỷ muốn tấn công chính là đề nghị Đức Giêsu sử dụng
quyền lực. Vì thế, nó đã nói: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì gieo mình
xuống đi! Vì đã có lời chép rằng: ‘Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo
cho bạn, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá’"
(Mt 4,6).
Tuy
nhiên, Ma Quỷ đã lầm khi tưởng rằng Đức Giêsu sẽ sử dụng quyền lực theo
kiểu thế gian, để trổ tài theo ý của nó bằng những cú nhảy đẹp mắt,
những pha ngoạn mục. Nhưng lại thêm một lần nữa chúng thất bại và chịu
tác dụng ngược lại khi Đức Giêsu cho chúng biết rằng: “Ngươi chớ thử
thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi" (Mt 4, 7). Khi cám dỗ Đức Giêsu
như thế, Ma Quỷ nghĩ rằng Đức Giêsu sẽ mắc bẫy để sử dụng ý riêng của
Ngài thay cho thánh ý Thiên Chúa Cha. Nhưng không! Đức Giêsu đã đi theo
con đường khiêm tốn mà Chúa Cha muốn nơi Ngài.
Thất thế
lần hai, Ma Quỷ vẫn chưa chịu thua, chúng tấn công lần thứ ba. Lần này
chúng nhắm tới danh vọng. Ma Quỷ đã nịnh hót Đức Giêsu, và “đem Người
lên một ngọn núi cao, và chỉ cho Người thấy tất cả các thế gian, và vinh
hoa lợi lộc của các nước ấy, và bảo rằng: ‘Tôi sẽ cho ông tất cả những
thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi’" (Mt 4, 8-9). Nhưng lần cuối cùng
này chúng vẫn thất bại và chịu sự quở trách nặng nề của Đức Giêsu, đồng
thời Ngài cũng xác định danh giới của chúng khi nói: "Xatan kia, xéo đi!
Vì đã có lời chép rằng: ‘Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của
ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi’" (Mt 4, 10).
Qua câu
nói này, Đức Giêsu khẳng định thật rõ Ngài là Con Thiên Chúa, nên chỉ có
bổn phận phục quyền và tôn thờ một mình Thiên Chúa mà thôi.
Như vậy,
cả ba lần cám dỗ, chúng đều lãnh nhận những thất bại. Nếu chúng tập
trung vào: thú, lợi, danh, để hy vọng hạ gục được Đức Giêsu, để Ngài
phải phục quyền chúng, và nhất là nó muốn phá vỡ chương trình cứu độ của
Thiên Chúa Cha. Tuy nhiên, ý định đó đã không thành, vì Đức Giêsu đã lựa
chọn con đường Thiên Chúa Cha muốn, đó là con đường tự hủy nhờ đức vâng
lời.
2. Ma
quỷ cám dỗ chúng ta
Cơm, áo, gạo,
tiền, vinh hoa, phú quý, quyền cao, chức trọng luôn gắn liền với thực
tại của con người. Con người luôn hướng chiều về những điều đó vì mục
đích sinh tồn của bản năng nơi loài thụ tạo. Vì thế, người ta chấp nhận
và làm mọi cách để đạt được những mục đích trên.
Ma Quỷ là
loài tinh quái, xảo quyệt. Nó đánh trúng tim đen của con người. Nó biết
rất rõ nhu cầu và điểm yếu của chúng ta. Thực vậy, những nhu cầu như ăn
uống, danh vọng, địa vị, chức quyền và sau cùng là tự phụ, khoe khoang,
kiêu ngạo luôn theo sát mỗi người từ lúc sinh ra đến lúc nhắm mắt xuôi
tay.
Cái quỷ
quyệt của chúng là đưa ra những chiêu thức rất hấp dẫn, toàn là màu hồng
để quyến rũ con người. Nhưng thực ra, những điều mà chúng cám dỗ ta chỉ
là nửa sự thật mà thôi, chứ không phải sự thật tuyệt đối. Một khi con
người sa lầy trước cám dỗ của nó, con người mới ngỡ ra là nó đã đưa mình
vào những ảo vọng hão huyền.
Cách thức
của chúng dùng chính là qua một trung gian, một cơ hội hay một sự vật:
Qua trung
gian là con người, chúng tìm cách để người nào đó rủ rê dần dần ta phạm
tội. Lúc ban đầu chỉ là những chuyện lặt vặt, nhỏ bé hằng ngày. Tuy
nhiên, dần dà lâu ngày thành quen. Tội nhẹ, rồi dẫn đến tội trọng. Nay
ăn cắp quả ổi là chuyện bình thường; ngày mai ăn chộm con gà cũng chẳng
sao; ngày mốt lấy con trâu, rồi cuối cùng giết người cướp của.
Từ chuyện
rất nhỏ, nhưng nó làm cho con người trai lỳ lương tâm và mất dần cảm
thức về tội, nên chúng ta không lạ gì khi thấy nhiều người cứ nhởn nhơ
trong vũng lầy tội lỗi mà vẫn tự hào mình là người tốt. Những người như
thế, thường tìm mọi cách để ngụy biện cho hành vi sai trái của mình. Họ
dùng những phương tiện xấu để biện minh cho mục đích tốt. Họ sẵn sàng
làm từ thiện để che lấp những tội ác như tham nhũng, bóc lột và buôn
gian, bán lậu. Hay nói cách khác, họ dùng hình thức rửa tiền để che đậy
những việc làm mờ ám của mình.
Thật vậy, là
con người, ai cũng muốn có cơm no, áo ấm, rồi dần dần dẫn đến tình trạng
ăn ngon mặc đẹp, tiếp theo chính là thỏa mãn xác thịt, ăn chơi trác táng
và cứ như thế, chẳng mấy mà dẫn đến “Cực lạc sinh bi ai?”. Đây chính là
cơn cám dỗ đầu tiên mà Ma Quỷ đã cám dỗ Đức Giêsu.
Cơm cám dỗ
thứ hai mà trước kia Ma Quỷ cám dỗ Đức Giêsu, thì ngày nay, nó cũng
không buông tha chúng ta. Thật vậy, nó tấn công chúng ta về quền lực,
vinh quang, phú quý để làm cho ta ra mê muội và tìm mọi cách để đạt được
những điều ta muốn dù là bất chính.
Cám dỗ cuối
cùng mà nó tấn công Đức Giêsu là tham lam, danh vọng. Ngày nay, nó vẫn
thường cám dỗ chúng ta như thế. Nó đánh đúng sào huyệt tham sân si của
con người, rồi sau đó, con người phải tôn thờ nó. Xin nhắc rằng, Ma Quỷ
nó làm được nhiều thứ để cám dỗ con người, nhưng chỉ có một điều mà nó
không làm được, đó là không cho con người được hạnh phúc thật và sự sống
đời đời mà thôi.
Như vậy, Ma
Quỷ đã cám dỗ Đức Giêsu về 3 điểm, đó là: thú, lợi, danh. Đến lượt chúng
ta, nó cũng không ngừng tấn công chúng ta về những điểm trên.
Nhưng, như
Đức Giêsu đã chiến thẳng, còn chúng ta ngày nay thì sao? Mỗi khi đứng
trước cám dỗ, chúng ta phải làm gì?
3. Khi
bị cám dỗ, ta phải làm gì?
Mỗi khi cám
dỗ đến với chúng ta, xin hãy nhớ lại lời Đức Giêsu cảnh báo để thêm sự
cẩn trọng, hầu không vì kiêu ngạo mà mắc vào cạm bẫy của chúng: “Anh em
hãy canh thức và cầu nguyện, để khỏi lâm vào cơn cám dỗ" (Mt 26, 41).
Hay Đức Giêsu nói với Phêrô về sự nguy hiểm của chúng: "Simon, Simon ơi,
kìa Xatan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo” (Lc 22,31). Và
khi thánh Phêrô đã cảm nghiệm rõ nguy hiểm của Ma Quỷ, nên ngài đã cất
lên lời khuyên nhủ: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì Ma Quỷ,
thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tiìm mồi cắn xé” (1Pr
5,8).
Nhiều người
quá coi thường chúng nên dần đi vào con đường mà chúng vạch ra cho lúc
nào không hay.
Thật vậy, có
nhiều người vì ích kỷ, nên sinh ra cố chấp với anh chị em trong cộng
đoàn, rồi kết cục bỏ Chúa và không tham gia sinh hoạt đoàn thể vì tính
kiêu ngạo của mình. Những người như vậy, họ theo đạo vì ông này bà nọ,
chứ không phải vì Chúa. Bởi vậy, khi họ có chuyện khúc mắc với anh chị
em thì họ bỏ luôn Chúa, vì đâu biết rằng những người kia, họ chỉ là
phương tiện, là cầu nối để ta gặp được Chúa, chứ không phải họ là Chúa.
Đây là cách mà Ma Quỷ thường hay tấn công vào những người thiếu sự khiêm
tốn, cố chấp.
Lại có những
người luôn nghĩ mình là tốt lành, thánh thiện, nên không sợ gì sa ngã
vào con đường tội lỗi, vì thế, họ không ngần ngại khi được bạn bè rủ rê
đi vào chốn ăn chơi trụy lạc vì nghĩ rằng: tướng Quỷ cũng không bao giờ
quyến rũ được mình. Tuy nhiên, biết bao người đã trở thành nô lệ của
chúng chỉ sau vài cuộc ăn chơi. Riết thành quen, không đi thấy nhớ. Hay
cũng có những người nghĩ rằng mình cũng cần phải thâm nhập thực tế để
cứu giúp những người tội lỗi ra khỏi cuộc sống bê bối của họ, nhân danh
việc tốt để dẫn đưa anh chị em thoát khỏi vòng tội lỗi, tuy nhiên, cũng
lại không ít người đã thay đổi vai trò. Từ người cứu giúp chuyển dần
sang thành người đi theo và cùng nhau phạm tội. Nguyên nhân dẫn đến tình
trạng này là chúng ta coi thường mối nguy hiểm của công việc và coi
thường sự sự khôn ngoan, tinh xảo của Ma Quỷ.
Thấy được sự
nguy hiểm này, nên Đức Giêsu mới dạy các môn đệ cầu nguyện trong kinh
Lạy Cha: “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”, và trong kinh Ăn Năn
Tội cũng có câu: “Nhờ ơn Chúa thì con sẽ tránh xa dịp tội”. Trong dân
gian, trải qua cuộc sống, người ta đúc kết thành kinh nghiệm và khuyên:
nếu lượng sức mà không vượt qua được thì hãy “đào vi thượng sách”.
Thực vậy,
sức con người thì giới hạn, vì thế, không thể nào chống trả được những
cơn cám dỗ. Nếu muốn chiến thắng, chúng ta phải cậy dựa vào ơn Chúa. Nói
như thánh Phaolô: “Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được hết” (Pl
4,13).
Khi chúng ta
cậy dựa vào ơn Chúa và đi theo con đường của Chúa, chúng ta dùng chính
võ khí của Đức Giêsu để chiến đấu. Võ khí đó là gì? Thưa! Đó là sự khiêm
tốn và vâng lời, đơn sơ, chân thật. Mọi sự sẽ qua đi, chỉ có Chúa là tồn
tại, vì thế, phải cẩn trọng trong việc lựa chọn trước những trào lưu tục
hóa như ngày nay. Đứng trước sự lựa chọn, thánh Phaolô đã cho chúng ta
một kiểu mẫu: “Tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi
truyệt vời, là được biết Đức Kitô Giêsu, của tôi, vì Người, tôi đành mất
hết, và tôi coi tất cả như đồ bỏ, để được Đức Kitô” (Pl 3, 8). Ăn chay,
cầu nguyện và bố thí chính là xác định thật rõ về sự giới hạn của chúng
ta với Đấng Tuyệt Đối. Ăn chay để hãm dẹp nết xấu và ý thức được thân
phận mong manh của mình. Cầu nguyện chính là xin Chúa trợ giúp và cùng
đồng hành với chúng ta để chúng ta chiến đấu chống lại Ba Thù. Bố thí
chính là vượt ra khỏi sự ích kỷ vốn là mầm mống của tội lỗi, để sống
hiệp thông, liên đới với anh chị em.
Lạy Chúa
Giêsu, xưa kia Chúa đã chiến đấu và chiến thắng Ma Quỷ. Giờ đây, xin
giúp chúng con chiến thắng được Ba Thù, để thuộc trọn về Chúa như Chúa
thuộc trọn về Thiên Chúa Cha. Amen.
Giữa những
thách đố, con người vẫn cố sức vươn lên. Vươn lên như Đức Giêsu trong
hoang địa sau khi chiến thắng những thách đố lớn lao trong thân phận con
người.
SÓNG GIÓ.
Trần gian là
một hành trình đi tìm cái tôi. Cái tôi ích kỷ hay đầy bản lãnh. Bản lãnh
đó chỉ được xác định sau những thách đố hay sóng gió cuộc đời. Chỉ cần
so sánh một chút giữa Eva và Đức Giêsu sẽ thấy ngay khác biệt lớn lao
giữa hai cái tôi đó.
Evà được
"Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi,
và con người trở nên một sinh vật." (St 2:7). Bà muốn sống độc lập với
Thiên Chúa, muốn dành quyền qui định luật luân lý của Thiên Chúa. Vì
muốn "được tinh khôn" (St 3:6) như Thiên Chúa, bà đã nghe theo lời con
rắn, giơ tay "hái trái cây mà ăn, rồi đưa cho cả chồng đang ở đó với
mình; ông cũng ăn." (St 3:6) Ông bà tưởng mình trở thành "vị thần biết
điều thiện điều ác." (St 3:5) Nhưng thực tế "họ thấy mình trần truồng"
(St 3:7) như con vật. Vỡ mộng. Trắng tay. Đúng như lời Chúa nói: "Ai
muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất." (Mc 8:35; Lc 9:24; Mt 10:39; Ga
12:25) Ông bà đánh mất chính mình ngay khi muốn xác định chính mình là
ai. Từ sự mất mát đó, "tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên
sự chết." (Rm 5:12)
Trái lại,
Đức Giêsu đã hoàn toàn tìm thấy cái tôi của mình ngay khi đành mất chính
mình. Người không tìm cách xác định thế đứng độc lập với Thiên Chúa Cha.
Nhưng Người muốn cho mọi người thấy chỉ có thể tìm được chính mình trong
Thiên Chúa mà thôi. Qua ba cơn cám dỗ, Đức Giêsu mạc khải bản lãnh vô
cùng vững chắc của mình trong vũ trụ. Thật vậy, sau khi "ăn chay ròng rã
bốn mươi đêm ngày, Người thấy đói" (Mt 4:2) Quỉ liền tấn công vào điểm
yếu nhất của con người Chúa lúc đó. Ai chẳng nghĩ, "có thực mới vực được
đạo." Nhưng thật bất ngờ. Trong cơn đói cồn cào, Người vẫn khẳng khái: "Người
ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa
phán ra." (Mt 4:4) Còn hơn cơm bánh, lời Chúa là nguồn sống của cả vũ
trụ, vì "nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành." (Ga 1:3). Muốn hay không,
con người phải hoàn toàn lệ thuộc vào ý Chúa.
Chính vì
thế, có lần Người đã tâm sự với các môn đệ: "Lương thực của Thầy là thi
hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy." (Ga 4:34) Nhờ xác định được nguồn
sống đích thực như thế, Đức Giêsu đã đem lại sự sống phong phú cho toàn
thể nhân loại. Thực vậy, "nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa,
muôn người cũng sẽ thành người công chính." (Rm 5:19) Khác hẳn với
nguyên tổ, Đức Giêsu đã vâng lời Thiên Chúa Cha tuyệt đối. Sự lệ thuộc
đó đã không đánh mất tính cách độc lập. Trái lại, Đức Giêsu đã xác định
được vị thế mình một cách vững chắc hơn. Người không chiều theo những
nịnh bợ rẻ tiền để biểu dương quyền năng một cách lố bịch. Trước những
lời nịnh hót: "Nếu ông là con Thiên Chúa …", Đức Giêsu đã khẳng khái
đáp: "Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi." (Mt 4:7)
Như vậy, mặc dù ý thức mình phải lệ thuộc vào nguồn sống là Thiên Chúa,
Người vẫn không quên mình là Con Thiên Chúa ngang hàng với Chúa Cha.
Sau khi đã
xác định vị thế siêu việt đó, Đức Giêsu mới thấy rõ hướng đi trước mặt.
Nếu làm theo ý Satan, Đức Giêsu sẽ trở thành một kẻ giàu sang nhất trần
gian (x.Mt 4:8-9). Nhưng Người sẽ đánh mất bản ngã và tương quan với
Thiên Chúa. Người không còn là Con Thiên Chúa và trở thành kẻ phản loạn
như Satan. Rất may, nhờ Thần Khí dẫn đường chỉ lối, Đức Giêsu đã chiến
thắng cơn cám dỗ vô cùng hiểm độc này. Người đã chọn Thiên Chúa như cứu
cánh duy nhất của cuộc đời. Tiếng Người mạnh mẽ vang lên: "Ngươi phải
bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình
Người mà thôi." (Mt 4:10) Đó là hướng sống rất sáng tỏ đối với Đức
Giêsu. Nhưng không phải một lần xác nhận là đủ. Thách đố đó không ngừng
nổi lên trong cuộc đời.
Không vượt
qua nổi cơn cám dỗ đó, con người sẽ thành mồi ngon cho những ngẫu tượng.
Ngẫu tượng đó là chính cái tôi với những chiều kích cồng kềnh dị hợm.
Chính khi cố gắng tôn thờ ngẫu tượng kinh tởm này, con người sẽ đánh mất
căn tính. Con người sẽ mất phương hướng và hoàn toàn trống rỗng. Tâm hồn
trở thành mảnh đất mầu mỡ phát sinh những tư tưởng khủng bố, dâm đãng,
cướp bóc, nghiện ngập.
CƠ HỘI LỚN.
Thế giới hôm
nay con người đang đẩy đồng loại vào những thảm cảnh chưa từng thấy.
Thảm cảnh đó "thường là con đẻ của chủ nghĩa ích kỷ vô trách nhiệm." (ĐGH
Gioan Phaolô II, Zenit 13/02/2002) Nếu không tìm lại được con người đích
thực của mình, nhân loại sẽ còn bị những ngẫu tượng hướng dẫn vào những
ngõ cụt. Mất hết tương lai. Trái đất sẽ thành một nghĩa trang khổng lồ.
Trước tình trạng bi đát đó, "chúng ta cảm thấy cần Thiên Chúa giúp chúng
ta phục hồi niềm tin và niềm vui cho cuộc sống." (ĐGH Gioan Phaolô II,
Zenit 13/02/2002). Thiên Chúa sẽ giúp nếu chúng ta biết vượt lên như Đức
Giêsu giữa bao thách đố trong hoang địa.
Với một hình
thức rất hấp dẫn, những thách đố đầy ma lực đó chỉ nhằm kéo Đức Giêsu ra
khỏi tình yêu Thiên Chúa. Nhưng đầu hàng trước những ma lực đó, chắc
chắn Đức Giêsu càng lún sâu vào con đường lệ thuộc ma quỉ và đánh mất
căn tính của mình. Những thực tại vật chất là những xiềng xích bên ngoài
và tính kiêu ngạo là gông cùm bên trong sẽ cột chặt cái tôi của Người
trong hố diệt vong.
Nhân loại
hôm nay đang quay cuồng với những cái tôi phì nộn. Con người có quá
nhiều nhu cầu giả tạo đến nỗi "mọi người đều nghĩ rằng mỗi chọn lựa và
hành động phải bị luật cung cầu thị trường chi phối. Họ tưởng chỉ có lợi
nhuận tối đa mới là định luật tối cao. Giữa lúc đó, niềm tin Kitô lại
trình bày một lý tưởng bất vụ lợi, xây dựng trên tự do đầy ý thức của cá
nhân, bắt nguồn từ tình yêu chân chính," (ĐGH Gioan Phaolô II, Zenit
13/02/2002) tức là Thiên Chúa. Tình yêu ích kỷ không bao giờ có thể hiểu
được lời Chúa: "Chúng con đã nhận nhưng không, thì hãy cho nhưng không."
Những tính toán nhỏ nhen ích kỷ đang làm cho các tương quan hôm nay biến
chất và tan rã. Làm sao tìm được cơ hội nối lại những tương quan đó?
"Mùa chay là
một cơ hội Thiên Chúa quan phòng cho con người hồi tâm, vì giúp chúng ta
chiêm niệm về mầu nhiệm tình yêu lạ lùng của Thiên Chúa, Đấng đã dựng
nên chúng ta để sống hạnh phúc và qui hướng vạn vật về thiện hảo đích
thực này." (ĐGH Gioan Phaolô II, Zenit 13/02/2002) Nhận định rõ tình yêu
lớn lao đó là bước đường vô cùng cần thiết nối lại tương quan nhân loại
hôm nay. Nếu không có những giây phút lắng đọng tâm hồn, chúng ta không
thể thấy được lòng Cha yêu thương như thế nào. Những phản kháng và phản
chứng hôm nay đều phản ánh một sự vô ý thức về tình yêu Thiên Chúa.
Trong thinh lặng, con người sẽ khám phá thấy "chính vì yêu thương vô bờ,
Thiên Chúa đã tạo dựng nên chúng ta và đã tiền định để chúng ta hoàn
toàn hiệp thông với Người. Vì thế, Thiên Chúa cũng muốn chúng ta đáp trả
tình yêu Người một cách quảng đại, tự do và ý thức." (ĐGH Gioan Phaolô
II, Zenit 13/02/2002) Chỉ khi nào đáp trả tình yêu như thế, tôi mới
thành công trên bước đường tôi đi tìm tôi. Tình yêu đã chính là sức mạnh
đẩy tôi lên tới Thiên Chúa và đến với anh em. Tôi sẽ tìm được tôi trong
tương quan sung mãn đó.
Trang Tin
Mừng này được liên kết với trang Tin Mừng về phép Rửa. Tại sông Giođan,
Thần Khí Thiên Chúa đã được ban cho Đức Giêsu, nay cũng Thần Khí ấy lại
dẫn Người vào hoang địa. Chiều hướng của bản văn là: Bởi vì Đức Giêsu
đến hoàn tất nỗi chờ mong của dân Người, nhất thiết Người phải đảm nhận
mọi chiều kích của lịch sử dân Người: ở tại Ai Cập (2,13-15), đi qua
sông Giođan (3,13-17), cám dỗ trong hoang địa (4,1-11). Qua các cám dỗ,
Đức Giêsu cho thấy Người chấp nhận trọn vẹn thánh ý Chúa Cha; Người loại
trừ mọi thứ cung cách Mêsia mà Thiên Chúa không muốn (mà chính Gioan Tẩy
Giả đã hình dung), để chấp nhận làm một Mêsia chịu đóng đinh.
Sau khi
Đức Giêsu ăn chay 40 đêm ngày. Ma quỷ đề nghị Người biến đá thành bánh
mà ăn. Thật là một đề nghị hợp lý. Đói thì phải ăn. Muốn ăn thì phải có
bánh. Nhưng có bánh bằng cách nào mới là vấn đề. Không phải cứ có nhu
cầu là phải thoả mãn ngay. Và nhất là không được dùng những cách không
hợp đạo lý để thoả mãn những nhu cầu của mình. Cơm bánh tượng trưng cho
những nhu cầu thiết yếu của con người. Nhu cầu của con người thì có
nhiều và có khuynh hướng ngày càng gia tăng. Vì thế cơn cám dỗ thoả mãn
nhu cầu ngày càng lớn.
Trang Tin
Mừng trình thuật về ăn chay và cám dỗ tập trung vào các biến cố của cuộc
Xuất Hành. Dân Israel cũng là “con yêu dấu của Thiên Chúa”, nhưng tất cả
hành trình trong hoang địa cho thấy họ đã là mộtđứa con nổi loạn và thất
trung. Quả thật, ngôn ngữ của câu đầu đã khiến ta nhớ đến Đnl 8,2 và như
ám chỉ đến hoàn cảnh của Israel tại hoang địa: “... Thiên Chúa đã dẫn...,
như vậy Người thử thách…”.
Bản văn Đệ Nhị Luật
nói rằng Thiên Chúa “thử thách” dân để “biết lòng dạ anh em, xem anh em
có giữ các mệnh lệnh của Người hay không”. Còn ở đây, trong bản văn Mt,
“thử thách” là để phá hỏng và kẻ “thử thách” là quỷ, chứ không phải là
Thiên Chúa. Tại hoang địa, Đức Giêsu vừa tóm kết kinh nghiệm của Môsê và
Êlia, vừa tóm kết lịch sử của dân Israel trong hoang địa.
Người ăn
chay suốt bốn mươi ngày bốn mươi đêm (2): Con số 40 chỉ mộtthời gian khá
dài và có sắc thái là mộtsự hoàn tất với kết quả tích cực là giải phóng
và xây dựng con người. So với Lc, Mt thêm “bốn mươi đêm” để ám chỉ thời
gian Đức Giêsu ở trong hoang địa tương đương với thời gian Môsê ăn chay
trên núi cao để rồi sau đó được Đức Chúa ban cho các điều khoản của Giao
ước (Xh 34,28; x. Xh 25,18).
Nhưng
cũng có thể Mt muốn ám chỉ đến Êlia nữa (x. 1 V 19,8: ăn chay trong hành
trình tiến về núi Khôrép). Hai dung mạo vĩ đại này, đại diện cho Lề Luật
và các Ngôn sứ, sẽ tái xuất hiện trong cuộc Hiển Dung của Đức Giêsu (cuộc
Hiển Dung này chính là cuộc thần hiển. Sau đó sẽ có việc thiết lập Giao
Ước mới nhờ cuộc Khổ Nạn–Phục Sinh của Đức Giêsu). Có lẽ Mt muốn nói
rằng việc Đức Giêsu ăn chay đã tóm kết cách nào đó kinh nghiệm của Môsê
và Êlia, cũng như các cám dỗ sẽ tóm kết lịch sử của Israel tại hoang địa.
Các cám dỗ nhắm tấn
công Đức Giêsu trong tư cách Mêsia và Người Con vâng phục và trung thành
của Thiên Chúa. Quỷ xúi Đức Giêsu lạm dụng lời quyền năng của Người, rồi
xúi Người ỷ lại vào quan hệ giữa Người với Thiên Chúa, và cuối cùng, xúi
Người bỏ đi lòng trung nghĩa với Thiên Chúa. Chiến thắng của Người rất
quan trọng. Nó xóa đi những bóng tối đã tích tụ lại trong lịch sử dân
Thiên Chúa và nó cũng gợi ra chiều hướng dấn thân phục vụ ơn cứu độ.
Thay vì chọn làm một Mêsia-Phù thủy hay một Mêsia-Thủ lãnh, Đức Giêsu
chọn làm Mêsia-Tôi tớ khiêm nhường. Khi đó, Người vẫn là Người Con vâng
phục, và cũng là Israel chân chính và hoàn hảo.
Với
cơn cám dỗ thứ nhất,
ma quỷ muốn xô đẩy con người làm nô lệ cho dục vọng. Xúi giục con người
chỉ tìm thoả mãn những bản năng thấp hèn. Giới hạn con người vào sự sống
xác thịt. Đức Giêsu đã vạch trần âm mưu của ma quỷ khi Người cho biết
con người không chỉ có đời sống thể lý mà còn có đời sống tâm linh.
Người nâng cao phẩm giá con người khi quyết tâm chống lại cơn cám dỗ
thoả mãn những nhu cầu thân xác để chăm lo cho sự sống tâm linh.
Với cơn cám dỗ
thứ hai,
ma quỷ muốn biến con người thành nô lệ cho tham vọng, nô lệ cho ma quỷ.
Vì ham hố chức quyền, vì mưu cầu danh vọng mà đánh mất tự do của mình,
cam tâm làm nô lệ cho ma quỷ. Vì tham vọng mà đánh mất chính mình. Đức
Giêsu vạch trần âm mưu đen tối của ma quỷ khi cương quyết chối từ danh
vọng quyền thế. Người còn chỉ cho ta con đường duy nhất phải theo đó là
thờ phượng Thiên Chúa. Chỉ có thờ phượng Thiên Chúa mới đem đến cho con
người tự do đích thực, tự do trong tâm hồn, không bị nô lệ một tham vọng
nào.
Với cơn cám dỗ
thứ ba,
ma quỷ đẩy con người vào nô lệ cho cuồng vọng. Điên cuồng đến chống lại
Thiên Chúa. Dùng Thiên Chúa để phục vụ cho những ước vọng ngông cuồng
của mình. Không đến với Chúa trong tâm tình của người con thảo đối với
Cha hiền. Đức Giêsu đã vạch trần âm mưu của ma quỷ. Người chỉ cho ta con
đường của người con hiếu thảo. Người con hiếu thảo tin cậy phó thác và
luôn làm theo ý Cha, chứ không bao giờ dám thách thức Cha. Người con
hiếu thảo vâng lệnh Cha sai bảo chứ không bao giờ dám sai bảo Cha.
Cám dỗ của ma quỷ hiểm
độc vì nó tiến từng bước: Từ hạ thấp phẩm giá con người khi khiến con
người làm nô lệ cho dục vọng đến cướp mất tự do của con người khi xúi
giục con người nô lệ cho ma quỷ.
Và sau cùng đi đến chỗ
tận cùng là chối bỏ Thiên Chúa, không coi Thiên Chúa là cha. Cám dỗ càng
hiểm độc vì ma quỷ đã khéo léo học những âm mưu thâm hiểm trong lớp vỏ
nhung lụa, êm ái, hợp lý và đầy quyến rũ của những nhu cầu, quyền lực và
uy tín.
Chúa Giêsu nói “không”
với quỷ, nhưng cũng phải nói “không” với chính mình, bởi vì con đường
Người theo kềm hãm các khát vọng và những đòi hỏi của bản tính tự nhiên.
Các phản ứng của Người trước đau khổ, những tủi nhục, những thất bại,
thì cũng giống như mọi người. Người không thể phạm tội, nhưng Người có
thể chọn con đường chung của mọi người, là sự thỏa thuê. Vinh quang
không phải là một tội, mà còn là một quyền Người có thể dùng. Sự rút lui
của quỷ chứng tỏ đây không những là mộtchiến thắng của chủ trương Mêsia
khiêm nhường và phục vụ như tôi tớ, mà còn là mộtchiến thắng riêng của
Đức Giêsu. Người đã không nhường bước cho mộtnẻo đường tiện nghi thoải
mái, đã không muốn hưởng trước một thành công; nhưng Người đã tôn trọng
con đường đã được chọn cho Người dù phải hy sinh, thiệt thòi. Rời khỏi
hoang địa, không những Người được thánh hiến mà còn đủ tư cách Mêsia.
Mùa Chay giúp chúng ta
nhìn nhận thân phận mình, với biết bao yếu đuối và lỗi lầm, rất cần được
Chúa tha thứ và đỡ nâng. Ông Môsê đã chỉ dẫn cho người Do Thái, khi đến
dâng của lễ, hãy thưa với Chúa về nguồn gốc du mục của mình và nhớ lại
những điều tốt lành Ngài đã làm với tổ phụ họ, nhờ đó, họ dâng của lễ
với lòng tri ân chân thành và đáng được Chúa chấp nhận. Nhìn nhận thân
phận mình sẽ giúp chúng ta khiêm tốn và sám hối sửa mình, và nhờ đó,
chúng ta được đón nhận lòng Chúa xót thương.
mục lục
|